November 2024 | Mon | Tue | Wed | Thu | Fri | Sat | Sun |
---|
| | | | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | | Calendar |
|
|
| Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? | |
| | Tác giả | Thông điệp |
---|
MHMai Khách viếng thăm
| Tiêu đề: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Tue Jul 30, 2013 2:44 am | |
| . Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? - NGUYỄN XUÂN HOÀNG
Sáng nay, mở computer tôi thấy một mail lạ. Thường thì tôi vẫn delete hoặc cho vào spam ngay những mail không biết xuất xứ, nhưng mail này khiến tôi dừng lại vì dòng chữ trên ô subject: XIN DUNG DELETE MAIL CUA K. Mail của K.? K. là ai? Tôi có một người bạn tên K. Nhưng bạn tôi đã “ra đi” vào những ngày cuối của cuộc chiến tại Sài Gòn. K. nào? Tôi bấm chuột, kéo xuống. Đọc.
Gửi ông H.
Tôi gửi thư này theo lời yêu cầu của bà Huyền, thân mẫu của anh K. bạn của ông. Tôi là cháu của bác Huyền. Trong một dịp tình cờ tôi vô tình nhắc đến tên ông qua một bài viết của ông trên trang mạng điện tử, bác hỏi tôi có phải ông ngày xưa ở Nha Trang không? Và ông có phải là bạn cùng lớp của K. con trai bác không? Nếu ông đúng là người bạn của K., bác tôi muốn biết tin tức của ông. Bác tôi hiện sống ở Hà Nội. Năm nay bác Huyền tôi đã 88 tuổi. Rất mong được thư ông.
PXL
Tôi không quen ông PXL, nhưng tôi có biết ông là một nhà nghiên cứu văn học trong nước. Thỉnh thoảng tôi cũng có dịp đọc bài của ông. Đây là lần đầu tiên tôi đọc thư ông. Tôi sẽ trả lời thư ông L. Và chắc chắn tôi sẽ liên lạc với Mẹ Huyền. Đúng bà là mẹ của K. bạn học thời nhỏ của tôi, và bà cũng là Mẹ của tôi, như Mẹ tôi cũng từng là Mẹ của K. Tôi muốn kể cho ông PXL biết đôi điều về K. và… tôi. Tôi muốn tặng bài viết này cho Mẹ Huyền của chúng tôi.
1.
Không biết điều gì đã kéo chúng tôi lại gần nhau, mặc dù hai chúng tôi khác nhau về nhiều phương diện. K. đẹp trai, con một, dân “bắc-kỳ-di-cư”. Còn tôi, dân địa phương, mặt mũi không giống ai, nhà lại đông “dân cư”. Cũng như nhiều gia đình di cư khác, lúc đầu nhà của K. ở trên một khu nhà tạm ở dưới Cầu Đá, Nha Trang, trước khi dọn đến một căn nhà gần thành phố hơn. Những ngày mới bước vào lớp, K. được xếp ngồi ở bàn đầu, sát bên tôi. Bọn ma cũ luôn bắt nạt ma mới. Và K. luôn luôn là nạn nhân của mấy tay ngồi cuối lớp. Chính tôi lúc đầu cũng không ưa K., nhưng ngồi bên nhau lâu chúng tôi dần dà thích nhau. Tôi hỏi “cậu có cần tôi nói chuyện với chúng nó để cho cậu yên không?” K. nói “cám ơn cậu, không cần đâu. Cậu để tôi tự giải quyết.” Và K. đã giải quyết cách nào tôi không biết, chỉ thấy sau đó, không đứa nào chọc phá “bắc-kỳ-cá-rô-cây” K. nữa. Cái khác nhau lớn nhất giữa K. và tôi là chuyện học. Tôi thích toán và luôn luôn đạt điểm cao về môn này, trong khi K. chỉ ưa chuyện văn chương. Có lần thầy Phan N. dạy môn Văn trong khi trả bài luận, đã làm cả lớp ngạc nhiên khi nói: “Tôi muốn giới thiệu với các em, một nhà văn trong lớp chúng ta: Phạm Thế K. Bài luận của K. không chỉ là một bài luận mà là một truyện ngắn, một truyện ngắn đặc sắc.” Thầy nhắc đi nhắc lại “một truyện ngắn đặc sắc” mà thầy được đọc từ bài viết của một học sinh từ mấy chục năm đi dạy đến nay. Và thầy đã làm copy phát cho cả lớp cùng đọc. Bài viết nói về ngày K. giã từ Hà Nội. K. nhắc đến bạn bè thầy cô, khí hậu thời tiết, tình cảm của một đứa trẻ trước một chuyến đi sẽ là mãi mãi. Hà Nội trong trí nhớ của một cậu bé 14 tuổi. K. nói đến một cô bé học cùng lớp đã khóc khi chia tay vì gia đình của cô quyết định ở lại. Còn mẹ K. là một phụ nữ xinh đẹp, bà giống như chị của K. hơn là mẹ. K. còn có ông chú là một nhạc sĩ nổi tiếng. Những chiều cuối tuần, bọn tôi thường kéo nhau ra bờ biển nghe ban nhạc của những người di cư chơi các ca khúc của ông. Đó những bài nhạc luôn luôn nhắc về một Hà Nội đã xa, một Hà Nội trong trí nhớ. Những ca từ thấp thoáng trong bài luận của K.
Mẹ K. yêu thương tôi như yêu thương K. Nhờ bà, tôi biết bún chả Hà Nội, canh giò thì là, những món ăn đặc biệt Bắc Kỳ mà trước đó tôi chưa hề được ăn. Về phần mẹ tôi, bà cũng đặc biệt thương K. và bà luôn đem K. ra để làm tấm gương cho tôi soi. “Học hành như thằng K. mới là học, chớ đâu như mày. Học trò gì mà không bao giờ có một cuốn tập cầm tay.” Có lần bà nói với K., “con nhớ nhắc nhở nó học hành dùm cho mẹ. Mẹ lo cho tương lai nó quá.” Bà giống mẹ của K. gọi bọn tôi là con và xưng mình là mẹ. Thật ra, tôi biết, mẹ tôi chỉ nói thế chứ trong lớp tôi chỉ kém môn Văn chứ các môn khác tôi đâu có thua đứa nào. Trong khi đó thì mẹ của K. cũng thường nhắc: “Con nhớ bảo vệ K. nhé. Đừng để đứa nào hiếp đáp K. nhé. Con nhé!” Bà nói thế thì tôi nghe thế chớ thật tình K. không hiếp đáp người khác thì thôi chớ làm gì có chuyện người khác hiếp đáp K. Điều đặc biệt là hai bà mẹ của chúng tôi chưa hề một lần gặp nhau. Năm 1956, gia đình K. dọn vào Sài Gòn, vì bố của K. nhận được một chức khá lớn trong chính phủ. Hôm tiễn K. ra ga xe lửa, mẹ K. ôm tôi nói: “Con có muốn vào Sài gòn sống với K. và mẹ không?” Tôi không biết nói sao. Vào Sài Gòn ở với K. thì được, nhưng tôi sẽ đi học ở đâu? Trường nào sẽ nhận tôi? Nhưng K. vào Sài Gòn được ít lâu thì ông anh tôi từ Ban Mê Thuột cũng được đổi về Sài Gòn làm việc ở Quân Khu Thủ Đô. Anh biên thư về nhà xin phép mẹ cho “nó vào trong này để con dạy dỗ nó, theo dõi chuyện học hành của nó, kẻo nó trở thành bọn đầu đường xó chợ mất.” Thế là K. và tôi lại gặp nhau. K. ở Chu Văn An học ban C. Tôi vào Petrus Ký học ban B. K. học ban C vì giỏi sinh ngữ, và văn. Tôi theo ban toán và thật tình tôi không ưa chuyện thi phú “vớ vẩn” như tôi vẫn thường nói với K.. Năm Đệ Nhất, K. đã có truyện và thơ đăng báo Hiện Đại của thi sĩ Nguyên Sa. Còn tôi, không có gì kéo tôi ra khỏi những định lý, định đề, những con số và những bài toán khó và … K. và tôi cuối tuần nào cũng gặp nhau. Mẹ của K. thường hỏi: Tuần này cả nhà ăn gì nào? Bún chả nhé? Có bữa bà nhắc K. hôm nay mẹ có món canh giò thì là đấy, gọi bạn con đến đi.
Trong đầu tôi lúc đó ngoài Euclid, Riemann, Lobatchewsky ra, bao giờ tôi cũng có ý nghĩ là phải làm sao cho trái đất này rung lên, làm sao có thể đi sâu xuống tận cùng dưới đáy đại dương, làm sao bay lên những vì sao, làm sao? Có lúc tôi nghĩ chiến tranh là cần thiết. “Si vis pacem, para bellum.” “Muốn hoà bình phải có chiến tranh.” Tôi ghét những giọt nước mắt. Tôi khinh bỉ sự đau khổ. Còn K.? “Đau khổ là một thứ tình cảm cần thiết. Bất cứ sự đau khổ nào cũng làm cho người ta lớn lên. Chỉ có hạnh phúc làm người ta nhỏ lại.” Tôi mơ ước mình sẽ trở thành nhà khoa học, và những phát minh của tôi sẽ biến đổi cả thế giới này. Tôi muốn khám phá những bí ẩn của vũ trụ, trong khi K. chỉ muốn khám phá những bí mật của tâm hồn. Có lúc tôi nghĩ ước gì mình có thể chế tạo được chiếc máy “làm ra những nụ cười”. K. thì bảo tôi “cậu là người tưởng tượng giỏi sao không viết văn đi, còn khoa học ấy à, có ghê gớm đến đâu đi nữa cũng chẳng giải quyết nổi được chuyện con người đâu. Thế kỷ này không có Albert Einstein thì thế kỷ khác cũng sẽ có thôi, chứ thế kỷ này mà không có Nguyễn Du thì chưa chắc gì thế kỷ khác sẽ có.” Chúng tôi càng lớn lên càng thấy mình quá khác biệt nhau, nhưng không hiểu sao chúng tôi bao giờ cũng tìm đến nhau trong những lúc khó khăn nhất. Chúng tôi biết rằng mỗi người chỉ là một nửa của người kia. Phải có một nửa kia, chúng tôi mới hoàn toàn là một con người.
2.
Sau khi tốt nghiệp trung học, mặc dù là con một, K. nhất định thi vào Võ bị Ðà Lạt, còn tôi thì vào Văn khoa, ban Triết. Có vẻ như mỗi đứa chúng tôi vẫn đang đi tìm cái mà chúng tôi thiếu hồi thời học trung học. Ra trường K. đi Không quân, tôi vẫn còn được đi học nhờ nhà tôi có cả hai ông anh đều đi lính. Chúng tôi đang đi tréo đường nhau, nhưng cái khoảng cách giữa chúng tôi dường như bỗng thu ngắn lại. K. khoẻ mạnh hơn, vững chãi hơn. Cái vẻ yếu đuối ngày xưa không còn nữa. Còn tôi thì bắt đầu quan tâm tới thế giới chữ nghĩa, văn chương. Khoảng cách giữa hai chúng tôi biến mất dần nhờ con đường mang tên Nguyễn Bỉnh Khiêm. K. yêu một người Trưng Vương, còn tôi làm công việc đi theo bạn đến “chầu” một cô gái ở con đường đầy bóng mát để bạn tôi yên chí lấy tinh thần “nhìn người yêu hững hờ bước đi, mắt không hề ngoảnh lại”. Đó là chữ nghĩa của K. khi viết về N., người mà K. yêu. Phải nói N. là một cô gái đẹp lạ lùng. Từ cổng trường túa ra, giữa những chiếc áo dài trắng toát, N. nổi bật lên như một ngôi sao. Mái tóc ngắn chải kiểu con trai, hai con mắt to và đen, đôi môi hơi dầy, nhưng chiếc răng khểnh làm cho khuôn mặt của N. trở nên quyến rũ mời gọi. Lần đầu tiên theo K. “chầu N.”, K. vỗ vai tôi chỉ người thiếu nữ xinh đẹp kia và hỏi “cậu thấy con bé đó thế nào?” “Thế nào là thế nào?” Ngay lúc đó, tôi thấy K. đứng bất động nhìn N. đi qua, đi qua như một người lạ mặt. Cho đến khi N. bước lên chiếc xe có tài xế đón, K. mới chịu chở tôi ra về. N. có biết là K. yêu cô không, tôi không biết. Điều duy nhất tôi biết đó là chưa bao giờ tôi thấy N. dừng chân nói với K. một lời nào.
Gần một năm trời, theo K. chầu N. ở đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, tôi khám phá ra mình không có người yêu. Không phải vì tôi không muốn yêu ai, nhưng nếu có muốn thì chắc cũng chả có ai yêu mình. Em gái tôi bảo anh học chi cái môn triết học, gàn ơi là gàn, nói năng chẳng ai hiểu ra làm sao cả, đứa con gái nào ngu lắm mới yêu anh. K. bảo “này, cậu bỏ dùm tôi ra khỏi cái đầu rắc rối của cậu mấy ông Jean-Paul Sartre, Martin Heidegger, Emmanuel Kant, và Nít Niết đi,… cho con nhờ tí. Không biết tình yêu à. Thế thì sống để làm gì nhỉ?” Có lần tôi hỏi K. “Này ông, cứ đứng nhìn người ta như vầy mãi sao? Muốn gì thì nói đi chớ, bạn.” K. bảo “cần gì nói, cứ đứng nhìn thế này là nói rồi. Bây giờ đến lượt cô ấy phải nói chứ tại sao tớ phải nói nhỉ?” K. cười: “Mỗi người đàn bà là một bí ẩn: một giọng nói, một cử chỉ, một niềm im lặng.” Tôi hỏi K. ai đã nói thế? K. bảo thì cái lão Le Petit Prince đã nói thế. K. gần như thuộc nằm lòng những câu của St. Exupéry trong cuốn Le Petit Prince. Tôi hiểu tại sao anh chọn binh chủng không quân. Có lần K. nói K. mơ ước được sống và chết như St. Ex. Sống như một nhà văn, chết như một phi công. Thời gian đó ở Sài Gòn, người ta vẫn hay nói một câu rất thời thượng của St. Ex: “Yêu nhau không phải là nhìn nhau mà cùng nhìn về một hướng.” Mối tình thầm lặng ấy của K. kéo dài bao lâu, tôi không nhớ. Có thời gian K. đổi đi Cần Thơ, rồi ra Nha Trang. Sau đó là Đà Nẵng và mất liên lạc. Còn tôi, sau chín tuần ở Quang Trung, chuyển qua Thủ Đức. Ra Vùng Một chiến thuật. Bị thương nhẹ trong một vụ đụng độ, rồi may mắn được trở lại Sài gòn. Đơn vị 3 Quản trị. Tôi trở lại nhà trường. Tôi vẫn chưa có người yêu. 3.
Nhiều năm sau, gặp lại K. tại quán Cái Chùa Sài Gòn, chúng tôi đã không còn trẻ nữa. Mẹ tôi đã qua đời. Mười ba anh chị em trong gia đình tôi đã ly tán. Hai ông anh tôi một chết mặt trận Đông Hà, một là thương phế binh. Bà chị tôi lấy chồng bỏ quê hương đi xa. Tôi hỏi K. “lâu nay có gặp N. không, cô ấy bây giờ ra sao?” K. cười: “Có, thỉnh thoảng chúng tôi có gặp nhau… Cô ấy đã lập gia đình.” “Thế những điều ông định nói với cô ấy đã nói được chưa?” “Chưa. Vả lại, nếu nói thì nói trước khi người ta lấy chồng, chứ bây giờ còn nói gì.”
Đó là lần sau cùng tôi gặp K. Bởi vì anh đã chết trong những ngày cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam. Người ta đưa xác K. về nhà anh ở Phú Nhuận trong những ngày tháng Ba, Bảy Lăm, những ngày mở màn cho một Sài Gòn bắt đầu hỗn loạn. Suốt mấy ngày liền, tôi ở nhà K., ngồi bên quan tài anh. Mẹ K. già sụm thấy rõ. Cụ ôm tôi khóc, gào lên; “Con ơi là con. Sao con bỏ mẹ mà đi thế này!” Bức ảnh của K. rọi lớn đặt trên bàn thờ. Đôi mắt sáng. Nụ cười buồn. Một khuôn mặt “bô” trai. Những người sĩ quan đứng bên quan tài anh đổi phiên nhau. Sáng ngày động quan, bất ngờ tôi thấy một thiếu phụ bước vào. Chiếc áo dài màu trắng, hai con mắt to và đen, chiếc răng khễnh. N. đến trước mặt tôi chào hỏi như một người quen đã lâu không gặp. Tôi đưa cho chị cây nhang. N. chắp hai tay đưa cao lên trán, đứng lặng hồi lâu. Tôi có cảm tưởng là lâu lắm. Và khi chị bỏ tay xuống xá mấy xá trước khi quỳ lạy trước quan tài K. Tôi nhìn thấy những giọt nước mắt của chị. Những giọt nước mắt lặng lẽ chảy dài trên một khuôn mặt xanh xao. Tôi thấy như mình đang đứng với K. ngày nào trên con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm đầy bóng mát, nhìn xéo qua cổng trường Trưng Vương. Con đường cắt đôi, một bên là Thảo cầm viên và một bên là ngôi trường của N. Và người thiếu nữ với mái tóc cắt ngắn, hai con mắt to và đen, chiếc răng khểnh đang bước đi, đầu ngoái lại nhìn chúng tôi với một nụ cười buồn. Tôi nhớ câu của St. Ex có lần K. nói: “C’est tellement mystérieux, le pays des larmes.”
Mối tình ấy có thật không hay chỉ là trong trí tưởng của tôi?
NGUYỄN XUÂN HOÀNG
* Antoine de Saint-Exupéry, [1900-1944] nhà văn phi công Pháp, tác giả Courrier Sud [1929], Vol de Nuit [1931], Terre des Hommes [1939], Le Petit Prince [1943]. |
| | | MHMai Khách viếng thăm
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Thu Aug 01, 2013 12:12 pm | |
| .
Tình Yêu Không Mầu - Trần Mộng Tú
Laura là cô bạn da trắng cùng trường, vừa là người chung phòng vừa là người yêu của tôi. Cô học năm thứ ba Y Khoa, tôi học cao học về Nhân Chủng Học. Một hôm cô đem về buồng trọ của chúng tôi một con ếch nhỏ, cô nói: – Em cứu nó, nó đang ở trong cái chậu chờ tụi em phanh thây. Tôi cúi nhìn con ếch đen thui, mình nhỏ bằng cái đầu đũa và dài bằng một lóng tay út đang bơi bơi trong cái bịch ni lông trên tay cô, hỏi: – Con này là con ếch đây à? Trong đầu tôi, con ếch ở quê nhà là cái con xanh mướt mầu lá cây ở ao hồ, nhẩy từ lá sen này, sang lá sen kia, hay cái con vàng hườm bắt ở ruộng, có cái bụng tròn như quả chanh, hai cái đùi nổi từng múi thịt, người ta bán hàng xâu ở chợ, đang đợi làm món ếch chiên bơ. Bé choắt thế này thì là nhái chứ ếch nỗi gì? Laura đang lấy cái lọ thủy tinh thả con vật bé tí, đen bóng ấy vào, cô cong môi lên một chút, nói: – Anh chẳng biết gì cả, đây là ếch Phi Châu “African Frog”.
Từ đó trong căn phòng trọ sinh viên chật hẹp ngổn ngang những sách vở, quần áo, máy vi tính, phấn son, thuốc ngừa thai, bao cao su, mì gói, súp hộp, có thêm một kẻ trú ngụ mới: chàng “Hoàng tử Phi Châu”, cái tên tôi đặt cho con ếch của nàng. Laura bây giờ ngoài thời gian ở trường, bận học, bận thi, nàng chú tâm vào con ếch đen thui đó đến quên cả đi chơi với bạn gái, và quên bẵng cả tôi. Nàng quên mất thói quen mỗi khi ra khỏi nhà trước tôi, hôn tôi một cái, vì nàng còn bận cho ếch ăn và nói chuyện đôi câu, dặn dò như nói với người bằng xương bằng thịt: – Ở nhà đừng buồn nhé, tôi học xong sẽ về ngay, nhớ ăn cho mau lớn nhé. Khi về đến nhà cũng vậy, việc đầu tiên là nàng hỏi chàng hoàng tử, nàng cầm cái lọ thủy tinh dơ cao lên ngang mặt, hỏi bằng giọng nũng nịu, như trước đây nàng thường hỏi tôi: – Có nhớ Laura không? Có đói không? Rồi nàng âu yếm hôn hoàng tử qua cái vách thủy tinh của chai, với đôi mắt nàng lim dim, ngực phập phồng làm cho tôi ngứa mắt. Tôi dọa: – Coi chừng em hôn như thế, con ếch biến thành hoàng tử da đen nhẩy ra thì em lại phải chạy thật nhanh đấy. Nàng bỏ cái chai xuống, quắc mắt nhìn tôi: – Tại sao em phải chạy, nếu là ông hoàng bước ra từ cái chai này, em sẽ ôm lấy ngay, dù bắt cứ mầu da gì.
