Tiêu đề: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Sat Apr 07, 2012 3:54 pm
.
Đời đầy chuyện ngạc nhiên - Trần Hoài Thư
Mùa hạ, thường thường vào giờ ăn trưa, ông Nguyễn vẫn quen lái xe ra bờ kênh, cách hãng khoảng một dặm đường. Trưa nay, ông cũng có thói quen như thế. Ông khóa cửa phòng làm việc. Rồi xuống thang máy. Ngoài kia nắng tháng bảy nhìn đến loá mắt. Những bụi hoa huệ trắng, hoa hồng đỏ khoe sắc. Hàng cây trên bãi đậu xe đứng im bất động. Ông rồ máy. Và mở lại một bản nhạc yêu thích. Xe lăn bánh trên đường. Tiếng hát cũng lăn theo chở ông về một cõi nào của dĩ vãng. Nơi đó là quê nhà. Nơi đó là tình tự. Nơi đó là tuổi trẻ của ông.
Ông tìm lại chỗ ngồi cũ bên giòng kênh đào. Ông tự dành cho mình một niềm vui thầm kín. Trên đầu là chim chóc hót vui. Dưới kia, là một mặt nước êm đềm. Và bóng mát toả xuống cùng với một vài mảng nắng đậu trên bàn. Và gió mát cũng hây hây thổi. Những đoá hoa hôm qua còn nụ bây giờ đã hé nở. Búp hoa vàng dại bên cạnh những đoá dâm bụt vươn lên trên mặt nước. Ông chậm rãi sửa soạn buổi ăn. Vẫn là những món ăn quen, quá quen. Nhưng hôm nay, đặc biệt vợ ông còn dúi thêm một bịch nho tươi. Tự nhiên ông nói thầm: Cám ơn má nó. Buổi trưa chói chan trên con đường nhựa chạy dọc theo kênh đào. Người ta chỉ thấy bóng một chàng thanh niên Á Châu đang thả bộ cùng với giòng xe cộ dập dìu. Lối dành cho bộ hành quá hẹp nên mỗi khi xe chạy qua là cậu phải ép sát vào trong gần những lùm bụi rậm ven kênh. Ông đoán cậu là người rất xa lạ với vùng này. Cứ nhìn cách cậu lê bước chân mệt nhọc thì biết. Nếu quen thuộc, không ai lại khờ dại phải lội bộ cả một con đường dài đến hai dặm không có một trạm xe bus dừng như thế. Nhưng ông không cần bận tâm. Mặc thiên hạ làm gì thì làm. Ông đang cố tận hưởng những giây phút êm đềm của một buổi trưa hè. Hãy bỏ qua một buổi sáng liên hồi chuông điện thoại. Hãy bỏ qua những tiếng đồng hồ như thể phát sốt hay những ưu tư về một tương lai không chắc chắn khi thấy giá cổ phần của công ty mỗi ngày mỗi sụt xuống đến mức thê thảm. Đời là của riêng mình. Niềm vui này đâu phải tìm ở đâu xa. Ông muốn nằm ngay trên băng ghế để nhắm mắt một lát. Thiên nhiên cây cối vây phủ, những đám mây trắng thấy thấp thoáng qua kẽ lá, và nghe đâu đây tiếng dội ầm ầm của thác nước khi chảy xuống đập. Ông thích thú nhìn đám vịt con lông vàng mượt đang bơi theo mẹ ở giữa giòng. Ông lắng nghe tiếng chim nào đó đang hót như khuyến dụ cô bạn mái.
Ông bỗng chú ý đến một chùm bông súng đang nở e ấp giữa mặt nước. Kỳ lạ. Ở xứ Mỹ này, lại có bông súng sao. Bông dâm bụt chưa hết ngẩn ngơ bây giờ lại bông súng dại. Thì ra thiên nhiên ở bất cứ nơi nào cũng giống nhau. Quê hương xa cách ngàn trùng bỗng nhiên thu hẹp vào trong một đám bông lạc loài giữa con kênh xứ người. Những búp bông màu hồng nhạt nở trên cọng thon thon vươn lên từ đám lá phủ một khoảnh nhỏ giữa mặt nước đầy bèo. Có bông nở rộ. Có bông vẫn còn e ấp búp. Những cánh mềm mại nằm hứng lấy mây trời giữa màu xanh trong của nước và màu xanh đậm của bèo lục bình. Ông ngạc nhiên không biết chúng có mặt từ lúc nào. Chúng có lẽ cũng như ông, tự nhiên trôi dạt đến một phương trời lạ lẩm. Nào ai biết đôi khi chỉ cần một bụi chuối con, hay nghe lại tiếng gà gáy vào sáng sớm, hay thấy lại nụ bông súng lạc loài, là cả một tiếng gọi kỳ bí nhưng oà vỡ cả con tim mình. Ông nhớ lại một lần trong năm đầu tiên ở Mỹ, hai vợ chồng ông đang chạy xe trong một khu lạ. Khi qua một ngôi nhà bên đường thấy bụi chuối bên hè. Chuối con nép bên chuối mẹ. Không hiểu sao, ông phải dừng xe lại. Vợ ông mở cửa xe, bước về phía bụi chuối và khóc đến nổi người đàn bà Mỹ phải ra hỏi và ngỏ ý tặng bụi chuối con. Giờ đây, lại thêm một lần quê hương trở lại. Có phải là buổi sáng nước rút và buổi chiều nước dâng mà một vùng bông súng đã trang điểm cõi đầm lầy. Loài bông hoa đồng nội. Loài bông ít ai nhắc đến. Nhưng là loài bông tỏa ra lòng từ tâm bốn cõi. Mùi hăng hắc của phèn chua lẫn mùi ngây ngây của cọng súng hay chất ngọt dịu thanh thanh của cánh bông mềm. Khi ông đói khát, ông đã ngắt cọng súng để lót lòng. Khi ông bắt được con cá rô cá sặt trong vũng bom đào, ông lội ra đầm tìm bông, tìm cọng súng mang về nấu canh, kho mặn. Có khi bè cả bè tràm trở về trại từ rừng, ông lội giữa vùng bông súng. Bông không tỏa hương thơm như bông sen, nhưng bông mềm như môi người đàn bà, mịn như da thịt của người thiếu phụ trẻ, để ông phải áp bông vào môi vào miệng mình. Có khi ông lội vào sâu trong rừng, ông thấy cả một vùng mênh mông súng và súng. Lá súng phủ ngập đầm không thấy đâu là mặt nước. Và trên vùng lá xanh che mặt là những búp bông vươn cao, vươn cao như cả một vườn tiên cảnh không ai biết đến. Ôi, những thân súng thon dài, mềm mại, giữ gìn những chiếc lá xanh kỳ lạ không gai sắc, không nham nhở, mà ngược lại như lụa là, thỉnh thoảng là chỗ tựa của con ếch, con nhái, để từ đó bông hoa nở rộ hồng cả một vùng. Có khi trong buổi hoàng hôn, màu lá đã trở nên thẩm tối, còn lại là một rừng bông màu hồng nhạt, hay màu trắng bạch, không lay động. Trong khi ven đầm là vùng cỏ tranh vàng như kim loại. Lúc ấy, trên bầu trời quá đổi hiu quạnh, những cánh chim chiều chậm rãi bay qua, và thỉnh thoảng nghe vọng lại từ đâu đó tiếng bìm bịp kêu rời rạc.
Cám ơn đời đã cho ông còn có con tim mà rung động trước cảnh đẹp, để ông nương tựa mà sống. Và cám ơn một loài hoa đầm lầy hoang dã. Chúng cho ông suy nghĩ về triết lý nhân sinh. Rằng càng trong tăm tối, càng thấy nở lên mầu nhiệm những bông hoa quí. Như trong cõi đói rách lầm than, miếng đường chia nhau. Vị ngọt sẽ phải lịm hoài đầu lưỡi. Hay ống điếu thuốc lào chuyền nhau. Khói thuốc sẽ phải ngây ngất cả đời. Hay như người học trò đưa lưng gánh dùm bó tràm cho vị thầy cũ của mình trong trại cải tạo. Tình nghĩa thầy trò đến đó là cùng, làm sao có thể tìm được ở chợ đời. Hay như viên thuốc hiếm qúi mà người bạn tù biếu tặng. Và cả một người con gái áo vá vai, khăn sọc vằn che cả mặt vì sợ nắng, nhưng ông cũng có thể nhận ra đôi mắt đẹp và hiền khi nàng chống chiếc xuồng cũi trên giòng Kênh Một. Đôi mắt ấy phản ánh nỗi xót xa khi thấy ông khốn khổ bè cả bè tràm to lớn ngược giòng. Tại sao em lại xót thương tôi, dúi cho tôi vắt cơm và miếng thịt quí giá vô cùng. Tôi thấy lòng em qua đôi mắt ấy rồi. Ràn rụa. Đỏ hoe. Em nói nhanh: Ông nhận dùm em đi. Mau lên. Xem chừng họ thấy. Rồi nàng chống xuồng đi giữa vùng hoa súng đỏ và trắng. Hai vai áo vá lớp. Ông nhìn theo tự dưng nước mắt như chảy. Bóng ấy càng lúc càng mất dần. Nhưng rõ ràng cái bóng ấy sẽ không bao giờ mất trong tâm trí ông. Và giờ đây ở xứ Mỹ này ông nhớ đến một bóng hình xưa. Ông ngắt một búp bông chưa nở trọn vẹn bên bờ và dịu dàng áp vào miệng như hôn lên một hình bóng yêu dấu cũ.
***
Giữa lúc ông chìm đắm trong hoài niệm thì bỗng nhiên có tiếng nói ở đàng sau làm ông phải giật mình quay lại. Người bộ hành Á Châu hỏi thăm đường bằng tiếng Anh: " Thưa ông, lối nào đến đại học X?" Ông Nguyễn nhíu vầng trán, cố suy nghĩ. Nhưng ông biết rất khó để mà chỉ dẫn đường đi: "Xa lắm. ít nhất là ba bốn dặm nữa. Phải tìm exit 10 vào xa lộ, qua cầu rồi tìm exit 11… Cậu không có xe à?" Ông trả lời, dĩ nhiên bằng tiếng Anh. "Tôi không có xe. Tôi mới đến đây hôm qua". "Cậu đến từ đâu?" "Từ Việt Nam." Bây giờ ông Nguyễn mới buột miệng reo, bằng chính ngôn ngữ mẹ đẻ. "Thế à? Tôi cũng là người Việt Nam."
Rõ ràng ông không thể tự chế được nỗi vui mừng đến độ phải bật lên thành tiếng. Thì ra tình đồng hương đồng bào là một thứ tình đã trử sẵn trong tim trong máu huyết của loài người. Hình như cái lưỡi của con người chỉ quen mỗi một thứ tiếng. Dù là giọng Bắc của cậu và giọng Nam của ông. Ông sốt sắng: "Nếu cậu thích, tôi sẵn sàng chở cậu đến đấy. Xa lắm, đi bộ không nổi đâu". "Cám ơn bác. Cháu nghĩ cháu thật may mắn được gặp bác". "Cậu không có ai quen ở đây sao?". "Dạ không". Sau đó chàng thanh niên giải thích thêm: "Cháu mới từ Buffalo đến ngày hôm qua." "Cậu là sinh viên du học?" "Dạ phải". Qua những lời trao đổi, ông biết một phần nào về người bạn trẻ mà ông gặp giữa đường. Cậu được một đại học địa phương tại đây cấp cho một học bổng. Như mọi sinh viên VN du học khác, cậu phải trải qua một khóa huấn luyện ngắn hạn để làm quen hơn về đời sống xứ Mỹ tại trung tâm ở Buffalo New York trước khi thật sự vào trường tại tiểu bang này. Giấy tờ ghi rõ đường đi nước bước, nhưng khi đến phi trường thì chẳng có một ai đón dùm. Cậu đành phải trả một số tiền lớn để thuê chiếc tắc xi về khu đại học. Tới nơi, đại học đóng cửa nghỉ hè. Cậu bơ vơ không còn biết ai để cầu cứu đành thuê tắc xi đi tìm khách sạn. Tên tắc xi bỏ cậu xuống một khách sạn cách trường khoảng ba dặm. Hắn nói, nơi này gần trường lắm. Quả thật hắn cũng nói đúng. Tuy nhiên gần campus của trường chứ không phải gần khu hành chánh hay sinh viên vụ. Cậu mới hiểu về những cái máy chém tiền không thương xót. "Cả đêm cháu ngủ không được… Cháu không dám gọi tắc xi. Tắc xi chém tiền hết chỗ nói." Hoàn cảnh của người sinh viên du học đã làm ông xúc động. Ông không cần thắc mắc về nguồn gốc lai lịch của người mà ông gặp gỡ giữa đường. Ông nhớ lại sáng nay một người quen vừa từ VN trở lại Mỹ, nói về những chuyện bực mình trong đó có chuyện anh chàng hướng dẫn trẻ tuổi thay vì hướng dẫn du lịch lại hướng dẫn chính trị. Không biết cậu này thuộc thành phần này không. Hay là con của một cựu binh đánh Mỹ cút Ngụy nhào. Đối với ông bây giờ là một người Việt Nam đang gặp hoạn nạn. Đang gặp bơ vơ. Tình người và tình đồng bào đã khiến ông không thể làm ngơ. Ông mang cậu về nhà. Vợ ông gọi điện thoại đến người quen để tìm giúp chỗ cư ngụ. Một người bạn gốc Xì làm việc chung giới thiệu một chỗ gần trường. Và ngay chiều hôm ấy, vợ chồng ông tự dưng trở thành kẻ bảo trợ. Cậu không có gì hết, nên ông bà phải giúp đỡ mọi thứ. Từ bàn ghế đến giường gối. Tặng cậu một thùng mì Đại Hàn. Thêm cái tủ lạnh nhỏ. Rồi chất tất cả lên xe, mở đèn emergency mà chạy. Thấy hai bên nhà treo đầy cờ Mỹ, cậu hỏi: - Thưa bác, hôm nay lễ hay sao mà có treo cờ? - Lễ Độc Lập đó cháu. Vợ ông mau mắn trả lời. - Bộ chính quyền bắt dân phải treo cờ hay sao? - Không. Ai muốn treo thì treo. Chẳng ai bắt ai hết.
***
Lâu lắm, dễ chừng gần một năm, ông không nhận được tin tức gì của cậu sinh viên ấy. Có lẽ vì việc học hành quá bận rộn, hay cũng có lẽ vì cậu đã làm mất số điện thoại của ông. Ông cũng vậy. Chẳng hề thắc mắc hay bận tâm. Đời sống xứ Mỹ quá bận rộn. Càng ngày công việc càng đè đầu ngập cổ. Nhóm của ông 6 người giờ chỉ còn hai. Nhưng đến một hôm ông trở về nhà, thấy một bình bông súng ai để trước cửa. Có phong bì lá thư kèm theo. Lá thư viết như sau: "Thưa hai bác. Hôm nay có một người bạn có xe nên cháu nhờ anh bạn chở dùm đến thăm hai bác. Rất tiếc hai bác không có ở nhà. Cháu xin gởi về bác trai chậu hoa súng. Cháu biết là bác thích hoa này nên cháu nhờ người thân mang dùm từ VN qua. Mong bác trai nhận..."
Vợ ông hỏi ông: "Sao mà thằng Bình lại biết ông thích bông súng?" Ông trả lời: "Thì bà hỏi nó đi". Ông dấu chuyện ông hôn lên cánh hoa. Cánh hoa của một người yêu dấu cũ. .
NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Thu May 09, 2019 9:38 am
Thành phố Seattle mưa lạnh quanh năm nên khi tôi về hưu và có bịnh đau tim, vợ và mấy đứa con khuyên về Orange County California để sống, vì tiểu bang Cali nắng ấm quanh năm, khí hậu rất tốt hợp với tuổi già.
Khi về sống ở thành phố Santa Ana, Cali, đi khám bác sĩ, Ông bác sĩ khuyên mỗi ngày đi bộ khoảng một giờ đồng hồ. Tôi nghe lời khuyên của bác sĩ gia đình, tám giờ mỗi sáng là tôi ra công viên đi vòng quanh ba mươi phút, ngồi nghỉ mệt mười phút, rồi đi tiếp hai mươi phút là trở vế nhà. Thành phố Santa Ana phần đông là người Mễ định cư, nên công viên gần nhà tôi người Mễ tập thể dục rất đông, nhất là ngày thứ bảy và chủ nhật. Hình như người Mễ họ ít thích sống ở nhà, những ngày nghỉ là ra công viên tụ tập vui chơi. Cả ngày thứ bảy, chủ nhật là tụm năm, tụm mười ăn chơi ca hát. Có hai người Mễ đẩy xe đi bán cà rem, kẹo bánh, hoặc đồ chơi trẻ em. Tôi không thấy người Mỹ trắng, có bốn, năm người Phi, và bốn bà người Việt Nam. Người Việt Nam đi đâu cũng dễ nhận diện. Chưa tới gần đã nghe nói chuyện oang oang, nào là chuyện chồng con, nhà cửa, bạn bè, hàng xóm láng giềng.
Đặc biệt, tôi chú ý đến một người đàn ông khoảng trên dưới bảy mươi, người gầy, dong dỏng cao, nước da xám đen, có lẽ thường xuyên ở ngoài nắng, đầu đội mũ đi rừng màu rêu của người lính, quần jean màu xanh đã bạc, áo pull màu xám tro bỏ vào quần nghiêm chỉnh, chân mang giày bata màu đen. Tay trái cầm hai bao màu đen, một bao bỏ chai nhựa và lon bia, một bao bỏ rác rưởi ở công viên. Tay phải cầm một cây kẹp rác, lon, chai bỏ vào bao. Mỗi sáng tám giờ, tôi ra công viên đi vòng quanh, đã thấy ông ta đi đến những tụ điểm mà chiều hôm qua người Mễ tụ họp ăn chơi bỏ đầy rác, vỏ lon bia, vỏ chai nước lọc. Ông lượm rác, lon, chai bỏ vào bao. Tôi nghĩ ông ta là người Mễ nên cũng ít quan tâm. Mỗi sáng tôi đến thì đã thấy ông đã đi loanh quanh lượm rác, chín giờ tôi về thì ông ta vẫn còn ở lại, nên tôi không đoán được là ông ta đến lúc nào và về lúc nào. Có những buổi sáng tôi đến thì đã thấy ông ta ngồi nghỉ ở một tảng đá cuối công viên, để hai bao rác bên cạnh, mắt nhìn một phương trời xa xăm, hai tay đưa lên đưa xuống như đang nói chuyện với người nào đó. Có những lúc ông ta đang đi, bỗng dưng đứng lại nhìn lên bầu trời nói cái gì đó, rồi tiếp tục công việc. Tôi nghĩ ông Mễ nầy hơi bất bình thường nên ít để ý đến. Một hôm tình cờ tôi đi gần phía sau ông, thì nghe ông hát “em đi bỏ lại căn nhà, mùa xuân phía trước, miên trường phía sau”. À, té ra ông nầy là người Việt Nam, không phải người Mễ. Nhưng người Việt Nam như mình mà sao lại đi lượm rác ở công viên nầy và hát một câu không giống ai. Em đi bỏ lại con đường là lời nhạc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ông đổi lại là Em đi bỏ lại căn nhà. Còn câu tiếp là của nhà thơ Bùi Giáng. Ông nầy lại lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia. Ông thấy tôi đi gần, ông rẽ trái đi đến chổ bốn năm người Mễ đang tụ tập để lượm rác.
Tôi rất tò mò nhưng không làm sao mà gần gủi và nói chuyện với ông ta. Vì mỗi lần tôi đến định chào hỏi thì ông lách đi hướng khác, hình như ông muốn tránh mọi người. Tôi lại càng tò mò muốn làm quen vì cùng là người Việt Nam lưu lạc, lại biết nhạc Trịnh Công Sơn và thơ Bùi Giáng và muốn biết hoàn cảnh nào mà ông qua Mỹ và tại sao làm những công việc nầy?. Một hôm ông đang ngồi nghỉ, tôi cầm một điếu thuốc đi từ phía sau đi tới và hỏi ông: - Hi! Good morning sir, you have fire? - No, no, oh you wait me one minute. Ông trả lời và đi đến gốc cây góc công viên có để mấy bao rác, ông lấy một bao diêm giấy đưa cho tôi. Tôi quặt diêm đốt thuốc và bắt chuyện. - Hình như anh là ngưới Việt Nam. Tôi hỏi. Ông nhìn tôi một giây và trả lời: - Vâng. Mắt nhìn xa xăm. - Tôi thấy anh còn khỏe quá. Tôi bị đau tim nên bác sĩ khuyên đi bộ cho tốt, sáng nào tôi cũng đi một giờ. Trước đây tôi ở Seattle, khí hậu quá lạnh nên chuyển về Cali khí hậu tốt. Làm như anh, như tập thể dục khỏe người ra. Tôi nói một hơi như trải bày tâm sự và tạo cảm tình. Ông cười nhìn xa xăm và nói: - Tôi làm cho giết thì giờ, bịnh hoạn chết chóc là do số mạng, con người sướng, cực, giàu, sang, là do số trời đã định, mình muốn cũng không được. - Vâng, anh nói đúng lắm, như tụi mình đây đâu có muốn lưu lạc xứ người mà cũng phải lạc xứ. Ở quê ăn củ khoai, củ sắn cũng khỏe cái thân, gần gủi bà con làng xóm. Tôi nghĩ ban đầu gặp nhau nói chuyện như vậy cũng đủ rồi, nói nhiều quá sợ ông nghi mình nhiều chuyện, tò mò. Tôi nhìn đồng hồ đã hơn chín giờ, tôi nói với ông: - Ồ, hơn chín giờ rồi, thôi tôi xin phép về trước chở bà vợ đi khám bệnh. Anh làm việc vui vẻ, mai mốt anh em mình gặp nhau nói chuyện nhiều. Tôi không bắt tay mà vỗ vai anh tỏ thái độ thân thiện và bước đi. Anh nhìn xa xăm có nét buồn trên đôi mắt và tiếp tục đi lượm rác.
Sáng hôm sau, tám giờ tôi thay đồ ra công viên. Thấy bà xã có làm bánh bông lan cho bà chị, tôi xin bốn cái bỏ vào cái hộp đem theo. Tôi đến công viên thì thấy ông đang ngồi nghỉ ở tảng đá như ngày hôm qua, hai bao rác đã đầy rồi. Tôi đến gần, ông không đi trớ như mọi khi, nhìn tôi ông cười có vẻ thân thiện. Tôi cũng cười và nói: - Bà xã tôi làm bánh bông lan cho bà chị, tôi biếu anh mấy cái ăn chơi. Hôm nay anh trúng mánh. Mới tám giờ mà đầy hai bao rồi, thôi về nghỉ sớm. Anh nhìn tôi cảm ơn và nói một hơi: - Có gì đâu mà trúng mánh, tôi lượm mấy thứ nầy để bán dồn tiền gởi về Việt Nam cho mấy trại mồ côi. Tôi ăn tiền hưu, nhà cửa chính phủ cấp, cũng đủ sống rồi. Ở Mỹ nầy có đói đâu, có rách đâu, đừng vi phạm luật pháp thì có đâu homeless mà sợ. Tôi cưu mang nước Mỹ, mỗi tháng nước Mỹ cấp gần chín trăm đô la tiền hưu, cấp nhà cửa, khám bịnh, thuốc men cũng cho luôn. Tôi hỏi lại anh: - Thế anh lượm vỏ chai, lon bia, chứ anh lượm rác rưởi nầy làm chi? - Tôi chưa trả ơn nước Mỹ, bây giờ già cả bịnh hoạn mình lượm rác thêm để cho công viên sạch sẽ, cũng đỡ bớt công nhân đi dọn rác mỗi tuần, hơn nữa bà con đi tập thể dục, trẻ em vui chơi an toàn và sạch sẽ. Đó cũng là cách tôi trả ơn cho nước Mỹ. Nghe ông nói chuyện cũng khác người, chưa bao giờ nghe ai ở Mỹ mà nói như ông, tôi muốn hỏi thêm nhưng vì phải đi bộ một giờ để cho đều đặn mỗi ngày, và tôi nghĩ mỗi ngày đều ra công viên thì gặp ông, bây giờ cũng quen nhau rồi, ổng không tránh nữa đâu mà lo. Thôi đi bộ cho đủ giờ và về tỉa mấy cây hoa cho kịp ra tết. Tôi vỗ vai ông và từ giã.
Ba hôm rồi tôi không ra công viên, vì bận phải lo dọn lại vườn sau và phía trước nhà cho thằng con. Gần tết rồi mà vợ chồng nó đi làm suốt ngày không có thì giờ chăm bón. Lâu quá không làm việc tay chân nên mỏi mệt quá chừng, làm biếng tập thể dục. Hôm nay tôi đi tập tiếp tục. Đến cổng công viên thì thấy ông đang lay hoay lượm rác ở khu vực trẻ em vui chơi, ông đang làm việc nên tôi đi vòng quanh công viên. Khoảng ba mươi phút, thấy ông đem rác đến bỏ vào thùng lớn và xách bao lon bia, lon nhựa, đến tảng đá ngồi nghỉ. Tôi mon men đến nói chuyện: - Mấy ngày hôm nay ở nhà dọn giúp cái vườn cho thằng con trai, cả năm nó chẳng dọn dẹp, chăm bón, cây cối, cỏ mọc um tùm, lâu không làm việc chân tay nên tối ngủ phè đến sáng quên dậy. - Anh có công việc để làm, có con cái để giúp đỡ là hạnh phúc rồi. Tôi thì chẳng có công việc gì làm ngoài công việc đi lượm rác, chiều về đọc sách, nghe nhạc. Ngày nào cũng như ngày nào, chán chết được. - Ủa, anh không có vợ con, anh em, họ hàng ở đây sao? Tôi ngạc nhiên hỏi anh. - Có thì nói làm gì. Đàn bà tàn nhẫn lắm anh ơi!
Nhìn cặp mắt ông thật buồn như khóc. Tôi nghĩ mình đang khơi lại chuyện buồn bã và bất hạnh của đời ông nên tôi lãng sang chuyện khác: - Ôi, đời mà anh, định mệnh đã an bài như anh đã nói, nghèo giàu hạnh phúc, bất hạnh đều do số trời, nhưng chúng mình được sống ở Mỹ cũng hơn nhiều người còn ở lại Việt Nam. Và tôi hỏi tiếp: - Anh đã về Việt Nam lần nào chưa? - Từ ngày qua Mỹ đến nay tôi chưa về lần nào. Mà về làm gì anh. Tôi có còn ai đâu mà về, hơn nữa về mà thấy mấy thằng cán bộ, công an, mấy thằng cơ hội giàu có huênh hoang mình tức, mình đập ở tù rục xương. Năm bảy bảy tôi có ở tù gần một năm cũng vì đập thằng công an phường. - Anh cũng gan đấy chứ. Lý do tại sao anh đập thằng công an phường? Tôi hỏi bởi sự tò mò. - Nhà tôi ở quận năm Sài Gòn, ba tôi là thiếu tá cảnh sát nhưng đã về hưu, mẹ tôi có sạp vải ở chợ An Đông. Thằng công an phường đến nhà nói gia đình tôi là tư bản, ba tôi sĩ quan ngụy mà trốn học tập, bắt phải đóng tiền cho phường để xây dựng phường, nếu không sẽ bị tịch thu tài sản, nhà cửa và bắt ba tôi đi học tập. - Rồi tại sao anh đi ở tù. Tôi hỏi như khơi ra cho ông nói tiếp: - Tôi tức quá mà anh, thằng công an phường là con nít mà dám hỗn laó với ba mẹ tôi. Ba tôi ổng sợ quá cứ dạ dạ, thưa thưa. Tôi chạy tới tóm cổ thằng công an, đấm vào mặt mấy đấm và tống cổ ra khỏi nhà. Nó chạy về phường báo với thằng chủ tịch phường và kéo mấy thằng nữa đến nhà đọc lệnh quy cho tôi tội phản động, hành hung công an đang làm phận sự, còng tay tôi dẫn về phường và tống cổ tôi đi ở tù. - Anh ở tù gần một năm à? Tôi hỏi tiếp - Nó tống tôi vào tù có nói mấy năm đâu. Ông bà già sợ quá sang sạp vải để chạy cho tôi ra tù và bán nhà xuống Bà Rịa mua rẫy để trồng điều, khoai mì. Ông già buồn quá sinh bịnh một năm sau ông qua đời. Còn lại bà già và tôi. Mẹ thì nuôi heo, tôi làm rẫy sống qua ngày. - Như vậy anh đi Mỹ năm nào? - Năm tám mươi. Tôi đi Mỹ gặp hên thôi chứ không tốn tiền của gì cả. Tôi đang làm cỏ rẫy điều, trời đã tối rồi nhưng tôi làm ráng cho hết để ngày mai làm việc khác. Có bốn người, hai người đàn ông và hai người đàn bà đi ngang qua rẫy tôi, họ tưởng tối rồi không có ai nên nói chuyện hơi lớn, tôi biết là những người vượt biên hẹn bãi để đợi người tới bốc đi. Tôi lên tiếng họ tưởng tôi cũng đợi để đi, tôi tháp tùng đi luôn, ra đến bãi chủ tàu kiểm tra thấy dư tôi, nhưng họ sợ lộ, sợ tôi tố cáo nên họ cho tôi đi. - Anh hên quá hả, đẻ bọc điều đó, không tốn một đồng mà cũng đi qua Mỹ được. Tôi khen ông cho ông thích, nhưng ông trả lời một câu xuội lơ: - Hồi đó đẻ bọc điều bây giở đẻ bọc giẻ rách, đẻ bọc ny lông. Thấy ông có vẻ bi quan, tôi hỏi tiếp: - Tàu anh đến nước nào Phi Lụật Tân hày Mã Lai? - Đến Phi Lụật Tân ở hơn sáu tháng rồi phái đoàn phỏng vấn cho tôi đi Mỹ, vì tôi có ông chú Đại úy không quân, đang định cư ở Mỹ, ông chú đi năm 1975. - Anh rất may mắn, có nhiều người ở đó mấy năm vì không có bà con ở nước ngoài và không tham gia trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Có nước thứ ba bảo lãnh họ mới đi được. - Đến Mỹ anh được định cư ở Santa Ana Cali đến bây giờ? Tôi hỏi ông. - Tôi về Houston TX, vì có ông chú ở đó bảo trợ. Biết đâu lúc đó mà tôi về Cali thì chắc đời không xô, đẩy đạp, đá, hất tôi ra đứng bên lề cuộc đời nầy. Trời Phật thật là bất công. - Có gì mà anh giận dữ vậy? Ở Mỹ chẳng thà thật giàu, còn nghèo như tụi mình có nhà nước lo hết, có chết cũng tới số mà thôi. - Tôi có muốn ăn tiền già, tiền bịnh đâu anh. Hồi tôi bước chân đến Mỹ tôi cố gắng đi học Anh văn, học nghề và đi làm thêm để kiếm tiền trang trải mọi chi phí và gởi về cho mẹ già. Tôi nghĩ ở Mỹ phải học một một cái nghề và có bằng cấp mới xin việc được và phải đi làm để đóng thuế, sau già có tiền hưu trí, khỏi lo gì hết. Thế mà không được, không bao giờ được.
Ông nói trong nét mặt buồn và giận. Tôi thấy ông cũng muốn tâm sự để cho nhẹ bớt sự uất hận đã chôn chặt từ lâu. Tôi hỏi thêm: - Đến Mỹ anh học nghề gì? Và sau đó làm việc gì? Hồi đó ít người Việt nên xin việc dễ lắm hả? - Hồi trước năm bảy lăm tôi mê văn chương, tính ghi danh học đại học văn khoa, nhưng ông già không cho nói là không bảo đảm cho tương lai, học một nghề gì về kỹ thuật, máy móc dể tìm việc làm và bảo đảm cho tương lai, tôi thi vào trường kỹ thuật Phú Thọ, học được ba năm thì mấy thằng Việt cộng vào. Qua đây tôi tiếp tục học ngành điện. - Như vậy anh tốt nghiệp kỹ sư điện chứ? Và anh làm việc cho chính phủ? Tôi hỏi tiếp. - Tôi tốt nghiệp kỹ sư điện, cũng khá cao. Nhưng làm gì xin vào được nhà nước. Tụi Mỹ trắng rất kỳ thị, khi interview nó ưu tiên cho mấy thằng da trắng, mình da vàng mũi tẹt khó lọt. Tôi xin vào làm điện cho trường học. - Anh cũng rất may mắn, có bằng cấp và việc làm ổn định. - Đời đâu có suôn sẻ như vậy anh. Nếu suôn sẻ thì tôi đâu có đi lượm rác công viên và gặp anh. Ông nói và nhìn tôi cười rất chua xót, đắng cay. Tôi thấy ông cũng rất vui vẻ, cởi mở và chân thật, tôi hỏi tiếp: - Thế anh lấy vợ năm nào? Và được mấy cháu? - Tôi lấy vợ năm tám sáu, khi tôi đã mua nhà cửa ổn định. Hồi đó ở Houston TX người Việt mình định cư rất ít, đàn bà lại càng ít hơn. Tôi gặp bả trong trường học tôi làm. Bả đi học Anh văn. Tôi thấy mình cũng đã lớn và công việc làm ăn đã ổn định nên tôi nghĩ đến cưới vợ, tôi thấy bả cũng xinh gái, tôi làm quen, mời về nhà, ba tháng sau tôi cưới, thật sự chẳng có yêu đương gì. Vợ con là duyên nợ phải không anh? Ông hỏi lại tôi với đôi mắt buồn bã. Tôi nói theo ông và thêm chút bông lơn để cho ông đở buồn và hận: - Vợ con là duyên nợ, đúng lắm anh ơi. Như tôi, hồi học ở Sài Gòn có yêu một cô gái miền Nam hiền lắm, cô cũng yêu tôi. Nhưng khi tôi bị động viên vào Thủ Đức, ra trường đổi lên tận Pleiku gặp bà vợ, gái miền Trung dữ như bà chằn. Ôi, cũng là số trời đã định rồi, chạy đâu khỏi nắng. - Vợ anh dữ nhưng chân thật, biết yêu chồng con, lo lắng gia đình. Còn vợ tôi người Bắc bảy lăm chanh chua, điêu ngoa, lừa dối chồng. Biết bao cái xấu làm sao mà nói cho hết. - Anh được mấy cháu? Tôi hỏi tiếp. - Đám cưới sau ba tháng thì bả có bầu. Tôi mừng hết lớn vì sắp làm cha. Tôi không cho bả xin việc làm, ở nhà lo cơm nước và việc nhà. Thật sự cũng tại tôi, ở nhà sướng quá rồi sinh tật. - Thì vợ ở nhà lo cơm nước và con cái để chồng an tâm làm việc thì cũng hạnh phúc rồi, anh còn than gì nữa. Làm sao mà sinh tật. - Có hai vợ chồng nên việc nhà có gì nhiều đâu. Bởi thế rảnh quá, đi sang mấy bà hàng xóm trò chuyện, ngồi lê đôi mách, rồi rủ đi shopping, ôi thôi đàn bà mà anh. - Ừa, có hai người đàn bà và một con vịt thì thành cái chợ. Hai ba người đàn bà ngồi lại với nhau thì biết bao chuyện để nói, nói cả ngày cũng không hết và sinh đủ thứ chuyện. Tôi nói theo ý ông để ông vui và tiếp tục tâm sự: - Khi sinh đứa con trai đầu lòng, tôi thấy bả cũng hơi bận vì hai đứa chưa có kinh nghiệm chăm con nít nên loay hoay suốt ngày. Rồi cũng qua đi, thằng con trai lớn dần và rất ngoan, tôi thương con và cũng thương vợ, cứ để ở nhà chăm con, lo ăn uống, đưa, đón con đi học. Hồi đó tôi làm lương cũng khá nên đủ chi tiêu trong gia đình. - Như vậy là một gia đình Việt Nam hạnh phúc đấy. Nhưng chắc anh cưng quá rồi bả sinh tật phải không? - Khi con tôi vào đại học, bả rảnh nên xin đi làm tính tiền trong chợ QFC. Có lúc đi sớm, có lúc về muộn. Tôi thì lo làm kiếm tiền để lo cho con học đại học. Học đại học được hai năm, một buổi chiều đi học về trên xa lộ, một chiếc xe của hai vợ chồng mới cưới bị nổ bánh quay đầu tông vào xe con tôi, ba người chết tại chỗ.
Tôi nghe kể đến đây nước mắt ông lưng tròng. Ông lấy hai tay chùi nước mắt. Trời ơi! Tôi nghe ông kể tôi cũng điếng cả người, ông trời chi mà bất công. Dừng một lúc rồi ông kể tiếp: - Bạn bè cùng chỗ làm và đồng hương giúp tôi lo đám tang cho cháu. Xong đám tang tôi ngã bịnh, chắc cũng vì buồn tủi, sầu lo. Vào bệnh viện bác sĩ phát hiện tôi bị bịnh ung thư cổ thời kỳ đầu. Một tai nạn thứ hai đến với tôi. Nhưng tôi nghĩ cũng còn người vợ bên mình sẽ được an ủi và lo cho nhau. Nhưng có ngờ đâu khi biết tôi bị ung thư, bả âm thầm rút hết tiền trong nhà bank và bỏ nhà đi. Sau tôi biết bả đi theo một thằng Tàu mà bả quen khi làm việc tại chợ QFC. - Đàn bà thật tàn nhẫn. Tôi buộc miệng lớn tiếng vì tôi cũng căm tức và hỏi tiếp - Bởi nguyên do nào anh về Cali? - Lúc đó tôi nghỉ việc nhưng chưa đúng tuổi hưu. Tôi bán nhà để chữa bịnh, cũng may bịnh ung thư khám phá sớm nên bịnh không phát triển. Ở Texas buồn quá một người bạn ở Cali quen nhau lúc cùng vượt biên thấy hoàn cảnh của tôi quá thảm thương khuyên tôi chuyển về Cali để gần bạn. Tôi chuyển về Cali xin tiền hưu non sáu hai tuổi. Tiền hưu bằng tiền già ở Cali nên tôi nộp đơn xin housing. Hai năm sau tôi được cấp nhà housing. Thật là một sự may mắn lớn trong đời tôi. Tôi ở housing và được hưởng sự trợ cấp như một người bịnh. Ông kể đến đây ông khóc, bây giờ ông khóc thật sự, nước mắt chảy dài trên hai gò má nhăn nheo. Tiếng nấc và hai vai rung lên từng nhịp, những uất hận, sầu tủi bấy lâu nay có lẻ ông tuôn hết lúc nầy. Ông khóc một lúc, ông đứng lên hai tay cầm bao vỏ bia, chai nhựa và cây kẹp rác xin phép tôi ông đi về trước, ông nói: - Tôi phải về, về thắp cho đứa con một nén nhang, nó đang ở nhà đợi tôi. Nói xong ông bước đi, từng bước, từng bước xiêu vẹo, hai vai gầy, chập chờn như cây gỗ khô trước gió chiều hiu quạnh. Khi ông bỏ về, tôi cũng không tập tiếp mà bỏ về theo ông, lòng buồn vô hạn,
Trước khi đi Seattle ăn Tết với đứa con trai, tôi quá là bận, phải phụ giúp bà xã gói ít bánh chưng, bánh tổ và mua một ít chả cá, chả lụa đem cho thằng con trai ăn tết. Tôi nghĩ, phải gặp ông một lần trước khi đi, để tôi biếu ông một it bánh cúng đứa con trai xấu số và ông ăn tết. Ông đang ngồi nghĩ ở tảng đá cuối công viên như mọi hôm, vừa nhìn thấy tôi đi đến gần, ông có vẻ vui mừng đứng dậy đón tôi. Ông cất tiếng chào tôi trước: - Chào anh, tôi tưởng anh đi Seattle rồi. Mấy ngày nay không thấy anh đi tập. - Ngày mai tôi mới đi, phải ở nhà phụ bà xã gói bánh và mua một ít quà đem theo cho con, luôn tiện biếu anh ít bánh để anh cúng con trai và ăn tết. - Anh cứ cho quà tôi hoài mà tôi không có gi biếu lại anh. Anh lên Seattle mùa nầy còn lạnh, tuyết rơi, tôi tặng anh quyển sách nầy để anh đọc những thời gian rảnh rỗi. Từ khi tôi mất hết, cái gì cũng vụt khỏi tầm tay, chỉ còn lại tôi, khi tôi gục ngã, âm nhạc và sách vở vực tôi đứng dậy. Đứng dậy để nhìn bề trái, bề phải của cuộc đời nầy. - Có một lần tình cờ tôi nghe anh đọc một câu thơ mà anh lấy một nửa câu hát của Trịnh công Sơn và một câu thơ của nhà thơ Bùi Giáng. Anh thích hai người nầy lắm phải không? - Nhiều lúc tôi muốn điên như Bùi Giáng, như Friedrich Nietzsche, nhưng Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên ru lòng tôi bằng những bài tình ca mật ngọt, thơ mộng và đắm say, nhờ vậy mà tôi lấy lại quân bình của tâm hồn để sống nốt quảng đời ô trọc nầy. Anh đã hiểu chìm nổi của cuộc đời tôi thì câu thơ mà anh nghe, là cuộc đời tôi đó.
Tôi cầm quyển sách ông tặng, quyển sách đã úa vàng, mất bìa trước. Tôi đọc tên tác giả: Friedrich Nietzsche và tựa đề: Buổi Hoàng Hôn Của Những Thần Tượng hay Làm Cách Nào Triết Lý Với Cây Búa. Nguyễn Hữu Hiệu dịch và giới thiệu. Tôi quá ngạc nhiên bởi ông thích điên như Bùi Giáng như Nietzsche, là một người ẩn chứa một tâm hồn mênh mông, nổi loạn…Tôi cảm ơn ông và nói: - Hy vọng những ngày tôi ở Seattle mưa và tuyết nhưng là những ngày không vô vị, không buồn nản vì có quyển sách nầy là bạn. Tôi sẽ gặp lại anh sau chuyến đi Seattle trở về, anh giữ gìn sức khỏe và ăn tết vui vẻ nhé. Tôi bắt tay ông thật chặt, ông không nói một lời, nhìn tôi thật lâu, với đôi mắt buồn như lệ đang rơi...
Khí hậu thành phố Seattle không như mọi năm, thay đổi, mưa dầm và tuyết rơi. Những ngày tết Kỷ Hợi tuyết rơi triền miên, từ sáng ba mươi đến ngày mồng bảy, mồng tám. Tôi chẳng đi đâu được. Những người bạn già gọi ơi ới đến nhà nhậu nhưng đành chịu thua. Cũng may có quyển sách của ông bạn gặp ở công viên tặng. Tôi nghiền ngẫm đọc, đọc nhiều tôi càng thấm sâu vào tư tưởng của Nietzsche, nhiều đoạn tôi không hiểu được, tôi sẽ hỏi ông khi về lại Cali. Tôi tâm huyết nhất là những lời Nietzsche nói: “Người ta phải đặt mình ở bên ngoài cuộc đời, và mặt khác phải hiểu biết thấu suốt cuộc đời như bất kỳ, như đa số, như tất cả mọi người đã cảm nghiệm nó, mới được phép đụng chạm tới vấn đề giá trị của cuộc đời; đó là những lý do túc lý để thấy rằng vấn đề ở ngoài tầm với đối với chúng ta.” Đời đã đẩy ông đứng bên ngoài cuộc đời nên ông tìm đến Nietzsche và Nietzsche chỉ vẻ cho ông nhìn thấu suốt cuộc đời nầy. Tôi về lại Cali là tôi đi tập thể dục trở lại, vì ở Seattle một tháng, tuyết rơi mưa gió có tập được gì đâu và cốt ý là gặp ông bạn lượm rác mà tôi cảm thấy thân thương gần gũi, và để nhờ ông giải thích nhiều đoạn của Niezsche đưa ra mà tôi chưa hiểu. Tôi đi ba ngày liên tiếp mà chẳng thấy ông đâu. Tôi hỏi những người Mễ mà tôi đã gặp hằng ngày, họ chẳng quan tâm. Tôi hỏi bốn bà Việt Nam, họ bảo rằng ông Mễ lượm rác khùng khùng, không thấy đến công viên hơn nửa tháng rồi. Tôi nói ông lượm rác là người Việt Nam rất đáng thương và kính nể.
Có một bà nói, khuya mồng một Tết vừa rồi ở thành phố Santa Ana có một ông Việt Nam điên đi giữa đường bị xe tông chết. Tôi chẳng biết đâu mà mò, mà tìm ông, ông bạn già, trên đôi vai trĩu nặng những khổ đau của cuộc đời. Tôi nghĩ là ông không chết, ông lẫn khuất đâu đó, để nhìn tiếp cuộc đời ô trọc nầy, để nhìn thấy những người tự xưng mình anh hùng, là thần tượng, đã đến buổi hoàng hôn. Vì ông đang đứng bên đời…
Xuân Kỷ Hợi 2019 Trần Thế Phong .
NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Mon May 13, 2019 12:24 am
.
NGƯỜI TỬ TẾ - Bùi Thanh Xuân
1/ Cũ kĩ nhưng không rách, bộ áo quần ông mặc hằng ngày dường như không thay đổi, vẫn cái quần màu đen và chiếc áo ô liu. hai hoặc ba bộ giống nhau. Hình ảnh khá quen thuộc với mọi người quanh trung tâm thể thao, ông làm bất cứ việc gì người ta nhờ vả, người nào tốt thì cho ít tiền, bủn xỉn quá cũng chẳng sao, ông cười.
Nhiều người phụ nữ gọi ông là thằng khùng, nhiều người đàn ông bảo ông cái đồ điên điên. Họ là những quý ông bà sang trọng, có văn hóa, địa vị hay khá sung túc, là những người luôn nói lời bác học, chơi thể thao hoặc tập thể dục buổi sáng. Hay cười, đi, đứng hay ngồi một mình cũng có thể bắt gặp nụ cười của ông, hiền và rất trẻ con. Ai khen chê, la mắng hay gặp câu nói vu vơ, châm biếm của ai đó cũng cười. Có khi cười sảng khoái, cười vô tâm, cười thay lời chào hoặc cám ơn hoặc cho gió bay đi câu sổ sang, mắng mỏ.
Ông từ đâu đến không ai biết, người ta cũng chẳng bận tâm ông đến từ đâu, chỉ thấy mỗi sáng ông xuất hiện để dọn dẹp sạch sẽ những thứ rác rưởi người ta vứt trên đường. Nhiều người biết ông không vợ con, sống với bà mẹ mù trong con hẻm sâu. Người ta cũng chẳng bận tâm ai đã mua ngôi nhà cũ kĩ ấy khi mẹ con ông quá nghèo, người thì mù lòa, người thì ngớ ngẫn. Ông thức dậy thật sớm, rất sớm, không biết khoảng thời gian nào nhưng khi những quý ông, quý bà có mặt trên sân thể thao hay đi bộ từ lúc sáng sớm đã thấy ông chăm chỉ làm công việc không phải của mình, vừa làm vừa cười vui vẻ, không câu nệ, sợ hãi, trừ những lúc bị người ta nhìn thấy rồi nổi giận vô cớ cái công việc ông làm, la mắng đồ cái thằng khùng. Nhặt nhạnh, khiêng vác tất cả rác rưởi, những thứ đêm qua người ta vứt ra đường, bất kể ngày nắng, ngày mưa, đem bỏ vào thùng rác. Người ta lại la mắng cái đồ khùng, ông cười. Thường thì ban ngày đi nhặt banh tennis cho quý ông bà sang trọng, họ cho ông tiền. Những đồng tiền có sạch sẽ hay không thì chỉ họ biết, nhưng khi đặt vào tay ông, những đồng tiền ấy trở nên, lương thiện. Những đồng tiền ấy mang về nuôi mẹ.
Quán cafe buổi sáng mới sáu giờ nhưng cũng đã khá đông khách, những quý ông, quý bà chơi thể thao xong ra ngồi trò chuyện. Họ nói đủ thứ chuyện, ông này lên, bà kia xuống, chuyện nhà, chuyện đất, chuyện đô la giá bao nhiêu, chuyện du lịch nước này, nước khác, đàn bà tây có cái mông hấp dẫn hơn phụ nữ Việt. Hai vợ chồng trung niên chở nhau trên chiếc xe máy cũ kỉ, phía sau họ là chiếc xe kéo đầy cát, chở thuê cho ai đó làm nhà vào lúc sáng sớm. Chiếc xe máy phì khói, nặng nề kéo con quái vật phía sau. Ông từ đâu chạy vụt đến, căng sức đẩy. Khói bay ngang quán cafe khét lẹt, một vài quý ông, quý bà bịt mũi, một vài người nhăn nhó. Một quý ông quần short, áo thun trắng buột miệng cái đồ vô ý thức, cản trở giao thông. Một quý bà chỉ vào ông, ê, đẩy nhanh lên thằng khùng. Vẫy tay chào, ông cười.
Một lần vác nhánh cây rơi trên đường định vứt thùng rác, vô ý quẹt vào chiếc xe hơi bóng loáng, quý ông mở cửa xe bước xuống giáng cho ông một bạt tai. Thả vội nhánh cây, hai tay xoa má, đôi mắt mở to nhìn quý ông. Ông không cười, không khóc, chỉ lắp bắp... tôi... tôi... xin lỗi. Ông xin lỗi nhưng đôi mắt vẫn nhìn quý ông nẩy lửa. Hình như ông biết thân phận mình và bắt đầu biết hận thù, nhưng cũng biết sợ hãi. Ông sợ hãi loài thú dữ.
Những ngày qua mưa to, nước sông cuồn cuộn, người ta thấy ông tựa lan can cầu nhìn xuống dòng nước đục ngầu, đám lục bình ở đâu trôi về từng mảng khá nhiều. Mắt ráo hoảnh, không cười, không khóc, chỉ thấy ông thở dài, miệng lẩm bẩm tội... tội... Hình như ông đang tìm kiếm trong những đám lục bình kia một thứ gì đó, có thể là một con người hay đôn vật, chỉ mình ông biết, đôi mắt buồn như màu mây xám trên cao.
2/ Tháng chạp mưa liên miên, sân tennis vắng người, chỉ những ai mê thể thao lắm mới cầm vợt đến sân đợi trời tạnh. Ông ngồi co ro dưới mái hiên, tay cầm cuốn sách cũ, rách tươm bẩn thỉu, hai mắt dán chặt vào những trang giấy ướt nhòe. Một quý ông cũng đến trú mưa, phì phèo thuốc lá, chợt giật mình khi nhìn thấy ông đang đọc tập truyện bằng tiếng Anh, hỏi ông có hiểu gì không. Ông mĩm cười, hỏi lại “Anh cũng biết Willilam Faulkner à?”. Qúy ông mở to hai mắt nhìn ông ngạc nhiên “Tôi không hiểu?” “À, đây là cuốn truyện The Sound and the Fury của ông ấy” “Nó viết gì thế” “À, thưa ông, ông ấy không phải là nó, phải gọi Willilam Faulkner là ngài. Ông ấy là một văn hào nổi tiếng thế giới, truyện này đã đạt giải Nobel”
Qúy ông kinh ngạc nhìn người đàn ông nhếch nhác ngồi bên cạnh. “Tiểu thuyết này là một kiệt tác văn chương, nghệ thuật ngôn từ độc đáo, một tác phẩm như bản giao hưởng của trường phái ấn tượng. “The Sound anh the Fury” được dịch ra tiếng Việt là “Âm thanh và cuồng nộ” xứng đáng là một kiệt tác văn học thế giới. Tôi nhặt cuốn sách này trong thùng rác sáng nay, trời ơi, không thể tin được nó lại ở trong thùng rác. Tôi đọc bản tiếng Việt lâu rồi, khi còn trẻ, hạnh phúc quá khi có được bản tiếng Anh này. Nếu anh muốn đọc, tôi sẽ cho mượn”. Gã quý tộc ngơ ngác, chẳng hiểu ông nói gì. Người đàn ông nhặt banh mà lão hay gọi bằng thằng này đang thao thao về một ông nhà văn xa lạ nào đó chưa hề nghe tiếng. Lão cũng không bận tâm về cuốn sách đoạt thứ giải gì đó, nó chẳng mang lại cơm áo gạo tiền hay cái địa vị mà lão đang có, nhưng lão chú ý đến người đàn ông nhặt banh hằng ngày nhiều hơn. Quái lạ thật, cái hạng khố rách áo ôm thế này mà cũng lắm chữ, không biết nó học từ đâu ra.
“Mày là ai? Lúc nhỏ có đi học à?” “Tôi còn không biết tôi là ai nữa, nhưng biết Cha tôi đã từng là một bác sỹ. Ông đã chết trong trại tù năm tám mươi hai, tội của cha tội là đã cứu nhiều người Mẹ tôi cũng là một giáo sư dạy tiếng Pháp...” Gã quý tộc thoáng giật mình, lão hiểu một ít thân phận của ông, gã nhặt banh. “Tại sao bây giờ lại ra như thế này?” “Ồ, ông cứ nhìn tôi bằng cái nhìn như cũ, một thằng tâm thần nhếch nhác nhặt banh, ai nhờ vả gì cũng được, ai cho tiền cũng nhận. Tôi cũng cần cái ăn và mẹ tôi cũng vậy“ “Có phải mày giả điên không?” “Không phải giả mà là tôi đã từng bị điên, đó là sau cơn sốt xuất huyết não gần ba mươi năm trước. Không có tiền đến bệnh viện, suýt chết. Nhưng tôi vẫn phải sống để trả cho xong cái nợ cuộc đời“ “Mày học đến lớp mấy thì nghỉ”. Ông bật cười vì câu hỏi khiếm nhã của lão quý tộc. “Khi các ông bước vào những trường đại học, đó là lúc tôi bị đuổi ra khỏi đại học Y, trả giá cho những việc mình không gây ra“ “Mày hay cười, chuyện gì mày cũng cười là sao?”. “À, tôi cười cuộc đời lúc tỉnh, lúc mê của mình. Tôi cười khi các ông vui, nhưng lúc các ông buồn tôi cũng có thể cười. Được cười tôi thấy đời lạc quan hơn”
3/ Mưa vẫn còn nặng hạt, gió tạt nước vào mái hiên. Gã quý tộc tựa đầu vào bao vợt tennis dựa sát tường, hai tay vòng trước ngực, có lẽ thấm lạnh, chùng chình định ra mở cửa xe để về. Nhưng ông ta vẫn ngồi đó, nhìn lên ngọn cây bên đường đang bị gió mưa làm cho quặt quẹo. Hôm qua nhánh cây này vẫn còn vươn dài ra, tươi tốt.
Người đàn ông tâm thần tử tế không muốn trò chuyện về thân phận mình nữa, ông nhìn xuống vỉa hè, nền xi măng lở loét, đám lá xanh mơn mởn rụng lả tả khắp mặt sân. Ông nghĩ, lát nữa mưa tạnh sẽ don sạch đám rác rưởi này. Vẫn còn mưa, người tâm thần tử tế lại dán mắt vào cuốn sách cũ. Những quý bà bảo ông là thằng khùng, các quý ông mắng là đồ điên. Tôi thì cho rằng ông là người tử tế. .
NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Sun May 19, 2019 1:56 pm
.
Biển đời người - Truyện ngắn Trần Thùy Mai
Bim mười lăm tuổi, người lép kẹp như con cá măng, mùa lạnh thì mũi lúc nào cũng ướt. Vậy mà cô Hạnh cứ làm như con cô là tiên. Mỗi lần tôi đến, cô lại trách: "Vì mày mà sau này em Bim không đi thi hoa hậu được. Lớn lên lo mà đền cho nó". Tôi rụt cổ, gãi tai, biết là cô đang muốn nhắc đến những cái sẹo to trên người Bim. Mẹ tôi bảo: "Một cái là do Măng rủ nó trèo cây đào. Một cái là Măng chơi u, xô nó té từ trên gác xuống. Một cái là do cô Hạnh sai Măng bưng bát canh, đi đến cửa nóng tay quá Măng hắt tung vào người nó". Nghe kể, tôi ân hận. Thật may là Bim chẳng trách bao giờ. Cứ thấy tôi là Bim nhảy lê: "Anh Tuấn, cho em hai ngàn đi chơi điện tử". Thế rồi, bẵng đi một dạo, mỗi lần tôi sang, Bim lơ đẹp. Tính tình khác, thân thể cũng khác xưa, cao hẳn lên, ngực lờ mờ hai chóp tròn mềm mại sau tấm áo.
Trời mưa đột ngột xối xả vào xế trưa. Đến chiều, con nước dâng nhanh chẳng mấy chốc ngập lòng đường, tiến vào nhà, treo lên phủ ngập giường chiếu. Cả vùng thành nội ngập tràn nước trắng xoá. Bơi đến trước sân, tôi cố vượt dòng tiến vào sát cửa. Cửa đóng, lại cài then phía trong. "Bim ơi! Bim ơi!". Tôi cố gào át tiếng mưa. Tiếng Bim khóc nức nở gọi mẹ trong nhà vọng ra. Cố sức day cửa không được, tôi đành gắng trèo lên mái nhà dở ngói, lần xuống. Bim ngồi co trên bàn, thấy người leo vào nhà thì hét toáng lên, sau đó nhận ra tôi. "Anh Tuấn! Em tưởng kẻ cắp sợ quá. Mẹ bảo đóng cửa, ai gọi cũng đừng mở". Tôi lội đến gần Bim: "Đồ ngu. Khi mẹ dặn thì trời chưa lụt". "Mẹ về ngoại từ sớm chưa về, có sao không anh ơi". "Mẹ không quay lại vào giờ này được đâu. Nước lên nhanh lắm, công an cấm không ai được vào cổng thành". "Sao anh vào được?". "Trèo qua mặt thành. Anh mà không tới kịp, nước lên ngập đầu thì Bim thành bèo".
Mới trao đổi có mấy câu, nhìn lại, nước đã vượt quá lên mấy tấc. "Trèo lên gác thôi em". Bim đứng dậy, nhưng sụm xuống, hai chân tê cóng vì ngâm nước lạnh. Tôi cầm hai tay Bim, kéo vòng qua cổ: "Bám chặt lấy, anh cõng". Tôi trèo từng bậc một lên thang, một tay quàng ra sau giữ cho Bim khỏi rơi xuống nước... Trời sập tối, hai đứa ngồi thu lu trong gác hẹp. Tôi sợ nước lên nữa không còn lối thoát, thò tay lên dở ngói, bẻ một khoảng rui lớn, phòng có nguy thì trèo qua mái nhà. Bim khóc rấm rứt một lúc rồi thiếp đi. Hơi thở Bim nóng như sôi phập phồng qua má tôi. Bim sốt rồi. Tôi hốt hoảng. Trời tối thui, chỉ nghe tiếng mưa ào ào trên mái, sát bên tai. May sao trên gác có tấm chăn cũ. Tôi lần lần cởi chiếc áo ướt cho Bim lấy chăn quàng lại. Cả đêm tôi ngồi ôm cô bé như ôm món quà gói kỹ trong chăn. Cầu cho trời mau sáng, lại cầu cho đêm cứ dài mãi ra vô tận. Sờ thấy áo khô, lại mặc vào cho Bim, trời tối, tôi chẳng nhìn thấy gì, cũng chẳng dám chạm mạnh, vậy mà người cứ run run. Bim thì cứ mê sảng, hết gọi mẹ lại đến sợ chuột.
