Tiêu đề: AI ĐÃ HẠ GỤC CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN? Sun Jan 13, 2013 2:10 am
AI ĐÃ HẠ GỤC CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN?
(James G. Hershberg - The Washington Post)
Phạm Minh Ngọc dịch
Gorbachev đọc tuyên bố từ chức tại Moscow ngày 25 tháng 12 năm 1991
Tờ The Economist đưa ra một câu trả lời cực kì ngắn gọn. Sau khi Ronald Reagan tạ thế, tờ báo này đưa ảnh của ông lên trang bìa với dòng chữ: Người chiến thắng chủ nghĩa cộng sản. Những người khác cũng nói hệt như thế. Một buổi phát thanh mà tôi có nghe bắt đầu như sau: “Người ta tin rằng ông là người chiến thắng Chiến tranh Lạnh”. Sau đó vài phút, một nhà chính trị học ghi nhận hai thắng lợi chính của Reagan: giành chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh và tiêu diệt Liên Xô. Sau đó là hàng loạt những người sùng bái và bình luận viên tiếp tục tung ra những lời ngợi ca Reagan vì chiến thắng “đế chế của cái Ác”.
Xin đợi cho một chút. Mọi chuyện không phải đơn giản như thế đâu.
Chắc chắn là chính sách của Reagan đã góp phần vào việc phá hủy đế chế của Điện Kremlin mà đỉnh điểm của nó là các cuộc cách mạng chống cộng ở Đông Âu hồi năm 1989 và sự sụp đổ Liên Xô hai năm sau đó. Nhưng gán cho vị Tổng thống thứ 40 của Hoa Kì toàn bộ công lao như các phương tiện truyền thông và các nhà viết tiểu sử của ông đang làm thì cũng chẳng khác gì gán cho cầu thủ tiền đạo đã đưa bóng vào lưới đối phương tất cả công lao của trận thắng, thế là ta đã quên công của người đưa bóng cho anh ta, ta đã quên công của thủ môn cũng như công của những người mang trên vai mình tất cả gánh nặng của trận đấu. Các nhà sử học luôn tỏ vẻ coi thường những người qui giản những hiện tượng phức tạp vào những nguyên nhân đơn lẻ. Liên Xô sụp đổ không phải vì có một anh hùng cụ thể nào, nhưng nếu tôi phải chọn một người có vai trò to lớn nhất thì đấy không phải là Reagan, chính sách của ông ta nói chung vẫn đi theo đường lối ngăn chặn truyền thống của Chiến tranh Lạnh mà các Tổng thống từ Truman đến Carter đã làm.
Mikhail Gorbachev, một người đã trải qua tất cả các nấc thang thăng tiến của Đảng Cộng sản Liên Xô rồi bỗng nhiên quay hẳn sang hướng khác để trở thành nhà cải cách cấp tiến, rõ ràng là người có vai trò quan trọng hơn. Bị tác động bởi thời kì “tan băng” ngắn ngủi do Khrushchev khởi xướng hồi những năm 1950, trước khi Reagan được bầu làm Tổng thống, Gorbachev đã nhận ra rằng Liên Xô là một hệ thống trì trệ, cần phải cải tổ gấp. Gorbachev cũng đã làm một việc đáng gọi là dị giáo khi ông từ bỏ mục tiêu cách mạng thế giới và cuộc đấu tranh giai cấp trên bình diện quốc tế và chấp nhận “các giá trị nhân bản chung của loài người”. Nhưng quan trọng hơn là ông đã từ chối sử dụng lực lượng vũ trang hùng hậu có trong tay nhằm giữ cho Đảng quyền kiểm soát các nước Đông Âu, cũng như kiểm soát các nước cộng hoà có xu hướng dân tộc chủ nghĩa ngay trong lòng Liên Xô, điều mà những người tiền nhiệm của ông là Yuri Andropov và Konstantin Chernenko, nếu họ chưa kịp đi về thế giới bên kia, chắc chắn sẽ làm.
Nhưng cũng chẳng nên qui tất cả công trạng cho một mình Gorbachev. Liên Xô tan rã chủ yếu là do các nguyên nhân bên trong chứ không phải bên ngoài. Trong một bài báo viết vào năm 1947 trên tờ Foreign Affairs, George F. Kennan cho rằng “siêu cường Liên Xô cũng như chủ nghĩa tư bản đều mang trong lòng nó mầm mống của sự tan rã, nhưng mầm mống ở Liên Xô sẽ lớn nhanh hơn”. Đầu những năm 1950, mặc cho những lo lắng về các vụ thử hạt nhân của Liên Xô, mặc cho chiến thắng của cộng sản ở Trung Quốc và sự ngóc đầu dậy của chủ nghĩa McCarthy, James B. Conant, Hiệu trưởng Đại học Harvard (Harvard University President) đã tiên đoán rằng khoảng năm 1980 “sự phi lí và hệ thống tĩnh tại của Liên Xô sẽ làm cho nó ngừng hẳn”. Kể ra ông cũng không sai nhiều lắm.
Thực chất là Reagan đã theo đúng đường lối kiềm chế mà cả hai Đảng Cộng hoà và Dân chủ đều theo đuổi. Vâng, ông có cung cấp vũ khí cho các lực lượng chống cộng thuộc Thế giới Thứ ba và thường xuyên tuyên bố rằng ông tin tưởng vào tự do và dân chủ, nhưng các Tổng thống khác trước ông cũng đã làm như thế. Khi xảy ra khủng hoảng Reagan cũng chẳng sẵn sàng liều lĩnh khởi động Chiến tranh Thế giới III hơn những người tiền nhiệm của ông. Ông không dám đối đầu trực tiếp khi Điện Kremlin tiến hành các vụ đàn áp ở Trung Âu (cũng là việc đáng thông cảm thôi!). Phản ứng của Reagan khi bị kết án là đã giúp đỡ Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan - những lời nói hoa mĩ, bày tỏ cảm tình và những biện pháp cấm vận nửa vời chống lại việc thiết quân luật ở Ba Lan tháng 12 năm 1981 cũng chẳng hơn gì phản ứng của Eisenhower đối với vụ đàn áp của Liên Xô ở Đông Đức (1953), ở Hungary (1956) và phản ứng của Kennedy đối với việc xây Bức tường Berlin (1961) hay phản ứng của Johnson đối việc Liên Xô đổ quân vào Tiệp Khắc (1968).
"Mr. Gorbachev, xin hãy phá bỏ bức tường này đi!" - lời kêu gọi của Reagan năm 1987 đã trở thành đề tại thời sự cũng như đề tài của lịch sử nữa. Nhưng dù những lời đó có gây xúc động lòng người đến đâu, người dân Đông Âu dưới chế độ cộng sản, qua kinh nghiệm cay đắng của mình, biết rằng cả kị binh bay lẫn những lời có cánh của Tổng thống Mĩ đều không thể giải phóng được họ. Đạo diễn các chương trình truyền hình kỉ niệm đặc biệt có thể lồng hình ảnh Reagan đang gào thét trước bức tường vào cảnh dân Berlin nhảy múa trên những đống gạch vụn của nó hai năm sau đó, nhưng nói rằng hai sự kiện này gắn bó nhân quả với nhau thì nghĩa là ta đã cố tình biến lịch sử thành truyện cổ tích hay ít nhất cũng đơn giản hoá nó một cách quá đáng.