Câu nói của nàng làm tôi nhớ lại, một đêm chúng tôi yêu nhau giữa đống sách vở vứt lung tung trên sàn, ánh trăng từ ngoài cửa sổ hắt vào, chiếu lên da thịt chúng tôi, một màu hoàng kim óng ánh rất ngoạn mục, Laura nói: – Anh thấy không, mẹ thiên nhiên chiều đãi loài người, khi người ta yêu nhau, dưới ánh trăng, đâu còn phân biệt mầu da, chủng tộc nữa. Mầu da nào cũng thành vàng ròng hết. Tôi cười, nói: – Anh chỉ đồng ý với em về da trắng và da vàng thôi. Vì ánh trăng chiếu lên da đen làm sao em nhìn thành màu hoàng kim được. Laura đẩy tôi ra khỏi nàng, ngồi lên cãi. – Như vậy là anh không hiểu gì về tình yêu, tình dục cả. Anh tưởng khi hai người lên đến tột đỉnh cảm giác người ta còn nhìn ra mầu da à? Tôi lúng túng: – Nhưng mầu đen… nó đậm sắc quá… làm sao nhìn ra mầu vàng của ánh trăng được. Laura giận tôi đến cả tuần lễ, cho tôi là người kì thị (và chỉ kì thị da đen thôi, vì tôi yêu mầu da trắng của nàng)
Bây giờ, tôi vừa có ác cảm vừa lo sợ chàng hoàng tử ếch da đen đó, lấy hết tình cảm của nàng đang cho tôi, tôi chỉ mong con ếch đó càng chết sớm càng tốt. Tôi xúi nàng. – Em nên mua một con cá đá thả vào cho nó có bạn, con cá đá lại có mầu sắc, làm đẹp thêm, chứ con ếch này đen thui trông khó chịu quá. – Anh đừng có kì thị mầu da. Đen cũng đẹp theo đen. Tuy nói thế nhưng hôm sau nàng đi học về, mang theo một con cá đá thả vào chai. Con cá đá có cái đuôi như một giải cờ ngũ sắc, uốn lượn rất ngoạn mục. Tôi cười trong bụng, đắc ý vì nàng đã mắc bẫy của tôi. Con cá đá này sẽ ăn hoàng tử ếch của nàng.
Quả nhiên chỉ ba hôm sau, trong khi tôi còn đang đánh răng, sửa soạn đến trường, tôi nghe tiếng Laura kêu thất thanh: – Bình, Bình, con cá đá ăn hết mấy ngón chân con ếch rồi. Tôi giả bộ hốt hoảng chạy ra, thấy nàng đang dùng cái môi múc canh, múc con cá đá ra, múc được nó xong, nàng chạy ngay vào buồng tắm, húc cả vào tôi, nàng vứt con cá vào bồn cầu, giật nước. Nàng làm tất cả động tác đó không đầy hai phút, tôi không chặn lại kịp, đành nhìn vị cứu tinh của tôi biến mất trong vòng nước xoáy. Laura vứt con cá xong, ra ngồi trước cái chai khóc. Hoàng tử của nàng hai bàn chân trước mất hết ngón. Con ếch bé quá, chân nó có bao nhiêu ngón khó mà nhìn thấy, vì ngón chân nó bé cả hơn cái đầu tăm, nhưng khi nó bị rỉa cụt hết ngón thì nhìn thấy ngay hai bàn chân bằng phẳng. Hai bàn chân sau, ngón to hơn một chút nên con cá đá chưa rỉa. Tôi dỗ dành nàng, hứa sẽ mua cho nàng một con ếch khác, to hơn, đẹp hơn, có đầy đủ ngón chân, và có mầu xanh như lá cây. Nàng nhìn tôi với cặp mắt oán hận, như biết rõ tôi chính là kẻ chủ mưu cho vụ giết từ từ con ếch của nàng. Nàng không nói một câu nào.
Tối hôm đó nàng đóng chặt cửa buồng ngủ, tôi phải nằm ngủ trên sô pha. Sáng hôm sau, nàng vẫn không thèm nói một câu, thu xếp quần áo, sách vở, mang theo cái chai có hoàng tử của nàng chất lên xe. Tôi lẽo đẽo theo sau, xin lỗi, năn nỉ mãi nàng vẫn không thèm hé miệng nói một câu, tôi tự ái, nói với theo tiếng máy xe nổ: – Đi luôn nghe. Laura đi luôn thật, nàng không đến trường luôn ba ngày, tôi hỏi cô bạn Betty đồng lớp, thân nhất của nàng, cô ấy cho biết, Laura tạm thời đang ở nhà Betty, Laura nhờ Betty mang bài về hộ vì cô đang phải đi kiếm chỗ ở. Betty nhìn tôi cười cười, nói tiếp: – Quên nàng đi, nàng có bồ mới rồi. Tôi nhún vai, bỏ đi, không hỏi tiếp nữa. Quên thì quên, cóc cần, vừa mới bỏ đi ba ngày đã có bồ mới rồi, để xem bồ mới có ngon không? Tôi nói một mình.
Laura đi học lại tuần sau, trông cô tươi tỉnh đẹp hẳn lên, chẳng có vẻ gì là thất tình cả, trong khi tôi, chắc ai nhìn cũng thấy: “thất tình ra mặt”. Cô gặp tôi ở hành lang đi xuống phòng ăn, vẫy tay chào, như chào tất cả những người bạn đi qua mặt cô. Tôi muốn giữ cô lại, nhưng cô đi ngay, chẳng có vẻ gì đã từng là bồ tôi cả. Buổi chiều tôi chạy ngay sang học khu của cô, mong một cơ hội chót nói lời xin lỗi. Tôi bỗng ngây người ra, khi nhìn thấy cô đang khoác tay rất thân mật với một thanh niên cao lớn, đi ra bãi đậu xe, họ vừa đi vừa hôn nhau. Đó là anh chàng có nước da đen bóng. Tôi chạy theo gần sát hai người, khi anh ta mở cửa xe cho cô, tôi thấy bàn tay anh không có ngón. Chiếc xe rồ đi, để lại một đám khói phà vào mặt tôi.
Ôi, muộn mất rồi! Cô đã có cơ hội hôn con ếch Phi Châu đó, không qua lớp thủy tinh của cái chai!
Trần Mộng Tú 11/2010 .
|
| | | NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Sat Oct 26, 2019 10:10 am | |
| .
Thy Will Be Done - Hoàng Quân
Nàng đã đọc đâu đó câu nói của văn sĩ người Anh C.S. Lewis: “There are two kinds of people. Those who say to God “Thy will be done” and those to whom God says: “All right, then, have it your way.”
Hồi còn bé tí tẹo, nàng đã biết băn khoăn về tuổi của mình. Tình cờ, nghe bà thím nói chuyện, những người sinh năm canh tý số vất vả, cực khổ. Lời nói đó để dấu trong đầu óc non nớt của đứa bé mới vào trung học. Nàng nghĩ, cả thế gian chỉ mỗi mình nàng có tuổi canh tý. Nàng không muốn có cuộc đời đã định của tuổi canh tý. Rất sớm, nàng manh nha ý định “cải số” của mình. Theo suy nghĩ trẻ con của nàng, nhỏ học giỏi, lớn an nhàn. Nàng không nhớ rõ mình đã áp dụng “chiến lược” này từ lúc bao nhiêu tuổi. Có lẽ, nàng mê học trước khi biết đọc chữ. Nàng đã ăn cháo thánh từ thuở tiểu học. Khi nhà có cúng giỗ, nhất là dịp cúng tất niên, cao lương mỹ vị ê hề. Con nít háo hức chờ tàn nhang để tranh nhau con cua luộc đỏ thắm, cái trứng vịt luộc tròn quay. Hoặc hau háu ngó những lát chả lụa xắt hình thoi, những cuốn ram chiên vàng óng ả. Con bé tuổi canh tý nôn nao nhìn đầu bàn, có lư hương, những cây đèn sáp, những nải chuối với hoa phượng vàng ở trên, và quan trọng nhất, có chén cháo thánh. Nàng nghe nói, cháo thánh sẽ giúp đầu óc sáng suốt, học mau, hiểu lẹ, nhớ dai. Với niềm tin mãnh liệt đó, nàng thấy cháo thánh ngon hơn món bồ câu hầm hạt sen hay vịt nấu măng. Cháo thánh đã hiệu nghiệm suốt bao nhiêu năm làm học trò của nàng.
Một lần, nàng và nhỏ bạn hàng xóm, Ti Ti, hai đứa chơi vũ cầu xong, ghé ngồi nơi hiên nhà của vợ chồng chú Lương, vừa nói chuyện, vừa chia nhau nhâm nhi miếng kẹo đậu phụng đường đen. Thím Lương quay qua Ti Ti: - Mặt mi vầy, trẻ lâu đó nghen. Thím chỉ qua nàng: - Chớ mặt của hắn, nét đó mau già lắm. Nàng ngẫm nghĩ, như mấy anh chị sắp thi tú tài là lớn. Con bé nhìn thím Lương, như thím là già. Thôi, mình chẳng thích già như thím. Nhưng con bé chẳng có thì giờ suy tư thêm. Ti Ti kéo tay con bé, lôi tuồn tuột, rủ chạy ra sau hẻm nhà bà Xê hái trộm vài bông bí, bông bầu chơi. Gần 10 năm sau, con bé gặp lại Ti Ti. Hai đứa ngang tuổi nhau. Mà bây giờ, Ti Ti “già” bằng chị lớn của nó. Nàng nhớ ngay lời nhận xét của thím Lương. Vậy là thím trật lất rồi. Nàng có hề mau già đâu. Nàng vào đại học. Người bạn cùng niên khóa thấy nàng, tưởng, nhóc tì lớp chín, lớp mười theo anh chị vào khuôn viên đại học cho vui. Khi sang Đức, học cùng lớp có người bạn tên Dần, bởi anh sinh năm dần. Anh thường vui miệng xưng mình là chúa tể sơn lâm. Nói chuyện với nàng, anh chàng cứ một hai, xưng anh Dần, gọi nàng là bé, ngọt xớt. Anh Dần đâu ngờ là “bé” hơn anh hai tuổi. Vậy đó, dù không chủ tâm, nàng đã cải số về ngoại hình của mình.
Từ lâu, nàng chẳng còn bận tâm mơ mắt bồ câu, mũi dọc dừa, miệng trái tim. Nàng biết quý trọng sức khỏe và tinh thần mình hơn, dù chất điệu vẫn còn đậm nơi nàng. Lắm khi, nàng dám ngang nhiên xem lời khen, trẻ hơn so với số tuổi, là nhận xét trung thực. Nàng cứ lửng lơ, để người khác đoán sai về tuổi thật của mình. Nghĩ cho kỹ, thái độ đó là sự thiếu thành thật đối với bản thân mình. Nét già của bề ngoài có hề chi. Tóc bạc? Có thuốc nhuộm biến muối thành tiêu. Da nhăn? Có mỹ phẩm trợ giúp. Nhưng sự lão hóa của tâm hồn mới đáng ngại. Nàng cảm được sự cằn cỗi của hồn mình. Nàng loay hoay một thời gian. Cuối cùng, nàng tìm được đáp số làng nhàng cho mình. Nàng tương đối hóa mọi cảm nhận trong cuộc sống. Nàng không còn mít ướt, hở chút khóc. Nàng chấp nhận nghe tiếng cười của mình chẳng còn giòn giã như xưa. Con tim đã rất nhạy cảm của nàng đâm ra hờ hững với mọi chuyện. Nàng có mặt khắp nơi. Nhưng có lẽ, thưởng ngoạn chỉ là phụ. Mà nặng phần nghiên cứu, thu thập thông tin, để mỗi khi ai bàn đến đề tài nào, nàng vẫn có thể góp chuyện được. Đôi khi nàng có ý nghĩ “trịch thượng”, cười chế diễu những nhớ nhớ, nhung nhung trong thơ văn nhạc. Xem những xao xuyến, cuống quýt là trò trẻ con lẩm cẩm. Thời kỳ, ai nấy xôn xao đi xem phim Titanic. Nàng bỏ mấy tiếng đồng hồ, chiều một mình ra phố, tìm rạp xi-nê. Nàng ngáp dài, ngáp ngắn, chờ hết phim. Vào hãng, tán gẫu với bạn đồng nghiệp. Nàng bảo, câu chuyện hời hợt, kịch tính tầm thường. Cảnh chàng và nàng đứng nơi đầu tàu được nhiều người trầm trồ là thơ mộng, lãng mạn. Nghe đâu cô ca sĩ Céline Dion mơ có ngày được đóng với kép độc Leonardo DiCaprio. Nàng nhún vai: - Tôi thấy cảnh ấy giả tạo, nhạt nhẽo. Ralph, bạn đồng nghiệp thân của nàng, ngạc nhiên: - Làm việc với em đã lâu. Tôi ngỡ em là người đa cảm, lãng mạn. Mà miết đến bữa nay mới biết: Em có nhiều óc hơn tim. Mehr Hirn als Herz. Óc nhiều hơn tim, kiểu nói của người Đức, ám chỉ những phụ nữ lăm le đòi khôn ngoan hơn đàn ông và say mê công việc hơn hình bóng của người khác phái. Nàng chúa ghét những phụ nữ như vậy. Nàng sa sầm, mặt quạu đeo. Ralph biết nàng giận, lấy thỏi sô-cô-la giúi vào tay nàng: - Thôi, giỡn chút mà. Không bằng lòng tôi rút lời lại.
Những khi đi ăn trưa chung, Ralph hay năn nỉ nàng kể chuyện quê nhà. Nàng tả phong tục, tập quán, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó trong hôn nhân ở Việt Nam. Ralph có vẻ không tin, ghẹo: - Hồi đó, cha mẹ em cũng đặt chỗ cho em hả? Nàng nghiêm mặt: - Không, tôi giới thiệu chỗ, để cha mẹ tôi đặt. Hên, cha mẹ tôi đồng ý. Nếu không, tôi sẽ ở vậy, chờ cha mẹ đặt, mới dám ngồi. Ralph trợn tròn mắt: - Thiệt sao? Em không tranh đấu hay là tự quyết định cho mình? - Không! Xứ tôi người ta nói: Cá không ăn muối cá ươn / Con cãi cha mẹ trăm đường con hư. Nàng rị mọ tìm chữ tiếng Đức cắt nghĩa cho Ralph nghe. Nàng nghĩ thầm, bây giờ, nếu phải có những quyết định tương tự cho đời mình, có lẽ nàng cũng chẳng dám đi ngược lại những mong đợi và phán xét của gia đình và chính bản thân nàng.
Cứ thế, nàng ung dung tự tại trong cuộc sống, để vô số đam mê lụn tàn. Ắt hẳn do cuộc sống có được quân bình tương đối, nàng đâm ra lười biếng. Dòng đời trôi suôn sẻ, bình lặng, ngược với tâm hồn hiếu động ngày xưa của nàng. Bỗng nhiên, có những tình cờ nho nhỏ. Một người bạn thư, giúp nàng bỏ thì giờ quay đầu lại, để “tôi tìm thấy tôi”. Nàng gặp lại con bé ranh mãnh, tinh quái mà bạn bè thông dịch gọn là ba gai. Nàng tìm trong tự điển những chữ liên quan đến tuổi tác của anh, gọi anh là cà kê, tức là cà chua, cà khịa, cà tàng... Dần dà, anh chứng minh có đầy đủ những đức tính “cà” làm nàng cà... lăm. Nàng có tật liên tưởng quàng xiên. Thấy cây kim, nàng nghĩ ngang, nghĩ dọc một hồi, cũng thành chiếc phi thuyền. Nàng say sưa kể chuyện hoa lá. Đột nhiên nàng khựng lại, ngúng ngoảy: - Bàn bạc với các ông về hoa lá, như nước đổ lá môn. Chi bằng nói chuyện với đầu gối còn hơn. Anh chẳng chấp nê chi kiểu nói láo lếu của nàng. Anh kể, vườn nhà anh um tùm lắm. Anh sẽ dọn dẹp, trồng cây môn, rồi đổ nước lên lá, để hiểu ẩn dụ của nàng, để đủ trình độ chuyện trò với đầu gối của nàng. Nàng rét, nói chuyện với anh, uốn lưỡi bảy lần, xem ra chưa đủ. Với những “tình khúc trên chiến trường” rộn rịp đó, nàng tưởng mình yên tâm đứng trong vườn, đối thoại với anh bên kia hàng rào. Thỉnh thoảng, anh vờ sơ ý, đẩy hàng rào đây kia. Nàng kỹ càng, cẩn tắc vô ưu, giăng thêm kẽm gai. Anh giả đò, ủa, tưởng đó là dậu mồng tơi của Nguyễn Bính. Nàng tăng cường lực lượng, gài điện cao thế vào kẽm gai. Anh bảo, điếc không sợ súng. Nàng cảnh cáo, điện cao thế giật chết tươi, bất kể người phá rào điếc hay đui. Thấy chiến trường có nhiều phát triển bất lợi cho “chiến tuyến” của mình, nàng áp dụng chiến thuật vườn không, nhà trống. Nàng xóa hết điện thư. Xóa vĩnh viễn, chứ không gởi tạm trong thùng giấy. Nàng có việc phải đi vắng nhiều ngày. Tưởng là địch quân đã rút. Nhưng không, anh bảo, ai nói anh không lì. Không lì sao chờ tới mấy chục năm cho đến khi nàng xuất hiện. Nàng không nhịn cười được. Tưởng như thấy mũi anh đang dài ra như mũi thằng người gỗ Pinocchio.
Một cuối tuần, nhờ anh nhắc, nàng đọc được cuốn sách hay. Cuốn sách ngủ vùi trên kệ tủ hơn mười năm. Trong sách, có lá thư nhỏ bạn viết cho nàng. Nàng vui cả ngày Chủ Nhật. Nàng nghĩ đến anh, viết thư cám ơn. Nàng quanh co giải thích hai động từ, to think và to miss. Rồi một mực đính chính rằng, nàng chỉ dùng to think. Anh cười, ủa, có bắt buộc như vậy không? Có gì sai, nếu mình nhớ người mang niềm vui đến cho mình. Nàng chẳng biết trả lời thế nào. Anh chấm dứt điện thư bằng miss ya. Nàng thắc mắc, công giáo có Amen, phật giáo có Mô Phật. Chữ miss ya là của tôn giáo nào. Anh chẳng giải đáp câu hỏi, cứ viết miss ya, rồi mở ngoặc, đó là sinh hoạt phía bên anh, đối phương đâu có quyền kiểm soát. Ngồi ăn trưa với đồng nghiệp, cô bạn quan sát: - Chị có nút ruồi ở tai phải nè. Coi hay hay đó chứ. Nàng diễu: - Có nút ruồi ở tai, được nghe nhiều lời ngọt ngào. Anh bạn đồng nghiệp tủm tỉm: - Vậy là em tha hồ nghe mấy anh đây nói cả ngày chứ gì. Nàng tránh bẫy: - Ô, không phải vậy. Nút ruồi chỉ hoạt động sau giờ hành chánh thôi. Còn trong văn phòng, chỉ nghe mệnh lệnh, yêu cầu làm việc thôi. Nói đùa với bạn bè vậy. Nhưng nàng biết mình có tật ưa nghe nói ngọt. Nàng thường cảnh giác mình, để đừng… khuân lúa giống đi bán. Người đời thường nói, bệnh thì chữa được, nhưng tật thì mãn tính. Cho nên, nghe ai nói ngọt, nàng sợ, cuống cuồng tìm thuốc chữa tật. Xem ra, tiền mất, mà tật vẫn mang. Nốt ruồi ở tai nàng phải làm việc suốt, vì những điện thư ngọt lịm của anh. Nàng không nhận ra là tiếng cười của nàng đã có những thanh âm là lạ. Bạn bè nàng, hỏi nguyên cớ về niềm vui bất ngờ. Nàng la toáng rằng, bạn bè khéo tưởng tượng. Con bạn thân của nàng, thường khi, chuyên vẽ đường cho… nàng chạy. Nó xất bất xang bang, tìm mấy anh bạn học cũ cho nàng. Nó sắp xếp cho nàng gặp người này, người kia, và yên tâm, chắc chắn “mặt trận miền tây vẫn yên tĩnh”. Mà thật vậy. Gặp bạn bè xưa, nàng thật vui. Chỉ ôn chuyện cũ mà thôi. Không hề có màn, tiễn đưa nhau đi rồi, con mắt liếc còn có đuôi. Bây giờ, nàng kể sơ sơ vài đối thoại qua điện thư, chớ nàng đã kiến kỳ hình đâu. Vậy mà nhỏ bạn lại cảm thấy dấu hiệu ngầm của thiên tai. Nó phân tích, giảng giải rạch ròi, rồi khuyên: “Mày phải chặt cầu.” Nàng chưng hửng vì phản ứng nhỏ bạn. Nàng nghĩ thật lâu. Phải chăng ai cũng thấy sự thay đổi nơi nàng. Chỉ riêng nàng, cứ khăng khăng và tin rằng, nên đến trăm lần: “Nhất định mình chưa...” Nàng bỗng thấy mình ngớ ngẩn không thể tưởng. Cứ cho cái sự “vui cực kỳ” của mình tự nhiên, như khi trẻ con cười ngặt nghẽo xem Mr. Bean diễu.