Mãi đến trưa mai, nước mới xuống. Cô Hạnh thuê đò chống vào đến ngõ, thấy nước ngập tràn đến mái nhà, cô khóc váng lên: "Con ơi là con" . Thấy tôi thò đầu ra khỏi lỗ ngói, cô trợn tròn mắt như quỷ thần. Tôi bơi ra, kéo đò vào, chỉ cho cô Bim nằm mê man. Cô lại khóc rống lên, lần này vì mừng. "Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Măng ơi! Tao cho mày con Bim". Hai ngày sau, Bim tỉnh lại. Cô Hạnh đút cháo. Nằm trên giường, Bim bảo: "Anh Tuấn phá mái, bẻ rui nhà em, em bắt đền". Lại bắt đền! Tôi cởi trần, hì hục dọn hàng tấn bùn non ngập đầy sân. Từ đó, năm nào cũng vậy, trời mới mưa to tôi đã trực ở nhà cô Hạnh rồi. Số Bim là số sướng, mười bảy tuổi rồi mà chưa động tay dọn lũ lấy một lần.
***
Mẹ tôi bảo: "Sao mà ai cũng thích đẻ con trai. Ăn cơm nhà, vác ngà voi thì nó là số một. Lo kiếm việc làm ăn đi con ạ, cả ngày hết đàn hát lại xách xe đi chùi bóng mặt đường, con gái nó không ưa đâu". Nhìn tôi trong bộ đồng phục công nhân màu xanh, Bim lo lắng: "Rồi ai chở em đi học?". Tôi dỗ dành: "Chịu khó đi xe đạp, hôm nào về sớm anh chở đi buổi chiều đỡ nắng". Ngày đầu đi làm, nhìn ra cả vùng đồng nước Vân Cù mênh mông, thấy cột điện chữ A mọc lên giữa những giường ruộng ngang dọc, tôi ngớ ngẩn hỏi: "Người ta dùng máy gì mà đưa mấy cái cột nặng thế này ra đến đó?". Anh Hạp, tổ trưởng của tôi cười: "Cái xác mày khênh ra, chứ máy gì mà thi công được ở đây?". Tôi nhìn, phát hoảng. Lần đầu tiên được giao khiêng bộ chân tó để dựng cột, tối về tôi ngủ mơ, nói sảng: "Mẹ ơi, núi đổ, lôi con ra, lôi ra". Mẹ lay mãi, tôi mới tỉnh, mồ hôi ướt dầm mình.
Dần dần, tôi mạnh lên, cơ bắp nổi đầy tay, lên rừng xuống biển cũng không còn sợ nữa. Đi đâu thì đi, chiều đến về nhà, việc đầu tiên là tắm gội cạo rửa tinh tươm, đến trường đón Bim về. Có hôm thấy Bim chờ một mình vắng ngắt: "Bạn em đâu cả?". "Tụi nó rủ nhau đi ăn chè". "Lần sau em cứ đi với bạn, nhắn lại với bà hàng nước cho anh biết chỗ đến tìm là được". Bim cười, ngúc ngắc hai đuôi sam: "Ai lại thế, anh đi làm mệt cả ngày, về mà không thấy Bim, anh có buồn không?". Lòng tôi như chao đi, lần đầu tiên thấy trên khuôn mặt Bim nét dịu dàng thiếu nữ. Bim của tôi lớn rồi và biết nghĩ, không còn ngốc nghếch ham chơi như tôi tưởng. Bất giác, tôi ôm Bim vào lòng. Bim cười nhắm mắt, rúc vào ngực tôi hít một cái thật dài rồi chuồi người, đẩy tôi ra. "Sao thế?". "Người ta cười". "Đồ sợ chết".
Một buổi sáng chủ nhật bên suối Trà Am, lần đầu tiên Bim cho tôi ôm trong tay... Bim cười, ghé cái tai nhỏ hồng sát ngực tôi, lắng nghe tim đập. "Nhè nhẹ thôi, anh siết mạnh em đau cả người" . "Bim ơi!". "Gì anh?". Tôi bồi hồi nhớ lại cái đêm trời lụt. "Cho anh cõng Bim đi xem suối". Chân tôi đi qua những mỏm đá trơn. "Em sợ anh cõng em nặng, té gãy cổ cả hai đứa". Tôi giữ chặt Bim sau lưng. "Đừng lo. Hai bộ xà sứ vừa nặng vừa cứng anh còn cõng qua suối Nam Đông, bây giờ cõng Bim nhẹ và mềm như con gấu bông, anh đi lên thấu trời". Bim cười, tiếng cười như suối. Tôi đặt Bim ngồi trên cành cây ươi đổ ngang, giữa những cánh hoa nhung đỏ hé mở. "Anh Tuấn ơi! Con muỗi!". Tôi định đập, Bim bỗng xua cho nó bay đi. "Tội nghiệp, tha cho nó anh ạ!". Bắp tay Bim sưng lên một đốm hồng. Tôi gãi cho Bim, Bim nũng nịu: "Tuấn không có móng tay, gãi bằng cục chai trong lòng bàn tay ấy...".
Cô Hạnh than thở với tôi: "Em nó ăn nhiều mà sao vẫn xanh. Hay là có giun?". Tôi chạy mua thuốc xổ. Lại mua cho Bim một đôi giày vải. Sáng sớm tôi đến, gõ cửa, dựng Bim dậy. Bim mắt nhắm mắt mở, chạy thể dục với tôi từ Tây Linh ra đến Tây Lộc rồi lại theo đường vòng quay về. Bữa đầu, Bim khóc mếu: "Tuấn độc tài". Dần dần quen, sáng nào tôi không ra, Bim giận lẫy. Tôi hỏi Bim: "Có muốn học bơi không, sáng ra bến Me bơi mát lắm, anh tập cho". Bim lắc đầu quầy quậy: "Mắc cỡ lắm". Tôi chợt nhớ, chân Bim có sẹo. Chẳng hiểu sẹo ra sao? Nếu giờ mà lại có một đêm lụt như đêm nào, tôi sẽ đếm lại những cái sẹo trên người Bim, tôi sẽ đền cho Bim bằng cả đời tôi...
Cái tin Bim đi thi người đẹp làm tôi ngạc nhiên. Cô Hạnh hớn hở: "Chương trình có phần thi mặc áo tắm, nhưng toàn thể phụ huynh đều phản đối, dọa nếu thi áo tắm thì đem con về. Thế là Ban tổ chức phải chịu". Tôi cười: "Chắc cô Hạnh là người phản đối mạnh nhất". "Nghe nói giải thưởng mười triệu cháu ạ". Nghe giọng cô hí hửng như trẻ con, tôi cười thầm. Hy vọng Bim của tôi trúng giải quá mong manh, nhưng thôi cứ để cho cô tha hồ bay bổng. Những ngày sau đó tôi quay như cái vụ. Nào chở Bim ra tiệm Mỹ Trang thuê áo soiree. Nào chở Bim đi may áo dài. Tối lại ra nhà Bim đàn cho Bim tập đi. Rồi lại phải chọn áo. Tôi ngắm lui ngắm tới Bim của tôi trong hơn hai chục cái váy. Cuối cùng chọn được một cái soiree màu lam óng ánh, vải dịu và mềm. Bim giãy nảy: "Cái này cũ rồi". "Nhìn ban ngày cũ thế, nhưng dưới ánh đèn nó sẽ đẹp rực lên. Còn những cái kia trông huy hoàng nhưng lên sân khấu sẽ cải lương hết sức, rồi em xem". Nói mà Bim không nghe, tôi lại giở thói "độc tài". "Còn thi ứng xử nữa, em nói kém lắm làm sao thi đây". Tôi kiếm một cuốn sổ nhỏ, lần giở sách báo, tìm những câu châm ngôn sắc sảo ghi vào. Câu nào cũng ngọt ngào bay bổng, toàn những lời có cánh về tình yêu, tình bạn, sắc đẹp...
Đêm thi đã đến, cô Hạnh lo lắng nhịn cả bữa ăn chiều. Tôi cũng đã xin nghỉ phép hai hôm. Giờ đây, trong tiếng nhạc đánh chậm bài La Paloma, Bim đang xuất hiện dưới ánh đèn sân khấu. "Vũ Tuý Diễm, nữ sinh lớp 10 trường...". Tôi dụi mắt. Có phải là Bim của tôi đây không? Tôi bỗng nhớ đến những trái táo trên sạp hàng trái cây của mẹ tôi, vốn tầm thường khiêm tốn, chỉ cần lấy khăn lau một lượt, phun nước lên, bỗng bóng loáng, chín ửng, ai nhìn cũng muốn cắn. "Vũ Tuý Diễm năm nay mười bảy tuổi, sở thích đọc truyện, ca hát, nấu ăn...". Hừ, Bim có nấu ăn bao giờ đâu, thoáng nghĩ thế nhưng chẳng nghĩ được lâu vì tôi còn bận dán mắt vào cô gái trên sân khấu, cô gái vốn là Bim của tôi.
Một chút ngập ngừng làm tăng vẻ quyến rũ thơ ngây trong dáng đi uyển chuyển. Chiếc soiree màu lam bạc ôm khít lấy tấm thân mảnh mai nẩy nở, lớp váy trong rất ngắn cho thấy đôi chân dài thẳng băng, trắng muốt. Lớp váy ngoài xẻ bốn đường rất cao, ôm rất khéo, làm dáng người đài các, thướt tha. Bim đang cười... đôi môi tô son màu hồng, sống mũi cao mềm mại thanh tú, đường nét nào cũng sắc sảo, rực rỡ hơn hẳn thường ngày. Chỉ có đôi mắt là vẫn mở to, ngơ ngơ dưới cặp lông mày cong như trăng hạ huyền. Bên cạnh tôi, cô Hạnh hể hả: "Đi lùng suốt ba bữa mới mua được đôi tất ngoại mỏng đẹp như vậy đó. Cháu thấy chưa, tôn tạo lên một chút là ăn đứt... ủa Tuấn, làm chi mà sững ra rứa, con Bim chứ ai xa lạ?". Điểm ngoại hình Bim cao nhất tất cả thí sinh. Tiếc rằng Bim chẳng nhớ câu nào trong số những câu tôi đã tủ cho cô bé. Ban Giám khảo hỏi: "Em nghĩ gì về ngày 8 tháng 3?". Bim đứng ngẩn một lúc: "Em nghĩ... 8 tháng 3 là một ngày nhộn nhịp...". Biển người lố nhố làm Bim hốt hoảng.
Sau này, Bim bảo: "Em quớ quá, nhìn xuống mà chẳng thấy Tuấn đâu. Chỉ thấy tay với đầu người, hàng vạn cái". Cô Hạnh cứ tiếc mãi: "Giá nó trả lời được, thì đã là hoa khôi xứ Huế". Bim được danh hiệu Á khôi thứ nhất. Với tôi, thế cũng danh giá quá rồi. Đi đâu người ta cũng trầm trồ thằng Tuấn tốt số, có người yêu đẹp lắm trúng giải nhì kỳ thi Duyên dáng cố đô. "Ngày nhộn nhịp" đã tới. Tôi xin nghỉ, nhưng anh Hạp không cho. "Hôm nay thay gấp đường dây ở đường Huyền Trân Công Chúa. Thương tình mày chưa vợ cho nghỉ buổi chiều thôi" . Tôi lắp bộ xà sứ trên đỉnh cột, vừa vặn ốc vít vừa nhìn ra xa, thấy có mấy gánh hàng hoa đang bán. Có hoa hồng nhung đỏ thắm, hay quá, Bim rất thích hoa hồng ở Huế vì nó nhỏ hơn nhưng nở tự nhiên, chứ những búp hồng từ xa chở đến đẹp thì có đẹp nhưng do bị phun thuốc nên chẳng bao giờ nở.
Làm xong, quần áo còn lấm lem, tôi phóng tới ngồi lựa hoa. Mấy cô giáo mặc áo dài đang trả tiền hoa nhìn tôi mỉm cười: "Cô nào may mắn mới gặp anh này". Tắm xong, mặc bộ đồ bảnh nhất, tôi phóng đến Bim. Trên bàn một lẵng hoa vừa to vừa đẹp, hoa hồng Đà Lạt đỏ tươi xen lẫn hoa thạch thảo lấm tấm trắng. Tôi khựng lại. Cô Hạnh hể hả: "Tuấn này, bây giờ văn minh thật, người ta tặng nguyên cả lẵng hoa, cứ thế mà đặt trên bàn chẳng mất công cắm tỉa gì nữa". Tôi ngồi yên, rầu rầu. Bim từ trong phòng đi ra: "Hoa 8 tháng 3 của em đâu?". Thấy vẻ mặt tôi, như hiểu ý, Bim giải thích: "Không phải của ai đâu. Đó là quà tặng của Hội Phụ nữ, khen tặng thành tích đóng góp...". Tôi tươi lên như cây héo được tưới nước. Chiều đó, dắt Bim đi ăn kem, tôi khoe đã được thao tác trên cột, lắp đặt xà sứ thành thạo. Bim cầm bàn tay tôi, áp những cục chai to vào má: "Tuấn nhớ làm việc cho giỏi, sau này nuôi Bim". "Ừ, ba năm nữa là Tuấn vững rồi, Bim thích gì Tuấn cũng mua". Bim cười, nét mặt giờ đây lại mộc mạc như những trái táo chưa chùi bóng: "Bim chỉ cần ăn cơm có cá, và mỗi tuần được đi ăn kem như thế này". Tôi trêu: "Em bây giờ là á khôi xứ Huế rồi, phải kiêu lên đi chứ". Tháng năm, thành phố cử Bim đi Sài Gòn dự thi hoa hậu. Cô Hạnh khoe: "Kinh phí hạn chế nên ngoài hoa khôi, chỉ có á khôi thứ nhất mới đi được".
Ngày Bim đi, tổ tôi thi công lắp đặt đường dây số 6 ở trạm Nong. Bim dặn lui dặn tới: "Bốn giờ chiều là tàu đi ngang qua ga Hương Thuỷ. Tuấn nhớ chạy qua ga, Bim thò đầu ra cửa sổ, cầm cái khăn màu xanh, chào Tuấn một cái rồi Bim đi". Nghe tiếng còi tàu, tôi ba chân bốn cẳng phóng xe. Tàu đi ngang, lừ lừ một chút phóng nhanh, mất hút. Tôi đứng bần thần ngẩn ngơ trên sân. Lủi thủi về trạm, tôi đọc mấy dòng chữ trên máy nhắn tin của anh Hạp: "Tuấn ơi đừng chờ nữa. Bim đi máy bay rồi". Tối đó đến thăm cô Hạnh, cô liến thoắng: "Có người Mạnh Thường Quân có lòng ủng hộ quê hương, bỏ tiền ra lo đi lại, ăn ở cho thí sinh Huế...". Tôi nhìn cô. Thảo nào, mẹ tôi vẫn gọi cô là Hạnh tồ. Cả hai cô gái đều phải về sớm không dự kỳ thi hoa hậu được vì ai cũng thiếu một phân chiều cao. Cô Hạnh thất vọng. Giờ đây, tôi đã biết ích kỷ. Sau khi Bim nhận giải 5 triệu ở kỳ thi Duyên dáng cố đô, căn nhà nhỏ đã được lát gạch hoa láng bóng. Buổi trưa, Bim vác gối ra nằm, đi ngoài đường nhìn vào thấy cô nàng nằm khoanh trên sàn như con chó Nhật. "Vào trong mà ngủ, không được nằm đây". "Trong kia nóng lắm". "Nóng thì mở quạt. Con gái nằm ngay giữa cửa để phơi cho thiên hạ nhìn à?". Bim ấm ức: "Tuấn độc tài. Sau này chỉ có hành hạ Bim!".
Tổ tôi nhận thi công đường dây Bắc Hải Vân, cả mấy tháng đi liên miên. Cuối tuần mới về chở Bim đi chơi Trà Am. Tôi nói với Bim tôi làm việc khéo nhất trong tổ. Anh Hạp đề nghị tăng lương sớm cho tôi... Bim chỉ bảo: "Thế à?". Hai đứa đi men theo con suối: "Tuấn cõng Bim nhé?". "Thôi, lớn rồi, cõng như con nít ấy, kỳ lắm". Bim ngồi dưới bóng cây ươi, giữa những bông hoa nhung đỏ. Muỗi từ ven suối bay lên, Bim tự đập bép bép liên hồi, không nhờ tôi... Tôi ngửa lòng tay nhìn những cục chai to, ngó vu vơ lên trời...
Rồi tôi gặp người đàn ông ấy, một tối trời trăng. Gã ngồi song song với Bim, nơi chỗ tôi thường ngồi. Thấy tôi vào, Bim chào, ngượng ngùng. Cô Hạnh bảo: "Đây là Tuấn, cháu cưng của cô. Năm nào trời lụt cũng nhờ một tay nó". Gã chào tôi qua loa rồi nhìn lên trần nhà. "Chỗ này chỉ cần bỏ vào chừng năm ngàn đô, lên thêm một tầng kiên cố thì chẳng lo gì lụt". Tôi về nhà, ngồi nhìn ra cửa sổ, châm thuốc hút. Mẹ tôi hỏi: "Măng, con sao vậy?". "Có gì đâu?". "Sao con ngậm ngược điếu thuốc?". Lúc bấy giờ tôi mới nhìn thấy cái đót thuốc đang cháy phừng phừng. Tôi ngước lên nhìn mẹ. Cái nhìn của người vừa bị dao đâm. Mẹ tôi đỏ mắt: "Chuyện con Bim phải không? Lâu nay mẹ nghe đồn...". Bà nổi tam bành: "Đồ tham vàng bỏ ngãi. Cái năm trời lụt to, không có Măng thì còn đâu mà gả đi Tây đi Tàu". Tôi quờ tay ngăn lại: "Thôi mẹ ơi. Chuyện xưa rồi, đừng nhắc".
Tôi biết, Bim của tôi từ nhỏ loanh quanh nơi cái xóm thấp như rún biển, cả đời mới ra khỏi thành phố một lần. Gã phương xa kia với Bim là cả một chân trời. Cũng phải thôi. Ai muốn giam mình trong ao, mà chẳng muốn vươn ra ngoài biển rộng? Mai lại, đang làm việc, tôi nháng một nhát búa vào tay. Ngón cái dập nhỏ máu. Anh Hạp nhìn tôi thẫn thờ: "Công anh xúc tép nuôi cò, cò ăn cho lớn, cò dò cò đi". Thằng Tín cầm lấy cái búa đứng thay vào chỗ tôi, trêu già: "Cò khôn, cò ăn cơm Tây. Ăn chi tôm tép ruộng lầy quê ta...". Tôi trừng mắt: "Chó chết. Câm!". Trở về, tôi sốt cao, vết thương sưng húp. Mẹ tôi lo cơm cháo hơn một tuần. Bim không biết tôi ốm, có lẽ còn lo cho ngày đi...
***
Ba năm sau. Tôi đã lên bậc, tăng lương hai lần. Làm được bao nhiêu tiền nướng hết vào thuốc lá. Tính lầm lì, cả ngày chỉ biết làm. Đi làm về, chưa thay áo, tôi nghe mẹ nói: - Con Bim mới về, có bồng con qua đây thăm. - ... - Lấy chồng Việt kiều, đi Tây về mà không mập, lại còn gầy đi nữa chớ. - ... - Sao Măng im như thóc không nói gì cả vậy? - Thì có gì đâu mà nói. - Tôi ư hử. Mẹ tôi im. Nửa như cụt hứng, nửa lại như mừng thầm. Mừng cho con trai đã quên khuấy chuyện xưa.
Hơn tuần sau, Bim gọi điện cho tôi. - Nghe mẹ nói lụt năm nào anh cũng vào dọn cho mẹ, em cảm ơn anh nhiều lắm! Lâu lắm mới nghe Bim nói - giờ giọng Bim khác xưa, từ tốn, buồn buồn. Cái vẻ buồn làm lòng tôi bỗng chùng xuống. Muôn vàn điều muốn nói mà sao chẳng nói được gì. Lâu quá lầm lì đã thành thói quen, phản xạ nói năng hầu như chẳng có. Mãi mới kiếm được một câu để nói: - Em gắng giúp mẹ sửa cái nhà. Ở có một mình mà năm nào cũng vất vả. Bim ấp úng: - Thương mẹ lắm mà chưa làm sao được anh ạ. Tiền chồng, chồng giữ, tiền vợ, vợ giữ, em mới sang đâu làm được bao nhiêu... Tôi thở dài: - Nghe mẹ anh nói, em gầy hơn trước? - Dạ, em đi làm xa lắm, mỗi ngày đi về phải ngồi trên xe điện ngầm hơn bốn tiếng đồng hồ. Ngồi trên xe chẳng biết làm gì, cứ nhớ nhà, nhớ hồi xưa... Hai tiếng "hồi xưa" nghe sao mà âm vang. Tôi lặng yên, bồi hồi lắng nghe tiếng rung ngân của hai chữ đơn sơ ấy. - Hồi xưa, anh tốt với em nhiều lắm. Khi ra đi, em cứ nghĩ sau này giàu có sẽ đền công anh... Giọng Bim nghẹn như sắp nức nở. Bỗng dưng, nước mắt tôi ràn ra không giữ nổi. - Bim ơi, lớn rồi, sao còn nói ngơ ngơ?
Chiều đó, tôi về lại Trà Am, ngồi một mình dưới gốc cây ươi bên suối. Nước cứ chảy xuôi, chảy mãi. Bim ơi, biết nơi đâu là biển của đời người.
Trần Thùy Mai .
PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Sun May 26, 2019 7:18 pm
.
HẺM MƯỜI BA - Bùi Thanh Xuân
1. Trước khi được trải lớp bê tông mấy năm trước, con hẻm này khá nhếch nhác, mùa mưa ngập từng vũng rất khó đi. Nó là một con hẻm cụt, tám căn nhà san sát nhau. Không tính ngôi biệt thự bên phải của vợ chồng ông cán bộ về hưu và một cửa hàng khá lớn bên trái, sinh hoạt chung trong hẻm chỉ có sáu gia đình.
Có điều khá lạ là sáu gia đình này đều là những người góa vợ hoặc chồng, bọn nhỏ nay đã trưởng thành nên cuộc sống trong hẻm không có nhiều đảo lộn bởi cái nghịch ngợm trẻ con. Sống ôn hòa, thân thiện, có người sống một mình như anh Ba xe ôm và chị Hòa bán chè ở chợ, còn có một bà cụ già sống cùng với một con chó lông nâu, chó và chủ hiền từ như nhau. Bà cụ có hai con gái đi lấy chồng xa, thỉnh thoảng ghé thăm, chu cấp cho bà, chuyện nấu nướng bà tự lo được. Ông Tâm làm bảo vệ cho một cửa hàng ngoài phố, sống chung với con trai kỹ sư xây dựng, làm việc cho một công ty cầu đường, nay đây, mai đó nên chưa có ý định lập gia đình. Ông Hân thợ nề, tuổi khá cao nhưng vẫn thích cái nghề của mình, ai gọi sửa chữa nhà cửa lặt vặt là ông mang đồ nghề đi làm. Vợ chồng cô con gái sống chung khuyên ông nghỉ ngơi hưởng tuổi già, ông nhăn nhó nói tụi bây muốn ba chết sớm hả? Còn một gia đình nữa, căn nhà phía cuối xoay mặt ra đường. Trước đây là một khoảng đất trống dành cho bọn trẻ con đùa nghịch, chủ đất bán lại cho gia đình hai mẹ con người phụ nữ có khuôn mặt khá buồn hơn mười năm trước. Chị Như, bán giải khát đầu hẻm, bên cạnh ngôi biệt thự của ông cán bộ hưu trí. Cậu con trai thỉnh thoảng ra phụ mẹ những khi rảnh rỗi. Khá điển trai, ba mươi tuổi nhưng cậu chưa có gia đình, kiến trúc sư, quản lý thiết kế cho một tập đoàn xây dựng. Chị Như từng là một nhà giáo dạy toán cấp hai, không hiểu vì sao lại bỏ nghề, lưu lạc về sống cuối con hẻm này hơn hai chục năm nay. Không ai biết rằng lúc còn trẻ, chị là một tiểu thư xinh đẹp nhiều chàng trai theo đuổi, con gái của một người có quyền lực trong xã hội, một gia đình chỉ có hai cô con gái. Tám ngôi nhà, chỉ có ông Hân thợ nề là người cũ, biệt thự của ông cán bộ về hưu đầu ngõ mới được xây dựng năm, sáu năm trước ông mua lại ba căn nhà liền kề.
2. Xóm nghèo, tất cả sáu gia đình với mười nhân khẩu trong con hẻm khá rộng nhưng chỉ có một lối ra duy nhất. Con hẻm khá đẹp với những giàn hoa giấy đỏ, hoa chuông màu vàng, những chậu cây cảnh dọc hai bên được chăm sóc bởi tất cả những người sống ở đây, họ như một gia đình, mọi người ý thức làm cho con hẻm sinh động, sạch sẽ hơn. Chi phí trải lớp bê tông do ông chủ ngôi biệt thự phía trước bỏ ra, mặc dù gia đình ông không đi lại trong con hẻm này. Thỉnh thoảng người ta nhìn thấy ông vào hẻm thăm hỏi người này, người nọ nhưng vợ ông thì không bao giờ. Sự giàu nghèo khá tách bạch trong quan hệ hàng xóm giữa sáu ngôi nhà và phía ngoài kia, ngôi biệt thự cùng với chủ cửa hàng thời trang. Người ta cũng thấy lạ không hiểu sao ông cán bộ về hưu có thể rộng lượng tài trợ kinh phí để trải bê tông con hẻm. Có người bảo là cho sạch sẽ và giá trị ngôi biệt thự sang trọng hơn.
Chuyện anh Ba xe ôm và chị Hòa bán chè qua lại với nhau thì ai cũng biết, hai người như trai gái mới lớn nhưng không cần phải hẹn hò nhau đầu đường góc phố, chỉ cần vài bước chân, anh Ba có thể băng qua con hẻm vào nhà chị Hòa không cần phải nhìn trước, ngó sau. Họ đang có ý định về ở chung một nhà nhưng lại không muốn sinh hoạt trong hẻm bị đảo lộn. Vậy là nhà ai nấy ở. Còn chuyện éo le khác nữa là ông Tâm cũng thích chị Hòa nhưng lại chơi thân với anh Ba xe ôm. Chị Hòa biết hai gã đàn ông độc thân mê mình nhưng chị chọn anh Ba vì không phải vướng bận chuyện con cháu, xa gần nhắn nhủ ông Tâm siêng ra uống cà phê quán chị Như, ông trả lời, có mà khùng ngày nào cũng ra ám quán người ta.
Mùa đông năm nay khá lạ, không lạnh lắm nhưng mưa liên miên, mấy ông trong hẻm không đi làm được đành phải ngồi nhà, lại ra quán giải khát chuyện trò. Ông Hân thợ nề rít thuốc, nhìn chị Như mỉm cười, nói nhỏ “Chị may mắn thiệt, sắp có con dâu ngon rồi“. “Anh này, tôi có biết gì đâu“. “Về hỏi con mình thì rõ...” Ông Hân nhìn qua ngôi biệt thự, lấp lửng. Chị Như bận pha cà phê cho khách, không để ý cái liếc mắt của ông hàng xóm. Cậu con trai cũng vừa đi làm về ghé vào quán phụ chị dọn dẹp, mưa gió thế này cậu chẳng muốn cho mẹ phải vất vả nhiều. Bên ngoài, trước cổng ngôi biệt thự, cô con gái của ông cán bộ về hưu cũng vừa đi làm về, kín đáo nhìn qua quán cà phê. Mấy ông bà trong hẻm bàn tán chuyện cậu đang cặp kè với một cô gái, ai đó đã nhìn thấy và kể lại cho bà mẹ cậu nghe, họ chúc mừng vì chị sắp có con dâu tương lai xinh đẹp, chị cười. Điều chị mong ước là con trai mình có một gia đình, một người phụ nữ thay chị bên cạnh con trai mình. Cái tuổi trên năm mươi chị lo lắng rất nhiều về tương lai của con, đứa con chưa bao giờ nhìn thấy mặt cha mình, sự bất hạnh của chị cũng là của con. Thỉnh thoảng chị cũng thúc giục con trai lấy vợ, nhưng chị hiểu sự cô đơn khi người đàn ông duy nhất trong nhà có mái ấm riêng. Như ba mươi năm trước người đàn ông bỏ rơi chị để có mái ấm riêng, chị lại phải sống một mình. Ba mươi năm một mình chị nuôi con khôn lớn, học hành rồi thành đạt rất khó khăn. Có điều không ai thắc mắc chị làm sao có đủ tiền để lo cho con học cái ngành kiến trúc khá tốn kém.
Gần cuối tháng chạp, hơn mười ngày nữa là Tết nguyên đán, chị Như đóng kín cửa sau khi cậu con trai đi làm, không dọn hàng ra bán. Mấy hôm nay bà con trong hẻm thấy nhà chị đỏ đèn rất khuya, họ nghe tiếng nhỏ to giữa hai mẹ con. Người phụ nữ nhu mì, luôn nhỏ nhẹ lại có giọng nói đanh thép với con trai, hình như có cả tiếng thổn thức của chị. Hàng xóm bàng hoàng khi hay tin chị Như bị tai nạn chấn thương não đang cấp cứu tại bệnh viên hôm hai lăm Tết, cậu con trai nói rằng mẹ cậu khó qua khỏi vì quá nặng, mọi người dường như bỏ cả công việc vào thăm chị, có cả ông chủ biệt thự về hưu. Mọi người không ngạc nhiên lắm khi ông trao bì thư khá dày cho cậu con trai để lo cho mẹ, ai cũng biết ông là người tốt, hay quan tâm, giúp đỡ bà con láng giềng khi gặp khó khăn. Họ thay nhau túc trực tại bệnh viện để cậu con trai về nhà nghỉ ngơi, nhưng cậu nhất định không rời hành lang phòng hồi sức cấp cứu, cho đến ngày thứ ba bác sỹ nói rằng mọi chuyện đã an bài. Người đến an ủi cậu là ông cán bộ hưu trí cùng anh Ba xe ôm và chị Hòa bán chè, mọi người buồn bã đưa chị Như ra xe về nhà.
Đám tang không lặng lẽ như mọi người nghĩ, con hẻm cụt không cần phải chặn lối đi, khách đến viếng, thắp nhang cho chị khá đông. Bạn bè, đồng nghiệp của cậu con trai. Khá nhiều người là dân lao động, khách hàng của chị, nhiều người là bạn học cũ, những người trước đây khi còn sống chẳng thấy ghé thăm. Trong số bạn của chị, một vài người nhận ra ông cán bộ về hưu là người quen. Những gia đình trong hẻm cụt và hai nhà phía trước cũng tham gia giúp đỡ trong tang lễ, họ thay nhau tiếp khách và cám ơn. Không bà con thân thuộc, vành khăn tang duy nhất quấn vụng về trên đầu cậu con trai.
3. Một ngày sau lễ cúng bốn chín ngày cho chị Như, ông cán bộ về hưu qua thắp nhang, khi cắm nhang vào bát hương trước di ảnh của chị, cậu con trai nhìn thấy ông thì thầm cầu nguyện điều gì đó rồi xoay qua cậu nói nhỏ “Bác biết con với con gái bác thích nhau. Lúc nào thuận tiện, bác sẽ kể cho con nghe một câu chuyện. Tình cảm của hai con nên dừng lại, hãy coi như anh em ruột thịt để linh hồn mẹ con được siêu thoát“.
Hai ngọn đèn sáp lắc lư như nhảy múa trên bàn thờ. Hai người đàn ông, một già, một trẻ nhìn nhau, người già không muốn dấu câu chuyện nhưng chờ cơ hội, người trẻ lại nôn nóng muốn biết. Hai đôi mắt nhìn nhau, hai đôi mắt giống nhau kỳ lạ, hai đôi mắt đồng huyết.
Tháng giêng 2019 Bùi Thanh Xuân .
NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Fri May 31, 2019 2:06 pm
.
Tình Yêu Không Mầu - Trần Mộng Tú
Laura là cô bạn da trắng cùng trường, vừa là người chung phòng vừa là người yêu của tôi. Cô học năm thứ ba Y Khoa, tôi học cao học về Nhân Chủng Học. Một hôm cô đem về buồng trọ của chúng tôi một con ếch nhỏ, cô nói: – Em cứu nó, nó đang ở trong cái chậu chờ tụi em phanh thây. Tôi cúi nhìn con ếch đen thui, mình nhỏ bằng cái đầu đũa và dài bằng một lóng tay út đang bơi bơi trong cái bịch ni lông trên tay cô, hỏi: – Con này là con ếch đây à? Trong đầu tôi, con ếch ở quê nhà là cái con xanh mướt mầu lá cây ở ao hồ, nhẩy từ lá sen này, sang lá sen kia, hay cái con vàng hườm bắt ở ruộng, có cái bụng tròn như quả chanh, hai cái đùi nổi từng múi thịt, người ta bán hàng xâu ở chợ, đang đợi làm món ếch chiên bơ. Bé choắt thế này thì là nhái chứ ếch nỗi gì? Laura đang lấy cái lọ thủy tinh thả con vật bé tí, đen bóng ấy vào, cô cong môi lên một chút, nói: – Anh chẳng biết gì cả, đây là ếch Phi Châu “African Frog”.
Từ đó trong căn phòng trọ sinh viên chật hẹp ngổn ngang những sách vở, quần áo, máy vi tính, phấn son, thuốc ngừa thai, bao cao su, mì gói, súp hộp, có thêm một kẻ trú ngụ mới: chàng “Hoàng tử Phi Châu”, cái tên tôi đặt cho con ếch của nàng. Laura bây giờ ngoài thời gian ở trường, bận học, bận thi, nàng chú tâm vào con ếch đen thui đó đến quên cả đi chơi với bạn gái, và quên bẵng cả tôi. Nàng quên mất thói quen mỗi khi ra khỏi nhà trước tôi, hôn tôi một cái, vì nàng còn bận cho ếch ăn và nói chuyện đôi câu, dặn dò như nói với người bằng xương bằng thịt: – Ở nhà đừng buồn nhé, tôi học xong sẽ về ngay, nhớ ăn cho mau lớn nhé. Khi về đến nhà cũng vậy, việc đầu tiên là nàng hỏi chàng hoàng tử, nàng cầm cái lọ thủy tinh dơ cao lên ngang mặt, hỏi bằng giọng nũng nịu, như trước đây nàng thường hỏi tôi: – Có nhớ Laura không? Có đói không? Rồi nàng âu yếm hôn hoàng tử qua cái vách thủy tinh của chai, với đôi mắt nàng lim dim, ngực phập phồng làm cho tôi ngứa mắt. Tôi dọa: – Coi chừng em hôn như thế, con ếch biến thành hoàng tử da đen nhẩy ra thì em lại phải chạy thật nhanh đấy. Nàng bỏ cái chai xuống, quắc mắt nhìn tôi: – Tại sao em phải chạy, nếu là ông hoàng bước ra từ cái chai này, em sẽ ôm lấy ngay, dù bắt cứ mầu da gì.
Câu nói của nàng làm tôi nhớ lại, một đêm chúng tôi yêu nhau giữa đống sách vở vứt lung tung trên sàn, ánh trăng từ ngoài cửa sổ hắt vào, chiếu lên da thịt chúng tôi, một màu hoàng kim óng ánh rất ngoạn mục, Laura nói: – Anh thấy không, mẹ thiên nhiên chiều đãi loài người, khi người ta yêu nhau, dưới ánh trăng, đâu còn phân biệt mầu da, chủng tộc nữa. Mầu da nào cũng thành vàng ròng hết. Tôi cười, nói: – Anh chỉ đồng ý với em về da trắng và da vàng thôi. Vì ánh trăng chiếu lên da đen làm sao em nhìn thành màu hoàng kim được. Laura đẩy tôi ra khỏi nàng, ngồi lên cãi. – Như vậy là anh không hiểu gì về tình yêu, tình dục cả. Anh tưởng khi hai người lên đến tột đỉnh cảm giác người ta còn nhìn ra mầu da à? Tôi lúng túng: – Nhưng mầu đen… nó đậm sắc quá… làm sao nhìn ra mầu vàng của ánh trăng được. Laura giận tôi đến cả tuần lễ, cho tôi là người kì thị (và chỉ kì thị da đen thôi, vì tôi yêu mầu da trắng của nàng)
Bây giờ, tôi vừa có ác cảm vừa lo sợ chàng hoàng tử ếch da đen đó, lấy hết tình cảm của nàng đang cho tôi, tôi chỉ mong con ếch đó càng chết sớm càng tốt. Tôi xúi nàng. – Em nên mua một con cá đá thả vào cho nó có bạn, con cá đá lại có mầu sắc, làm đẹp thêm, chứ con ếch này đen thui trông khó chịu quá. – Anh đừng có kì thị mầu da. Đen cũng đẹp theo đen. Tuy nói thế nhưng hôm sau nàng đi học về, mang theo một con cá đá thả vào chai. Con cá đá có cái đuôi như một giải cờ ngũ sắc, uốn lượn rất ngoạn mục. Tôi cười trong bụng, đắc ý vì nàng đã mắc bẫy của tôi. Con cá đá này sẽ ăn hoàng tử ếch của nàng. Quả nhiên chỉ ba hôm sau, trong khi tôi còn đang đánh răng, sửa soạn đến trường, tôi nghe tiếng Laura kêu thất thanh: – Bình, Bình, con cá đá ăn hết mấy ngón chân con ếch rồi. Tôi giả bộ hốt hoảng chạy ra, thấy nàng đang dùng cái môi múc canh, múc con cá đá ra, múc được nó xong, nàng chạy ngay vào buồng tắm, húc cả vào tôi, nàng vứt con cá vào bồn cầu, giật nước. Nàng làm tất cả động tác đó không đầy hai phút, tôi không chặn lại kịp, đành nhìn vị cứu tinh của tôi biến mất trong vòng nước xoáy. Laura vứt con cá xong, ra ngồi trước cái chai khóc. Hoàng tử của nàng hai bàn chân trước mất hết ngón. Con ếch bé quá, chân nó có bao nhiêu ngón khó mà nhìn thấy, vì ngón chân nó bé cả hơn cái đầu tăm, nhưng khi nó bị rỉa cụt hết ngón thì nhìn thấy ngay hai bàn chân bằng phẳng. Hai bàn chân sau, ngón to hơn một chút nên con cá đá chưa rỉa.
Tôi dỗ dành nàng, hứa sẽ mua cho nàng một con ếch khác, to hơn, đẹp hơn, có đầy đủ ngón chân, và có mầu xanh như lá cây. Nàng nhìn tôi với cặp mắt oán hận, như biết rõ tôi chính là kẻ chủ mưu cho vụ giết từ từ con ếch của nàng. Nàng không nói một câu nào. Tối hôm đó nàng đóng chặt cửa buồng ngủ, tôi phải nằm ngủ trên sô pha. Sáng hôm sau, nàng vẫn không thèm nói một câu, thu xếp quần áo, sách vở, mang theo cái chai có hoàng tử của nàng chất lên xe. Tôi lẽo đẽo theo sau, xin lỗi, năn nỉ mãi nàng vẫn không thèm hé miệng nói một câu. Tôi tự ái, nói với theo tiếng máy xe nổ: – Đi luôn nghe. Laura đi luôn thật, nàng không đến trường luôn ba ngày, tôi hỏi cô bạn Betty đồng lớp, thân nhất của nàng, cô ấy cho biết, Laura tạm thời đang ở nhà Betty, Laura nhờ Betty mang bài về hộ vì cô đang phải đi kiếm chỗ ở. Betty nhìn tôi cười cười, nói tiếp: – Quên nàng đi, nàng có bồ mới rồi. Tôi nhún vai, bỏ đi, không hỏi tiếp nữa. Quên thì quên, cóc cần, vừa mới bỏ đi ba ngày đã có bồ mới rồi, để xem bồ mới có ngon không? Tôi nói một mình. Laura đi học lại tuần sau, trông cô tươi tỉnh đẹp hẳn lên, chẳng có vẻ gì là thất tình cả, trong khi tôi, chắc ai nhìn cũng thấy: “thất tình ra mặt”. Cô gặp tôi ở hành lang đi xuống phòng ăn, vẫy tay chào, như chào tất cả những người bạn đi qua mặt cô. Tôi muốn giữ cô lại, nhưng cô đi ngay, chẳng có vẻ gì đã từng là bồ tôi cả.
Buổi chiều tôi chạy ngay sang học khu của cô, mong một cơ hội chót nói lời xin lỗi. Tôi bỗng ngây người ra, khi nhìn thấy cô đang khoác tay rất thân mật với một thanh niên cao lớn, đi ra bãi đậu xe, họ vừa đi vừa hôn nhau. Đó là anh chàng có nước da đen bóng. Tôi chạy theo gần sát hai người, khi anh ta mở cửa xe cho cô, tôi thấy bàn tay anh không có ngón. Chiếc xe rồ đi, để lại một đám khói phà vào mặt tôi. Ôi, muộn mất rồi! Cô đã có cơ hội hôn con ếch Phi Châu đó, không qua lớp thủy tinh của cái chai!
Trần Mộng Tú .
NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Wed Jun 05, 2019 12:18 am
.
Chồng Nam Vợ Bắc - Nguyễn Thị Thanh Dương
Tôi lấy vacation nghỉ ở nhà 3 ngày để dưỡng sức vì bị cảm từ mấy ngày trước. Ba ngày ở nhà tôi tha hồ ngủ muộn dậy trễ và lên net vui chơi với bạn bè. Có nhóm bạn bè cùng lớp thời trung học là thân nhất, chúng tôi gặp nhau hàng ngày, ngoài thông tin liên hệ tới trường cũ bạn xưa nếu có, hầu hết chúng tôi hỏi thăm nhau, kể chuyện mình, chuyện đời và vui đùa qua lại. Thời buổi thông tin điện tử vừa nhanh vừa tiện lợi. Sáng hôm nay chúng tôi có đề tài “Kiếp sau tôi sẽ thay chồng, đổi vợ không?” nhiều bạn hăng hái trả lời sẽ lấy chồng khác, vợ khác để… thay đổi không khí, bạn Nguyễn Trung Trực đã xuất thần làm ngay 2 câu thơ dù cả đời chẳng làm thơ bao giờ: “Một kiếp đã oải lắm rồi, Lấy thêm kiếp nữa đời tôi còn gì?” Và một bạn khác cũng đồng tình: “Một kiếp đã chán thấy bà, Lấy thêm kiếp nữa chắc là tiêu luôn”
Nhưng vài người quyết chí kiếp sau sẽ lấy lại người phối ngẫu hiện tại của mình. Tôi cũng thế, sẽ lấy lại người chồng Nam Kỳ hiền lành đã dám kết duyên cùng tôi cô em Bắc Kỳ chanh chua đanh đá. Ngày xưa anh Bông quen tôi đúng là duyên kỳ ngộ, không tìm nhau mà gặp nhau. Anh hay đến thăm một người bạn ở cùng xóm tôi, lần nào anh cũng gặp tôi đang ngồi ăn bún riêu xì xụp ở đầu con hẻm. Nhờ tật ăn hàng thường xuyên ấy mà anh nhớ mặt tôi và tò mò làm quen. Khi đã quen nhau anh chọc quê tôi: - Xóm này có nhiều con hẻm giống nhau, nhưng nhờ có em ngồi ăn bún riêu nên anh biết chắc mình không lộn. Tôi đã bẽn lẽn và chọc lại anh: - Tại em thích ăn bún riêu cua với rau kinh giới, nên thành ghiền luôn. Hôm nào em nghỉ ăn bún riêu cho anh đi lạc sang ngõ hẻm khác cho biết thân.
Quê anh Bông ở Cần Thơ gạo trắng nước trong, ruộng vườn bát ngát, cây trái xum xuê, anh là công tử miệt vườn của xứ Tây Đô. Mẹ tôi không tán thành cho tôi kết duyên với anh, bà thành kiến với trai miền Nam, chỉ thích ăn nhậu, sinh ra đánh vợ đánh con và nhất là tiêu xài hoang phí, không biết phòng xa cho tương lai, lấy nó thì đời con nghèo mạt rệp, hạnh phúc chẳng dài lâu. Thà tôi lấy người miền Trung, xứ khô cằn sỏi đá nhưng sản xuất ra nhiều nhân tài, chịu thương chịu khó làm ăn và căn cơ tằn tiện… cao tay hơn cả dân miền Bắc thì bà yên chí đời tôi ấm no, hay tôi lấy đồng hương miền Bắc thì tốt nhất vì giống nhau mọi thứ, sẽ thông cảm nhau. Nhưng mẹ tôi đâu biết rằng tôi đã “kết” anh Bông rồi, nghe anh tả vườn trái cây nhà anh tôi đã mê tơi, chỉ mong được về quê anh trèo hái trái cây và ăn cho thỏa thích, những trái mận, trái soài ngọt lịm ngon lành, mà dù có chua thì chấm muối ớt cũng ngon luôn. Còn chuyện tính tình thì tùy từng người, chứ đâu phải trai miền Nam nào cũng hư như mẹ tôi nghĩ. Tôi đã hứa với mẹ: - Mẹ yên tâm, anh ấy là dân Cần Thơ hay bất cứ vùng Nam Kỳ Lục tỉnh nào, hay dân miệt vườn Nam bộ Hốc Môn Bà Điểm 18 thôn vườn trầu đi chăng nữa mà vào tay con, con sẽ huấn luyện thành Bắc Kỳ nhà mình ngay. Cuối cùng mẹ tôi cũng phải đồng ý, bà lo âu dặn dò: - Vậy con phải học làm ruộng, làm vườn mà gánh vác giang sơn nhà chồng. Tôi yêu vườn ruộng nhà anh, tôi yêu anh, dù trước đó những đồng hương Cần Thơ của anh đã lừa đảo tôi hai cú thật đẹp.
Sau năm 1975 có lần mẹ tôi sai tôi đi Cần Thơ thăm một gia đình họ hàng làm ăn ở đó. Khi về tôi có ghé chợ tại bến Ninh Kiều để mua trái cây về Sài Gòn làm qùa. Tôi đã chọn lựa kỹ từng qủa soài, một chục soài 14 qủa, (người miền Nam hào phóng thế đấy, đã gọi là “một chục” đáng lẽ ra là 10 mà thành 14) Bà bán hàng để vào túi giấy ngay trước mắt tôi. Vậy mà bà phù phép sao đó về nhà đếm lại chỉ có 12 qủa mà lại có mấy qủa soài hư. Tôi vừa tức giận vừa… kinh ngạc bái phục bà bán hàng soài sát đất. Hay là bà đã tốt nghiệp nghề ảo thuật trước khi ra chợ bán hàng? Chưa hết, khi ra bến xe đò về Saì Gòn, thấy phòng bán vé đông nghẹt người, tôi biết sức mình không chen lấn nổi với người ta, đành tìm mua vé chợ đen, thì có một anh lơ xe túm áo tôi mời mọc lên xe với gía cả đắt gấp đôi gía chính thức. Tôi đồng ý miễn là khỏi bon chen và được về sớm, anh hướng dẫn tôi lên xe ngồi xong đòi tôi trả tiền để anh còn chạy đi kiếm thêm những khách khác cho mau đủ chuyến. Tôi trả tiền và thong thả ngồi ngắm thiên hạ đang lu bu ngoài bến xe mà thương cho họ, thà chịu hi sinh tốn thêm tiền như tôi cho khỏe tấm thân. Khi hành khách đã đầy và xe bắt đầu chạy thì một anh lơ xe khác đến thu tiền từng người. Tôi mới giật mình biết mình đã bị lừa, anh lơ xe lúc nãy là tên lưu manh lường gạt nào đó, anh lơ xe này mới là thật. Thế là tôi lại phải trả tiền xe gía chợ đen thêm một lần nữa.
Mẹ tôi qúa lo xa, vì vợ chồng tôi sống ở Sài Gòn, tôi không phải làm ruộng làm vườn, nhưng quản lý một anh chồng Nam Kỳ theo… truyền thống Bắc Kỳ nhà mình, theo đúng ý mình cũng vất vả lắm. Mẹ tôi nói linh qúa, anh Bông vừa ăn xài rộng rãi vừa thích nhậu nhẹt lu bù. Mới lấy nhau tôi đã thấy làn ranh Nam Bắc ngay trong nhà mình, trong cách ăn uống, cách suy nghĩ và trong từng lời ăn tiếng nói của hai vợ chồng. Bố mẹ tôi người Bắc, di cư vào Nam lại sống trong khu xóm toàn người Bắc, nên tôi vẫn nguyên vẹn là con gái Bắc cả từ ăn nói đến cách sống ở đời. Bài học vỡ lòng tôi dậy anh là dẫn anh vào bếp chỉ từng món một: - Anh ơi, đây là cái “bát” và cái “thìa”, anh đừng gọi là cái “chén” và cái “muỗng” nữa nhé. Anh nhanh nhẩu: - Biết rồi, còn cái “gía” múc canh kia kêu là cái “môi” chứ gì? Tôi không hài lòng: - Đấy, sao anh lại nói tiếng Nam “kêu là” phải “gọi là” như tiếng Bắc em chứ. Em đã nói rồi, hai vợ chồng sống chung cả đời với nhau dưới một mái nhà thì phải cùng một thứ ngôn ngữ cho đồng điệu mà, đơn giản chỉ vì thế thôi, chứ em không ghét bỏ gì tiếng miền Nam của anh đâu. Nhưng dù sao tiếng miền Bắc cũng… dễ thương hơn, thí dụ chiếc thuyền còn được đưa vào thơ vào nhạc, “thuyền tình” chứ ai nói “ghe tình” bao giờ. “Đi về” mà anh nói “Đi dìa” hay “tấm màn cửa” anh nói “tấm màng cửa” là sai lỗi chính tả đấy. Anh Bông khiêm nhường chịu thua: - Anh đồng ý là anh và em sẽ xài chung, à quên… sẽ dùng chung tiếng Bắc cho hoà hợp như tình yêu của chúng mình đã hòa hợp, cho dù em có thiên vị tiếng Bắc của em rõ ràng.
Ngoài việc dậy tiếng Bắc cho chồng, tôi còn sửa đổi anh bản tính ăn tiêu phong lưu, rộng rãi như đa số những người miền Nam sinh ra ở nơi chốn vốn được đất trời ưu đãi, ruộng vườn tươi tốt, nhiều sông rạch, nhiều cá nhiều tôm, huống chi anh lại là con nhà giàu được cha mẹ cưng chiều từ nhỏ. Dần dần công tử Tây Đô của tôi cũng đã dùng quen nhiều từ miền Bắc và ăn được những món Bắc, tôi khỏi phải làm thực đơn phân loại hai miền Bắc Nam như hồi mới lấy nhau nữa. Cái màn “cai rượu” cho anh mới là khó. Ban đầu tôi ra chỉ thị: - Anh chỉ được phép uống rượu bia khi xã giao thôi nhé. Em không thích đàn ông có mùi rượu đâu. Rồi tôi lườm, tôi nguýt mỗi khi thấy anh uống rượu, nên anh cũng giảm được đôi chút. Để nhắc nhở chồng, tôi dán một tờ giấy với hàng chữ viết to bằng mực đỏ: “Uống rượu vợ bớt yêu”, nhưng anh vẫn chứng nào tật nấy. Tôi tăng cường thêm một khẩu hiệu khác mạnh mẽ hơn: “Uống rượu sẽ mất vợ”. Lần này anh Bông tức tốc hỏi tôi ngay: - Em sẽ bỏ anh hả? - Không bao giờ, em vẫn yêu anh suốt đời. Anh bỏ em thì có, vì nếu anh không nghe em bỏ rượu thì một ngày nào đó anh say xỉn không trúng gío ở ngoài quán hay lề đường chết bất tử thì cũng sơ gan, ung thư gan mà chết sớm, em sẽ ôm trọn gia tài anh để lại và đi lấy chồng khác ráng chịu. Thế là anh Bông bớt rượu và bỏ rượu hẳn. Không biết vì anh sợ mất vợ hay sợ mất gia tài?
Khi gia đình tôi được bảo lãnh sang định cư ở Mỹ, dòng máu Nam kỳ xả láng của anh Bông lại ngóc dậy, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ. Anh đi shopping trong mall mua quần áo, đồ dùng toàn là đồ hiệu đắt tiền, còn đi làm anh cũng lười không muốn mang gỉo đồ ăn theo, sáng sớm anh ghé tiệm mua điểm tâm cà phê trước khi vào hãng, trưa thì anh chạy xe ra ăn ngoài, v.v… Một lần nữa tôi lại phải uốn nắn, sửa đổi cho anh. Tôi ra kế hoạch: - Anh ơi, mình phải sống tiết kiệm để dành tiền mua nhà. Anh cằn nhằn: - Mới xong kế hoạch mua xe bây giờ đến mua nhà… Tôi kế hoạch tiếp: - Còn nữa, xong mua nhà tới để dành tiền cho hai con vào đại học. Anh thảng thốt đến nỗi quên phéng tiếng miền Bắc của vợ, mà xổ nguyên một câu miền Nam quen thuộc: - Trời đất qủy thần thiên địa ơi, hết kế hoạch này tới kế hoạch kia, em giống cộng sản Việt Nam y chang hà, lúc nào cũng chỉ tiêu và kế hoạch làm cho dân tình lầm than. Lấy vợ Bắc Kỳ cứ tưởng mãi mãi là cô em Bắc Kỳ dễ thương, ai dè em lo xa, tằn tiện, bóc lột đời anh không ngừng nghỉ.
Đợi anh nguôi ngoai cơn “sốc” tôi “khiếu nại” anh đã dùng tiếng miền Nam, là đi sai đường hướng thuận hòa của hai vợ chồng, và anh đã phải học thuộc câu thảng thốt bằng tiếng miền Bắc là: “Ối giời cao đất dầy ôi” thay vì “Trời đất qủy thần thiên địa ơi”. Anh hứa lần sau nếu đụng chuyện anh sẽ xử dụng câu này. Đấy, anh chồng Nam kỳ của tôi hiền lành và dễ bảo như thế, kiếp sau tôi không lấy anh thì cũng phí. Chỉ lo là kiếp sau anh Bông… có chịu lấy tôi nữa hay không mà thôi.
***
Buổi trưa tôi lại vào email của nhóm bạn học, lần này đọc được hai hung tin một lúc. Một người bạn bên Việt Nam mới bị đụng xe chết tốt, và một người bạn ở Mỹ thì bị stroke đang nằm hôn mê trong bệnh viện. Chúng tôi nhào nháo hỏi thăm nhau những tin tức liên quan đến hai người bạn đồng môn bất hạnh này và bàn xa tán gần đến cuộc sống vô thường ngắn ngủi, chẳng biết sống chết lúc nào. Người nọ khuyên người kia hãy lo hưởng thụ cuộc đời, của cải vật chất chỉ là bọt bèo, hãy thương yêu vợ, chồng mình thêm nữa. Ai cũng biết thế, nhưng cuộc sống luôn có những điều để người ta phải lo toan, tính toán.
Hôm nọ tôi mới bị cảm mà đã thấy mệt mỏi chán đời. Lúc ấy tiền bạc, món ăn ngon, niềm vui thú nào cũng đều vô nghĩa. Vậy tại sao tôi không hưởng những thứ ấy khi đang khỏe mạnh, yêu đời. Tôi nhớ mãi câu chồng tôi đã thảng thốt kêu lên “Trời đất qủy thần thiên địa ơi” suốt nhiều năm nay, bỗng thấy ân hận và thương anh Bông qúa. Hai con đã học đại học xong rồi, tôi lại đề ra chỉ tiêu chắt chiu để dành tiền mai mốt… cho cháu nội cháu ngoại. Lo toan như tôi thì kéo dài đến cả kiếp sau cũng chưa hết. Hôm nay tôi sẽ thay đổi chính mình, một cuộc thay đổi quy mô và bất ngờ cho chồng tôi ngạc nhiên và sung sướng. Ngay chiều nay tôi sẽ không thèm nấu cơm, chốc anh đi làm về tôi sẽ rủ anh đi nhà hàng, chiêu đãi anh những món ngon và đắt tiền nhất để đánh dấu một cách sống khác, một bước ngoặt trên con đường đời của một đôi vợ chồng hạnh phúc. Anh vừa bước chân vào cửa tôi đã hớn hở xông ra ôm chầm lấy anh, nũng nịu: - Welcome anh đã đi làm “dìa”. Anh Bông ngạc nhiên chất vấn và chỉnh tôi: - Sao em lại nói tiếng miền Nam sai lỗi chính tả thế? Ừ, anh đã đi làm về. Tôi dịu dàng hơn bao giờ: - Hôm nay em thích tiếng miền Nam của anh mà. Em biết là tiếng miền nào cũng có cái dễ thương của nó, ngay cả tiếng miền Trung nặng nề khó nghe, khó hiểu. - Nhưng sao em lại welcome anh? Em lịch sự bất ngờ thế? một ngày anh đi làm về như mọi ngày. Tôi nghiêm chỉnh nói: - Em chờ anh về để thông báo một tin rất vui là bắt đầu từ hôm nay trở đi chúng ta sẽ chi tiêu thoải mái, không phải hà tiện để dành tiền theo bất cứ kế hoạch nào nữa. Nhân dịp em vừa nghe tin hai người bạn gặp nạn, em sợ cuộc đời bất trắc, kiếp người còn phù du nói chi là tiền bạc. Chúng ta hãy vui hưởng cuộc sống ngay khi còn khỏe mạnh anh ạ, nhà cửa, xe cộ trả hết sạch sẽ rồi, tiền bạc trong 401K và trong bank của hai vợ chồng mình khá nhiều vì dành dụm suốt nhiều năm nay. Chúng ta sẽ mua xe đẹp, loại đắt tiền, sẽ sắm quần áo xịn, sẽ đi du lịch đó đây mỗi năm, và chốc nữa đây vợ chồng mình sẽ đi ăn tiệm anh nhé. Mai sau về gìa chúng mình đều có tiền retire, lo gì.