Năm 1989, nhân dân Đông Âu đã nhận thức được rằng họ phải tự đứng lên giành lấy quyền tự do. Người ta phải mang mạng sống của mình ra để kiểm tra giới hạn của học thuyết mới của Gorbachev (các nước cộng sản khác có thể “đi theo con đường của mình”) và đã phát hiện ra rằng học thuyết của Gorbachev đã hoàn toàn thay thế cho lí luận của Brezhnev, tức là cái lí luận biện hộ cho việc đưa quân can thiệp, không cho các nước đào thoát khỏi “cộng đồng xã hội chủ nghĩa”. Những người tuần hành ở thành phố Leipzig vào tháng 10 năm đó không thể nào biết được họ có tránh khỏi số phận của những người biểu tình ở Thiên An Môn mấy tháng trước đó hay không. Nhiều nhà lãnh đạo Đông Đức lúc đó sẵn sàng làm theo các đồng chí Trung Quốc!
Liệu những thách thức mà Reagan đưa ra trên khắp thế giới có đẩy nhanh tiến trình sụp đổ của Liên Xô hay không? Reagan đã giúp đỡ các mujaheddin (chiến sĩ thánh chiến) ở Afghanistan làm cho Liên Xô nhanh chóng thất bại và như vậy là làm cho tình trạng bên trong Liên Xô càng căng thẳng thêm, nhưng dự án này đã khởi sự ngay dưới thời Carter và được cả hai đảng ủng hộ. Còn việc Reagan ủng hộ lực lượng Contras trong cuộc đấu tranh chống chế độ Sandinist ở Nicaragua lại tạo ra một vụ bê bối nghiêm trọng cho chính quyền của ông và lái dư luận khỏi những sự kiện quan trọng đang diễn ra trong thế giới cộng sản, thí dụ như Trung Quốc.
Những người hâm mộ Reagan khẳng định rằng chính cuộc chạy đua vũ trang trong những năm 1980 đã làm Điện Kremlin phá sản. “Bằng cách tăng cường lực lượng phòng vệ chứ không phải tiến hành xâm lược, Ronald Reagan đã làm cho Liên Xô sụp đổ”, ông Bob Dole, một cựu thượng nghị sĩ Đảng Cộng hoà, ứng cử viên Tổng thống đã tuyên bố trên tờ the New York Times như thế. Biên bản các cuộc họp của Bộ Chính trị ghi nhận nỗi lo lắng thực sự (mặc dù vô căn cứ) về việc xây dựng tên lửa phòng vệ trong chương trình “Chiến tranh giữa các vì sao” và những nhà lãnh đạo sáng suốt của Liên Xô nhận thức được sự cách biệt ngày càng gia tăng về quân sự và công nghệ giữa phương Tây, nhất là Mĩ với Liên Xô. Điều đó càng làm cho Gorbachev thêm quyết tâm loại bỏ sự thù địch của Chiến tranh Lạnh, quyết tâm tìm cách tiếp cận với hàng hoá và công nghệ của phương Tây và chuyển các nguồn lực từ lĩnh vực quân sự sang nền kinh tế phục vụ dân sinh.
Gorbachev còn nhận ra sự phi lí của cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân. Đến giữa những năm 1980 các siêu cường đã sở hữu tổng cộng hơn 70.000 đầu đạn hạt nhân. Ông hiểu rằng có thể đưa ra những đề nghị hấp dẫn để khởi đầu đàm phán về hạn chế vũ khí, cho phép thực hiện việc giám sát tại chỗ hay trao đổi về tên lửa tầm trung mà không ảnh hưởng đến vũ khí đánh chặn chiến lược của Liên Xô.
Như vậy là cuộc chạy đua vũ trang trong những năm 1980 không làm cho Liên Xô sụp đổ. Nền kinh tế Liên Xô, vì nhiều lí do khác nhau, đã bị thối rữa ngay từ bên trong. Những ưu tiên sai lầm của Điện Kremlin - giữ một bộ máy quân sự khổng lồ trong khi nền kinh tế và đời sống nhân dân thua xa phương Tây – là một tác nhân làm cho đế chế Liên Xô tan rã. Nhưng những ưu tiên như thế đã diễn ra hàng chục năm rồi. Bước ngoặt diễn ra không phải dưới thời Reagan mà là do những ý muốn điên rồ của Stalin ngay sau Chiến tranh Thế giới II. Mặc dù đất nước còn bị tàn phá ngổn ngang, lãnh tụ quyết định xây dựng kho vũ khí hạt nhân và giành danh hiệu siêu cường. Từ đó trở đi lực lượng vũ trang luôn luôn nhận được những thứ tốt nhất và đã làm biến dạng nền kinh tế.
Việc chú mục vào quân sự còn làm cho người ta đánh giá sai vai trò của quyền lực “mềm” trong việc lật nhào nhà nước Xôviết. Hàng ngàn tỉ dollar mà phương Tây chi cho vũ khí và chiến lược ngăn chặn cuối cùng lại hoá ra không quan trọng bằng lối sống phương Tây, tức là lĩnh vực chẳng có liên quan gì đến chính sách quốc gia - nhạc, phim ảnh, thời trang (quần bò xanh), hàng tiêu dùng, “Coca-Cola hoá” - và một tương lai tự do hơn, giầu có hơn, no đủ hơn. Lối sống phương Tây, nhờ đài phát thanh, TV, Hollywood, văn học samizdat, máy fax v.v… bắt đầu thâm nhập vào thế giới cộng sản, tạo ra một trường hấp dẫn mới. Tôi không bao giờ quên sự háo hức của các thanh niên Nga khi họ giở tờ tạp chí Time mà tôi mang theo trong chuyến đi đến đó vào những năm 1980, tôi cũng không thể quên hình ảnh người dân Moskva ăn bánh Big Mac trong cửa hàng McDonald đầu tiên mở tại quảng trường Pushkin.
Sự trớ trêu của số phận là chính những người mà Reagan không ưa hồi ông còn làm Thống đốc bang California như những thanh niên hippies, những người chống chiến tranh Việt Nam, những nhà hoạt động trong phong trào gọi là “counter-culture” hồi những năm 1960 đã làm ra các bản nhạc, đã đề xuất ra các tư tưởng và tính cách lập dị lôi cuốn giới trẻ có học trong thế giới cộng sản, lại là những người có công lớn trong việc làm cho chế độ cộng sản sụp đổ. Những người có điều kiện tiếp xúc với phương Tây, kể cả con cái của giới tinh hoa trong bộ máy và các chuyên gia cao cấp, lại thích Lennon [1] hơn Lenin, thích Mick [2] hơn Marx.