Nàng nghe anh kể về những chuyến đi câu. Chắc vậy, cho nên, khi đối thoại, anh rất rành tung lưới. Những cung bậc trong những câu hỏi của anh cứ quanh quẩn trong trí nàng như điệu nhạc du dương. Anh vờ khen, nàng giỏi, nàng khôn. Nàng tưởng thiệt, nghĩ mình là cao nhân, vui sướng được đại cao nhân thấy chân tài. Anh lộng giả, nàng không để ý. Đến khi thấy sự việc có vẻ thành chân, nàng hốt hoảng. Nàng tìm đường thoát. Nàng nhìn quanh, đông tây nam bắc, bốn phương, tám hướng. Ngó đi đâu, nàng cũng thấy những sợi lưới làm nàng quýnh quíu. Nàng tìm góc kín đọc điện thư. Lúc lúc, nàng phải vờ cúi đầu xuống để che nụ cười thích thú hoặc vẻ thẩn thờ của đắn đo, lo âu. Tiếng Việt thật tuyệt vời. Sầu muộn, hễ muộn màng thì sẽ sầu hay sao? Yêu dấu, hễ yêu thì phải giấu hay sao. Nàng giật mình, ủa, nàng đã yêu chưa mà phải giấu? Nàng dần dà nhận ra, cơn gió nhẹ, nàng đinh ninh không đong đưa nổi ngọn cỏ gầy, dường như có khả năng làm trốc cả gốc cây cổ thụ. Nàng nhớ câu nói: “Trái tim có lý lẽ riêng của nó mà lý trí chẳng bao giờ hiểu được.” Ngày xưa, còn nhỏ, nàng chưa hiểu nhiều, nhưng có cảm tưởng mình giống triết gia, khi chép kèm vài câu danh ngôn đao to, búa lớn trong những tập thơ. Câu nói này có lẽ đúng với phần lớn nhân loại. Riêng nàng, trái tim nàng cũng có nhiều lý lẽ. Nhưng lý lẽ nào cũng phải được lý trí hiểu, kiểm soát và chấp nhận. Nàng thấy mình khổ sở, lúng túng với những suy nghĩ phức tạp, đối nghịch trong đầu.
Lắm khi nàng đưa ra những giả thuyết thật ngờ nghệch. Nghe nhỏ bạn viết rằng, thương nàng lắm. Nàng cảm động. Phải chi, nghe “ai đó” nói thương, nàng cũng được phép cảm động mà không cần phải day dứt. Phải chi, nàng có thể nói, viết được tiếng lòng cho “ai đó”, cũng dễ dàng, như khi viết cho nhỏ bạn thân. Chao ôi, đời yên bình biết mấy. Nghe mấy giả thuyết “dở hơi” của nàng, nhỏ bạn cười khật khừ: “Mày chắc bị chạm dây rồi.” Nàng bắt gặp bài thơ về hiến chương tình yêu: … khi em đọc, tôi biến thành chữ viết cả nghìn chương, chỉ chép chuyện đôi ta mỗi đầu giòng: tên em sắp chữ hoa cả chấm, hỏi, cũng đậm mùi hạnh phúc …
Nàng nghĩ đơn giản, mình đọc bài thơ hay, sao không phổ biến cho bạn bè biết. Nàng nhắc với anh bài thơ. Anh bảo, anh không biết. Nàng hứa, sẽ chép cho anh. Anh lắc đầu, nếu chỉ chép, anh vào internet, copy & paste là xong. Anh chỉ thích được tặng thôi. Nàng than thầm, ôi, ai nói nàng khôn lanh. Bao lâu nay nàng đinh ninh như vậy. Thiệt ra, nàng... ngu triền miên. Nàng như đứa bé trong sân chơi, đang vui với nhảy dây, đi chợ, về chợ... Trò chơi càng lúc càng hấp dẫn, hào hứng. Tiếng trống báo hiệu hết giờ chơi đã điểm. Phải trở về lớp học. Đứa bé là học trò ngoan. Đứa bé không muốn và không dám phiền lòng người lớn. Nàng nghĩ hoài, không biết trách ai. Không lẽ trách mấy ông, mấy bà phát minh ra liên mạng, điện thư. Anh tỉnh bơ, thiên la địa võng. Tính nàng ưa cải số. Có lúc chủ ý, có lúc tình cờ. Hồi mới lớn, có người tiên đoán ta e em sớm sầu. Nàng đã chứng minh rằng, mình không sớm sầu. Nhưng bây giờ, nàng không biết phải làm gì, để mình đừng muộn sầu. Hay, nàng giống như Quách Tường, phải tìm thiền sư Giác Viễn, hỏi làm sao nhược ly ư ái giả, vô ưu diệc vô bố. Nàng phải chờ đọc xong bộ truyện Ỷ Thiên Đồ Long Ký, để biết, rồi Quách Tường có được câu trả lời hay không. Nếu có, chắc nàng sẽ thử áp dụng cho trường hợp do ái cố sinh ưu, do ái cố sinh bố của thế kỷ 21.
Nàng đã bao lần buộc thượng đế phải gật gù, “Ta theo ý con. You have it your way.” Nhưng trận này, như anh đã lì, nói với nàng rằng, tránh sao khỏi số. Hay là, nàng sẽ thưa với thượng đế rằng, “Con theo ý Ngài. Thy will be done.”
Hoàng Quân Tháng Năm 2019
Những câu thơ trích trong các bài thơ: - Tình Già của thi sĩ Phan Khôi - Tuổi Mười Ba của thi sĩ Nguyên Sa - Hiến chương Tình yêu ngày 14-2 của thi sĩ Du Tử Lê . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Fri Nov 01, 2019 7:14 am | |
| . Câu hỏi kiếp người - Võ Kỳ Điền
Đời quả có những chuyện bất ngờ, như vào một buổi trưa mùa hè nắng đẹp, Hoàng gặp lại Hạnh. Chàng đang chăm sóc đám rau cải ngoài vườn, ở phòng ăn sau nhà, Liên sau khi dọn dẹp xong bếp núc, cùng thằng Bi coi phim hoạt họa vẽ đám khủng long thời tiền sử thì Đức, cậu em đến kiếm, kề tai nói nhỏ không muốn cho ai nghe - Anh biết chưa, chị Hạnh từ Bidong vừa tới, hiện ở nhà anh Hưng, anh muốn đến thăm không, em đưa đi ... Trời đất, chỉ một câu nói gắn gọn, có mấy tiếng đơn giản như vậy thôi mà chàng thấy cả một trời mây xao xuyến, chơi vơi, những ngày, những tháng miên man đầy ắp kỷ niệm buồn có, vui có, hiện về. Cả người chàng lơ lửng, tay chưn đâm thừa thãi, đám cải xanh trước mắt như mờ nhạt. Cây cỏ, nhà cửa, cảnh vật bây giờ không phải của xứ sở lạnh lẽo xa xôi nầy mà tất cả biến thành Bình Dương đầy nắng ấm ngày nào. Hạnh, Hạnh... cái tên thương yêu đẹp đẽ từ lâu đã không nghe đến, bất chợt được nhắc tới, như một giấc chiêm bao đẹp. Hạnh lớp học tươi mát, Hạnh phố xá lung linh, Hạnh công viên lá me bay bay và Hạnh đất lạ hôm nay... tình ngỡ đã quên đi nhưng tình vẫn còn đầy, người ngỡ đã đi xa nhưng người vẫn quanh đây... Người ngỡ đã đi xa nhưng người vẫn quanh đây - thật vậy sao, thật vậy sao, Hạnh cũng đến cư ngụ tại thành phố xa xôi nầy à! Hoàng len lén nhìn vô nhà, Liên với Bi vẫn say mê theo dõi đám sinh vật tiền sử, không để ý gì chuyện anh em chàng gặp nhau, tiếng nhạc văng vẳng khi xa khi gần, chàng yên tâm, trả lời Đức - Tại sao lại không!.
Nhà Hưng rất lớn, rất đẹp và ở khu yên tĩnh. Hưng và Nguyệt, chị của Hạnh du học xứ nầy từ lâu, cuộc sống đã ổn định và khá sung túc. Vợ chồng Hạnh bỡ ngỡ đến tạm trú trong căn nhà sang trọng xinh xắn nầy như dòng chữ nguệch ngoạc lạc lõng, không ngay hàng thẳng lối, được viết tình cờ trên trang giấy trắng tinh khôi. Thời gian quả thiệt vô tình, không nương nhẹ tay bất cứ ai, Hạnh xinh xắn, dễ thương ngày nào của Hoàng, bây giờ ốm đen và tiều tuỵ, da dẻ còn vương đầy màu nắng gió, bụi đất vùng trời tỵ nạn khô cằn. Nàng có vẻ lúng túng trong bộ đồ mới mua còn nguyên nếp, ra đón cố nhơn ở cửa. Chiếc quần tây xanh và chiếc sơ mi ngắn sọc kẻ ô vuông hơi rộng. Lần đầu tiên nhìn Hạnh mặc jean cứng còng, chàng ngạc nhiên và thấy lạ. Chàng bàng hoàng xúc động nắm nhẹ lấy tay Hạnh như lời chào hỏi, bàn tay lạnh, những ngón tay xương xẩu, móng cắt ngắn, trắng bệch, da nhám và thô. Hạnh ngước mắt nhìn chàng không nói. Hoàng cũng không nói. Hạnh ơi, hai đứa mình có rất nhiều điều để nói và cũng có rất nhiều điều không cần phải nói. Chàng đứng đây và Hạnh cũng đứng đây. Vẻ đẹp lụa là, sang trọng, trang nhã, kiêu sa của một tiểu thư khuê các ngày nào đâu còn nữa, mất hết rồi, mất thiệt hết rồi, còn lại chút xíu nào nữa đâu. Chàng chua xót. Hạnh ngày nào của chàng, đẹp đẽ, xinh xắn, kiều diễm, bây giờ phải trải qua những gian nan, cực khổ, đoạ đày như vậy. Hoàng cố nén những cảm xúc bỡ ngỡ ban đầu, nhìn kỹ lại người xưa. Cái dáng cao cao thanh thoát, cặp mắt vẫn đen ánh ngày nào vẫn còn, cái nhìn như ngạc nhiên, như dò hỏi, như đắn đo, lần nào cũng vậy, nhìn chàng sâu thăm thẳm như mang đầy dấu hỏi, cái nhìn đó không hề thay đổi, vẫn ngơ ngác, vẫn y nguyên. Y như lần cầm bức thơ đầy tự ái, chấm dứt cuộc tình trắc trở không đoạn kết của hai người, nàng đã hỏi trong tiếng nức nở, nghẹn ngào: - Cuối thơ anh chấm là chấm hết hay chấm xuống hàng...?
Nguyệt rất vén khéo, nhà và sân trang trí theo kiểu Nhựt Bổn, bàn ghế sạch sẽ đến độ người nào tỉ mỉ, ráng kiếm một hột bụi cũng không ra. Cạnh phòng khách là một nhà kiếng để trồng kiểng, đa số là cây cỏ, hoa lá xứ nóng như chuối, tre, nhiều loại bonsai và phong lan... Đức hoạt bát, khôn khéo tìm cách gây không khí trong nhà cho ấm áp, nó khen cây nhà Hưng khéo trồng - làm sao ở đất lạnh nầy mà trồng được cây cà phê chùm trái chín đỏ đẹp như vầy, giỏi quá. Nguyệt được khen rất vui và khoe Đức buồng chuối tiêu le que vài trái vừa mới nhú. Nguyên, thấy anh em Hoàng đến thăm hai vợ chồng, muốn lánh mặt, tế nhị rủ Đức đi chợ mua sắm vài thứ cần dùng. Vợ chồng Hưng cùng lấy cớ phải tham dự buổi họp nên vội vã đi cho kịp, kẻo trễ. Chàng cám ơn cái lịch sự của Nguyên, của Hưng, của Nguyệt nhiều lắm. Còn lại hai đứa ở phòng khách, Hạnh rót nước mời chàng. Cũng cái bàn thấp cùng kiểu Nhật nầy, y như cái bàn nhà nàng ngày trước, nàng phải quì xuống, hai tay dâng chén trà đất nâu, dáng dịu dàng e ấp. Chàng nhìn sững chén trà, cũng những ngày tháng thơ mộng đã qua nào đó, nàng đã quì gối, diụ dàng, rót mời chén trà thương yêu như vậy. Nhưng bây giờ, bên nàng đã có Nguyên và Hoàng cũng đã có Liên. Cảnh thì giống nhau nhưng tình thì khác xa, thiệt là xa. Mà có thật khác xa không, chàng cũng không biết nữa. - Em pha trà khéo và ngon... giống như hồi đó. Hạnh cúi đầu và chớp mắt, giọng nói mỏng nhẹ như sương, như khói: - Mới đó mọi việc đổi thay hết. Em cũng không ngờ được. Câu nói bâng quơ, mọi việc thay đổi là việc gì, việc nước, việc nhà, chuyện tình riêng tư hai đứa...? Hoàng không hiểu rõ ý nàng muốn nói. Mà cũng đâu cần hiểu rõ làm chi. Chàng ngồi im, nàng cũng ngồi im. Trong im lặng, chàng lắng nghe tiếng nói mơ hồ của trái tim run rẩy, bao giờ cũng vậy, mỗi lần gặp Hạnh nhìn thấy ánh mắt, nghe được nụ cười, chàng cảm thấy sung sướng, bồi hồi, xao xuyến, ấm áp, ngay cả khi nàng có Nguyên, ngay cả bây giờ... Cái đó có phải là tình yêu, không phải là tình yêu? Yêu nhau có cần phải thành chồng vợ? Mà tình yêu là gì, cho đến từng tuổi nầy, chàng vẫn còn chưa biết. - Anh Nguyên định vừa đi làm vừa đi học lại. Cũng may công ty anh Hưng đang thiếu người. - Như vậy tiện lắm, nghề nghiệp cũ của Nguyên bên nầy vẫn còn dùng được. Còn em thì tính sao? - Em học dở lắm, anh dạy em thì biết mà. Hạnh nhìn chàng, cũng ánh mắt có đuôi như ngày xưa nhìn chàng trên bục giảng. Cõi lòng Hoàng chừng như xô dạt theo sóng mắt. Thầy vẫn dạy bài Việt văn năm cũ, như ngày xưa riêng đôi mắt em nghe. Câu thơ được viết ra từ lâu lắm, trên hai mươi năm trước. - Chắc là em theo phụ chị Nguyệt ở phòng răng. Chàng không biết nói gì hơn : - Ờ ờ, vậy thì cũng tiện.
Hạnh lập gia đình trước Hoàng độ hai năm. Nguyên, chồng Hạnh khá đẹp trai, cao lớn, học giỏi, gia đình lại giàu nhứt nhì ở tỉnh nhà. Ở trường, chàng học dở hơn Nguyên, ra đời, chàng thành công thua Nguyên, cái gì cũng thua hết, rồi cho tới khi yêu Hạnh, chàng cũng thua Nguyên một bước. Nhưng chàng thường tự hào, tình yêu chàng dành cho Hạnh nhiều hơn. Hoàng đã từng nói với Hạnh như vậy. Nhưng tình yêu nhiều hay ít làm sao mà cân đo cho được, bao nhiêu gọi là nhiều, bao nhiêu gọi là ít, chàng vốn rất dở toán nên tính hoài không ra. Tại sao Hạnh khóc lóc, ủ ê, buồn bã, rõ ràng là nàng thương chàng thiệt mà lại làm đám cưới với Nguyên, Hoàng không hiểu và thiệt tình không hiểu. Mấy thằng bạn thân biết chuyện, chọc quê - không phải mầy thua thằng Nguyên một bước đâu, chỉ có nửa bước thôi... Ừ, cho dầu chỉ có nửa bước hay nửa tấc, cũng là thua. Thua cay thua đắng, thua ngọt thua ngào! Trên cõi đời nầy, Hoàng chưa hề ghét ai nhưng sao lại tự nhiên đâm ra ghét Nguyên. Từ đó tới sau, hễ gặp ai hình dáng giống Nguyên, đẹp trai giống Nguyên, nghề nghiệp như Nguyên, giàu có như Nguyên là chàng bực bội khó chịu vô cớ, cũng không biết tại sao! Chàng bị mặc cảm thất bại, cố ý lánh mặt vợ chồng Hạnh, nên từ đó đến nay do tình cờ đưa đẩy, là buổi gặp gỡ lại nhau lần đầu. Sau những hàn huyên về cuộc sống quê nhà, trên đường vượt biển, ở trại tỵ nạn, chuyện đói chuyện no, chàng cố tránh đá động chuyện tình cảm riêng tư cũ bởi vì qua bao năm tháng, vết thương tạm coi như đã lành lặn. Mà thực sự đã lành chưa? Làm sao biết được. Hiện tại bây giờ còn gì để nói gì, chàng bâng quơ : - Tụi em lập gia đình trước anh chị hai năm, sao không tính chuyện có con cho vui cửa vui nhà. Thằng Bi anh năm nay ba tuổi rồi. Trong nhà có con nít tuy cực mà vui lắm... - Em cũng muốn có con lắm nhưng mà... anh Nguyên... Nói tới đó Hạnh ngập ngừng và bỏ lửng nửa câu, rót tiếp trà vô tách, vài giọt rơi bắn ra bàn. Tách trà sủi bọt li ti và hình như có chút xíu run rẩy, vụng về trong cánh tay rót. Chàng ngước mắt nhìn Hạnh để chờ những lời tiếp theo nhưng Hạnh đã ngưng ngang câu nói nửa chừng và chàng nghe chừng có tiếng thở dài buồn bã... Hạnh ngồi đối diện và không nói. Tiếng máy lạnh kêu rè rè nghe thật rõ trong nỗi im lặng kéo dài. Chàng nhớ lại câu nói - em cũng muốn có con lắm, nhưng mà anh Nguyên... Tại sao tới đây Hạnh lại ngưng - nhưng mà Nguyên ra làm sao... tiếc quá, chàng không phải là bác sĩ nên không biết tại sao vợ chồng lại không có con được? Muốn lắm, tại sao lại không có được? Nhiều câu hỏi trong đầu, hay là Hạnh bị bịnh? Hạnh và Nguyên không hoà thuận?... nhưng mà anh Nguyên... hay là Nguyên có vấn đề?