Nói xong tôi nhìn anh với vẻ ban ơn huệ, như một cai tù độ lượng vừa phóng thích cho một tù nhân mang án tù vô hạn định, tưởng anh sẽ mừng vui và hét lên thỏa thích khi được trở về bản chất Nam Kỳ của chính mình vì bao nhiêu năm nay anh đã sống theo cách sống Bắc Kỳ của tôi, theo sự quản lý của tôi. Nhưng tôi kinh ngạc qúa, anh thảng thốt lên một tràng với những từ miền Bắc rất chuẩn: - Ối giời cao đất dầy ôi, em đang tỉnh hay mê? Sao em liều và to gan thế? Sao bỗng dưng em rửng mỡ đòi tiêu xài hoang phí thế? Khi mà trước đây anh tiêu xài hoang phí em đã điên tiết lên cấm cản anh. Em có biết là nước Mỹ đang nợ ngập đầu ngập cổ không? Ngân sách chính phủ Mỹ càng ngày càng eo hẹp, đang phải cắt xén bớt tiền phúc lợi của người gìa, người về hưu không? Người ta còn tiên đoán rằng chẳng bao lâu nữa chính phủ sẽ không có đủ tiền trả cho những người hưu trí nữa đấy. Nên dù chúng ta không phải lo cho con cái nữa, nhưng vẫn phải sống căn cơ, dành dụm tiền để sau này về gìa có mà chi tiêu, ở Mỹ điều kiện khoa học, y tế cao chúng ta sẽ sống lâu, sống thọ lắm. Không ai thương mình bằng chính mình đâu em.
Thì ra suốt mấy chục năm sống bên nhau, bây giờ anh đã lo xa, tính toán hơn cả dân Bắc Kỳ thứ thật là tôi đang đứng trước mặt anh. Mẹ tôi ở dưới suối vàng chắc cũng đang mỉm cười mãn nguyện? Tôi còn đang ngẩn ngơ không ngờ người chồng Nam Kỳ của tôi đã bị tôi Bắc Kỳ hóa nhuần nhuyễn đến thế thì anh ân cần và rất rành rẽ nói: - Em ra nấu cơm đi trong lúc anh tắm rửa thay quần áo. Hôm qua món cà pháo om với bì lợn, với đậu phụ rắc tía tô anh thích lắm, ăn được mấy bát cơm. Hôm nay em làm món cá rán và món nộm rau muống trộn với thịt ba chỉ, tôm, khế, rau răm và vừng em nhé. Việc gì đi ăn nhà hàng cho tốn tiền và làm sao có món Bắc Kỳ ngon như của em cơ chứ.
Nguyễn Thị Thanh Dương .
NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Thu Jun 20, 2019 12:05 am
.
Hữu Duyên Tương Ngộ... - Hồ Thụy Mỹ Hạnh
Nhìn vẻ mặt bơ phờ của Nga tôi thương nó quá, nếu hậu quả của... việc ấy xảy ra thật, thì chính tôi cũng có một phần lỗi đã đẩy cho Nga cái rủi ro mà lẽ ra là của... tôi. Dù rất thương và cảm thông với tâm trạng của Nga, tôi vẫn rất sợ gặp mặt nó vì tôi có cảm giác nó oán tôi lắm qua những lời than thở mà nó bắt tôi phải lắng tai nghe một cách thành khẩn. Nếu cái điều nó (và cả tôi) đang lo sợ đó có thật thì thay vì tìm gã trai kia để ăn vạ, tôi chắc chắn Nga sẽ trút hết lên đầu tôi những gì mà nó không thể phân bày cùng người khác. Xét cho cùng tôi là người chứng kiến sự việc từ đầu đến cuối nên chỉ có tôi mới làm chứng rằng Nga hoàn toàn vô tội. Trong khi Nga đang xanh mặt vì lo lắng, thì tôi chỉ còn biết tỏ sự nhiệt tình quan tâm đến Nga bằng cách bỏ công truy tìm tông tích gã trai kia. Dù chưa biết tôi sẽ dám làm gì gã, nhưng tôi cần phải nắm rõ lý lịch của gã đã, chờ khi Nga cần đến là tôi chìa ra liền, cũng xóa bớt một phần lỗi của tôi trong sự "thiệt hại" của Nga. Tôi sắm một cái kính đen, thêm cái mũ to vành đội sùm sụp để bắt đầu những buổi la cà làm thám tử ở bến xe trong giờ mà tôi đoán là gã sẽ đi học về trên một chuyến xe chiều...
Không khó khăn lắm trong việc tìm hiểu về một ai đó trong cái thị trấn nhỏ bé này. Tôi chỉ cần đầu tư thời gian một buổi chiều chủ nhật là biết tên gã ấy. Đỗ Hào Quang! Mới nghe cái tên đã thấy chói loá rồi (Còn hành vi của gã thì tối om, thật là trái ngược...) Ngoài lúc gặp nhau ở trường, tan học về nhà là tôi trốn biệt sợ gặp Nga, nhưng nó đâu dễ tha cho tôi, nó đến nhà tôi là chuyện không lạ, huống chi giờ đây tôi là người mà nó bắt phải đồng cam cộng khổ với nó. Nga đẩy cửa bước vào, mắt lấm lét nhìn quanh vừa hỏi: -Có ai ở nhà không mày? -Đi vắng hết rôì, có gì không? (Tôi hỏi lại nó) Tôi nhìn Nga chờ đợi điều nó sắp nói. Dù chắc chắn không có ai ngoài tôi nhưng nó vẫn thì thầm: -Tao mới nghe nói nếu... nếu "bị" thì lông mày dựng đứng lên còn cổ thì giựt giựt... Tôi ngờ vực: -Thật vậy sao? Tao hổng nghe vậy bao giờ. Nga gật đầu vừa vén tóc trên trán ra rồi chồm trước mặt tôi: -Mày dòm giùm xem chân mày tao có dựng lên không? Tôi dồn hết thị lực vào đôi chân mày mọc không trật tự mà chưa biết tỉa tót của Nga, chúng không có gì khác lạ. -Bình thường mày à, tao hổng thấy có vẻ gì nó muốn báo tin vui... Nga nhăn mặt: -Đó là tin vui sao? -À xin lỗi! Tao quên, vì nghe người ta hay hỏi nhau là "Có tin vui chưa?" khi muốn nói đến chuyện con cái nên tao lộn... Nga không chờ tôi nói hết câu, nó vạch cổ áo rồi rướn cổ bảo tôi: -Mày dòm cổ tao thử. Tôi lại chăm chăm nhìn vào ngấn cổ thon của Nga, chẳng thấy gì ngoài làn da trắng mịn màng. Tuy nhiên tôi không rời mắt khỏi cổ của Nga vì muốn tỏ ra rất "thành tâm" chia sẻ với bạn. Nga sốt ruột nhắc khi chờ hơi lâu: -Lẹ lên mày, không có gì chứ? Trong khi Nga hỏi thì tôi thấy cổ nó... rung rung, và tất nhiên tôi bật kêu lên: -Có... có thấy rồi mày ơi! Nga giật thót người, đưa tay sờ lên cổ: -Sao? Mày thấy nó giựt hả?
Tôi không muốn nhưng đầu phải gật để trả lời cho câu hỏi của Nga. Lập tức miệng nó mếu xệch như cái thuyền úp ngược, nó nói mà gần khóc: -Tại mày hết, tao đang ở phía ngoài mày đẩy tao vô trong nên tao mới "bị"... như vậy là tao không dám về nhà đâu... tao sẽ nghỉ học bỏ nhà đi luôn... -Bình tĩnh đã, mày có chỗ nào ở mà đòi bỏ nhà đi? Nga thút thít: -Tao tới ở với... mày! Tôi nghĩ nhanh đến việc nếu Nga làm thật như lời nó nói thì trước nhất tôi phải chia bớt phần ăn của tôi cho nó khi nó đến ở với tôi. Cái vụ này tôi hổng... quen! Vì vậy tôi bỗng thông minh hẳn ra khi nghĩ được cách giải quyết: -Mày đi với tao, đến nhà chị Mai con bác của tao nhờ chỉ cho ý kiến, dù sao chỉ cũng có gia đình rồi nên biết hơn tụi mình... Nga do dự: -Tao sợ lắm, lỡ chị Mai mắng tao ngu thì sao.. -Không đâu, có tao làm chứng là mày hổng muốn vậy, tao sẽ nói việc ngoài ý muốn của... tụi mình! Đến đó nếu mày sợ cứ im để tao nói... Chẳng còn cách nào khác là Nga phải riu ríu đi theo tôi.
Chị Mai cứ tủm tỉm cười khi nghe hai đưa tôi tranh nhau phân trần: -Khi lên xe, em đã ngồi ở ghế ngoài phía cửa rồi, tự nhiên con Khanh giành chỗ đẩy em vào ghế trong... -Tao giành thì mày đừng nhường chỗ. Chỉ tại cái số của mày nên mới... -Khi thằng cha đó bước lên thì xe đã đầy khách, thấy chỗ cạnh em còn trống chả liền tới ngồi... sát em, không còn chỗ nào tránh nên em vội lấy cuốn truyện chắn vào giữa em với thằng chả... Tôi nhanh nhẩu cướp lời Nga nói tiếp: -Xe chạy được một hồi, gã đó có "ý đồ đen tối" nên bèn làm bộ mượn cuốn truyện của Nga đang chắn giữa... chỗ... Chị Mai nghiêm mặt lại: -Thôi vậy là chết rồi... nó rút cuốn truyện đi phải không? Cả hai đứa tôi giật mình,cùng hỏi lại : -Sao hả chị? -Và bây giờ tụi em đang sợ "hậu quả" của việc ấy? Tôi ngập ngừng: -... Dạ! Vừa nảy em cũng thấy cổ Nga rung rung, người ta nói như vậy là đã... -Có ai đã nói với tụi em rằng ngồi gần con trai là... có bầu phải không? (Chị hỏi xong phá lên cười) Nga cúi mặt nhìn xuống đất có lẽ muốn giấu đôi mắt đỏ hoe, lí nhí đáp: -Bà cố em đã dạy rằng không được nhìn những cảnh tầm bậy con mắt sẽ bị ... mọc mụt lẹo. Không được ngồi gần con trai sẽ bị... bị... -Chị hiểu rồi. Người già thường tránh nói rõ ràng những chuyện mà họ nghĩ trẻ con chưa cần hiểu rõ nên cứ nói đơn giản để "ngăn ngừa" vậy thôi, thật ra trong một chừng mực nào đó tụi em cũng nên biết những gì cần tránh và những gì không đáng sợ... Chị kéo hai đứa tôi lại gần giảng giải một hổi một hồi về những điều mà chị nói có viết trong những cuốn như là "Tuổi dậy thì cần biết", "Tuổi Cài Trâm". Vẻ mặt Nga từ bí xị chuyển sang hân hoan, hai má từ trắng chuyển sang đỏ.
Còn tôi thì cũng nhẹ cả người vì từ nay Nga sẽ không còn theo tránh móc tôi đã đẩy nó ngồi gần "thằng cha" đó. Tôi cũng hiểu hơn ngụ ý những lời dạy bóng gió của các bà cố, bà nội để "nhập kho" thêm những điều chị Mai nói. Có thế chứ! Từ nay tôi không dại gì nhường chỗ cho bọn con trai vì không dám ngồi gần. Trước khi bọn họ có cơ hội xáp lại gần, tôi sẽ xáp lại gần họ trước mà không còn sợ những điều như bà cố chúng tôi dạy. Nhiều trò chơi vui nhộn ở trường từ bấy lâu nay bọn con gái không dám tham gia như trò chia thành hai phe, một đứa cõng một đứa chạy tông vào nhau, phe nào té hoặc làm... rớt "đồng đội" nhiều hơn thì phe đó thua. Ở trò này con gái tụi tôi dĩ nhiên được con trai cõng, tụi tôi chỉ việc bám chặt cổ "đồng đội" để không bị rớt là được họ cho tham gia chơi. Mới nghĩ đã thấy vui rồi. Bọn con trai! Hãy đợi đấy...
Rời nhà chị Mai, giải tỏa được gánh nặng tâm lý, Nga vui quá nên nói cười luôn miệng. Lợi dụng tình hình có lợi, tôi kể công: -Hôm đó tao nhìn thấy tên đó đeo phù hiệu trường Nam Trung học Trần Hưng Đạo vậy là tao tìm hiểu mới biết được tên tuổi của hắn... Nga có vẻ không quan tâm đến lời kể của tôi: -Giờ thì hắn là ai mặc kệ, lần sau nếu còn gặp lại hắn trong trường hợp đó, tao sẽ ngồi ép sát vào hắn để trả thù! Tôi tiếp tục "công việc" của mình: -Nhưng trước khi mày mặc kệ thì tao đã phải dầm mưa dãi nắng để theo dõi hắn.. -Mấy hôm nay trời dịu mát, có mưa hay nắng gì đâu mà dầm. -Là tao muốn ví von sự vất vả mà tao đã vì mày. Đáng nói là trong lúc như thế tao phải ăn uống để có sức nên... nên tao hết cả tiền để dành! Nga gật gật đầu có vẻ xởi lởi: -Tao hứa khi nào có tiền tao sẽ bù lại cho mày bằng một chầu gấp mấy lần mày đã tốn. Tôi chỉ chờ có thế: -Thật nhé! Vậy mày định khi nào? -Khi tao học xong và đi làm kiếm tiền... -Trời! Bây giờ tụi mình mới mười lăm tuổi, đợi đến lúc đi làm được thì mày quên tuốt lời hứa rồi. -Nếu tao quên thì mày nhắc là được chứ gì.
Tôi bắt Nga ngoéo ngón tay trỏ vào ngón tay tôi để cam kết. Lời hứa đó phải qua nhiều năm sau khi Nga trở thành cô giáo của một trường tư thục mới được thực hiện. Khi Nga lãnh tháng lương đầu tiên là tôi lập tức nhắc lại "kỷ niệm xưa". Làm sao tôi có thể đợi cái ngày ấy lâu hơn được cơ chứ. Nga luôn hiểu ý và chìu tôi, khi hai đứa vào tiệm ăn, Nga nói một câu mà tôi rất thích nghe: -Mày cứ chọn món nào mày thích, tao không ăn được thì mày ăn, không sao đâu... Được khuyến khích, nên tôi không khách sáo, hơn nữa đàng nào cũng mang tiếng Nga khao, phải ăn cho đáng. Tôi đang thả hồn vào mùi thơm hấp dẫn của các món ăn và đang ngấu nghiến ngon lành thì nghe Nga nói: -Chết rồi! Tao quên cầm theo tiền... trong xách không thấy có Khanh ơi! Tôi bàng hoàng trước một thông báo không gì tệ hơn: -Mày xem lại kỹ kỹ một chút... Nga lắc đầu: -Kỹ rồi, tại lúc đi mày hối tao quá nên tao quên, bây giờ mày ngồi đây chờ tao về nhà lấy tiền rồi quay lại trả.. Tôi chồm sang chụp lấy tay Nga vì sợ nó đứng lên đi bỏ tôi lại: -Không được! Lỡ mày đi lâu họ biết tao ngồi làm tin thì mắc cở lắm. -Vậy tao chỉ chỗ cho mày về nhà tao lấy... còn tao thì ở đây chờ. Tôi bối rối: -Cũng không được, nhà mày còn có bao nhiêu là người, tao làm sao dám tự do vô phòng mày lục lọi. -Vậy tao biết làm sao đây? Tôi muốn khóc, không nuốt nổi miếng đang ngậm trong miệng: -Kiểu này còn hơn là mày vừa cho tao ăn vừa muốn móc họng tao ra, biết vậy thì tao... cầm tiền trước! Nga vỗ về tôi: -Nói nhỏ thôi, bàn sau lưng mày có người kìa, mày để tao nghĩ cách. Tôi gợi ý: -Trong ví mày có mang theo căn cước thì đem tới quầy nói rõ lý do xin để lại làm tin, nếu họ cho thiếu thì về lấy tiền chuộc lại sau? -Có thể phải làm vậy (Nga thở dài cái thượt) nhưng tao cũng ngại quá...
Hai đứa ngồi như bị dính vào ghế một lúc lâu, cuối cùng Nga cũng phải quyết định vào nói thật việc quên không mang theo tiền để chủ tiệm thông cảm. Tôi đẩy Nga đi trước còn tôi thì đi nép sau lưng nó "yểm trợ" trong... im lặng. Chúng tôi chưa kịp mở lời thì chị chủ cười tươi như hoa nói ngay: -Có người đã thanh toán bill của hai cô rồi. Chưa kịp ngạc nhiên thì chị đưa cho Nga mảnh giấy gấp tư: -... Người đó còn gởi cho hai cô giấy này... Tôi chồm giật mảnh giấy trên tay Nga và hấp tấp mở ra: -Hả!!! Đập vào mắt tôi là cái tên mà tôi nhớ như nhớ... "lời hứa năm xưa"của Nga, cả hai châu đầu vào nhau đọc: "Gởi hai cô bạn ngồi bàn trước. Vô tình tôi nghe nên biết hai cô đang gặp chuyện ngoài ý muốn, tôi giúp hai cô giải quyết việc đó. Xin lỗi vì không hỏi ý trước. Hai cô có thể hoàn lại cho tôi số tiền này sau khi về nhà. (Tôi còn 2 ngày ở đây trước khi trở về đơn vị). Đỗ Hào Quang - 20/5 Nguyễn Công Trứ."
Cám ơn chị chủ, hai đứa bước ra khỏi tiệm ăn mà tâm trạng cứ ngỡ ngàng. Đọc thấy tên anh ta là mắt tôi đổ hào quang, nghĩ đến cuộc tái ngộ đầy... "huyền bí "này làm tôi không hiểu nổi. Tôi .. thều thào: -Trong mười bảy triệu dân, tao cá với mày không ai có cái tên đặc biệt như thế nên tao chắc chắn là gã đó... -Ai? -Gã con trai hồi xưa ngồi cạnh mày trên xe bus, cũng nhờ gã mà tao mới có bữa ăn mày khao hôm nay. Đúng là hữu duyên thiên lý năng tương tự! -... năng tương ngộ chứ! Tôi nộ Nga vì nó dám sửa sai tôi: -Thì tương ngộ hay tương tự gì chả là tương! Hồi đó mày nói nếu gặp lại gã đó, mày sẽ ngồi ép sát vào gã để trả thù, thì bây giờ có cơ hội rồi đó, nhớ mà thực hiện cho... thỏa lòng mong ước đi nhé... hihihi...
0O0
... Vì muốn có "điều kiện" để "trả thù" dài lâu nên sau khi hội ngộ một thời gian, Cung Thị Hằng Nga đã chấp nhận đồng ca với Đỗ Hào Quang "... cuối năm trời lạnh gió đông, mười lăm hôm nghỉ phép là ta in thiệp hồng.". Mối lương duyên của họ có được là nhờ... tôi! Thật đấy, cứ nhớ lại từ đầu mà xem...
Đó là chuyện ngày xửa ngày xưa, còn chuyện ngày nảy ngày nay thì Nga đã lên chức bà ngoại của mấy cô cháu xinh như búp bê và "bà ngoại" đang ra sức sao y bản chính những gì được dạy khi xưa mà truyền đạt lại để... hù dọa các cháu gái của mình. Chỉ có điều tôi không biết trong thời hiện đại này với vô số thông tin "trung thực", các cô bé có để những điều bà ngoại Nga dạy lọt vào tai và dễ dàng tin như chúng tôi đã nằm lòng lời dạy của bà cố hồi xưa.
(Đơn Dương 17.1. 2012) Hồ Thụy Mỹ Hạnh .
NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Fri Jun 28, 2019 8:16 am
.
Thảm trạng gia đình tại Mỹ
Sau 30-4-1975, như tất cả các Sĩ Quan QLVNCH còn ở lại miền Nam, bản thân tôi đã phải chịu hơn 6 năm tù cải tạo. Trước khi có dịp định cư tại Hoa Kỳ, tôi đã nghe nhiều chuyện "dở khóc, dở cười" tại cái quê hương hợp chủng này, nên tôi luôn cẩn thận, chuẩn bị tinh thần để sẵn sàng đối diện với thực tế.
Đặt chân đến Mỹ vừa tròn 3 tháng, thì gia đình tôi đã phải ứng phó với sự "kỳ thị" của "cô con dâu"! Từ quê hương đau khổ, nghèo nàn, được sang một đất nước giàu mạnh, văn minh tột đỉnh, dân chủ thật sự, tự do nhất thế giới... thật là một phúc đức lớn lao! Nhưng niềm vui chưa trọn, thì chuyện buồn lại đến liên miên... Vì con trai tôi sponsor, nên bước đầu gia đình tôi phải về ở chung tại San José. Tôi cũng đã sòng phẳng "trả tiền phòng" hàng tháng coi như "share phòng" hầu tránh phiền muộn về sau. Thế nhưng càng ngày tôi thấy "cô con dâu" càng tỏ ra "kỳ thị" với 3 đứa em chồng và thường sửa sai, gây gổ luôn cả chồng. Bà vợ tôi phải lo đi chợ nấu ăn cho cả nhà nên bận rộn suốt ngày! Thế mà chẳng được ơn mà còn bị oán.
Bạn hữu của cô con dâu thấy chuyện bất bình, đã lén gọi điện thoại lại báo cho chúng tôi. Cô ta nói với bạn, "Phải gắt gao với họ (chúng tôi) để chồng không dám giúp đỡ họ... và đoan chắc rằng họ chẳng bao giờ dám xa rời hoặc bỏ đi, vì lý do duy nhất là họ mới qua Mỹ, chưa có xe. Không tiền thì phải chấp nhận đau thương thôi!" Chịu đựng đau khổ được 3 tháng, vợ chồng tôi bàn nhau tìm đường "di tản"! May mắn làm sao, chỉ vài hôm sau, một người bạn thân từ Dallas gọi sang và rủ chúng tôi qua. Thế là chúng tôi quyết định "move" sang Garland (Dallas) thuộc tiểu bang Texas. Chúng tôi ra đi vì hạnh phúc của con trai tôi, tôi không muốn cái hạnh phúc của con bị sứt mẻ vì sự hiện diện của chúng tôi, và cũng để cho chúng tôi được an thân. Thượng đế cũng thương nên qua Garland tôi tìm được việc làm tại hãng Mervyn. Làm "Machine Operator" được 3 tháng, thì nhận được "giấy" đi khám sức khỏe để vào permanent, nhưng vì vết thương chiến tranh còn để lại "nơi cột sống" nên tôi phải nghỉ việc. Một lần nữa, gia đình tôi phải "move" đi tìm việc làm. Cuộc phiêu lưu vì "đô la" bắt đầu. Chúng tôi di chuyển xuống Houston, một thành phố khá lớn, nằm phía Nam của Texas. Tại thành phố nghèo việc làm này, tôi cũng may mắn tìm được một job: lái xe đưa rước những gia đình H.O mới sang Mỹ đi học Anh ngữ ESL. Nhờ vậy, tôi đã được tiếp xúc với rất nhiều bạn bè thuộc mọi giới trong xã hội để được tìm hiểu, học hỏi thêm kinh nghiệm.
Mỗi người một số phận, mỗi gia đình một hoàn cảnh, tuy nhiên đa số đều giống na ná nhau: khó khăn về ngôn ngữ phong tục tập quán, trong gia đình thì vấn đề con cái đã trở nên nghịch lý. Tôi chỉ biết lấy kinh nghiệm của người đến Mỹ trước, an ủi tất cả anh em để họ có đủ niềm tin và an tâm, hầu vượt qua được bước "khởi đầu nan"! Và tôi đã đi thấy nghe, hoặc chứng kiến, nhiều chuyện "cười ra nước mắt"! Tháng 5/95 tôi có dịp giúp đưa một người bạn là chị H. đến "viện dữởng lão" để thăm "bà cô chồng". Bà cô trong "Viện Dưỡng Lão" là một bà cụ đã 89 tuổi nhưng vẫn còn nét đẹp lão quí phái. Tóc trắng cả mái đầu, mắt vẫn còn long lanh, trong sáng. Bà đọc báo không cần mang kính lão. Bà chỉ có một khuyết tật nhỏ là hơi lãng tai. Khi tiếp xúc với Bà chỉ viết trên giấy để bà đọc, và bà trả lời rất rõ ràng. Lần đầu đi với chị H, và sau khi chị H trở về Cali, chúng tôi vẫn đến thăm bà ta những khi rảnh rỗi và rồi được bà kể là bà lập gia đình năm 19 tuổi, đến năm 24 tuổi thì ông nhà mất, để lại 3 đứa con, mà đứa con gái út chỉ mới lên 2 tuổi! Góa chồng ở lứa tuổi 24, tuy vẫn còn trong độ thanh xuân, nét mỹ miều còn làm bao thanh niên trong Quận theo đuổi, nhưng vì thương con, thương chồng, bà quyết ở vậy nuôi ba đứa con đến ngày khôn lớn. Bà tần tảo mua bán, lập nghiệp từ một ít vốn của ông chồng để lại. Sau đó bà làm chủ 2 tiệm vàng tại quận TB thuộc tỉnh Tây Ninh.
Ngày 30/4/75 miền Nam thất thủ. Thời thế đổi thay. Bà cùng 2 con gái di tản sang Hoa Kỳ. Dù tuổi đời bà đã 69 tuổi. Quyết định bỏ cả ruộng vườn nhà cửa và chỉ mang theo 03 bao cát vàng. Đến cuối năm 1975, bà ta và 2 con được phép định cư tại Texas. Qua năm 76, dù mới định cư chưa được 1 năm nhưng với số vàng sẵn có trong tay, bà quyết định mua một ngôi nhà để cho con gái út (còn gọi là Út Thơm) và chồng cùng các cháu an cư rồi sẽ lập nghiệp, và các cháu được an tâm học hành. Sau 9 năm, hai cháu ngoại đã tốt nghiệp Đại Học. Một là Bác Sĩ, một là Dược Sĩ... Khi thấy cháu ngoại dự trù mở phòng mạch mà không có tiền, bà đã không do dự, mà còn khuyến khích, hỗ trợ bằng cách trao lại cho Út Thơm tất cả tài sản còn lại của Bà để Út Thơm lo cho cậu con bác sĩ có được phòng mạch... Theo bà nghĩ sở dĩ trước đây bà giữ số vàng mang theo là vì sợ con, cháu ỷ lại, tiêu pha hết. Không còn để phòng thân khi hữu sự. Nay, các cháu đã thành tài. Bà không cần lo nữa và an tâm sang luôn tên nhà, giao hết của cải cho Út Thơm.
Một tuần lễ sau đó, Út Thơm cùng chồng và 2 con tổ chức đãi mừng Ngoại 79 tuổi và Út Thơm cùng chồng ngỏ ý đưa Bà đi nghỉ mát vùng xa... đổi gió. Bà ngập ngừng suy nghĩ nhưng vì 2 cháu năn nỉ thêm, nên miễn cưỡng bằng lòng cho gia đình được vui! Sáng thứ bảy, cả nhà dậy sớm lo cho Bà ăn sáng, quần áo và vật dụng thường dùng. Hai cháu ngoại dìu Bà ra xe để lên đường. Ngồi trên xe khoảng 30 phút, xe dừng trước một tòa nhà lớn lao, sang trọng. Tại đây, Bà được Bác Sĩ Mỹ khám bệnh trước khi đi chơi xa. Khám xong, Út Thơm vui vẻ bảo với Bà bác sĩ nói sức khỏe Mẹ rất tốt, ngoại trừ chỉ bị hơi lãng tai thôi! Sau đó Út Thơm dìu Bà lên phòng khách ngồi, mang cho Bà lon trà ướp lạnh, rồi bảo: "Mẹ uống nước chờ con vào trong thanh toán tiền cho Bác Sĩ, xong con trở ra chở Mẹ đi."
Ngồi chờ suốt mấy tiếng đồng hồ, Bà sốt ruột nên đi tìm. Chẳng thấy cô Út ở đâu! Bà bắt đầu lo sợ... thì xuất hiện cô y tá người Mỹ đến nói gì Bà chẵng hiểu và dẫn Bà vào phòng ăn. Đến nơi nhưng Bà không ăn, nhìn quanh toàn là những bà Mỹ già, chẳng có người VN và cũng chẳng có ai quen. Bà gọi tên Út Thơm... nhưng vô vọng! Bà chạy ra ngoài nhưng nhân viên trực không cho Bà đi. Bà la, khóc và nói thật nhiều nhưng chẳng ai hiểu Bà, vì Bà chưa hề biết tiếng Mỹ. Bắt đầu từ đây, Bà phải sống với bao nhiêu cực hình mà đám y tá Mỹ trắng, Mỹ đen rất bạc đãi, đôi khi còn xô đẩy Bà nữa! Khi tôi đến thăm thì Bà đã ở đây được 9 năm, tuổi đã 88 tuổi. Suốt 9 năm dài, Út Thơm, con gái Bà không bao giờ trở lại thăm mẹ. Con cháu Bà, tuy phòng mạch ở downtown cách nơi đây chỉ 20 phút lái xe, cũng chẳng hề thăm viếng!
Gặp chúng tôi Bà vẫn còn sáng suốt. Bà yêu cầu chúng tôi giúp cứu Bà ra khỏi trại Dưỡng Lão này, liên lạc giùm với em trai của Bà, hy vọng sẽ đưa Bà trở về quê hương. Nhưng, than ôi, chúng tôi cũng như em trai Bà tất cả phải bó tay. Vì luật của Hoa Kỳ là ai gởi Bà vào thì chính người đó mới có quyền lãnh ra. Em trai Bà là cậu ruột của Út Thơm, đã có lần đến gặp Út Thơm để yêu cầu cô lãnh Bà ra giao cho gia đình Ông nuôi. Chẳng những bị Út Thơm xua đuổi, ông cụ còn bị gia đình Út Thơm hăm gọi cảnh sát vì chen vào nội bộ gia đình cô! Từ lúc hiểu được hoàn cảnh của Bà, chúng tôi thường dành thì giờ đến thăm Bà. Mang quà bánh biếu, Bà không ăn. Biếu tiền, Bà không nhận. Bà nói Bà tuyệt thực và cầu nguyện ơn trên cho Bà chết sớm. Từ hơn 2 năm rồi, Bác Sĩ ra lịnh bắt Bà ngồi xe lăn, nên đến nay Bà không đi đứng được nữa. Giữa năm 1995, vì tôi bị thất nghiệp nên phải move đi tiểu bang khác. Mãi đến năm 1998, chúng tôi trở về Houston thăm Bà ta... nhưng, tiếc thay Bà đã vĩnh viễn lìa bỏ cái "địa ngục xa lạ" này, ra đi trong cô quạnh. Hết một kiếp người!
Hình ảnh bà cụ bị con cháu bỏ rơi trong viện dưỡng lão làm tôi trăn trở mãi. Mỹ quốc là một siêu cường quốc, có nền văn minh và phát triển cao nhứt thế giới, nơi có đủ thứ luật lệ bảo vệ con người. Một xứ xở tốt đẹp như thế, tại sao đạo lý lại không được quan tâm" Phải chăng đây là nơi suy tàn của đạo lý gia đình Việt Nam"
Công Cha như núi bỏ hoang! Nghĩa Mẹ như nước lụt tràn lối đi!
Nhớ bà cụ đã mất. Thương chính thân thế gia đình mình, tôi không muốn tin điều ấy là có thực. Đành chỉ còn biết cầu mong cho các thế hệ tương lai không còn thảm cảnh này.
Santa Ana ngày 18 tháng 6 năm 2000 * Nam Huỳnh (PHT)
* Tác giả 61 tuổi, cựu sĩ quan, cựu tù nhân cải tạo, sang Mỹ năm 1992, diện HO. Hiện cư ngụ tại Santa Ana, nghề nghiệp: lao động hãng điện tử tại Costa Mesa, CA. .
NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Fri Jul 05, 2019 8:10 am
.
Khung Cửa Gió - Truyện ngắn Trần Hoài Thư
Tiếng chuông nhà thờ rung lên từng hồi từ phía đồi cao. Gió mang lời chuông đến. Giờ này cô đang ngồi trong phòng, đánh đàn dương cầm. Bóng cô lặng lẽ trong màu sắc sậm tối. ánh sáng không đủ soi rõ gương mặt của cô - một gương mặt như Đức Mẹ... Chỉ thấy một bờ suối tóc đen thẫm, xõa lên bờ vai gầy. "Cô Hạ. Cô đánh đàn hay quá. Cô đánh thêm cho em nghe đi, cô." Môi cô nụ cười bao dung: "Em muốn nghe thêm hay sao?" Bàn tay cô lại vuốt trên đầu tôi, trìu mến. "Gió lọt vào phòng nhiều quá. Tiếng đàn loãng trong tiếng gió. Lại có cả tiếng sóng nữa. Em đóng cửa phòng cho cô đi." Tôi bước về phía khung cửa. Cánh tay yếu đuối của thằng bé cô nhi không đủ sức kéo vào khung cửa sổ. Gió biển thổi vào lồng lộng. Tôi nghe tiếng sóng gầm đâu đây. "Gió nhiều quá cô ơi" Nhưng cuối cùng tôi cũng khép lại cánh cửa.
Mười ngón tay của cô Hạ lướt trên phím. Những nốt bắt đầu nhảy. Những âm thanh bắt đầu trổi lên dịu dàng. Và bây giờ tôi có thể nhìn rõ đôi mắt của cô. Rồi cô bắt đầu hát. "Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào..." Có một lúc nào đó, tôi nghe đôi má tôi lạnh. Tôi khóc. Cô đã nhắc về một người mẹ mà tôi và tất cả những đứa bé trong cô nhi viện không được may mắn có được. Nếu có là bà Tiên trong giấc mơ, nhỏ dùm giọt lệ trên thân phận chúng tôi. Nếu có là những lời rặp khuôn từ những người đến thăm chúng tôi cùng những đồ chơi hay lòng bác ái. Nếu có là nỗi buồn tủi thân khi nhìn lên bầu trời đêm đầy sao mà mơ một lời mẹ kể về Tấm Cám... Tôi chùi nước mắt. Rồi tôi bỗng nhiên thấy đôi mắt cô giáo cũng nhòa nhạt. Thì ra thằng Marốc đã nói với tôi tuần trước. Mẹ cô Hạ đã chết rồi. Chết ngoài Bắc lận. Tao nghe mấy chị nói như thế. Tự nhiên tôi bước từ từ đến bên cô. Tôi nhìn lên cô, rồi òa khóc. Không biết tôi khóc cho thân phận cô nhi của tôi hay nỗi mất mát to lớn của cô giáo tôi.
Mười lăm năm sau, thằng học trò của cô Hạ trở lại ngôi trường cũ. Mười lăm năm, có một điều gì đẫm đầy nước mắt đang len vào trong hồn tôi chiều nay. Vâng, tôi đang trở về sau bao ngày lênh đênh lận đận. Dòng đời, xã hội, chiến tranh đã khiến một thằng bé cô nhi trở thành tên phế nhân này. Đây là một buổi chiều, một buổi chiều của trăm ngàn buổi chiều của đời tôi. Đây là biển, là sóng, là mặt trời, là muôn ngàn lời réo gọi từ rặng phi lao, từ những kè đá, những làn gió lồng lộng ngoài khơi. Đây là sức sống. Tôi khuyên anh hãy tìm về một nơi có biển. Hy vọng nó có thể phục hồi sức khỏe của anh. Ông bác sĩ trong quân y viện đã khuyên tôi như thế. Vâng, tôi xin nghe lời bác sĩ. Tôi đã đủ sáng suốt để nói với ông ta như thế. Bây giờ anh được tự do rồi. Vâng, tự do. Tôi cười lớn và vất điếu thuốc xuống nền. Tự do sau khi phải trả ở một nơi nào không biết tên, một cõi sống của thanh niên. Rồi tương lai của tôi, bác sĩ thấy không. Tôi cười mếu vừa bật lửa que diêm cháy từ từ cho đến tắt. Liệu thần kinh của tôi còn được thăng bằng không bác sĩ.
Từ bờ biển, tôi chống gậy lò dò bước vào cổng sau cô nhi viện. Con đường rải đá cuội, xào xạc dưới gót giày. Những bờ hoa vàng, trở nên sậm hơn trong màu chiều sắp dứt. Màu tường vôi mới quét, vàng tươi, phân biệt hẳn với màu đỏ tươi của mái ngói. Ngôi giáo đường năm xưa, ẩn dưới tàn phượng lớn, sum sê. Một đôi vợ chồng mục sư người ngoại quốc vừa bước qua sân. Trên sân viện, rải rác các em bé với quần áo đồng phục. Các em bỡ ngỡ nhìn tôi chống gậy bước qua. Làm sao các em biết thằng bé năm xưa cũng mặc bộ đồng phục như thế, cũng từng sắp hàng như thế, cũng từng chờ người ta bố thí tình thương như thế. Một em bé đang ngồi ủ rũ dưới một hành lang bên cạnh là con chó bọc nhung đen. Em đang nhìn đám trẻ chơi đùa trên sân cát. Tôi bước đến, ngồi bên em. Sóng biển vọng về như một bản đàn buồn bã. Hàng dừa cao ở hai bên đường dẫn về ngôi nhà thờ như cúi đầu cầu nguyện. Và căn phòng của cô Hạ khuất sau giàn hoa giấy đỏ. Tất cả như không hề thay đổi. Tất cả như sống lại trong hồn tôi một chiều sắp tắt.
Và trong giây phút ấy, tiếng dương cầm nổi lên, lướt thướt trong gió. Tôi nhắm mắt. Lại một bản nhạc xưa. Lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào... Mê lực nào như mời gọi tôi chống gậy lê về phía tiếng đàn. Phía trong căn phòng, qua khung cửa sổ, tôi nhìn thấy một người đàn bà, mập mờ trong bóng chiều tàn úa. Tôi kêu lên: "Cô Hạ ơi, cô Hạ ơi. Em trở về thăm cô đây..." Nhưng tôi chỉ thấy một người, một bóng người cũng nên, đang cúi đầu xuống, bất động như một thây ma. Tôi la lên dồn dập: Cô Hạ ơi, cô Hạ ơi... .
NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Sun Jul 07, 2019 8:15 am
. Từ Nam ra Bắc: Con búp bê cho con, cái bóp da cho vợ
TỪ BẮC VÀO NAM - Nguyễn Thị Thanh Dương
Sau ngày 30 tháng Tư cuộc sống của cả miền Nam Việt Nam đã đổi đời, đổi từ sướng sang khổ, đổi từ tự do sang kềm kẹp, đâu đâu cũng là những cuộc sống dè dặt và khó khăn, gia đình chị Bông cũng nằm trong cảnh ấy.
Món tiền của cha mẹ chị dành dụm gởi trong ngân hàng Việt Nam Thương Tín kể như mất toi, món tiền của vợ chồng chị cũng gởi trong Việt Nam Thương Tín thì chị may mắn hơn, tháng 8 năm 1975 chị sinh thằng con thứ hai, chị đã viết đơn ra ủy ban phường xin xác nhận hoàn cảnh vừa mới sinh con nên ngân hàng Việt Nam Thương Tín lúc này do nhà nước quản lý đã cho chị lãnh 10 ngàn đồng. Tiền của mình bỗng bị cướp trắng trợn, phải nằm trong diện khó khăn, ma chay, sinh đẻ hay hoạn nạn gì đó mới được nhà nước cứu xét trả lại 10 ngàn đồng cho dù tổng số tiền gởi là bao nhiêu, và rồi số tiền còn lại chết yểu, chết oan ức không bao giờ trở về với chủ. Vài năm sau khi chị Bông đi thăm chồng tù cải tạo tại trại Z30C rừng lá Hàm Tân Thuận Hải, chị gặp bà vợ ông Nguyễn Văn Mão giám đốc ngân hàng Việt Nam Thương Tín cũng đi thăm chồng, người nổi tiếng đi đến đâu ai cũng biết. Ông giám đốc ngân hàng còn sa cơ thê thảm thế kia thì xá chi món tiền nhỏ nhoi của mình.
Với chế độ mới người ta phải cẩn thận từng lời ăn tiếng nói kẻo bị tù oan. Một thằng bé hàng xóm chị Bông trong lúc chơi đùa với các bạn ngoài đường nó hát nhại câu hát trong bài “Túp lều lý trưởng” là “Từ ngày giải phóng vô đây mình khổ thật nhiều” anh bộ đội đi đường nghe thấy, chẳng biết anh đang đi đâu vậy mà cũng mất thì giờ bắt nó đưa lên uỷ ban phường nhờ giáo dục lại. Bố mẹ nó phải làm giấy cam kết dạy dỗ con để bảo lãnh nó về, cũng may nó tuổi vị thành niên, nếu lớn hơn chắc đi tù cải tạo vì tội phản động, xuyên tạc chế độ. Có hôm chị Bông đi chợ đang mua bó rau muống, bà bán rau người miền Nam thấy hai anh bộ đội xách giỏ đến gần bà đã vồn vã mời chào: – Mời hai đồng chí mua rau muống…. Hai anh đã không mua mà khó chịu gắt gỏng: – Ai đồng chí với bà, ăn nói phải cẩn thận nhé. – Bà đã đi bộ đội đã chiến đấu với chúng tôi ngày nào chưa mà gọi chúng tôi là đồng chí, hả? Hai anh bộ đội mặc quân phục đội nón cối chân đi dép râu làm từ lốp xe chắc là “anh nuôi” lo việc bếp núc cho đơn vị hay cơ quan tập thể nào đó, hình ảnh các bộ đội mặc quân phục đi chợ, hai ống quần xắn lên khỏi mắt cá chân cho gọn thật khôi hài, thật ngứa mắt trông như người đi cày đi cấy nhưng nhìn mãi thành quen mắt không ai còn ngạc nhiên nữa. Các anh đi chợ bằng xe đạp thồ, rau cỏ chất đầy, thời ấy bếp ăn tập thể hay tư nhân thì rau luôn là thức ăn chủ yếu. Bà bán rau xưng hô hai từ “đồng chí” với hai anh bộ đội là bày tỏ sự thân thiết, tưởng lấy lòng họ lại bị họ mắng…Khi hai anh bộ đội đi xa bà bán rau buông câu nói hậm hực: – Bộ tao ham làm đồng chí với mày sao, tao chỉ muốn bán cho mày mấy bó rau thôi, đừng có chảnh nghe con…
Người thắng cuộc miền Bắc vui mừng háo hức tràn vào miền Nam đủ mọi hình thức, làm việc, công tác, thăm thân nhân hay đi cho biết miền Nam, ngắm cảnh miền Nam để ăn mừng cho bao công lao của họ đã hi sinh chiến đấu. Nhưng người dân miền Nam chẳng mấy ai muốn ra thủ đô Hà Nội của bên thắng cuộc cả. Bố chị Bông cũng không có ý định về thăm quê cũ, ông không lạ gì Việt cộng, thời buổi sau 1975 tranh tối tranh sáng, trong miền Nam cũng đã có kẻ thời cơ hại người rồi, bố chị đã bị công an đến nhà “mời” lên ủy ban phường “làm việc”, cả nhà rất lo ngại không biết chuyện gì đã xảy ra và sẽ xảy ra. Từ phường bố chị bị chuyển lên ủy ban huyện và biệt tăm biệt tích hơn 1 tháng mới được tha về. Thì ra có kẻ hàng xóm nào đó đã tố với ủy ban quân quản bố chị là “mật vụ chìm” của “ngụy quân nguỵ quyền” trong khi ông chỉ là cảnh sát viên bình thường trong phủ thủ tướng…
Trong Nam đã thế nói gì đến miền Bắc của phe chiến thắng, những người di cư 1954 nay trở về thăm miền Bắc sẽ bị để ý, bị “nhân dân” khinh miệt trả thù. Bố chị chỉ gởi cầu may một lá thư về quê cũ cho người em họ để hỏi thăm họ hàng quyến thuộc, gọi là “cầu may” vì sau bao nhiêu năm ly tán kể từ 1954 chẳng biết thân nhân còn ở quê không. Thế mà lá thư vẫn có người nhận và người em họ của bố đã trả lời thư. Ban đầu chị Bông không tin, một mực nói: – Làm gì một lá thư không số nhà lại đến tay người nhận được? Có chắc đây là thư của chú Côi không? Bố chị giải thích: – Chú ấy đã kể về những họ hàng nội ngoại, bên nội và bên ngoại các con cùng quê mà, chú Côi còn kể về những kỷ niệm giữa bố và chú ngày xưa thì chính là chú còn ai vào đây nữa. Ở phố thì bố không biết chứ ở quê thì cả làng cả xã ai cũng biết nhau, lá thư gởi tên người nào thì sẽ đến đúng tay người ấy, chẳng cần số nhà ngoài tên làng tên xã. – Nhưng lạ ở chỗ cả một thời gian dài từ 1954 đến giờ mà họ vẫn không rời khỏi làng quê… – Vì tình quê cha đất tổ, vì luật lệ hành chính xã hội ràng buộc nên họ vẫn bám lấy làng quê. Biết đâu vài chục năm sau nữa chúng ta gởi thư về người thân ở làng quê này vẫn không cần số nhà, tên đường.
Sau lá thư của bố thì gia đình chị Bông nhận được những lá thư của các thân nhân khác, chắc chú Côi đã khoe thư của bố chị với mọi người. Thư viết trên trang giấy học trò, có thư chữ viết nắn nót, có thư chữ viết như gà bới nhưng thư nào cũng đầy ắp nhớ thương và không bao giờ thiếu câu mở đầu nghiêm chỉnh trên mỗi lá thư là: ”Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Độc lập tự do hạnh phúc”, xong “thủ tục” với nhà nước rồi nhân dân mới viết riêng tư gì thì viết. Chị Bông đã ngạc nhiên hỏi bố: – Thân nhân của bố viết thư như viết tờ đơn, họ làm việc cho chính quyền nên quen tay chăng? Bố chị chép miệng: – Họ là nông dân thôi, nhưng là ai thì cũng là người của miền Bắc bao nhiêu năm sống với xã hội chủ nghĩa.
Không ngờ chỉ một lá thư bố chị gởi về hỏi thăm những thân nhân nội ngoại ấy mà đã nhận lại những tình cảm qúa đổi thắm thiết, sau những thư từ là những người khách không mời đã lần lượt từ Bắc vào Nam thăm gia đình chị Bông. Năm 1978 gia đình chị đón một khách đầu tiên từ miền Bắc vào. Lúc này xe lửa Thống Nhất Bắc Nam đã thông, gía vé bao cấp còn rẻ. Một hai đứa trẻ con hàng xóm chạy xộc vào nhà chị Bông hí hửng báo tin: – Chị Bông ơi, nhà chị có khách ngoài Bắc kìa. Bà ấy gánh hai bao tải to lắm. Chị Bông cũng vui mừng thông báo ngay với bố: – Bố ơi khách Bắc này chắc giàu lắm, họ gánh hai bao tải qùa vào cho nhà mình. Bà cô ruột của chị Bông đã gồng gánh từ Bắc vào Nam, bà hỏi thăm từ đầu đường đến cuối xóm nên cả khu xóm ai cũng biết nhà chị đang có khách Bắc. Bố chị dặn dò: – Đây là em ruột của bố, chúng ta “giấy rách phải giữ lấy lề” tiếp đãi cô hậu hĩ. Ngày xưa khi bố theo ông nội đi làm ăn xa quê cô Cam đã mấy lần dẫn mẹ các con từ làng quê đi Hà Nội đến Bắc Giang rồi Móng Cái thăm bố.
Thời điểm lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm đều phải mua bằng sổ hạn chế theo từng đầu người không đủ ăn đủ dùng nên bố chị đã cẩn thận dăn dò thế, kể lể ân tình thế để phòng xa vì đã từng có cảnh khách đến nhà người ta không muốn mời ăn ở sợ hao tốn. Miếng ăn cái mặc bỗng lên ngôi, gía trị tình cảm con người bị chà đạp xuống thấp.… Vào đến nhà cô Cam đòi thắp hương cho ông nội chị và mẹ chị, cô nước mắt ngắn dài khóc thương người cha xa cách từ năm 1954 và bà chị dâu hiền lành vắn số. Mấy đứa em háo hức thì thầm với chị Bông: – Chị ơi, cô Cam mua những gì mà nhiều thế? Chị Bông sốt ruột: – Không biết, đợi cô thắp hương xong sẽ mở qùa…
Các em và hai con chị Bông tò mò và nao nức chờ cô Cam cho qùa, không biết là những qùa gì trong hai cái bao tải to tướng bằng vải ấy. Cô mở cái tay nải nhỏ trước, lấy ra mấy quả chuối tiêu chín nẫu đã nhũn mềm và tiếc rẻ: – Chưa kịp ăn thì nó chín cả rồi, trong Nam nắng nóng qúa, mấy qủa chuối này cô mua ăn lúc đi đường, vẫn còn ăn được các cháu ăn đi… Thấy chẳng đứa nào muốn nhận mấy qủa chuối thâm đen cô Cam lại moi trong tay nải ra mấy bịch bỏng, mỗi nắm bỏng to tròn bằng nắm tay, cô Cam hớn hở mời mọc: – Đây là qùa cô mua cho các cháu, bỏng ở làng quê ta trẻ con nào cũng thích, gạo rang thành bỏng trộn với đường mật và gừng thơm ngon lắm. Đứa em gái út của chị Bông thất vọng: – Ở đây cũng có bỏng này, thế còn món gì trong hai cái bao kia hả cô? Thằng Bi 3 tuổi con của chị Bông cũng bắt chước dì nó vòi vĩnh: – Bi muốn cô mở cái bao to kia cho cháu qùa… – Này con, dì út gọi là cô Cam nhưng con phải gọi là bà Cam, từ từ bà Cam sẽ cho con qùa mà. Chị Bông mắng con đừng nóng lòng mà lòng chị vẫn chờ mong hai bao tải kia được mở ngay ra.
Cô Cam trả lời con cháu út nhưng nhìn chị Bông để giải thích: – Cái món này các cháu không ăn được, không phải qùa cháu ạ, đây là tỏi vườn cô thu hoạch, năm nay tỏi ở quê ta được mùa nên mất gía, bán rẻ như cho mà người ta còn chê không muốn mua, nhân thể chuyến đi cô mang vào Nam may ra bán khá hơn, thu đồng vốn nào hay đồng vốn ấy. Tội nghiệp cô Cam đã mang cả gánh tỏi từ Bắc vào Nam. Chị Bông thất vọng thì ít nhưng các em và hai con chị thất vọng thì nhiều, chúng đành nhận mấy nắm bỏng đặc sản của làng quê cô Cam còn hơn không có món gì. Cô Cam bảo chị: – Mai cháu dẫn cô ra chợ bán tỏi nhé, ở đây cô xứ lạ quê người. Chị Bông bùi ngùi thương cô: – Vâng, cô muốn chợ gần chợ xa gì cũng được… Cô Cam đã gánh tỏi ra chợ tìm các bạn hàng và bán sỉ cho họ với gía rẻ bèo nhưng cô bảo cũng đỡ hơn gía ở quê rồi cô buồn rầu kể: – Những mùa bội thu lại là mùa mất tiền cháu ạ, công sức mình như đổ sông đổ biển, có năm thu hoạch khoai tây gía qúa rẻ, vừa bán đổ bán tháo vừa tranh thủ luộc khoai tây ăn trừ cơm ngao ngán đến tận cổ thế mà vẫn ăn không kịp, khoai tây mọc mầm tua tủa… Thấy cô Cam tiêu thụ được gánh tỏi bố chị rất vui, chỉ sợ cô em nghèo khổ phen này mất hết vốn liếng trồng trọt.
Những ngày cô ở chơi mấy chị em chị Bông đã đưa cô đi chơi Sài Gòn, đi sở thú và đến thăm vài nhà họ hàng hay người làng người nước, đến nơi nào cô Cam cũng thích. Cô cảm động nói: – Cám ơn anh và các cháu đã cho em đi tham quan nhiều nơi, xưa nay em chỉ quanh quẩn bên ao làng, bên ruộng nương. Sao mà đường phố Sài Gòn hoành tráng thế cơ chứ. Đời cô Cam là một bể khổ, lấy phải người chồng vũ phu lại phụ bạc, ăn ở với vợ có 3 con rồi bỏ đi lấy vợ bé, cô làm lụng ruộng vườn quần quật mà nuôi con vẫn bữa đói bữa no. Ông chồng bệnh chết, người vợ bé hiền lành nhu nhược chẳng biết nương tựa ai mang 2 con về nhà vợ cả xin ở chung. Hai bà vợ của ông chồng qúa vãng cùng ở chung nhà thuận hòa như hai chị em ruột và nuôi 5 đứa con, nếu không biết thì chẳng ai phân biệt những đứa trẻ ấy là con bà nào vì hai bà đều thương yêu chúng như nhau, hai bà đều cật lực làm việc để nuôi chúng… Ông chồng thật tốt số, lấy hai bà vợ cùng hiền lành phúc hậu, hai bà vợ góa cùng yên phận thờ chồng, ông tha hồ sung sướng yên nghỉ nơi chín suối. Có lẽ giai đoạn cuộc đời cô Cam sống chung với “tình địch” lại bình yên hạnh phúc hơn khi sống với người chồng. Bà vợ bé cũng đoản mệnh như chồng, hiện 5 con vẫn sống với một bà mẹ là cô Cam. Ngày cô trở về Bắc bố chị đã mua vé tàu cho cô và tặng cô món tiền nhỏ, cô đã rưng rưng nước mắt trách anh trai từng xông pha theo cha buôn bán khắp phương Bắc, giỏi giang nhanh nhẹn thế mà cái ngày di cư cha và anh đi thoát sao không dẫn cô theo để đời cô bao nhiêu năm nghèo khổ cho đến bây giờ.…
Sau cô Cam những năm sau đó chị Bông không thể nhớ theo thứ tự những ai đã từ Bắc vào Nam thăm gia đình chị, họ hàng gần, họ hàng xa đều được bố chị tiếp đãi thân tình và cho tiền tàu xe lượt về quê, có người chỉ là người làng, họ đi buôn hàng vào Nam cũng “quá cảnh” nhà chị để có chỗ tạm trú ăn ở không mất tiền và ít nhiều cũng có qùa mang về, những bộ ly tách đẹp ngày nào chị Bông đã mua trong các cửa hiệu trong thương xá Tax trưng bày trong tủ chè cũng mang ra tặng cho khách vì họ khen đẹp và khao khát được một bộ tách như thế, cả những tấm khăn lông to đẹp chị vẫn cất để dành trong tù chưa dám dùng đến cũng là món qùa tặng cho khách để làm kỷ niệm. Cuối cùng tủ chè và tủ quần áo của nhà chị rỗng dần chẳng có gì đẹp hay đáng giá nữa. Chị Bông lo xa: – Bố ơi, nếu cứ cái đà này thì… cả làng sẽ vào thăm nhà mình, gạo mua theo sổ thì ít, gạo chợ đen thì đắt đỏ. Bố chị luôn an ủi: – Người ta có qúy mình mới vào thăm, một giọt máu đào hơn ao nước lã… cao lắm mỗi người chỉ vào thăm một lần, đừng để bố mang tiếng cả đời.
Một hôm có chiếc xe xích lô máy đậu xịch ngay trước cửa nhà chị Bông, trên xe bước xuống là một bà Bắc kỳ quần đen ống quần ngắn lấc cấc, chân đi đôi dép nhựa màu trắng, tay xách một cái làn mây. Bà nhớn nhác nhìn số nhà chị rồi lao vào nhà gọi to: – Anh ôi, các cháu ôi… Bố chị chạy ra ngỡ ngàng: – Chào chị, chị đây là ai nhỉ….?? – Em là vợ Côi đây, Côi và anh hay chơi đùa với nhau ngày xưa ấy. Nhà em kể rằng hai anh em họ mà cứ thân thiết hơn cả anh em ruột. Và thím Côi òa khóc như mưa : – Ối anh ôi, ối các cháu ôi…!! Bố chị luống cuống: – A, thím Côi đây hả… nhưng chuyện gì thế thím Côi? Nhà quê có tin gì xấu chăng? … mong thím bình tĩnh kể tôi nghe… Chị Bông cũng ái ngại hỏi thăm: – Hay thím vừa bị kẻ cắp móc túi ở bến xe?? Thím vẫn nước mắt tuôn rơi: – Ôi anh ôi, ôi các cháu ôi. Chẳng có việc gì xảy ra cả, em vào thăm anh và các cháu đây, chỉ vì cảm động quá khi găp nhau em không sao cầm được nước mắt… Thì ra thế. Một bà thím họ xa cách cả không gian và thời gian thậm chí chưa biết mặt các cháu sao mà tình cảm tha thiết đến thế, làm chị Bông cũng cảm động theo. Thím Côi khác hẳn với cô Cam, thím mang cho các cháu nhiều qùa bánh và luôn âu yếm xoa đầu nắm tay các em chị Bông và hai con chị Bông làm như chúng từng quen thuộc với thím, từng ở trong vòng tay của thím. Thím còn móc túi lấy ra những đồng tiền lẻ cho các cháu để muốn mua gì thì mua, trẻ con thích thím Côi ra mặt.
Khách Bắc nào cũng được gia đình chị Bông tiếp đón tương tự, dẫn đi thăm chợ Bến Thành, đi chơi sở thú và đi thăm họ hàng làng nước. Bố của bố chị và bố của chú Côi là hai anh em ruột, thím Côi đã tha thiết nói với bố chị: – Anh cho em xin một tấm hình của ông để em mang về Bắc thờ cúng với ông em, bây giờ đất nước ta hòa bình nhà nhà đoàn tụ, hai anh em ông ấy cũng đoàn tụ trên bàn thờ hương khói anh nhá. Thế là hình ông nội chị Bông được trao cho thím Côi, ông sẽ trở về quê cũ, ngồi trên bàn thờ với ông em ruột sau những thăng trầm bể dâu của thời cuộc, của cuộc đời. Một tuần sau thím Côi bảo chị Bông: – Thím vào Nam thăm gia đình cháu nhân thể muốn mua món đồ điện tử mang về nhà dùng, nghe nói hàng điện tử ở Sài Gòn có nhiều loại xịn lắm… – Vậy thím muốn mua gì cháu sẽ dẫn thím ra đường Huỳnh Thúc Kháng bán đủ thứ hàng điện tử tha hồ cho thím chọn lựa. – Chỉ còn 2 ngày nữa thím về Bắc mà còn bận đi thăm mấy người nhà bên thím ở Khánh Hội và đi mua sắm thêm nhiều món quần áo nên bận rộn lắm. Cháu là người thành phố rành rẽ hơn thím, cháu cứ mua hộ thím 1 cái đài cát sét loại nào hiện đại nhất là được, bao nhiêu tiền không thành vấn đề. Thế thôi, cháu nắm bắt được ý của thím chưa? Cháu quán triệt chưa? – Vâng cháu hiểu rồi… Thím Côi rộng rãi và xài sang qúa, chị Bông ngầm nể nang thím. Như đọc được ý nghĩ của chị Bông, thím Côi khoe: – Cháu ơi, nhà nước ta đang từng bước xóa đói giảm nghèo, chẳng mấy chốc mà ai cũng có điều kiện như thím mua đài nghe tin tức khỏi cần nghe loa từ uỷ ban thông tin văn hoá xã nữa. Loa đọc ra rả rát cả tai. Chị Bông vui vẻ vì được thím tin cậy: – Cháu sẽ mua 1 cái đài cát sét bảo đảm thím sẽ vừa ý.