Xin hãy hỏi ngay Pavel Palazchenko, một phiên dịch viên hói đầu và có ria mép, ngồi cạnh Reagan và Gorbachev mỗi khi họ gặp nhau. Trong những năm 1960 ông học ở một trường đại học ngoại ngữ danh tiếng ở Moskva. Sau này ông viết trong cuốn hồi kí xuất bản hồi năm 1997, cuốn hồi kí rất hay nhưng ít được chú ý, rằng “hệ tư tưởng ngu xuẩn đến mức không làm cho người ta cười được”. Để giải trí, ông cùng bạn bè góp tiền mua rượu và mời các bạn gái uống say (lúc đó rượu còn rẻ). “Và chúng tôi nghe Beatles”, ông nói.
"Chúng tôi thuộc những bài hát đó… Tôi có giọng thế này phần lớn là nhờ Beatles chứ không phải thày giáo dạy phát âm đâu. Nhưng tôi và những người bạn đồng trang lứa của mình còn nợ họ một vài thứ nữa. Trong những năm đen tối dưới thới Brezhnev (1964-1982) họ không chỉ là nhạc giải trí. Họ đã giúp chúng tôi tạo ra thế giới của riêng mình, một thế giới khác hẳn với thế giới chán phèo và vô nghĩa của những nghi lễ càng ngày càng giống thời Stalin hơn… Tôi tin rằng thời đó ít người trong chúng tôi tìm được hứng khởi nhờ các tác phẩm của Andrei Sakharov (một nhà vật lí và bất đồng chính kiến nổi tiếng) vì chúng tôi chưa đủ sức hiểu được tư tưởng của ông. Beatles đã giúp chúng tôi lặng lẽ chia tay ‘hệ thống’, trong khi vẫn thực hiện phần lớn các yêu cầu của nó.”
Không phải tất cả các nhà lãnh đạo Liên Xô đều nhận ra những ảnh hưởng có tính cách phá hoại như thế. Tháng 12 năm 1980, một tháng sau khi Reagan được bầu làm Tổng thống, Andropov, người đứng đầu KGB lúc ấy đã gửi cho Ban Chấp hành Trung ương một báo cáo mật. Đấy không phải là báo cáo về cuộc bầu cử mà là báo cáo về vụ sát hại John Lennon. Andropov nói rằng “Trong nhiều trường đại học ở Moskva đã xuất hiện những tờ rơi kêu gọi tổ chức diễu hành tưởng niệm cựu thành viên Beatles”. "KGB đã thi hành những biện pháp cần thiết nhằm xác định danh tính những kẻ tổ chức vụ tụ tập và vẫn kiểm soát được tình hình”, ông ta hứa với lãnh đạo Đảng như thế.
Nhưng hoá ta KGB không kiểm soát được tình hình. Cuối những năm 1980 các sân khấu rock bí mật bắt đầu xuất hiện trên mảnh đất của “chủ nghĩa xã hội hiện thực”. Sau khi toàn bộ ngôi nhà xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ, những nhân vật đối lập cũ trong khối Warszawa, như Vaclav Havel đã chào đón (và đôi khi dựng tượng) cho những người như Frank Zappa, Pink Floyd, Lou Reed và James Dean.
Reagan đã xô những bức tượng vốn đã rung rinh của Marx và Lenin, nhưng có lẽ ông không đóng vai trò chính, ông chỉ có vai trò phụ trợ. Vẫn còn quá sớm để khẳng định bất cứ điều gì một cách chắn chắn. Việc ca ngợi quá đáng vai trò của Reagan trong vụ đạp đổ con rồng Liên Xô nói về ông thì ít mà nói về chúng ta thì nhiều. Hỗn hợp tình cảm, tâm trạng hân hoan sau Chiến tranh Lạnh, quá nhiều thông tin về sự kiện chỉ chứng tỏ thói quen coi thường sự phức tạp của thế giới, thói quen đưa các vấn đề thế giới vào các sơ đồ đơn giản, đấy cũng là một thói quen nguy hiểm của người Mĩ chúng ta.
James Hershberg là phó giáo sư lịch sử và các vấn đề quốc tế tại George Washington University và là cựu giám đốc của dự án về chiến tranh lạnh tại Woodrow Wilson Center.
[1] John Lennon, Beatles [2] Mick Jagger, Rolling Stones
Ai đã hạ gục chủ nghĩa cộng sản? James G. Hershberg Washington Post 27-6-2004, trang B01 Sự Sụp Đỗ của Bức Tường Bá Linh chấm dứt chế độ CS tại Đông Đức
.
vnguyen Khách viếng thăm
Tiêu đề: 'Bức tường cộng sản' sụp đổ - những ai là người có công đầu Fri Nov 08, 2013 2:56 am
'Bức tường cộng sản' sụp đổ - những ai là người có công đầu
'Bức tường cộng sản' gây sợ hãi trong lòng người đã sụp đổ, đa số mọi người đều nêu tên Reagan hay Gorbachev. Mỗi nhận định đều có quan điểm riêng, tranh cãi quanh vấn đề này vẫn đang diễn ra sôi nổi. Sau đây là những người có công lớn được để cử bởi những người trong cuộc:
Adam Michnik, cựu nhà bất đồng chính kiến Ba Lan: Theo tôi, lỗ hổng đầu tiên ở bức tường xuất hiện vào tháng Tám 1980, khi làn sóng đình công rất lớn nổ ra trên khắp Ba Lan mà cuộc đình công quan trọng nhất diễn ra ở Gdansk. Cuộc đình công này là bước đầu tiên cực kỳ quan trọng nhằm tước bỏ tính chính danh của chủ nghĩa cộng sản. Bức tường thật sự sụp đổ ở Ba Lan vào ngày 4 tháng Sáu, 1989, ngày mà nhân dân Ba Lan loại bỏ chủ nghĩa cộng sản qua các cuộc bầu cử dân chủ. Sau đấy chế độ này rõ ràng bị kết liễu.
Vaclav Havel, Tổng thống Cộng Hòa Czech: Suốt trong các thập niên 1970 và 1980 tôi luôn luôn cố gắng giải thích một cách vô vọng cho các nhà báo nước ngoài hiểu rằng khi họ tiếp xúc tình cờ với xã hội toàn trị, họ không được để cho bề ngoài của xã hội ấy đánh lừa họ. Ở xã hội ấy mọi người có vẻ như trung thành và chế độ có vẻ như sẽ tồn tại hàng mấy thế kỷ. Tôi nhớ nhiều khách nước ngoài nói rằng chúng tôi chỉ là một nhóm người khờ dại, tức những người húc đầu mình vào tường mà không có sự ủng hộ của dân chúng. Tôi bảo họ xã hội toàn trị hoạt động khác. Trong xã hội như thế, chỉ một từ được viết ra hay chỉ một cá nhân thôi, như Solzhenitsyn, có thể thay đổi dòng chảy của lịch sử hơn nửa triệu người biểu tình có thể thay đổi trong những hoàn cảnh khác.