Hoàng xua đuổi liền ý nghĩ xấu đó ra ngay khỏi đầu. Chàng không có quyền nghĩ bậy cho Nguyên, không được, tuyệt đối là không được, lúc nào chàng cũng phải cầu mong cho Hạnh được hạnh phúc. Tuy vậy chàng vẫn thắc mắc hoài, Nguyên ra làm sao? Tại sao kỳ cục vậy, thôi đừng thèm nghĩ nữa cứ cho là tại định mạng, chắc là số hai vợ chồng Hạnh không có con được... Hạnh ngồi im và chàng cũng ngồi im. Mỗi người một ý nghĩ tình cảm sâu kín riêng tư. Dòng sông đã chia làm hai nhánh, mỗi nhánh chảy nhịp mau chậm khác nhau. Đâu còn nhánh hy vọng nào gặp lại ở cuối biển trời thương nhớ. Tiếng xe Đức đã về trước cửa. Tới lúc phải từ giã rồi. Hoàng đứng dậy và Hạnh cũng đứng theo. Ra tới cửa, chàng nói lời mừng Hạnh tới bến bờ tự do và cầu mong hai vợ chồng Hạnh sớm ổn định và chúc mọi sự may mắn. Chàng nghĩ là Hạnh sẽ cám ơn và gởi lời thăm Liên và cháu Bi. Nào ngờ nàng không nói như vậy. Khi ra tới cổng và dừng lại để chào lần nữa thì Hạnh đi sát chàng, kề tai nói trong hơi thở, tiếng mỏng nhẹ êm ái như tơ : - Anh có hạnh phúc không ? Hoàng chợt bủn rủn và đầu óc quay cuồng. Câu hỏi đơn giản như vậy mà hồi nào tới giờ chàng không nghĩ tới. Chàng có hạnh phúc hay không? Có hay không, có hay không? Chàng sực nhớ tới Liên và thằng Bi đang ở nhà. Vui lắm, có thiệt vậy không? Liên, người vợ đẹp đẽ, rất đàng hoàng, có tư cách nhưng tánh tình rất nghiêm trang, khá cứng cỏi và lại ưa cằn nhằn. Chuyện lớn chuyện nhỏ gì thì cũng cằn nhằn được, khi mới quen nhau thì nghe cũng vui vui nhưng lâu dần nghe hoài đâm khó chịu, nghe thêm nữa thì nhức đầu. Tánh Hoàng thì xuề xoà, thích bè bạn và hay giễu cợt, bông đùa, trong gia đình hoặc gặp gỡ bạn bè thân tình ưa kiếm chuyện nói bậy nói bạ cho vui... Hai vợ chồng thường khác tánh ý nhau. Nhiều khi gặp chuyện bực bội thì mỗi người vô phòng riêng đóng kín cửa lại, im lìm, không nói năng, chưa hề có chuyện cãi vã, la lối hay to tiếng như các cặp vợ chồng khác. Hoàng và Liên đã ở khác phòng, như vậy lâu lắm, một thời gian khá dài. Bên ngoài nhìn vô, bạn bè ai cũng cho là gia đạo hoà thuận, ấm êm. Chàng im lặng đầu óc rối beng, nói đi, nói đi, nói đi, trả lời câu hỏi đi, dễ quá mà, chỉ cần nói, hoặc có hoặc không, thiệt là gọn và dễ. Hạnh đứng im lặng bên cổng, dáng vẻ tuy lạnh lẽo cô đơn nhưng đầy e ấp, cặp mắt to đen bóng như sơn mài mơ hồ huyền hoặc đang nhìn chàng, như chờ đợi, như dò hỏi, vẫn cái nhìn xa dài và sâu thăm thẳm... Bụi mẫu đơn bên tường đong đưa những chùm hoa lớn đỏ, nắng buổi trưa thiệt đẹp nhưng con đường ra xe trước mặt chàng thấy hình như quá dài...
Cuối cùng Hoàng vẫn không đáp được lời nào, lên xe khoát tay từ giã Hạnh và kể từ hôm đó chàng nghĩ là mình mắc nợ Hạnh câu trả lời, câu hỏi sao mà khó quá. Món nợ vô hình nầy sẽ không bao giờ trả được và mãi mãi.
Võ Kỳ Điền . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Tue Nov 12, 2019 10:56 am | |
| . ÁNH SÁNG CUỐI ĐƯỜNG HẦM - Phan Xuân Sinh
Sau khi lên ngồi phía sau xe taxi, Hiền nói với người tài xế: “Tôi muốn đi tìm nhà người quen ở Thanh Khê. Lâu quá rồi tôi không đến đây nên chỉ còn nhớ mang máng. Từ ngã ba Thanh Khê vào một con hẻm lớn chừng hai trăm thước, rồi lại quẹo phải chừng năm mươi thước, căn nhà đó nằm bên phải. Người bạn tôi tên Lượm, dân cố cựu vùng nầy. Nhờ anh tìm giùm. Anh đừng lo, tôi sẽ bồi dưỡng cho anh hậu hỉ”. Người tài xế hỏi lại: “Thế chị không tới đây từ bao lâu rồi?” Hiền trả lời, hình như đã tính trước: “Chừng mười lăm năm” “Mười lăm năm, biết bao nhiêu vật đổi sao dời, sợ rằng mọi vị thế đều thay đổi, nhận không ra. Hy vọng anh ấy là dân sống ở đây lâu năm thì hàng xóm láng giềng biết sẽ chỉ cho chị, hy vọng không khó lắm”.
Người tài xế cho xe chạy ra đường Hùng Vương, con đường huyết mạch của Đà Nẵng ngày xưa, xe cộ tấp nập nhưng chị không để ý, suy nghĩ miên man. Chị quyết tâm gặp lại Lượm và đứa con gái của chị, sau mười lăm năm chị vượt biên biệt tích, không có một tin tức nào về cha con họ. Dù Lượm có sỉ vả mắng nhiếc chị, có xua đuổi thì chị cũng phải gặp họ để nói một lời xin lỗi, để nhìn lại đứa con gái mà khi chị ra đi nó chỉ mới bốn tuổi.Đứa con mà bao nhiêu năm sống cơ cực ở quê nhà, chị không gửi một đồng bạc nào về cho con bởi lòng ích kỷ vì sợ Lượm sẽ bắt liên lạc, gây khó khăn cho chị. Trong lúc chị muốn tránh tất cả, để mọi người nghĩ rằng chị đã chết. Khi ra đi trong lúc Lượm còn trong trại cải tạo, gia đình nghèo khổ, tất cả đồ đạc trong nhà đều bán sạch. Cũng vừa lúc đó có những chuyến vượt biên bán chính thức dành cho người Hoa, chị được một người đàn ông quen biết đề nghị giúp chị với điều kiện chỉ một mình chị đi, con phải để lại. Chị đắn đo bao nhiêu ngày, nếu ở lại với tình trạng nầy mẹ con đều chết đói, chi bằng gửi con về bên nội rồi qua đến Mỹ chị gửi tiền về nuôi con. Chỉ có một con đường nầy giải quyết ổn thỏa bức bách về sự sống còn của chị và con. Thế nhưng oan nghiệt thay…
Xe ngừng trước một con hẻm, tài xế quay qua nói với chị: “Đã đến nơi, chị cứ ngồi trên xe, để tôi xuống hỏi những người quanh xóm nầy có biết ông Lượm còn ở đây không?” Chị nhìn quanh nhưng không thể nhận ra có cái gì quen thuộc mà trước đây chị sinh sống. Mọi vật đều thay đổi xa lạ. Tự nhiên chị hồi hộp, tim chị đập mạnh không biết chuyện gì sẽ xẩy ra với chị khi đứng trước mặt anh. Bây giờ chị mới thật sự thấy lo lắng. Chị lấy kính đen ra mang để mọi người trong xóm nầy không ai nhìn ra được chị, người đàn bà có một thời gian dài sống ở đây. Làm sao chị có thể bước xuống xe đi bộ vào con hẻm trước bao nhiêu cặp mắt soi mói nhìn mình. Có phải chăng đây cũng là một hình phạt về cái chuyện mình đã gây ra cho cha con họ. Vì sự ích kỷ của mình, vì gặp một hoàn cảnh nhục nhã mà mình không muốn cho cha con họ biết, nên mình đã cắt đứt liên lạc với chồng con, để bây giờ mọi chuyện đều ngỡ ngàng, cảm thấy xấu hổ. Người tài xế trở ra nói với chị: “Anh Lượm còn ở đây, nhưng không có ở nhà, đang bán phở ngoài đường cái. Tôi đưa chị ra đó”. Xe chạy ra đầu hẻm thì ngừng, quán phở nằm bên kia đường. Chị ngồi trên xe nhìn qua quán phở nhận ra anh ngay. Anh đang đứng phía sau nồi nước lèo đang bỏ bánh phở vào tô cho khách. Vẫn bộ râu mép rậm rạp, vẫn nụ cười luôn luôn trên môi mà ngày xưa anh đã chinh phục chị. Chỉ khác một điều là ngày xưa anh là một phi công, còn bây giờ anh là người bán phở. Chị ôm mặt cúi đầu khóc nức nở, thương cho anh quá nhưng bây giờ làm sao đây. Tóc anh nhuốm bạc, da sạm, đôi gò má hóp đủ biết anh sống trong cơ cực, bần hàn, thế mà bao nhiêu năm nay chị không chi viện một đồng bạc nào cho anh và con để sống. Nghĩ tới sự bạc tình của mình, chị cảm thấy xấu hổ. Làm sao cha con anh không oán trách? Người tài xế hỏi chị: “Chị xuống xe, hay còn đi đâu khác?” “Anh cho tôi xuống đây”. Rồi chị móc ví trả tiền xe, không quên gửi tiền thêm cho tài xế.
Chị vào một quán nước đối diện với tiệm phở của anh bên kia đường, tìm một chỗ ngồi thích hợp để nhìn qua. Chị phân vân không biết làm cách nào để gặp anh, trong lúc khách khứa còn ra vào. Chị gọi một ly café đá rồi hỏi chuyện người bán quán: “Tiệm phở bên kia đường bán có khá không chị?” “Phở bình dân rẻ tiền, bán cho khách lao động quen biết, kiếm đủ sống?” Chị muốn hỏi về đứa con gái của chị, nhưng không biết cách nào chị phải hỏi một cách lòng vòng, mông lung: “Có một mình anh đó đứng bán, không có ai giúp anh ấy sao?” “Trước đây thỉnh thoảng có đứa con gái phụ với cha, bây giờ nó đi học xa chỉ một mình ổng làm”. Chị ngạc nhiên: “Bộ ở đây không có trường sao mà phải đi học xa?” “Con bé học giỏi lắm. Lên đại học, ở đây không có ngành đó, nên nó phải vào Sài Gòn”. Chị cúi mặt thoáng một vẻ vui mừng. Chị nói một cách bâng quơ: “Bán phở bình dân mà nuôi con lên đại học, giỏi thiệt”. Người bán quán dừng tay pha café, nhìn chị như soi mói và trách móc một cách nhẹ nhàng: “Ông đó có vợ đi Mỹ nhưng biệt tích, nghe nói bà ta có chồng khác không giúp gì cho cha con ông ấy hết. Tệ thật”.
Một lời cố ý hay vô tình đã làm cho chị thấm đau. Một người dưng bên ngoài không ở trong cuộc, nhưng thấu hiểu được hoàn cảnh của cha con anh, lời của họ như muối xát vào mặt chị, huống gì cha con anh làm sao tránh được sự phẩn nộ? Chị tự hỏi có nên gặp anh ngay bây giờ không? Chị có chịu nổi sự chửi bới nặng nề của anh giữa lúc tiệm đang có khách, có mặt những người lạ. Chị hỏi người bán café: “Quán phở bên kia mấy giờ mới đóng cửa?” “Sắp đóng cửa bây giờ. Quán chỉ bán buổi sáng và trưa, hai giờ chiều đóng cửa để ông ấy đi chợ lấy hàng về nấu, chuẩn bị cho sáng mai. Ngày nào cũng vậy, tội nghiệp”. “Anh ấy không lấy vợ khác sao?” “Ông ấy bảo rằng mình nghèo quá không lo cho người ta trọn vẹn, làm khổ thêm một người nữa, mình không đành. Thôi ở vậy nuôi con. Ông ấy cũng có nhiều bà thương, cũng có bà lắm của nhiều tiền, nhưng ông không màng tới, hình như ông sợ chuyện lấy vợ. Một con chim bị thương nên sợ hãi tiếng bật của cung”.
Chị cúi xuống, khóc nức nở như có ai thọc trúng yếu huyệt. Sau cơn giằng xé con tim, chị gỡ kiếng đen ra lấy khăn lau nước mắt. Ngày xưa anh đẹp trai, một trung úy phi công bay bướm. Nhưng khi kết hôn với chị, anh từ bỏ tất cả các thú vui về sống với vợ con. Lương trung úy của anh cộng với lương giáo viên của chị, hai vợ chồng không giàu có nhưng sống thoải mái. Những ngày sống với nhau thật hạnh phúc, buổi chiều anh chở vợ con trên chiếc xe lambretta đi hóng mát trên bờ sông Hàn. Thứ bảy gửi con cho bà ngoại, vợ chồng đi xem ciné hay nhảy đầm. Một khoảng thời gian ngắn đó đã cho chị hiểu được thế nào là hạnh phúc, mà suốt cuộc đời sau nầy chị không thể nào tìm lại được. Chính chị là người đánh rơi mất cái hạnh phúc tuyệt vời đó, chối bỏ chồng con, chạy theo một thứ danh lợi phồn hoa. Đày ải anh và con lâm vào cảnh bần cùng tồi tệ. Chị nói thật với người bán café: “Tôi là vợ của anh Lượm trước đây và là mẹ của cháu Hậu. Không ngờ rằng tôi đã gây ra nhiều oan nghiệt cho cha con họ quá. Chính tôi cũng không thể tha thứ cho lầm lỗi của mình, thì làm sao tôi đòi hỏi chồng và con tôi tha thứ cho tôi được”. “Tôi không ngạc nhiên, vì Hậu giống bà như đúc. Khi nghe bà hỏi thăm ông Lượm là tôi có linh tính đoán ra được bà là vợ của ông ấy trước đây. Bà cứ qua đó gặp ổng, chắc ông mừng lắm”. “Không đâu. Tôi nghĩ anh ấy có thể giết tôi cho hả giận, nhưng tôi không sợ. Có lẽ như vậy tôi cảm thấy thanh thản hơn”.
Chị trả tiền café, đứng dậy, cám ơn, rồi băng qua đường. Người bán hàng nhìn theo chị vừa lo lắng, vừa thương hại, và cũng vừa có chút trách móc. Anh đang chuẩn bị đóng cửa tiệm, chị bước tới đứng phía sau, gọi khẻ: “Anh Lượm”. Anh quay lui, sững sờ, mắt anh sáng rực, đôi mày anh nhíu lại, rồi anh thốt lên: “Hiền đó à, khỏe không em?” Em không muốn anh hỏi em như vậy. Hãy tát vào mặt em, chửi rủa hành hạ em và nếu cần có con dao thái thịt trên bàn, anh có thể chém em một nhát. Em sẳn sàng tất cả rồi, phải dùng những phương tiện tồi tệ nhất đối với em chứ đừng nhỏ nhẹ với em như vậy. Em không có quyền nhận sự mềm mỏng, sự tha thứ nào của Anh và con… “Hiền vào quán, anh khóa cửa. Chúng ta nói chuyện không có ai quấy rầy” Chị nhìn quanh cửa tiệm, vỏn vẹn có năm cái bàn nhỏ, một quày tính tiền, hai bếp lò than kê sát vách tường. Một quán phở bình dân dành cho dân lao động. Tài sản sơ sài của anh khoảng chừng một trăm dollars, thế mà nuôi con ăn học đàng hoàng. Chị kéo ghế ngồi vào bàn, hai tay chống trên bàn mặt cúi xuống, chị gỡ kính ra lau nước mắt, nhưng nước mắt cứ trào. Chị khóc cho ai, cho chị hay cho anh? Chị không còn phân biệt được, nhưng có một điều nước mắt sẽ làm cho người đàn ông phấn chấn và xiêu lòng. Anh kéo ghế ngồi đối diện, không nói một lời, nhìn chị khóc cho hả bớt sự tức tối, đay nghiến chính mình. Sau một hồi lâu, anh mới lên tiếng: “Em đừng chống tay lên bàn dơ tay áo. Hôm nay anh chưa lau bàn”. “Anh đừng lo, cái dơ bẩn nầy nhằm nhò gì cái dơ bẩn của em đang mang trong người. Mọi người biết chuyện đều xa lánh khinh bỉ em, chửi rủa mắng nhiếc em. Còn anh, sao anh lại tiếp em, không hành xử thô bạo với em, để cho hả dạ mà em đã gây ra cho anh…” Anh nhìn chị rồi cười: “Như vậy thì ích gì cho anh? Thú thật với em, từ lâu anh không còn biết giận hờn là gì cho nên lòng anh mới được thanh thản. Nếu cứ mang hận thù mãi trong người, chồng chất cái nầy lên cái kia, đến bây giờ chắc nó đã dìm anh chết mất. Nhưng thôi, lâu quá mới gặp em, nói chuyện khác cho vui”. “Chuyện gì với em cũng không thể vui được. Từ khi ngồi trên máy bay em khóc mãi cho đến bây giờ. Em nghĩ gặp anh, em sẽ bị xua đuổi, sẽ bị nguyền rủa thậm tệ. Em đã chuẩn bị những tình huống xấu nhất. Dù thế nào, dù có chết em cũng phải gặp anh và con, để cho em thấy được mặt, rồi sau đó ra sao cũng mặc”. “ Cái gì mà ghê gớm đến thế. Tụi mình cũng đã bắt đầu mấp mé đến tuổi già, không bằng lòng cái gì thì nói với nhau, gây cho nhau khó khăn để làm gì? Con Hậu nó đi học ở Sài Gòn, em cần thì anh cho địa chỉ để vào gặp nó. Còn anh bao giờ cũng vậy, tà tà sống qua ngày, không còn bị ràng buộc những bon chen, những tranh giành. Bây giờ anh không còn gì để mất, một cơn bão đã bật tung cội rễ, một canh bạc đã làm khánh tận. Có ngồi than thân trách phận cũng chẳng được gì. Chi bằng mình gạt bỏ tất cả để sống cho mình, cho con. Đủ rồi”.
Chị ngồi trước mặt anh, cách nhau một cái bàn, có thể nắm lấy tay nhau được. Thế nhưng sao hai người có một khoảng cách rộng lớn quá. Anh sống cho mình, cho con, nhưng chị cứ nghĩ anh đang sống cho tha nhân, lòng anh mở toang. Anh rộng lượng như Bồ Tát, tính tình anh thay đổi một cách lạ kỳ. Ngày xưa chị khiếp sợ trước cơn giận dữ của anh, đôi mắt anh sáng quắc nhìn chị như ăn tươi nuốt sống. Chị tránh nhìn vào đôi mắt đó, hình như nó có một cái gì đó làm cho chị khiếp sợ, thuần phục. Thế nhưng sau cơn giận, bao giờ anh ôm chị rồi xin lỗi chị trước. Còn bây giờ cũng đôi mắt đó sao nó có vẻ lung linh dịu hiền, có một thần lực sâu kín, một cái nhìn vị tha. Còn chị, chỉ biết bo bo sống cho mình, hẹp hòi, ích kỷ. Luôn luôn nghĩ tới lợi ích, chà đạp lên tất cả, bất chấp dư luận. Chị đã ruồng bỏ chồng con, xem như họ không có mặt trên cuộc đời nầy. Chị quên họ để dễ bề tái lập một cuộc sống mới cho đở hổ thẹn với lương tâm. Mà làm gì có lương tâm khi con người không còn tình thương yêu đồng loại, đừng nói gì đến tình máu mủ ruột thịt. Anh đang ngồi bên kia đối diện. Cái áo thun cũ mèm, chiếc quần tây mốc thếch, đôi dép Nhật mòn lẳng. Vẫn đôi lông mày rậm rạp, mái tóc muối tiêu bềnh bồng một chút phong trần, vẫn hồn nhiên tươi cười, thanh thản. Một tấm lòng rộng lượng. Trông anh sao oai vệ, lớn lao quá. Còn chị, trong bộ áo quần đắt tiền, sang trọng. Khuôn mặt hồng hào trắng trẻo. Sao chị vẫn cảm thấy mình thấp hèn và u tối quá. “Anh thù ghét em, khinh bỉ em, phỉ nhổ em… anh làm đi, hãy làm đi để em được thấy mình bị trừng phạt, bị nguyền rủa. Em không mong anh và con tha thứ, mọi thứ nầy em không xứng đáng nhận lãnh. Về đây, em chỉ mong thấy được anh và con, rồi em có chết cũng thỏa lòng”. “Tại sao em phải đày ải mình như vậy để làm gì? Được em còn nhớ tình xưa đến thăm cha con anh, đó là diễm phúc lắm rồi. Chúng ta không còn nợ gì với nhau, hãy để mọi chuyện yên nghỉ. Nếu em còn ở đây thỉnh thoảng đến thăm anh, còn vào Sài Gòn thì đến thăm Hậu, nếu em có thì giờ. Cuộc sống của cha con anh như một cổ máy vận hành đều đặng, mười mấy năm không ngơi nghỉ. Em về, tự nhiên anh cảm thấy có một chút giao động, cuộc sống như chựng lại. Hy vọng mọi chuyện sẽ trở lại như cũ”. “Có phải chăng đó là lời cảnh cáo? Đừng làm phiền anh phải không?” Anh nhìn đi chỗ khác: “Em nghĩ sao cũng được, bây giờ không phải lúc tranh cãi những chuyện vu vơ. Anh không nói như vậy. Nhưng nếu em nghĩ như vậy thì cũng chẳng sao. Từ lâu anh sống trong cô đơn quen rồi, em về khuấy động lòng anh không ít. Dù có dửng dưng thì cũng bị một cái ”sốc”. Anh thấy tủi thân. Hay là em đừng tới nữa, để anh yên vị với cách sống xưa nay của mình”. Chị bật khóc nức nở, anh đã thẳng thừng đuổi chị nhưng chị cảm thấy như vừa lòng. Bây giờ chị mới nhận được một chút hất hủi, ít ra nó phải mang một cái gì đó thể hiện sự trừng phạt.Mười lăm năm, anh đã đắng cay trong cực khổ, chờ vợ thương tình gửi cho một ít tiền nuôi con, vợ lờ đi. Anh bữa đói bữa no, hy sinh cho con. Những nhọc nhằn trong thời kỳ khó khăn đó, anh không quên được. Bây giờ đời sống đã tạm ổn dù vẫn nghèo khó, vẫn chật vật, nhưng không ở trong tình trạng bức bách như hồi trước. Anh tự cảm thấy bằng lòng với mình. Mỗi tháng gửi cho con một ít tiền ăn học, dặn dò con cố gắng dè xẻn trong số tiền ít ỏi đó. Tội nghiệp con bé, biết cha khổ cực nên không dám tiêu một đồng bạc nào phung phí. Con bé nói với cha nhiều lần là nó phải học. Chỉ có học sau nầy mới giúp được cha thoát khỏi cái cảnh nghèo khó. Con bé khôn lanh từ nhỏ, đã lăn lóc với cha trong mưu sinh, trưởng thành trong chật vật, nên hiểu cái giá trị đồng tiền tạo ra từ mồ hôi, từ khổ nhọc. Chính vì vậy nên anh cũng yên lòng khi phải xa con.