Thím Côi nói xong không đưa tiền hay nói năng gì thêm, chắc là thím quên, chị Bông không dám nhắc sợ thím buồn thím giận người nhà không tin cậy nhau trong khi thím đến nhà chị đã bộc lộ bao nhiêu là tình cảm, đã xin hình ông nội chị để thờ cúng, đã móc túi cho các em chị, cho con chị tiền mua quà vặt. Chị Bông bàn với bố: – Thím đi cả ngày thăm họ hàng bên thím mà ngày về quê cận kề hay là con cứ bỏ tiền ra mua cái radio cassette rồi về thím trả sau bố nhỉ? Bố chị gật gù: – Phải đấy, chắc thím ấy bận rộn nên quên chưa đưa tiền hoặc là thím chẳng biết gía cả bao nhiêu mà đưa nên đợi con mua hàng về thím mới trả tiền sau… Chị Bông đã đi đến mấy con đường nổi tiếng chuyên bán hàng điện tử để chọn mua 1 máy cassette ưng ý nhất giá tương đương 5 chỉ vàng, mang về nhà chị khoe thím món hàng đẹp nhưng thím chỉ nói cám ơn vẫn không đá động gì đến tiền bạc dù chị đã mấy lần nhấn mạnh cháu phải bán đi mấy chỉ vàng để mua cái máy này.
Ngày mai thím Côi sẽ ra ga Hòa Hưng về Bắc, chị Bông thấp tha thấp thỏm đợi chờ thím trả tiền từng giờ, từng phút, chị đã vờ nhắc nhở: – Thím xem lại hành lý có quên gì không? – Đủ cả cháu ạ… Thím ngọt ngào như đường như mật: – Các cháu có quên thím thì quên chứ thím chẳng bao giờ quên các cháu. – Thế… thế… cái máy cát sét thím lên tàu phải cẩn thận đề phòng kẻ cắp nhé, những 5 chỉ vàng đấy… – Cháu vô tư đi, kẻ cắp nào dám đụng đến thím? Thím từng đi buôn mạn ngược rừng xanh núi đỏ thím còn không sợ nữa là… Cuối cùng chị Bông chịu đựng hết nổi bèn ngượng ngùng nói: – Thím ơi, còn tiền cái máy cát sét của cháu thím chưa đưa….. – Ấy chết thím quên chưa báo cáo với cháu là thím đã mua hàng hết tiền rồi, thím mua một mớ quần áo may sẵn về quê bán kiếm tí lời tí lãi bù lỗ tiền tiêu vặt chuyến đi này cháu ạ. Chị Bông thót cả tim: – Vậy là…?? – Thím cháu mình đi đâu mà mất, về quê thím sẽ gom tiền gởi trả cháu ngay, cháu muốn tính tiền lời thím cũng trả. – Cháu mua bao nhiêu thím trả bấy nhiêu là được rồi. Năm chỉ vàng thời điểm này và trong hoàn cảnh của chị Bông thật lớn lao vậy mà thím đã khơi khơi mượn nợ chị một cách nhẹ nhàng và tài tình qúa.
Những gia đình Bắc kỳ di cư 1954 như gia đình chị Bông đều có khách từ Bắc vào thăm, phần nhiều chủ nhà đều phải tiếp đón và cho qùa tùy theo hoàn cảnh gia đình. Nhà chị Mai bạn thân của chị Bông thì may mắn hơn, bà bác ở Hà Nội mang vào Nam rất nhiều qùa cho em và các cháu, bà mang vải hợp tác xã, bát đũa và cái phích nước Trung Quốc thịnh hành thời đó… Vào đến Sài Gòn bà chị Hà Nội mới ngã ngửa khi thấy căn nhà 3 tầng lầu nguy nga của gia đình em ngay trên con đường lớn gần bệnh viện Từ Dũ. Bà Hà Nội nói với bà Sài Gòn: – Chị nghe tuyên truyền trong miền Nam đói khổ thiếu ăn thiếu mặc nên chị đã mang vải và mua chợ đen mấy ký lương khô cho nhà em bồi dưỡng đây. Ai ngờ... Bà em Sài Gòn thành thật: – Vải hợp tác xã toàn mùi dầu mua về các con em không chịu may mặc em phải bán lại con buôn, còn lương khô thì có ngon lành gì đâu, ăn vào chỉ tổ khát nước. – Ừ, nhưng lương khô tổng hợp nhiều chất bột bổ dưỡng, bộ đội chiến trường nếu mất nguồn liên lạc có lương khô và nước thì vẫn sống và chiến đấu đấy em. Bà chị Hà Nội đi dạo khắp nhà và trầm trồ khen nhà em gái to lớn còn hơn cả cơ quan nhà nước ở Hà Nội. Bà bùi ngùi: - Chị cứ tưởng đời chị là yên ổn sung sướng hơn người, hai vợ chồng đều là cán bộ, chế độ tem phiếu đầy đủ, chính phủ cấp nhà ở ngay Hà Nội dù chật hẹp và chung hộ với gia đình khác nhưng khối kẻ mơ mà không có. Vào miền Nam thấy nhà em chị tủi thân qúa. Ba tầng lầu có 3 cái chuồng xí, còn nhà chị phải dùng chuồng xí tập thể. Để đáp lễ bà chị, mẹ Mai đã tặng chị nhiều hàng hóa gía trị gấp mấy lần món qùa bà đã nhận.
Gia đình chị Bông đã sang Mỹ định cư, không còn ai ở lại Việt Nam dĩ nhiên không kể những thân nhân miền Bắc. Mối liên hệ tình cảm vẫn tiếp tục, những người khách không mời năm xưa vẫn nhận qùa mỗi cuối năm. Bố chị nói đúng, cho tới bây giờ gia đình chị vẫn gởi thư về thân nhân miền bắc chỉ cần ghi tên người nhận và địa chỉ vẫn không có số nhà, vẫn là tên làng tên xã không hề thay đổi. Thật bền bỉ đến kinh ngạc và thán phục khi hơn 3/4 thế kỷ mà người ta vẫn ở yên một chỗ nếu tính những người cùng trang lứa với bố chị sinh từ năm 1927 tại làng quê này.
Sau vụ biến cố September 11, 2001 gia đình chị Bông nhận được lá thư từ miền Bắc của chú Côi, chữ chú vẫn gà bới như xưa, phần đầu thư vẫn trịnh trọng tuyên truyền giùm nhà nước như xưa: “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Độc lập tự do hạnh phúc. Anh kính nhớ và các cháu luyến nhớ, trước tiên em có lời hỏi thăm sức khỏe cả nhà, được tin cả nhà ta bên ấy bình an không bị ảnh hưởng gì trong vụ khủng bố chúng em bên này vui mừng lắm…” Và cuối thư chú Côi đã bày tỏ cảm tưởng: “Nghe đài thấy vụ khủng bố toà nhà cao tầng ở Mỹ vào ngày mồng 11 tháng 9 chúng em cực kỳ kinh hãi. Em xin gởi lời chia buồn đến tất cả nhân dân Mỹ và chúc nhân dân Mỹ kiên cường phấn đấu vượt qua giai đoạn khó khăn này.” Những câu văn này chắc là chú Côi bắt chước những bài viết trên báo, trên đài, sặc mùi nhà nước.
Bây giờ những thân nhân ngoài Bắc của gia đình chị Bông có muốn đến thăm nhà chị cũng không được, ai bán vé xe lửa cho họ từ Bắc… sang nước Mỹ như ngày nào họ mua vé xe lửa từ Bắc vào Nam. Từ Bắc vào Nam năm 1975 những đoàn quân miền Bắc đã vơ vét bao nhiêu “chiến lợi phẩm” nhà cửa, đất đai ruộng vườn, của cải của dân miền Nam bỏ lại hay bị cưỡng chế. Từ Bắc vào Nam những người dân miền Bắc dù bất cứ thành phần nào, thăm thân nhân họ hàng sau bao nhiêu năm xa cách cũng nhặt nhạnh, xin qùa, xin của mang về. Người bên thua cuộc là kẻ cho và người bên thắng cuộc là người nhận. Điều nghịch lý lại là sự thật, thế nên trong thời điểm đó nhân gian miền Nam đã có câu “Người miền Bắc thích “cua bể” * miền Nam.”
Steve đi làm về, vừa thay quần áo xong là Linh kéo tay anh ngồi xuống giường: - Em muốn nói với anh một chuyện nghiêm chỉnh nè. Steve vòng tay qua ôm và hôn vợ, làm Linh dãy nảy lên : - Trời ơi, em đã nói là chuyện nghiêm chỉnh mà. Steve cãi: - Anh hôn em, hôn vợ đâu phải là chuyện đùa. - Thôi được, nghe em hỏi đây: Anh có muốn con mình bị cảm lạnh không? Không chứ gì! Anh có muốn con mình bị sưng phổi không ? Không chứ gì! Anh có muốn con mình bị mất ăn, mất ngủ không? Cũng không chứ gì? Steve kêu lên kinh ngạc: - Em hôm nay làm sao thế? Em hỏi anh một tràng những câu hỏi khủng khiếp rồi em tự ý trả lời, không chừa cho anh có cơ hội nói một chữ nào. - Em biết chắc anh sẽ trả lời? không? nên em trả lời giùm anh luôn cho nhanh. Nghe em hỏi tiếp đây, anh có biết là chị Hai em mới bảo lãnh mẹ em qua Mỹ được vài tháng nay không? Biết chứ gì! Anh có biết là mẹ đang ở với gia đình chị Hai ở California không? Biết chứ gì!... Steve lại kêu trời: - Em nói những chuyện lung tung, chẳng liên quan gì đến nhau cả! - Có liên quan đây. Em định bàn với anh là mời mẹ về ở chung với chúng mình, để mẹ trông thằng Eugene, khỏi phải mỗi buổi sáng bồng bế nó đi Day Care. Tội nghiệp! Steve tròn mắt lên: - Có nghĩa là mẹ em sẽ ở đây dài lâu? Linh hạ giọng, dịu dàng để Steve cảm động: - Mẹ sẽ giúp mình được nhiều việc. Anh thấy rồi đó, con mình mới có 9 tháng tuổi mà nay bị cảm, mai bị ho. Mỗi sáng sớm xách con ra xe đem đi gởi mà em đau lòng quá. Có mẹ ở đây, Eugene sẽ yên ấm ở nhà, sẽ ăn no ngủ kỹ, ngoài ra, mẹ còn trông nom nhà cửa, nấu nướng phụ em được nữa. Steve ngạc nhiên: - Có một bà mẹ già làm được những điều ấy sao? - Em chẳng biết những bà mẹ Mỹ của anh giỏi cỡ nào! Nhưng mẹ em hay các bà mẹ Việt Nam khác đều là thế cả. Steve chép miệng: - Ðiều này rất tốt, nhưng mất sự riêng tư của chúng mình! Linh năn nỉ: - Nhà mình rộng thênh thang, mẹ thương em, em thương mẹ và em tin rằng anh cũng sẽ thương mẹ em luôn. Thấy Steve chần chừ, Linh tấn công thêm, vì cô biết chồng rất thương con: - Nhưng vì con mình là trên hết. Mẹ sẽ là người chăm sóc nó tuyệt vời. Steve trả giá: - Anh tạm đồng ý. Nếu mẹ ở một thời gian, không thích hợp thì thôi nhé? Linh vui thích ôm lấy cổ chồng: - Cám ơn anh, bây giờ anh cứ hôn em đi! Unlimited!
Linh thừa hiểu, người Mỹ thích sự riêng tư, nhất là trong đời sống vợ chồng. Bà mẹ vợ luôn là nhân vật hắc ám, chẳng thằng con rể nào muốn mời tới nhà, nói gì ở chung lâu dài! Hơn nữa, một bà mẹ vợ không đồng chủng, mới từ Việt Nam qua, chưa gặp gỡ, trò chuyện, thì làm sao mà Steve, một người Mỹ Anglo không e ngại? Mẹ và chị Hai đều chấp nhận đề nghị của Linh, con Linh còn nhỏ nên cần sự giúp đỡ của mẹ hơn. Và vì Linh lận đận tình duyên, kén chọn mãi, hơn 30 tuổi mới lấy chồng, nên mẹ cũng thương đứa con lận đận hơn. Linh mua vé máy bay, hôm sau mẹ Linh đã từ California bay đến xứ núi Utah, ngay những ngày đầu mùa Ðông giá lạnh. Hôm bà đến, tuyết rơi trắng xoá, những mái nhà phủ đầy tuyết, và xa xa những dãy núi cũng phủ đầy tuyết trắng làm bà rợn người, chợt tưởng như vừa bị ném vào một cõi hoang vu, xa lạ. May mà có cô con gái ngồi bên cạnh, là điểm tựa duy nhất để bà tin là mình không đi lạc, không bị bỏ rơi. Chứ thằng con rể người Mỹ, và thằng cháu ngoại trông giống bố, mắt xanh, tóc vàng kia coi nhử chẳng liên quan gì đến bà. Về đến nhà, Linh dẫn mẹ đi khắp nhà để chỉ dẫn những điều cần biết về nơi ăn, chốn ở, và những sinh hoạt hàng ngày. Bắt đầu từ ngày mai, thằng Eugene sẽ ở nhà với bà ngoại. Sáng sớm hôm sau, hai vợ chồng Linh mở cửa ra đi làm, giữa trời lạnh, tuyết bay ngoài đường, Linh thấy yên lòng vì con mình vẫn đang nằm ngủ êm ấm trong nhà, hơn thế nữa, trong vòng tay chăm sóc, thương yêu của bà ngoại.
Suốt đêm qua, phần vì lạ nhà, phần vì thấp thỏm cho một công việc mới, nên bà không ngủ ngon cho lắm, chỉ còn hai bà cháu ở nhà, bà nằm ngủ tiếp, cho đến khi Eugene tỉnh giấc và khóc, bà tỉnh dậy, thấy đồng hồ chỉ 9 giờ sáng. Bà thay tã cho nó và đi pha sữa. Nuôi trẻ con ở Mỹ sao mà lắm thứ, lỉnh kỉnh thế! sữa này, nước trái cây này, đồ ăn sẵn trong hũ này. Xứ văn minh, giàu có quá chỉ bày đặt! Hồi xưa, bà nuôi mấy đứa con, có cần những thứ này đâu, mà đứa nào cũng khoẻ mạnh và lớn lên như thổi. Thằng bé vừa bú bình sữa vừa nhìn bà lạ lẫm, bà cũng có dịp nhìn nó kỹ hơn, nó giống bố, chẳng giống mẹ tí nào, nếu không do chính con gái bà đẻ ra thì bà không tin nó có một nửa dòng máu Việt Nam trong người. Mới hôm qua, bà còn cảm thấy xa lạ nó, mà bây giờ, ôm nó trong tay, nhìn nét mặt bé bỏng, ngây thơ, đang cần bàn tay bà chăm sóc, bà thấy tình máu mủ, ruột thịt, gắn bó với nó biết bao. Thằng bé đã biết bò, vừa đặt ngồi xuống là nó đã bò thoăn thoắt, nên bà cứ phải để mắt đến cháu luôn, không dám đặt trên giường, sợ nó bò lăn xuống đất.
Ðể chắc ăn, buổi trưa, bà trải một tấm mền ngay giữa phòng khách cho nó nằm ngủ, bà vừa trông nó, vừa nấu cơm. Bà lấy đồ trong tủ lạnh ra, lấy nồi, lấy chảo, lấy dao, lấy thớt? Mọi động tác đều làm nhẹ nhàng, khe khẽ, thế mà thằng bé tỉnh ngủ quá, bà quay lại đã thấy nó thức và ngồi nhỏm dậy từ lúc nào. Bà vội vàng ra đặt nó nằm xuống, vỗ về cho nó ngủ tiếp, rồi khi bà phi hành tỏi, làm món rau xào, vừa đổ rau vào chảo, kêu xèo một tiếng cũng đủ làm Eugene mở mắt, lại ngồi nhỏm dậy, hai mắt mở to trô trố nhìn bà, cứ vài lần nó tỉnh giấc, và bà vỗ về như thế, mới nấu xong một bữa cơm. Thật căng thẳng và hồi hộp, lo bảo vệ giấc ngủ cho thằng cháu mà bà cứ thấp thỏm, rón rén như đang đi ăn trộm! Nấu cơm xong, tưởng được thoải mái, thì đến lượt cái điện thoại làm phiền giấc ngủ của cháu bà. Tiếng phone ring inh ỏi, nghe thấy tiếng Mỹ là bà cúp luôn, không để phí phạm thêm một phút giây nào cả. Vì mấy tháng sống ở California với cô con gái lớn, bà đã học được kinh nghiệm là có những cú phone, nói tiếng Mỹ chỉ là quảng cáo, không cần nghe làm chi cho mệt, mà dù có nghe, bà cũng chẳng hiểu. Bà nhìn cái điện thoại như nhìn một đứa cà chớn, đáng ghét, thế mà nó không chừa, lại ring lên lần nữa, làm tim bà giật thót lên. Lại bốc phone, lại nghe tiếng Mỹ, chắc là thằng cha quảng cáo lúc nãy, bà bực mình, quát vào phone một tràng tiếng Việt Nam: - Này! Tôi nói cho ông biết nhé, đừng có gọi quảng cáo đến nhà này làm cháu tôi mất ngủ. Ông mà gọi đến lần nữa là tôi cúp máy luôn đấy. Rồi bà đặt phone cái kịch mà vẫn chưa hết bực mình. Giá như có cái võng đu đưa, thì cháu bà sẽ ngủ say hơn, ngủ lâu hơn, không sợ những tiếng động xung quanh nữa, bà nhìn khắp nhà, không thấy chỗ nào có thể mắc võng được, ở Mỹ coi vậy mà thiếu tiện nghi. Ở Việt Nam, chỗ nào cũng có thể mắc võng dễ dàng: chân cầu thang, kèo cột, vách tường, hay gốc ổi, gốc mít ngoài sân...
Cuối cùng cháu bà cũng có một giấc ngủ trưa đầy đủ. Thà nó tỉnh dậy, ngồi chơi, bà còn làm được nhiều việc hơn, bà không phải e dè nữa, làm mạnh tay, nhanh chân, vèo một tí là xong, nhà cửa tươm tất, công việc đâu ra đấy. Buổi chiều Linh về nhà trước, thấy Eugene được ăn ngủ đầy đủ, tắm táp sạch sẽ, Linh vui lắm, xong cô hỏi mẹ: - Mẹ ơi, lúc trưa nay, mẹ có chuyện gì mà bực mình thế? Mẹ gắt ầm trong phone. Bà ngạc nhiên: - Sao con biết? Mẹ gắt mấy thằng quảng cáo đấy, cú gọi đầu làm thằng bé thức giấc, mẹ đã cúp vội máy rồi, nó lì lợm gọi thêm lần nữa, mẹ phải quát nó mới thôi. Linh ôm bụng cười: - Chồng con đấy, Steve định gọi cho mẹ để nói Hello với mẹ thôi. Bà cũng cười, bẻn lẻn: - Gớm, thôi bảo nó đừng bày đặt nói hello làm gì, cứ nghe điện thoại reo lại nói tiếng Mỹ làm mẹ hết cả hồn. Ngày đầu chưa quen việc, bà thấy mệt mỏi, vất vả quá, vài ngày sau mọi thứ trở nên dễ dàng hơn, bà đã nấu những bữa cơm ngon lành, con rể bà bắt đầu nếm những món nọ món kia, mà có cao sang gì đâu, thịt kho tàu, cá kho tộ, tôm rim, thịt bò áp chảo, canh rau đủ món thay đổi làm Steve khám phá ra những cái ngon của đồ ăn Việt Nam mà Linh chưa hề nấu, phong phú và đa dạng như mẹ. Ðến nỗi Steve đã hỏi Linh? Mẹ em trước kia ở Việt nam là chủ nhà hàng hả? Anh đâu biết, bà chỉ là một người nội trợ bình thường như bao nhiêu phụ nữ Việt Nam khác. Cháu bà tên Eugene, cái tên gì mà khó đọc, khó nhớ, bà? đổi quách thành cu Tí cho tiện việc, cái tên Việt Nam nghe êm ái và quen thuộc với bà hơn. Thằng Cu Tí rặt Mỹ, mắt xanh, tóc vàng như rơm, đã quen và thân bà, vì cả ngày ở bên bà, tối lại ngủ với bà. Trước kia, vợ chồng Linh vẫn để nó ngủ một mình trong phòng, bà thấy tội nghiệp cháu quá. Ai đời, vợ chồng ngủ với nhau, để thằng bé bơ vơ?
Thường thường cu Tí rất ngoan, bú xong bình sữa là ngủ ngay, nhưng có khi nó cũng dở chứng như thời tiết, hai mắt cứ mở thao láo không chịu ngủ dù đêm đã khuya. Bà đã phải trổ hết tay nghề của một người đàn bà từng nuôi con mọn, bà bế trên tay, đong đưa, bà ấp trong lòng, vỗ nhẹ vào mông nó. Bà đã trổ hết tài? văn nghệ? ru à ơi với ca dao, tục ngữ, rồi chuyển sang hát tân nhạc, rồi xuống giọng ngâm thơ nỉ non. Bà đã ? xàỉ hết vốn liếng văn chương của mình mà cu Tí vẫn chưa chịu ngủ, bà nghĩ có lẽ cu Tí chưa cảm thông? được tiếng Việt Nam, hay nó tưởng bà kể chuyện, nên mải nghe mà quên ngủ?? Bà không nản chí, bà tin rằng dần dần nó sẽ hiểu tiếng Việt Nam, những bài ru của bà sẽ đưa nó vào giấc ngủ dễ dàng, như ngày xưa bà đã từng ru mẹ nó, và khi nó lớn hơn một tí bà sẽ tập cu Tí ăn cơm với đồ ăn có chất mắm muối Việt Nam. Dù bố cu Tí là Mỹ, nhưng mẹ nó là dân Việt Nam cơ mà, ngay cả bố nó, Steve cũng đang quen dần với các món ăn Việt Nam, ăn bánh cuốn cũng hăng hái chan đầy nước mắm, cái món không thể thiếu trong bữa cơm hàng ngày của người Việt Nam, nhưng đối với hầu hết người Mỹ vẫn là thứ mùi vị khó chịu không dễ dàng gì chấp nhận được. Thỉnh thoảng bà vẫn nói chuyện tay đôi với con rể mà không cần con gái thông dịch, bà nói tiếng Việt Nam, Steve nói tiếng Anh, lời nói theo gió bay, vì chẳng ai hiểu ai, nhưng vì nhu cầu bà vẫn cứ nói, còn Steve có hiểu hay không thì mặc kệ nó.
Mùa Ðông đã đi qua, phố núi vẫn tràn trề tuyết trắng trên những đỉnh núi xa xa, và lấp lánh màu trắng bạc khi mặt trời có nắng. Trong không gian vẫn còn hơi lạnh dù mùa Xuân đã về, lá bên đường xanh lại, người ta đã quên mùa Ðông để rộn ràng dạo phố, các cửa hàng của Open Air Mall tại Salt Lake City tưng bừng đón khách lại qua, kéo dài tới mùa Hè ngắn ngủi, rồi tới mùa Thu, không gian dìu dịu lạ lùng. Lần đầu tiên trong đời, bà thấy một mùa Thu đúng nghĩa như trong sách vở, thơ văn. Khắp nơi trong thành phố, lá bắt đầu đổi màu, ửng đỏ, ửng vàng từng phần, rồi trở thành đỏ và vàng hàng loạt. Màu lá vàng tươi rói, mơ màng, mà bà tin rằng không một hoạ sĩ nào có thể vẽ nổi cái màu sắc của thiên nhiên thật tuyệt vời ấy. Gió hiu hiu, lá cũng hiu hiu rơi từng chiếc, thế mà dưới những gốc cây chạy dài trên hè phố hay trước sân nhà là cả một thảm lá vàng, đẹp và hoang sơ, tưởng như chưa hề có bước chân người dẫm lên, nên không ai nỡ mang đi, không nỡ quét dọn những chiếc lá thu vàng đó, dù luật của thành phố, đã phát cho cư dân những bao bịch lớn để hốt lá vàng, để mang dấu tích của mùa Thu đi đổ rác! Rồi màu đỏ, màu vàng của lá đậm hơn, gió vẫn hiu hiu nhưng làm lá rụng nhiều. Có một hôm, gió thổi mạnh, quần quật trên mái nhà, bên vách nhà, những bước chân của gió như đang nổi cơn thịnh nộ. Khi bà vén cửa sổ nhìn ra ngoài, cả một rừng lá đỏ, lá vàng bay tả tơi theo chiều gió, rồi trời đổ mưa, giông gió thế, mà mưa chỉ lâm râm, hay mưa sợ làm đau thêm những chiếc lá vàng vừa mới lìa cành? những chiếc lá bay đi và theo mưa nằm bẹp trên đường ướt át. Cành cây trước nhà hôm qua còn nhiều lá vàng, giờ trở nên trơ trụi, lạnh lẽo chìm trong mưa mù, làm bà mủi lòng, thấy cuộc đời phù du. Hình như mùa Xuân mới vừa hôm qua, lá xanh non, mà hôm nay Ðông về đã tàn phai! Thế là mùa Ðông lại về, bà đã ở với vợ chồng Linh được 1 năm, cu Tí đã biết đi, đã biết ăn phở, ăn bún, bà cắt nhỏ từng sợi phở, sợi bún, nâng niu đút cho cháu từng thìa, Bà muốn nó biết ăn và yêu thích những món ăn Việt Nam trước khi biết đến Hamburger, khoai tây chiên hay hot dog. Khi cu Tí bập bẹ học nói, tiếng đầu tiên nó thốt ra là Bà?, bằng tiếng Việt Nam, bà sẽ dạy nó uốn lưỡi để nói thêm chữ ngoạỉ, thành bà ngoại đàng hoàng. Cu Tí cả ngày quấn quýt bên bà, thằng bé khoẻ mạnh, phổng phao hẳn lên, nó không còn bị ốm vặt như thời đi Day care nữa. Bà thích ngắm cháu, lúc nó vui cười hay cả lúc nó hờn dỗi vì gắt ngủ, đói sữa, khóc dãy lên đành đạch, nước mắt, nước mũi nhoèn ra hai bên má, dễ thương như mặt mèo.
Một hôm, bà phải trở về California để dự đám cưới đứa cháu, cũng là dịp thăm lại gia đình cô con gái lớn, con nào bà cũng thương, trước sau gì bà cũng phải về thăm chúng. Thế là vợ chồng Linh lại phải đem cu Tí đi Day care gởi 1 tháng, coi như bà ngoại đi vacation. Bà đi rồi, nhà cửa trống vắng hẳn ra, công việc bỗng ùn lên làm hai vợ chồng Linh bối rối. Ði làm về Steve lo đón con, Linh lo nấu nướng, rồi tắm rửa cho con, dọn dẹp nhà cửa và bao nhiêu thứ việc lặt vặt khác. Những buổi tối đầu tiên xa bà ngoại, cu Tí khó ngủ, có lẽ nó đang đợi nghe những bài ca dao, tục ngữ, những lời ru à ơi, vời vợi, êm ả của bà, dù cái thằng cu Tí kia đã hiểu gì tiếng Việt Nam.
Steve buồn ra mặt, anh nhớ bà mẹ vợ, người đã thương con, chiều cháu bằng cả một tấm lòng, anh đã hiểu một bà mẹ Việt Nam cần cù, chịu khó và hy sinh vì con cháu thế nào! Chẳng cần ai nói, Steve cũng dễ dàng nhận ra điều ấy. Anh đã có một người vợ tuyệt vời, yêu chồng, thương con, lại có thêm một bà mẹ vợ cũng tuyệt vời. Mới 2 tuần trôi qua, chưa đến hẹn bà mẹ vợ trở về, Steve bồn chồn hơn cả Linh, anh đã sốt ruột gọi phone cho bà, anh ngọng nghịu mãi mới nói được một câu tiếng Việt : - Mẹ? sẽ... trở.. về? với chúng?con?không? Bên kia đầu dây, bà cũng vất vả không kém, lắp ba lắp bắp để nói được vài chữ tiếng Anh: - OK? wi...ll? cọ.mẹ. bạ.ok? Vẫn cảm thấy chưa nói được hết ý, bà bổ sung thêm một tràng tiếng Việt: - Con yên trí, mẹ thương hai con và thằng cu Tí lắm, mẹ sẽ trở về để sống với các con chứ, mẹ không ở đây một tháng đâu. Mùa Ðông đang bắt đầu, mẹ sợ cu Tí mang ra ngoài bị cảm lạnh. Tuần sau mẹ sẽ về con nhé.
I. Hình như ai đến đây cũng đều giấu đi thân phận và cảm xúc của mình, tôi cũng vậy. Buổi sáng từ 7 đến 8 giờ đoàn xe bus đi gom mọi người cao tuổi ở rải rác quanh vùng chở đến đây và 1 giờ trưa chở về, vì từ 1 giờ trưa đến 6 giờ chiều còn một ca sinh hoạt khác.
Ở Mỹ này có nhiều chuyện ngộ: có nhà giữ trẻ và cũng có nhà giữ người già, mỗi tuần từ thứ hai đến thứ sáu. Thứ bảy và chủ nhật họ ở nhà một mình hoặc có phước có phần ở chung với cháu con! Tôi nghỉ hưu gần một năm nay, từ Pennsylvania về New Jersey để được gần con cháu. Mấy đứa nhỏ thấy tôi buồn nên xin cho tôi vào đây để gặp gỡ đồng hương cao niên cho vui. Nhưng sau vài tuần tôi muốn “cáo lão qui điền” vì ở đây… chán quá. Ngày nào cũng y chang như vậy: sáng vô điểm danh, ký tên, ngồi vô bàn của mình ăn sáng, rồi tập thể dục nửa tiếng, rồi chơi đá banh thùng, thảy vòng vịt, chơi bingo, nói chuyện dưới đất trên trời… Khoảng 10 giờ đến 10 giờ rưỡi được cho uống sữa, uống juice, ăn kem..rồi chờ ăn trưa, rồi xếp hàng ra xe bus về nhà.
Chắc tôi phải nói thêm về cách làm việc ở đây. Điều kiện được đưa vào trung tâm này phải trên 65 tuổi và có Medicaid và trong diện nghèo. Có nhà ở thì OK nhưng nếu có xe thì trị giá xe không quá năm ngàn đô la và trong nhà bank không có quá hai ngàn. Trung tâm này ở thành phố Cherry Hill, New Jersey với cái bảng hiệu “Prestige Adult Medicare Daycare”. Như vậy ở đây có bác sĩ trông nom sức khỏe, dĩ nhiên là bệnh tật sơ sài thôi, và sẵn sàng giúp mọi người gọi 911 để vào bệnh viện miễn phí. Đã gọi là “nơi giữ người già” nên người nào cũng hom hem, lụi đụi, không bệnh ít cũng bệnh nhiều. Ở nhà buồn quá không ai trông nom nên tìm vào đây để giải sầu. Tôi là một trường hợp đó, nhưng tôi không vui mấy vì người Việt Nam ít quá, chỉ chiếm khoảng 10%, số còn lại là Mễ Tây Cơ và người Mỹ gốc Phi Châu. Lúc nào họ cũng ồn ào nói cười, kêu gọi nhau hoặc nhảy cà tưng theo nhạc của họ. Người đời thường nói khi trở về già người ta giống như con nít từ sinh hoạt cá nhân mỗi ngày hay sinh hoạt vui chơi. Họ cũng tranh nhau trong giờ chơi để thắng điểm để được trung tâm phát tiền… âm phủ. Đó là tiền giả để cuối tuần dùng tiền đó mua những vật dụng trong nhà như xà bông rửa tay, xà bông giặt, kem đánh răng, giấy vệ sinh… Cứ nhìn họ vui vẻ đi shopping tại chổ với vẻ vui mừng như trẻ được quà chúng ta thấy được “già y như trẻ” là vậy. Để rồi, lúc ra về họ phải è ạch mang mấy thứ lục cục đó lên xe. Tài xế phải phụ giúp mấy vị đó mang lên xe nào là wheelchair, gậy chống, khăn áo lùng chùng…
Trung tâm này nằm trong khu biệt lập, xa đường chính nên khá yên tĩnh. Phòng sinh hoạt chính khá rộng với mười mấy cái bàn tròn rộng phủ khăn và trên bàn lúc nào cũng có chậu hoa… ni-lông cũng khá sáng đẹp. Bên trái là văn phòng, sau văn phòng là phòng nghỉ ngơi của các cụ khi thấy mệt. Quí vị vào phòng này sẽ thấy lòng mình buồn tênh vì vài người già nằm trên ghế dài trùm chăn, hơi thở mệt nhọc. Tôi cũng là người cao tuổi nhưng còn linh hoạt hơn họ đôi chút, nghĩ rằng rồi mình cũng sẽ nằm thở dốc như họ một ngày không xa! Bàn tròn của người Việt Nam lùi vào phía trong của gian phòng rộng, lác đác chừng năm bảy người, toàn là đàn ông. Nghe nói lúc trước có vài phụ nữ Việt Nam nhưng họ xin đổi xuống ca chiều có nhiều người cùng xóm cho vui. Bàn của chúng tôi có hai vị tuổi 82 còn lại cũng trên dưới 70. Mọi người đều xuề xòa, duy chỉ có một ông lúc nào mặt cũng hằm hằm, hình như không mấy có thiện cảm với tôi. Thằng cha này lúc nào cũng trầm tư biếng nói, ít cười và đặc biệt lúc nào cũng có cái mũ nồi trên đầu. Có lẽ hắn nhỏ tuổi hơn tôi và có tên là Hiền mà mặt mày chẳng hiền chút nào, giống như dân đứng bến hay ít ra cũng là dân chợ trời hay dấm dúi bán chui á phiện! Không ai biết gì về gã, đó là lý do tôi không vui khi đến đây. Về phía đám đông Mexico và Mỹ Phi Châu kia thì lúc nào cũng như cái chợ chồm hổm, ăn uống nói chuyện ồn ào, nếu có chút nhạc thì loi choi nhảy múa như điên! Kể ra họ còn có chút vui. Sao đám Việt Nam chúng tôi lại eo sèo đến thế? Nhiều lúc tôi tự hỏi: “Tuổi già sống khắc khoải như thế này đề làm gì, đang chờ đợi điều gì, nếu không phải chờ… ngày về với đất?” Có khi cũng không cần đất cát gì, chỉ đốt thành tro bụi rồi rải ra biển lớn. Thế là xong. Tôi định rút lui khỏi cái câu lạc bộ này nếu không có một sự việc xảy ra hôm tuần trước.
II. Thật ra, tôi cũng là người già nhưng khác hơn mấy ông già Việt Nam này đôi chút. Tôi xin vào đây để làm thiện nguyện, giúp người già Việt Nam thông dịch vì đa số họ không rành Anh ngữ, chủ yếu là tôi muốn tìm bạn đồng hương. Thành phố này khá yên tĩnh, ban ngày vẫn nghe được tiếng chim hót trên cành cây cao và ban đêm chừng 4 giờ rưỡi sáng chúng đã líp chíp quấy rầy tôi rồi. Thức giấc vì tiếng chim tôi thấy tuổi già trôi qua thật nhanh và từng bước chân đi của mình cũng chậm dần.
Buổi sáng hôm đó, tôi mang theo lon nước chanh gừng vì cảm thấy cổ họng đau rát. Đặt cái lon guigoz lên bàn, tôi đã thấy thằng cha mũ nồi ngồi thu lu một góc rồi. Lão già này không ưa tôi nên ít khi chào hỏi nhau. Hôm đó Hiền lại chào tôi rôm rả và nói nhanh: - Ủa, ông cũng ở K5 Vĩnh Phú sao? A, thì ra trên cái lon guigoz tôi có khắc chữ K5-VP. Tôi gật. Lão cười nụ, méo xệnh: - Tui ở Nghệ Tỉnh, quê hương… Lão định nói “quê hương bác Hồ” nhưng tôi ngăn lại. Tôi không muốn nghe hết câu. Bỗng tôi thấy nét xúc động trên gương mặt tối hù của gã. Lần đầu tiên, gã kéo cái mũ nồi đặt lên bàn. Mớ tóc bù xù, lốm đốm muối tiêu của gã rớt xuống vùng trán với những “luống cày” sắc nét. Chỉ có đôi mắt mang nét quả quyết, và không… hiền chút nào!
Rồi câu chuyện bắt đầu. Chúng tôi nhận ra nhau, chúng tôi là những người lính già thua trận, tù tội, xương máu, hận thù đau đớn trải dài từ Bắc xuống miền Đông Nam Nam phần từ trước 1975. Hiền nói về mình, về gia đình tan nát của mình và… nói luôn nỗi oán hận cuộc đời mà Hiền vẫn còn đeo đẳng cho đến hôm nay. Hiền lôi tôi ra ngoài nói là đi dạo, nhưng thật tình, hắn muốn trút bầu tâm sự ôm ấp từ lâu. Đi chán mỏi chân, hai thằng già ngồi trên ghế đá bên hông khu nhà với ly cà phê nguội ngắt. Hắn nói giọng từ tốn, chậm rãi, đôi mắt mơ màng như đang sống với quá khứ không mấy vui vẻ của đời mình. - Khi rời quân trường, tôi gặp người này, theo lời giới thiệu của người chị họ và kết hôn sau đó vài tháng, đây là cuộc hôn nhân gán ghép vì tôi muốn thoát ra cái gia đình “u tối” của mình. Giữa tôi và cô ấy không có thứ tình nào hết, không là tình bạn học, không là tình yêu. Anh cũng hiểu rằng giữa năm 1973 chiến tranh Việt Nam leo thang với những trận đánh ác liệt. Chúng ta là những người lính, cái chết cận kề bên lưng… Tôi chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng ngắt lời Hiền: - Theo chú, cuộc hôn nhân này không toại nguyện? Hiền gật, nói nhanh: - Chính thế. Gia đình nàng giàu có, muốn con gái có một tấm chồng, trong khi tôi muốn có một chỗ dung thân những ngày về phép. Gia đình cha mẹ tôi không là tổ ấm, đó là ổ của bài bạc, rượu chè, cuộc sống lem luốc… Tôi muốn trốn chạy, tôi đã sai lầm. Cuộc hôn nhân không tình yêu… cho nên đổ vỡ sau đó là chuyện tất nhiên. Tôi ngồi thừ, lẳng lặng nghe Hiền nói tiếp: - Sau đó, chúng ta vào tù sau tháng 4/75 như anh biết… và vợ tôi chưa hề đến thăm tôi một lần nào. Chúng tôi có một đứa con trai, và khi tôi ra tù, bà ấy thẳng thừng đề nghị ly dị vì không chịu nỗi sự nghèo túng, vất vả. Lúc đó, đôi dép lào đứt quai hay vỏ xe đạp xì lốp cũng không có tiền mua dép hay bơm xe, thì… làm sao giữ được hạnh phúc gia đình? Tủi nhục lắm anh ơi… Ôm đứa con nhỏ, tôi phải làm đủ mọi thứ nghề đề nuôi con. Căn nhà trước đó đã thay người chủ mới. Nhờ sự cứu giúp của người bạn học cũ, cha con tôi mới sống sót được đến ngày nay! Hiền thở dài, không nói thêm gì nữa. Tôi không biết nói gì để an ủi Hiền, chỉ vỗ vỗ vào lưng bạn và trở vào câu lạc bộ.
Từ đó chúng tôi trở thành đôi bạn rất thân. Hiền có vẻ vui tươi hơn trước. Mỗi lần đến thăm Hiền, tôi đều cảm thương cho hoàn cảnh bạn: Căn apartment nhỏ với cây đàn và chú chó Lucky thân yêu. Hiền thật sự cô độc với tuổi già hiu quạnh của mình. Có lần tôi bạo dạn hỏi Hiền: - Qua đây hơn 20 năm, sao chú không tìm được người bạn đời khác? Hiền cười cay đắng: - Anh thử nghĩ coi, lon lá không còn, tiền bạc không có, đàn bà nào yêu cho nổi? Thật ra tôi sợ. Con chim bị đạn một lần thường sợ những cành cây cong… Thằng Hiếu bây giờ hơn 40, có vợ con ở NY city, tôi không muốn con mình bận bịu nên ở đây một mình. Trong những ngày lễ ở Mỹ này, thằng con tôi ghét nhất ngày lễ Mẹ, Mothers Day. Hiện nay bả còn ở Saigon, giàu có lắm nhưng thằng Hiếu không nhìn. Nó nói với mọi người rằng mẹ nó đã chết từ lúc nó hai tuổi. Bả đổ thừa cho hoàn cảnh bỏ chồng bỏ con. Cái đau khổ của tôi là bả lại lấy thằng cha bí thư huyện ủy! Nếu mượn bài hát “và con tim đã vui trở lại” của Đức Huy để nói về Hiền cũng không sai chút nào. Mỗi ngày gặp nhau, tôi đều nói với Hiền về niềm tin và tìm thấy lẽ sống cho những ngày còn lại. Hiền đàn rất hay. Tiếng đàn guitar điêu luyện ấy đã trở nên thân thuộc với tôi và mọi người khi có lễ lộc ở “day care” này. Hiền vui hơn mọi ngày, cho đến một hôm…
Tôi nói với Peter, giám đốc trung tâm tôi vắng mặt hai ngày vì phải lo thu xếp việc nhà. Tôi phải đi phi trường JFK ở NY city để đón vợ tôi. Bà ấy về Việt Nam hơn tháng nay đón cô em định cư qua Mỹ. Đơn bảo lãnh từ 2004 đến nay cô ấy mới được đến vùng đất tự do này. Hiền nói với tôi giọng vui vẻ: - Nếu không gì bất tiện, niên trưởng cho em theo cho vui? Tôi nghiêm nghị: - Đi với tôi thì OK, nhưng đề nghị với cậu là bỏ đi từ niên trưởng. Tủi nhục quá mà, đau khổ quá mà niên trưởng với niên chảng gì. Cứ gọi tôi là anh Phúc phải gọn không?
Trên đường đi Hiền nói với tôi về thành phố New York mà cách đây hơn 20 năm, cha con Hiền ngơ ngác đến đây do sự sponsor của người tiểu đoàn trưởng cũ. Hiền cũng cho tôi biết gia đình người con trai đang sinh sống ở Brooklyn đường ra phi trường. Tôi nói: - Cậu có muốn tranh thủ thăm con cháu không? Hiền xua tay nói nhanh: - Thưa không anh, chúng nó đi làm cả. Tụi nó sẽ về thăm tôi ngày lễ Fathers Day sắp tới đây. Đến nơi trời choạng tối. Hai anh em giúp người mới đến đem hành lý ra xe. Tôi vội vã giới thiệu với Hiền: - Đây là Ngọc, bà xã tôi, và đây là cô em tên Nguyệt. Bỗng nhiên Nguyệt la lớn: - Trời ơi anh Hiền, phải anh là Hiền Tân Định không? Hiền chết trân. Một giây sau hắn gật đầu lia lịa: - Đúng, tôi là Hiền. Hiền Tân Định đây! Những bàn tay không rời nhau. Tôi nói mau: - Mời mọi người lên xe. Lên xe rồi nói chuyện sau. Trời tối rồi, về đến New Jersey chắc phải chín mười giờ đêm! Bây giờ Ngọc mới lên tiếng: - Vậy ra hai người quen nhau sao? Nguyệt nói dòn dã: - Chị Ngọc quên sao, hồi đó văn nghệ liên trường Petrus – Gia Long – Võ Trường Toản – Trưng Vương năm em học Đệ Tam, chị Đệ Nhất Gia Long đó, anh Hiền này ở Petrus Ký đoạt giải nhất đơn ca! Đến phiên Ngọc la vui: - Trời đất, đó là năm 1967, em nhớ giỏi quá. Ờ ha, 50 năm rồi mọi người ơi! Hiền rôm rã: - Cám ơn Nguyệt vẫn nhớ tôi. Bây giờ già hết rồi, dâu biển nhiều rồi… Nói xong Hiền thở dài: - Bây giờ tôi già lắm rồi, Nguyệt nhớ tôi thật là giỏi. Cám ơn Nguyệt. Hồi đó hình như Nguyệt cũng đoạt giải thưởng phải không? - Dạ em giải nhì. Cho nên em nhớ anh là vì hồi đó em “cay cú” với thằng cha Petrus! Mọi người cười vang.
III. Cuối tuần, gia đình các con ào về nhà vợ chồng tôi để mừng mẹ và dì từ Việt Nam mới sang, nhân thể bày tiệc mừng sinh nhật 62 của dì Nguyệt. Nguyệt đã hơn 60 nhưng trông bề ngoài chỉ chừng hơn 50 vì nàng độc thân không phải lo lắng tất bật chuyện chồng con. Bà xã tôi nói rằng, Nguyệt là em kế của bà nhưng từ lúc thanh niên 20-30, nàng không hề nghe Nguyệt nói gì về bạn trai hay có quen biết và yêu đương một người đàn ông nào. Nguyệt chỉ mải mê học vấn và làm việc. Nguyệt có bằng thạc sĩ kinh tế và giảng dạy ở các trường đại học ở Saigon. Bây giờ, nàng hưu trí từ tuổi 55.
Một điều lạ lùng nhất là Hiền đến nhà tôi hôm nay, khác hẳn mọi ngày. Một tay ôm cây guitar và một tay ôm bó hoa hồng lớn làm cả nhà tò mò đoán già đoán non. Dĩ nhiên, hoa hồng tặng sinh nhật Nguyệt, chứ không phải tặng Ngọc, bà xã nhà tôi. Mấy đứa con gái tôi cười rúc rích, ra chiều đắc thắng. Trong bữa ăn chúng tôi chỉ nói chuyện Việt Nam, hỏi thăm sức khỏe nhau. Vợ chồng tôi bận bịu chơi với cháu ngoại, hai đứa con gái lo việc dọn dẹp dưới bếp. Hai đứa rể bận không đến được, nên khách chỉ là Nguyệt và Hiền. Hai người này thích ca hát văn nghệ từ hồi còn đi học nên thử giọng hát hò với nhau. Hiền đàn hát thật hay. Nguyệt ngồi nghe mơ màng. Tiếng đàn, tiếng hát dứt mọi người ùa ra phòng khách vỗ tay cổ vũ. Hiền cười vui rạng rỡ nhưng có chút ngượng ngùng. Bây giờ tôi mới ngắm kỹ Hiền. Chàng già này bữa nay sao khác hẳn. Cái mũ nồi biến mất. Mái tóc bạc cũng thế. Hôm nay sao nó thay hình đổi dạng nhanh thế: râu tóc gọn ghẽ, nhẵn nhụi, quần áo thẳng nếp, giày tây bóng loáng y như chú rể ra mắt nhà vợ. Cái gì, điều gì đã thay đổi thằng cha mà tôi từng ghét quá ghét trước đây?
Câu chuyện có lẽ dừng ở đây được rồi. Kết cục thế nào tùy độc giả. Nhưng, với con mắt của người lính già lăn lóc gió sương như tôi, tôi thấy Hiền như được hồi sinh. Người đàn ông đau khổ với tuổi già hiu quạnh như Hiền, ngày tối vào ra với con chó Lucky là bạn, với cây đàn guitar réo rắc những cung bậc bi thương, sầu não đó, đã vực dậy vì tình bạn, tình “huynh đệ chi binh” và có thể, hắn sẽ tìm được một tình yêu cuối đời? Có thể lắm chứ. Cuộc đời ơi hãy mĩm cười với bạn tôi! Ban đầu, Nguyệt định ở New Jersey với chúng tôi vài tuần, sau đó, sẽ đi Cali ở với đứa cháu. Nhưng, có lẽ nàng thay đổi ý định khi tôi “bày trò” nhờ Hiền chở Nguyệt đi làm giấy tờ và những yêu cầu của người mới đến Mỹ. Cầu mong hạnh phúc sưởi ấm hai tâm hồn đơn lẻ bấy lâu!
Cám ơn “Prestige Adult Medicare Center” đã kết nối tôi và Hiền, cám ơn cái lon guigoz của một thời lao tù khổ sai tăm tối… để chúng tôi tìm đến nhau trong tình người, tình chiến hữu. Cái lon guigoz này tôi sẽ làm quà cưới nếu hai “đứa già” này trong tương lai quyết định cùng nhau “đi trọn đường trần”.
Tháng 6/2017 Song Lam vvnm.vietbao.com .
NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Mon Jul 29, 2019 7:13 am
.
Chia Tay - Đoàn Thị
Bút hiệu Đoàn Thị, theo tác giả được ghép họ của người chồng và tên lót quen thuộc trong cách đặt tên phụ nữ Việt. Bài viết về nước Mỹ mới nhất của Đoàn Thị, là một chuyện tình vợ chồng trước tuổi tác, bệnh hoạn.
***
Từ ngày đi “xạ trị” bác sĩ có báo, sức lực của chị sẽ thuyên giảm nhiều, kéo theo những thứ khác, thứ nào chứ thứ này mà giảm đi thì coi như chị “hết thời” đối với anh. Anh đã chẳng hiên ngang tuyên bố, đó là nhiệm vụ nhân giống trời giao để nhân loại tồn tại đó sao. Tuổi này anh chị đã hoàn thành nghĩa vụ “gieo trồng” hầu duy trì xã hội, nhưng không có nghĩa là cái chức năng kia không còn hữu dụng, khổ nỗi anh như cỗ xe bảy ngựa, chị cà tàng như xe đạp xúc dây sên, chạy theo anh nín thở.
Vốn không ưa thuốc, vậy mà mỗi ngày chị phải uống một bụm bao nhiêu viên con nhọng để “đì con bệnh” sau đợt xạ trị, có người bày cho chị thuốc gia truyền “cải lão hoàn sinh” rao bán như thuốc sơn đông mãi võ trên mấy trang mạng, chị sợ hết hồn đâu dám mua. Ban đầu chị cố gắng tỏ ra “đồng cảm” với anh những lúc đó, chị nhắm nghiền mắt, nghe anh lắc lư ưng ý, thân xác chị rã rời, cơn đau tăng theo nhịp vui hả hê từ thớ thịt chạy vào tim anh, chị ứa nước mắt chịu đựng không dám làm hỏng cơn vui đang dâng cao trong anh. Giữa giây phút lẫn lộn thất vọng ê chề nghe thân xác mình chết ngắt lạnh lẽo, mừng vì anh chưa phát hiện cái “xác vô hồn” của chị lúc này, bỗng chị đâm hoảng, nếu vì chuyện này mà chị phải mất anh, chị nhắm mắt lại như thể qua cái nháy mắt đó chị sẽ “đầu thai” trở về kiếp con gái. Rồi anh cũng cảm thấy cái gì đó không ổn, chị như “vắng mặt” không cùng chia sẻ lúc hai đứa trở nên một, sự im lặng tố khổ chị, chị không làm sao giả vờ vui thú như thuở nào, không cười khúc khích, không đẩy anh ra nói anh dai như đỉa, căn phòng chìm trong tiếng nhạc mở thật nhỏ, thiếu hẳn giọng đùa vui bỡn cợt của hai kẻ đang yêu. Chị đã hết yêu anh đâu, chị đang yêu đấy, yêu nhiều hơn lúc trẻ, yêu với hơn ba mươi năm ngọt bùi, vì thế chị chưa dám nói với anh cái xác của chị đã lão hóa, nó đỏng đảnh quay lưng với chị, mặc cho chị có van nài, chị hiểu “lực bất tòng tâm”. Bác sĩ của chị bó tay, bệnh của chị chưa dứt, chuyện kia đâu cần chữa trị cấp bách, mà có phải là bệnh đâu, sự thoái hóa của thân xác, đến tuổi nào đó con người phải chấp nhận “sức mình có hạn”.
Nỗi lo thầm kín của chị vô tình được lôi ra mổ xẻ trong một buổi tiệc khi các ông ngà ngà lên men kể chuyện “phòng the”, bà nhà tôi lúc này thế nào ấy, như người dở hơi, làm không ra làm chơi không ra chơi. Có ông tài lanh vấn ý, mang bả đến bác sĩ nhờ bốc cho một “thang thuốc viagra” dành cho quý bà là xong ngay, giời ạ, cơ thể mỗi người là một tác phẩm độc đáo của thượng đế, mà ông làm như xe hơi, đưa vô gara châm nước, thay bình ắc qui là “nổ máy” ngay. Người trầm tính cười mỉm, thả một câu nhẹ tênh, thiền ơi là thiền, ở tuổi này rồi trời kêu ai nấy dạ, nếu đã dùng “hết thuốc” rồi mà “bệnh” không khỏi thì coi như “tu tại gia”, và ông kết một câu xanh rờn, ai muốn cải lại số mệnh thì đi tìm “chỗ khác”. Nghe đến đây chị điếng hồn, anh chị chưa bao giờ đụng đến vấn đề gai gốc này, nếu một mai có bàn đến, chị cũng đoán được anh khó mà “tu tại gia”, còn đi tìm “chỗ khác”, chắc anh sẽ chọn cách đó, chị không dám nghĩ tiếp, viễn cảnh sống thiếu anh, chị chưa hình dung nổi.
Sau bữa tiệc đó anh trở nên ít nói, căn nhà vắng đi những câu đùa dí dỏm, các con về chơi nhận thấy bố mẹ “xa vắng” thế nào, chị trấn an các con, bố đang lo việc sở, nói cho có nói, nói như để lắp đầy cái vắng lặng khi các con ra về, chị biết các con đã nhận thấy sự thay đổi không bình thường của anh chị. Buổi tối sau giờ cơm anh leo lên máy, làm việc hoặc lang thanh trên mạng cho đến khuya, đến lúc mệt lả quay ra ngủ để khỏa lắp sự đòi hỏi của “cỗ xe bảy ngựa” đang hành hạ anh, lúc này chị cảm thấy mình có tội “tày đình” với anh, chỉ có chừng đó việc mà cũng không xong. Có hôm chị cố “chìu anh”, mang hết sức lực ra níu giữ anh, anh cũng thấy chị cố gắng, chị chịu đau, anh không nỡ tiếp tục, nhưng đang “cởi lưng cọp” muốn xuống cũng không xong, cuộc vui kết thúc nửa vời, anh hơi áy náy vì niềm vui của anh là khổ hình của chị. Từ mặc cảm bất lực, chị như chìm vào cơn trầm cảm, chị không biết than thở với ai, có nói cũng bằng thừa, bác sĩ còn bó tay, mà có phải là bệnh đâu mà chữa, nhưng anh khư khư cho đó là “căn bệnh” của người cao niên, khoa học tiến bộ có thuốc cải lão hoàn sinh như viagra sờ sờ ra đó, anh còn khoẻ, chứ đến lúc “hữu sự” anh sẽ không ngại dùng đến hàng ngày. Anh thuộc trường phái “duy vật”, thích ăn ngon mặc đẹp, chị lại duy tâm, lúc nào chị cũng “cốt cái tâm hồn”, nay đụng chuyện thật là “vật chất”, kiểu này chị cầm chắc phần thua.
Ngày các con ra riêng chị đã thấy buồn, nhưng còn anh cầm chuyện, giờ hai đứa nhìn nhau chẳng biết nói gì, anh như câm hận căn bệnh quái ác đã cướp đi cái đáng yêu ở chị, không khiển được con bệnh, anh đâm ra cáu gắt vô cớ, chị lẳng lặng cam chịu, dù gì cũng lỗi tại chị mọi đàng. Chị chợt nhớ hồi còn bên nhà, vợ chồng chị ra riêng dọn đến cái xóm lạ hoắc, hàng xóm phía sau nhà chị càng lạ hơn, ông cụ trên sáu mươi sống với con gái út, con trai con dâu và đám cháu nội. Bà lên núi tu trong chùa, thỉnh thoảng về thăm nhà, lúc đó chị tức cười bà cụ, nghĩ đến tuổi này mà bà còn ghen kiểu “Lan và Điệp”, ông ở nhà với con cháu rất ngoan, có thấy ai xớ rớ bên ông đâu, thì ra là vậy, cũng đúng thôi dạo đó trông bà hom hem lắm. Chị rùng mình tự hỏi, có khi nào chị phải lên chùa như cụ bà hàng xóm năm xưa, khó quá, chị chưa tới tuổi hưu, cầm cự từ giờ đến lúc hưu, xa quá, mấy con trăng sắp tới chưa biết tính sao, nói gì đến mấy năm nữa. Chị mò lên mạng tìm thử xem người ta mách nước thế nào, thiên hình vạn trạng, nhiều chiêu vô số kể, ít có lời khuyên nào nghiêm túc, có người lợi dụng cơ hội để bàn ngang tán dọc, trổ tài nhí nhố, tóm lại chỉ có câu trả lời chung chung, tùy người mà xử lý, vì mỗi người là một đặc thù riêng, liệu cơm gắp mắm. Tình trạng này kéo dài chắc chị điên mất, chị luôn túc trực ban đêm khi anh có nhu cầu, dù rất nhọc nhằn chị vẫn cố gắng, chị chưa biết mở lời thế nào để cả hai tìm ra một giải pháp ổn thỏa. Bỗng anh trở nên trầm hẳn, không đòi hỏi, không nao núng như lúc trước, anh thức suốt đêm trên mạng, hình như anh đang chát với ai bên Sàigòn, sau khi tắt máy anh có vẻ sảng khoái lên giường ngủ một lèo tới sáng.
Cái gì đến phải đến, anh không dấu anh vừa quen một cô bên nhà, chỉ là bạn thôi, anh rủ chị cùng về tiện thể ra mắt bạn tâm giao, bạn anh cũng là bạn của em. Nói vậy chứ anh biết đời nào chị cùng về với anh, ngay như việc anh có “bạn mới” một cách công khai cũng là cách anh đòi chia tay với chị trong hòa hoãn, họ quen đấu lý hơn là đấu khẩu, vả lại chị là người ôn hoà, tất cả đều có thể thương lượng với chị mà không cần ồn ào. Vài tháng sau anh dọn ra riêng, đơn ly dị đang chờ ký, chị buồn lắm, hơn ba mươi năm mặn nồng, giờ chỉ chờ nhau trước cửa tòa để thật sự chia tay, thật ra họ đã xa nhau từ dạo cái xe đạp tuột sên của chị bỏ cuộc không đuổi kịp chiếc xe bảy ngựa của anh, cái tình trong anh cạn dần theo cái thân xác khô cằn đang xuống dóc của chị. Chả trách anh được, ở tuổi ngoài năm mươi phơi phới bảo anh ăn kiêng khổ hạnh, tự nhiên chị đổ bệnh bắt anh gánh chịu hậu quả, thật bất công với anh, cuộc chia tay này tuy do anh chủ động, nhưng chị không thể giận anh. Những ngày đầu chị hụt hẫng, chị đau khổ, chị muốn hóa rồ, nghĩ cho cùng nếu còn yêu anh, chị phải trả anh về với cuộc sống của anh, các con không đứa nào lên tiếng, xót mẹ nhưng chúng nó cũng thương cha. Từ nay chị một mình đối diện với cuộc sống, may mà các con thường xuyên lui tới để chị bớt quạnh hiu, trời cũng xót thương thân phận của chị nên cơn bệnh thuyên giảm dần, chị tìm vui trong công việc và bạn bè. Có người thăm hỏi, chị gắng gượng trả lời, đã ổn định, sẽ cố quên anh, chị không thích bị ép uổn nên cứ để nỗi nhớ anh bàng bạc khắp nơi, hình ảnh của anh vẫn còn nguyên trên tường, trên tủ, chị cho rằng anh bỏ chị với lý do chính đáng.