Lech Walesa, cựu lãnh đạo Công Đoàn Đoàn Kết, cựu Tổng thống Ba Lan: Đức Giáo Hoàng đã khiến cho chủ nghĩa cộng sản sụp đổ rất nhanh, và đồng thời Ngài cũng ngăn cản được đổ máu. Ngài đã làm cho mọi người ý thức được những sự thật nào đấy, làm cho mọi người cảm thấy được sức mạnh của họ. Người khác cũng đóng vai trò quan trọng - tức các nhà báo, nhất là các nhà báo phương tây. Reagan hiểu chúng tôi như các nhà báo hiểu chúng tôi. Ông hiểu rằng chủ nghĩa cộng sản sắp sụp đổ. Ông thấy những gì có lợi cho mình, nên ông hợp tác với chúng tôi. Vì vậy, tôi coi Đức Thánh Cha là người có công lớn đầu tiên, rồi đến báo chí, rồi thứ ba Lech Walesa, rồi đến Reagan.
Joachim Gauck, cựu nhà bất đồng chính kiến Đông Đức: Bức tường quan trọng nhất đã sụp đổ càng không phải là bức tường người ta có thể nhìn thấy được - đó là bức tường sợ hãi trong lòng người. Phép lạ năm 1989 là những người Đông Đức, mà đã sống với sự sợ hãi này từ năm 1933 đến 1989, có thể trở lại công cuộc dân chủ lớn lao như ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Và cũng thật là một ngẫu nhiên may mắn của lịch sử khi lần đầu tiên có nhà lãnh đạo Nga như Gorbachev, người đã không muốn coi chủ nghĩa xã hội như chỉ là vấn đề xe tăng.
Trần Quốc Việt/Danlambao Nguồn: Tạp chí Newsweek
***
Nhìn lại Cách mạng Ba Lan (BBC)
Trước lúc Bức tường Berlin sụp đổ tháng 11/1989, thì đầu năm đó, diễn biến chính trị tại Ba Lan đã chứng tỏ rằng chính phủ cộng sản có thể thoái lui trước áp lực của phong trào đối lập.
Cuộc bầu cử Quốc hội tháng Sáu năm 1989 đem lại thắng lợi cho Công đoàn Đoàn Kết.
Quốc Phương của BBC đã trở lại Ba Lan để gặp một số nhân vật từng hoạt động cho Công đoàn để hỏi họ về cuộc sống ngày hôm nay.
Anh cũng thăm lại thành phố Gdansk, nơi khởi phát cuộc đình công năm 1980 mà sau đó đã dẫn tới việc thành lập Công đoàn Đoàn Kết.
***
Kỷ niệm 20 năm sụp đổ bức tường Bá Linh, nghĩ về VN (RFA)
.
Admin Admin
Posts : 164 Join date : 20/10/2011
Tiêu đề: Những yếu tố đã hạ bệ chủ nghĩa cộng sản tại Ba Lan Sat Jan 08, 2022 2:25 am
Công đoàn đoàn kết, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lo II và phong trào: “Lựa chọn màu cam” chính là những thành tố đã hạ bệ chủ nghĩa cộng sản tại Ba Lan.
Hate Change xin giới thiệu cùng bạn đọc bản dịch của chúng tôi từ bài tổng hợp của Tavaana.
Tầm nhìn và Động lực
Sau Thế chiến 2, Liên Xô đã dựng lên các chế độ bù nhìn ở các nước Trung và Đông Âu mà họ đã chiếm đóng trước đó. Bằng cách cài cắm các chính trị gia thân Mát-x-cơ-va vào vị trí lãnh đạo của các nhà nước vệ tinh này, Liên Xô đã tạo ra hệ thống bá quyền trong khu vực, điều thường được biết tới dưới tên gọi “Bức Màn Sắt”.[1]
Ở Ba Lan, chính quyền Cộng sản đã bắt giam, hành quyết, và bắt đi lưu vong các nhà bất đồng chính kiến chống Liên Xô nhằm củng cố quyền lực. Đến năm 1952, khi Ba Lan đưa ra Hiến pháp mới, dựa theo khuôn mẫu của Liên Xô, người dân Ba Lan đã chứng kiến việc Thượng viện bị giải tán, các cuộc bầu cử dàn dựng, các cải cách ruộng đất theo kiểu cộng sản, và việc cả đất nước của mình, từ văn hóa đến chính trị, bị đưa vào quỹ đạo của Liên Xô.[2]
Dù cho chính quyền đã có những nỗ lực nhằm hiện đại hóa và ban hành các cải cách kinh tế vào thập niên 1980, nhưng việc các quyền cơ bản của công dân bị chà đạp trong thời gian dài đã là chất xúc tác đưa tới sự sụp đổ của chế độ vào năm 1989.
Mục tiêu và Mục đích
Phong trào đối lập bao gồm một tập hợp đa dạng các nhà hoạt động chính trị, trong đó có Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II và Giáo Hội Công Giáo, Phong trào Công đoàn Đoàn Kết (Solidarność) của Lech Walesa và Phong trào Lựa Chọn Màu Cam (Pomarańczowa Alternatywa). Dù một vài mục tiêu của họ là khác nhau, họ vẫn chia sẻ tầm nhìn chung về một nước Ba Lan tự do và dân chủ.
Nguồn ảnh: Internet
Năm 1978, phong trào đã bước đầu giành được tiếng vang với việc Đức Hồng Y Karol Józef Wojtyła, được bầu chọn vào chức vị Giáo Hoàng (thường được biết đến dưới danh hiệu là Gioan Phao-lô II). Ngài được thôi thúc bằng một niềm tin rằng đạo Công giáo, cùng với lương tâm của cá nhân mỗi người, là hoàn toàn đối lập với chủ thuyết Cộng sản, với chủ trương đàn áp các quyền tự do tôn giáo, kinh tế và chính trị, nhằm đặt nhà nước vào vị trí thay thế cho Đấng Tối Cao.[3] Ngài coi Kito giáo là một phần không thể tách rời trong lịch sử văn hóa rất phong phú của Ba Lan, và tìm cách thiết lập lại một xã hội nơi mà người Ba Lan có thể tự do phát huy bản sắc dân tộc và tôn giáo của mình.[4]
Mười bốn tháng sau đó, Phong trào Đoàn Kết xuất hiện, kết hợp nhiều công nhân và trí thức cùng theo đuổi khát vọng của Đức Giáo Hoàng. Phong trào Đoàn Kết được hình thành từ một cuộc đình công vào tháng 8 năm 1980, trong đó các công nhân đã đóng cửa nhà máy đóng tàu Gdansk để phản đối những hạn chế mới về tiền lương.[5] Sau khi đàm phám thành công với chính quyền, các lãnh đạo của cuộc đình công đã thành lập Công Đoàn Đoàn Kết vào ngày 17 tháng 9 năm 1980, và đây đã trở thành công đoàn độc lập đầu tiên trong toàn khối Cộng sản. Tuy nhiên, Công đoàn Đoàn Kết không đơn thuần chỉ là một nghiệp đoàn lao động; đó còn là một phong trào chính trị- xã hội đấu tranh đòi nhân phẩm và các quyền công dân, nhân quyền và tự do đầy đủ cho mọi người Ba Lan.[6]
Cốt lõi của nó chính là khái niệm về một “Nền cộng hòa tự quản” (Samorzanda Rzeczpospolita), chủ trương phát triển các định chế dân chủ. Mục tiêu của Công đoàn Đoàn Kết, được chính thức thành lập tại Đại hội năm 1981, là “tạo ra những điều kiện sống mang tính tôn trọng phẩm giá con người ở một nước Ba Lan có đầy đủ chủ quyền về kinh tế và chính trị. Ở đây, chúng tôi muốn nói đến một cuộc sống không đói nghèo, bóc lột, sợ hãi và dối trá, trong một xã hội được tổ chức một cách dân chủ và theo luật pháp”. “Những gì chúng tôi nghĩ đến không chỉ là bánh mì, bơ và xúc xích mà còn là công lý, dân chủ, lẽ thật, sự hợp pháp, phẩm giá con người, tự do tín ngưỡng, và việc tu sửa lại nền cộng hòa”.[7] Các giá trị này sẽ là những nguyên tắc nền tảng của nền Đệ Tam Cộng hòa Ba Lan thời kỳ hậu cộng sản, cùng nhiệm kỳ tổng thống của Lech Walesa, bắt đầu từ năm 1990.