Sau khi những xúc động, những ngỡ ngàng gặp lại nhau trôi qua. Bây giờ anh nhìn chị một cách kỹ càng, để xem một con người hiền hậu, thương yêu chồng con của thủa nào, sau một thời gian ngắn đến Mỹ, đã chối bỏ quá vãng của mình một cách dễ dàng, ruồng bỏ chồng con. Anh lắc đầu, không thể hiểu nỗi lòng dạ con người, khéo léo che đậy bên trong một sự phản phúc thối tha. Cái nhận xét của anh có trung thực không? Có cay nghiệt không? Hay anh là một nạn nhân của hoàn cảnh nên phán xét sự việc nghiệt ngã như vậy. Anh đã cố quên đi những uất hận, những khổ đau của một con người sống cô thế nghèo hèn, bằng lòng với những gì mình tạo ra được, cuốn mình trong cô đơn. Từ lâu đã quen sống trong một môi trường chật vật, không còn tha thiết đến chuyện lập lại gia đình. Anh ngán ngẩm với lòng người. Khi mới học tập trở về, nghe tin vợ đến Mỹ, anh mừng lắm. Như vậy đời sống của cha con anh có một tia hy vọng, sẽ được vợ trợ cấp, rồi một ngày nào đó sẽ được vợ bảo lãnh. Thế nhưng năm nầy qua năm khác, trông ngóng dài cổ vợ vẫn biệt vô âm tín. Cha con anh sống trong khổ cực, trong thiếu thốn phải cắn răng chịu đựng. Tất cả các ước mong trong anh đều tan biến, không còn một tia hy vọng nào. Cũng may, giữa lúc khó khăn như vậy thì một người bạn được gia đình bảo lãnh đi Mỹ, bán lại tiệm phở bình dân nầy bằng cách trả góp. Một cái phao vớt anh ra khỏi sự ngụp lặn trong bon chen, dù nó không đắt khách lắm nhưng sau khi trang trải mọi thứ, cha con anh cũng có một cuộc sống tạm ổn. Anh nói với chị: “Con Hậu giống em như tạc, nhưng nó không hiền hậu khéo léo bằng em. Nó sống với cha từ nhỏ nên tính tình của nó cứng rắn, dứt khoát”. Không hiền hậu khéo léo bằng em, sao anh không nói nó không điêu ngoa, không lừa lọc như em. Để em dễ dàng nhận thấy mình còn được một diễm phúc, là con em ít ra nó khác xa mẹ nó về tính nết, về xử sự, về nhân tính…Anh đã ném cho em một cục đường, mà khi nuốt vào mắc ngang cổ họng. Cái đau của sự ngọt ngào nầy như một chất cường toan thiêu đốt em. Sao anh vẫn còn đối xử với em nhẹ nhàng để làm gì? Khi mà em muốn mọi người phải hành hạ em, phải chửi rủa em. Mười lăm năm nay em chưa thấy mặt con, nhưng em biết nó là một đứa bé ngoan, một mình đi xa trọ học, quyết tâm thay đổi cuộc sống khá hơn sau nầy, để giúp cha thong thả trong tuổi già sức yếu. Nội cái suy nghĩ đã đượm cả một nhân sinh quan đạo đức đó thôi, đủ biết nó sống hết mình với thân thuộc. Hậu là con em, nhưng bỏ xa một khoảng cách dài trong quan niệm sống của em. Nó rộng rãi với người thân bao nhiêu thì em nhỏ nhen ích kỷ bấy nhiêu. Quả thật em không còn xứng đáng một người mẹ, nhưng cũng may cho em, an ủi được em là con em đang là một thiên thần, trong lúc em đã là một quỷ sứ. “Em à, anh phải đi chợ chiều nay, rồi về nhà nấu, để ngày mai dậy sớm bán hàng. Bây giờ đã trễ quá rôi, sợ người ta không chờ mình được”. “Anh có thể đóng cửa vài hôm được không? Em năn nỉ anh, cho em xin một cơ hội được gần anh với con vài ngày. Rồi sau đó em sẽ ra đi không còn làm phiền lòng anh nữa”. “Anh nghĩ, chúng ta đã trao đổi với nhau đủ rồi, cái gì cần thì đã nói. Không cần phải kéo dài ra thêm để làm gì. Chân đã bước qua khỏi lằn ranh, không rút lại được. Tiếc nuối làm gì thì cũng vậy thôi”. Chị gục xuống bàn khóc. Cũng tiếng khóc nầy, cũng con người nầy mà ngày xưa khi giận dỗi chị vào buồng lên gường nằm khóc, dù có tức giận cách mấy nghe chị khóc anh không làm sao chịu được, nó rưng rức, nghẹn ngào đã làm cho anh xốn xang. Bao giờ anh cũng thua cuộc trước. Lấy khăn lau nước mắt, dỗ dành chị. Còn bây giờ, cũng tiếng khóc đó nhưng sao anh cảm thấy xa lạ. Nó không đánh động được lòng anh. Sao vậy? Mười bảy năm từ khi anh vào trại cải tạo, anh không còn được nghe chị khóc. Bao nhiêu năm xa nhau đã làm cho con người anh chai lì, không còn biết rung động, ngược lại anh thù ghét tất cả. Cũng may anh còn đứa con gái là chiếc phao cuối cùng anh vịn vào đó để sống. Những năm đầu, anh oán hận chị nhưng dần dần về sau nguôi ngoai, mang làm gì cái đó trong người cho thêm nặng nề. Tự nhiên cuộc sống được bảo hòa, anh cố quên đi tất cả để sống thoải mái an lạc. “Thôi được, anh treo bảng đóng cửa vài ngày vì bận việc gia đình, để khách khỏi phải đợi”.
Anh vẫn chìu chị, anh cứng rắn lắm kia mà, sao lạ vậy? Anh cũng không biết tại sao mình lại mềm lòng như thế. Chỉ vài ngày rồi chị ra đi, anh không nở khi chị trở qua bên kia mà còn mang trong lòng u uất, dù điều nầy xứng đáng với hình phạt bỏ bê chồng con của chị. Thôi, mọi chuyện đâu vào đấy. Gây thêm làm gì những rắc rối cho người khác. Anh phân vân có nên gọi Hậu về thăm mẹ, hay để mẹ vào Sài Gòn rồi đến thăm con. Hậu là đứa con gái cứng đầu, thù ghét dai dẳng chắc gì nó tiếp mẹ, mặc dù nó cần có mẹ. Anh đề nghị với chị nên đánh điện tín gọi Hậu về, dù gì có anh bên cạnh nó cũng không dám đay nghiến mẹ hay lở lời với mẹ. Anh về nhà tắm rửa thay đồ rồi lấy chiếc xe honda cà tàng của mình chở chị ra bưu điện. Chiếc xe nầy thuộc loại cũ mèm, khi qua tay anh nó chưa có hân hạnh chở người, mỗi ngày anh dùng nó chở thịt, bánh phở, rau v.v.. mọi thứ cho tiệm phở của anh. Đây là lần đầu tiên chở người. Sau khi suy nghĩ, anh đánh điện tín cho Hậu với nội dung: “Hậu, Ba đau nặng. Mua vé máy bay về gấp”. Sau hơn mười bảy năm, bây giờ chị mới ngồi phía sau xe anh chở. Chị cảm thấy thật hạnh phúc, tay chị ôm ngang lưng anh, đầu tựa vào vai, chị được ngửi lại mùi da thịt quen thuộc của những ngày êm ả thủa nào. Chị cảm thấy thương quá, thân hình anh ốm o, vóc dáng như nhỏ lại. Ước gì hai tay chị được ôm siết anh thật chặt như ngày xưa, cái mơ ước thật nhỏ bé, thật đơn giản, đang ở trong vòng tay chị. Thế nhưng nó quá xa vời, chị không đủ can đảm tiến tới thêm, hình như nó đang có một lực cản mà chị không tiến tới được, vừa xấu hổ vừa quý trọng đang âm ĩ trong người chị. “Em có cần đi đâu nữa không?” “Anh chở em đi vòng thành phố một chút được không? Em muốn nhìn thấy lại thành phố”. Anh không thấy gì ở chị một sự thay đổi, vẫn nhỏ nhẹ như ngày nào, vẫn còn thùy mị mà sao trong lòng chị thay đổi nhiều như vậy. Anh không muốn hỏi về gia đình của chị ở Mỹ, vì anh sợ đụng tới một sự thật phủ phàng. Thôi hỏi để làm gì, khi mà mọi thứ đều nằm ngoài tay với, biết để rồi ấm ức chứ ích gì. Anh đưa chị đi những nơi mà ngày xưa vợ chồng hay lui tới, khung cảnh tuy có đổi khác, nhưng trong lòng của hai người vẫn còn đọng những dấu ấn. Chị xin anh cho chị về nhà ở vài ngày được không, để chờ con Hậu về rồi tính sau. Anh phân vân, lại làm khó cho anh nữa rồi. Cũng may căn nhà anh mới xây lại năm vừa qua, tuy không tiện nghi nhưng cũng có nơi để chị nghỉ. Ghé qua khách sạn để chị lấy đồ đạc. Anh ngạc nhiên, đi bao lâu mà mang đồ nhiều quá vậy, bốn cái va-li và một cái xách tay, phải nhờ khách sạn gọi taxi chở đồ.
Khi xe về tới đầu hẻm, cả xóm chạy ra nhìn chị. Chị cảm thấy thẹn thùng, cúi đầu đi nhanh vào nhà. Chị còn nghe tiếng trằm trồ: “Bà đẹp quá, giống con Hậu như đúc”. Hàng xóm phụ anh mang va-li vào nhà, không quên chúc mừng anh đoàn tụ. Anh nghe như có cái gì mỉa mai, thấm đau. Có ai biết được nội tình của anh bây giờ. Vợ sờ sờ ở đó mà không phải của mình. Xa nhau lâu ngày khi gặp lại mà trong lòng vẫn bình lặng. “Tối rồi, em muốn ăn gì anh chở đi”. “Em ăn chay, mười lăm năm nay”. Anh nghe như có cái gì đó chói tai. Ăn chay mười lăm năm nay để rồi bỏ bê chồng con như vậy sao? Con người nầy càng gần càng thấy khó hiểu. Những người có tâm nguyện ăn chay thì phải hướng về những điều lương thiện. Việc của chị đối xử với cha con anh mười lăm năm nay không có chút lương thiện tí nào. Anh không thể nào hiểu nổi lòng dạ đàn bà. Hai ngày sau, Hậu về tới nhà. Bước vào cửa, Hậu nhìn thấy chị, kinh ngạc và biết ngay người đó là mẹ mình. Hậu quay mặt vào vách khóc nức nở, tiếng khóc mang nhiều suy nghĩ lẫn lộn: trách móc, thù ghét, mừng tủi v.v.. chị lại gần ôm con. Mười lăm năm bao giờ chị cũng nghĩ tới con, chính vì nó mà chị giữ lại mạng sống nầy. Ai hiểu được cái đau khổ tột cùng của chị. Nước mắt chị rơi trên vai con. Hậu nói trong nước mắt: “Từ lâu con cứ nghĩ mẹ đã chết”. “Vâng, chính mẹ cũng nghĩ rằng mẹ đã chết. Hãy tha thứ cho mẹ”. Khi ra đi, con mắt của con cứ đau đáu trông chờ chị. Mỗi ngày qua đi là mỗi ngày chị cầu nguyện cho chồng con chóng quên chị, xem như chị đã bỏ thây trên biển đông. Chị không liên lạc để cho chồng con nghĩ rằng chị đã chết. Nhưng mỗi lần toan tính quyên sinh là mỗi lần chị thấy đôi mắt của đứa con hốt hoảng nhìn chị, nên chị phải dừng lại ý định nầy. Thế mà chị không đủ can đảm bắt liên lạc với chồng con. Chị sợ rằng sẽ gây cho họ một sự đau khổ, một nhát chém trên lưng mà không bao giờ lành được. Mười lăm năm, chị không thể chờ thêm được nữa. Phải trông thấy được mặt con, mặt chồng rồi qua lại Mỹ quyết định mọi chuyện”. Chị ôm vai Hậu lay nhẹ: “Hậu à, cho mẹ xin lỗi. Về đây mẹ mới biết được một điều là ba và con hận mẹ, nhưng không xua đuổi mẹ. Rồi đây con sẽ hiểu mẹ hơn. Cho đến bây giờ mẹ vẫn ở vậy, không có gia đình. Làm sao mà tái giá được khi mà lòng mẹ bao giờ cũng nghĩ về ba và con. Nhưng thôi chuyện nầy sẽ nói với con sau”.
Anh giật mình nhìn sửng chị. Hậu nín khóc ngay, quay lui nhìn mẹ. Tất cả chờ đợi. Chị thong thả nói với con: “Mẹ không nói dối con. Mười lăm năm nay mẹ chỉ biết đi làm, về nhà tụng kinh rồi đi ngủ, ngày nào cũng vậy. Chỉ có cuối tuần đi chợ mua thức ăn. Mẹ nghĩ rằng Ba bây giờ đã có vợ khác. Không ngờ mọi chuyện không như vậy. Tội nghiệp, tất cả đều do mẹ”. “Thật hả mẹ, con mừng quá”. Chị ôm con vò đầu: “Trong bốn cái va-li mẹ mang về, áo quần của con và Ba. Còn mẹ đồ dùng chỉ trong xách tay. Qua lại Mỹ dần dần mẹ sẽ chuyển tất cả tiền về cho con và Ba tùy nghi. Đó là số tiền dành dụm mười lăm năm của mẹ”.
Thay Đoạn Cuối
Thưa chị Hiền, Chị đã kể cho tôi nghe câu chuyện của đời chị. Chuyện quá sức thương tâm của một người đàn bà bị dày vò bởi những nghịch cảnh trên biển đông, trong lúc vượt biển. Mà sau nầy không dám nhìn lại chồng con. Luôn luôn bị dằn vặt, ám ảnh bởi những hình ảnh dã man của một lũ người mọi rợ, dày xéo trên thân thể của những người đàn bà cô thế, vô tội. Làm cho nhiều người xem mình như đã chết, không dám nhìn lại những người thân, trong đó có chị. Có một điều, sau mười lăm năm chị mới tỉnh người và có một quyết định sáng suốt trở về gặp lại chồng con. Tôi không đủ chữ nghĩa để mô tả lại cái đau khổ tột cùng của chị, cái chờ đợi mỏi mòn của chồng con chị. Tôi là người ghi nhận vô cùng thiếu sót, mong chị lượng tình tha thứ. Song tôi nghĩ dù sao đi nữa câu chuyện nầy cũng làm cho nhiều người cùng hoàn cảnh thấy được chính mình, cho người khác thông cảm những mảnh đời oan ức của những người đàn bà bị làm nhục, bị dày xéo, đọa đày. Tôi nghĩ, tất cả mọi người nghiêng mình kính phục những người như chị. Đó là vấn nạn khổ đau chung của dân tộc chúng ta, trong một hòan cảnh bi đát của đất nước. Thế giới phải sửng sốt, lương tâm của những con người được đánh động và tình thương đã thắng. Tôi mong rằng chị sẽ được sống thanh thản với chồng con, với cộng đồng loài người và tự hào tình thương đã đùm bọc lấy nhau, san sẻ cho nhau và tương kính nhau để sống. Chúc chị và gia đình thành công trên bước đường còn lại.
Dallas, ngày 29 tháng 9 năm 2008. Phan Xuân Sinh . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Sun Nov 17, 2019 12:40 pm | |
| . Đôi đũa lệch - Nguyễn Thị Thanh Dương
Theo yêu cầu của một ông độc giả sau khi đọc truyện "Chồng già vợ trẻ" của Thanh trên diễn đàn này, ông độc giả muốn Thanh viết về đề tài "Vợ già chồng trẻ" cũng khá phổ biến thời buổi này. Thì đây, kính mời ông và các bạn cùng đọc...
*** Tôi đã thức giấc, nhưng sáng thứ bảy chẳng đi đâu mà vội, anh Bông chồng tôi vẫn đang nằm ngủ ngon lành bên cạnh. Tôi ít khi nhìn thẳng vào mặt người đang ngủ dù đó là chồng mình, người ta nói rằng nhìn mặt người đang ngủ chẳng khác nào nhìn trộm vào khỏang đời rất riêng tư của họ, nhưng tôi vẫn nhìn thấy anh đang ngoẹo đầu ngủ và mái tóc dầy thì bù xù lên như ổ qụa vì trở mình nhiều trên gối, mái tóc mà từ ngày mới lấy anh tôi đã thích được lồng những ngón tay tôi vào trong đó, nồng ấm và trìu mến yêu thương. Tôi rón rén cố gắng bò qua người anh và bước xuống giường, vì muốn để anh ngủ thêm được chút nào hay chút ấy. Với một thân mình “bề thế” như tôi mà xuống giường một cách êm ái, không làm anh thức giấc là khéo léo lắm. Bao giờ ngủ tôi cũng nằm trong theo thói quen từ hồi nào tới giờ, xưa còn bé tuy là chị cả, nhưng ngủ chung với các em tôi toàn lấy uy quyền làm chị ra để uy hiếp các em đòi nằm giữa hay nằm trong cùng vì sợ ma. Lớn lên tôi lấy chồng thì điều ấy không khó khăn gì, chẳng anh chồng nào đi tranh giành chỗ nằm trên giường với vợ cả, nhất là cô vợ luôn làm nũng vì sợ ma như tôi.