Anh về Sàigòn cưới vợ và chuyển qua tiểu bang khác để tránh cho chị khó xử, thỉnh thoảng bạn bè hai bên làm “giao liên” đưa tin qua lại để hai người giữ liên lạc với nhau, chị rất vui mỗi lần được tin về anh, tuy vẫn còn buồn nhưng chị chấp nhận số phận hẩm hiu cuối đời, có chèo kéo cũng không được, đố ai giữ được người đi. Nỗi nhớ anh càng da diết hơn khi có bạn đưa tin, anh vẫn nhắc đến chị với tất cả tâm tình, hình như anh còn yêu chị, xa nhau rồi anh mới thấy, khó tìm một phiên bản thứ hai của chị, tuy anh đang vui bên người mới, nhưng hạnh phúc thì chưa ló dạng cuối đường hầm. Có lẽ khoảng cách về tuổi tác, khoảng cách về môi trường sống, tất cả đều lệch giữa hai người, khiến anh trở nên mệt mỏi, ngoài thú vui vật chất, anh thấy thiếu cái không gian sống quen thuộc của anh chị, sự đồng cảm một yếu tố rất quan trọng của cuộc sống lứa đôi. Phải giải thích đến ba bốn lần cách nấu ăn theo kiểu của chị, không nêm bọt ngọt, nước mắm không pha đường… những chi tiết li ti làm cô vợ mới phật ý, cô khóc đã rồi cô hờn ghen với chị, cũng đúng thôi đã bỏ nhau rồi sao anh cứ lôi chị vào giữa hai người. Bản chất duy vật của anh sờ sờ ra đó, an vui thân xác rồi anh mới nhớ cái tâm hồn quen thuộc của chị, cái tâm cái tính con người ta đâu chỉ một ngày một tháng mà nặn ra, khổ cho cô vợ trẻ, bỗng thấy mình “làm vợ đại diện” thay chị, anh cần cái xác của cô cái hồn của chị.
Gía anh nói ra từ đầu chắc cô không ưng anh, vì nghe anh than không hợp với vợ nên cô mới nhào vô, tình nguyện nâng khăn sửa túi cho anh, chăm lo từ miếng ăn đến giấc ngủ, những lời ta thán thật cải lương anh chưa bao giờ nghe từ cửa miệng của chị, từ thời sinh viên, anh đàn chị hát, thế là yêu không cần lời tỏ tình mùi mẫm khuấy động con tim. Với chị, anh nói nửa câu chị đã hiểu đoạn kết. Chả phải dùng nước mắt làm yếu lòng nam nhi, chị im lặng khi hờn dỗi, chị làm lơ là chị trách móc, những câu những từ “mã hóa” giữa anh chị là đặc trưng cuộc sống của hai người không thể thiếu nhau. Cái từ “nhiểu thèm” anh chị hay dùng để nói cái lưng chừng của một chuyện gì đó, cô vợ mới thông dịch ngay ra cái cụm từ tương đương, được dùng “đại trà” của Sàigòn thời nay, cái từ “hơi bị” anh nghe không thuận tai, anh hơi gìa bên cạnh cô vợ mới ngoài ba mươi, may là tuổi chưa đáng cha. Cái văn hóa mở cửa kinh tế, giao lưu quốc tế bên nhà tạo ra lối sống rất là “tiếp thị”. Tất cả trở thành mặt hàng kinh doanh từ tình cảm đến vật chất, nhà nhà kinh doanh, người người mở hãng, công ty tờ nờ hờ hờ (trách nhiệm hữu hạn) mọc lên như nấm trong khắp hang cùng ngõ hẹp, chuyện hôn nhân cũng được xem như một lối kinh doanh hiện đại.
Việt kiều về chơi chỉ mất vài ngày mới thích ứng với cuộc sống tại chỗ, việt kiều về cưới vợ như anh phải “đầu tư” nhiều lắm, thời gian qua lại làm thân, tiền vé máy bay, tiền “trợ cấp” trong thời gian chờ đưa nàng dìa dinh. Mấy cái thủ tục đầu tiên đó anh lướt qua một cái rụp, dễ ợt, việt kiều về quê cưới vợ trẻ, suốt ngày dắt nhau dạo phố, ăn tiệm, “cuộc đời vẫn đẹp sao, tình yêu vẫn đẹp sao” nghe phát mê, cái khó là, ngày trở về anh mốc chung không ít tiền đô biếu bên nhạc gia, về bên này túi tiền xẹp lép, đã thế cô vợ mới lại khóc nhè cả tuần vì nhớ nhà, thảm làm sao. Ba năm sau anh trở về chốn cũ, mang cô vợ Sàigòn ra mắt chị, hai bà vợ đã quen nói chuyện với nhau qua điện thoại.
Vài năm trước, cô vợ mới, lần đầu gọi điện thoại làm quen với chị, cô nói qua tiếng nấc, ảnh vẫn còn yêu chị, ảnh biểu em phải bắt chước chị, không được khóc, phải khéo léo đảm đang, chị ơi em phải làm sao đây. Bên kia đầu dây chị chết lặng, anh vẫn còn yêu chị, tội nghiệp cô em “nhập vai” của chị không đạt, bao nhiêu giận hờn tan biến, đúng lúc lòng chị đang lắng dịu, cái tình của anh lại réo gọi, kỷ niệm vui buồn rủ nhau kéo về chất đầy lòng chị. Từ đó hai người liên lạc với nhau, ban đầu chị không muốn làm thân với cô em, càng không muốn biết về cuộc sống của hai người, nhưng cô em cứ nài nỉ làm chị siêu lòng, và chị nghĩ nếu thương anh, chị nên giúp cô đóng cho đạt cái vai vợ hiền mà chị vừa buông bỏ dù điều đó không do chị quyết định. Biết tính chị nhân hậu, chính anh đã bảo vợ gọi cho chị nhờ giúp đỡ, chị rất cảm động khi cô em nói như thế, chính cô cũng xem chị như một người nhà, thấy cô thật lòng chị không nỡ từ chối giúp đỡ cô, từ đó tình thân phát sinh giữa họ. Có người xấu miệng bảo chị bị “bùa yêu” của cô vợ mới chiêu dụ, chị không phân trần giải thích, chỉ biết số chị sống với anh chừng đó ngày tháng, phần còn lại đời anh thuộc về người khác, không tin bói toán nhưng chị tin định mệnh, có cưỡng lại cũng không được.
Hôm tiễn anh và vợ ra về, chị chúc hai người hạnh phúc, lời chúc từ đáy lòng chị, và chị bỗng thèm một bờ vai để nương tựa những ngày trái trời trở gío, nhưng ngoài anh ra chị không thấy bờ vai nào rắn chắc hơn. Nhìn ánh mắt vời vợi của chị, anh chạnh lòng, nắm tay chị anh thì thầm, xin lỗi anh chưa ra khỏi đời em, chị lắc đầu cười như mếu, thôi mình chia tay anh nhé. Lời giã từ như một câu hát.
Đoàn Thị .
PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Sat Aug 03, 2019 10:52 pm
.
Chiếc nhẫn ân tình - Bùi Thượng Phong
Tôi ra trường mang cấp bậc Thiếu Úy lúc đó còn nhí quá, rượu không uống, cafe cũng không, chỉ biết uống sữa tươi. Cho đến khi vào tù cộng sản vì thua trận năm 1975. Nên giờ chả có 1 mối tình nào để mà nhớ mà thương. Khoảng cuối năm 1967 tôi nhận được Sự-vụ-lệnh về cầm một Đại Đội của một Tiểu Đoàn mới thành lập chưa được bao lâu, thuộc Sư Đoàn 25 Bộ Binh lúc đó đang đồn trú tại quận Đức-Hòa.
TĐ này trước đó mấy tháng, được đặt dưới quyền chỉ-huy của một vị Thiếu Tá rất nổi tiếng bên Biệt-Động-Quân mới chuyển qua. Vì công-sự phòng-thủ chưa hoàn tất, BCH/TĐ phải tạm thời đóng trong một ngôi biệt thự của một nhà máy xay lúa. Lợi dụng cơ hội này, VC đã bất ngờ dùng đặc-công và nội-tuyến, trong một đêm đen tối, chúng đã tràn ngập vào được BCH/TĐ ngay từ những phút đầu, gây thiệt hại rất nặng cho bên ta. Tai hại nhất, chúng đã lấy đi mạng sống của cả hai vợ chồng vị Tiểu Đoàn Trưởng mà ai đã từng là Biệt-Động-Quân cũng đều phải nghe danh: “Thiếu Tá Cọp-Ba-Đầu-Rằn”! Tiếc thương ông và người vợ nữ-lưu anh-hùng, nhưng mọi người thầm tự hỏi: Có phải ông đã quá khinh địch? Hay ông có điều gì bất mãn khi đang trong một Binh chủng nổi tiếng, nay phải chuyển về một đơn vị Bộ binh khiến ông lơ là thiếu cảnh giác? Điều này chỉ riêng mình ông biết! Sau trận thảm bại này, các anh em Binh sĩ trong TĐ xuống tinh thần rất nhiều! Tiểu-đoàn phải chờ bổ xung thêm quân số và cần được “hấp” lại. Và tôi được chuyển về đây cũng trong dịp này. Được nương nhẹ rất nhiều, nhiệm vụ chính của TĐ lúc đó hầu như chỉ là hành quân mở đường và làm an ninh vòng ngoài cho BTL/SĐ25BB tại Đức Hòa. Lâu lâu cũng có hành quân, nhưng chỉ là những cuộc hành quân lục soát quanh vùng, sáng đi chiều về, như công chức!
Trong khoảng thời gian coi như nhàn hạ này, tôi đã quen biết một đứa bé gái tên là Hân, lúc đó khoảng 8, 9 tuổi, là cháu gọi bằng dì của cô Thanh, chủ ngôi nhà mà tôi đã xin phép để đặt BCH/ĐĐ. Tôi chọn nhà cô Thanh vì không những nhà có một sân lớn, mà còn có cả một cái nhà cầu đàng hoàng! Cô Thanh, một phụ nữ khoảng trên dưới ba mươi, không đẹp cũng không xấu, ăn nói rất nhỏ nhẹ, dễ thương. Tôi không thấy chồng cô. Dù cô nghỉ dạy học đã lâu để trông coi việc ruộng nương, nhưng bà con lối xóm vẫn quen gọi cô là Cô Giáo. Dĩ nhiên cô Thanh không hề là đối-tượng của những sĩ quan còn rất trẻ như chúng tôi hồi đó. Còn nhớ ngày đầu tiên gặp và nói chuyện với cô ở ngoài sân, về việc xin tạm dùng căn nhà làm BCH/ĐĐ, tôi thấy có một đứa bé gái đứng dựa lưng một gốc cau gần đó, đang nheo mắt nhìn tôi rất chăm chú. Thấy nó dễ thương, tôi quì một chân xuống ngang tầm nó và ngoắc nó lại. Nó phụng phịu lắc đầu không chịu. Cô Thanh nói như hơi gắt: – Hân không được hỗn, lại cúi đầu chào Thiếu-úy, đi con! Vẫn còn phụng phịu, nó tiến lại gần tôi và lí nhí nói mấy câu gì tôi cũng không nghe rõ! Tôi thông cảm sự thay đổi quá đột ngột đối với gia đình cô giáo, đang vắng vẻ, neo đơn; nay bỗng dưng ồn ào náo nhiệt, ra vào toàn lính là lính! Cô Thanh thì còn bận rộn với ruộng vườn, công thợ… chứ bé Hân thì ngoài giờ đi học, nó đụng độ tụi tôi suốt ngày! Mấy ngày đầu, nó có vẻ còn tránh né, nhưng rồi sau đó quen hết anh hạ-sĩ y-tá này đến bác thượng-sĩ thường-vụ kia. Nó trở nên vui vẻ và hòa đồng rất nhanh với cái không khí ồn ào nhưng kỷ-luật của đời lính chúng tôi. Đặc biệt, Hân quí tôi hơn cả, vì có mấy lần tôi đã giúp em giải một vài bài toán khó trong lớp. Nó quấn quít bên tôi suốt ngày, chuyện trò líu lo không ngừng nghỉ. Có những lần tôi đi hành quân về, nó núp trong bụi, rồi chợt ùa ra ôm lấy chân tôi cười nức nở… Mới 8, 9 tuổi, mà em đã biết dành dụm tiền để mua đường, nấu đãi chúng tôi những bát chè thật ngọt ngào ấm bụng! Bù lại, những lần đi phép, không lần nào tôi không mua cho em, khi thì đồ chơi, khi khác là sách, tập…
Hân mồ côi cả cha lẫn mẹ. Quê em ở mãi đâu vùng An-Hiệp, Thái-Mỹ. Em kể với tôi, nước mắt lưng tròng: Cha em một hôm đi làm ruộng, đạp nhằm phải mìn VC, chết không kịp trăn trối! Hơn năm sau, người mẹ cũng ra đi vì bịnh! Thế là em phải về núp bóng dì em, là cô giáo Thanh. Tôi lúc đó chưa lập gia-đình, thực tình, tôi thương Hân như thương người em út, nó còn kém đứa em út của tôi ba, bốn tuổi! Tuy ở với dì ruột, tôi biết Hân đang thiếu một tình thương phụ mẫu, nhất là hình bóng của một người cha. Và… không phải là một nhà tâm-lý-học, tôi không thể biết nổi: ở tuổi nào sớm nhất, một đứa con gái có thể biết yêu? Vì có một lần, mấy cô bạn gái của tôi từ Sài gòn lên thăm. Khi họ ra về, bé Hân đã đối xử với tôi một cách rất khác thường! Nó lảng tránh và ít nói hẳn, không hồn nhiên như trước nữa! Hình như nó cũng biết hờn, ghen? Tôi nghĩ dù sao, nó chỉ là một đứa con nít! Mà đúng thế, chỉ được hai hôm là cô nàng đã quên hết! Lại dở trò nghịch ngợm, chọc phá như cũ… Hồi đó cứ như thế, tôi lấy tình thương yêu của anh em binh sĩ dưới quyền và luôn của bé Hân như một hơi ấm gia đình. Đang ở cái tuổi tràn đầy nhựa sống, mấy anh chàng sĩ quan lóc chóc như tụi tôi, có thì giờ là la cà tán tỉnh mấy em cỡ tuổi đôi tám, chợt nở rộ như những bông hoa đầy hương sắc miền thôn dã, chẳng hạn như em Huệ con một ông chủ nhà máy xay, hoặc Giáng Tiên, hoa khôi tỉnh Hậu-Nghĩa!
Thế nhưng mấy tháng nhàn hạ qua nhanh như gió thổi, khi TĐ vừa có một sinh khí mới, thì biến cố Tết Mậu-Thân xẩy ra! TĐ hành quân mệt nghỉ, ngày nào cũng có hành quân, ngày nào cũng có đụng độ, mà trận lớn nhất xẩy ra vào trước Tết khoảng 2, 3 ngày. ĐĐ của thằng bạn cùng khóa nhẩy vào giữa một TĐ VC. Chúng đang ếm quân trong khu vực Rạch Gấu, chờ xâm nhập để đánh vào Phú-Lâm ngày mồng một Tết. Hai trực thăng bị trúng đạn phải quay về, ĐĐ của nó thành ĐĐ trừ! Không đủ trực-thăng, ĐĐ của tôi phải lội bộ vào tiếp cứu. Địch áp đảo về quân số, vũ khí có thừa, nhưng mục tiêu của chúng là vùng Chợ Lớn, ngày Tết, không phải là chúng tôi. Thế nên chúng chỉ cầm cự, chờ đêm xuống là rút. Vậy mà mãi mờ sáng hôm sau, tụi tôi mới thanh toán xong mục tiêu. Nhờ những phi-vụ oanh tạc và pháo binh bắn suốt đêm, VC dù đã cố kéo theo, nhưng cũng đành để lại rất nhiều xác chết và vũ khí. Mặc dù vậy, chúng tôi cũng không vui gì khi phải đem xác thằng bạn ĐĐ Trưởng và bốn Binh sĩ dưới quyền của anh! Tội nghiệp, anh quê ở Hóc Môn, ra trường là xin ngay về SĐ 25 cho gần nhà! Khóa chúng tôi đã có một số nhờ tài thao lược, lòng dũng cảm, cộng thêm sự may mắn, đã vượt qua nhiều gian khổ và nguy hiểm mang lại nhiều chiến công vẻ vang cho Quân đội, nổi bật nhất là Trung Tá BĐQ Lê-văn-Ngôn với 510 ngày trấn thủ Tống-Lê-Chân. Đa số còn lại đều đã hy sinh khi còn rất trẻ, trong những trận đánh tuy khốc liệt, nhưng không một ai biết, chẳng một ai hay! Tên tuổi và thành tích hiếm khi được xuất hiện trên trang nhất các nhật báo, mà đa phần chỉ thấy nằm trong những khung hình chữ nhật, mầu tang đen nơi trang bốn! Qua hai đợt Mậu-Thân, tôi sống sót và được thăng Trung-úy, nghĩa là sớm hơn quy định khoảng gần nửa năm, nhưng đến cuối năm 1969 tôi bị thương nặng, miểng mìn văng đầy người. Tệ nhất, có một miểng chém vào động mạch bên nách phải, máu ra rất nhiều và nếu không nhờ trực thăng tản thương về Bệnh viện Dã chiến của SĐ 25 Hoa-Kỳ, chắc chắn là tôi đã theo mấy thằng bạn vui vẻ về miền quá cố rồi! Khi cơn thập tử nhất sinh đã qua, tôi được chuyển về nhà thương Cộng-Hòa. Một hôm tôi đang nằm cho Y tá rửa vết thương và thay băng thì có mấy anh em Ban 5 Trung và Tiểu Đoàn lên thăm. Tôi ngạc nhiên hết sức khi thấy có cả bé Hân trong đó. Nó chạy ngay lại ôm lấy tôi, nước mắt đầm đìa… Ông Thượng-sĩ thường-vụ của tôi sau khi thăm hỏi xong, nói nhỏ vào tai tôi: – Ngày nào nó cũng lên TĐ, xin bằng được nếu khi nào TĐ lên thăm thương bịnh binh, nhớ cho phép nó đi theo! Tôi nhìn xuống con bé đang rúc cái đầu bé nhỏ vào bụng tôi, tấm thân mảnh mai của em thì rung rung theo tiếng nấc. Tôi cúi xuống hôn trên mái tóc mềm mại của nó và cứ để như vậy một lúc lâu, bởi vì chính trong lòng tôi cũng đang nghẹn ngào, xúc động! Lúc sau, tôi nâng cầm nó lên, trấn an nó: – Chú không sao đâu. Chỉ một thời gian ngắn nữa là chú sẽ lành vết thương và sẽ được xuất viện. – Rồi chú có trở lại Đại đội không? Nó ngước mặt e ngại hỏi tôi điều mà nó quan tâm nhất. – Chú cũng không biết nữa, chắc là phải ra một Hội-đồng Quân-y để họ giám định. Sau đó, chú mới biết. – Vậy khi nào xuất viện, chú xuống thăm Hân nha? Tôi mỉm cười nhìn nó: – Chắc chắn là chú sẽ đến thăm Hân và các anh em trong Đại-đội, ngay khi nào chú có thể đi được.
Lúc này mới thấy nó nở một nụ cười, rồi cúi xuống nhấc lên một túi nhỏ và lấy từ trong đó ra một ít trái cây để trên chiếc bàn nhỏ đầu giường. Thì ra nó cũng biết đem quà cho thương binh! Phái đoàn thăm viếng lúc này đã xin phép tôi để qua thăm các anh em thương binh khác. Trước khi ra khỏi phòng, ông Thượng sĩ thường vụ cúi sát tai Hân dặn dò: – Khoảng nửa tiếng nữa con ra chỗ đậu xe để về nha. Về sớm cho an toàn. Nó ngoan ngoãn gật đầu, rồi bắt đầu bi bô: – Tháng trước ai trong Đại đội cũng tin là chú đã chết rồi. Tiểu-đoàn không có tin tức gì vì chú nằm ở Bệnh viện Mỹ. Mãi sau, khi họ chuyển về Cộng-Hòa mới biết chú còn sống. Dì Thanh có dắt Hân đi cầu nguyện trên chùa hoài. Dì con nói gởi lời thăm chú. Đến đây, nó bắt đầu quay qua nhìn mấy vị sĩ quan thương binh khác nằm cùng phòng. Chợt thấy chiếc nhẫn của tôi để trên mặt bàn lúc tháo ra cho Y tá rửa vết máu trong các ngón tay, nó cầm lên ngắm nghía rồi hỏi : – Nhẫn này của chú? Sao bự và đẹp quá vậy? – Ừa, nhẫn của chú. Đây là chiếc nhẫn lưu-niệm của trường Võ-Bị Đà Lạt, lúc mãn khóa ai cũng có. – Chú quý nó lắm? – Chú rất quý nó, và chú đã đeo nó từ khi ra trường.
Nó nhẹ nhàng để lại chiếc nhẫn vào chỗ cũ, rồi quay ra ôm lấy tôi, như thể không muốn xa rời. Nó kể đủ thứ chuyện ở Đức-Hòa, đâu là Đại đội đã có Đại Đội Trưởng mới, nhưng không còn đóng ở nhà nó nữa, các chú trong BCH/ĐĐ vẫn thường ghé thăm luôn… Nửa giờ sau, ông Thường-vụ đã xuất hiện ở cửa phòng, nói với vào. – Chào Trung-úy đi Hân, đến giờ về rồi. Hân bắt đầu lúng túng, vòng tay bé nhỏ, nó cố ôm lấy tôi. Mấy phút sau, tôi phải nhẹ nhẹ gỡ nó ra: – Thôi Hân về đi không họ chờ. Nó nhìn tôi như muốn khóc: – Chú hứa nha! Đừng quên đến thăm Hân nha, Hân chờ đấy! Nói rồi nó buông tôi, từ từ bước ra cửa, hình như nó đã khóc. Đến cửa phòng, nó quay lại nhìn tôi, bàn tay bé nhỏ của nó đang cố chùi những giọt lệ… Không cầm lòng được, tôi gọi nó: – Hân lại đây với chú. Tôi cầm chiếc nhẫn lưu-niệm của tôi, nhẹ nhàng để vào lòng bàn tay của nó: – Hân giữ cho chú chiếc nhẫn này. Giữ thật kỹ và đừng cho ai biết. Hân biết là chú quý nó như thế nào rồi. Khi nào xuất viện chú sẽ đến thăm Hân và Hân đưa lại cho chú, Thế có được không? Thật không ngờ, cái ý-kiến bất chợt đến với tôi lúc đó lại có tác dụng ngay. Hân vui mừng ra mặt, ít nhất nó đã có một vật làm tin kèm theo lời hứa. Lau hết nước mắt nó thủ thỉ: – Dạ, con sẽ giữ thật kỹ, chờ khi nào Trung-úy đến con giao lại. Tôi xoa đầu nó rồi đẩy nhẹ nó về phía cửa. Lần này, nó quay lại mỉm cười nhìn tôi và rồi bóng nó từ từ lẫn vào với dòng người thăm viếng bên hành lang Bệnh-viện…
Tôi xuất viện sau đó chừng một tháng, và phục hồi mau lẹ. Tuy vậy, phải chờ đến tháng ba năm 1973 tôi mới nhận được giấy tờ giải ngũ chính thức. Nhìn ngó bên ngoài, tôi may mắn không mất mát gì cả, nhưng những ngón tay bên mặt, nhất là ngón trỏ, không co duỗi bình thường được. Cầm tờ Chứng-chỉ giải-ngũ trong tay, tôi ngậm ngùi: thế là vĩnh viễn giã từ vũ khí! Trong khoảng thời gian chờ quyết-định của Hội-Đồng Quân-Y, tôi đã đi Đức-Hòa thăm lại chốn xưa. ĐĐ của tôi gần như hoàn toàn mới, chỉ trừ một vài anh em trong BCH/ĐĐ nhận ra tôi, còn lính tráng hầu hết là lính mới, nhìn tôi như nhìn một người xa lạ! Chiến tranh đã làm thay đổi nhanh không thể ngờ được! Tôi lần mò đến nhà cô giáo Thanh để thăm cô và bé Hân nhưng thật không may, người nhà cho biết hai dì cháu cô đã đi ăn đám giỗ bên Bình Thủy, có lẽ đến chiều mới về. Tôi buồn rầu về lại Sài Gòn, tự hứa sẽ trở lại vào một dịp khác. Chiến tranh vẫn còn đó, chiến trận gia tăng khắp mọi nơi, nhưng Sài gòn vẫn còn là một mảnh đất khá bình yên! Nó như một hải đảo nằm giữa một biển lửa. Và tôi đã phải cố gắng để thích ứng với cuộc sống hoàn toàn thay đổi. Dù sao, tôi vẫn còn trẻ. Tôi làm việc như một cái máy, nhưng tôi không còn bị cô đơn, cái cô đơn của một người chỉ huy, dù chỉ là một cấp nhỏ; tôi tự do, không còn bị ràng buộc vào một trách nhiệm có liên can đến sinh mệnh của nhiều người khác. Tâm trạng thả lỏng này đã dẫn tôi đắm mình trong thụ hưởng, để bù lại cho bao năm tháng tuổi xuân đã qua đi trong quân-trường và ngoài trận địa. Bận rộn vì công việc lúc ban ngày, say mê trong ánh đèn mầu của các vũ-trường vào ban đêm, tôi gần như đã quên hẳn Hân, một đứa bé đang ở một nơi thiếu an ninh, mà chỉ một năm trước, tôi đã coi nó như một đứa em ruột thịt. Tôi đã tự khất lần, và ngần ngại không muốn ra khỏi Đô-thành, nơi mà lúc nào cũng có những cuộc vui đang chờ sẵn.
Khoảng đầu năm 1974, nhân một chuyến đi Trảng Bàng, tôi ghé vào Đức-Hòa và gặp lại Hân. Căn nhà vắng vẻ, khu xóm cũng thiếu bóng những người lính, có lẽ họ đang bận rộn trong một cuộc hành-quân nào đó. Khi tôi đến, chỉ có mình Hân ở nhà, cô Thanh có lẽ đang đi coi ruộng vườn. Hân lúc này không còn bé nữa, em đang là một thiếu-nữ tràn đầy nhựa sống với một vẻ đẹp tự nhiên và tuyệt mỹ mà Thượng-Đế chỉ dành cho những người con gái đương độ thanh xuân. Em mừng đến rơi cả nước mắt khi thấy tôi. Rót nước mời, em vẫn thân mật nhưng tỏ ra hơi e thẹn, cái e thẹn dễ yêu của các cô gái đang dậy thì. Hân cho biết em đã trông mong tôi từng ngày, và rất ân hận vì lần trước tôi đến, mà em không được gặp. Lấy chiếc nhẫn dấu kín trong hộc tủ, Hân đưa nó sát mặt tôi, rồi nắm vội nó trong bàn tay và ấp lên ngực: – Hân biết đây là chiếc nhẫn lưu-niệm của chú, nó lưu lại những kỷ-niệm của chú với Quân-trường Đà Lạt; nhưng bây giờ, nó cũng đã trở thành một vật lưu-niệm của Hân. Nó đã lưu lại những kỷ-niệm giữa Hân và chú. Hân muốn được giữ nó lâu hơn nữa, như vậy có được không? Tôi cảm động trước những lý lẽ phát ra tự con tim của em: – Hân cứ giữ nó đi, như vậy khi nào chú đến với Hân, chú sẽ được gặp cả hai. Quá vui mừng, quên cả e thẹn, Hân chạy lại ôm tôi, và nói trong cảm động: – Thực ra, khi có chiếc nhẫn bên mình, Hân có linh cảm là chú sẽ luôn luôn quay về tìm Hân, và như vậy Hân sẽ không bao giờ mất chú. Tôi ôm chặt Hân, và hôn nhẹ trên trán em như vài năm trước, khi em còn rất nhỏ. Hình như Hân muốn nhiều hơn thế, em từ từ ngước mặt lên để mong hai làn môi chạm nhau, nhưng tôi đã tự dừng lại bằng cách buông lỏng em. Có phải tôi đang còn bối rối giữa Hân, một đứa bé và Hân, một cô gái đang độ xuân thì? Chúng tôi chia tay nhau khi ánh chiều vừa xuống. Tôi hứa với Hân sẽ lên thăm em thường hơn. Cả hai cùng bịn rịn, không nỡ rời nhau, nhưng rồi phút chia ly cũng phải tới, tôi lên xe về lại Sài gòn mang theo một hình ảnh của Hân, đầy nước mắt…
Những tháng ngày sau đó, thời cuộc biến đổi không ngừng… Tất cả đều thất lợi cho miền Nam chúng ta. Ngay cả con đường từ Sài gòn đi Đức-Hòa cũng không còn an ninh nữa! Tiếp đến là những biến cố dồn dập, nó đến nhanh quá, như dòng thác lũ, như cơn đại hồng thủy, nó cuốn đi hết cả… Không kịp nữa rồi, những gì ta không làm, hoặc chưa làm, đành phải xếp lại trong niềm hối hận khôn nguôi… Câu “nước mất, nhà tan” thật là thấm thía với tâm trạng của những người bỏ nước ra đi ngày ấy! Ra đi là không bao giờ nghĩ đến ngày trở lại, ra đi là chấp nhận cả một trời mù mịt, đau thương! Tôi cũng ở trong số ít những người “bất hạnh nhưng may mắn” này! Tất cả Nhân dân miền Nam coi như gẫy cánh nửa đường; có khác chăng, chỉ là mỗi người “gẫy” một kiểu. Riêng tôi đã gẫy một lần rồi, vừa mới bắt đầu xây dựng lại, thì nay lại gẫy thêm một lần nữa…
***
Vật lộn với cuộc sống đến năm thứ 32 trên nước Mỹ, tôi quyết định nghỉ hưu vì đã thấm mệt, cả thể xác lẫn tinh thần. Những chuyện ngày xưa khi nhớ, khi quên. Nhiều chuyện quên hẳn, như gió thoảng, như mây bay! Dòng đời thay đổi, cũng chỉ là lẽ tự nhiên của cuộc sống! Những ngày, tháng buồn tênh, tôi chợt nhớ đến một câu thơ, không biết đã đọc được ở đâu và ai là tác giả: Khi ta ở, đất chỉ là đất, Khi ta đi, đất đã hóa linh hồn! Vâng, linh hồn của đất, của những nơi ta đã từng đi qua, những nơi ta đã từng dừng lại… Nó đã có một linh-hồn, và linh-hồn đó đã ám ảnh tim ta, như muốn gọi ta về. Và… tôi đã về thăm lại Sài gòn vào năm 2007!
Vẫn biết đổi thay là lẽ tự nhiên của cuộc sống, sao tôi vẫn thấy bàng hoàng, tiếc nuối những ngày xa xưa?! Lang thang mãi ở Sài gòn, chán! Một hôm, tôi trở lại Đức-Hòa, tò mò muốn biết giờ nó ra sao? và… những người muôn năm cũ…? Hơn ba mươi năm đã trôi qua, vật đổi sao rời, bóng chim tăm cá. Đức-Hòa đã thay đổi theo một chiều hướng đi xuống! Ngày xưa, dù đang là thời chiến tranh, nó vui nhộn biết là bao: hàng quán, lính tráng, người mua kẻ bán ồn ào, tấp nập. Những con đường, tuy chỉ nhỏ vừa cho hai xe nhà binh tránh nhau, nhưng đầy bóng mát của những hàng cây cao… Giờ đây, có những con đường mới mở, rộng thênh thang, thẳng tắp, nhưng trống trơn dưới ánh nắng như thiêu như đốt, không một bóng cây; xe cộ thì lẻ loi vài chiếc! Thị-xã giống như một cô gái quê, xấu, đang cố làm dáng với những vết son vụng về tô vội! Đến khu Bình Tả, nơi ngày xưa tôi đã đóng quân. Cảnh vật không thay đổi nhiều, nhưng sao trông thật hoang sơ, buồn thảm. Tại một ngã ba, ngày ấy có một cái quán lụp xụp, lúc nào cũng ồn ào những lính. Chính tại nơi đây, tôi đã ăn một tô hủ tíu ngon nhất trong đời! Đi vào sâu hơn khoảng trăm mét là ngôi biệt thự nhà máy xay. Căn nhà hình như đang bỏ hoang. Hỏi thăm thì biết cô Huệ đã định cư bên Úc từ lâu. Cô Giáng Tiên, hoa khôi Hậu-Nghĩa, nghe nói sau này lấy một Sĩ-quan Biệt-động-quân đẹp trai, giờ này chắc đang ở bên Mỹ. Đi sâu hơn nữa thì gặp tàn tích của một cái đồn, đồn này là của Tiểu-đoàn chúng tôi hồi đó. Gần đấy có cắm một cái bảng nhỏ, trên đề: Di tích lịch-sử – Cấm đến gần! Tự nhiên, tôi thấy lạnh toát người. Có phải anh linh của bao nhiêu Chiến sĩ ngày xưa, vẫn như còn đang phảng phất đâu đây?! Ra thăm khu trung tâm Thị-xã, ở đây có thay đổi chút ít. BTL/SĐ25 BB nay hình như đang là một khu dành cho trẻ em, ngay trước cổng vào có một căn nhà nhỏ, trong đó trưng bầy hình ảnh và những kỷ-vật của ông Võ văn Tần! Chợ Đức-Hòa có xây một mặt tiền mới, quay về hướng khác, nhưng bức tường mặt tiền cũ vẫn còn nguyên.
Đang ngơ ngáo nhìn ngó cảnh vật, tôi chợt để ý có một bà cụ cứ chăm chú nhìn tôi. Bước đi vài bước, bà lại quay đầu nhìn lại; cuối cùng bà cụ đến gần nhỏ nhẹ hỏi tôi: – Nếu không phải, xin ông thứ lỗi. Phải ông đây là Trung-úy Phong không? Tôi giật bắn người. Chắc chắn đây là một người quen biết với tôi, nhưng nghĩ mãi, tôi đành chịu: – Dạ, tôi là Phong đây! Xin lỗi, trí nhớ tôi hơi kém, bà đây là…? – Trời đất, Mô Phật! Thiệt không ngờ cũng có ngày tôi lại gặp được Trung-úy ! Tôi là Thanh đây. Xưa Trung-úy có đóng quân nhà tôi, Trung-úy còn nhớ không? Lúc này thì hình ảnh của một cô giáo Thanh ngày xưa đã lờ mờ lẫn vào khuôn mặt già nua của bà cụ, tôi mừng rỡ : – … Cô giáo Thanh. Tôi nhận ra rồi. Tôi nhận ra rồi. Chà, cô trông còn mạnh lắm, đi không cần chống gậy mà. Xin mời cô vô quán nước đây ta ngồi nói chuyện. Đôi mắt già nua của cô Thanh đã thấy có ánh nước, cô cầm tay tôi ân cần: – Thôi, quán xá gì. Chắc là Trung-úy ở nước ngoài về thăm Quê hương? Trung-úy có rảnh mời ghé lại tôi uống miếng nước. Nhà cũng gần đây thôi. – Dạ. Tôi ra khỏi nước từ năm 75, giờ nghỉ hưu rồi mới có dịp về thăm lại. Hồi nãy đi ngang, tôi thấy nhà cũ của cô giờ dường như là một nhà máy gì đó? – Bị nhà nằm trong khu “quy-hoạch”, nghe đâu họ đã bán đất đó cho Hàn quốc lập nhà máy may gì đó. Tôi phải mua bậy một căn nhà cũng gần chợ đây thôi, cho nó tiện. Mời Trung-úy đi theo tôi, chút xíu là tới à.
Lẽo đẽo theo chân bà cụ đi sâu vào một con đường nhỏ ngang hông chợ, tôi ngần ngại ngỏ ý: – Tôi giã từ Quân đội lâu lắm rồi, cô Thanh cứ gọi tôi bằng tên cho tiện. – Không có sao đâu. Ở đây bà con cỡ tuổi tôi, ai cũng quý những người lính Cộng Hòa khi xưa! Lại bởi tôi quen miệng rồi, tôi nhớ Trung-úy là Trung-úy, gọi khác nghe kỳ lắm. Đến đây, mặc dù tận đáy lòng, như có một chút gì hơi hổ thẹn vì sự thất hứa năm xưa, nhưng tôi không thể quên được Hân: – Thế cháu Hân giờ sao rồi? Chắc cũng con cháu rầm rề cả!? Cô Thanh bỗng như chùng xuống, cô nói rất nhỏ, giọng run run : – Cháu… cháu nó không còn ở với tôi nữa. Vừa lúc đó, cô dừng lại trước một căn nhà, nhà của cô. Phải qua một cái sân nhỏ trước khi vào tới phòng khách. Cô Thanh dơ tay: – Dạ, mời ngồi. Để tôi lấy nước trà mời Trung-úy. Trong nhà còn có hai vợ chồng người bà con của cô, tuổi khoảng ngũ tuần. Cô Thanh sai họ châm bình nước trà, đoạn rót ra trân trọng mời tôi. Không giữ được kiên nhẫn, tôi hỏi: – Hồi nãy cô nói cháu Hân không còn ở với cô. Vậy giờ cháu đang ở đâu? Sau một hơi thở thật dài, cô Thanh bỗng bật lên khóc nức nở. Hai tay bưng mặt, cô nói trong tiếng nấc: – Cháu nó đã mất rồi ! Nó bỏ tôi đã gần ba chục năm rồi Trung-úy ơi! Tôi bàng hoàng, choáng ngợp như vừa bị dội cả một thùng nước lạnh vào người! Qua một phút xúc động đến tột cùng, tôi lấy lại bình tĩnh: – Cháu nó qua đời như thế nào, cô có thể cho tôi biết được không? – Chuyện cũng hơi dài dòng, vì vậy tôi có ý mời Trung-úy tới nhà, mình có nhiều thời gian hơn. Cô Thanh có vẻ đã lấy lại được chút bình tĩnh, cô tiếp: – Tôi nhớ nó mất năm Mậu Ngọ, 1978. Lúc đó khó khăn lắm, cả nước đói! Ở quê như chúng tôi mà cũng phải ăn độn! Cháu Hân bỏ học ngay từ năm 75. Nó nói học hành gì mà tối ngày họp tổ, họp đoàn, rồi chửi bới chế độ cũ… Vậy mà cũng không thoát, nó phải nhập vào cái gì kêu là Thanh-niên Xung-phong gì gì đó, đi làm thủy lợi. Nghĩa là đào kinh, đắp mương đó, Trung-úy. Ngừng lại vài giây như thể để lấy thêm sức, cô tiếp: – Hồi đó nó đang tuổi con gái, mà ăn uống thì thiếu thốn. Lại thêm thi đua này nọ, nó bị mất sức nhiều lắm, rồi bị sốt xuất huyết. Bịnh cũng không đáng gì, nhưng thuốc men hồi đó hoàn toàn không có. Ăn còn không đủ, nói chi thuốc!… Lúc đó nó mới vừa 19 tuổi. Đến đây, cô lại ôm mặt nức nở… Tôi lại gần cô, vỗ về an ủi: – Số phận đã an bài như vậy, không cho em qua được cơn khó khăn. Cô cũng không nên rầu rĩ quá không có lợi. Tuổi cô cũng như tôi, ngày một yếu kém… – Tôi cũng biết vậy, và tôi cũng đã cố giữ gìn sức khỏe, để sống đến ngày hôm nay…
Nói tới đây, cô Thanh từ từ đứng dậy, hướng dẫn tôi đi về phía bàn thờ giữa căn nhà. Phía trên bàn thờ, tôi thấy có treo hai tấm hình lớn mà tôi đoán là song thân của cô Thanh; đặt trên mặt bàn thờ phía bên trái, có ba tấm hình mà một trong ba tấm đó, tôi nhận ra là em Hân. Hình chụp có lẽ vào lúc em 17, 18 tuổi, trông xinh đẹp như một bông hoa đang nở. Khi tôi nhìn em thì đôi mắt của em cũng đã nhìn vào tôi từ lâu lắm rồi, có lẽ ngay từ khi tôi bước vào căn nhà này! Thắp nén nhang, tôi biết tim tôi đang chảy ra thành nước, và dòng nước ấm đó đang chảy ngược lên phía đôi con mắt… Khói nhang bốc lên không gian và tỏa rộng. Ánh sáng yếu ớt khúc-xạ qua làn khói, làm như em đang mỉm cười nhìn tôi. Có lúc lại không phải là cười, mà đang nhìn tôi như trách móc!? Mắt tôi bỗng nhiên hơi mờ đi, hình ảnh của Hân, một buổi chiều xa xưa trong dĩ-vãng bỗng hiện về, bé nhỏ lẫn trong đám người thăm viếng ở Bệnh-viện Cộng-Hòa, em quay lại mỉm cười nhìn tôi… Và rồi lần cuối cùng tôi gặp, cánh tay bé nhỏ dơ lên chào tạm biệt khi tôi trở về Sài gòn, mắt em đầy lệ… Một âm thanh mơ-hồ như vọng lại từ một nơi nào xa, xa lắm: – … Đừng quên đến thăm Hân nha, Hân chờ đấy!… Người tôi lúc đó như muốn rũ xuống, tôi cố gắng hết sức đứng thẳng người, nhìn tha thiết vào đôi mắt em, cầu xin một tha thứ. Ngay trước bức hình của em, tôi thấy có một hộp nhỏ bằng nửa bàn tay, khảm xà cừ mầu đen rất đẹp. Thấy tôi nhìn vào chiếc hộp nhỏ, cô Thanh nói như khuyến khích: – Trung-úy cứ cầm lên và mở ra coi.
Tôi nhẹ nhẹ cầm chiếc hộp lên bằng hai tay và mở nó. Một thứ ánh sáng như lóe lên: chiếc nhẫn Võ Bị năm xưa của tôi hiện ra, sáng bóng, nằm trong hộp trên một miếng nỉ trắng. Cầm chiếc nhẫn trên tay, tôi chợt rùng mình, dường như có một luồng điện nhẹ đang chạy qua khắp châu thân! Qua bao năm tháng, chiếc nhẫn vẫn còn đây mà người xưa đã mất. Chiếc nhẫn như nhắc tôi một lời hứa mà tôi không giữ trọn! Nhìn giọt nước mắt rơi, tôi mới biết mình đang khóc. Thực lòng, tôi cũng không biết tôi đang khóc vì vui mừng thấy lại một kỷ-vật xưa, hay đang khóc vì tràn đầy ân hận. Rồi như một phản xạ, tôi đưa nó lên gần miệng, hà một hơi ấm vào viên hồng ngọc rồi chà sát nhẹ nhẹ vào ngực, phía trái tim. Nhạt nhòa trong nhang khói, tôi thấy Hân như lại mỉm cười. Có phải tôi tưởng tượng không, hay đang có một thần giao cách cảm? Cô Thanh từ nãy chỉ đứng yên lặng theo dõi, bỗng cô nói, giọng nhẹ như hơi thở: – Những lúc còn tỉnh, cháu nó đã kể hết cho tôi nghe vì sao nó có chiếc nhẫn này. Trước đó, nó đã giấu cả tôi, giữ kín và âm thầm chờ mong cho đến những ngày cuối cùng. Trước khi nhắm mắt, nó còn dặn tôi phải để chiếc nhẫn này ngay trước hình thờ của nó, vì nó quả quyết là sẽ có một ngày, một ngày Trung-úy sẽ tìm đến. Ngừng một phút, cô nói thật nhỏ, như nói với chính mình: – Cũng phải mất hơn ba chục năm! Giờ thì châu đã lại về hiệp phố! Đặt lại chiếc nhẫn vào trong hộp và trân trọng để chiếc hộp vào đúng chỗ ban đầu, tôi quay qua cô Thanh: – Thưa cô, chắc nó không cần về “hiệp phố” nữa đâu. Tôi giữ nó chỉ có khoảng 5 năm, thế mà chiếc nhẫn này nó đã ở bên em Hân những trên ba mươi năm, những lúc em còn sống và cả những lúc em đã qua đời. Tôi không thể hình dung được rồi mai đây, bên hình của em sẽ chỉ còn là một khoảng trống. Tôi biết khi xưa, em luôn luôn muốn có chiếc nhẫn này ở bên cạnh. Cái chỗ đúng nhất của nó là ở trong cái hộp này, ở tại nơi đây! Xin phép cô, cho tôi cứ để nó bên em Hân mãi mãi… Âm dương là muôn đời cách trở, nhưng tôi muốn mượn chiếc nhẫn này, như một vật xúc-tác giữa hai linh hồn, một linh hồn sống tha-phương nơi đất khách quê người, và một linh hồn mãi mãi trên Quê hương…
***
Cô Thanh ân cần mời tôi ở lại dùng cơm chiều, nhưng tôi phải từ chối vì không muốn trở lại Sài gòn khi quá tối. Tôi hẹn tuần sau sẽ lên để thăm mộ và đốt cho em Hân một nén nhang. Khi tiễn tôi qua chợ, cô cười nói với tôi: – Trung-úy biết không, khi mua lại căn nhà gần chợ này, tôi cũng có chủ ý là được thấy thật nhiều du khách Việt-kiều. Thấy ai có dáng Việt-kiều là tôi ngó thiệt kỹ. Không dè cũng có ngày Trời Phật thương. Tôi mỉm cười trước những ý nghĩ chân chất và đôn hậu của một người miền Nam như cô Thanh. Từ giã cô, tôi theo Tỉnh lộ 10 để về Sài gòn. Trước kia con đường này ít khi được xử dụng vì luôn luôn bị đắp mô, mìn bẫy…
Thương hải biến tang điền! Ngàn xưa đến ngàn sau, dù muốn hay không, đổi thay mãi mãi vẫn là một bản chất tự nhiên của cuộc sống! Chỉ có tình-cảm của con người, có những thứ tình-cảm mà đời đời, không bao giờ thay đổi… Vậy mà nhiều khi tôi vẫn đinh ninh rằng: Đã mất hết cả rồi!
Bùi Thượng Phong .
NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Wed Aug 07, 2019 4:34 pm
.
Chuyện anh tiến sĩ chưa vợ - Đỗ Duy Ngọc
Năm nay hắn 42 tuổi, có bằng Tiến sĩ, nhìn cũng không đến nỗi nào, nhưng chưa lần nào có vợ. Đó là nỗi khổ tâm của hắn, cũng là nỗi buồn của bố mẹ hắn. Bố mẹ hắn là giáo sư trước 1975, bố dạy Vật lí, mẹ dạy Pháp văn, trường nổi tiếng nhất miền Nam Việt Nam thời ấy: Trường Pétrus Ký. Bố hắn dân Bắc Kỳ Hà Nội di cư bằng tàu há mồm 1954, con nhà vốn nề nếp gia phong ở xứ Tràng An. Mẹ hắn dân Sài Gòn thứ thiệt đã mấy đời, cũng thuộc giòng trâm anh thế phiệt, học trường Tây Marie Curie, đậu đủ Bac. un, Bac. deux của nền giáo dục thực dân Pháp, cộng thêm cái bằng tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn ban Pháp văn.
Ngôi nhà hắn và bố mẹ hắn đang ở là một ngôi biệt thự xưa rộng ngàn thước vuông trên đường Bạch Đằng Bình Thạnh. Đây là căn villa do ông bà ngoại hắn để lại. Nói chung, hắn như là cậu công tử quý tộc, hội đủ tinh hoa của cả hai miền Nam Bắc. Nhưng hắn không được hưởng phú quý, vì hắn sinh vào tháng 11.1975, lúc bộ đội miền Bắc đã vào miền Nam, thống nhất đất nước. Hắn ra đời trong hoàn cảnh cả nước khó khăn, đói nghèo nên gia đình hắn cũng bị chút ảnh hưởng. Mẹ hắn bán dần đồ đạc để qua cơn ngặt nghèo, bắt đầu từ chiếc xe hơi Volkswagen của bố với giá đồng nát, rồi đến cái đàn piano của mẹ, rồi máy móc, đến một phần tủ sách quý của bố hắn cũng phải ra đi. Cũng may nhà hắn có cái để bán. Miền Nam đã thực hiện được một nửa lời dạy của lãnh tụ: Không có gì quý...khi bán đến mấy món nữ trang thì mẹ hắn khóc vì đó là những món của ông bà ngoại để lại, cũng như khi bán một phần tủ sách trốn thoát được qua vụ đốt sách trong chiến dịch bài trừ văn hoá đồi truỵ, phản động, bố hắn cũng rơm rớm nước mắt, bỏ ăn mấy bữa. Nhưng thật ra nhà hắn còn sung sướng hơn lắm người chung quanh, những người bên thua cuộc không còn gì để bán. Hắn vẫn còn sữa để uống, còn có chút thịt, cá trong những bữa cơm, dù ít ỏi. Đúng ra là cả nhà hắn đã di tản từ những ngày cuối tháng 4.1975, nhưng lúc đó mẹ hắn đang mang thai hắn mới hai tháng, sợ hư thai đứa con cầu tự, bố mẹ hắn ở lại. Gia tộc hắn cũng ngộ. Ông nội hắn là con độc đinh, bố hắn cũng chẳng có anh chị em, ông bà ngoại cũng chỉ có mình mẹ hắn, đến đời hắn cũng vậy, chỉ sinh được mình hắn rồi hình như mẹ hắn hết trứng hay bố hắn khô mất tinh trùng, chẳng đẻ thêm đứa nào. Hắn được cưng chiều và bảo bọc tối đa. Từ lúc bắt đầu cắp sách đến trường, bố mẹ hắn nhồi nhét đủ thứ kiến thức vào cái đầu non nớt của hắn. Lúc nào cũng học và học. Hắn không có tuổi thơ, không biết những trò chơi của trẻ nhỏ. Hắn chỉ biết những con chữ và những bài toán, những công thức khô khan. Sách truyện được bố mẹ hắn chọn lựa kỹ càng và chỉ đọc những thứ đã được lựa chọn. Nhiều lần trong lớp học, hắn ngơ ngác khi nghe bạn bè hắn nói chuyện, trao đổi với nhau, hắn thấy hắn ở thế giới khác và bằng lòng với thế giới không giống mọi người đó. Và đương nhiên, hắn học rất giỏi, bất cứ học lớp nào, cấp học nào hay trường nào, hắn vẫn là đứa học trò xuất sắc nhất trường, nhưng đồng thời cũng là đứa học trò ngơ ngác nhất trường, hắn chẳng biết gì ở cuộc đời, hắn chỉ biết những điều có trong sách vở. Bố hắn chở hắn đi học tứ khi hắn vào nhà trẻ cho đến khi hắn lấy xong bằng thạc sĩ. Đều đều mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, lúc nào hai bố con cũng đi với nhau. Vì thế hắn không có bạn, hắn không bao giờ tham gia cắm trại, đi pic nic, sinh hoạt với bạn bè, bố mẹ hắn cấm triệt, sợ hắn bị lây những tật xấu, thói hư của đám trẻ. Hắn lớn lên trong lối giáo dục ấy, hắn không có ý thức phản kháng, tinh thần tự lập, hắn được dạy phải vâng lời và như thế hắn cũng chẳng có một chút kiến thức nào về chuyện trai gái, bồ bịch hay chuyện tình dục. Ngay khi hắn lún phún lông tơ và lúc hắn phóng tinh trong giấc ngủ lần đầu tiên của tuổi dậy thì, hắn cũng báo cáo với bố mẹ và hai người bảo hắn đó là điều dơ bẩn, dâm ô, không nên tìm hiểu và lưu tâm đến. Hắn nghe lời và không quan tâm nữa.
Hắn đậu tốt nghiệp phổ thông năm mười tám tuổi, đương nhiên là hạng giỏi, thi đậu vào trường Bách khoa cũng ở thứ hạng cao. Trong những năm đi học, bố mẹ hắn cứ khuyên răn mãi điệp khúc là không được quen cô gái nào, phải chú tâm vào chuyện học hành, vì chuyện vợ con lúc nào cũng được, còn chuyện học hành là phải làm ngay, không được trễ nải. Và đương nhiên, hắn cũng vâng lời. Lấy xong cử nhân, hắn tròn 22 tuổi. Ra trường với bằng đỏ thủ khoa, hắn được học bổng làm nghiên cứu sinh ở Úc. Bố mẹ hắn bàn cãi mãi, đắn đo mãi, cuối cùng quyết định để hắn học Thạc sĩ ở Việt Nam, nhường suất đó cho người khác vì sợ hắn đi học xa, không ai kèm cặp, quan tâm, sợ hắn hư hỏng rồi mất tiêu đứa con ngọc con ngà. Thế là hắn ở lại, học xong thạc sĩ. Năm đó hắn đã 24 tuổi, kiến thức chuyên môn tràn trong óc hắn, nhưng với cuộc đời, hắn vẫn là một đứa bé mới lớn, chả biết quái gì. Suốt ngày chúi mũi vào sách vở, rảnh rỗi thì ra sân chơi với mấy con chó kiểng nhà nuôi. Và cũng chẳng biết gì về đàn bà, con gái. Bạn học của hắn gọi hắn là "Cha cố". Thật ra hắn còn kém hiểu thế giới phụ nữ còn thua các linh mục là cái chắc. Hắn nộp đơn xin đi làm, với thành tích học tập của hắn, chuyện xin việc làm dễ ợt, ba bốn chỗ nhận hắn, hắn quyết định vào làm việc với tư cách kỹ sư tại Viện Khoa học Kỹ thuật thành phố. Đến lúc này, bố mẹ hắn mới đề cập chuyện vợ con của hắn. Đi làm về, sau bữa cơm, mẹ hắn hay mon men hỏi xem trong cơ quan hắn có bao nhiêu nữ, có cô nào đẹp không, có để ý cô nào không, hôm nào mời về nhà chơi...Lúc đầu hắn cũng lúng túng, rồi lưu tâm và phát hiện trong phòng của hắn có một cô bé có khuôn mặt xinh xinh, hay nhìn hắn cười cười. Cô gái nhìn cũng được mắt, chỉ tội hơi béo tí và hay cười nói hơi vô duyên. Nhưng hắn nhìn thấy chút da thịt hơi thừa ấy tươi tắn lắm và cái vô duyên ấy lại biến thành người vui tính. Và đến lúc đấy, cái giống đực ngủ quên lâu này trong người hắn mới bắt đầu mon men trỗi dậy. Hắn hay liếc trộm cặp vú đầy đà và cái mông lắc lư của cô gái. Hắn thấy thèm khát. Và chính sự trỗi dậy của giống đó khiến hắn liều lĩnh, hắn lấy hết can đảm rủ cô gái đi xuống căn tin uống nước. Cô gái nhận lời ngay bằng đôi mắt rất ướt nhìn hắn. Hắn vui và về kể với mẹ. Mẹ hắn bảo hôm nào dẫn về nhà ăn cơm một bữa để bố mẹ xem mặt. Sau ba lần đi uống nước, một lần nắm tay mà chẳng nói gì, hắn mời cô gái chủ nhật đến nhà hắn ăn cơm trưa. Cô gái mừng ra mặt, tíu tít nói cười, còn hắn thì hân hoan. Hôm đó mẹ hắn đi chợ sớm, bố hắn tỉa lại mấy chậu hoa ngoài sân, ba con chó được nhốt vào chuồng kỹ lưỡng. Bữa ăn có gà luộc với lá chanh đúng điệu Bắc kỳ, có canh chua cá hú, có cá thu chiên xốt cà lại thêm tô cá kho tộ, một bữa cơm dung hoà Nam Bắc. Trong lúc mẹ hắn lúi húi dọn cơm, cô gái và hắn ngồi xem chương trình đi tìm gì đó trên truyền hình, chốc chốc lại cười sảng khoái. Đến lúc ăn cơm, ngồi vào bàn, cầm đũa chẳng mời ai, cô gái lật qua lật lai dĩa gà luộc, gắp ngay cái đùi và cười tít mắt: Con chỉ khoái ăn đùi gà hì..hì. Bố hắn cau mặt, bỏ đũa xuống rồi lại cầm lên, mẹ hắn hết nhìn bố hắn lại nhìn cô gái đang nhồm nhoàm cái đùi gà. Không khí yên lặng, chỉ nghe tiếng đũa và tiếng muỗng chạm vào tô. Khi cô gái ra về, bố hắn lắc đầu bảo gọn lỏn: không được. Mẹ hắn cũng dứt khoát: không chấp nhận được. Thế là cuộc tình tan, dù chỉ mới nắm tay và ba lần ngồi chung quán. Hắn buồn không phải vì thất tình, vì đã có gì sâu đậm đâu, nhưng hắn tiếc cặp vú căng và cái mông nẩy. Hắn bắt đầu thèm đàn bà. Cô gái thì vẫn đeo riết hắn, hắn tìm cách trốn mãi mà cũng không xong. Cũng may, lúc đó có một suất học Tiến sĩ, hắn nộp đơn và rời cơ quan, từ giã luôn cô gái có nụ cười vô duyên và cái mông nở.