Cũng xuất phát từ chính tầm nhìn đã dẫn đến sự sáng lập của Công đoàn Đoàn Kết và từ mong muốn của Đức Giáo Hoàng trong việc chấm dứt chủ nghĩa cộng sản tại Ba Lan, phong trào Lựa Chọn Màu Cam (Pomarańczowa Alternatywa) -một phong trào nghệ thuật thu hút sự tham gia của giới sinh viên, đã có cách tiếp cận mang tính trừu tượng và thẩm mỹ hơn, dựa trên sức mạnh của trí tưởng tượng. “Trí tưởng tượng làm cho thế giới này trở nên không còn giới hạn… Không có bất cứ thế lực nào trong cuộc sống con người có thể kìm hãm được thế giới của trí tưởng tượng khi được giải phóng. Nó vượt lên trên tất cả mọi thứ mà không sử dụng bất kỳ sức mạnh thực tế nào, trí tưởng tượng vẫn sống trong chúng ta, khi nó được tự do. “[8]Bằng cách tập trung vào tự do biểu đạt của cá nhân và tập thể, như được thực hiện thông qua nghệ thuật thị giác, phong trào Lựa Chọn Cam có mục tiêu nhằm làm suy yếu sự kiểm soát ý thức của chế độ Cộng sản thông qua những sự thể hiện nghệ thuật đầy tự do và mang tính thách thức. Ban đầu, các thành viên của phong trào đã tìm những chỗ trên các bức tường trong thành phố, nơi mà chính quyền cho sơn đè lên để che đi các biểu ngữ chống Cộng, và họ vẽ vào chính những chỗ sơn phủ đó hình của người lùn, một hình ảnh gây cười. Công an không thể bắt họ vì hành vi chống đối chế độ được, nếu không muốn làm cho chính quyền bị biến thành trò cười, vì tỏ ra lo sợ trước ngay cả những hình vẽ người lùn trên đường phố.
Vai trò lãnh đạo
Mặc dù sự tham gia của đông đảo quần chúng đóng vai trò thiết yếu đối với thành công của phong trào chống Cộng sản ở Ba Lan, nhưng quá trình chuyển đổi dân chủ đã không thể xảy ra nếu không có sự lãnh đạo của những người như Lech Walesa – người sáng lập Công đoàn Đoàn Kết; Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II – người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo; và người sáng lập phong trào Lựa Chọn Màu Cam – Waldemar Fydrych, thường được biết tới với biệt danh “Thiếu tá”. Dù mỗi người có một quá trình trải nghiệm và phong cách lãnh đạo riêng, nhưng họ đều có chung lòng quyết tâm để đạt được: một xã hội Ba Lan cởi mở.
Tên tuổi của Lech Walesa đã trở nên đồng nhất với phong trào Đoàn Kết; “Ông trở thành không chỉ là một biểu tượng của những thành tựu đã đạt được, mà còn chính là hiện thân của phong trào Đoàn Kết”.[9] Khả năng lấy được lòng tin từ người dân của Walesa giúp đảm bảo rằng họ không bao giờ mất niềm tin, bất kể mọi phản ứng dữ dội từ chế độ. Trong một lá thư gửi đến Walesa, một thành viên phong trào Đoàn Kết nhấn mạnh lý do khiến ông ngưỡng mộ nhà lãnh đạo của phong trào: “Anh đã cho chúng tôi thấy rằng chúng ta không được sợ hãi trước chiếc dùi của công an, trước những lời chế nhạo, hoặc trước sự thiếu niềm tin. Một điều khác nữa thực sự gây ấn tượng cho tôi là niềm tin mạnh mẽ, sâu sắc của anh.”[10]
Trong khi Walesa là bộ mặt của phong trào, ông cũng đã nhận được rất nhiều sự ủng hộ của các nhà lãnh đạo khác, bao gồm cả những người phụ nữ mà sự lãnh đạo của họ hầu như không được chú ý đến. Mặc dù một số người, như Anna Walentynowicz, nằm trong số các lãnh đạo cao nhất của phong trào Đoàn Kết, một số khác đóng vai trò quan trọng là các lãnh đạo cộng đồng. Một số người phụ nữ đã nhận các nhiệm vụ nguy hiểm, vì họ có khả năng trốn tránh lực lượng an ninh, vốn luôn nghi ngờ các đối tượng là nam giới tiến hành các hoạt động chống đối. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người trong số các lãnh đạo nữ này, những người đã chiến đấu rất can đảm, cuối cùng đã giành được những vị trí quyền lực trong chính thể Ba Lan tự do.[11]
Pope John Paul II at Giants Stadium in New Jersey in 1995. Nguồn ảnh: Internet
Mặc dù không ở nơi tiền tuyến, nhưng vai trò của Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II trong công cuộc giải phóng Ba Lan là không thể bị xem nhẹ. Chuyến thăm của Ngài về quê hương Ba Lan và các bài diễn văn trên khắp đất nước đã thu hút và động viên hàng triệu người Ba Lan. Trên thực tế, học giả người Anh Timothy Garton Ash và những người khác đã cho rằng các phong trào như Công Đoàn Đoàn Kết đã không thể đơm hoa kết trái nếu không nhờ nguồn cảm hứng và hỗ trợ của vị Giáo Hoàng gốc Ba lan này.[12] Theo Timothy Garton Ash: “Không có Đức Giáo Hoàng, thì không có phong trào Đoàn Kết. Không có phong trào Đoàn Kết, thì không có Gorbachev. Nếu không có Gorbachev, thì không có việc chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ”.[13] Ngay cả Gorbachev, nhà lãnh đạo cuối cùng của Liên Xô, cũng thừa nhận vai trò thiết yếu của Đức Giáo Hoàng: “Chuyện đó đã không thể nào xảy ra nếu không có Đức Giáo Hoàng”.[14]
Người sáng lập của phong trào Lựa Chọn Màu Cam là Waldemar Fydrych (biệt danh “Thiếu tá”), được biết đến với tính cách lập dị, được phản ánh trong các tác phẩm nghệ thuật của ông trên vai trò vừa là nhà văn, vừa và họa sĩ. Tầm nhìn thẩm mỹ của ông đã định hình ra phương pháp tiếp cận mà phong trào đã lựa chọn, nhằm thể hiện sự chống đối chế độ thân Liên Xô. Fydrych đã cung cấp cho đông đảo quần chúng một cách thức thay thế, ít rủi ro để để phản đối chế độ Cộng sản, bằng cách sử dụng các biểu tượng có vẻ kỳ quặc và vô nghĩa. Trên hết, những bức vẽ người lùn của nhóm đã trở thành biểu tượng của sự phản kháng ở Ba Lan trong suốt giai đoạn thiết quân luật, bắt đầu từ tháng 12 năm 1981. [15]