Tôi vào phòng tắm đánh răng rửa mặt xong ra bếp lo sửa soạn cà phê và món ăn sáng cho chồng. Anh Bông khó tính lắm, không đúng ý anh thì anh giận anh buồn, trái ngược hẳn với anh chồng Tư Chuột ngày trước của tôi, người luôn sợ tôi giận tôi buồn. Anh Tư Chuột lớn hơn tôi 20 tuổi, tưởng rằng tha hồ được làm nũng, được chiều chuộng thế mà tôi vất vả lắm vì phải hầu hạ anh quanh năm, người đâu mà động tí gió máy là ho là cảm, lúc nào cũng trùm khăn trùm áo và ăn kiêng đủ thứ như đàn bà mới đẻ thời bà nội bà ngoại tôi ngày xưa. Khi anh 60 tôi mới 40, trẻ trung và xông xáo tôi thích đi chơi xa, đi dạo phố thì anh Tư Chuột chỉ thích nằm nhà nghỉ cho khỏe. Tôi thích xem những phim tình cảm lãng mạn thì anh coi phim tài liệu chính trị hay di tích văn hóa của Việt Nam và thế giới, tôi thích nghe nhạc tình thì anh nghe nhạc cổ điển và hoà tấu cho… dễ ngủ. Buồn lắm, vì hai vợ chồng như hai con đường thẳng song song. Nhưng cũng may có một điều duy nhất tôi và anh “gặp nhau” là anh và tôi cùng làm ra tiền. Dòng dõi nhà anh là làm kinh doanh, nên ít nhiều cũng có dòng máu kinh doanh trong cái thân thể gầy còm yếu đuối ấy. Vào cái thời hoàng kim của thị trường chứng khóan anh chơi stock, thuở đó ai mua stock loại gì cũng thắng dễ dàng, gà mờ như tôi chơi thử và sau một đêm ngủ dậy thấy tài khoản mình lên hàng chục ngàn. Có nhiều tiền anh lấy ra kinh doanh địa ốc, mua shopping center và apartment. Anh vừa rút hầu hết tiền từ chứng khóan ra thì thị trường chứng khoán bắt đầu suy yếu dần. Không gì bằng trời cho, khi anh Tư Chuột thấy sức khỏe yếu thì bán bớt khu apartment chỉ giữ lại cái shopping center to lớn để dễ bề quản lý. Ai ngờ anh vừa bán xong apartment được cao gía thì địa ốc bắt đầu khủng hoảng, gía nhà cửa rớt xuống rẻ như bèo dạt, như lục bình trôi sông. Rồi anh Tư Chuột bị stroke năm anh ngoài 70 tuổi, nằm liệt giường 2 năm trời cho tôi hầu hạ anh mới chịu qua đời, và để cho tôi một gia tài không nhỏ. Đứa con gái duy nhất của chúng tôi đã lấy chồng khá giả nên tôi rảnh tay cả về tinh thần lẫn vật chất. Tôi vừa để tang anh vừa thảnh thơi hưởng cuộc đời độc thân. Thật là mệt nhoài khi mấy chục năm qua ở với anh chồng nay ốm mai đau ho hen kèn cựa, tôi luôn bận rộn như bà mẹ có con thơ. Nhưng sau 3 năm góa phụ tôi bỗng thấy mình còn khao khát tình yêu, gần 60 tuổi không còn trẻ nữa nhưng nhất định là tôi chưa gìa sau những năm dài trống vắng. Bạn bè giới thiệu cho tôi vài đám, ông nào trẻ lắm tuổi đời cũng từ 70 trở lên cho đúng ý tôi, nhưng tôi chưa chịu đám nào cả.
Một chị bạn thân của tôi còn cất công tìm đâu ra một ông cụ 80 tuổi và hớn hở giới thiệu với tôi: - Biết bạn lãng mạn thích chồng gìa để suốt đời mãi là người tình bé bỏng, để nương tựa tâm hồn, thì đây có ngay. Ngày xưa “anh” là một giáo sư đại học nổi tiếng ở Sài Gòn, đào tạo ra bao người tài giỏi cho đất nước. Anh giáo sư ôm một bó hoa tươi đến tặng tôi làm quen, anh run run lê từng bước một đến gần tôi trao hoa, đỡ xong bó hoa của anh, tôi phải đỡ cả anh, dắt tay anh ra tận ghế ngồi kẻo ngã, vì tôi nhận ra rằng chân anh run run vì bệnh tuổi gìa chứ không phải vì anh xúc động trong phút giây tao ngộ đầu tiên. Gặp anh giáo sư thông thái một thời, bây giờ lú lẩn nói trước quên sau, mắt mờ, tai điếc, lưng còng, tóc bạc phơ không loại thuốc nhuộm nào còn hiệu lực nổi. Tôi đã kéo chị bạn vào phòng nói riêng: - Chị ơi, em mà lấy ông này thì đời em sẽ phải hầu hạ còn vất vả hơn khi sống với Tư Chuột nữa. Thôi, chị dìu dắt ông ấy về nhà cho an toàn giùm em và khuyên ông ấy bỏ ý định đi thêm bước nữa đi, cái bước gần nhất là mộ huyệt sắp đến rồi.
Rồi anh Bông xuất hiện, anh không xa lạ gì với tôi, vì anh là một chuyên viên về thị trường chứng khóan, cố vấn đầu tư cho tôi và anh Tư Chuột trước kia, anh đã giúp chúng tôi gặt hái nhiều kết qủa tốt đẹp, gia tài chúng tôi tăng lên nhanh chóng. Anh hay tin muộn, đến thăm tôi để chia sẻ nỗi buồn anh Tư Chuột không còn nữa. Hiện nay anh Bông vẫn làm công việc cũ của anh là Mutual fund Manager dù không đắt hàng như ngày nào nhưng bề ngoài vẫn phong lưu để tạo tin cậy, để tương xứng khi giao tiếp với khách hàng là giới có tiền bạc trong tay. Tôi không thiết tha gì đến chuyện kinh doanh tiền bạc nữa, nhất là thời buổi kinh tế bấp bênh này, thị trường chứng khóan bất ổn. Lợi tức từ một cái shopping center hầu như lúc nào cũng đông người thuê mướn, tôi xài không hết, tôi chỉ muốn an nhàn hưởng cuộc đời khi tuổi đã xế chiều. Nhưng anh Bông vẫn kiên nhẫn thỉnh thoảng đến thăm tôi, ban đầu tôi tưởng là anh đang ế khách nên theo mời chào tôi làm khách hàng như xưa, nhưng sau thấy anh chỉ thân tình mà thôi. Anh Bông nói: - Em quý mến chị và anh Tư Chuột như người nhà, nay anh Tư Chuột không còn nữa. Chị cho phép em thỉnh thoảng đến thăm chị. Tôi cũng coi anh Bông như em vì anh ta kém tôi mười mấy tuổi, những đối tượng này không bao giờ nằm trong danh sách người yêu, người chồng lý tưởng của tôi, nên tôi vẫn vô tư giao thiệp cùng anh, đi với anh đến vài chỗ vui như tiệc tùng, khiêu vũ và khi thân hơn thì đi chơi dã ngoại ngắn ngày, dài ngày tùy theo nơi chốn gần hay xa. Mùa Thu đi Lake Tahoe, tham dự Food & Wine Festival để uống rượu nho chếnh choáng với âm nhạc rộn ràng một góc trời, mùa Xuân đi ngắm Niagara Fall ở Canada để nghe từng giọt nước nhỏ li ti từ dòng thác đổ ào ạt bắn lên mặt, lên người một cảm giác mát lạnh mà ấm cúng. Và một mùa hè tôi đã bâng khuâng xao xuyến khi anh Bông tỏ tình và cầu hôn tôi trong một bối cảnh vô cùng thơ mộng.
Hôm ấy là một ngày đẹp trời tháng Sáu, chúng tôi cùng tham dự một festival hoa Oải Hương tại thành phố Blanco, nằm bên bờ sông tuyệt đẹp Blanco của tiểu bang Texas . Sau khi đi thăm vài farm trồng hoa Oải Hương, mỗi Farm cách nhau khoảng 20 phút lái xe, thì chúng tôi dừng lại lâu hơn tại một farm có vườn hoa Oải Hương rộng lớn nhất, đẹp nhất, giữa cánh đồng hoa Oải Hương bát ngát màu tím chạy đến tận chân trời, giữa bầu trời trong xanh êm ái của mùa hè mới bắt đầu bằng những cơn nắng nhẹ màu vàng trong như mật ong, mùi hương hoa Oải Hương thơm kỳ diệu toả đầy trong không gian và len cả vào hồn chúng tôi. Hai chúng tôi đứng chìm giữa hai bên luống hoa Oải Hương, anh Bông cầm tay tôi, nhìn vào mắt tôi, thì thầm dù chẳng có ai gần đây để nghe cả: - Tôi yêu chị mất rồi. Anh yêu em thật rồi… - Kìa Bông, sao em lại nói thế, chúng ta chỉ là chị em, là bạn thôi mà? - Không là bạn đâu, vì anh yêu em, anh muốn cưới em. Hãy đồng ý nhé? Anh hái ngay mấy nhánh hoa Oải Hương và dịu dàng tình tứ trao tôi: - Em xem đây như lời cầu hôn với em, bó hoa tình này và trái tim tình này… Tôi run rẩy vì cảm động và không thể nào rút bàn tay tôi ra khỏi tay anh, dù anh nắm nhẹ nhàng chứ có kềm kẹp vũ lực gì đâu. Anh đã hôn tôi, nụ hôn thơm cả mùi hoa Oải Hương mà tôi yêu thích. Tôi đã ngất ngây vì anh và vì hoa Oải Hương xung quanh tôi. Sau đó chúng tôi lái xe trở về Festival để vui chơi nốt một buổi chiều, đến những quầy hàng ngắm những sản phẩm nghệ thuật, mua đồ kỷ niệm có liên quan đến hoa Oải Hương, và vào food court ăn uống trước khi tạm biệt ra về. Đó là một ngày đẹp lộng lẫy, một ngày tuyệt vời đáng nhớ nhất trong cuộc đời tôi.
Nhưng tôi cũng đã dằn vặt suy nghĩ mất nhiều ngày nhiều đêm trước khi đồng ý lấy anh Bông. Cả một thời tuổi trẻ tôi đã đạt được ước nguyện mộng mơ lãng mạn của tôi là làm người tình bé bỏng của người chồng lớn tuổi, người chồng gìa rồi, thì tiếc gì quãng đời còn lại, thử thay đổi không khí xem sao, cho bõ công những năm tháng khi anh chồng cũ Tư Chuột về gìa đau ốm liên miên, tôi phải chăm sóc cận kề, không có thời gian và không có bạn đồng hành để cùng vui chơi với đời. Với lại tôi cũng thương cảm cho hoàn cảnh anh Bông, thời kinh tế huy hoàng thì vợ chồng anh hạnh phúc, thời kinh tế điêu tàn, lợi tức anh kém hẳn đi thì cô vợ Mỹ xinh đẹp bỏ anh, may mà hai người không có con chung. Bỗng tiếng anh Bông làm tôi giật mình : - Mấy giờ rồi em? - Mới có 10 giờ sáng thôi, anh ngủ đã đời chưa? muốn ăn điểm tâm gì để em làm. Tôi đã xưng hô “anh em” với anh quen rồi và càng ngày càng ngọt ngào thắm thiết, không còn cảm thấy ngượng ngùng, sượng sùng như những ngày đầu sống chung nữa. Không biết anh nghĩ từ lúc nào mà đã có sẵn chương trình: - Thôi, mình đi nhà hàng, em đừng vì anh mà bận rộn cho mất công. Chiều nay em muốn đi phố hay đi shopping gì không? Còn buổi tối nhất định chúng mình sẽ đi night club nhé, anh thèm uống rượu và nhảy nhót trong tiếng nhạc cùng em cho đến khi đêm tàn… - Anh ơi, em đã nói với anh rồi, lúc này em đang diet mà, cứ đi ăn ngoài liên tục thế thì em mập chết thôi.
Trước khi lấy anh, tôi có dáng người khá thon đẹp, vậy mà chỉ sau 2 năm chung sống, vẫy vùng trong hạnh phúc mới mẻ, tôi đi ăn nhà hàng, đi dự gặp mặt, tiệc tùng với anh liên miên, vì anh là người làm business giao thiệp rộng. Tôi đã tăng cân vùn vụt, bề ngang phát triển tự do, hàng loạt quần áo phải bỏ đi , tôi đã “ăn gian” bằng cách mặc quần, áo, váy, với những màu sắc nhẹ nhàng, hình ảnh kẻ dọc hay bông hoa nhỏ xíu, vải siêu mềm, siêu mỏng thướt tha.. Ngoài ra tôi tập thể dục, đi bộ mỗi ngày 2-3 miles mà cũng không cứu vãn được mấy. Có lẽ ngoài nguyên nhân do ăn uống qúa độ, còn do tuổi gìa, khi về gìa phụ nữ dễ mập lắm. Tôi thích giảm cân tự nhiên chứ không uống thuốc diet, có hại cho sức khỏe và cũng chẳng bền lâu. - Anh cũng đã nói với em rồi, em mập bao nhiêu anh cũng vẫn yêu, vẫn chiều mà. - Nhưng anh thì vẫn vóc dáng cân đối, vẫn đẹp trai thế kia, trẻ trung thế kia, mình đi với nhau những đứa nhiều chuyện thì thầm sau lưng làm em bực mình lắm. Tôi đã nghe có đứa xấu miệng ganh tị với tôi rồi, đó là những bà độc thân vì góa chồng hay nhí nhảnh li dị để hòng mong kiếm ông khác “huy hoàng” hơn chồng cũ mà chưa có ai sờ tới, họ nói lén mà vẫn đến tai tôi: - Mụ vợ góa Tư Chuột lấy anh Bông trông ngứa cả mắt, già hơn, mập hơn, thế mà còn nhởn nhơ đi phố với nhau, đi tiệc tùng, đi khiêu vũ với nhau, thật trơ tráo cứ như đôi đũa lệch. Khiếp quá! - Ối giời ! anh Bông đang sa cơ thất thế, cô vợ Mỹ trẻ đẹp bỏ rơi, tiền bạc trắng tay, nghề của anh thì như đi câu không có khách hàng thì miễn có hoa hồng, nên lấy bà Tư Chuột cho ấm thân chứ gì.
Tôi tức lắm và cay đắng lắm, nhưng chẳng làm gì họ được. Những mụ này như đọc được cả tâm tư tôi, có sai chút nào đâu. Một gìa một trẻ sống bên nhau như đôi đũa lệch, nhưng thà chồng già vợ trẻ như anh Tư Chuột và tôi là đôi đũa lệch còn đỡ hơn chồng trẻ vợ gìa như tôi hiện nay với anh Bông. Đàn ông khỏe mạnh sao mà trẻ lâu thế, anh Bông lại thuộc diện đàn ông thích ăn diện, quần áo, giày, mũ, cái kính anh đeo cũng đúng thời trang, thích hợp với khuôn mặt, ngay cả những món phụ tùng như lotion, dầu thơm, nước hoa anh cũng kén chọn mùi hương rất trẻ, đa tình và gợi cảm. Anh như một người mẫu ở lứa tuổi trung niên. Còn tôi, cũng ăn diện, cũng thời trang không kém, mà lại toàn là thời trang của giới trẻ, nhưng thân hình tôi thì cứ béo tròn ra, mỗi 3 tuần phải ra tiệm nhuộm tóc tôi lại làm mát sa mặt, dùng kem loại thượng hạng đắt tiền nhất để chống nắng, chống lão hóa những vết nhăn mà vẫn xa anh một khỏang cách vời vợi, đi bên anh ai cũng nhận ra điều ấy. Anh Bông giục tôi: - Em đang nghĩ gì đấy, có đồng ý với chương trình hôm nay của anh không? Tôi than thở: - Thật tình em không muốn đi, vì diet mà còn vì sáng nay thức dậy tự nhiên em thấy đau nhức mình mẩy qúa. Hai năm qua chúng mình vui chơi thế đủ rồi, anh không thích ở nhà bóp lưng, bóp vai và xoa chân tay cho em sao? Anh từng bảo rằng anh không muốn rời em nửa bước kia mà. Nét mặt anh Bông kém vui: - Thì đi nhảy cũng là gần kề bên em thôi, tuần trước em từ chối không đi nhảy đầm với anh vì em nhức đầu chóng mặt làm anh phải ở nhà với em rồi. Tuần này em lại đau nhức mình mẩy, nhiều bà sồn sồn vẫn hăng máu yêu đời lắm, còn em thì nay ốm mai đau.
Tôi tưởng như vừa bị anh Bông lôi xồng xộc về qúa khứ, thuở tôi còn là vợ Tư Chuột, tôi cũng đã nói một câu y như thế khi đang cạo gío cho anh. Bất giác tôi ngẩng lên nhìn tấm hình anh Tư Chuột trên bàn thờ, hình anh đang mỉm cười, nụ cười nhếch mép, quyến rũ và lãng mạn như tài tử Clark Gable đóng vai Rhett Butler trong phim “Cuốn Theo Chiều Gío”. Bây giờ nụ cười nhếch mép của Tư Chuột như đang mỉa mai tôi “ Thấy chưa, cho đáng đời em nhé, ngày xưa em đành hanh, cay đắng với anh vì ông chồng già hay đau ốm bao nhiêu thì ngày nay em lãnh đủ bấy nhiêu…” Hay ông trời đang quả báo tôi đấy? Tôi cố gắng năn nỉ và mời mọc thiết tha: - Mình ăn nhà hàng dầu mỡ cá thịt ê hề qúa phát ngán, anh ở nhà em nấu món chân quê miền Bắc cho anh ăn: cà muối xổi, thái nhỏ bóp với muối, đường và tỏi, canh riêu cua và đậu hũ chiên ngâm nước mắm rắc hành hoa… tuy đơn giản mà công phu lắm, em phải xé cua biển và giã nhuyễn để nấu canh riêu cua… nhưng vì anh em sẽ làm với tất cả tâm tình em. - Có mấy món đặc sản này em làm đi làm lại hoài anh cũng chán lắm rồi, không nuốt nổi mấy món chân quê Bắc kỳ của nhà em đâu. - Ủa, em mới làm lần này là lần thứ ba, thứ tư chứ mấy? thời anh Tư Chuột em làm cả chục lần trong vòng một tháng mà anh ấy chẳng hề kêu than gì. - Anh Tư Chuột và anh Bông khác nhau em ơi… Tôi ngẫm nghĩ, thấy anh Bông nói đúng, anh Tư Chuột gìa hơn tôi, tuy tôi phải hầu hạ anh vì anh hay đau ốm, nhưng thế là anh chiều chuộng tôi đấy, cơm khô canh mặn anh đền ăn, ở nhà quanh quẩn với vợ cả ngày… Thế mà hồi đó tôi không biết hưởng, cứ oán trách anh Tư Chuột đã làm tẻ nhạt tuổi thanh xuân của cô vợ trẻ.
Bây giờ tôi có anh chồng trẻ điệu nghệ, lịch lãm, thích những cuộc vui, những nơi chốn đông người thì tuổi gìa đã làm tôi chùn bước. Tôi đã chẳng từng mơ những điều ấy hay sao? Đã là đôi đũa lệch thì tôi phải ráng chiều chuộng cho bớt so le chút nào hay chút ấy, tôi cố lấy giọng hăng hái: - Thôi được, em sẽ đi theo chương trình của anh vẽ ra, đi cả ngày luôn, nhưng tối nay anh đừng uống nhiều rượu nhé, về nhà còn đấm bóp cho em, vì em biết chắc là sẽ mệt mỏi lắm đấy. Anh Bông hoan hỉ ra mặt, thấy anh vui tôi cũng vui theo. Coi như cái số tôi vất vả, lấy chồng già hay trẻ đều có điều không vừa ý, phải chiều theo họ. Nhưng kiếp này coi như hết cơ hội rồi, kiếp sau tôi sẽ không tuyển chọn chồng theo tiêu chuẩn tuổi tác nào cả, mặc cho nhân duyên đưa đẩy. Trong khi anh Bông vào phòng tắm thì tôi vào phòng ngủ kiếm lọ dầu xanh trong hộc tủ đầu giường để thoa lên những khớp tay, khớp chân và bóp nhẹ cho ấm da thịt, cho đỡ nhức mỏi. Mùi dầu xanh quen thuộc này đã theo tôi từ thời cạo gió anh Tư Chuột cho đến giờ thì dùng cho chính tôi.
Ôi, có phải cuộc đời là một sự trả vay?? .
| |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Fri Nov 22, 2019 3:58 pm | |
| .
Biển Đời Muôn Thuở - Vĩnh Hảo
Biển buổi sớm yên tĩnh như thể chưa muốn vươn dậy để đón chào ánh nắng mai rực rỡ đang trải một tấm lụa kim tuyến khắp không gian mênh mông, soi chiếu xuống tận bề sâu thăm thẳm của đáy nước. Thỉnh thoảng mới có một gợn sóng nhỏ phả vào bờ nhưng không gây được một âm thanh nào đáng kể. Sóng vỗ như vỗ lấy lệ và biển hãy còn ngơi nghỉ.