Hắn lấy xong bằng Tiến sĩ lúc 28 tuổi, lo học hành nghiên cứu hắn quên luôn nỗi thèm khát đàn bà, bản chất của hắn và gia đình là học hành trên hết mà. Thêm cái bằng, mắt hắn tăng thêm cận hai độ nữa. Nhà hắn ai cũng đeo kính cận, bố hắn bốn độ, mẹ hắn ba độ, riêng hắn sáu độ, lòng kính dày như đít chai. Hắn được nhận vào một Viện nghiên cứu trực thuộc trung ương, lại nhận dạy thêm ở trường, thu nhập cũng khá. Hắn lại nghĩ đến chuyện kiếm vợ. Mẹ hắn lại hối, lại thúc, lại hỏi han, thăm dò. Hắn bắt đầu để ý cô gái ấy từ khi cô ấy vào thực tập ở Viện. Người cao dong dỏng, nước da trắng, mặt hiền như mặt tượng Đức Mẹ. Hắn lại được phân công hướng dẫn cô ấy. Càng ngày hắn càng mê mệt. Cô ấy là một người rất chỉn chu trong chọn lựa trang phục, lại rất sạch sẽ từ thân thể cho đến ngôn tứ. Hắn lại biết thêm cô là con gái một của một giáo sư đầu ngành. Hắn mê tít thò lò, nghĩ mọi cách để chinh phục cho được. Rủi thay hắn chẳng có chút kiến thức và kinh nghiệm về chuyện ấy, nên cứ thập thò mãi. Cô gái thì sau một thời gian gần gũi cũng có chút cảm tình với hắn, một tiến sĩ trẻ nhiều năng lực, thừa cơ hội tiến thân. Nhan sắc cũng không đến nỗi nào, chỉ tội cái kính cận nặng quá và cử chỉ cứ ấp a ấp úng chẳng có chút dũng khí của các chàng trai si tình. Thế rồi cũng có được một cuộc hẹn chiếu chủ nhật. Hắn nôn nao suốt cả ngày, biết cô ấy rất thích sạch sẽ, hắn đã gội đầu nghiêm chỉnh, chơi luôn xà phòng Camay mua ở Chợ Cũ, diện bộ cánh đẹp nhất từ sớm, ngồi ngoài sân chờ đến gần giờ hẹn lên đường. Ngồi chờ lâu nóng ruột, bụng lại đói, thấy trước nhà bên lề đường có gánh bún riêu, hắn kêu một tô lớn, bún riêu mà thiếu mắm tôm thì hỏng bét, hắn chơi một muỗng lại thêm một nhúm ớt bằm. Ngon lạ lùng. Và hắn đến nơi đúng hẹn, vừa lúc cô ấy cũng có mặt. Chuyện qua lại rất trơn tru dù chỉ loanh quanh chuyện ở cơ quan, mà thật ra không nói chuyện cơ quan, hắn cũng chẳng biết chuyện gì để nói, ánh nhìn cả hai cũng tha thiết lắm rồi, bàn lại ngồi khuất sau tàn cây. Hắn thấy mình mạnh dạn hẳn lên, kéo ghế gần hơn chút và can đảm hôn lên đôi môi rất mọng và rất đẹp của nàng. Nàng cũng ngửa cổ ra đón nhận, nào ngờ, khi môi vừa chạm môi, cô ấy đã đẩy hắn ra, uống liền ngụm nước và từ lúc ấy im lặng cho đến lúc chia tay với nét mặt rất lạnh lùng. Hắn hoảng, chẳng biết vì sao cô ấy lại đổi ngay thái độ thế. Vốn là nhà khoa học, về đến nhà, hắn ghi hết diễn tiến buổi gặp gỡ ra giấy, ngồi phân tích từng công đoạn. Cuối cùng, hắn ôm đầu phát hiện ra thủ phạm giết chết tình yêu của hắn chính là mùi mắm tôm chưa được tẩy sạch và miếng ớt đỏ lòm dính vào kẽ răng của hắn. Hắn chỉ biết kêu trời. Cô trước vì cái đùi gà, cô này vì bát bún riêu. Sao vậy trời. Toàn miếng ăn làm hại hắn. Hắn tiếp tục sống cô đơn, sức trai căng đầy nhựa, đêm nằm hắn thèm khát đàn bà, nhưng chẳng có đàn bà để hắn có thể trút nhựa sống đầy ứ trong cơ thể hắn. Hắn không ngao du với ai, bạn bè càng hiếm. Đi làm về lầm lũi đọc sách, rảnh nữa thì đùa với mấy con chó. Bố mẹ hắn đã vào tuổi già, cũng loay hoay với bệnh tật, nhưng cũng không quên nhắc khéo hắn đi tìm vợ. Nói mãi mà cứ thấy hắn im ỉm, mẹ hắn bảo hắn không tìm được thì mẹ hắn sẽ tìm cho hắn. Hắn nghĩ, cứ để mẹ lo, thế mà lại hay, chẳng sợ bị chê trách. Lúc này hắn chỉ cần có người đàn bà, để hắn khám phá, để hắn biết mùi hoan lạc của dục tình, chỉ cần thế là đủ.
Mẹ hắn sáng nào cũng ra công viên gần nhà đi bộ cho lưu thông máu huyết. Tụ tập nhau thành một nhóm đủ cả trẻ lẫn già. Đi riết thành quen, quen lâu thành thân. Mẹ hắn để ý được một cô trong nhóm, tuổi độ hăm mấy ba mươi, có khuôn mặt đẹp, người cao ráo nở nang. Tánh tình lại hoà đồng, tươi vui, thường giúp đỡ mọi người. Mẹ hắn ưa lắm rồi nên cứ sau buổi tập lại lân la nói chuyện, tìm hiểu. Rồi cũng lại một bữa chủ nhật đẹp trời, mời cô ấy về nhà cùng làm cơm ăn trưa. Khi mẹ hắn giới thiệu với hắn, cô ấy bảo biết anh rồi, gặp hoài đầu ngõ, lại nghe hàng xóm khen anh nhiều. Hắn thì mới gặp đã thấy run rẩy trong lòng, nụ cười cô ấy tươi quá, dáng người cô ấy đẹp quá, chẳng khác chi người mẫu, cặp vú căng sau làn áo chật, cặp mông nẩy như đít vịt, hắn nhìn mà lòng nao nao. Đôi mắt hắn lén nhìn cô gái mãi sau làn kính cận. Tự nhiên như người nhà, sau màn chào hỏi, giới thiệu, cô gái vào ngay bếp, lặt rau, rửa thịt, lăng xăng nhiệt tình như người thân đã lâu, mẹ hắn cười ưng ý. Bố hắn ngồi uống trà hút tẩu từ phòng khách nhìn ra theo dõi cô gái cũng tủm tỉm cười đồng thuận. Bữa ăn diễn ra trong không khí vui tươi và hân hoan của toàn thể mọi người. Bố hắn khen canh cua rau đay cô gái nấu khéo quá, cua tụ thành một tảng, không nát, nước ngọt dịu không tanh. Mẹ hắn khen dĩa cá rô chiên, bảo cô ấy hay quá, cá vàng ươm mà không cháy, ăn vào mồm cứ dòn rụm, chén nước mắm cũng quá khéo, thật vừa miệng. Hắn thì thấy món nào cũng ngon và đôi mắt lúng liếng của cô ấy làm hắn không uống rượu mà thấy chao đảo. Bố hắn nhìn mẹ hắn, mẹ hắn nhìn bố hắn gật gật, miệng cười như hoa. Cô gái đã vào vòng chung kết. Nhưng vòng chung kết không có kết quả cuối cùng, đúng là trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Xong bữa ăn, cô gái lại đi rửa chén. Nhà hắn không rửa chén ở bồn mà lại rửa ở sàn sân sau, sát cạnh bếp. Cô gái ngồi, cái lưng dài thon với chiếc áo thun bó sát. Cái lưng quần jean trễ xuống, cái áo thun bị kéo lên để trống một khoảng lưng. Trên khoảng da thịt ấy, có xăm một con bò cạp với hai màu xanh đỏ đang giương hai cái càng to đầy đe doạ, đuôi con bò cạp kéo xuống tận xương cụt. Bố hắn thấy đầu tiên, rồi tới mẹ hắn sững sờ. Hắn cũng thấy con bò cạp rõ ràng trên khoảng da thịt lồ lộ ra đấy. Con bọ cạp hung hăng. Mẹ hắn nhìn bố, bố hắn nhìn mẹ hắn, hai cái đầu cùng lắc một lượt với ánh mắt thiểu não. Nhìn thấy thế, hắn tuyệt vọng. Hình xăm con bọ cạp đã chấm dứt những rung động khát khao vừa rực lên trong cơ thể hắn. Cuộc tuyển lựa đã không thành. Cho mãi đến bây giờ, cô gái xinh xắn muốn làm dâu nhà hắn vẫn không hiểu vì sao chỉ có mấy phút vừa trôi qua, thái độ của cả nhà đã quay 180 độ. Hắn lại có thêm một lần thất vọng và nuối tiếc. Hắn lại cô đơn, mẹ hắn càng lúc càng buồn, bố hắn đêm đêm vẫn thắp nhang trên bàn thờ tổ tiên, vẫn lâm thâm khấn vái cầu xin ơn trên đừng bắt dòng họ này phải tuyệt tự, chẳng còn ai nối dõi.
Hắn vẫn ngày hai buổi đi làm, đi dạy, làm lũi đi và lầm lũi về, buồn chán trong nỗi khát khao. Một bữa, cơ quan hắn khám sức khoẻ định kỳ hàng năm. Một đòan bác sĩ bên bệnh viện đến cơ quan hắn khám và xét nghiệm tập thể. Có một cô bác sĩ khá xinh lấy máu cho hắn, cô này từ khi nhìn thấy hắn thì miệng cứ tủm tỉm cười mãi. Khi quấn dây vào bắp tay hắn để tìm ven, cô ấy bảo anh không nhớ em à? Hắn ngẩn ngơ, lục trí nhớ xem gặp cô gái xinh tươi này ở đâu mà không nhớ nổi. Hắn ngượng nghịu lắc đầu. Cô gái cười khanh khách và bảo: Ối trời ơi! Bạn hồi lớp mẫu giáo Sơn ca nhớ không, hồi đó cô giáo bắt anh song ca với em hôm tựu trường mà anh dứt khoát không chịu khiến em khóc suốt cả buổi lễ, nhớ không? À thì ra thế! Mấy chục năm rồi, nhớ chi nổi. Nhưng cô gái này có duyên quá, cười có cái răng khểnh sao mà xinh thế? Thế là kể chuyện cô giáo ngày xưa, nhắc mấy người bạn cũ. Rồi rủ xuống căn tin ăn trưa, rồi xin số điện thoại, rồi hẹn gặp lại. Hắn lại thấy vui, hắn lại nghĩ đến một mối tình đang đến thật nhẹ nhàng. Hai người hẹn nhau xem phim vào chiều chủ nhật. Hôm đó hắn nôn nao, vẽ ra trong đầu những giây phút thật lãng mạn trong rạp chiếu phim. Hắn sẽ cố gắng cầm tay nàng, hắn sẽ tỏ tình, và hắn sẽ hôn nàng, một cái hôn thật tuyệt vời. Một cái hôn thơm tho, chắc chắn sẽ không mùi mắm tôm làm cho tan vỡ. Hắn chuẩn bị sớm, tắm rửa sạch sẽ, mặc bộ đồ đẹp, bỏ giấc ngủ trưa, ra ngồi trước sân và chờ giờ lên đường đến chỗ hẹn. Hắn ngồi ở ghế đá trong sân dưới bóng cây mát rượi. Ba con chó chạy giỡn chung quanh hắn, chúng thải ra mấy bãi phân giữa sân. Gió mát, hắn bắt đầu lim dim và giấc ngủ đến hồi nào chẳng hay. Hắn chợt choàng tỉnh, nhìn đồng hồ đã thấy sát giờ, hắn lật đật chạy quanh sân tìm cái mũ bảo hiểm, rồ xe như ma đuồi đến nơi hẹn, cũng may chẳng trễ phút nào. Rạp thưa thớt người, phim chiếu nhưng hắn không quan tâm, hắn chờ giây phút thuận tiện để thực hiện những ý định. Cô gái bỗng phát hiện điều gì, cứ loay hoay nhìn xuống chân. Hắn lại lấy chân rà rà chân nàng, chân hắn chỉ quanh quẩn cái ống quần của nàng, nhưng hắn thấy vui. Cô ấy bảo hình như có mùi gì là lạ, hôi hôi. Hắn cũng ngửi thấy thế. Cả xuất phim hai người loanh quanh mãi cái mùi hôi đó, hắn chẳng thực hiện được gì. Hết phim, đèn bật sáng, cô gái lại cúi nhìn xuống và phát hiện trên ống quần của mình một vệt phân chó bốc mùi. Cũng đồng thời lúc ấy, hắn cũng phát giác đôi giày của mình dính đầy cứt chó. Cái mùi kinh khủng bắt nguồn từ đây, cái ống quần đầy cứt của cô ấy cũng từ đây mà có. Như thế là hắn đã đạp phải bãi cứt chó của nhà hắn rồi. Cô gái bỏ đi một nước. Hắn lại về một mình. Và cô gái đã không tìm hắn nữa. Cuộc tình chưa ngỏ đã bị bãi cứt chó làm cho tan nát, khốn nạn thật. Tủi phận thật! Cô ấy một đi không trở lại.
Mới đây, hắn lại có một cuộc hạnh ngộ ly kỳ. Buổi chiều đi làm về, trời bất chợt đổ mưa, loạng quạng thế nào mà xe hắn và xe của một cô gái đụng nhau ngay giữa ngã tư nước đang lênh láng tụ về. Hắn dựng xe cho nàng, hỏi han ân cần, cũng may chẳng ai thương tích gì. Hắn mời cô gái vào quán trốn mưa vì xe bị vào nước đầy bô, đề hoài không nổ. Nhìn cô ấy cũng xinh, nước mưa ướt hết dán vào để lộ cơ thể tròn lẳn, ngực như muốn bứt hàng nút chạy ra ngoài. Là nhân viên ngân hàng, đã ngoài ba mươi, chưa chồng, gái Huế. Hắn nghĩ thế là đạt yêu cầu. Và cũng như các cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên tiền định trong các tiểu thuyết ngôn tình, trong các cuốn phim rẻ tiền, Trai chưa vợ gái chưa chồng gặp nhau như định mệnh an bài, đưa đến tình yêu. Chàng và nàng hẹn hò nhau nhiều lần, lúc cà phê, khi nhà hàng, quán ăn, rạp hát. Lần nào hẹn hắn cũng kiểm tra kỹ cái mồm, kiểm tra cái đế giày, đến đúng giờ nghiêm chỉnh. Hắn luôn giữ tác phong thanh lịch, đứng đắn trong các buổi gặp gỡ, đôi khi chỉ là cái nắm tay nhẹ nhàng dù lòng hắn rạo rực như than đỏ. Hắn chưa dám kể với bố mẹ, sợ lại có chuyện xảy ra nghiêm trọng nguy hại đến mối tình đang hồi rực rỡ. Hắn thấy nàng hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ, một dạ hai dạ, nghe sướng lắm. Nàng lại là con của một ông giáo cũng khá có danh ở miền Trung trước 75. Hắn nghĩ mọi dự kiến tiến triển thuận lợi, chỉ đợi đúng giờ G, hắn sẽ mang nàng về giới thiệu gia đình, tính chuyện cưới xin luôn, hắn như trái bom chờ nổ rồi, chắc khó đợi nổi. Bố mẹ hắn cũng mỏi mòn rồi, chắc sẽ cũng chẳng còn khắt khe lựa chọn. Một lần cuối tuần, hai người chở nhau đi về Long An chơi, trưa nắng gắt, mệt nhoài. Nàng chủ động gợi ý vào khách sạn nghỉ, hắn lưỡng lự một chút rồi ok bởi trong đời chưa một lần cùng phụ nữ vào nơi ấy. Vào đến nơi, nàng tắm, không khép cửa, hắn thấy cái quần lót màu đỏ thêu ren của nàng là hắn bắt đầu ngại. Trong trí tưởng tượng của hắn, chỉ có gái hư, gái làng chơi mới mang quần lót đỏ thêu ren. Sự rạo rực, háo hức bỗng giảm đi mất nửa. Hắn hơi ái ngại. Nàng tắm xong thì đến hắn tắm, đến khi ra thấy nàng tênh hênh giữa giường khát khao lại bùng cháy trở lại trong người hắn. Hai người quẫn chặt lấy nhau. Lần đầu tiên nó thấy toàn vẹn cơ thể đàn bà. Lần đầu tiên hắn sờ nắn những bộ phận kín đáo của người phụ nữ. Nàng cũng mãnh liệt không kém, hôn hít và sờ sẫm khắp cơ thể của hắn. Hắn như một lò lửa, như quả bom chờ nổ. Bỗng nàng ghé môi vào phần dưới của hắn, hắn hoảng. Từ bé đến lớn hắn không nghĩ ra kiểu này, hắn chưa hình dung cảnh này mà hắn cũng ghê ghê cái kiểu này. Hắn như bị tạt một xô nước đá. Hắn túm chặt lấy bộ phận đang đông cứng của hắn, hớt hãi chạy vào phòng tắm trước ánh mắt ngạc nhiên hết cỡ của cô gái. Hắn ngồi trong phòng tắm, trần truồng và kinh ngạc. Hắn thấy nàng sành sõi quá, hắn thấy nàng rành mạch và có vẻ quen thuộc mấy chuyện này quá, hắn sợ. Lại thêm cái quần lót đỏ. Thôi rồi. Nàng đập cửa, hắn vẫn im. Cơn sợ hãi chưa qua hết. Thế là xong. Nàng bỏ đi. Hắn ngồi khóc rưng rức và thấy mình bất hạnh. Lúc này hắn mới cảm thấy chính cái hàng rào bố mẹ hắn quây chung quanh hắn từ lúc mới chào đời cho đến bây giờ đã khiến cuộc đời hắn ảo não như hôm nay. Đã khiến hắn lạc lõng giữa cuộc đời, ngây ngô giữa cuộc sống. Hắn sống giữa trần gian như một kẻ xa lạ.
Hắn bảo với bố mẹ hắn là hắn muốn đi tu. Mẹ hắn khóc ngất. Bố hắn thắp nhang lạy mãi ở bàn thờ, miệng khấn vái lia lịa. Dòng họ nhà này thế là tuyệt tự rồi sao? Tui là bạn bố hắn, tui thấy tình cảnh bạn tui mà thương quá. Năm nay hắn 42 tuổi rồi, có bằng Tiến sĩ, thu nhập ổn định, gia đình quý tộc, gia sản giàu có. Tui viết lên đây giới thiệu với mọi người, cô nào, bà nào thấy hợp với hắn cứu dùm bạn tui. Chứ kiểu này gia đình này tan hoang vì tuyệt vọng. Muốn gặp hắn để tìm hiểu thêm cứ đến Viện khoa học thành phố, số... đường.., trong giờ làm việc, sẽ gặp một người đàn ông trung niên, dáng dong dỏng cao, mặt đẹp như trẻ con, đeo kiếng cận dày, mắt lúc nào cũng nhìn xa xăm, người như ở thế giới khác, đích thị là hắn. Ngoài giờ làm việc, có thể gặp hắn với bố mẹ ở biệt thự .., số ... đường..., ngôi nhà người ta đã đưa giá gần mấy trăm tỷ đồng mà bố mẹ hắn không chịu bán. Hắn là Tiến sĩ Trần Văn T. Ai cứu hắn không? Tui không muốn nhà chùa có thêm một tu sĩ và biệt thự to lớn kia không có người kế thừa. Và hơn hết, tui không muốn nhìn thấy một người đàn ông sắp qua tuổi ngũ thập tri thiên mệnh mà chưa biết tình yêu, chưa biết đàn bà. .
NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Tue Aug 13, 2019 7:15 am
.
Quán Trà Thinh Lặng - Trần Mộng Tú
1. Hà Nội là cả một thế giới bí mật, nó luôn luôn giấu những bất ngờ nho nhỏ ở một chỗ ta không hình dung ra được. Một may mắn tình cờ nào đó ta tìm thấy cái bí mật đó ngay trước mặt ta, ta bàng hoàng như được ai mời một chén rượu quý. Cái ngọt của ruợu cứ vương mãi ở cổ như một bài thơ chưa đọc đến câu cuối cùng. Câu thơ đó có thể ở lại với ta suốt một đời người.
Một buổi chiều, tôi lang thang trên đường phố Hà Nội, đi một mình trong khi chờ đợi chồng con (được một ngày mẹ cho) đang phân tán trong phố cổ trở về đi ăn tối. Vừa đi vừa ngắm nghía hai bên: phố, người, xe tấp nập buổi tan tầm, chạy đâm vào nhau, như những con rối trong tuồng múa rối nước. Cái cảnh này trên thế giới chỉ có ở những nơi đất hẹp người đông như Hà Nội, Sài Gòn Việt Nam ta có lẽ là hai nơi điển hình nhất. Chen giữa bước chân đi là những hàng ăn, hàng uống bầy cả ra hai bên phố. Ngay trước các cửa hiệu hàng hóa, ai muốn bán thì cứ bầy ra bán. Ở một con ngõ vào xóm người ta cũng có thể giăng một tấm bạt từ vách tường của nhà bên phải sang vách tường của nhà bên trái ở ngay đầu ngõ làm thành một quán cà phê hay một quán bán chè, bán cháo. Ai may mắn có được cái mặt tiền độ ba thước vuông là thành một cửa hiệu khang trang lắm rồi, còn không thì cứ bầy ngay ra trên lối đi, trên một nắp miệng cống cũng để vừa một gánh hàng rong. Khách hàng xúm xít ngồi xuống ăn uống rất là tự nhiên, giản dị, thưởng thức món ăn rất hạnh phúc, chẳng kém gì những người khách ở trong một nhà hàng sang trọng thưởng thức món ăn của mình.
Tôi hòa mình vào trong cái dòng sinh mệnh đông đảo đó. Lang thang mãi, mỏi chân và khát nước, thấy thèm một ly trà quá. Thật may, một cái quán bán nước trà, kẹo lạc (đậu phọng) đơn sơ ngay góc đường Tôn Ðức Thắng và Ðoàn Thị Ðiểm. Quán không có bảng hiệu, vài cái bàn thấp và ghế đẩu, nhưng gần như mọi người đã ngồi hết, tôi đứng loay hoay một vài giây chưa biết làm sao, bỗng có người giúi cho vào tay chiếc ghế đẩu, mà chẳng nói câu gì. Tôi vội vàng cám ơn và nhận được một nụ cười. Ngồi xuống chưa kịp gọi, thì chủ quán, một người đàn bà trẻ khoảng ngoài ba mươi đã đem đến trước mặt tôi một ly nước trà, và cái đĩa nhỏ có mấy chiếc kẹo. Chị không nói câu nào, đặt ly nước trà bốc khói, thơm ngát xuống ngay một một góc bàn đã có bốn người ngồi trước mặt tôi với một nụ cười, tôi cũng cười lại đáp lễ, cúi xuống nhìn vào ly nước một giây, rồi uống một ngụm nhỏ. Nước trà vừa chát, vừa ngọt, vừa thơm. Ðúng là trà mộc Thái Nguyên. Uống ngụm trà mà như uống một nụ cười. Hình như những người ở trong quán này ai ai cũng hào phóng nụ cười.
2. Nước trà làm tôi tỉnh hẳn người, lúc đó tôi mới để ý nhìn chung quanh. Quán trà nhỏ xíu nhưng ấm cúng và giản dị. Chị chủ quán đang loay hoay với nhũng chiếc ấm, những hộp, những gói trà và những chiếc ly thủy tinh. Ánh lửa ở chiếc lò ga hắt lấp lóe lên một bên má chị, nhìn thấy cả đuôi lông mày của con mắt bên đó, kéo dài một nét thanh thanh, cái bóng nhỏ bé của chị hắt một vệt rất mờ lên vách. Cả quán có ba chiếc bàn vuông và một chiếc bàn dài, bàn vuông ngồi được hai người, bàn dài ngồi được bốn người. Quán rất hẹp nên các bàn kê gần nhau lắm. Bàn nào hình như cũng chêm thêm ghế, khách ngồi sát vào nhau rất thân mật. Họ chụm đầu vào nhau trò chuyện, nhai kẹo lạc ròn thành tiếng. Khói trà nghi ngút bốc lên ngang mặt mọi người, nhưng sau làn khói mỏng manh đó, những con mắt vẫn ánh lên khi họ nhìn nhau trò chuyện. Thỉnh thoảng họ lại giơ tay đập vào vai nhau rất thân thiện.
Quán trà bình dân này không có tiếng hát, tiếng nhạc vỡ ra từ máy phát thanh hay truyền hình như ở các quán khác, nên không khí rất êm ả. Khách nói chuyện với nhau rất khẽ, khẽ đến nỗi không nghe được tiếng, chỉ thấy những bàn tay xòe ra, nắm vào, những ngón tay chỉ vào ngực mình, hay chỉ vào mũi người khác thi nhau múa lên. Nếu họ nói thành tiếng thì chắc quán đang ồn lắm. Mặc cho tiếng ồn ào của xe gắn máy, tiếng còi xe bóp inh ỏi, tiếng người gọi nhau ơi ới, tiếng rao hàng và cả đôi khi chen vào cả tiếng cãi cọ trước cửa quán. Những người vào đây uống trà họ giữ được không khí rất thinh lặng. Nói rất khẽ và cười rất nhẹ. Chị chủ quán luôn luôn biết ý khách hàng. Không đợi gọi. Kẹo chưa hết đã đem ra, trà lúc nào cũng được rót đầy ly đem tới. Chị thong thả chuyên nước sôi từ ấm sang bình. Tiếng nước sôi trên bếp cũng nhẹ nhàng như tiếng guốc chị di chuyển, hình như tôi nghe được cả tiếng thở của chị.
Tôi uống đến ly trà thứ hai và ăn gần hết chiếc kẹo, tỉnh hẳn người, lúc đó mới quan sát kỹ đến những người khách chung quanh mình. Phần đông còn trẻ, người lớn tuổi nhất chắc chỉ khoảng bốn mươi, họ đang nói chuyện với nhau bằng những bàn tay múa khoa lên trong quán. Cách nói chuyện của họ làm tôi liên tưởng đến một lớp Sign Language ở College tôi đã theo học cách đây mấy năm. Câu đầu tiên chúng tôi học là lấy ngón tay chỉ vào giữa ngực mình, xong xòe bàn tay ra áp vào bên trái ngực, rồi chỉ ngón tay vào người đối điện. Như thế có nghĩa là I love you. Tôi đã học hết khóa vỡ lòng và có thể nói chuyện vài ba câu thông thường với người câm, điếc. Bẵng đi một thời gian không học tiếp theo, bây giờ khó mà nhớ lại được hết những điều mình đã học.
3. Chị chủ quán đã đến gần tôi với một mảnh giấy, đưa cho tôi đọc: "Ðây là quán Trà của người câm và điếc, bà cần gì thêm xin viết xuống đây” Tôi ngẩn người ra nhìn chị, chị nhìn lại tôi cũng vẫn với nụ cười. Tôi viết lên tờ giấy của chị vừa đem đến, hỏi chị mở quán này bao lâu? Thì chị cho biết là mới hai năm, sau khi vừa lập gia đình, anh cũng là người dùng ngôn ngữ thinh lặng như chị. Chúng tôi tiếp tục bút đàm với nhau, chị nói khi mới mở quán trà, muốn bán cho tất cả mọi người, nhưng khách nói được đến uống trà thấy cứ phải bút đàm với chủ quán mất nhiều thời giờ quá trong khi khách không nói được thì cứ giơ tay chỉ trỏ vào họ, nên họ bỏ đi. Dần dần những người câm, điếc rủ nhau đến đây uống trà, coi như quán này mở ra chỉ để dành riêng cho họ, những người đối thoại thinh lặng.
Tôi ngồi im trong bóng chiều chập choạng, một vài cửa tiệm đã lên đèn, chị chủ quán cũng bật lên một ngọn đèn điện ở một góc quán, ngọn đèn không được sáng lắm, nhưng cũng soi rõ những bàn tay đưa ra, những ngón tay chỉ trỏ vào nhau, tôi ngắm nhìn những bàn tay đó cố vận dụng vốn liếng ít ỏi đã học được của mình, dần dần tôi hiểu họ đang nói với nhau về việc làm, giá sinh hoạt, có người có con vừa ở bệnh viện ra, có người vừa thất nghiệp. Tôi dở quá nên nghe được mà không nói được. Nếu tôi còn nhớ để nói chuyện được với họ thì hay biết bao!
Nếu ai đã từng được thưởng thức tuồng Nô của người Nhật, là một loại tuồng trong đó các diễn viên sơn mặt trắng toát giống nhau, khi diễn kịch không nói tiếng nào, chỉ diễn tả bằng cách khoa tay múa chân, người xem phải đoán được cảm xúc của họ qua những cử chỉ đó, thì thấy những người đang uống trà trong quán này giống như họ vậy, có khác một điều là những người này không phải kịch sĩ, không quét sơn trắng lên mặt, nên ta đọc được cảm xúc trên từng cái cau lông mày, cái cười mệt mỏi nửa miệng, hay nụ cười nở tung ra như một đóa hoa.
Tôi phải nhờ chị chủ quán thông dịch lại cái ngôn ngữ thinh lặng này. Tôi viết xuống giấy câu hỏi, rồi chị chủ quán dùng tay nói lại với họ. Chị cho biết phần đông những người này không biết đọc, biết viết. Nếu tôi muốn nói chuyện với họ, phải nói thật to, không được dùng tay che miệng, họ sẽ nhìn miệng tôi mà đoán tôi đang nói câu gì. Có người rút ở trong túi ra một tờ giấy, có bọc plastic với một dòng chữ in sẵn: Tôi vừa câm vừa điếc. Không biết chữ. Xin nói to và đừng che miệng. Tôi nhìn tờ giấy được giữ gìn cẩn trọng như một tờ căn cước mà trong lòng rưng rưng, thấy nghèn nghẹn ở cuống họng, vội cúi xuống uống ngay một ngụm trà.
4. Tôi ngồi chuyện trò với họ bằng sự trợ giúp của chị chủ quán, chúng tôi nói với nhau về những đời thường. Chuyện gia đình, chuyện học của con, chuyện việc làm của cha mẹ. Họ hỏi tôi về cái đất nước xa xăm tôi sống, ở đó những người câm, điếc được giúp đỡ thế nào? Chúng tôi hỏi nhau cả về chuyện uống trà. Câu chuyện càng lúc càng thân thiện cởi mở, họ nói năng tự nhiên, ước mơ giản dị, chỉ mong kiếm đủ ngày hai bữa, có chút tiền dành dụm phòng khi con cái ốm đau và đủ tiền đóng học phí cho con mỗi khóa học.
Nhưng buổi chiều tan việc, họ bỏ lại tất cả nhọc nhằn khuân vác trên bến dưới thuyền ở những bãi sông; những túi xi măng, những viên gạch, tảng đá ở nơi xây cất; cái cuốc cái xẻng ở một con đường đang đào, đắp nào đó, ghé uống mấy ly nước trà và gặp những người cùng chung ngôn ngữ với họ, ngôn ngữ thinh lặng trong quán trà thinh lặng này. Tôi ngắm nhìn họ cầm ly uống trà rất là bình dân, với vẻ sảng khoái, hình dung ra ở một nơi uống trà khác của những người được gọi là thanh lịch.
Những quán trà dành cho tao nhân mặc khách có những nghi thức cầu kỳ gọi là Trà Ðạo. Khi cho trà vào ấm thì gọi là Ngọc Diệp Hồi Cung. Khi tráng trà thì gọi là Cao Sơn Trường Thủy (rót nước 60 độ, cao cách trà 20-30 phân) Khi pha trà thì gọi Hạ Sơn Nhập Thủy (rót sát miệng ấm, nước sôi đủ 100 độ) Khi nhấc chén trà lên thì mấy ngón tay cũng được thăng hoa gọi là ba con rồng Tam Long Giá Ngọc, trước khi uống ngụm trà đó phải từ tốn đưa lên mũi từ trái sang phải thưởng thức mùi thơm của trà gọi là Du Sơn Lâm Thủy. * Chao ôi là nghi lễ, là cầu kỳ.
Những người uống trà trong quán trà Thinh Lặng này họ giản dị lắm, trà do chị chủ quán pha một bình lớn, rót ra sẵn trước mặt, họ cầm lấy chén trà, nhìn nhau bằng những ánh mắt thân mật, ngửa cổ lên uống một hơi đầy, uống theo cả mệt nhọc của một ngày lao động vất vả vào lồng ngực. Họ chỉ vào ngưc mình, ngực bạn, nói lòng quý mến nhau. Những tiếng động bên ngoài đường của xe cộ, của âm thanh ầm ĩ, họ bỏ cả ngoài tai. Trong những lồng ngực đơn sơ đó cái âm thanh tĩnh lặng kéo dài theo nhịp đập êm ả của trái tim.
Tôi chào họ ra về, mang theo quán trà Thinh Lặng trong trái tim nhiều tiếng động đời thường của mình, nước mắt bỗng ứa ra. Chao ôi, là quê hương yêu dấu! Mỗi chỗ giấu một điều bí mật, ta có may mắn tìm thấy, khác nào như những người tìm được châu báu trong kho tàng cổ tích thần tiên.
Trích Ký - Những Mảnh Quê Nhà - Trần Mộng Tú
Trần Mộng Tú (Nguồn: amvc.free.fr)
* Cách pha trà ở Lư Trà Quán, Thanh Xuân- Hà Nội .
PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Sat Aug 31, 2019 9:06 am
.
Một tù nhân sờ mu rùa (Để tưởng nhớ một người bạn tù đã ra đi) - letamanh
Những năm gần đây, báo chí trong và ngoài nước thường xuyên đề cập đến hiện tượng, mà, theo “Biện Chứng Pháp” của Mac-Lenin, thì không bao giờ có thể xãy ra trong “thế giới Cộng sản” được! Trong một chế độ theo chủ nghĩa “vô thần”, lúc mới nổi lên đã chủ trương phá chùa, đập miếu, nhà thờ biến thành nơi chứa lương thực…! Người Cộng Sản không tin có Phật, Chúa, Thần thánh gì cả suốt một thời gian dài mấy mươi năm… Cho đến một ngày, chính những “đảng viên” quỳ gối cúng bái, đốt vàng mả, tin phong thủy, sùng bái những phù thủy gọi là “nhà ngoại cảm”; thì người ta mới chợt hiểu ra!
Tôi còn nhớ kỷ niệm lúc còn ở tù trong các trại tập trung từ Nam ra Bắc Việt Nam. Kỷ niệm về một “Tù Nhân Sờ Mu Rùa” rất ư là lợi hại đã cùng với tôi “rong chơi” từ hết trại tù nầy đến trại từ khác với hàng bao nhiêu chuyện về “tử vi. Tướng số” Ông bạn già “Thầy Bói” của tôi, vì say mê “bốc quẻ, chấm lá số” mà phải bị cùm, bị truất phần ăn… Nhưng cũng từ trong nơi cùm gông đó, anh ta cũng có thời được cưng chiều, ăn no để “nói dốc”! Anh lớn hơn tôi chừng năm sáu tuổi, người to con, không cao lắm nhưng bệ vệ. Lúc sau nầy không có đủ thức ăn nuôi cơ thể, có lúc anh ốm như bộ xương biết đi, hai mắt lồi ra, mỗi lần xin được bi thuốc lào, rít lên một hơi là ngả bổ xuống sàn giãy đành đạch… Xuất thân là một SQ Phòng 7 Đơn vị 101, làm việc tại BTTM, ăn nói lưu loát, miệng “có quai có xách”! Tên cúng cơm là Đoàn Thế Lộc. Anh nổi tiếng ngay những ngày đầu vào tù. Chúng tôi thường xuyên bu chung quanh anh, chờ cả giờ đồng hồ để xin anh nói cho một vài điều. Có lúc năn nỉ anh xem hộ tử vi sao hạn của chính mình rồi đến vợ con ở bên ngoài ra sao. Thù lao cho anh là những điếu thuốc lúc còn trong Nam, những bi thuốc lào hay là một vài cục đường, một vài khúc khoai mì lúc đã ở Bắc Kỳ – Hoàng Liên Sơn – Lao Cay – Yên Bái – Vĩnh Phú… Đoàn Thế Lộc “quảng cáo” cho mình rằng: Hồi còn “huy hoàng”, anh ta thường xuyên xem tử vi cho các ông bà Tướng Tá trong Bộ TTM. Nghề xem tử vi của anh không biết ra sao, nhưng ăn nói rất lưu loát, đâu ra đó, hấp dẫn, tạo niềm tin cho người đối diện. Dĩ nhiên là lúc còn trong tù, anh nói quá khứ cho từng “tù nhân” đều nghe rất… hay, rất đúng. Nhưng về tương lai thì ai mà biết được!
Chúng tôi ở với nhau trong Nam cho đến năm 1977, lúc đó là mùa hè tại trại tù Long Giao. Anh Lộc và tôi ăn cơm chung, ngủ cạnh sát nhau. Hôm đó nhằm vào rằm tháng Năm, tôi không nhớ ngày Dương Lịch. Anh vừa ăn trưa với tôi vừa nói: – Ba hôm nữa là mình huy hoàng! Tôi ngạc nhiên nhìn anh nói vặn: – Đừng nói là được thả về gặp vợ con, rồi Mỹ nó đưa máy bay rước tụi mình như anh từng nói nha! Anh từ tốn cười, cầm khúc củ mì đưa vào miệng, vừa nhai vừa nói: – Còn hơn việc thả về nữa, tụi mình sẽ xuống tàu ra khơi. – Vừa thôi cha! Tỉnh lại đi, anh lấy đâu ra cái tin trời đánh đó? – Tao bấm tử vi của tao và của mầy, hai số cùng có “mã khốc khách” và tương hội trong ba ngày nữa. Tao thấy mình được xe đưa đến NewPort (Tân Cảng), sau đó xuống tàu. – Rồi sao? Chúng đưa cho Hà Bá nhai phải không? – Tao nghĩ chúng sẽ đưa tụi mình ra Hạm Đội 7 để trao đổi! Tôi trợn mắt nạt anh: – Thôi đi! Đừng có mơ, anh bị bệnh hoang tưởng rồi. Anh cười phân bua: – Không tin thì ba ngày nữa mày sẽ thấy, chừng đó phải lạy tao mới nói tiếp! Mà quả thật, buổi sáng ngày thứ ba như anh nói, chúng tôi có lệnh ở nhà chờ, không đi “lao động” bên ngoài. Lúc 7:30 sáng, bốn xe sơn màu xanh bịt bùng chạy vào đậu ở sân tập họp. Sau đó là lệnh tập trung ngoài sân nghe lệnh. Lần nầy là Cán Bộ thứ dữ “lên lớp”. Sau một hồi nói về chính sách khoan hồng và nhân đạo của Đảng, ông ta ra lệnh mọi người đem hết đồ đạc cá nhân ra sắp hàng chờ “Tổng vệ sinh”! Thì ra mấy xe bịt bùng đó là những xe hấp hơi. Tất cả áo quần và chăn mền từng cá nhân dược cho vào cốp xe. Tiếng máy nổ, tiếng hơi xì khè khè, tiếng thì thầm bàn tán…! Lúc chờ đến phiên mình, anh Lộc khều tôi và mấy bạn ngồi gần nói nhỏ: – Hôm nay tổng vệ sinh để chuyễn chúng mình đi – Hãy vui lên, tốt! Tôi nhớ ba hôm trước anh đã nói câu nầy nên bán tín bán nghi. Nhưng tôi vẫn phản đối ý nghĩ hoang tưởng của anh: – Thôi cha nội, đừng có tuyên truyền. Lo giữ sức khỏe mà chống với thời gian tù đi. Sở dĩ tôi không tin lời anh ta vì trước đó mấy tháng, trong giờ “học tập”, một Bộ Đội nói với chúng tôi: “Các anh cứ tin lời tôi nói, chừng nào nhà nước gọi tên các anh để thả về mà các anh không thấy vui mừng nữa; đó mới đúng thời gian “học tập” tốt!”. Ở tù đến khi không còn cảm thấy vui khi được tư do, có nghĩa là con người của ta thành chai đá, thành vô cảm rồi. Như vậy còn gì hy vọng được về…
Nhưng sau cơm chiều, mọi việc lại bắt đầu “ứng” với “quẻ” tử vi. Người đầu tiên được gọi xách theo “hành trang” là tôi, đến tiếp theo một vài chục người nữa mới đến tên anh Lộc. Tất cả xếp hàng, cứ ba chục mạng, ngồi sau một chiếc xe Motolova màu xanh lá cây. Anh Lộc cố lết đến gần bên tôi cao giọng: – Mầy thấy chưa! Tao nói như thần mà! Tí nữa mình sẽ ra Tân Cảng và xuống tàu… Tôi tiếp : – Ra Hạm Đội 7 ăn hamburger! Anh ta cười nham nhở: – Nhớ qua bên Mỹ tụi mình phải ở chung với nhau để mai kia một nọ giúp đỡ nhau. Mà rồi họ sẽ đưa vợ con mình qua. Họ đã cất cư xá Sĩ Quan cho mình rồi. Nhớ phải ở gần nhau…! Xe chở tù cũng ra đến Tân Cảng. Tất cả xuống xe tay xách nách mang lỉnh cà lỉnh kỉnh nào lon guigo, nào đàn guitar tự chế. Có anh còn bê theo một con gà mái đẻ mập ú ù. Con gà vợ anh ta từ Bình Giả thăm nuôi. Anh nhốt nó bên giường, chia khẩu phần cho gà, gà đền ơn bằng cách đẻ trứng cho anh xơi! Lần lượt rồi cũng xuống tàu, xuống tận đáy tàu, ngồi sắp lớp trên những rác và bụi xi măng. Ngồi sát nách nhau, không có chỗ ngã lưng. Lòng tàu cao và phía trên chỉ chừa một lỗ nhỏ thông hơi. Hai giờ đầu tiên có mấy thằng ngợp thở, mùi xi măng và bụi bay chui vào mũi… Chỉ có một giây thừng từ trên cái lổ nhỏ thòng xuống một thùng để chứa phân, nước tiểu. Cũng cái giây đó thòng xuống hàng ngày những lương khô Trung Cộng cho cái đám người mà theo như ông Thầy Bói, Nhà Ngoại Cảm Đoàn Thế Lộc là: Sắp trở thành những giá trị trao đổi với Mỹ… Đang nghẹt thở và sắp chết! Anh ngồi bên tôi không một tiếng nói suốt từ khi thấy anh sáng tròn của một lỗ trên trần tàu rọi xuống, Cứ sáng thì chỉ phía bên trái hông tàu, chiều thì đổi qua hông phải. Như thế có nghĩa là chúng tôi “được” chở ra Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa” đễ… Lưu đày! Anh Lộc bấm tử vi, biết được ngày giờ di chuyễn, biết được “thiên cơ” trong muôn vàn “duyên nghiệp”. Nhưng vì quá chủ quan suy diễn theo tin thời sự đựng chuyện chuyền miệng nhau trong tù, nên anh phê phán “bản tin” tử vi theo ý mình! Tôi phục tài bấm số tử vi của anh. Có những việc anh đoán trúng phốc cho những người ngoài, nhưng bản thân anh thì không đoán được.
***
Ra Bắc một thời gian “treo chén” anh lại ra chiêu xem tử vi. Anh nói với tôi là bình sanh anh chỉ mê học xem tử vị vì theo anh, nó là một môn khoa học, rõ ràng, mạch lạc và… chính xác! Với tài ăn nói vui vẻ, cởi mở và hòa đồng, anh được anh em tù cùng cảnh ngộ “nuôi”; nhất là những anh thường được gia đình gởi quà, hay có người vợ thương yêu, băng tàu vượt rừng từ Nam ra Bắc thăm nuôi! Anh xem tử vi nổi tiếng, nổi tiếng đến tai Cán Bộ Trại Giam bởi một anh tù làm Anten (Báo cáo viên) nằm bên kia dãy sàn ngủ. Anh được “mời” lên ngồi làm bản tự kiểm và sau đó bị “cùm hai chân” một tuần lễ về cái tội gieo rắc mê tín dị đoan, làm cho trại sinh không an tâm tin tưởng Đảng và Nhà Nước. Có điều lạ là, sau một tuần lễ nằm cùm, con người anh lại khác hẵn. Anh “bị” liên tiếp, hết Trưởng Trại đến Cán Bộ Giáo Dục, Cán Bộ Quản Giáo… lần lượt “mời” xơi nước trà hút thuốc lá. Có hôm anh đi từ sáng đến tối mịt mới bò về chỗ ngủ, bê theo một xách, trong đựng chừng hai ký củ mì luộc. Anh dựng đầu chúng tôi dậy đãi củ mì và gãi bụng cười: – Hôm nay được “chén” một bữa no! Tôi chặn đầu: – Anh khai ngay, từ ngày bị cùm ra đến giờ, luôn được cán bộ “chiếu cố”, có phải đang bán đứng anh em để được no, được về sớm phải không? – Lại nói bậy, im cái miệng thối mày đi! Nói nhỏ cho tụi mầy nghe, đừng có học đi học lại, lỡ tụi anten nó báo cáo thì… Chúng tôi bao quanh lấy anh, tay thì bốc củ mì, tai vễnh ra, miệng thì nhai… Anh chậm rãi: – Tao xem tử vi cho bọn chúng! – Trời! Thật không? Tụi nó nhốt anh, cùm anh vì cái tội xem bói toán. Mà bây giờ lại nhờ anh xem tử vi cho chúng là sao?
Anh kéo ống thuốc lào trên vách xuống, lấy cây chọc vào nõ, vê một bi thuốc… Rồi thong thả theo tiên ông… Một lúc sau, cảm thấy hết phê, anh chầm chậm “khai”: – Hôm tao bị cùm, nằm trên sàn xi măng lạnh quá, tao nghĩ là sẽ chết vì bị lạnh lưng và đói. Mấy con gián cứ đến nhâm nhi ngón chân của tao. Vách bên kia là một ông cha đang bị cùm, hình như là Cha Song mới vừa chuyển về từ trại Cổng Trời. Cha hay hát thánh ca và đọc kinh. Hình như ông không sợ gì, kể cả bị cùm từ các trại nầy dến trại khác. Tao nằm như thế được hai hôm thì có một thằng Áo Vàng bước vào nhìn tao. Hắn có vẻ buồn, trẻ măng. Tao bèn lên tiếng: “Chào cán bộ! Ông đang có chuyện buồn phiền gia đình. Ông mới vừa mất của!” Bò Vàng ngạc nhiên nhìn tao, đến sát bên hỏi tao: “Sao anh biết tôi bị mất của?” Tao nói: “Thì nếu cán bộ có mất thì tôi sẽ nói tiếp còn không thì thôi. Nhưng cán bộ tuổi con gì, sanh ngày giờ gì thì tôi mới nói đúng được!” Hắn nhìn trước ngó sau rồi kề tai nói nhỏ với tao. Tao nghĩ, trong chốn lao tù, chỗ tận cùng là nơi cùm gông xiềng xích mà nó còn sợ có người rình nghe nữa thì hết ý. Tôi nóng ruột thúc: – Nói ngắn gọn thôi cha! Rồi sao? Vẫn ra vẻ quan trọng, móc trong túi ra một cục thuốc lào to, nhìn mọi người cười: – Hút đi! thuốc hạng nhất Hải Phòng đó! Cán Bộ Trực Trại thưởng cho tao hồi chiều!… Thằng nhãi con “thành thật khai báo” với tao là nó vừa mất chiếc xe đạp xịn mua ở dưới phố Yên Bái, đạp về đến bến phà Âu Lâu thì bị mất lúc nó dựng xe vào quán ăn tô bún riêu. Tao hỏi tuổi và ngày giờ sanh rồi nói với nó là hãy về tìm ở cách nhà nó bốn cây số về hướng Đông sẽ lấy lại được. Nó lật đật chạy đi không kịp nói gì thêm. Sau khi tao hết bị cùm, về lán thì mầy với thằng Chánh Ruồi dìu tao thê thảm, tưởng không gượng giậy được. Ai ngờ chiều hôm sau Cán Bộ Trại xuống gọi tao lên phòng làm việc. Tao tưởng lại bị cùm nữa về cái tội tuyên truyền mê tín với cán bộ nhà nước!
Nói đến đây, anh Lộc lại làm một bi thuốc lào “câu giờ”! Một đám bu quanh la lên nóng ruột: – Hút lẹ lên, khai mau! Còn đi ngủ mai cuốc đất! – … Cha cán bộ trại mời tao ngồi, rót nước trà đậm, rút thuốc lá mời tao chứ không phải mời thuốc lào. Tao ngạc nhiên đứng như trời trồng. Hắn ta cười mời một lần nữa. Hắn nói: “Anh tài thật, Cán Bộ Văn đã tìm được chiếc xe đạp theo hướng anh chỉ và đã bắt được tên trộm lấy cắp chiếc xe đạp.” Tao mừng quá, nghĩ là mình “chó táp phải ruồi”, bèn đủng đỉnh ngồi xuống ra cái điều tài thánh! Thế là từ bữa đó tao liên tục được chiếu cố, hết thằng nầy đến thằng khác “lảnh” lên xem tử vi” thay vì đi cuốc dất với tụi mầy! Bây giờ thì tụi nó tin tưởng tao còn hơn cha mẹ nó… Thằng Chánh Ruồi cười nham nhở: – Anh Lộc! Hôm sau có gì anh bỏ vào bọc đem về cho tụi em ăn với nha! Coi bộ anh mập ra và đẹp trai… – Mầy chỉ được cái nịnh. Anh Lộc từ đó cho đến ngày về Nam luôn là một ông thầy bói tử vi có hạng của tù và là Thầy của bọn Bò Vàng. Nhưng khi được thả về, anh tiếp tục cái nghề “sờ mu rùa” không phải dễ. anh mướn một xe xích lô, hàng ngày đạp ra đường kiếm khách. Nếu có khách gọi là anh có “mối tử vi”! Trong lúc đạp xe, người ngồi trên xe được gợi ý về tướng số, tiếp theo là bấm quẻ. Nếu “khách” lạ khoái thì cả hai cùng dừng lại ở đâu đó để “Xem cho kỹ”. Cuối cùng thì khách “hồ hởi phấn khởi trả tiền xe lẫn tiền “thầy”!
Năm 1984, tôi từ vùng kinh tế mới Đồng Nai dẫn vợ lên Sài Gòn thăm gia đình ba má, tôi gặp anh đang khệnh khạng trên chiếc xích lô không khách ở góc dường Bà Hạt và Nguyễn Duy Dương. Mừng quá, chúng tôi vào quán uống nước nói chuyện tránh nắng trưa. Anh nhìn vợ tôi và nói: “Chị đừng để nó vượt biên một mình, không được đâu. Sẽ có ngày cả gia đình qua Mỹ bằng máy bay…!” Tôi cười nhìn anh chế diễu: “Giống như cái tin anh nói xuống tàu ra Hạm Đội 7 năm nào chứ gì!” Anh cười: “Thì để xem!” Anh đã nói đúng khi chúng tôi lên máy bay qua Hoa Kỳ, không những chỉ gia đình tôi mà còn cả tập thể những gia đình là tù nhân chính trị suốt bao nhiêu năm từ Nam ra Bắc. Anh đã nói đúng nhiều việc, nhưng chính anh không thể nào bấm trúng lá số của chính anh khi anh nằm trên giường bệnh vì bệnh gan, kết quả của những năm anh hay “ăn bậy” trong trại tù.
Anh nằm xuống ở Nam California sau khi đưa hết vợ và bầy con của anh định cư trên xứ tự do. Từ ngày biết mình bị bệnh dến khi nhắm mắt, anh vẫn “sờ mu rùa” cho những thằng bạn tù thỉnh thoảng đến thăm anh trên giường bệnh, trong nhà thương hay những ngày cuối cùng ở một Apartment trên trường Flower ở Garden Grove. Một ông “thầy bói”, một “nhà ngoại cảm”, một thầy “sờ mu rùa” vốn xuất thân từ đơn vị ẫn danh 101, một tù nhân đáng nhớ đã vĩnh viễn ra đi. .
NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Fri Sep 13, 2019 8:04 am
. Giấc mộng dài - Nguyễn Thị Thanh Dương
Tôi vừa về đến nhà là bố tôi hỏi ngay: - Thủ tục đã xong chưa con? - Xong cả rồi bố ạ, bên ấy ông Mấn chỉ đợi phỏng vấn thôi. Ông Mấn là chú của bố tôi, người mà tôi phải gọi bằng ông trẻ. Ông đang sống ở miền Bắc Việt Nam, và bố tôi đang làm thủ tục bảo lãnh ông sang Mỹ theo diện du lịch. Sau năm 1975, bố tôi phải đi “Học tập cải tạo” ròng rã 8 năm trời. Ra tù, về nhà bố tôi sống khép kín cho qua ngày, vả lại, một người sĩ quan chế độ cũ đi tù về, chẳng có cơ hội nào để vươn lên.
Cho tới khi có chương trình HO, cho những người tù cải tạo được định cư tại Mỹ, thế là cả nhà tôi đi Mỹ. Cuộc sống mới nơi xứ người đã phục hồi con người thật của bố tôi, bố mẹ đi làm, nuôi chúng tôi ăn học, cuộc sống dần dần ổn định mọi bề. Năm 2000 bố mẹ và tôi lần đầu tiên về thăm quê hương, hay nói cho đúng hơn là về miền Bắc để tìm lại người thân. Bố đã gặp lại người mà bố muốn gặp, đó là ông Mấn, ông vẫn còn đang sống ngay tại làng quê cũ. Ký ức tuổi thơ của bố vẫn còn những kỷ niệm đẹp với ông chú, thuở còn trai trẻ, chú Mấn đã bỏ làng, đi buôn bán phương xa, từ buôn bè trên sông đến buôn hàng chuyến đủ loại thượng vàng hạ cám, miễn là được giang hồ tứ xứ. Đi xa như thế, mỗi lần trở về làng, dù lời lãi hay không, chú Mấn đều mang quà về, bố tôi là cháu ruột, cũng được nếm đủ loại quà bánh của chú, ngon như bánh cốm, bánh xu xê, bánh đậu xanh, bánh khảo của Hải Dương, hay tầm thường thì có những cục kẹo lạc, kẹo vừng hay kẹo ú ngọt ngào mà trẻ con nào cũng ưa thích! Bố nhìn ông chú bằng ánh mắt kính phục và ngưỡng mộ. Đôi chân chú khoẻ, đi hoài mà không biết mỏi, không chịu quay về làng quê ở hẳn như gia đình mong. Ngoài quà bánh, chú Mấn còn có nhiều câu chuyện kể cho lũ cháu trẻ, làm chúng mê mẩn. Bố tôi thích nhất những câu chuyện chú Mấn đi buôn bè, thả gỗ từ thượng nguồn xuôi về hạ nguồn, có khi gặp nước lũ, bè trôi, những người buôn bè phải chống trả với phong ba bão táp. Đến nỗi bố đã từng mơ, lớn lên sẽ đi giang hồ như chú. Chú Mấn rất hào phóng, nhiều lúc chú đã dúi tiền cho bố tôi, bảo tao cho mày, cất đi mà tiêu, đừng cho bố mẹ biết. Những đồng tiền ngày đó đối với bố tôi lớn biết bao.
Chúng tôi đến nhà con gái ông Mấn, họ bảo ông đang ở căn lều ngoài nghĩa địa, ông thích ở riêng, khỏi phiền con cháu, mà nhà họ cũng chẳng phải là một căn nhà để ông có chỗ chen chân. Đứa cháu ngoại của ông dẫn chúng tôi đến căn lều, cô hơn 20 tuổi mà trình độ, kiến thức của cô vẫn ngô nghê như một đứa trẻ bậc Tiểu học, làm như từ hồi cha sinh mẹ đẻ đến giờ, cô chỉ từ làng quê này đi kinh tế mới Lào Cai, và trở lại làng, nên chẳng biết gì hơn ngoài núi rừng và đồng ruộng. Huyền thoại về “chú Mấn” cũng làm tôi thích thú và khao khát được gặp ông bằng xương bằng thịt. Bây giờ “chú Mấn” là một ông già 73 tuổi. Ông to cao như cây cổ thụ, nước da nâu sẫm của người nông dân cả ngày phơi mặt ngoài đồng. Ông Mấn dựng một túp lều nhỏ ngay tại nghĩa địa, sống một mình, ngoài giờ làm vườn, làm ruộng, ông về lều thảnh thơi ngồi uống rượu như một kẻ nhàn du. Khi tôi hỏi ông ở một mình nơi đây ông có sợ ma không? Thì ông cười bảo ma sợ ông chứ ông sợ gì nó! Ông có một đứa con gái, hai vợ chồng nó nghèo xơ xác, căn nhà ọp ẹp dựng ở ven đê, mùa mưa con đường đê dấy lên bùn sình như bột nhão, đặt chân xuống bùn, giở lên để đi bước nữa thật là vất vả. Vợ chồng chị đã từng đi kinh tế mới ở Lào Cai, chẳng sống nổi lại kéo nhau về làng cũ với căn bệnh sốt rét, nay ốm mai đau, tiền bạc không có, ruộng vườn trắng tay, đành phải ra đê mà ở. Sau này cũng đơn lên đơn xuống các cấp xã, huyện, mới xin được một mẩu đất ruộng xấu nhất cuối làng, để cày cấy lấy hạt gạo, tuy không đủ no nhưng có còn hơn không.
Vợ chồng chị đều ốm yếu, con thơ nhếch nhác, nên ông Mấn đã phải xông pha, mang hết lực tàn ra, đổ mồ hôi trên ruộng vườn để phụ giúp con cháu. Khác với lòng mong ước và sự tưởng tượng của tôi. Ông Mấn không hề vồ vập với bố tôi, thằng cháu nhỏ năm xưa ông từng cho quà và cho tiền. Ông nhìn chúng tôi bằng ánh mắt không thiện cảm, ánh mắt ấy dường như nói rằng, lũ chúng tôi đã chạy theo “Mỹ Nguỵ”. Suốt câu chuyện, hãnh diện khoe đất nước Việt Nam sau cuộc chiến thắng vinh quang 1975, đã đổi mới và tiến lên. Cụ thể là ngôi làng này, con đường làng bụi đất và gồ ghề khi xưa nay đã được tráng nhựa, nhiều nhà gạch xây lên và có điện thắp sáng, có ti vi, có đài radio, dân không phải nghe tin tức bằng cái loa ở trụ sở ấp nữa... Dĩ nhiên, không phải cả làng ai cũng khá giả như thế, bằng chứng là nhà con gái ông và ông vẫn chưa có những thứ ấy. Nhưng ông Mấn vẫn khẳng định như đinh đóng cột, trong tương lai nhà nhà sẽ no ấm hơn, cuộc sống tiện nghi đầy đủ hơn, xã hội chủ nghĩa sẽ đi đến đỉnh cao của thành công và quang vinh. Chúng tôi được biết ông Mấn đã là đảng viên, đang lãnh lương hưu trí, số tiền hưu cho một anh bộ đội quèn chẳng là bao, nhưng nó “xác định” cái giá trị công lao của anh đã đóng góp cho đảng và nhà nước. Bố tôi và tôi đều thất vọng về “chú Mấn” ngày xưa, bố mẹ đã biếu Ông một số tiền và đặc biệt là một cái áo ấm bằng da mà chính tay bố đã mua cho ông, vì bố đã biết mùa Đông đất Bắc mưa phùn gió bấc lạnh thế nào! Tuy ông Mấn có ý chê trách chúng tôi theo “Mỹ Nguỵ”, nhưng ông không chê những món quà của “Mỹ Nguỵ”, ông cẩn thận gấp những đồng đô-la bỏ vào túi và mặc thử cái áo ấm to dày với vẻ hài lòng. Trong khi tôi liếc nhìn quanh căn lều chông chênh, trống toang toác của ông, bốn bề gió lộng giữa bãi tha ma, làm sao mà không lạnh!
Mỗi năm sau đó, chúng tôi vẫn gởi tiền về cho ông Mấn, dù bất đồng ý kiến, nhưng chẳng ai nỡ nhìn người thân của mình ở tuổi già gần đất xa trời vẫn loay hoay đánh vật với cuộc sống để kiếm cơm cháo qua ngày như thế! Cô cháu ngoại của ông Mấn thỉnh thoảng viết thư cho chúng tôi, kể về ông, năm nay ông 79 tuổi rồi, không còn khoẻ như hồi chúng tôi về thăm nữa. Bố tôi ngậm ngùi thương cho ông, và có ý định làm bảo lãnh cho ông Mấn sang Mỹ thăm thân nhân, coi như một món quà cho ông. Một con người từng yêu thích ngang dọc một thời, đây là cơ hội có lẽ ông không thể bỏ qua. Ba tháng sau, ông Mấn của chúng tôi đã đặt chân đến Mỹ. Ông như người từ cung trăng vừa rơi xuống mặt đất, cái phi trường, nơi ông vừa ra khỏi máy bay đã làm ông choáng váng, ông bảo nó to đẹp ông chưa bao giờ tưởng tượng được. Ông đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, mỗi ngày ông biết thêm những điều mà ông cho là từ “vô lý” này đến “vô lý” khác. Ai đời, một người dân nước khác đến như ông, mà chẳng cần phải khai báo, đăng ký tạm trú với chính quyền địa phương gì cả! Ai đời, người già, người tàn tật, dù không sinh đẻ ở Mỹ, dù chưa đi làm ngày nào trên đất Mỹ, chỉ được thân nhân bảo lãnh sang đây, cũng được hưởng tiền trợ cấp và bảo hiểm sức khoẻ! Ông bảo nước Mỹ giàu có quá hoá... ngu! Chúng nó bảo lãnh nhau sang đây, thì vợ chồng, con cái chúng nó phải nuôi nhau, lo cho nhau, việc gì nhà nước phải đứng ra trợ cấp? Đã thế, tiền trợ cấp hàng tháng được gởi tới tận nhà, không trễ nãi, trong khi ở làng quê ông, với đầy đủ giấy tờ trong tay mà phải chầu chực, xin xỏ, có khi vẫn không xong.