Môi trường dân sự
Những nỗ lực của Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Công Đoàn Đoàn Kết và phong trào Lựa Chọn Màu Cam đã diễn ra trong một môi trường mang tính đàn áp cao độ. Chịu ảnh hưởng của Liên Xô, chính quyền Cộng sản Ba Lan đã bắt bớ, bỏ tù và đôi khi là xử tử các lãnh đạo đối lập mà không thông qua bất cứ trình tự tố tụng nào. Sau thành công ban đầu của Công Đoàn Đoàn Kết, tướng Wojcech Jaruzelski đã tuyên bố “tình trạng chiến tranh” và đình chỉ Hiến pháp để hạ gục phong trào, bắt giữ hàng chục ngàn nhà hoạt động của Công Đoàn Đoàn Kết trong các cuộc bố ráp của công an trong thời gian từ năm 1982 đến 1983. [16]
Ở vị trí lãnh đạo của Công Đoàn Đoàn Kết, Lech Walesa cũng đối mặt với những thử thách ghê gớm; Ông bị tù giam trong một năm và bị theo dõi liên tục cho đến năm 1988. Năm 1983, ông đã không ra nước ngoài để nhận giải Nobel Hòa bình, một phần vì lo ngại sẽ không được phép trở về, và một phần để bày tỏ sự đoàn kết với những người còn ở trong tù: “Những người bạn của tôi, bị bắt giam hay phải trả giá đắt, như bị mất công ăn việc làm, để bảo vệ cho Công đoàn Đoàn Kết – liệu họ có thể đi cùng tôi vào ngày này không? Nếu không, thì có nghĩa rằng đây vẫn chưa phải lúc để ăn mừng việc trúng giải, ngay cả những giải thưởng hoành tráng như vậy đi nữa. [17]
Sự thiếu vắng một nền báo chí độc lập và thái độ bất dung của chính quyền đối đã đặt ra những thách thức rõ ràng cho phe đối lập Ba Lan. Tuy vậy, Công Đoàn Đoàn Kết đã tìm ra cách để lách qua những hạn chế này. Qua đàm phán với chế độ Cộng sản, các ấn bản nội bộ của Công Đoàn Đoàn Kết đã được miễn trừ kiểm duyệt. Về bản chất, một ấn phẩm có thể được phân phối rộng rãi theo luật nếu nó được đóng dấu “Chỉ lưu hành trong nội bộ công đoàn.” Sự miễn trừ này cho phép Công Đoàn Đoàn Kết đóng vai trò như một “ốc đảo tự do”, cho phép “các hình thức tự biểu hiện khác nhau của người dân và trên thực tế đã tạo ra một không gian xã hội dân sự trong phạm vi của nó.” Tháng 4 năm 1981, Công Đoàn Đoàn Kết cho ra mắt tờ Tuần Báo Đoàn Kết (Tygodnik Solidamosc).[18]
Thông điệp và đối tượng
Phẩm giá con người là giá trị trung tâm của mọi bộ phận trong công cuộc đấu tranh chống Cộng sản của người Ba Lan. Công đoàn Đoàn Kết, Đức Giáo Hoàng, và phong trào Lựa Chọn Màu Cam đã chỉ ra một cách hiệu quả mối liên hệ giữa những đau khổ hàng ngày mà người dân Ba Lan phải chịu đựng, nhất là tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm, với sự thiếu vắng tự do. Thông điệp năm 1981 của Công Đoàn Đoàn Kết đã phản ánh giá trị cơ bản đó: “Lịch sử đã dạy chúng ta rằng không có tự do thì cũng chẳng có bánh mỳ mà ăn.”[19]
Cốt lõi của thông điệp đó là lời kêu gọi các nỗ lực vận động quần chúng. Phong trào đã vươn rộng được ra khỏi cơ sở ban đầu là giới công nhân, để xây dựng một phong trào phản ánh được nội dung của chính tên gọi của mình –một phong trào tập hợp được nhiều giai tầng xã hội. Nó lan rộng từ giới công nhân sang nông dân với sự hình thành của phong trào Đoàn Kết Nông Thôn, thậm chí còn tạo được cầu nối với giới trí thức Ba Lan, mặc dù gốc rễ của nó là giới công nhân. Đài BBC ghi nhận rằng, Phong trào Đoàn Kết “mang sách và thư viện đến các xưởng đóng tàu của Ba Lan. “Khi Thỏa ước Gdansk được ký, và đạt được các mục tiêu ban đầu của Công Đoàn Đoàn Kết, một người Ba Lan cho biết trong dân chúng có “một niềm hy vọng to lớn và sự phấn khích … đó là một trong những khoảnh khắc mà, bỗng nhiên, hàng triệu người cảm thấy rằng họ có chung một mong muốn, đó là có các công đoàn tự do để đại diện cho họ, độc lập với Đảng Cộng sản.” [20]
Đức Giáo Hoàng đã hỗ trợ cho phong trào đối lập ở Ba Lan qua địa vị là người đứng đầu Giáo hội Công giáo, khuyến khích người dân Ba Lan hãy trung thành với Giáo hội Công giáo, thay cho nhà nước Cộng sản. Cho dù đối tượng người nghe của Ngài là người dân Ba Lan hay cộng đồng quốc tế, thì thông điệp đó vẫn nhấn mạnh đến các giá trị của tự do và khai phóng, đem lại sự hỗ trợ tinh thần cho phong trào đối lập ở Ba Lan. Một thời khắc mang tính bước ngoặt là cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng năm 1979; Đức Gioan Phao-lô II trước đó đã hy vọng rằng bằng cách viếng thăm Ba Lan, Ngài có thể thổi bùng lên tinh thần của đồng bào mình chống lại chế độ Cộng sản. Trong khi chế độ dự đoán rằng chỉ có vài chục người sẽ xuất hiện trong chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng, thì thực tế đã có hàng triệu người tới chào đón Ngài. Điều này khiến chế độ Cộng sản rất bẽ bàng. Đức Gioan Phao-lô II đã huy động được những con người Ba Lan luôn muốn phát huy tín ngưỡng, truyền thống và nguồn gốc lịch sử của đất nước mình, thay vì chối bỏ những yếu tố đó như cách mà chủ nghĩa cộng sản áp đặt.