Nhưng, trên bãi cát ướt keo sơn với biển cả chạy dài từ góc trời này đến góc trời kia, bao nhiêu sinh vật li ti đang múa nhảy, đang trườn tới, đang nỗ lực chống lại sự cuốn hút của biển hoặc đang tự thả trôi đời mình cho sự đẩy xô của sóng nước vô tận. Con ốc xoay mình theo cơn sóng nhỏ, lăn lóc và cạ cái vỏ cứng của nó trên nền cát lạnh sắc. Sự cọ xát này có vẻ như không gây tác động nào vào linh hồn bé nhỏ của nó nhưng ít ra cũng nói lên được ý nghĩa rằng cái vỏ ốc đủ cứng, đủ kín đáo để vây bọc và che chở nó trong một thế giới riêng biệt, an ổn và thầm lặng. Tuy nhiên, cũng chính từ trong cái thế giới bưng bít kia, nó lắng nghe được một nỗi niềm gì đó như là một sự thúc bách, một sự mời gọi, một sự lôi cuốn đầy khích lệ của những mới lạ từ thế giới bên ngoài. Nó không thể chịu đựng nổi sự khép kín vĩnh viễn của cặp vỏ dù rằng đó là cách duy nhất để tự vệ và được an ổn. Nhưng cũng chính từ sự an ổn đó, cảm giác trơ trọi trống vắng cũng cùng hiện hữu. Vì thế, nó hé mở cặp vỏ: ánh sáng, nước và bụi cát lùa vào. Đau rát, ê ẩm. Nó phải chống lại và chịu đựng tất cả những thứ ấy để xông xáo tìm hiểu thế giới bên ngoài và mặt khác, sự phóng ngoại này cũng là cách để trốn chạy niềm cô đơn man rợ tự bên trong. Đau khổ, đau khổ. Thế giới bên ngoài chỉ tạo nên những đau khổ. Nó cảm nhận được điều đó rất sớm, ngay tự phút đầu của chặng đường tìm kiếm, nhưng nó vẫn hy vọng sẽ bắt gặp được một cái gì khác hơn, mới lạ hơn, một cái gì đó mà nó chưa hiểu. Cái đó sẽ mang lại cho nó hạnh phúc, cái đó sẽ vĩnh viễn xóa lấp đi nỗi buồn trơ trụi của nó. Nó tin như vậy và nó đi tìm. Nó lên đường chạy theo tiếng gọi mơ hồ bí ẩn kia. Nó vượt qua bao thử thách, bao khó khăn và khốn khổ. Và cuối cùng, nó tìm thấy một con ốc khác. Một con ốc đồng loại nhưng khác giới tính. Hai con ốc cô đơn tìm thấy nhau. Bàng hoàng, rung động. Chúng lập tức nghe được trong nhau thứ ngôn ngữ của yêu thương và chúng quyện lấy nhau, gắn bó với nhau trong khoảnh khắc phù du nhưng đầy lạc thú, bỏ quên thế giới biến động vây quanh. Biển, cát, ánh sáng lòa chói, không là gì cả. Chỉ có hai tâm hồn, hai thể xác thể nhập trong nhau trong một giao cảm tuyệt vời. Nhưng sau cái khoảnh khắc cực kỳ thỏa mãn kia, chúng bỗng nhận chân rằng sự nỗ lực hướng ngoại của chúng để chạy trốn cô đơn chỉ làm tê buốt và lạnh giá thêm nỗi hiu quạnh ngàn đời của chúng mà thôi.
“Ngà ơi, có bao giờ em cảm nhận được điều đó không?” “Có. Đã có lần anh hỏi vì sao em buồn. Em chẳng biết trả lời sao. Em chỉ thấy buồn, buồn kinh khiếp lắm mà không hiểu gì cả. Em không muốn nhìn nhận nó, không muốn tìm hiểu nó, không dám đối diện với nó. Nó như là một khoảng không, hay một vực thẳm sâu hút... Em chỉ biết có anh, tin vào anh và trao hết thương yêu cho anh để mà xua đuổi nó. Là nó đó, có lẽ. Em chẳng hiểu vì sao.” “Là bởi chúng ta cố gắng đi tìm sự đồng nhất. Chúng ta không muốn mãi mãi là một cá thể bị cô lập. Nhưng chính cái khuynh hướng “đi tìm” đã là một tiền đề đầy mâu thuẫn rồi. Anh đi tìm em có nghĩa rằng anh đã và sẽ chẳng bao giờ là em cả; cũng vậy, em đi tìm anh, em cũng chẳng bao giờ là anh cả. Thì làm sao có sự đồng nhất! Cuối cùng, anh vẫn là anh, em vẫn là em. Chúng ta chỉ gượng gạo chấp nhận nhau để mà lãng quên nỗi cô đơn của chúng ta mà thôi.” “Anh đừng nói nữa.” Chương ôm lấy Ngà. Nàng nép gọn vào lòng chàng như muốn tìm một chỗ nương tựa. Chương hỏi nhỏ: “Em sợ à?” “Vâng, em sợ. Đừng nghĩ đến nó được không anh?” Chương bật cười: “Đừng nghĩ. Điều này chứng tỏ rằng em công nhận có nó, phải không?” “Em không biết... nhưng nếu chúng ta đào sâu về nó... có ngày chúng ta sẽ chán nhau, phải không anh? Em không muốn vậy. Em có thể chịu đựng được một nỗi buồn vu vơ thỉnh thoảng mới xâm chiếm lòng mình chứ không thể tưởng tượng nổi là sẽ có một cuộc chia xa vĩnh viễn với những gì mình yêu quí.“ “Yên tâm đi, anh chỉ thắc mắc, chỉ suy tư về nó. Trên thực tế, anh vẫn là chồng em, vẫn yêu em mà.” “Nhưng cần gì phải suy tư về nó, hở anh? Những suy tư như vậy phỏng có ích lợi gì thêm cho tình yêu, cho cuộc sống của chúng ta chứ?” “Bởi anh hy vọng rằng khi chúng ta hiểu thấu được bản chất của tình yêu, hiểu thấu về bộ mặt thực của nỗi cô đơn trong ta, có lẽ từ đó chúng ta sẽ có hạnh phúc hơn.” “Vậy lâu nay anh không cảm thấy hạnh phúc khi chung sống với em sao?” “Anh không có ý nói vậy. Anh chỉ nghĩ là có một thứ hạnh phúc to lớn và trọn vẹn hơn cái hạnh phúc mà chúng ta đang hưởng.” “Vậy thì anh hãy làm Thượng Đế đi.” Cả hai cùng cười. Rồi im lặng. Trời đổ mưa bên ngoài. Lạnh. Một chốc, Ngà bước xuống giường, sửa ngay lại cái gối của nàng, không nhìn Chương, nàng nói: “Trên thực tế, anh vẫn là con người.” “Và anh vẫn là chồng em, vẫn yêu em như thuở ban đầu.” “Và cũng sắp đến giờ anh đi làm rồi đó.”
Chương mang dù bước ra xe. Trên đường đến sở, Chương nhớ lại một ngày mưa như hôm nay cách đây hai năm, chàng đã quen Ngà. Lúc đó, vì một cơn mưa bất ngờ, hai người phải đứng nấp mưa dưới một hàng hiên rộng của một khu phố. Quanh đó chỉ toàn người Mỹ. Hai người Việt Nam nhìn thấy nhau, câm lặng chẳng nói gì, nhưng hai tâm hồn bỗng dưng gần lại với nhau, cảm thấy ấm áp, quen thuộc và tự nhiên với nhau qua một tia nhìn và một nụ cười mỉm. Ngà đẹp lắm, đẹp một cách nghiêm trang và thầm kín. Thế giới trong chàng, thế giới trong nàng, cùng mở ra một lúc, cùng đón nhận và trao nhau một cách trọn vẹn mà hầu như không cần một sự giải thích nào. Không phải trước đây chàng chưa từng gặp một đối tượng khác. Có, nhiều lắm. Nhưng chỉ là những thoáng bất chợt, gượng gạo. Chàng cũng chưa hề có ý nghĩ rằng sẽ lấy một cô gái nào đó làm vợ cho đến khi gặp Ngà. Tự thâm tâm, Chương biết rằng không phải chỉ vì Ngà đẹp mà chàng quyết định cưới nàng. Nhưng chính vì từ nơi Ngà, từ nơi cái phút đầu nàng mỉm cười chào chàng, Chương đã bắt gặp được cái bóng dáng của sự toàn vẹn mà chàng tìm kiếm bấy lâu. Và như thể Ngà là hiện thân của một cái gì ở trong chàng mà chàng không sao nhìn thấy rõ; hoặc của cái gì mà chàng đã đánh mất. Chàng lao theo bóng dáng đó với trọn vẹn bản thể của mình, chinh phục nó, chiếm hữu nó. Chàng đã được tất cả mà không cần phải tìm hiểu, phân tích hay suy tư gì về nó cả. Nhưng bây giờ, chẳng biết sao chàng lại thấy muốn tìm hiểu, muốn có một cái nhìn thấu đáo tận nguồn cội nỗi khát vọng yêu thương trong chàng. Có thật là có tình yêu không? Chương tự hỏi. Khi người ta vẽ ra những điều kiện về tính chất (với hiền thục, đoan trang, nhu mì...) và về thể chất (với đôi mắt phải như vậy, cái mũi phải như vậy, đôi môi phải như vậy và dáng dấp phải thế kia...) trong một tiêu chuẩn khả dĩ đáp ứng được sự đòi hỏi của sở thích, liệu rằng sự đòi hỏi đó có khách quan không và đó có phải là tình yêu chân thật và toàn vẹn hay không? Rõ ràng là chàng đã tự phác họa sẵn một kiểu mẫu ở trong chàng và khi Ngà xuất hiện một cách trùng hợp và y khuôn với kiểu mẫu đó, chàng liền rung cảm đón nhận và khao khát chiếm lấy. Như thế chàng đã yêu chính mình và yêu cho mình, vì mình, yêu cái bóng dáng của sự toàn vẹn mà mình ôm ấp. Nếu Ngà không có sẵn trong chàng, nàng sẽ không bao giờ làm rung động được nỗi khao khát chiếm hữu của chàng. Nhưng cái bóng dáng đó đã được vẽ ra, được thoát thai từ nỗi cô đơn của chàng. Chàng nghĩ rằng khi tìm được nó, nỗi cô đơn sẽ tan biến. Đến khi tìm được nó, chàng lại thấy rằng bóng dáng vẫn là bóng dáng; sự hiện diện của một bóng dáng bên ngoài mình chỉ tô đậm và xác nhận thêm rằng chàng vẫn mãi mãi là một con ốc tự ly cách mình với thế giới chung quanh mà thôi.
Thời gian gần đây, những suy tư đó ám ảnh Chương liên tục trong nhiều ngày. Chàng vẫn chung sống với Ngà, vẫn ăn chung ngủ chung, trò chuyện, đọc sách, đi làm. Nhưng có một cái gì đó gượng gạo, vô hồn len lỏi vào từng phút giây của cuộc sống. Chàng thấy buồn cười cho những vở kịch mà mọi người, kể cả chàng, đã và đang phải đóng một cách mù lòa, an phận và lặng câm trong suốt cuộc tình mâu thuẫn của họ. Sau cuộc truy hoan, hai con ốc buồn bã rời nhau. Không phải là cơn buồn nôn, chán chường và mệt mỏi của thể xác sau khi trút hết sinh lực để đắm say trong khoái cảm, mà là nỗi thất vọng trong nỗ lực khỏa lấp cô đơn. Một con ốc tiếp tục buông mình theo sóng nước và sỏi cát. Con còn lại cố gắng lách mình, nương sóng trườn lên một hốc đá, nơi đó nó tránh được sự vồ chụp của những cơn sóng và cũng không còn nữa, những bụi cát mù mịt làm đau rát cơ thể; nơi đó, nó mỉm cười tự hỏi tại sao những con ốc khác không tìm đến những hốc đá cao như nơi chốn nó tìm đến để được thong dong, nhàn hạ. Không thể chịu đựng nổi thái độ lạnh nhạt, dửng dưng và sự trầm tư ngùn ngụt bất thường trong nhiều ngày của Chương, một đêm nọ, Ngà hỏi chàng: “Anh nói đi, sao mấy hôm nay anh thay đổi quá vậy?” Chương ngập ngừng một lúc: “Anh thấy có một cái gì đó thật phi lý trong tình yêu.” “Tình yêu cũng cần có lý nữa sao?” “Ở đời chẳng có gì mà chẳng có lý lẽ của nó.” “Nhưng nếu cần phải viện dẫn lý lẽ một cách tường tận thì anh và em đã không thể nào yêu nhau, anh không thấy vậy sao?” “Bởi vậy anh mới nói là có cái gì phi lý đó.” “Để rồi đi đến đâu? Những suy tư rởm đời của anh có giải quyết được cái gì chăng? Hàng tỉ người trên thế giới, tự cổ chí kim, không thắc mắc, họ đã yêu nhau, sống với nhau hết một đời.” “Nếu phải y khuôn với mọi người thì...” “Tầm thường quá, phải không? Anh à, anh tưởng rằng một con ốc nằm trên hốc đá cao thì khác với những con ốc ở dưới nước cạn và sình lầy sao? Vẫn chỉ là con ốc mà thôi. Chưa đập vỡ cái vỏ thì con ốc muôn đời vẫn là con ốc. Nhìn lại thực tế đi, anh là con người, phải không? Nếu anh cho rằng cuộc sống chung này thất bại, rằng chẳng có gì thực sự là tình yêu, em chấp nhận chia tay theo ý anh. Nhưng trước khi quyết định, anh hãy suy nghĩ đi, trong ba ngày hay trong một tuần cũng được. Em chờ đợi câu trả lời của anh.”
Nói rồi, Ngà ôm chăn gối qua phòng khách ngủ riêng. Chương nằm lại một mình trên giường. Chàng thử tưởng tượng không có Ngà, chàng sẽ sống thế nào. Sáng dậy ăn điểm tâm, đi làm, tối về tắm, nấu ăn, ăn, đọc sách, rồi ngủ một đêm, lại thức dậy tiếp tục một ngày khác. Những ngày đó sẽ không có mái tóc Ngà buông dài qua bờ vai nhỏ mà rộng dáng bao dung. Những ngày đó sẽ không có cái nhìn sâu thẳm tình tứ từ đôi mắt mang đầy ẩn ngữ của Ngà. Những ngày đó sẽ không có đôi môi hồng nũng nịu thèm khát yêu đương. Sẽ không có tất cả. Khi chưa tìm thấy cái toàn vẹn thì bóng dáng của nó có vẻ như chính là nó. Bám chặt lấy bóng dáng này vẫn thấy cô đơn, nhưng buông bỏ nó thì niềm cô đơn cũng ác liệt không kém. Cái cô đơn truyền kiếp kia cứ bám theo, bám theo hoài, không sao khỏa lấp. Trằn trọc mãi đến nửa đêm, cuối cùng, Chương cũng ngủ được một giấc. Trong mơ, Chương thấy Ngà nằm trong vòng tay kẻ khác và chàng điên tiết. Đến sáng, đồng hồ báo thức gọi chàng dậy, nhưng chàng biết hôm nay là thứ bảy, nghỉ làm; chàng nằm đó, nhìn bâng quơ ra cửa sổ. Trời hãy còn mưa. Mưa suốt đêm rồi. Trời mưa gợi đầy kỷ niệm. Chàng đưa tay qua bên cạnh, không thấy Ngà. Chàng nằm im rất lâu trong tư thế của một con ốc nhỏ bị kẹt lại trong hốc đá. Cảm thấy thiếu vắng một cái gì. Con ốc bỗng nhớ sóng, nhớ nước, nhớ những hạt cát quất vào thịt da đau rát, nhớ cả con ốc khác giới tính hôm nào. Và con ốc lên đường, trở về biển cát. Ngà bước vào phòng thay đồ. Chương nhìn ngắm nàng. Ngà vẫn đẹp như thuở nào. Từ đường cong của đôi môi cho đến đường cong của ngực nàng, không chỗ nào mà không nói lên ý nghĩa sâu kín và toàn vẹn của vũ trụ mênh mang muôn thuở. Nơi đó, thật là vô ích và thừa thãi cho một tiếng nói hay một ý niệm được cất lên.
Chương rời khỏi giường, đến ôm lấy thân thể nóng bỏng của Ngà. Hai con ốc im lặng quyện lấy nhau. Và họ tiếp tục trò chơi tình yêu.
Virginia 1990 . | |
| | | NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Tue Jan 14, 2020 8:05 pm | |
| .
Gã đầu bạc – Trần Hương Giang
Gã đầu bạc đã tự trang bị cho mình một vẻ bề ngoài thư sinh. Gã giỏi. Gã thông minh. Chỉ số IQ của gã có lẽ phải xấp xỉ đầu số 150. Cái gì gã cũng biết. Văn chương, học thuật, lịch sử, địa lí, số má, ngoại ngữ, máy tính… tất tần tật. Gã giống như một từ điển sống…
Gã sống trong một căn nhà khang trang. Chẳng ai biết gã làm mắm gì mà khá giả đến thế? Gã khá hào phóng, với bạn bè, với những người nghèo khổ. Thi thoảng, người ta thấy gã khóa cửa biến đâu mất tích dăm ngày nửa tháng, có khi cả mấy mùa trăng liền mới thấy căn nhà gã bật đèn sáng choang, thấy có bóng người đi ra đi vào rầm rập, nhộn nhịp. Gã rất ít nói. Gã hay khoác cái áo màu đen mỗi lần phắn lên con xe lao ra ngoài phố. Đường đầy khói bụi. Gã góp thêm một tí có làm sao. Ai cũng đều nghĩ thế. Riêng gì gã đâu. Đường chật hẹp. Gã chen chúc cùng dòng người đang đua nhau, vượt qua nhau từng centimet đường. Có sao? Ai cũng phải chen chúc, tất bật. Miếng ngon khó nhường. Đất sống càng không thể. Thời buổi kinh tế này đất là kim cương, tiền tỉ. Tất cả họ đều không còn đi chậm, nói nhỏ được nữa. Phải hét thật to, phải chạy thật nhanh. Đường đông đúc, xe cộ ồn ào náo nhiệt. Và họ chạy cho đến khi nào, mặt mũi tèm lem đóng một lớp vừa mồ hôi, vừa đất bụi nhòe nhoẹt, họ mới về đến nhà. (mặt gã vẫn láng coóng ngon ơ). Người ta rồ ga xe máy, khẩu trang bịt kín vẫn dính bụi nhơ nhớp, từng lớp bụi có khi còn chui tận vào trong lỗ mũi. Ngoáy ra thấy đen sì sì. Mức độ ô nhiễm “ác chiến” của thế kỉ hiện đại. Gã bon bon ghế êm trên con xe bốn bánh. Bụi đã bị mấy cái cần gạt nước trước kính hất xuống hết. Ai đi xe máy hưởng thêm tí bụi của gã. (có làm sao. Đời này, vốn dĩ thế, càng hiện đại người ta càng tàn nhẫn với chính mình và kẻ khác). Gã có một khuôn mặt đẹp. Đôi mắt phong trần sâu thẳm. Lạnh lùng. Gã có nụ cười khinh khỉnh nhếch mép, chắc chỉ thua Don Juan. Nhiều cô gái chết mê. Gã phớt lờ. Hình như, các nàng kiều cũng mê luôn cái căn nhà khang trang của gã, con xe của gã – thời này, các nàng quen thói ăn diện, trau chuốt nhan sắc cần phải để ý đến những “mối làm ăn” như thế. Mất mát gì đâu? Đến cả lớp trẻ sinh viên, còn rỉ rả vào tai nhau: “Yêu đếch có tiền thì bốc cám mà ăn à?”. Đứa nào từ quê lên tỉnh đi học thì cố gắng bám vào các chàng/nàng có hộ khẩu thành phố để ở lại luôn, chẳng thèm về những vùng nông thôn nghèo khổ, nơi chôn nhau cắt rốn của mình, nơi mẹ cha cố gắng chắt chiu từng mùa lúa, từng lứa lợn xuất chuồng nuôi ăn nuôi học. Thật ra, cũng nên có chí tiến thủ. Chả nhẽ, về quê. Chả nhẽ cứ phải bám đất ruộng, đất làng, bám cái ao cá, chuồng heo, con gà, con vịt để kiếm ăn như bố mẹ? Có học, phải vươn xa, phải tìm cách đổi số, thay vận; phải tìm cách ngóc đầu lên với thiên hạ, cũng nhà cao cửa rộng, xe bốn bánh chạy sề sề. Mỗi lần về quê, như kiểu “Vinh quy bái tổ” báo cáo làng nước, gia đình, họ hàng: “Tớ đã giàu rồi nhé, tớ đã là đại gia rồi nhé”
Có cái lạ. Dân tỉnh lẻ, nếu tìm cách ở lại thành phố để hít ít khói bụi xa hoa, thì người thành phố, giàu kếch xù lại muốn trở về quê, lên tận những vùng heo hút núi non để mua đất, dựng nhà, mua gà vịt, tậu trang trại hoặc có khi xây luôn cho mình mấy hầm mộ bằng tiền tỉ, lo cho nơi an nghỉ cuối cùng. Sống giàu sang, chết cũng phải hoành tráng. Ai chẳng muốn thế. Đất đắt như kim cương. Muốn chết có nơi chôn, người thành phố phải lo dấm chỗ, đặt trước, kiếm cái bìa đỏ chứng minh: “Chỗ này là chỗ tớ nằm, đéo thằng nào được nhấm nhẳng ngó nghiêng đấy nhá”. Người thành phố có cái khổ của người thành phố, người tỉnh lẻ có cái khổ của người tỉnh lẻ. Cuối cùng, đời người, kiếp con người cũng chỉ là sự quẩn quanh giữa hai chữ sống và chết. Sống là tạm bợ. Chết là vĩnh viễn. Một số người Ki tô giáo thì ngược lại, dù sao họ vẫn có quan niệm nhẹ nhàng hơn. Sự sống là quà tặng ban của Đức Chúa Trời, phải trân trọng từng giây phút, từng khoảnh khắc, từng ngày tháng. Chết là về với nước Chúa. Chết là để được sống lại như Chúa (Chúa bất tử, nên họ cũng sẽ bất tử). Không việc gì phải buồn lo, suy nghĩ: chuyện sống chết. Có câu trong kinh thánh: “Anh em ra đi là để sinh nhiều hoa trái”. Người chết nằm xuống, nhẹ nhàng. Người sống nhìn nấm mộ đã đắp đất, buồn đau một chút, khóc than một chút, nhớ thương một chút theo lẽ thường của cảm xúc, rồi lặng yên nguyện cầu cho người chết nhanh lên thiên đàng, sau khi họ đã trải qua những xét xử dưới luyện ngục, và đã được tha tội (Tất nhiên, trừ những kẻ tạo cơn cớ quá nặng, xem chuẩn mực đạo đức bằng đầu ngón tay khi còn là xác thịt sờ sờ). Người chết không còn nữa trên đời. Người sống nên ghi nhớ hình ảnh của họ bằng trái tim và đợi chờ cuộc hội ngộ sau cùng nơi cánh cửa nào đó trên cao tít, bí ẩn trong vũ trụ khôn cùng.