Hai tháng ở Mỹ, ông đã lên cân, khoẻ mạnh hẳn ra và vui vẻ thư thái, có lẽ vì ông được ăn uống đầy đủ, không phải vác cuốc ra đồng mỗi ngày, và nhất là ông đã cảm nhận một đời sống tự do, thoải mái? Có thể vì vậy mà ông chưa muốn trở về làng quê, dù đôi lúc ông cũng nhớ con nhớ cháu, dòng máu giang hồ đang trỗi dậy trong người ông, y như ngày xưa, thời ông trôi dạt đó đây. Ông Mấn đến Mỹ với chiếc áo ấm to dày ngày xưa bố mẹ tôi đã mang về tặng ông, chắc đây là chiếc áo ông quý lắm và chỉ mặc khi có chuyện “đại sự” nên trông vẫn còn tốt. Nhưng bố tôi vẫn bảo ông bỏ đi và dẫn ông đi sắm vài bộ đồ khác ở chợ Wal-Mart. Ông Mấn tưởng đấy là cửa hàng quần áo sang trọng bậc nhất thế giới mà ông đã hân hạnh được vào, dù bố tôi đã nói đây là cửa tiệm bình dân, nhưng ông nào tin, cứ cho là bố tôi khiêm nhường hay nói đùa. Ba tháng du lịch của ông Mấn trôi qua, tới ngày ông phải trở về Việt Nam. Chúng tôi sắm cho ông hai va-li đầy ắp những quần áo và quà cáp. Cả nhà ra phi trường tiễn ông, trước khi đi vào trong cổng, ông đã nắm tay bố tôi, ân cần, thân thiện như “chú Mấn” ngày xưa. Ông cười nhếch mép: - Kiếp sau, chú vẫn sẽ là một thằng thích giang hồ, xa xứ. Nhưng chú sẽ bước thẳng tới bất cứ miền nào, vùng đất nào có tự do, dân chủ và no ấm...
Máy bay cất cánh, mang ông Mấn trở về Việt Nam, về ngôi làng quê, nơi có con đường tráng nhựa, có những căn nhà gạch, có ánh điện, có ti vi, có đài và có căn chòi heo hút bên nghĩa địa. Nhưng chắc chắn giấc mộng dài của ông về một đất nước xã hội chủ nghĩa thì không còn nữa.
.
NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Sat Sep 21, 2019 9:30 pm
. Mối Tình Bông Bưởi - Nguyễn Kim Dục
Tác giả sinh năm 1938, cựu sĩ quan an ninh quân đội, sang Mỹ theo diện H.O1. năm 1990, hiện đã về hưu, an cư tại Westminster. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2008, đã góp nhiều bài viết giá trị, từng nhận giải đặc biệt. Sau đây là bài viết mới nhất.
***
Chuyện xảy ra hồi tôi còn ở tù ngoài Yên Bái, lúc đó quân đội còn quản lý, chúng tôi do đoàn 776 trách nhiệm. Trại tôi khoảng ba trăm người, cấp bậc đại úy ở gần đường cái khoảng 3 cây số, còn trại cấp bậc thiếu tá thì ở sâu hơn nữa, còn cấp bậc trung tá ở xa thêm trong rừng. Trong ba trăm người đó họ chia ra từng đội mỗi đội 30 người, rồi từ đó họ phát dụng cụ lên rừng chặt cây về làm cột và chặt nứa về làm mái nhà dựng lều láng mà ở. Tức là khi chúng tôi ra chỉ là bãi đất trống không có nhà cửa trang trại gì cả, tự tay tù xây dựng lên, nhiều người mất tinh thần, ban đêm lấy thuốc ở nhà mang đi tự tử chết, thế là hôm sau họ kiểm tra đồ cá nhân của mọi người, họ thu hết thuốc men mà tù đem theo, hậu quả là sau này nhiều anh bệnh chết vì không có thuốc. Sống ở nơi rừng thiêng nước độc anh em bị sốt rét nhiều mà trại chỉ có độc một món thuốc Xuyên tâm liên bệnh gì cũng phát cho uống, thôi thì phước chủ may thầy.
Thời gian sau các láng trại cũng dựng xong và làm thêm hội trường để lên đó học tập, nào là chính sách khoan hồng của nhà nước, Đế Quốc Mỹ là tên sen đầm quốc tế, ngụy quân ngụy quyền là tay sai của Đế Quốc Mỹ, các anh đã cầm súng chống lại cách mạng, tội các anh trời không dung đất không tha, chỉ đem ra bắn mới hết tội, nhưng nhà nước ta đã tha mạng sống cho các anh và tạo điều kiện cho các anh học tập tốt, lao động tốt để sớm về sum họp với gia đình. Sau đó họ phân công tôi đào giếng lấy nước uống, đội đào ao thả cá, đội làm rẫy để trồng khoai trồng sắn, đội mộc lên rừng chặt cây to về xẻ ra làm bàn ghế. Riêng tôi ở trong đội chăn nuôi được bố trí đi chăn trâu, vì què chân chỉ đi chăn một con thôi, còn những anh kia thì hai con, ba con. Đi chăn trâu thuộc thành phần tự giác muốn đi đâu thì đi, không có vệ binh vác súng AK đi kèm theo đội. Tốp chăn trâu tôi thân với anh Quang, đại úy không quân, cao ráo đẹp trai. Đại úy chúng tôi gọi là bò tam, bò nhất là thiếu úy, bò lục là đại tá, phải gọi như vậy để tránh học không cho chúng tôi dùng cấp bậc cũ. Dùng bò nói lên cám cảnh của chúng tôi hiện tại, thân phận như trâu bò, còn bò nhí là các anh hạ sĩ quan an ninh tình báo, cảnh sát đặc biệt cũng bị đưa lên miền thượng du Bắc Việt. Toán chăn trâu không phải lệ thuộc vào giờ giấc, sáng dắt trâu ra khi trời sập tối thì dắt trâu về chuồng,hằng ngày cho nó ăn no tắm rửa đàng hoàng rồi mới cho về, no đói thì làm sao phân biệt được thành ra hàng ngày dắt trâu ra rừng, cột trâu lại lo cho thân mình trước đã, đi tìm đồ cải thiện, từ này họ cũng đặt chỉ được cải thiện linh tinh, nghĩa là đi tìm rau má rau tàu bay, rửa sạch ăn sống, ăn vào cho no bụng. Bọn chăn trâu chúng tôi đâu thèm để ý đến các món đó, phải "cải thiện" những món cao cấp hơn bằng cách đi câu cá hay đột kích vào các rẫy sắn và ngô của trại để thu hoạch, không dám vào rẫy của người Thượng sợ bỏ mạng nơi sa trường. Hồi trước khi đi tù tôi đã tiên liệu. Pháp có câu "Comander c'est prevoir" (Chỉ huy phải biết tiên liệu) nên tôi đã sắm một mớ dây cước và lưỡi câu cho vào hành trang đi tù, thế là bây giờ có dịp thi thố. Tôi có cái mã đi câu sát cá lắm.
Rừng ở đây có những con suối chảy dài vô tận, suối cạn không có sâu trông thấy đáy, nhìn chả thấy con cá nào nhưng dọc theo bờ suối có những cái hang tôi biết trong đó sẽ có cá lóc, tôi đi kiếm mấy con nhái móc vào lưỡi câu nhắp nhắp trên miệng hang mấy cái, cu cậu ở trong miệng hang phóng ra bụp một cái, tôi giật lên, tay rung rung muốn ghị lại giật mạnh lên con cá lóc bằng bắp tay vung lên cao vút trên trời, cảm giác ngập tràn sung sướng, chả trách hồi ông Thiệu còn làm tổng thống, quan nhất nước nhà ta thường ra Côn Đảo câu cá, tôi có thằng bạn cùng khóa tên Mai-Năng-Căn không biết làm chánh đảo hay phó đảo, mỗi lần tổng thống ra phải chuẩn bị đồ nghề cho ngài đi câu, thằng bạn tôi cho biết mấy ông cố vấn tối om đi theo tổng thống bảo kiếm một con cá lớn móc vào cần câu để dưới nước để lát nữa tổng thống giật lên chụp hình khoe thành tích, không ngờ cả bọn bị dũa te tua: Dẹp đi đừng làm trò khỉ, đi câu là tìm cảm giác mạnh khi cá cắn câu, chứ móc sẵn cá vào giật lên còn hứng thú gì nữa. Thật vậy khi giật lên cá đã mắc câu người tê tê cả toàn thân không sao tả xiết. Khi câu đủ số lượng rồi, chúng tôi đã chuẩn bị bao diêm và muối, thế là đốt lửa lên sau khi rửa sạch xát muối, cắm cá trên cái cây rồi nướng trui vàng um ăn béo ngậy, phải ăn cho hết nếu đem vào trại sợ bể ổ. Đi tù mà có bữa ăn như vậy kể như hoàng gia rồi chả bù các anh em đi theo đội lao động có aka đi kèm thì làm sao cải thiện được nên đói rã họng đói vàng da!
Trên đường chúng tôi dắt trâu đi ngang qua có cái nhà sàn của người Thượng, cũng không biết họ là người Tày, người Mường hay người Thái Trắng, tôi nghĩ là Thái Trắng vì có cô gái khoảng trên hai mươi hằng ngày cứ ra đứng. Cô Thái da trắng xinh đẹp ngày nào cũng thấy đứng đó như để chờ chúng tôi đi ngang qua. Mà mắt cô thì luôn luôn hướng về anh bạn tôi một cách say đắm. Anh bạn gà tồ chẳng để ý gì cả, nhưng với con mắt cú vọ méo mó nghề nghiệp của tôi, tôi biết là nàng đã cảm anh chàng này rồi, vì chàng hàng ngày nhờ kiếm, ăn được nên người không còn thân tàn ma dại nữa. Trong đầu tôi làm việc căng thẳng phải bày binh bố trận sao cho hợp lý hợp tình để đối phương vào tròng mà không nghĩ là bị sắp đặt. - Ê Quang ngày mai mày dắt trâu đi lối khác đừng qua lối này nhá. - Chi vậy! - Thi hành trước khiếu nại sau Hắn đứng nghiêm chào tay nói "Tuân lệnh." Tôi quay đi không dám cười vì điệu bộ của hắn. Ngày mai tôi dắt trâu đi qua nhà nàng, mặt nàng ngơ ngác cố tìm xem hắn có đi sau không nhưng thất vọng mặt buồn xo trông thấy rõ, tôi cứ bơ đi như không có chuyện gì. Chiều trở về trại gặp hắn tôi nói: Chắc như bắp. - Gì nữa? - Ngày mai mày cũng đi lối ấy cho tao. - Lại giở trò gì nữa với tao vậy? - Yên chí lớn ngày mai có ăn. Mặt hắn sáng lên: - Thật không? - Bảo đảm 32 phần dầu. Ngày hôm sau đi qua nhà nàng tôi với khuôn mặt như đưa đám làm nàng thất kinh hồn vía thật, bạo dạn bước ra hỏi tôi với cái giọng lơ lớ của người dân tộc - Cái anh gì đi với anh đâu rồi? - À cô hỏi anh Quang thường đi với tôi phải không? - Đúng rồi. - Anh ấy bị bệnh. - Trời ơi có sao không? Tôi liếc trước nhà cô ấy có cây bưởi sai trái, tôi phịa ra liền: - Nó bị cảm khô cổ họng khát nước đòi uống nước chanh mà trong trại tôi không tìm ra quả chanh nào cả thật tội nghiệp nó. Liếc chung quanh không thấy ai cô chỉ tôi lại cái bụi đằng kia, anh ngồi đó lát nữa tôi ra gặp lại. Nghĩ bụng chết con rồi con ơi gặp tụi ma đầu cho vào tròng chỉ có thác thôi. Lúc sau nàng đem ra một bịch gồm 4 trái bưởi, gọi là bưởi vì trái lớn, còn bòng thì trái nhỏ. - Anh đem về trại cho anh ấy ăn đi. - Tôi còn phải chăn trâu chiều tôi mới về trại được. - Trời ơi khổ cho anh ấy quá. Anh hỏi anh ấy có còn gì nữa không? - Để tôi nói lại mai có gì tôi sẽ cho cô biết sau. Tôi đem chiến lợi phẩm đi ngược lại để gặp Quang và hai đứa ăn hết một lúc bốn trái - Mày hay thật ngày mai tao đi với mày được chưa? - Chưa. - Sao vậy? - Để tao nghĩ cách làm ăn dài dài. - Con lạy bố, tội người ta. - Nó mê mày thật mà. Mày phải đối xử tử tế với nó, không có chết với tui. Ngày hôm sau tôi lại đi qua cái nhà sàn của người Thượng, cô gái vẫn đứng ở cửa chờ đợi. Tôi lại gần nói: - Cám ơn cô hôm qua nhờ có mấy quả bưởi của cô người bạn của tôi đã ăn một cách ngon lành và đã khỏi bệnh, nó nói với tôi cám ơn cô. - Khỏi rồi sao không đi lao động? - Vì nó còn yếu lắm không đi vững. - Anh cứ đi chăn trâu, đi độ trưa trở lại tôi có cái này gởi cho anh ấy. - Cám ơn cô, tôi hỏi kháy sao cô lo cho bạn tôi quá vậy. Nàng bẻn lẻn không nói gì được. Trưa trở lại nàng đưa cho tôi một bịch, theo phép lịch sự tôi cầm lấy không dám mở ra xem trong đó có cái gì chỉ nói cám ơn cô lát nữa tôi sẽ đưa cho bạn tôi. - Mong anh ấy hết cái bịnh.
Tôi đi ngược lại phía bạn gặp nó. Mày dở ra xem nó cho cái gì. Một nắm xôi trắng và nửa con gà luộc thêm gói muối tiêu thật là cảm động. Hai thằng đớp liền tại chỗ nó phê làm sao vì lâu quá ở trong trại chỉ cho ăn bo bo và sắn khô thay cơm, đúng là yến tiệc. - Mai tao đi về phía mày được chưa? Thấy tôi không trả vốn trả lời gì cả, hắn tiếp lại định dở trò gì nửa hả? - Thôi được mai mày đi với tao, gặp nàng phải vui vẻ cám ơn sự quan tâm đã lo cho mày mấy ngày qua tao sẽ lãng ra chổ khác để hai đứa tự do nói gì thì nói. Ăn thua tài ăn nói của mày có thể rủ nàng đi sâu vào trong rừng tao ở ngoài này canh cho. Khi có động tịnh gì tao sẽ chắp hai tay lại thổi như tù và thì dang ra mỗi người núp một nơi, không có thì chết cả đám. - Mày làm như dễ ăn lắm. - Nó lậm lắm rồi không có làm gì mình có ăn mấy ngày nay. Mà tao dặn kỹ có xào thì xào khô không được tới bến nó ễnh cái bụng ra thì mọt gông tao cũng vạ lây. - Tao làm tao chịu việc gì liên quan đến mày. - Họ khép tao vào cái tội vẽ đường cho hươu chạy. Tao thấy tao ngu quá, trong đời có 4 cái ngu mà tao chiếm 2 cái là làm mai và gác ca. - Thôi mà đồng lao cộng khổ. - Ê mày sắp đến 2 tháng 9 rồi là ngày lễ Độc lập, cả trại nghỉ cả và làm trâu bồi dưỡng chỉ có bọn mình chăn nuôi phải đi làm, hôm đó mày coi trâu cho tao để tao đi thám-sát địa-thế. - Mày lúc nào cũng méo mó nghề nghiệp. - Thật mà có ăn. - Lúc nào cũng nghĩ đến ăn. - Đói rã họng không nghĩ đến ăn thì nghĩ cái gì. Cộng-sản nó đày đoạ cả nước bằng cách thắt bao tử người dân nào là đổi tiền cướp hết tài sản của mọi người, đánh tư sản mại bản, cho đi vùng kinh tế mới, tịch thu nhà cửa tài sản để không còn phương tiện tìm cách chống đối, lo miếng ăn chưa xong nghĩ gì chống phá.
Rồi đến ngày 2 tháng 9 mấy anh nuôi dắt con trâu già ra suối lớn làm thịt. Từ trại ra suối lớn dài khoảng một cây số, tôi biết khi khiêng thịt về thế nào họ cũng dấu một mớ ở chỗ nào đó để làm của riêng rồi ra lấy sau, tôi phải đi điều nghiên xem họ dấu chỗ nào để phỗng tay trên nghĩ rằng họ mất cái này sẽ kiếm cái khác. Đây rồi chỗ này vừa vắng vẻ có nhiều bụi rậm dễ cất dấu. Tôi tìm một bụi rậm cách xa đường ngồi rình, gần một giờ sau thấy hai người khiêng một sọt thịt trâu ngừng gần chỗ tôi núp. Tôi khoái quá suýt la lên vì phán đoán của mình như để. Một thằng nói mày đứng cảnh giác cho tao giấu. Đợi cho chúng đi khuất một lúc lâu tôi mới lại thu chiến lợi phẩm đem về khoe chiến tích với bạn. Hai đứa đốt lửa lên tôi thấy thịt nhiều quá bàn với bạn hay là cắt cho nàng một phần coi như có qua có lại và nói đừng cho ai biết. Thời gian lặng lẽ trôi, một hôm hắn nói với tôi: - Ê Dục tao có chuyện buồn - Gì nữa. - Hôm qua tao mới nhận được thư của mẹ tao cho biết vợ tao giao hai đứa con cho bà nội và đi lấy chồng khác. Nghe tin này tôi lịm người đi buồn cho bạn, nhưng chả trách người đàn bà vì hoàn cảnh mà phải bước đi bước nữa, làm sao đợi chờ người tù không bản án, tù dây thung chả biết ngày nào ra. Tôi an ủi bạn đừng buồn nữa, viết thư về cho mẹ, mẹ cố gắng giúp con chờ ngày con về sẽ phụ mẹ lo cho các cháu. Trong lúc này tôi cũng không dám đả động đến "Mối tình bông bưởi" sợ nó sốc, để chờ cho nó nguôi đi nỗi buồn rồi mới tính. Thế rồi chuyển trại tôi thuộc diện an ninh tình báo gom lại đưa về trại Nam Hà (Ba Sao) do công an quản lý, hai đứa mất liên lạc từ đó.
Năm 85 ra tù tôi về Sài Gòn cố hỏi thăm tin tức về nó cũng mù tịt luôn. Đến năm 90 thì sang Mỹ theo diện Hát Ô cố tìm nó mà cũng không được coi như Mối Tình Bông Bưởi không có đoạn kết. Mãi năm 1992 ông mới lò dò sang Mỹ. Lúc đó mới biết Mối Tình Bông Bưởi có cái hậu của nó, người con gái Thượng năm xưa đã lột xác rồi không còn một dấu tích gì của dĩ vãng, người ta bảo gái môt con trông mòn con mắt, chị chỉ nói với tôi cám ơn anh nhiều lắm. Ông chồng quay sang nói với tôi khi mày đi rồi tao chới với không biết xoay sở làm sao bây giờ vợ bỏ đi rồi bỏ lại hai đứa con chơ vơ không ai chăm sóc tao thật điên đầu nhưng lúc đó ngoài tầm tay của tao. Sau đó tao cho nàng biết để xem phản ứng như thế nào thấy nàng tội nghiệp cho hoàn cảnh của tao. Tao bảo nàng, thằng Dục nó đi rồi mai mốt chắc anh cũng phải đi. Anh muốn chắc một điều và phải nói ra là em có chịu lấy anh không. Nàng nói em là gái Thượng quê mùa sợ anh chê. Không có đâu. Đây, anh đưa cái nhẫn này cho em để làm tin, cái nhẫn này lâu nay anh đã dấu được vậy em giữ lấy khi nào ra tù anh sẽ trở lại đây cưới em. Nàng ôm tao khóc sướt mướt anh đi rồi nhớ viết thư cho em, em cũng biết tiếng Việt.
Năm 1982 tao được thả về nhà trình bày với mẹ xin mẹ cho tiền ra cưới nàng. Lúc đó tao về Cần Thơ không gặp được mày tao chắc mày cũng chưa được ra. Sao sang đây quả đất tròn anh em mình lại gặp nhau. Không ngờ Mối Tình Bông Bưởi có cái hậu của nó hai đứa mày lấy được nhau tao mừng lắm.
Nguyễn Kim Dục .
PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Fri Oct 18, 2019 7:28 am
.
Phiên Tòa Ngày Ba Mươi - Trần Mộng Tú
Theo âm lịch hôm đó là ngày 30 Tết. Sáng mai sẽ là ngày Tân Niên. Người Á Đông vào ngày cuối năm này, không ai muốn ra tòa cả. Họ còn lo dọn cửa nhà, bày bàn thờ tổ tiên để đón năm mới. Nhưng người Mỹ thì ngày nào cũng là ngày làm việc, trừ ngày lễ và ngày cuối tuần. Ngày 30 Tết của mình không phải ngày lễ lạt nào của dương lịch cả. Và phiên xử đã định ngày. Muốn hay không cả bị cáo lẫn nguyên đơn đều phải ra đôi chứng trước tòa.
Phiên tòa “Dân Sự Tố Tụng” ngoài luật sư, chánh án, còn có cả người ngoài vào tham dự. Những người Việt ở thành phố này háo hức đi xem vì bà Hằng là một khuôn mặt quen thuộc trong cộng đồng, một người ở đây từ năm 1975 và tương đối có một cuộc sống dung dị, khiêm nhường, nhất là sau khi chồng bà qua đời thì bà lại ít giao thiệp hơn. Phần đông họ biết bà là người có nhà cho thuê phòng. Bốn người ở trọ trong nhà bà thì một người, con chở tới, để làm nhân chứng thưa bà Hằng, ba người kia cũng chở nhau hoặc nhờ người khác chở đến xem phiên tòa xử bà Hằng.
Bà Nguyễn Thị Hằng bị ông Trần Văn Định, con trai của ông Trần Văn Nam thưa về tội bà lợi dụng bố ông để làm chuyện vợ chồng và đòi số tiền bồi thường là ba trăm ngàn. Đây là số tiền tương đương với căn nhà bà Hằng đang sở hữu. Nếu thua kiện, bà Hằng có thể phải bán đi ngôi nhà này. Sau đây là lời khai của bà Nguyễn Thị Hằng: - Tôi năm nay đã ngoài năm mươi. Góa chồng mười năm, không con cháu. Chồng tôi mất để lại cho tôi tiền hưu bổng, quỹ an sinh của anh cộng vào của riêng tôi, cũng giúp tôi sống thoải mái tuổi già. Tôi có một ngôi nhà khá rộng, nhà bốn phòng ngủ ba phòng tắm. Ngôi nhà này chúng tôi mua sau khi ở Mỹ được mười năm. Bây giờ chồng mất, một mình tôi ở cũng thấy trống trải quá. Bạn bè khuyên tôi nên bán đi mua một căn chung cư ở cho tiện, khỏi phải lo sân trước vườn sau. Nhưng tôi cứ tiếc bao nhiêu kỷ niệm đã có với ngôi nhà này nên không bán. Hai năm sau ngày chồng mất, tôi sửa lại nhà, thêm hai buồng nữa và một buồng tắm rộng, xây theo kiểu cho người già có thể đẩy xe lăn vào tắm. Đã tám năm nay, tôi cho thuê phòng. Tôi cho những người già trên 50 tuổi thuê, phải là không có bệnh tật, tự lo cá nhân được, chỉ muốn ở riêng không phiền con cháu. Nếu ai không thích nấu nướng, tôi cũng nấu ăn cho ngày hai bữa: bữa điểm tâm và bữa cơm chiều. Nhà sáu phòng, cho thuê bốn. Tôi ở một phòng, một phòng làm thư phòng, để sách vở, báo chí, máy truyền hình. Trong tám năm có kẻ ra người vào. Có cặp vợ chồng già, giận con tưởng bỏ đi được, đến xin ở. Vài tháng nhớ cháu lại làm lành với con xin về. Có người được con đưa đến gửi vì cả ngày con cháu đi làm, đi học không có ai nói tiếng Việt, họ nói: gửi mẹ cháu ở đây cho có bạn, cuối tuần đón về. Một hai tháng đầu còn đón, sau quên luôn. Có người ở tiểu bang khác tới chưa kiếm được nhà, nói ở tạm, rồi ở luôn. Trong tám năm không lúc nào có buồng trống cả. Khách trọ có người làm thân với nhau nhanh chóng, có người ở cả tháng không nói với nhau câu nào. Cũng có người ở được một tháng rồi dọn ra ngay, nói là, không quen chung đụng với người lạ. Họ đến và đi như thế, người này ra thì người kia vào. Cũng có một hai người qua đời vì tuổi già.
Cuối năm thứ bảy bước sang năm thứ tám, tôi nhìn vào danh sách khách trọ: Cả bốn người đều là đàn ông không có vợ, một ông 68, một ông 70, một ông 72 và một người còn trẻ, mới ngoài 20. Cả bốn người này không có bệnh gì trầm trọng, đã ở thuê trong nhà tôi được từ hai đến bốn năm. Có một điều đáng nói là cả bốn người này họ có một điểm giống nhau là khi ngủ họ hay mê sảng và kêu hét. Ban đầu thì chỉ có một người mê sảng, sau không hiểu sao mà dần dần cả bốn người thay nhau la hoảng suốt đêm. Có khi một tối hai, ba người cùng mê sảng. Nhưng cơn mê của họ phải gọi là ác mộng vì họ la hét hoặc khóc lóc. Có hôm cả đêm tôi phải dậy đập cửa từng phòng, nơi phát ra tiếng động để kéo họ ra khỏi cơn ác mộng. Sáng hôm sau, người mê hoảng đêm trước thường không nhớ gì về giấc mơ cả, hoặc có nhớ thì chỉ nhớ rất mơ hồ hoặc có thể họ nhớ nhưng vì ngượng ngùng họ không muốn nhắc lại. Tôi coi như họ đã quên hết những giấc mơ đêm trước. Lần đầu nghe một khách trọ mê sảng như thế, tôi không chịu nổi vì mất ngủ suốt đêm theo họ. Rồi kế tiếp cả bốn phòng đều thay nhau, người đêm này, kẻ đêm khác cất tiếng khóc, nói mê ban đêm xảy ra rất thường. Tôi đã có ý định mời họ dọn ra. Nhưng khi mở hồ sơ của họ thì một người không có họ hàng thân thích, một người con bỏ vào đây rồi dọn đi tiểu bang khác. Một người con ở gần nhưng may ra một năm gọi hay thăm một lần. Muốn mời họ dọn ra không dễ, hình như con cái họ muốn giao họ cho tôi làm vú già như kiểu ở Việt Nam ngày xa xưa. Họ vẫn gửi tiền tháng nhưng không liên lạc, nếu cha mẹ họ chưa chết. Không lẽ chỉ đuổi một người thứ tư là người trẻ nhất, không vợ, không con.
Chánh Án: - Theo đơn khởi tố của ông Trần Văn Định thì bà có vào giường của bố ông ấy là: Trần Văn Nam sáng ngày mồng 8 tháng 4. Bà lợi dụng ông già 70 để làm chuyện vợ chồng và ông Định bắt gặp tại chỗ. Có đúng không? Nguyễn Thị Hằng: - Tôi có vào giường ông Trần Văn Nam để dỗ ông ta, vì ông ta khóc rống lên rất thống khổ. Tôi phải trèo vào giường ôm ông ấy nằm xuống, vì ông ta hốt hoảng nhổm dậy như muốn đập đầu vào tường. Mới kéo được ông ấy nằm xuống và đang ôm cho ông ấy hạ cơn mê thì ông Định mở cửa ló đầu vào. Trần văn Định: - Bố tôi ở đó đã hơn ba năm, tôi không đón bố tôi về nhà chơi thường được vì vợ chồng tôi bận làm ăn; chỉ trừ dịp Tết, nghỉ lễ, nếu tôi không bận công việc. Có đến hơn một năm rồi tôi mới quay lại đây, tối hôm trước tôi có gọi cho bà Hằng, nói, tôi sẽ đến sớm để đón Bố tôi cho ra tiệm ăn sáng vì tôi rất bận và tôi không thể đón bố tôi về chơi được. Bấm chuông mãi không thấy bà Hằng ra mở cửa, tôi xoay xoay tay cầm thì thấy cửa không khóa, ngó đầu vào thấy nhà không thắp đèn, trời mới mờ mờ sáng. Tôi đi thẳng vào buồng có tên bố tôi, khẽ đẩy cửa ló đầu vào thì thấy bà Hằng nằm trên giường cùng với bố tôi, bà ôm bố tôi như người vợ ôm chồng và đang nói nho nhỏ: “Không sao, không sao, ngủ đi, em đây, em đây.” Bà ấy cứ lặp đi lặp lại nho nhỏ như thế và không để ý đến sự có mặt của tôi. Tôi nghĩ là bà ấy đang lợi dụng bố tôi để làm chuyện không đẹp. Tôi tiếc là quên không lấy phôn ra chụp hình làm bằng chứng.
Chánh Án: - Bà Hằng, những lời ông Trần Văn Định vừa nói có đúng không? Nguyễn Thị Hằng: - Đúng hoàn toàn, hôm đó tôi khó ngủ, thức giấc từ 3 giờ vì ông Trần Văn Nam mê sảng cả đêm, tôi phải chạy sang lay ông và dỗ cho ông ngủ lại, gần 5 giờ mới hơi yên. Biết là ông Định sẽ đến vào sáng sớm, nên trước khi về phòng mình, tôi mở khóa sẵn cho ông Định, cửa chỉ đóng nhưng không khóa vì tôi không muốn mới ngủ lại mà bị đánh thức. Nhưng ông Nam đâu có để tôi yên, khoảng một giờ sau ông ấy lại mê sảng khóc rống lên, gọi tên bà Vân (tôi đoán là vợ ông, vì mỗi lần mớ ông đều gọi tên bà Vân này.) Tôi phải chạy sang và nằm luôn vào giường ôm ông ấy dỗ như dỗ một người chồng bệnh tật. Chánh Án: - Tại sao bà lại dỗ như dỗ một người chồng? Ông ấy đâu phải chồng bà. Bà làm như thế này mấy lần rồi? Nguyễn Thị Hằng: - Tôi làm nhiều lần rồi. Không phải chỉ với một mình ông Nam mà còn với cả ba người khách trọ kia nữa. Cả phòng xử nhao nhao lên một tiếng “Ồ” thật to. Ông Lê Văn Thành, ông Nguyễn Anh Tuấn, Ông Bùi Văn Lai đều giật mình đánh thót lên. Cả ba ông khách trọ còn lại thảng thốt nhìn nhau như tự hỏi: “Bà Hằng vào nằm ôm mình lúc nào mà mình không biết nhỉ?” Ông Bùi Văn Lai trẻ nhất, ngồi im lặng, tính anh vẫn ít nói nhưng hai ông già ngoài 70 tuổi thì cúi đầu vào nhau thì thầm, mặt co lại vì suy nghĩ. Trần Văn Định: - Ồ đấy, cả tòa đã nghe rõ chưa, bà Hằng không phải chỉ ngủ với bố tôi mà còn ngủ với tất cả khách trọ của bà. Thật là tội lỗi. Chánh Án: - Xin bà nói lại cho rõ. Bà cho khách thuê nhà, ngoài việc nấu cho ăn, bà không có dự phần chăm nom cá nhân gì cho những người ở trọ, tại sao bà lại vào giường ôm người ta ngủ?
Nguyễn Thị Hằng: - Đúng, tôi chỉ là một người chủ cho thuê nhà, nhưng không biết từ lúc nào tôi trở thành: người vợ, người mẹ và ngay cả người con của mấy người khách trọ này. Đây là tình trạng những người hiện tại tôi cho thuê phòng trong nhà tôi: * Ông Lê Văn Thành, 72 tuổi, con mang tới bốn năm rồi, không hề ghé lại thăm ngoài việc gửi tiền đều đặn hàng tháng và một năm đôi lần gọi, hỏi một câu ngắn ngủi xem cha mình còn sống hay không? Ông Thành là một sĩ quan pháo binh, đi cải tạo, sang Mỹ theo diện H.O. Ông mang vào nhà tôi một gánh ký ức ở những trại tù Bắc Việt Nam, vợ chết từ khi ông đi tù về. Trong những cơn ác mộng ông gọi tên người con trai duy nhất, rồi khóc nức nở, rồi cười hực hực. Có khi tôi làm vợ ông, vào nằm đưa tay mình ra nắm lấy bàn tay gầy guộc của ông trong đêm tối, rồi nhận là vợ ông. “Anh ơi ngủ đi, khuya rồi, ngủ đi mai dậy mình mang con về nội”. Có khi tôi làm người con trai, tôi kéo ông nằm thấp xuống cho ngả đầu vào vai tôi rồi dỗ: “Ba tựa vào vai con nè, con đến đón ba về nhà chơi với mấy đứa nhỏ nè.” Tôi lừa ông một lúc thì ông ngủ. Ông ngủ say rồi mà tôi vẫn thức, tôi thương ông quá đỗi, tôi không dám kéo cái vai gầy của tôi ra, tôi thấy giận người con trai của ông đã bỏ rơi người bố khốn khổ. Tôi đóng vai con ông, vợ ông không phải một mà rất nhiều lần rồi.
*Ông Nguyễn Anh Tuấn, 68 tuổi. Vượt biển năm 1985, vợ và hai con gái chết ngoài khơi trước khi thuyền kéo được vào bờ. Ông cuối cùng vào được Mỹ, tưởng rằng có việc làm, chốn ở, ông sẽ làm lại đời mình. Nhưng không, ông vẫn sống với những ám ảnh kinh hoàng đó. Ông phải đi điều trị tâm thần. Tuy hồ sơ bệnh lý của ông không trầm trọng, nhưng ông sống vật vờ như xác không hồn, ông có đi làm việc một thời gian dài rồi nghỉ việc, rồi lại đi làm, rồi lại nghỉ. Ông đi ở trọ nhiều nơi, chính phủ cũng đã có lần cấp nhà cho ông. Bây giờ ông đi qua cả tuổi hưu trí rồi mà vẫn không biết xếp hồ sơ của ông vào tình trạng nào vì có lúc đầu óc ông rất sáng suốt, thông minh, có lúc ông hoàn toàn như vuông vải mục bị ngâm thuốc tẩy lâu ngày. Ông đến thuê trọ nhà tôi ba năm nay. Những đêm mê sảng ông gọi tên vợ, gọi tên hai cô con gái, giọng ông như người đang chết ngạt trong nước. Không phải nước biển mà là nước mắt. Tôi ôm ông, có khi nhận là vợ, nói: “Em đây, mình ngủ đi.” Có khi nói: “Ba ơi, con gái ba đây, ba ngủ đi nghe.” Ông hơi khó dỗ, ông hay hỏi lại tôi: "Bé Mi hay Bé Na đấy?" Khi ông ngủ là lúc tôi nằm khóc ướt cả cái gối của ông. Nhập vào trong cơn mê sảng đau thương của ông, nhiều đêm tôi tưởng mình là con gái ông thật, mặc dù tôi chỉ kém ông mươi tuổi.
*Ông Bùi Văn Lai, trẻ tuổi nhất lai Mỹ đen, thì lúc nào cũng cần mẹ. Anh bị mẹ cho vào cô nhi viện từ khi còn bé, đến khi anh lớn thì cô nhi viện đem bán anh cho một gia đình để làm con nuôi. Cả gia đình đó sang Mỹ theo diện con lai. Sang đến Mỹ được hơn một năm, đời sống gia đình họ ổn định, họ không muốn có một người con Mỹ đen trong nhà, anh bị đuổi khéo. Anh lang thang, tự kiếm việc và tìm nơi dung thân mình từ lúc 15 tuổi. Anh vào nhà tôi được hai năm. Năm nay anh hai mươi. Anh thèm mẹ lắm, tôi tin như thế vì khi anh mê sảng, anh cứ khóc rống lên gọi mẹ. Tôi bắt đầu còn đứng ở đầu giường anh lay lay vai anh, sau phải trèo vào giường anh, ôm cái đầu tóc quăn quăn của anh vào bộ ngực còm cõi của mình dỗ dành: “Mẹ đây, mẹ đây, ngủ đi con, ngủ đi con” và nước mắt tôi cũng ứa ra làm ướt cả mấy sợi tóc quăn đó. Tôi ôm anh cho đến khi anh chìm vào giấc ngủ vì tin mình có mẹ nằm bên.
*Ông Trần Văn Nam, bố của ông Trần văn Định cũng là một người thèm con, nhớ vợ. Mặc dù ông Định ở không xa nhưng lúc nào ông cũng nói là công việc làm ăn rất bận. Vợ con ông thì tôi chưa hề gặp bao giờ. Tối hôm đó tôi phải vào với ông hai lần, tôi mất ngủ cho đến sáng. Và ông Nam đã khóc trong lòng tôi, ông gọi tên Định vì tưởng con đến đón ông về. Sau ông lại mê sảng gọi tên bà Vân, tưởng tôi là bà Vân, vợ ông. Tôi dỗ dành mãi ông mới yên và tôi cũng mệt quá, vừa thiếp đi thì ông Định đến. Bà Hằng ngưng một lúc, nhìn xuống bốn người khách trọ trong nhà mình, nói như chỉ để nói với bốn người đó: - Tại sao cả bốn ông không cùng đem tôi ra tòa, cùng thưa tôi đòi bồi thường một thể? Có phải các ông sau những cơn ác mộng ban đêm, sáng ra đã nhìn tôi như nhìn một người vợ, một người con và một người mẹ hay không? Tôi không nghĩ là các ông hoàn toàn quên hẳn giấc mơ đêm trước. Cả phòng xử im lặng, người ta có cảm tưởng nghe được cả tiếng tim đập nhanh trong lồng ngực của cả bốn người đàn ông trước mặt. Phiên tòa đến đây tạm ngưng vì hết giờ. Chánh Án không hỏi thêm câu nào nữa và vụ kiện sẽ được xử tiếp vào một ngày khác.
Đêm ba mươi hôm ấy, bà Hằng không nghe thấy một tiếng mê sảng nào phát ra từ buồng ngủ của khách trọ. Sáng mồng một Tết, bà Hằng bày hương hoa trên bàn thờ chồng, làm một mâm cơm cúng tân niên mời bốn người ở trọ tham dự. Họ vui vẻ chúc Tết nhau. Không ai nhắc đến chuyện ngày hôm qua nữa. Và cả những đêm kế tiếp sau đó mọi người hình như được uống thuốc ngủ. Họ ngủ yên lành, không mê sảng nữa. Họ yên lặng đến nỗi bà Hằng phải thắc mắc tự hỏi: "Liệu trước đây họ có thật sự mê sảng không? Hay họ chỉ cần một vòng tay, một tình thương yêu của người vợ, người con, người mẹ mà họ bật lên những tiếng kêu đó, để gọi bà vào?" Sau đó hai tuần bà Hằng nhận được giấy của luật sư ông Trần Văn Định, báo tin ông Định đã bãi nại, xin rút lại đơn khởi tố bà Nguyễn Thị Hằng, nên vụ kiện được xếp lại hoàn toàn.
Có người biết chuyện, kể lại rằng: "Ông Trần Văn Định, sau đó coi như giao luôn bố cho bà Hằng, không thấy đến và cũng không thấy gọi nữa. Cả bốn người đó cùng ở với bà Hằng cho đến cuối đời như trong một gia đình: ông Lê Văn Thành, ông Trần Văn Nam thì đến khi qua đời, mới được con đến nhận xác của cha trong bệnh viện về chôn cất, ông Nguyễn Anh Tuấn không có thân nhân thì được bà Hằng kêu gọi bạn bè phụ với bà ma chay. Người trẻ nhất, ông Bùi Văn Lai là người cuối cùng ở lại, anh săn sóc bà Hằng khi bà già yếu và đã chôn cất bà như một người mẹ. Trước khi bà Hằng mất, bà giao ngôi nhà đó cho anh và anh tiếp tục công việc cho thuê phòng, đặc biệt cho những người già Việt Nam bị con bỏ rơi trên quê người."
TMT
PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Sat Feb 15, 2020 7:44 am
.
Còn Thấy Đâu Đây Tình Người! - Huỳnh Văn Điệp
Mình có thằng bạn thân cùng tuổi, nó nhỏ hơn mình một tháng. Mình thì Đà Nẵng còn nó ở Quảng Nam thị xã Vĩnh Điện, Điện Bàn. Khi hai thằng còn ở Quảng Nam và Đà Nẵng. Cuối tuần là hai thằng gặp nhau không tại Đà Nẵng thì cũng tại Quảng Nam để lai rai với nhau vài ly bia hoặc ly cà phê và kể cho nhau nghe những điều tào lao xịt bộp trên trời dưới đất. Rồi cuộc sống cơm áo gạo tiền, nó phải đành rời xa quê hương vào Sài Gòn mưu sinh đã hơn mười năm nay. Kể từ đó hai thằng chỉ được gặp nhau vào những ngày cuối năm nó về quê ăn tết hoặc tôi có việc vào Sài Gòn.
Trước khi vào Sài Gòn và có ý định ở lại Sài Gòn một thời gian dài. Tôi gọi điện cho nó, nó mừng lắm. Ngày mà tôi vào Sài Gòn, vừa bước ra khỏi cửa nhà ga sân bay là vợ chồng tôi thấy nó dơ tay vẩy vẩy gọi to "tao nè Điệp" làm cho mọi người đang chờ đón người thân phải quay qua nhìn nó. Nó cười hì hì. Thế là hai thằng lại gần và gặp nhau như lúc xưa. Rảnh là nó chạy qua tìm tôi cùng uống ly bia hay ly cà phê. Hôm bữa cuối tuần. Nó ghé qua chở tôi đi làm ly bia. Hai thằng vừa nhậu vừa kể chuyện đời, chuyện Facebook thì đã hơn 10h đêm, thế là vội vàng tính tiền ra về. Đang chạy trên đường Phạm Văn Đồng, nó nhìn thấy bên kia đường có một người đàn ông đang dẫn bộ chiếc xe máy, vậy là nó quay đầu xe lại chạy ngược chiều một đoạn để đến người đàn ông đang dẫn bộ chiếc xe máy đó. Vừa tiếp cận được người đàn ông đang dẫn bộ xe là nó hỏi ngay: - Xe bị gì vậy ông anh? Người đàn ông tỏ vẻ lo ngại và e dè nói: - Xe tui hết xăng. Dẫn bộ hơn 1km rồi mà chưa thấy trạm xăng. Nó cười hì hì nói: - Ông anh đừng có lo. Hai thằng tui không phải ăn cướp đâu. Mở cốp xe ra đi, tui đổ cho một lít mà chạy về.
Nó liền quay qua bảo tôi bước xuống và nó mở cốp xe lôi một đoạn ống dẫn, xong nó quay qua lấy cái can 5 lít đựng xăng luôn để phía hông xe của nó, rồi nó truyền qua xe người đàn ông đó. Xong đâu vào đấy, người đàn ông đó cảm ơn ríu rít và xin được trả tiền mà nó không lấy. Lúc này thì tôi mới nhớ ra là lúc nào bên hông xe của nó luôn có can 5 lít đầy xăng, có hỏi nó vài lần mà nó không trả lời. Hôm nay tôi phải hỏi cho được vụ can xăng này. Nó không để người đàn ông đó nói thêm nữa, nó hối tôi leo lên xe rồi rồ ga chạy. Và tôi bất đầu hỏi về vụ can xăng: - Mày có bán thêm xăng lẻ ở nhà hả? Nó cười hiền trả lời: - Đâu có... Tôi thắc mắc: - Vậy mua xăng làm gì vậy, chạy hết thì ra cây xăng đổ tiếp chứ để xăng như này ở nhà nguy hiểm lắm! Cũng giọng cười hiền đó, nó trả lời: - Tao luôn mua để sẵn như thế này, đi đường thấy ai hết xăng thì đổ cho người ta chứ tội. Tôi càng thắc mắc: - Nhưng sao lúc nảy mày không lấy tiền xăng lại? Với giọng hơi chùng xuống một chút nó nói: - Tao đổ cho người ta chứ lấy tiền chi mi. Nghe nó nói vậy, tôi cũng thấy vui, thở dài nói: - Như thế có nghĩa là mày đang làm từ thiện, nhưng mày đâu có giàu có cho lắm mà làm vậy là quá tuyệt vời ông bạn tôi ạ. Nó cười buồn nói: - Từ thiện chi mi ơi. Như mi đã biết chuyện của vợ chồng tao rồi đó. Mi cứ hỏi tao chuyện can xăng này, thôi thì hôm nay tao kể hết nguyên nhân cho mi nghe.
Sau khi vào Sài Gòn làm ăn được một thời gian, nhờ trời đãi ngộ mà nó lên như diều gặp gió và mua được căn nhà trong hẻm đường Lạc Long Quân, rồi nó cưới vợ. Cưới nhau năm năm mà không có con, hai bên họ hàng khuyên vợ chồng nó đi chữa hiếm muộn. Ngày mà vợ chồng nó đi chữa hiếm muộn cũng là ngày vợ chồng nó sụp đổ hoàn toàn. Bác sĩ phát hiện ra vợ nó bị ung thư tử cung. Từ đó, nó bỏ tất cả mọi việc đưa vợ đi khắp nơi chữa chạy, nghe ai giới thiệu ở đâu là nó dẫn vợ đến ngây. Dần dần tài sản nó cạn kiệt, căn nhà để ở duy nhất nó cũng bán để lo cho vợ. Sau bao năm chữa chạy, nhưng rồi vợ nó cũng bỏ nó ra đi. Giọng buồn buồn nó nói với tôi: - Tao nhớ mãi buổi trưa hôm đó, tao không bao giờ quên. Cái ngày mà vợ tao bỏ tao lại trên cõi đời này để về với thế giới bên kia. Hôm đó. Thấy vợ chợp mắt nên tao chạy về tranh thủ tắm rửa và nấu cho nàng miếng cháo. Về đến nhà trọ, tao vừa cởi chiếc áo ra định đi tắm thì điện thoại đổ chuông, cầm máy lên thì đầu dây bên kia giọng bác sỹ nói rất gấp "anh vào bệnh viện nhanh, chị nhà có biểu hiện rất là...". Linh tính có chuyện không lành, tao liền vội quay ra lấy xe chạy gấp đến bệnh viện mà không kịp mặc chiếc áo mới vừa cởi ra. Ông trời lại một lần nữa thử thách tao. Đang chạy nửa chừng, xe tắt máy, kiểm tra thì xe hết xăng. Lúc đó trong túi không còn một đồng để mà đổ một lít xăng. Tao gào kêu ba tiếng trời, nước mắt lưng tròng, cứ thế tao đẩy bộ xe chạy và miệng luôn khấn vái Trời Phật cho vợ tao qua cơn nguy kịch, còn nếu có mệnh hệ gì thì cũng chờ tao đến để gặp nhau lần cuối...
Bỗng, nó im bật không nói nữa, ngồi sau lưng nó, tôi thấy hai vai nó rung nhẹ lên một cái. Hai vai nó rung không phải vì cái lạnh về khuya của những ngày giao mùa, mà tôi biết nó rung là bởi nó đang thổn thức của sự hoài niệm đang ùa về. Tôi im lặng để cho những cảm xúc của nó tuôn trào. Một lúc sau nó mới nói tiếp: - Tao vừa chạy vừa đẩy được một đoạn. Tao định vứt chiếc xe chạy cho nhanh thì có một chú em tầm khoảng 25-26 tuổi chạy tới nói "xe anh hết xăng phải không. Anh leo lên xe đi em đẩy đến cây xăng" tao làm theo như một cái máy. Vừa tới cây xăng tao vội móc cái điện thoại cùi bắp ra đưa cho cô nhân viên cây xăng và nói "tui không có tiền, cô cầm cái này rồi đổ cho tôi 20k xăng" lát tôi đến chuộc lại. Tui có việc gấp lắm". Chú em lúc nãy đẩy tao tới đang định quay đầu xe đi nghe tao nói với cô nhân viên cây xăng vậy liền dựng xe xuống đi đến cô nhân viên rồi nói "đổ cho ảnh đầy bình đi, tui trả tiền". Nói xong chú em đó móc ra tờ 200k đưa cho cô nhân viên và nói tiếp "chị cứ đổ đầy bình, tiền thừa thì chị đưa cho ảnh giúp em". Nói rồi chú em đó lên xe đi mất, còn tao như kẻ mất hồn, lúc đó tao không mở miệng cảm ơn chú ấy lấy một tiếng... Xong, tao chạy ào tới bệnh viện vứt vội xe, bay ào lên phòng bệnh thì thấy vài bác sỹ đang đứng bên giường bệnh vợ tao.
Thấy tao, bác sỹ trưởng khoa trực gọi tao lên phòng trực nói tao hãy đưa bà xã tao về kẻo còn kịp để vợ tao trút hơi thở cuối cùng tại nhà... Trên đường về, nằm trong xe cứu thương vợ tao dặn dò tao phải vững tâm, bình tĩnh đừng khóc thương mà có hại cho sức khoẻ. Cố gắng hết sức. Nói nhiêu đó là cô ấy trút hơi thở cuối cùng trên tay tao Hai vai nó lại rung lên. Mắt tôi cũng cay xè. Nó nghẹn ngào nói tiếp: - Cũng nhờ chú em đó cho tao mấy lít xăng nên tao mới kịp gặp vợ tao lần cuối. Sau khi ma chay cho vợ xong. Một thời gian sau nhớ lại mọi việc và mong được gặp chú em đó, nhưng biết đâu mà tìm... Và sau này đi đâu tao cũng cầm theo can xăng này, gặp ai dẫn bộ thì tao dừng lại đổ cho người ta một ít để họ còn chạy về nhà. Biết đâu trong những người dẫn xe bộ vì hết xăng đó, có người trong túi họ không có một đồng như tao lúc đó, biết đâu có người đang chờ họ về... Nói xong, nó thở dài một tiếng nghe não ruột. Tôi liền lồng hai tay về trước ôm chặc lồng ngực nó vào lòng. Có vài người đi đường họ nhìn thấy liền quay lui nhìn hai thằng tui và cười mỉm. Chắc họ nghĩ hai thằng tôi đang yêu nhau. .
NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Thu Feb 20, 2020 8:09 am
.
Áo Gấm Về Làng - Tiểu Lục Thần Phong
Ngoài sảnh cả một biển người loi nhoi dáo dác tìm người thân của mình, Dean D mũ lệch, kiếng đen bước đi khệnh khạng ra vẻ lắm, nhiều ánh mắt nhìn theo tỏ vẻ thèm thuồng pha lẫn ngưỡng mộ. Dean D thấy khoái chí nhưng giả vờ làm lơ, ra vẻ ngóng tìm người nhà nhưng thực ra đang cố khoe mẽ với đám đông đang bị mê hoặc bởi cái gió hải ngoại. Dean D tận hưởng cái sự xênh xang áo gấm về làng, cái giây phút thấy mình trở nên có giá cao hơn hẳn đồng loại của mình một bậc, phút giây hãnh diện này đánh đổi bằng cả một thời gian dài đằng đẵng cày như trâu ở xứ người. Y còn đang dương dương tự đắc thì người nhà trông thấy kêu gọi ầm ĩ, chưa kịp tay bắt mặt mừng thì y đã kêu toáng lên: - Nóng quá, ồn quá sao chịu nổi? Những người xung quanh cũng chẳng ai quan tâm y nói gì, vả laị ai cũng chăm nhìn ở cửa ra xem người nhà mình xuất hiện chưa, ấy thế mà sau lưng y laị có một khứa nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống sàn. Dean D laị kêu lên: - Trời đất, sao mà mất vệ sinh thế!
Người nhà bèn keó y đi thẳng ra xe, sau khi chạy khoảng bốn tiếng thì tấp vào một quán nước ven đường để nghỉ ngơi và đi vệ sinh. Mọi người kêu bia ra uống, Dean D tợp một ngụm rồi nhận xét: - Bia ở đây lạt quá, không biết đá lạnh có hợp vệ sinh không nữa? Mấy người anh em của y thoáng nhíu trán nhưng nhanh chóng lấy laị vẻ bình thản và bâng quơ đùa: - Anh Dean về đây chơi nhớ cẩn thận, nếu không mấy em chân dài sẽ móc sạch bóp. - Dễ gì, anh đây đâu phải tay mơ, Dean trả lời Mà quả thật vậy, ăn được tiền của y quả là không dễ đâu! Dean đi chợ cò kè so giá từng xu, chín đồng rưỡi ráng góp thành mười, làm gì có chuyện cho ai khơi khơi bao giờ!
Về đến nhà, Dean cho thằng cháu đi mua chục két bia về ăn nhậu tưng bừng, tiếng khui bia lốp bóp, tiếng cụng ly leng keng, tiếng cười hô hố, tiếng tranh nhau nói… ầm ĩ cả xóm. Dàn karaoke được mở hết cỡ, những giọng ca giật giải miệt vườn thi nhau tra tấn lỗ nhĩ bà con lối xóm. Men vào thì lời ra, ai ai cũng tranh nhau hát, tranh nhau nói… nhưng hễ Dean tỏ ý muốn hát là lập tức mọi người nhường micro cho Dean liền. Dean cũng là người nói nhiều nhất: Chuyện chính trị, chuyện bóng đá, chuyện tôn giáo, chuyện trên trời dưới đất, chuyện giàu sang xứ mẽo, chuyện lạ có thật… nhưng thật bao nhiêu phần trăm thì chỉ có y mới biết, quả thật người ta nói đâu có sai: ”Mạnh vì gạo bạo vì tiền”! Ở cái xóm naỳ thì Dean là mạnh nhất rồi nên nói thao thao bất tuyệt. Thằng Tí trong xóm, vốn là bạn thân từ thuở còn cởi truồng tắm mưa bất chợt hỏi: (hồi ấy Dean còn là cu Đực, sau này sang mẽo mới đổi thành Dean). - Cu Đực, ở bển mầy làm gì dzậy? Dean thoáng vẻ không hài lòng vì kiểu thân mật gọi cái tên ngày xưa nhưng vẫn trả lời: - Tao làm kỹ sư hoá chất. - Thế bà xã mầy làm gì? - Vợ tao làm chuyên viên săn sóc sức khoẻ Nhiều tiếng xuýt xoa thán phục - Hồi ấy cu Đực cũng như bọn mình, vậy mà giờ thành công quá, giỏi giang quá! thảo nào tiền bạc rủng roẻn, xài mát trời ông địa luôn. Lần này Dean tỏ vẻ khó chịu khi nghe gọi tên cu Đực, mặt sa sầm xuống, bọn bạn có kẻ lanh trí liền tâng y lên: - Nó giờ là Dean D nghe tuị bay! Lập tức y cười khoái chí nhưng giả đò: - Gọi sao cũng được mà, không quan trọng!
Suốt buổi nhậu Dean cứ chêm vào: Oh my God, Bullshit, oh yeah, perfect… có người hiểu, có người không hiểu nhưng ai ai cũng chăm chăm nâng ly, dô dô trăm phần trăm chứ chẳng hơi đâu mà tìm hiểu tiếng Tây, tiếng u. Cuộc vui tưng bừng đến tận giấc xế luôn, men đã ngà ngà, Dean lè nhè: - Honey biết hông? tức chết đi được, tuần rồi anh đắp bộ móng cho con Barbara, móng gì mà khó đắp quá trời, đã vậy làm xong nó chê xấu, không trả tiền. Anh phải tháo bỏ, vừa tốn công vừa mất thời giờ, thế mà nó còn cà chớn hỏi: ”Tụi bay làm nails bao lâu rồi? có bằng không?”. Anh phải nhịn nó, vì lúc ấy trong tiệm còn nhiều người khách khác. Jenny L, vợ Dean cất giọng oang oang: - Honey, vậy là còn đỡ đấy! em chà chân cho con đen cả tiếng luôn, chân gì mà dơ và thúi hoắc, da thì dày như da trâu… chà xong hết muốn ăn cơm! Ấy vậy mà nó tính quỵt, la lối ầm ĩ, chê bai đủ thứ… kiếm được đồng tiền quả chua cay quá! Đám bạn có người cười mỉm, có kẻ cười khúc khích. Riêng thằng cu Đẹn thì cười hô hố: - Không ngờ tụi mẽo cũng cà chớn, cứ tưởng xứ mình mới có ăn quịt!
Cu Đẹn là bạn học từ phổ thông, nó là người nhiều chữ, học cao nhất trong đám bạn. Nó lấy được bằng cử nhân văn chương, mọi cuộc gặp mặt ai cũng khoái nghe nó kể chuyện. Nó kể rất duyên, hóm hỉnh và hài hước, chuyện gì nó cũng biết cả: Đông-Tây-kim-cổ… Dĩ nhiên cuộc vui hôm nay cũng không ngoại lệ, mọi người yêu cầu nó kể chuyện nghe chơi. Cu Đẹn uống cạn ly bia rồi thủng thẳng: “Năm ấy Tề vương ngồi đọc sách ở bên đình thủy tạ, anh xà ích dắt ngựa đi qua thấy bèn hỏi: “Đaị vương đọc sách gì?” Tề vương đang vui nên muốn hí lộng: ”Ta đọc sách ngu tử”. Tay xà ích tán: ”Người ngu biết mình ngu là trí, người trí không biết chỗ mình ngu ấy là ngu vậy! trí – ngu tuy giống mà khác, tuy khác mà giống!”. Tề vương cười hứng chí bảo: ”Ngươi nói tiếp “. Anh xà ích tám: ”Người trí không có tiền cũng thành ngu, người ngu có tiền cũng thành trí. Thời thế mà không có tiền thì thời thế bỏ đi, có tiền cũng có thể tạo ra thời thế. Anh hùng mà không có tiền thì khác gì tiểu nhân, có tiền mà không có đức thì chẳng sao, có đức mà không có tiền thì lấy cứt gì ăn…” Tề vương cau mày bảo: ”Thôi! đừng nói những gì vượt quá cái bánh xe ngựa của ngươi!” Cả bọn cười bò lăn bò càng, có người bảo: ”May cho anh xà ích, Tề vương chưa nổi giận.”. Bạn bè cũng ngầm thấy cu Đẹn có ý chỉnh cu Đực, Dean gỡ thẹn: - Cái móng tuy nhỏ nhưng laị lớn, nhờ nó mà người ta mới mua nổi nhà, xe, nuôi con ăn học, gởi tiền về quê mua đất, rồi những chuyến “y cẩm hồi hương”… Có vài người bất chợt nhìn cái móng của mình, có kẻ còn lấy tay sờ mà tặc lưỡi. Dean nói đúng, nếu không có nghề nails thì sẽ vất vả lắm đấy!