Phong trào Lựa Chọn Màu Cam đã tích lũy được sự ủng hộ của quần chúng bằng phương tiện là sự hài hước và làm bẽ mặt nhà cầm quyền bằng những khẩu hiệu như “Hỡi các công dân, hãy giúp các anh dân phòng, hãy tự đánh mình đi”. Lựa Chọn Màu Cam là một “chiếc gương, phản chiếu lại những yếu kém, vết nhơ và những điều ngớ ngẩn của chế độ, bằng cách lố bịch hóa những hành động của chính quyền”. Phong trào tìm cách thu hút càng nhiều người tham gia càng tốt. Một số cho rằng bản thân việc chọn màu cam cho tên gọi của phong trào là để thể hiện một sắc thái trung gian giữa màu đỏ của cánh tả Cộng sản, và màu vàng, biểu tượng của Giáo Hội – thuộc về cánh hữu. [21] Về sau, sắc màu cam cũng đã truyền cảm hứng cho cuộc Cách Mạng Cam 2004 ở Ukraine; được Viktor Yushchenko và liên minh đối lập của ông lựa chọn làm gam màu chính thức của đảng. [22]
Các hoạt động tiếp cận quần chúng
Dù cách tiếp cận có thể đa dạng nhưng việc hạ bệ chế độ Cộng sản tại Ba Lan đòi hỏi phải có sự tham gia rộng khắp của quần chúng. Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II đã huy động được hàng triệu người Ba Lan bằng cách quảng bá hình ảnh về một nước Ba Lan tự do và hùng cường. Là lãnh đạo của một phong trào tôn giáo toàn cầu, Đức Giáo Hoàng đã tận dụng quyền lực chính trị của mình qua sự kết nối với chính phủ của các nước ủng hộ cho một nước Ba Lan độc lập, như Vương quốc Anh. Cuộc gặp gỡ năm 1983 của Lech Walesa với Đức Giáo Hoàng và cuộc gặp của Thủ tướng Anh Margaret Thatcher với 5000 lãnh đạo của Công Đoàn Đoàn Kết ở Gdansk, trong đó bà tuyên bố: “không gì có thể ngăn cản các bạn!” chính là hai dấu mốc quan trọng làm tăng cường sự ủng hộ của quần chúng cho phong trào. [23]
Công Đoàn Đoàn Kết đã thực hiện theo một phương thức bất bạo động, làm gia tăng hình ảnh gần gũi với nhân dân và cho phép sự tham gia của đông đảo quần chúng. Do đó, họ đã phát động một làn sóng đình công trên toàn quốc, khiến chính quyền bị tê liệt và chịu áp lực phải nhượng bộ. Điển hình, ngày 27 tháng 3 năm 1981, một cuộc đình công toàn quốc để phản đối vụ đánh đập 27 thành viên của Công Đoàn Đoàn Kết đã huy động hơn nửa triệu người, làm ngưng trệ mọi hoạt động trên toàn quốc. Đây là cuộc đình công lớn nhất trong lịch sử Ba Lan dưới thời Liên Xô, buộc chính quyền phải hứa hẹn sẽ điều tra về vụ đánh đập kể trên. [24]
Phong trào Lựa Chọn Màu Cam thì lại tạo được hứng thú trong bằng những phương pháp bất thường. Bên cạnh các chiến thuật đấu tranh ôn hòa nhưng vẫn mang tính thách thức chế độ bằng nghệ thuật graffiti, phong trào cũng đã tổ chức những cuộc tụ họp công cộng mà họ gọi một cách hiền lành là “những việc xảy ra ngẫu nhiên”. Năm 1988, khi bất mãn của quần chúng lên tới đỉnh điểm, phong trào này đã tổ chức một cuộc tuần hành 10,000 người qua thành phố Wroclaw, tất cả đều đội mũ cho người lùn, màu cam. Sự kiện này được biết đến với tên gọi “Cuộc cách mạng Người lùn”. Bằng cách này, các nhà lãnh đạo của phong trào đã cố gắng đưa vào một không khí nhẹ nhàng cho phong trào đối lập, thoát khỏi sự đơn điệu của các cuộc biểu tình và tạo ra nhiều sự kiện mang tính vui vẻ và hài hước hơn cho người tham gia. [25] Phương thức hoạt động độc đáo và bất ngờ của phong trào Lựa Chọn Màu Cam đã khiến chính quyền rất lúng túng trong cách xử lý, và đó một trong nhiều lý do thành công của phong trào.
Những nỗ lực phối hợp giữa Công Đoàn Đoàn Kết, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, và phong trào Lựa Chọn Màu Cam đã dẫn đến những thay đổi mạnh mẽ trong môi trường chính trị Ba Lan. Thành quả lớn đầu tiên chính là vào tháng 8 năm 1988, khi Bộ trưởng Nội vụ Ba Lan – tướng Czelaw Kicazak gặp riêng với Lech Walesa, đề nghị chấm dứt những cuộc tổng đình công trên khắp đất nước. Khi đã tạo được thế đứng thuận lợi, Walesa liền bắt đầu một chuỗi dài các cuộc đàm phán với chủ tịch Hội đồng Nhà nước Ba Lan – tướng Jaruzelski, về tình trạng chính trị của Công đoàn Đoàn Kết. Sau 4 tháng tranh luận gay go, cuối cùng chủ tịch Jaruzelski đã chấp thuận cho Công Đoàn Đoàn Kết được phép hoạt động trở lại và quyết định này được chính thức công bố sau cuộc họp của Trung ương Đảng vào tháng 1 năm 1989. [26]
Ngay sau đó, Walesa tiếp tục ngồi lại với các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản để bắt đầu các cuộc “đàm phán bàn tròn” giữa phong trào đối lập và chính quyền trong tháng 2 năm 1989. Các cuộc đàm phán này là một nỗ lực của chính quyền để xoa dịu tình hình bất ổn xã hội, đã mang lại thành công lớn cho phe đối lập – đó là Thỏa thuận Bàn tròn 1989. Với tư cách trưởng phái đoàn gồm các nhà lãnh đạo đối lập, Walesa đã giúp thông qua thỏa thuận này, trong đó hợp pháp hóa các công đoàn độc lập, đưa vào áp dụng chế độ tổng thống và cơ quan lập pháp lưỡng viện. [27]
Ngoài việc tái cấu trúc các nhánh quyền lực của nhà nước, thảo thuận này cũng kêu gọi tổ chức bầu cử quốc hội, mang lại thắng lợi lớn cho Walesa và Đảng Đoàn Kết của ông. Công Đoàn Đoàn Kết đã trở thành một chính đảng hợp pháp, giành 99% số ghế Thượng viện và 35% số ghế Hạ viện. Walesa đã trở thành tổng thống đầu tiên của Ba Lan được bầu ra một cách dân chủ vào năm 1990, kết thúc hơn bốn thập kỷ của chủ nghĩa Cộng sản.
Chú thích
[1] Jerzy W. Borejsza, Klaus Ziemer, Magdalena Hułas. Chế độ độc tài và chuyên chế ở Châu Âu: Viễn cảnh ngắn hạn và dài hạn . Berghahn Books, 2006. In trang: 277.
[3] Zagacki, Kenneth S. “Đức Giáo Hoàng Pope John Paul II và Cuộc thập tự chinh chống chủ nghĩa Cộng sản: Nghiên cứu trường hợp trong thời đại thế tục và thiêng liêng”, Rhetoric & Public Affairs, 4: 4 (2001), trang 689-710.