Buổi tối, cả đám kéo vào vũ trường trong thị xã chơi. Dean giày bốt áo thun, cu Đẹn giày đen, thằng Tí và mấy khứa khác chơi đôi giày thể thao. Vừa lọt qua cửa cách âm là cả một không gian khác, đèn led chớp quét loang loáng, âm thanh dập muốn bể tim. Dean làm ra vẻ sành điệu, bảo anh bồi: - Em trai, cho anh chai sương mù. Anh bồi nói: - Ở đây giá chót phải là Chivas anh ơi, không ai uống sương mù cả! Dean bóp bụng: - Vậy thì Chivas. Rượu mang ra, mấy em cave vây quanh ưỡn ẹo ngọt xớt, tự khui rượu rồi mời cả bọn. Phải công nhận mấy em uống như rồng lấy nước, nâng ly liên tục, nghề của mấy em mà, làm không lương, chỉ hưởng tiền boa của khách và ăn chia trên số chai. Để làm giá cho cả bọn, thằng Tí giới thiệu với mấy em: - Đây là anh Dean, Việt kiều Mẽo mới về chơi. Mấy em cave lập tức nâng ly mừng anh Dean, mấy em rành sáu câu ba cái vụ này quá mà, bởi thế càng ra sức tâng bốc Dean để kiếm tiền boa, một em tên Kim chả chớt: - Mấy ảnh ở bển về toàn là dân kỹ sư, bác sĩ không hà. Mấy ảnh chơi sộp lắm, năm rồi có anh ga lăng cho em một chiếc xe future đời mới luôn! Kim trang điểm giống hệt mấy em Hàn Quốc, Dean thấy khoái, kéo laị định hôn. Kim õng ẹo: - Anh ở bển về chắc hổng biết luật chơi ở vũ trường? Dean bèn lấy tờ hai mươi đô nhét vào khe ngực để trễ tràng của Kim, cô ta hôn cái chụt lên má Dean. Cả bọn nhảy tưng tưng, quất hết hai chai Chivas, một giờ sáng gọi taxi về. Hôm sau tỉnh rượu, Dean tiếc đứt ruột, bụng bảo dạ: ”Mất toi một tuần lương cho một đêm”. Đã thế vợ còn tru tréo: - Ông đi bia ôm chơi bời, coi chừng dính sida. Thế rồi cô ta bỏ cơm nhà, ra chợ ăn quà. Dean theo năn nỉ gãy lưỡi, tụi thằng Tí, cu Đẹn, con Mén… cười: - Tưởng sao, té ra hổng phải hàng xịn. Cu Đẹn còn văn vẻ, bệnh nghề nghiệp mà: - Nhác trông ngỡ tượng tô vàng Nhìn ra mới biết chẫu chàng ngày mưa.
Thế là mấy ngày kế nghỉ nhậu, ngày thứ ba mới gầy độ laị, lần này thằng Mùi tham gia. Nó mới về từ cao nguyên, mang theo hũ rượu cần chính gốc của người Ba Na. Ban đầu Dean ngaị, thấy mọi người hút chung mấy cái vòi nên chê dơ. Tụi bạn khích tướng: - Mầy hút thử đi, ngon lắm! vi trùng nào sống nổi với lượng cồn này! Dean hút thử một hơi, chép chép miệng khen: - Tuy không sang trọng và mắc tiền như rượu Tây nhưng thơm và ngon, cái quý nữa là không có hóa chất. Thằng Mùi góp vui: - Nghe nói ở bển tân tiến và hiện đaị lắm phải không mậy? phi thuyền của nó bay là là sát mặt đất sao Hoả. Cả bọn ừ à, Dean cũng chưa nói gì thì nó tiếp: - Nói thì nói vậy chứ cũng cách mặt đất một gang tay. Tụi Nga cũng giỏi lắm, tàu ngầm nó lặn sát đáy biển, cũng chỉ cách một gang tay. Các nhà khoa học giỏi thật nhưng không nhằm nhò gì so với các bà mẹ của họ. Nhiều người nhao nhao: - Bộ các bà mẹ của họ cũng chế được phi thuyền, tàu ngầm sao? Thằng Mùi đủng đỉnh một tí rồi mới bảo: - Các bà mẹ của họ tạo ra họ cũng chỉ cách rốn một gang tay! Bàn nhậu cười ngả nghiêng, cứ thế những cuộc nhậu kéo dài suốt hai tuần liền.
Những ngày gần tết, hội ruột rà yêu nước tổ chức hội nghị trên thành, địa phương cử người đến nhà Dean D. - Anh hãy ủng hộ địa phương một ít tài chánh để xây dựng quê hương, địa phương sẽ cử anh lên thành dự hội nghị yêu nước. Dean đồng ý đóng một số tiền và lên thành phó hội, sau khi nhiều tay có máu mặt đăng đàn phát biểu. Những tay cơ hội làm ăn cũng lên ba hoa kế hoạch này nọ, khi gần kết thúc, ban tổ chức cho mời Dean đaị diện tỉnh nhà phát biểu: - Chúng tôi xin tri ân triều đình, các ban ngành đoàn thể đã tạo điều kiện cho anh em chúng tôi về xây dựng tương lai. Chúng tôi vô vàn cảm kích sự lãnh đạo sáng suốt tài của triều đình. Suốt bao năm dài tha hương chúng tôi luôn được các cấp theo dõi, quan tâm, chỉ đạo sâu sát, thật không sao nói hết lòng biết ơn của chúng tôi… Báo chí đưa tin, ti vi phát sóng ồn ào. Dean thấy mình trên ti vi thì hãnh diện lắm, vẻ mặt nhơn nhơn, cuộc nhậu nào cũng khoe: - Mấy anh em có xem ti vi tối hôm hăm ba tháng chạp hông? Bạn nhậu có kẻ cười khì, người cười mím chi, riêng thằng Mùi thì huỵch toẹt: - Mầy được lên ti vi chứ gì? mầy là thành viên hội ruột rà yêu nước gì đó, ai mà hổng biết! mầy phát biểu như pháo chuột nổ lẹt đẹt hôm đưa ông táo dzià trời. Dean giận xám mặt nhưng không biết ăn nói làm sao nên nín thinh.
Dean ở chơi đến tháng thứ tư mới bay về laị. Xóm giềng thắc mắc: - Bộ thất nghiệp hay sao ở lâu vậy? người khác về có hai tuần là vội vàng đi rồi cơ mà! Trong xóm có kẻ ra vẻ thông thái: - Thằng Đực làm nghề tự do, thích thì làm không thích thì thôi, có ràng buộc gì đâu mà sợ. Dean bay về laị Mẽo, mọi người thở phào: - Thằng Đực về laị mẽo, thế là bớt một giọng ca karaoke, nghe đâu sang năm nó laị về! ý quên, giờ nó là thằng Dean.
Tiểu Lục Thần Phong Ất Lăng thành, 1/2020 .
NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Đời đầy chuyện ngạc nhiên Wed Mar 04, 2020 12:52 pm
.
CHẠY MÁNH - Phan Minh Châu
Một thanh niên to con vạm vỡ, đầu húi cua, quần jean, áo pull, đi giày adias, dầu thơm thứ thiệt xịt thơm phức, không thấy vợ con, chỉ thấy hắn sống một mình cô đơn độc mã, đi đi, về về nơi căn nhà mới thuê. Xe hắn đi cũng là loại sang SH hàng nhập hẵn hoi nằm giá cũng chừng trên trăm triệu. Hắn sống rất thoải mái, đàng hoàng, minh bạch, không chọc phá ai, không mất lòng ai, sống bên bà con lối xóm rất chân tình và được nhiều thiện cảm. Nơi hắn ở mấy anh công an khu vực rất khoái hắn, bởi hắn là công dân lương thiện, hắn chưa có tiền án, tiền sự, thậm chí chưa biết đến tờ giấy mời lên công an về tội này tội nọ. Hắn biết ga lăng, nên biết các em thích gì, muốn gì và hắn đều chu toàn tất cả. Những cô gái gần hắn đều có cảm tình, bởi hắn biết ăn nói và nói chuyện rất có duyên, biết pha trò, biết chọc cười thiên hạ và biết làm cho thiên hạ vừa lòng.
Hắn cũng thừa biết rằng, nơi hắn đang ở có một trùm xã hội đen chuyên đâm thuê chém mướn, thằng này xuất thân là dân Hải Phòng thì phải, nơi mà trước đây sản sinh ra Dung Hà trùm xã hội đen Sài gòn một thời sau này bị Năm Cam cho đàn em diệt gọn trong một đêm đẹp trời và sau đó Năm Cam cũng vĩnh viễn ra đi với bản án tử hình. Thằng này chuyên làm nghề cho vay nặng lãi, dắt mối, cướp bóc và đâm chém như cơm bữa. Thấy mấy cái hình xăm trên ngực, trên tay hắn thì bà con ai cũng hãi, cũng đủ khiếp và ngã ngửa ra bất tỉnh rồi, bóng con Chim Đại Bàng đang cất cánh và mấy cái đầu lâu miệng mồm trống hoác, cái đầu trọc của hắn lổ chỗ những vết thẹo chạy dài hai bên mặt và đôi mắt lồ lộ vẻ dâm đảng tột cùng. Thằng này chúa háo sắc và lưu manh có cỡ, ai lỡ gặp hắn chỉ tìm đường mà trốn chứ không dám đối diện, còn ai lỡ làm cái xương sườn của trùm xã hội đen này thì cũng hết thời. Cũng xui cho hắn, vừa bước chân ra khỏi nhà đã gặp tổ trác. - Ê thằng kia lại đây! - Dạ chào bạn! - Đ.M ai bạn với mày. - Dạ chào đại ca, đai ca kêu em có chuyện gì không ạ? - Tao hỏi mày điều này, thời gian gần đây kể từ khi tao về hùng cứ khu vực này, tao để ý thấy mày không làm thủ tục cống lễ ra mắt cho tao, bọn đàn em tao về báo cáo lại, chúng bảo mày coi thường thằng anh này, chắc mày hết đất sống. - Dạ thưa anh. Dạ thưa đai ca… - Nói, mày làm nghề gì và mày phải nói thật rõ ràng, tao mà phát hiện mày thiếu thành thật trong lời nói của mày thì tao sẽ không tha cho mày đâu, tụi đàn em tao sẵn sàng lột da đầu và cắt lưỡi mày cho diều ăn, mày nên nhớ một điều, đứa nào muốn làm ăn ngon lành ở đất này thì mỗi năm phải cống cho tao 5 chai, bằng không đi đất khác mà làm, không được léng phéng ở đây. Tao mà bắt được tao băm mày nát như tương sau đó cho chó ăn. - Dạ… Thưa Đại… Ca em… Làm nghề chạy mánh ạ. - Chạy mánh là nghề gì? Mày nói rõ tao nghe! - Dạ nghề này khó giải thích lắm ạ, cụ thể như là… - Cụ thể thế nào nói tao nghe xem! - Dạ… Đại loại là làm công việc không bỏ vốn mà vẫn có tiền lời, mà lời rất lớn ạ, dạ… Công việc này cũng khó giải thích rõ ràng được, hay là thế này, em hẹn đại ca chủ nhật tuần tới em mời đại ca đến quán nhậu Hai Lúa làm ít chai rồi em sẽ giải thích cho đại ca hiểu được không ạ? - Cũng được, nhưng mà mày liệu hồn, mày mà gạt tao là mày ân hận không kịp đó, coi chừng chết không có chỗ chôn nghe con. Thôi mày làm gì thì làm đi tao còn việc phải lo. - Dạ, thưa đại ca. - Chuyện gì nữa đây. - Dạ thưa đại ca, trước khi đại ca đi em có chuyện này cần báo cho đại ca biết để đại ca lo mà điều trị. - Chuyện gì? - Dạ thưa đại ca. Trước đây ông nội em làm nghề thầy thuốc, mà là thầy thuốc chuyên trị bịnh về sinh lý và rất nổi tiếng từ Nam chí Bắc. Nhờ vậy em có học được mấy ngón nghề của ông nội để chẩn bịnh, vì vậy lúc nãy nhìn sắc mặt của đại ca là em biết đại ca đang mang trọng bịnh. - Nói bậy. Tao hồi giờ đâu biết đến bịnh tật là gì. Mà thôi mầy cứ nói thử xem tao bịnh gì. - Dạ thưa đại ca, em xin nói thật lòng, có gì không phải xin đại ca bỏ qua cho. - Được rồi mầy cứ nói đi. - Dạ thưa đại ca nó là như thế này. Bộ phận sinh dục của đại ca nếu căn cứ vào màu sắc của da mặt thì chỉ trong tuần này nó sẽ thâm tím và sưng to gấp ba lần và không còn khả năng làm việc đó nữa. - Láo, thằng này láo. Tao mạnh khỏe như thế này mà mày lại đoán bịnh tao kiểu đó hả? - Dạ đại ca cứ bình tĩnh nghe em nói, tin hay không là quyền đại ca nhưng nếu trong tuần này mà bộ phận sinh dục của đại ca không bị sưng lên thì em sẽ cống nạp cho đại ca 5 chai, ngược lại đại ca tha cho em khoản tiền cống nạp hằng năm ạ. - Mày giỡn mặt hả, tự nhiên tao mất 5 chai à, mà mày làm gì có số tiền lớn như vậy. - Thôi được, nếu đại ca không tin thì em đưa tiền cho đại ca trước, đợi đến khi nào em khám bộ đồ quý của đại ca nếu không đúng em sẽ mời đại ca uống một bữa thả giàn và cống nạp hằng năm cho đại ca đầy đủ. - Thôi được. Tao thử tin mày một lần, mày mà trốn thì không có cửa với tao đâu nghen. Tao cũng hứa với mày, nếu mày nói trúng thì số tiền cống nạp tao sẽ tha cho mày luôn. - Mà chừng nào mầy kiểm tra? - Dạ sáng chủ nhật tuần này đại ca ạ, khoảng 8 giờ sáng mình uống cà phê xong rồi tiến hành luôn được không ạ. - Cũng được, nhớ giữ lời đó, thôi tao đi đây, cứ y hẹn là được.
Đúng như lời hứa, sáng chủ nhật trời mới bắt đầu tờ mờ sương hắn đã đến quán cà phê Hai Lúa ngồi đợi. Gần chỗ hắn ngồi cũng có mấy bàn khách mà những vị khách này thì cũng là dân địa phương ở đây, bọn họ cũng là dân máu mặt làm đủ thứ ngành nghề để kiếm sống. Hắn giơ tay nhìn đồng hồ mới hơn 7 giờ sáng. Hắn thấy vẫn còn sớm nên kêu thêm mấy chai bia và con khô mực ngồi lai rai một mình. Đúng 8 giờ thì trùm xã hội đen lò dò đến, hắn mặc quần jean, áo thun sọc vàng, đi giày cao cổ, vai quàng chiếc khăn ca rô đỏ chói, miệng phì phèo điếu xì gà habataba thơm phức. Đi chung với hắn có hai thằng đàn em mặt mày bặm trợn, mặt dáo dác, mắt láo liên như sợ bị ai phục kích thì phải. - Dạ em chào đại ca, em chờ đại ca nảy giờ, hắn đưa hai tay ra bắt. - Thôi khỏi cần, chú mày khám nhanh lên tao còn có công việc. - Dạ đại ca uống cà phê đã, còn sớm mà, nôn nao gì. - Tao phải về còn đi với em, mày coi chỗ nào thuận tiện thì khám đi. - Dạ được. Vậy mời đại ca theo em vào trong này, chỗ này vừa kín đáo cho đại ca vừa sáng sủa rất thuận tiện để em khám ạ. Nói xong hắn bá vai thằng trùm xã hội đen kéo vào một toilet cách đó không xa. - Đại Ca cởi quần ra đi. Trùm xã hội đen ngoan ngoãn nghe lời hắn. - Mày khám lẹ giùm đi, sao có sưng không? - Từ từ mà đại ca, bịnh tật mà đại ca nôn nao quá làm sao em kiểm tra được. Nói xong hắn kiểm tra tỉ mỉ từng bộ phận trên bộ sinh dục của thằng trùm xã hội đen, sau một hồi vân vê nhào nặn thỏa thích. Hắn nói: - Thôi được rồi, đại ca mặc quần lại đi, lần này em thua đại ca, em chịu cống nạp 5 chai, nhưng nói thật với đại ca từ xưa đến nay em chưa hề đoán bịnh ai sai bao giờ. Thôi mời đại ca ra bàn mình lai rai chút xíu rồi em chung tiền. Thằng trùm xã hội đen đâu biết rằng trong lúc hắn lum khum để thằng kia khám thì có một số người trèo lên ngách cửa phòng tắm nhìn vào. Yên vị đâu đó xong, hắn móc túi lấy số tiền 5 triệu đồng đặt lên bàn. - Đại ca đếm lại đi. - Thôi khỏi đếm, mà mày giỡn à. Tự nhiên mất 5 chai. - Đại ca cứ yên tâm nhận tiền đi và đại ca thích món gì cứ gọi, em thanh toán cho, đại ca không phải nghĩ ngợi gì cả. - Chú mày làm gì mà tự nhiên mất số tiền lớn như vậy không thấy xót ruột à. - Dạ không ạ. - Sẵn đây em cũng nói thiệt với đại ca. Trước đây đại ca có hỏi em làm nghề gì. Em cũng có nói làm nghề chạy mánh. Mấy thằng bạn của em, ngày tụi nó thấy đại ca về hùng cứ khu vực này, tụi nó thấy đại ca oai phong lẫm liệt quá, khó gần gũi và cũng khó mua chuộc được nên mỗi thằng chung ra 2 chai, tổng cộng mười thằng là 20 chai. Tụi nó đề nghị thằng nào mà bóp nát d... đại ca thì sẽ hưởng trọn gói 20 chai. Sau khi em nhận lời thách đố, em suy đi tính lại nếu bóp nát d... đại ca có khi em vào tù, nên em đề nghị tụi nó là miễn sao tao nắm được d... là ôkê và thế là tụi nó bằng lòng, bởi tụi nó sợ em lấy đi mạng đai ca tụi nó cũng vô tù cả đám. Như vậy hôm nay em đã thắng đậm, chung cho đại ca 5 chai, cộng tiền cà phê ăn sáng và tiền nhậu tính ra em còn dư được mười mấy chai. Đại ca nghĩ coi em đâu có đổ mồ hôi sôi nước mắt mà chỉ trong tích tắc có thể kiếm được số tiền lớn như vậy, mấy thằng lúc nãy đu lên ngạch cửa để xem em khám chim cho đại ca là bọn mướn em đó. - Trời. Té ra ra vậy. Chắc tao phải dạy cho mày một bài học để đời về tội lừa đảo thiên hạ. - Dạ thưa đại ca em có lừa đảo ai đâu ạ. Bọn nó thuê nhiều đứa mà không ai dám làm cả bởi vì ai cũng sợ đại ca, riêng em vì trót lỡ theo nghề này mà phải làm kiếm cơm nữa. Mong đại ca tha cho. - Thôi được rồi. Nghĩ lại thấy mày cũng còn có chút lương tâm, mày đã tha mạng cho tao, đổi lại tao tha cho mày một con đường sống và từ nay về sau mày khỏi cống nạp gì cho tao cả, địa phương của tao mày cứ mặc sức tung hoành, có gì khó khăn cứ nói tao, có gì cần hổ trợ thì gọi tao tao sẽ giúp. Nếu muốn kết nghĩa anh em thì kết nghĩa, nếu không thích cũng không sao. Thôi mày đi đi! - Một lần nữa xin cảm ơn đại ca! - Hú hồn… Hú hồn… Cảm ơn Trời Phật! Hắn mừng như mới được vợ, ôm cục tiền còn lại chạy nhanh ra khỏi quán và bắt đầu cho một ngày mánh mới hơn nữa. .
Con bé và cây hoa cải dầu – Shiga Naoya (1883-1971)
Shiga Naoya chụp vào năm 1938 tại Suwa, Nagano, Nhật Bản. (Wikipedia)
Viết truyện ngắn và truyện dài. Shiga Naoya được xem là «vua truyện ngắn», là nhà văn tiêu biểu của loại tự truyện, là một «thánh chủ» của nền văn học Nhật hiện đại. Ông theo học đại học Tokyo, nhưng không tốt nghiệp ngành nào. Ông bắt đầu viết từ năm 21 tuổi: «Con bé và cây hoa cải dầu» là truyện ngắn đầu tay. Sự nghiệp viết văn của ông chịu ảnh hưởng nặng nề và phản ánh một đời sống gia đình bất hạnh: mất mẹ năm 12 tuổi, ông có những quan hệ sóng gió với bố, đi từ xung khắc đến đoạn tuyệt, rồi hoà giải. Tác phẩm của ông – phần lớn đã được dịch ra Anh ngữ – có thể được chia làm 3 loại: loại dựa trên kinh nghiệm và quan sát («As far as Abashiri», «An Incident»…); loại dựa vào đời sống tư tưởng và trí tưởng tượng («The Little girl and the Rapeseed Flower», «The Razor», «Han’s crime»…) ; và loại ít nhiều là tự truyện («The Death of my mother and the new mother», «Reconciliation», «The Paper door»…)
Dịch giả: Miêng Dịch theo bản tiếng Anh của Lane Dunlop: “The little girl and the rapeseed flower”
Hôm đó là buổi chiều xuân trong sáng êm đềm. Một con bé đang nhặt củi đóm trên sườn núi.
Chặp sau, khi ráng chiều đỏ thắm xuyên qua các tàng cây thưa thớt, con bé đem mớ củi nhặt được xuống đồng cỏ, bắt đầu sắp vào giỏ trên lưng. Thình lình, con bé có cảm tưởng như nghe như ai gọi mình. – Hả? Con bé buột miệng. Nó đứng lên nhìn chung quanh nhưng chẳng thấy người nào. – Ai gọi tôi? Con bé lại lớn giọng hỏi nữa. Nhưng cũng chẳng ai trả lời.
Sau hai ba lần có cảm tưởng đó, con bé chợt phát hiện là tiếng gọi phát ra từ cây hoa cải dầu nhỏ đơn độc đang ngẩng đầu lên trong đám cỏ dại. Con bé lau mặt với tấm vải quàng đầu rồi nói: – Tao nghĩ chắc mày cô độc lắm trong một chỗ như vầy. Cây hoa trả lời với giọng thân mật: – Em rất cô độc. Con bé hỏi với giọng quở trách: – Vậy sao mày đến đây làm chi? – Một hạt dính vào ngực con chim chiền chiện rồi rớt xuống đây. Em làm gì được! Cây hoa nói một cách buồn rầu. Rồi nó nhờ con bé mang nó theo xuống làng dưới chân núi, nơi nó có nhiều đồng loại.
Con bé thấy xót xa cho cây hoa cải dầu, quyết định làm nó thoả mãn. Khẽ khàng gỡ khỏi đất, con bé cầm nó trong lòng tay khum khum và xuống đường núi về làng. Dọc đường, một con suối nhỏ trong veo chảy róc rách. Thời gian trôi qua. Cây hoa nói: – Tay chị nóng khủng khiếp. Em thấy đầu nặng quá, không ngẩng thẳng lên được. Theo mỗi bước đi của con bé, cây hoa yếu ớt lắc lư cái đầu rũ gục. Cả chặp lâu, con bé không biết phải làm gì.
Rồi thình lình con bé nảy ra một ý tuyệt vời. Vội vàng ngồi xổm xuống bờ đường, con bé lặng lẽ ngâm rễ cây hoa vào nước. – Aaa! Cây hoa thốt lên với giọng hồi sinh, sôi nổi. Nó nhìn lên con bé. Nhân đó con bé nói như truyền lệnh: – Từ chỗ này, mày cứ đi theo nước. Lắc đầu một cách khó khăn, cây hoa nói: – Lỡ bị cuốn đi cách xa chị quá, em sợ chết! – Không việc gì phải sợ cả. Con bé vừa nói vừa thả trôi cây hoa. – Em sợ! Em sợ! Bị giòng nước cuốn đi tức khắc, cây hoa ré lên hãi hùng khi thấy nước kéo mình càng lúc càng xa con bé. Nhưng con bé không nói không rằng, vòng tay ra sau lưng sửa lại cái giỏ nhảy nhót trên lưng và chạy theo sau.
Cây hoa thở dài nhẹ nhõm. Rồi vui vẻ từ mặt nước nhìn lên, nó nói với con bé đủ thứ chuyện. Một con bướm từ đâu bay tới dập dờn vui nhộn. Nó phá phách, vỗ nhẹ cánh nhảy nhót quanh đầu cây hoa. Cây hoa có vẻ khoái chí. Nhưng rồi con bướm rộn ràng bất định đó lại bay đi chỗ khác. Thấy trên chóp mũi con bé lốm đốm mồ hôi như những hạt trân châu, cây hoa nói với giọng ái ngại: – Bây giờ tới phiên chị cực quá. Con bé trả lời ngắn gọn: – Ðừng lo cho tao. Ngỡ bị mắng, cây hoa im lặng.
Một lát sau con bé giật nẩy mình vì tiếng kêu thét của cây hoa. Rễ nó bị vướng vào đám cỏ dại nhấp nhô trên giòng nước như một suối tóc dài, cây hoa ráng cựa quậy đầu ra trước ra sau, kiệt sức. – Ðược rồi. Yên đó một lát. Hụt hơi, con bé ngồi xuống tảng đá bên bờ suối. – Làm sao em yên được với chân cẳng vướng víu như thế này? Em thấy chẳng thoải mái chút nào. Giọng phàn nàn của cây hoa càng lúc càng tha thiết. Con bé đáp: – Mày như vậy là khỏe rồi. – Em không khỏe. Dừng lại thì tốt, nhưng kiểu này thì khiếp lắm. Làm ơn, chị làm ơn vớt em lên. Cây hoa nài nỉ, nhưng con bé không muốn nghe, chỉ mỉm cười nói: – Mày như vậy được mà.
Chẳng bao lâu sức mạnh giòng nước làm rễ cây hoa trượt ra. Với giọng khẩn trương chói tai « Em bị cuốn đi đây này », một lần nữa cây hoa lại bị cuốn xuôi theo giòng. Giật mình, con bé chạy theo. Khi còn cách nhau không bao xa, cây hoa rụt rè nói: – Cực chị quá! – Không sao cả. Con bé dịu dàng trả lời. Rồi vì cây hoa không còn lo âu nữa, nó chạy trước cách xa khoảng chừng mười lăm bộ. Ðã trông thấy làng dưới chân núi. Con bé nói to: – Không còn bao xa nữa. – Ờ há! Cây hoa trả lời đằng sau. Chúng không nói gì với nhau một lát. Âm thanh duy nhất là tiếng lách tách, lách tách của đôi dép rơm con bé chạy, trộn lẫn với tiếng róc rách của suối. « Chaach »! Tiếng nước toé lên bất ngờ dưới chân con bé. Cây hoa kêu thét lên như thể sắp chết. Con bé giật mình dừng lại nhìn ra sau. Từng cánh hoa lá tái mét vì sợ, cây hoa gượng lên khỏi mặt nước la bải hải «Nhanh lên! Nhanh lên!». Con bé vội vàng kéo nó ra khỏi nước. – Chuyện gì vậy? Nâng niu cây hoa vào ngực, con bé quay nhìn giòng nước sau lưng. – Có cái gì phóng ra từ chân chị đấy. Cây hoa nói giọng hổn hển: – Con cóc cáy đấy, chị. Nó ngụp xuống một lần rồi bất thần ở đâu trồi lên trước mặt em. Thiếu chút nữa là dám mặt tụi em chạm vào nhau. Miệng nó nhọn và có vẻ cáu kỉnh như con yêu Hà Bá vậy. Nghe cây hoa nói, con bé cười vang. Cây hoa nói giọng trách móc: – Ðâu có gì tức cười đâu. Nhưng mà khi em ré, con cóc giật mình đấy. Nó mất hồn mất vía lặn xuống. Nói tới đây thì cây hoa cải dầu cũng cười vang lên.
Chẳng bao lâu, chúng về tới làng. Con bé tức khắc trồng cây hoa trong đám đất sau nhà. Không giống trên sườn núi khô cằn đầy cỏ dại, ở đây đất đai màu mỡ. Cây hoa cải dầu lớn nhanh như thổi. Và ở đó, giữa bạn bè với đồng loại, cây hoa cải dầu mãi mãi sống yên vui hạnh phúc.
Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui - Nguyễn Diệu Anh Trinh
Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng; Cựu nữ sinh NTH Hồng Đức, Đà Nẵng từ 1969-1975, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng ba và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã từng nhận giải Viết Về Nước Mỹ. Tựa đề bài viết mới của bà là tên một ca khúc Trịnh Công Sơn.
Tôi thức dậy khi tiếng chim hót ríu rít thật vui tai trên rặng cây cao ở khu rừng thông bên cạnh nhà. Sáng thứ sáu, ngày cuối tuần vui vẻ, tôi mang tâm trạng vui tươi đó khi diện chiếc quần jean và cái áo trắng model hết cỡ để đi làm. Trong tuần, chỉ có ngày thứ sáu là được tự do mặc jean thoải mái, khác với những ngày đầu tuần, lúc nào cũng phải dress up nghiêm túc, lịch sự để gặp gỡ, làm việc với khách hàng. Khách hàng là… thượng đế nên mình không được ăn mặc lè phè.
Tôi thật may mắn được làm việc với ông Sếp rất dễ thương, không hề biết làm khó dễ nhân viên là gì. Kể từ dạo công ty tôi làm mở mang thêm mấy dãy lầu, sân bãi đậu xe cũng được nới rộng ra. May quá, văn phòng của Sếp phải dời sang building khác để thuận tiện cho ông trong việc họp hành, giao tiếp với khách hàng hay gặp gỡ các Sếp lớn. Tôi được đưa sang làm ở phòng film, cách văn phòng của Sếp một dãy cơ xưởng lớn. Một mình một cõi, cả tháng chưa thấy mặt Sếp, khi có chuyện gì cần dặn dò, trao đổi thì Sếp điều khiển từ xa, qua mấy cái email là xong. Công việc trôi chảy nhịp nhàng như thế, tính ra cũng xấp xỉ hai mươi năm rồi, tôi chưa hề bị khiển trách, thỉnh thoảng còn được khen thưởng. Là người phụ nữ da vàng duy nhất của bộ phận Proof-Reading (Đọc bản vẽ) tôi nhận được khá nhiều ưu tiên từ Sếp so với các đồng nghiệp khác màu da, khác màu mắt. Thích nhất là giờ giấc làm việc thật thoải mái. Thay vì mỗi ngày làm tám tiếng, năm ngày một tuần đi đi về về, tôi đã xin làm rút gọn trong bốn ngày, mười tiếng một ngày với lý do nhà xa, mà thật ra là để đỡ “hao xăng” và lại có thêm được một ngày nghỉ, tha hồ mà lang thang lên trang web… buôn dưa leo với mấy “bà tám”.
Giờ có mặt ở bàn làm việc của tôi cũng chẳng bó buộc, tôi không sợ bị đi trễ, không bị áp lực trong công việc và giờ giấc. Tôi biết đó là những ưu đãi trong nghề nghiệp mà không phải ai ước là cũng có được. Đường công danh của tôi, tuy không đạt đến đỉnh như bao người với quyền cao chức trọng, nhưng đó là một công việc tôi yêu thích, với đồng lương xứng đáng so với khả năng và tuổi tác của mình. Lòng hân hoan, thơ thới, tôi lái xe đi qua con đường quen thuộc mà tôi đã đi lại nhiều năm. Buổi sáng sớm, đường phố chưa tấp nập lắm, sương mai còn phủ lờ mờ khiến cảnh vật thật huyền ảo, mùi cỏ mới cắt dịu dàng, thoang thoảng làm tôi ngất ngây. Tôi vặn lớn volume của CD trong xe, lắng nghe âm thanh tiếng nhạc dạo… “… Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, chọn những bông hoa và những nụ cười…”(TCS) … nghe có lý lắm! Bỗng nhìn lên kiếng chiếu hậu, ánh đèn màu xanh biếc đang chớp chớp, xoay xoay… Chết cha rồi, cảnh sát! Tôi bình tĩnh đưa tay tắt nhạc, cẩn thận lái xe thêm một đoạn, tìm cách tấp vào một khu shopping bên phải, tắt máy xe và chờ đợi. Chiếc xe cảnh sát nối đuôi tôi, cũng tấp vào phía sau. Mấy phút sau, một viên cảnh sát người Mỹ trắng cao to với hàm râu xồm xoàm làm khuôn mặt thêm phần oai vệ, nếu tôi không muốn nói là dữ tợn: – Chào bà , vui lòng cho tôi xem bằng lái xe và giấy bảo hiểm. Tôi lấy bằng lái xe ra trình. Hắn lịch sự: – Cám ơn quí bà. Rồi đi về phía xe của hắn, đang còn chớp đèn đàng sau. Tôi ngồi yên trong xe mình, cũng chưa rõ mình bị stop vì lý do gì… có lẽ chạy quá tốc độ cho phép?
Không, tôi đâu có nôn nóng gì trên đường đi làm, bao nhiêu năm lái xe tôi chưa hề bị phạt về vụ này mà! Đang toan tính kiếm vài câu xã giao năn nỉ nếu bị hắn phạt quá nặng vì một tội vô cớ nào đó. Cảnh sát mà, họ làm tiền cho ngân sách chính phủ nên tôi đành chấp nhận một cách… lạc quan! Viên cảnh sát trở lại, hỏi tôi: – Xin bà vui lòng cho tôi biết, tốc độ cho phép của đoạn đường bà đang lái xe, thưa bà! Trời ơi, gì chớ bài học này, con số 45 miles nằm chình ình trên tấm bản nhỏ phía lề phải, dựng rải rác trên lề đường, có nhắm mắt tôi cũng nằm lòng mà, tuy vậy tôi cũng nhỏ nhẻ, lịch sự: – Thưa ông, tốc độ cho phép là 45 miles một giờ. Viên cảnh sát hỏi tiếp: – Thưa bà, vậy vừa rồi bà đang chạy với tốc độ là bao nhiêu? Tôi e dè: – Tốc độ của tôi lúc nãy chừng 50 miles (tôi biết chắc, đây là con số… có thể tha thứ) Viên cảnh sát nhìn tôi: – Thưa bà, bà đã chạy với tốc độ 70 miles một giờ. Tôi xây xẩm mặt mày, không lắng nghe hắn nói lải nhải gì thêm về luật giao thông… Tôi biết, một khi cảnh sát đã phán là y như tòa án phán, không kiện thưa làm gì cho tốn công mà còn phải trả lệ phí toà án. Nó nói mình chạy 70 miles? Cũng có thể lắm, khi vừa lái xe mà vừa nghe nhạc xập xình, có thể đầu óc hưng phấn nên lỡ trớn… Tôi thầm tính toán, với tốc độ vượt mức cao nghệu như thế, tôi phải chi ra bao nhiêu tiền để đóng phạt cho lần này, chi phí này chúng tôi vẫn gọi đùa là… tiền ngu!
Viên cảnh sát lải nhải một hồi, ông ta trả lại tôi cái bằng lái xe và tấm thẻ bảo hiểm xe. Tôi nhìn đôi mắt màu xanh lá cây biêng biếc của hắn và nghĩ đến những tờ đô la cũng màu xanh như thế phải chi ra một cách oan uổng. Vẫn chưa thấy tờ biên lai phạt màu vàng, không biết hắn xác định tội trạng của mình như thế nào đây, tôi nghe ông tiếp: – Bà đã chạy quá nhanh trên đoạn đường vắng vẻ này, rất nguy hiểm cho bà. – Vâng, thưa ông, tôi biết! – Bà nên luôn nhớ rằng, lúc nào tôi cũng chạy xe sau lưng bà, cẩn thận nhé! Tôi rủa thầm trong bụng, quái, hắn muốn gì đây mà lên giọng hăm dọa phụ nữ? Cảm giác bực bội len lỏi vào tâm trí. – Tạm biệt bà, chúc bà một ngày tốt lành! Ông ta nói xong, đưa bàn tay lông lá ra bắt tay tôi rồi quay lưng đi, không kịp nhận ở tôi một lời cám ơn… giả dối!
Tôi kiểm soát lại một lần nữa giấy tờ của mình, nhìn quanh chỗ ngồi trong xe, không có gì rơi rớt. Tôi mở cửa xe bước ra ngoài cẩn thận xem xét, mọi thứ đều OK. Tôi nổ máy xe, lái khỏang năm phút là đến cổng công ty, tâm trạng vẫn còn hoang mang. Lấy chìa khóa mở cửa phòng, việc đầu tiên tôi làm là lục bóp xem lại giấy tờ. Vẫn không thấy tờ giấy phạt ở đâu để biết ngày nào là hết hạn đóng phạt. Có một người đồng sự mang hồ sơ đến giao, hắn hỏi bâng quơ vài câu, tôi vui miệng kể cho hắn nghe sự việc xảy ra sáng nay. Hắn cười lớn: – Vậy là chị được tha rồi. Hôm nay chị diện đẹp quá, một ngày may mắn cho chị đó! Tôi nghe và vẫn không tin đó là sự thật, dễ gì tên cảnh sát râu xồm lại bỏ qua một cách vô lý khi hắn đã ngăm nghe là tôi chạy quá tốc độ khủng khiếp như thế. Khoảng chín giờ sáng, Sếp tôi đi họp, tiện đường ông đem một số dụng cụ văn phòng đến giao cho tay thư ký trong phòng tôi. Có lẽ vì khuôn mặt tôi đang còn băn khoăn nên Sếp hỏi: – Chào cô, mọi chuyện đều tốt chứ, tôi có thể giúp gì cho cô hôm nay không? Tôi kể lại chuyện gặp cảnh sát sáng nay và chờ ở Sếp một lời an ủi vì mới sang sớm đã bị… hao tài. Ông Sếp hỏi tới hỏi lui: – Cô chắc là ông ta chỉ trả lại giấy tờ chứ không bắt cô ký giấy phạt chứ? – Tôi chắc, không ký giấy gì cả. Vậy là cô được tha rồi, may mắn quá! Nếu không, giá chót là cô phải tốn hai trăm đồng cho lần phạt này. Hôm nay chắc tên cảnh sát đó có chuyện vui nên dễ dãi đó, lấn sau cẩn thận nhé!
Tôi vẫn còn bán tin bán nghi, không thể nào tin vào vận đỏ hôm nay. Cho đến ngày hôm sau… … Trưa thứ bảy, tôi được phép đi ra ngoài ăn trưa vì căng tin đóng cửa. Vốn không thích những thức ăn nhanh của Mỹ nên bất đắc dĩ lắm tôi đành phải ghé vào một cửa hàng ăn vội đĩa salad. Trong khi đang chờ lấy order. – Xin lỗi bà, cho phép tôi ngồi ghế này được không? Tôi ngước mắt nhìn, một ông Mỹ đang đứng cạnh bàn tôi và… chính xác là hắn đang hỏi tôi. Tôi trả lời như một cái máy: – Được, xin ông cứ tự nhiên. Người đàn ông ngồi xuống, rất thân thiện: – Chào bà, khỏe chứ! – Cám ơn ông, tôi cũng thường. Ông khỏe không? – Cám ơn bà. Nhà bà ở gần đây sao? – Công ty tôi làm cách đây chừng 5 phút, thưa ông. Tôi trả lời rất thờ ơ, người đàn ông vẫn nhìn tôi: – Bà thật không nhận ra tôi hay sao, bà Nguyễn?
Câu hỏi của người đàn ông làm tôi giật mình. Tôi hơi sửng sốt rồi tự hỏi mình, quái, quen biết ở đâu? Sao hắn biết mình họ Nguyễn? Có thể quen mặt vì gặp nhau trong công ty hàng ngày. Tôi dò hỏi: – Xin lỗi, ông cũng làm ở SGI Inc, phải không? Người đàn ông cười: – Bà không nhớ chúng ta mới gặp nhau hôm qua hay sao? Lúc này tôi mới mở to mắt nhìn, Ah, đôi mắt “màu xanh đô la” và… hàm râu…. Thì ra hôm nay viên cảnh sát mặc thường phục nên tôi không thể nào nhìn ra được người đã stop tôi sáng hôm qua. Tôi tỏ vẻ ân hận: – À, thật đáng tiếc, chào ông. Có tiếng người phục vụ gọi tôi lấy thức ăn, người đàn ông đứng lên đi theo: – Để tôi giúp bà.
Người đàn ông đến quày giúp tôi lấy thức ăn và nhận luôn phần ăn của ông ta bưng về bàn. Chúng tôi cùng ngồi ăn trưa. Tôi vừa dùng đĩa salad của mình vừa lắng nghe. Nét mặt người đàn ông có vẻ bùi ngùi, ông ta nói thật chậm, giọng kể lể, câu chuyện của ông đưa tôi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: –… Ba tôi là một sĩ quan quân đội Hoa Kỳ, đã từng tham dự cuộc chiến tranh ở Việt Nam nhiều năm. Mẹ tôi nói Việt Nam ở xa lắm, bên kia bờ đại dương. Ngày Ba tôi rời gia đình thì tôi mới năm tuổi, ông đi… và đi mãi không về. Mẹ tôi vật vã, oán hờn cái đất nước bên kia bờ đại dương đã nuốt trọn hình hài của ba tôi. Vì sau nhiều đợt kiếm tìm đều trở về trong thất vọng, thân xác ba tôi vẫn còn nằm lại đâu đó, trong một khu rừng già nhiệt đới hay đã tan tành dưới đạn bom vô tình năm xưa.
Từ đó, mẹ tôi ghét cay đắng những con người từ cái xứ sở đã cướp đi người bà yêu thương. Khi những đoàn người Việt Nam di dân sang đây ồ ạt, bà dạy tôi không được giao tiếp với những đứa bạn mang dòng họ Nguyễn. Theo sự tìm hiểu của bà, đó là dòng họ lớn nhất của người Việt Nam. Tôi không biết mẹ tôi đúng hay sai, nhưng tôi hiểu là tôi nên làm mẹ vui lòng. Cho đến một ngày… năm năm trước đây, mẹ tôi bị đau thận, cả hai quả thận của bà đều không còn hoạt động được bao lâu nữa. Bà mỏi mòn chờ một trái thận “từ thiện” thích hợp để kéo dài đời sống. Và… như một định mệnh, hay nói đúng ra là một sự đền bù được Thượng Đế sắp đặt, một phụ nữ bị tai nạn xe hơi qua đời, trong bằng lái xe có dấu hiệu sẵn lòng hiến dâng cả hai trái thận. Mẹ tôi may mắn được ghép một trái thận từ người phụ nữ nào đó, mang họ Nguyễn, cái họ khắc nghiệt mà bà căm ghét từ lâu. Chúng tôi không được phép biết tên vị ân nhân đó, chỉ biết đó là một bà họ Nguyễn.
Thưa bà… mẹ tôi nay sống khỏe mạnh phần đời còn lại với một trái thận mang họ Nguyễn,… như họ của bà đây. Người đàn ông có đôi mắt xanh biếc ngưng một lát, ông ta nhìn tôi… và tiếp: – Sáng hôm qua tôi đã nhìn thấy trong bằng lái xe của bà dòng chữ màu đỏ ORGAN DONOR (Hiến Dâng Nội Tạng), bà Nguyễn… thật cám ơn bà. Xin thay mặt mẹ tôi, thật cám ơn những trái tim nhân ái đến từ bên kia bờ đại dương. … Nước mắt ướt nhoè khuôn mặt khi tôi nghe lời cám ơn rất trân trọng của người đàn ông. Trong khi thân xác bao người như cha anh và đồng đội của ông đang còn nằm lại trên quê hương tôi. Mấy mươi năm qua rồi, tôi làm sao dám nhận ở anh lời cám ơn hôm nay. Nhưng qua câu chuyện của người đàn ông vừa kể, quả thận được hiến dâng của người phụ nữ họ Nguyễn nào đã cứu được mạng sống của mẹ anh, người đàn bà khác chủng tộc, không quen biết cũng là một hóa giải cho bao ưu phiền bấy lâu. Tôi nghe mà mừng.
Chia tay người đàn ông, tôi nhận được thêm ở ông lời cầu chúc: – Chúa sẽ ban phước lành cho bà! – Cám ơn ông! Tôi chào ông trở về nơi làm việc. Giữa trưa, bầu trời xanh thẫm, vài cụm mây trắng lang thang trên cao, tia nắng mùa hè xuyên qua cành lá, rơi xuống sân bãi đậu xe. Gió đưa nhẹ cành cây làm bóng nắng lung linh nhảy múa. Tôi bước vào công ty, những bước chân như reo vui. … Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, chọn những bông hoa và những nụ cười…
Chàng đi làm về, thấy nàng ngồi thừ ở salon, tờ báo chương trình truyền hình trước mặt. Đứa con bên cạnh chăm chú chơi cái xylophone. Ti-vi đang sặc sỡ những đoạn phim quảng cáo. Chàng ngạc nhiên lắm. Thường ngày, nghe tiếng chàng lách cách mở khóa cửa, nàng hớn hở bế con ra đón. Thể nào nàng cũng chuyền con cho chàng bế và bắt chàng phải hôn con một cái thật kêu. Thế mà hôm nay, nàng dường như không biết chàng vào nhà. Nàng giật bắn người khi chàng hỏi: - Sao, hai mẹ con bữa nay ở nhà vui không? Nàng lí nhí câu gì trong miệng, chàng nghe không rõ. Đến tối, chàng thực sự kinh ngạc. Thấy nàng đang bận rộn lo cơm nước, chàng bảo: - Giờ này ti-vi chưa có gì. Anh tắt nha. Nàng bỗng cao giọng, vẻ bất bình: - Sao anh biết không có! Anh không xem thì em xem. Khuôn mặt nàng đỏ bừng, giận dữ. Chàng đấu dịu: -Ừ, thì để. Từ trước đến nay, nàng thường xuyên mắng nhiếc cái ti-vi, vì tội rù quến chàng. Nàng từng nói: “Nếu túng tiền phải bán vật dụng trong nhà, thì ti-vi sẽ là món hàng đầu tiên phải ra đi”. Nàng rất lạnh nhạt với ti-vi. Chỉ khi có phim xưa, các chương trình ca nhạc, tạp kỹ đặc sắc, nàng mới ngồi trước màn hình nhỏ. Nàng khăng khăng: “Phim hay, ra hẳn ngoài rạp chiếu bóng xem mới thích”.
Ngược lại, chàng mắc bệnh ghiền máy truyền hình. Chàng thường “ôm” ti-vi xem phim trinh thám của Mỹ, hoặc phim kiếm hiệp từ máy video. Nhiều lúc nàng mát mẻ: “Em phải ghen với ti-vi. Coi bộ anh yêu nó hơn em.” Thời gian sau đó, nàng như một người khác. Nàng lơ là, ít chuyện trò với chàng. Nàng hay nổi nóng bất ngờ. Đôi lần chàng muốn hỏi, nhưng ngại cơn thịnh nộ khó lường, nên thôi. Nàng vẫn quấn quít con. Nhưng giữa những chăm sóc, chơi đùa với con, nàng bỗng đăm chiêu, ngưng cười giỡn. Rồi sau đó, như cảm thấy có lỗi, nàng lại ôm con nựng nịu, bù lại những lúc xao nhãng vai trò làm mẹ của mình. Lạ hơn nữa, hàng tuần, nàng tự đi siêu thị mua báo truyền hình. Nàng đọc xuôi, đọc ngược tờ báo, nghiên cứu kỹ càng từng mục. Nàng mở ti-vi cả ngày. Buổi tối, khi chàng xem truyền hình, nàng bế con ngồi bên cạnh. Nhưng nàng chẳng theo dõi cuốn phim hay chương trình giải trí trên màn hình. Khi thấy chàng không xem nữa, nàng bấm đổi đài lia lịa. Chàng nghĩ, có lẽ nàng đang sáng chế trò chơi gì mới. Tính nàng nhiều khi nghịch ngợm, ngộ lắm. Tối nọ, nàng vờ giọng rất tự nhiên: - À, anh. Anh chàng JJ xuất hiện trong chương trình gì anh biết không? Chàng nhíu mày một hồi: - Tên nghe quen quá. Lúc lâu sau, chàng mới nhớ ra: - À! Anh này làm phụ tá cho ông bầu nổi tiếng của đài ZDF trong các chương trình thể thao đặc biệt đó. Nàng hỏi dồn: - Chương trình đó chiếu ngày nào vậy anh, mấy giờ? Chàng nhún vai: - Bất thường, khi nào có dịp đặc biệt kia.
Từ đó nàng không mở ti-vi, mà chỉ dò kỹ chương trình từng ngày. Chàng lờ mờ hiểu, như vậy là nàng muốn xem chương trình Sport Extra. Mà để làm gì! Có trời mới hiểu. Nàng thích thơ văn nhạc, phim ảnh, chớ nàng có màng đến thể dục, thể thao bao giờ đâu. Chàng định, có dịp thuận tiện sẽ hỏi nàng. Nhưng bận rộn quá. Trong tuần, đi sớm, về trễ. Cuối tuần, hấp tấp chạy từ siêu thị này qua siêu thị kia mua đầy đủ đồ ăn, đồ dùng cho vợ chồng con. Chủ nhật như con thoi, đưa vợ con thăm hai bên nội ngoại. Rồi một tuần lại qua. Thấy những thay đổi nơi nàng, chàng lo lắng: - Em có sao không? Nàng lơ đễnh: - Em vẫn thường. Chàng gặn hỏi, dỗ dành: - Có gì không? Nói anh nghe đi. Nàng rươm rướm nước mắt: - Em kể, mà anh hứa là không giận em nghe. Nàng ngần ngừ, như tìm lời mở đầu thích hợp: - Cách đây không lâu, em nằm mơ. Một giấc mơ đẹp hết sức. Em nằm mơ thấy anh chàng JJ. Không biết em và anh ta yêu nhau từ lúc nào. Khi đó, đông đủ mọi người trong nhà bếp, em đang đứng rửa chén. Anh ta choàng vai em, nhìn sâu vào mắt em. Ánh mắt làm em chới với. Hai đứa ngồi bên nhau rất lâu, chẳng nói năng gì, mà em vui không thể tưởng. Lúc anh ta cười với em, khoe hai cái răng khểnh, dễ thương ghê lắm. Chàng phì cười, cắt ngang: - Thì anh cũng có hai cái răng lòi xỉ nè. Giọng nàng nhỏ, nhưng rõ, nàng rất xúc động: - Anh ta cao cao, gầy gầy, có giọng nói ngọt ngào. Em chẳng nhớ, trong mơ, anh ta nói tiếng Việt hay tiếng Đức. Ngày hôm sau, em đến trường, còn ngẩn ngẩn, ngơ ngơ. Lạ thiệt. Hồi giờ em ngủ hay nằm mơ. Nhưng là những chuyện không đầu đuôi và thường sau khi ngủ dậy, chừng mươi phút sau, em quên sạch trơn. Giấc mơ này lại tròn trịa câu chuyện. Em chỉ tình cờ thoáng thấy anh ta trong ti-vi. Mà em có hề quan tâm, có bao giờ nghĩ ngợi gì đến anh ta đâu. Lạ hơn nữa, về sau, em vẫn thỉnh thoảng gặp anh ta trong mơ. Có lúc em đi xi-nê với anh ta, đi ngang qua phố phường, anh ta mua những món quà nho nhỏ cho em. Khi gặp anh ta trong giấc mơ, em thấy mình vui sướng vô ngần. Sáng ra, thức giấc, em lại cảm thấy bất an, bứt rứt. Càng ngày, ước muốn được thấy rõ mặt anh ta càng mãnh liệt. Nàng khóc tấm tức: - Anh có giận em không? Chàng lắc đầu: - Đâu có, ai lại đi giận giấc mơ bao giờ?
Chàng thở phào nhẹ nhõm. Nàng kể lể nỗi lòng được rồi, mọi việc sẽ ổn thỏa. Nhưng không! Nàng vẫn miệt mài với những tờ báo ti-vi. Chàng hốt hoảng thực sự khi nghe nàng gọi tên JJ trong mơ. Hay là chàng ghen? Nhất định không phải! Nàng rất dạn dĩ và hội nhập nhanh chóng vào cuộc sống ở đây. Tuy nhiên, trong tình cảm, nàng luôn chủ trương, ta về ta tắm ao ta. Nếu nàng gọi Hùng, Cường gì đó, chắc chắn chàng sẽ đỏ mặt tía tai, phừng phừng nổi giận. Nhưng người “ngoại quốc” chẳng là đối thủ của chàng. Mười anh JJ chàng cũng chẳng ngán. Nàng bệnh mất rồi. Chàng lo lắng không biết đưa nàng đến bác sĩ chuyên khoa nào, không lẽ đi bác sĩ tâm thần. Chiều đi làm về, chàng sốt sắng cùng nàng nghiên cứu báo ti-vi. Không may, mùa này các đội đá banh nghỉ dưỡng giò. Chương trình tường thuật thể thao cũng không xuất hiện. Chiều thứ Năm đi làm về, ngang qua sạp báo. Chàng mừng rỡ đến độ suýt la lớn. Hình anh chàng JJ ngay trang bìa báo. Dưới có đề tựa: “JJ, một khuôn mặt rất nhiều triển vọng trong làng tường thuật thể thao”. Chàng mua vội tờ báo, phóng như bay về nhà. Nàng sẽ “gặp” hắn, để xem, nàng phản ứng ra sao.
Nàng đang ngồi bó gối ủ rũ trên thảm. Trên bàn có tờ báo giống tờ báo chàng cầm trong tay. Đứa con bên cạnh đang chăm chú xếp mấy con thú gỗ. Ti vi không mở. Nghe tiếng chàng, nàng ngước lên, cặp mắt đỏ hoe. Chàng lúng túng, thảy tờ báo lên bàn, nói vụng về: - Alles ok không em? Không trả lời câu hỏi của chàng, nàng nói nhỏ: - Anh đưa con đi chơi một chút đi. Còn một mình ở nhà, không cần kiềm chế, nàng òa khóc. Không, đó không phải là anh chàng trong mơ của nàng. Nàng hiểu ra. Anh chàng phóng viên thể thao JJ chẳng phải là người trong giấc mơ của nàng. Nói đúng hơn, “anh chàng” trong mơ của nàng chẳng là ai ngoài đời cả. “Người trong mộng” chỉ là bức tranh nàng vẽ vời trong trí tưởng tượng của tuổi đôi mươi. Của lòng nàng bay bổng với ước mơ đời êm như tiếng hát của lứa đôi. Nàng ngồi dậy, lau nước mắt, dứt khoát cầm hai tờ báo bỏ vào thùng giấy. Năm thì mười họa, nàng xem chương trình với những chủ đề đặc biệt của anh phóng viên JJ. Anh ta nói chuyện có duyên, đối đáp thông minh. Tiếng Đức của anh ta dễ nghe cho đôi tai Việt của nàng. Nàng thấy anh ta là một người dễ mến. Nhưng tuyệt nhiên, nàng chẳng chút xao xuyến, vấn vương. Như mọi người, cuộc sống của nàng buồn vui lẫn lộn. Lần giở những cuốn sổ ghi chép chi chít, nàng giật mình khi đọc mấy câu thơ trong nét viết tay ngả nghiêng của mình.
Có khi ta ngủ mà ta biết Cũng có khi lòng ta dửng dưng
Nàng chắc chắn không phải là thơ của nàng, bởi nàng không biết làm thơ. Có lẽ, nàng đã buồn ghê gớm, nên mới mượn mấy câu thơ ướt sũng chép vào nhật ký. Có lẽ, nàng mải bận rộn sụt sùi, nên quên ghi tên tác giả bài thơ. Bên cạnh những ngày tháng sầu khổ, nàng vẫn có muôn vàn thời khắc hạnh phúc. Có lúc nàng mượn câu nói nàng loáng thoáng nghe đâu đó, một ngày đẹp trời, cây cỏ đẹp, tình nhân đẹp..., để chụp lại những giờ giấc nàng phơi phới tin yêu.
***
Thời gian vùn vụt trôi. Mới hồi nào nàng nằm mộng thấy người của đài truyền hình. Nay đã ba chục năm qua. Nàng vẫn hay mơ trong những giấc ngủ. Đâu ai ngủ mà không mơ. Nhưng chẳng giấc mơ nào có bóng dáng người trong mộng. Thời nay, nếu nàng nằm mơ tương tự như thuở xưa, nàng khỏi cần mua báo ti-vi. Muốn mua, e không dễ, vì báo ti-vi đang trên đường tuyệt chủng. Mở mắt ra, nàng chỉ cần vài phút vào internet là tìm được đầy đủ thông tin, hình ảnh cần thiết. Ai đó đùa rằng, trăm năm trong cõi người ta/điều gì không biết thì tra “gú-gồ”.
Ngày nọ, nàng mở đường link người bạn giới thiệu một bài hát phổ thơ của người quen. Bài hát, trong tai nàng, không để lại ấn tượng nào rõ nét. Bởi vậy, nàng vừa nghe hát, vừa dọn dẹp “thùng” thư điện tử. Mải miết mở thư, xếp thư, xóa thư, nàng không để ý link đã chuyển qua bài hát khác. Bỗng nhiên, giọng hát trầm ấm của ca sĩ nàng rất ái mộ làm nàng vứt phăng mớ thư từ ngổn ngang. Nàng ngồi yên, lắng nghe từng chữ của lời bài hát, lắng nghe từng nốt của tiếng đàn dương cầm dìu dặt.
Tôi như nắng cháy ngoài đồng khô khan Cỏ buồn hoang mang mong giọt mưa về thăm hỏi...
Chữ “hỏi iii”... luyến nhè nhẹ, như lời ru êm dịu. Phút giây đó, nàng ngỡ như thấy người trong mộng bước ra cõi thực, thì thầm vào tai nàng lời đường mật.
Từ một giấc mơ tôi gặp em niềm vui vỡ bờ Từ một giấc mơ tôi về trên ngõ cũ ngày nào Trông vời em dáng áo nhạt màu Cho lòng thấy đời tôi còn em như giấc mơ.
Nàng ngộ ra, bao nhiêu năm nay, khi nàng lao đao, vấp ngã, không chỉ vòng tay thân yêu của gia đình nâng đỡ nàng, mà còn có “người trong mộng” với chiếc áo được dệt bằng những vần thơ óng ả, những đoạn văn mượt mà, những điệu nhạc du dương, bước ra đời thường, thân ái dìu nàng, nhẹ nhàng an ủi, vỗ về nàng, đằm thắm thắp sáng niềm vui trong tim nàng. Để rồi, nhiều sớm mai thức dậy, nàng có thể xuýt xoa đón ngày mới: “Ôi, đời còn dễ thương”.