[8] Misztal, Bronislaw. “Giữa Nhà nước và Đoàn kết: Một Phong trào, Hai Thuyết minh – Phong trào Lựa Chọn Cam ở Ba Lan”. The British Journal of Sociology, 43: 1 (Tháng 3 năm 1992), trang 55-78.
[26] Ash, Timothy Garton. Vòng tròn ma thuật: Cuộc cách mạng của năm 1989 được chứng kiến tại Warsaw, Budapest, Berlin và Prague . New York: Vintage, 1999.
Được sửa bởi Admin ngày Sat Jan 08, 2022 2:52 am; sửa lần 3.
Admin Admin
Posts : 164 Join date : 20/10/2011
Tiêu đề: Re: AI ĐÃ HẠ GỤC CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN? Sat Jan 08, 2022 2:41 am
Trình tự thời gian:
06/ 1952: Cuộc trưng cầu dân ý “Ba lần CÓ” bãi bỏ chế độ thượng viện và củng cố quyền lực cho Đảng Cộng sản Ba Lan.
06/ 1956: Công nhân nhà máy ở Poznan bắt đầu một loạt cuộc đình công và biểu tình để phản đối chính sách can thiệp và đàn áp của Liên Xô. Các cuộc đình công này đã bị đàn áp khốc liệt, khiến 80 người chết và rất nhiều người bị thương, bỏ tù, hoặc bị lưu đày. Sự kiện này đã góp phần mở ra một loạt cải cách của chính quyền Ba Lan để loại bỏ khuynh hướng Xta-lin-nít - về sau được gọi là cuộc cải cách “Tháng Mười Ba Lan”.
03/1968: Sinh viên Đại học Vác-xa-va biểu tình phản đối việc chính quyền cấm biểu diễn một vở kịch nổi tiếng có chứa các nội dung chống Liên Xô. “Các sự kiện tháng 3 năm 1968” này khiến cho bất mãn của dân chúng ngày càng gia tăng.
08/1975: Ba Lan ký vào Hiệp ước Helsinki nhưng không thực hiện đúng nhiệm vụ bảo vệ các quyền dân sự và tự do căn bản.
10/1978: Đức Hồng Y Karol Jozef Wojtyla được bầu làm Giáo Hoàng (với danh hiệu là Gioan Phao-lô II). Sau này ông sẽ trở thành một nhân vật quan trọng của phong trào Đoàn Kết Ba Lan và góp phần làm sụp đổ các chế độ Cộng sản ở Đông Âu.
08/ 1980: Sau những cuộc biểu tình của công nhân đóng tàu ở thành phố Gdansk, các nhà hoạt động và giới chức Cộng sản đã ký thỏa thuận Gdansk, đánh dấu việc thành lập một công đoàn độc lập và khởi đầu của phong trào Đoàn Kết Ba Lan.
03/ 1981: Hơn nửa triệu công nhân đình công để ghi nhớ vụ 27 thành viên của Công Đoàn Đoàn Kết bị an ninh đánh đập.
04/ 1989: Sau gần một năm đàm phán trực tiếp giữa phong trào Đoàn Kết và chính quyền Cộng sản, 2 bên đã ký Hiệp ước Bàn Tròn, mở ra một kỷ nguyên mới về tự do ngôn luận và quyền công dân.
12/ 1990: Trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của Ba Lan, nhà lãnh đạo Phong trào Đoàn Kết - Lech Walesa đã trúng cử tổng thống.
Chiến Thuật Đấu Tranh:
Các phương pháp biểu tình phi bạo lực và thuyết phục
* Truyền thông với lượng lớn thính giả
Các chủ đề tranh đấu của phong trào không chỉ giới hạn ở vấn đề công đoàn và quyền của công nhân. Dưới sự lãnh đạo của Công Đoàn Đoàn Kết, các phong trào khác đã nảy sinh, như Lựa Chọn Màu Cam, và vươn ra tới các lĩnh vực khác của xã hội. Mặc dù mỗi nhóm hướng tới những bộ phận quần chúng khác nhau, nhưng họ đều có một mục đích chung: một xã hội Ba Lan tự do, cởi mở.
Công Đoàn Đoàn Kết cũng tìm kiếm sự ủng hộ từ các cường quốc phương Tây; Năm 1983, thủ tướng Anh Margaret Thatcher và Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II đã thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ cho phong trào.
* Các hội họp công khai và phát ngôn chính thức:
Trong Đại hội chính thức đầu tiên vào năm 1981, Công Đoàn Đoàn Kết đã ban hành một tuyên ngôn chính thức và điều lệ quy định các mục tiêu của nó trong việc thúc đẩy phẩm giá và phúc lợi cho mọi công dân Ba Lan.
* Hành động mang tính biểu tượng
Những khẩu hiệu châm biếm như “Hỡi công dân, hãy giúp các anh dân phòng, hãy tự đánh mình đi” đã giúp huy động sự ủng hộ ở cấp cơ sở cho phong trào Đoàn Kết bằng cách tập trung sự chú ý vào những hành vi đàn áp tàn bạo của chính quyền đối với dân thường.
Màu cam đã trở thành biểu tượng của sự phản kháng và được thể hiện trên trang phục của người biểu tình.
Phong trào Lựa Chọn Màu Cam đặt ra mục tiêu là bày tỏ sự phản đối thông quan các biểu hiện nghệ thuật hài hước. Ví dụ, bức vẽ những người lùn màu cam trên tường chính là thể hiện một mối đe dọa nhẹ nhàng nhưng rất nghiêm trọng đối với chế độ. Cuối cùng, hình tượng “người lùn” đã trở thành một biểu tượng cho phong trào chống chế độ.
* Tuần hành.
Các cuộc đình công và tuần hành trên phạm vi hành toàn quốc đã diễn ra để tưởng nhớ nạn nhân của các vụ bắt bớ bắt hàng loạt và các vụ đàn áp bạo lực, đặc biệt là sau vụ đánh đập gần 30 thành viên của Phong trào Đoàn Kết vào năm 1981.
Các lễ rước và hội họp công khai mang tính chất tôn giáo cũng diễn ra rất phổ biến trong các chuyến thăm Ba Lan của Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II. Mặc dù những cuộc tụ họp rất đông đảo này có tính chất tôn giáo (để tránh bị chính quyền ngăn chặn, giải tán), nhưng chúng cũng thể hiện sự bất mãn của quần chúng mà chế độ phải đối mặt.
Các phương pháp bất hợp tác phi bạo lực
* Đình công:
Các cuộc đình công của công nhân trong thập niên 1970 và 1980 đóng góp rất lớn cho thành công của phong trào cải cách ở Ba Lan, vì họ chính là lực lượng trung tâm của nền kinh tế quốc dân. Các cuộc đình công này làm tê liệt nền kinh tế, buộc chính quyền phải chấp nhận đàm phán.
* Từ chối giải thưởng:
Khi Lech Walesa giành giải Nobel Hòa Bình năm 1983, ông đã từ chối việc đi nước ngoài để nhận giải thưởng. Hành động này nhằm biểu hiện tình đoàn kết của ông với phong trào của mình và với những người còn bị cầm tù và nhấn mạnh rằng cuộc tranh đấu vẫn còn chưa tới đích.