Chỉ số IQ cao, nhưng tóc gã chưa tới băm đã lấm tấm bạc như các “bô lão” tuổi trung niên. Ai đó nói bâng quơ: “Do máu xấu”/ đừng hiểu nhầm. Máu xấu thôi nhé. Gã là người tốt. (Đôi khi hơi chướng, vì cái tật khoe mẽ: bảnh trai, nhà giàu, xe xịn, lạnh lùng, sát gái). Gã tham gia vào một hội nhóm nào đó trên mạng. Thỉnh thoảng gã đi đú đởn nhậu nhẹt cùng hội, rồi phượt phiếc linh ta linh tinh. Thỉnh thoảng, gã sắp xếp đồ đạc và lên đường đi đến tận những miền cao, miền xa cùng một nhóm người nào đó trên một chiếc xe toyota, đã được chất đầy hàng hóa: quần áo, bút mực, sách vở, và mấy thứ đồ dùng khác chuyển lên cho trẻ em nghèo miền núi mỗi dịp tết đến hay đông về. Đấy, gã là người tốt đấy. Nhóm hội của gã cũng vậy. Khá giả một chút, thừa thãi nhiều thì nên chia sẻ bớt cho những kẻ khốn khó còn thiếu ăn thiếu mặc. Mỗi bận đi “phượt” kiểu ấy, người ta lại thấy gã sung sướng huýt sáo vang cả nhà. Dấu hiệu dễ nhận biết nhất, khi gã chuẩn bị đi làm từ thiện. Vẫn chẳng ai biết gã làm quái gì mà giàu đến thế? Gã giỏi. Ai cũng bảo: “Trông tướng gã như Giáo sư, tiến sĩ có học thức, chữ nghĩa đầy đầu” hoặc đoán mò: “Thằng cha ấy chắc là giảng viên của một trường đại học nào đó”. (Ngây thơ). Thật ra, gã cũng từng có mơ ước: Làm một anh giáo suốt ngày chúi mũi vào nghiên cứu, rồi lên lớp truyền đạt mấy mớ kiến thức cho đám sinh viên. Thật ra, gã cũng đã từng có một vài ý nghĩ chảnh chọe: “Làm thằng Giảng viên oách văn ngầu nhỉ?”. (Bây giờ khối kẻ vẫn còn suy nghĩ ấy. Thằng giảng viên Đại học thì sao chứ. Lương ba cọc ba đồng, mấy đứa trẻ mới ra trường, đợi nhé. Khi nào tóc chúng mày lấm tấm muối pha sương như chúng tao thì mới có nhà cao, cửa rộng, tiện nghi đầy đủ, khá hơn nữa thì được đi xe bốn bánh, mỗi lần về quê có thể tếch lên máy bay. Tóm lại là phải tích lũy nhiều thứ). Cái đầu thông minh của gã, đôi khi cũng gặp sự cố. Mỗi lần nghĩ lại ước muốn trở thành anh giáo gã buồn cười. Thằng bạn thân của gã bây giờ vẫn đang ở trọ. Gã đã nhà cao cửa rộng. Xe bốn bánh chạy ro ro. Gã thấy thương. Gã vẫn giỏi hơn mấy thằng bạn. Gã nhận ra: “Phải tìm một con đường khác để đi. Đời người có bao nhiêu. Sống được bao nhiêu. Tích lũy cần thiết. Nhưng, tóc gã chưa gì đã lấm tấm bạc thế kia”. Lớp trẻ hiện nay, cũng đã bắt đầu nhận ra. Có thể “cày” như điên. Nhưng, họ chọn những phương thức kiếm ăn rút gọn thời gian. Một số thằng không đủ sức chơi kiểu đó, thì phải cần cù chăm chỉ gieo hạt, đợi mùa vụ rồi thu hoạch. Riêng gã, vì có cái đầu thông minh, gã chơi cách khác. Món gì gã cũng nhúng tay vào thử. Gã giỏi tiếng Anh, một lợi thế để gã kiếm tiền rất tốt, trong thời đại số má, công nghệ hóa này. Gã quất một cái blog riêng bằng tiếng Anh. Cung cấp thông tin cho bộ máy tìm kiếm của Google, tranh thủ “xơi” thêm vài quả bằng cách ăn phần trăm quảng cáo. View càng cao, thì cơ hội có tiền của gã càng lớn. Nhưng đây chỉ là một cách nhỏ, trong vô vàn những việc mà gã đang làm. Blog – gã xem như là một trò chơi giải trí. Gã làm nghề tự do (gọi là Freelancer). Một kiểu nghề mới nảy sinh bởi tình hình kinh tế í ẹ của thế giới hiện nay, khi các công ti tư nhân lần lượt cắt giảm nhân sự. Nghề này, gã có thể tận dụng quỹ thời gian trống và thể hiện năng lực của mình. (không ai bắt gã phải làm thế này trước, làm thế kia sau). Đồng thời gã có thể tự làm chủ thời gian – thu nhập, không cần phải tất bật mỗi sáng đến công ti cho kịp giờ, hay “cày bừa” đến tối mịt mới mò về nhà. Ngoài cái blog tiếng Anh – ăn phần trăm quảng cáo cho bộ máy tìm kiếm khổng lồ Google, gã còn tranh thủ nhận thêm các mối dịch thuật kịch bản, văn học, hay viết PR, lập trình… tất tần tật miễn là phù hợp, miễn là nằm trong khả năng bàn tay và cái đầu có chỉ số IQ cao của gã, và miễn có tiền. Quan trọng nhất vẫn là thứ đó. Mấy tờ giấy bạc xanh, đỏ đầy ma lực, khiến cả thế giới loài người đâm đầu vào tranh giành, kiếm chác; cái thứ “bùa mê” khiến nhân tâm đảo điên, khiến một gia đình đang hạnh phúc, sung túc đủ đầy, bỗng chốc tan nát và ngược lại. Cái thứ khiến một thằng con nghịch tử, vì thiếu nợ, ham hút chích, cờ bạc, sẵn sàng đâm chết cha mẹ ruột mà không hề gớm tay. Gã thì thèm lắm một tiếng gọi ấm áp của tình mẫu tử. Thế giới này đưa lên cán cân, vẫn không bao giờ bằng nhau. Cha mẹ gã đều chết vì căn bệnh nan y mà cả thế giới bó tay. Đời sống càng hiện đại, bệnh tật xuất hiện càng nhiều. Khoa học càng hiện đại càng sản sinh ra nhiều thứ suy nghĩ nguy hiểm. Vòng tròn nào có vết của đồng tiền, ở đó có đau thương. Thế giới là khối rubik. Đồng tiền là kẻ đang cầm cái khối rubik đó và bắt đầu xoay như chong chóng. Con người tưởng mình đang điều khiển game. Hóa ra, không phải. Con người thường hay ngộ nhận và nhầm nhọt. Gã kiếm tiền tốt thế. Bằng cách nào? Khối đại gia giàu hơn. Gã chưa là gì. Các đại gia kiếm tiền bằng cách nào thế? Tài thật. Đại gia có tiền thì cũng vung tay quá trán nhiều lắm: Khoe siêu xe. Khoe nhà cao cửa rộng, khoe các trang trí nội thất đắt giá, khoe cả bồ nhí chân dài. Gã chỉ là một thằng con trai bình thường, có đầu óc, biết cách kiếm tiền và hiện tại gã đang hơn mấy thằng bạn cùng cấp học ngày xưa. Gã tậu được nhà, tậu được xe hơi, tậu được trang thiết bị nội thất hiện đại. Gã có tiền để ban phát cho kẻ nghèo khổ bất hạnh hơn mình. Gã hạnh phúc và hài lòng với những hành động của mình. Bẵng đi hơn một thời gian. Hàng xóm không nghe gã ho he huýt sáo sung sướng trong những lần chuẩn bị lên đường đi Phượt. Nghe bảo: Gã đi nước ngoài. Căn nhà khang trang để trống. Dăm ba bữa thấy một người giúp việc đến dọn dẹp.
Phía trước cổng có giàn hoa tigon leo lên cánh cửa sắt sơn màu trắng. Chiếc xe ô tô màu đen bóng loáng đỗ xịch. Người đàn ông áo đen bước xuống, tay xách chiếc va li, tay mở cửa xe. Người đàn bà mặc chiếc váy màu thiên thanh, tóc vàng hoe hoe, mắt xanh đang loay hoay níu lấy một bên hông gã, khi dừng chân trước cửa nhà. Hàng xóm ngó qua. Mấy đứa con gái mới lớn ngó qua. Gã về. Tóc vẫn lấm tấm bạc, gần nửa mái đầu. Đặc điểm nhận dạng nhanh nhất của gã. Thời đại kinh tế mở cửa, mọi khoảng cách về không gian địa lí, ngôn ngữ, màu da không còn là vấn đề. Tình yêu cũng thế. Thông và thoáng. Cởi và mở. Con gái Việt, vẫn thích tếch sang tàu, sang tây sắm chồng. Gã cũng có quyền sắm cho mình cô vợ mắt xanh, tóc vàng. Không biết nói tiếng Việt, có hề gì. Gã giỏi tiếng Anh. Cô gái tóc vàng của gã, mỗi lần cười cũng xinh lắm. Gã không thuộc tuýp người khoái ăn chơi lung tung. Cô nàng này, chắc chắn đã được tuyển lựa rất kĩ. Hàng xóm tò mò, thích hóng hớt ngó sang. Gã cười cười. Thiên hạ, chuyện gì cũng có thể bới móc, suy diễn, một thành mười, mười thành trăm. Dăm ba người tụ năm, tụ bảy đã thành cái chợ. Gã thừa biết. Gã lặng im. Linh hồn ai nấy giữ. Một dạo, gã đưa nàng về quê. Đi xa lâu ngày, quê gã vẫn như xưa, không có gì tiến triển hơn. Vẫn nghèo nghèo, tội tội như thế. Những người nông dân, ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời, đêm về tụ tập lại trước sân nhà đánh chén anh chén chú. Có gia đình, con cái nheo nhóc, cơm áo không đủ no, vợ chồng hục hà hục hặc sau khi thằng đàn ông có tí hơi men. Quê gã đấy, ngày xưa và bây giờ. Gã chỉ còn vuông đất thờ để lại cho các bác trong họ trông coi. Gã về, thắp nén nhang cho ông bà, cho cả hai người thân sinh ra mình. Gã về, đưa cả nàng dâu mới bên xứ lạ ra mắt họ tộc. Các cô, dì… người ngấm, kẻ nguýt. Các ông cậu, ông chú, phản đối. Đất lề quê thói. Phong tục cổ hủ lạc hậu ăn sâu vào tiềm thức và cả những ứng xử văn hóa. Họ cứ ra rả ca bài ca xưa cũ cho gã nghe: «Ta về ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn». Gã lặng im. (Cha mẹ gã mất rồi, chỉ còn họ tộc là đại diện duy nhất khi gã lập gia đình). Mấy ngày cho cô dâu Tây làm quen với lối sống quê kiểng, gã gặp khá nhiều trở ngại, từ giao tiếp đến đồ ăn thức uống. Gã vẫn cố thử. Chưa được một tuần, không chịu được những đàm tiếu ở quê, gã tếch thẳng lên thành phố. Vậy là không có đám cưới đám kiếc nào hết. Gã làm thử cái trắc nghiệm. Gã chỉ đúng 30%. Ở một phương diện nào đó. Tình yêu có thể khiến người ta vượt qua được những khoảng cách về mặt địa lí, ngôn ngữ, màu da. Nhưng, lập trình cho trái tim, cho một mái ấm gia đình của gã đã thất bại. Xưa nay, vốn đã thế, phép vua thua lệ làng. Người ở quê, vẫn cứ quê quê. Họ trọng sự chân chất, mộc mạc, trọng dòng máu gốc rễ của mình hơn. Dẫu có nghèo, họ vẫn không muốn rời khỏi đất làng, đất xã để tìm kiếm một miền đất hứa khác. Cha mẹ gã bỏ làng ra đi, đến khi chết vẫn phải quay trở về xin nắm đất nhỏ bên đồng để được ở gần ông bà, tổ tiên. Gã bâng khuâng nghĩ ngợi. Người giàu cũng có những khổ tâm của riêng mình.
Một năm sau, gã lại lon ton trở về quê, nhờ chú, bác cưới vợ. Gã chọn được cô bé hàng xóm thời còn để chỏm, mặc quần thủng đít chạy long nhong ngoài bờ đê cắt cỏ, chăn trâu với gã. Cô gái bây giờ đã hơn hai mươi bảy tuổi (Gã gần ba mươi). Vậy là đẹp. Người ở quê xôn xao: « Con bé ấy đi tu nhưng vì lí do gì đó lại không được dòng tu nào chấp nhận, giờ về quê chỉ chăm việc heo gà, đồng áng. Tuổi như nó ở quê gọi là gái ế. Sao lại còn lấy? » Gã cười khẩy. Lần này thì gã quyết. Họ tộc không ai nói gì. Mọi người đều hiểu hoàn cảnh cô bé đó. Một đám cưới bình dị tổ chức tại quê. Gã không thích phô trương. Sau dăm ngày, gã đón cô vợ quê lên thành phố. Nhà cửa sang trọng, choáng ngợp. Ô tô bóng loáng. Cô vợ của gã hiền lành. Thế là gã đã có vợ. Các cô nàng chân dài ở Thành phố tiếc nuối. Gã cũng đâu đến nỗi đem của đi nuôi các ả chỉ biết sơn móng tay, thoa phấn son, diện quần áo hàng hiệu mỗi ngày. Gã đã chọn vợ, là phải chọn cho thật tử tế. Bao nhiêu năm rồi, căn nhà của gã vẫn im lìm, không nghe tiếng cười, không nghe tiếng khóc. Nay, gã đã có vợ vẫn thế. Cưới đã lâu, vậy mà vợ chồng gã vẫn đi đi về về với nhau. Một mái ấm gia đình, thiếu mất tiếng bi bô của trẻ thơ đôi khi cũng thành bi kịch. Gã thương vợ. Gã có ăn có học, gã có trái tim nhân hậu, gã không làm khổ vợ. Thùy là cô gái có đức tin mãnh liệt. Nghe đồn trong Nam có nơi cầu tự linh thiêng lắm. Thùy bàn với gã. Cả hai vợ chồng làm một chuyến. Đi dăm tháng. Về lại, vợ gã bụng đã lùm lùm. Thật khó hiểu. Người ta bảo cứ tin là sẽ được. Niềm tin mãnh liệt có thể đem lại nhiều điều kì diệu và cả kì quái. Cái bầu của vợ gã ngày một lớn, nhưng không có tín hiệu chuyển dạ. Thi thoảng, người ta lại thấy bụng Thùy lép kẹp. Thi thoảng thấy bụng Thùy to ra. Theo chu trình, đủ chín tháng mười ngày thì đứa bé chào đời. Nhưng, Thùy có bầu đã gần hai năm. Thùy nghe bảo: Con cầu tự không được đi siêu âm, đi khám thai. Nếu không em bé sẽ biến mất. Thùy vẫn thấy cái bầu cử động, mổi lẫn cô nói chuyện với con. Thùy vẫn tự hào, đứa trẻ chính là thiên thần do Chúa cử đến. Cô tin tưởng, cô kiên nhẫn chờ đợi. Một đức tin không thể nào lay chuyển nổi. Hàng xóm lời ra tiếng vào, Thùy mặc kệ. Gã tôn trọng đức tin của vợ. Gã cũng kiên nhẫn đợi. Chẳng biết đến bao giờ đứa trẻ mới ra đời. Câu hỏi đó không phải dành riêng cho vợ chồng gã. Hình như ở quê gã cũng có vài cặp vợ chồng đi cầu tự như thế. Và, họ cũng đang đợi sự ra đời của đứa trẻ. Biết đến bao giờ? Hãy cứ tin là sẽ được. Gã để cho Thùy giữ lấy đức tin ấy.
Gã mải mê với công việc, với những vụ làm ăn xa nhà khi đã có thêm nhiều vốn liếng. Gã đầu tư vốn vào các công ty cổ phần. Tiền của gã không bao giờ ngồi yên mà chúng quay vòng, sinh lời liên tục. Gã có cái đầu giỏi. Cái đầu đó gã không dùng vào việc nghiên cứu sách vở, gã dùng nó để kiếm tiền. Gã càng ngày càng giàu. Lắm lúc gã có những suy nghĩ kì quái: «Thiên hạ cần tiền để làm gì nhỉ? Gã có tiền nhiều lắm. Nhưng gã không thấy vui, không thấy hạnh phúc». Từ ngày có vợ gã ít tham gia vào hội nhóm, đàn đúm, nhảy nhót hay đi phượt. Gã vẫn thầm lặng giúp đỡ những người nghèo, có hoàn cảnh khó khăn. Nhưng gã làm một cách bí mật. Ít khi gã ra mặt. Gã núp bóng vào công việc, vào cái Computer không biết chán. Mỗi lần trở về nhà, gã vẫn thấy cái bầu của Thùy lúc to, lúc nhỏ. Gã không thể nào hiểu nổi. Đây có phải trò đùa của đức tin? Gã tự đặt câu hỏi. Gã lặng im chờ đợi cùng Thùy. Hình như trong lòng gã vẫn có một đức tin. Gã cần phải tin. Nếu không, gã chết mất. Những suy nghĩ bùng nhùng trong tim óc gã thật đáng sợ. Con người thỉnh thoảng vẫn thả trí tưởng tượng của mình bay nhảy. Chúng không đơn giản chút nào. Chúng biến dạng thành nhiều hình thù khác nhau. Gã cũng đã từng có những tưởng tượng về cái bầu của Thùy. Rồi gã thấy tội lỗi. Gã lăng nó đi. Gã nghĩ về một thiên thần, khuôn mặt sáng ngời, thánh thiện. Tội lỗi của loài người đầy rẫy. Con gã sinh ra phải là một thiên thần. Nó không phải gánh chịu những thứ tạp nham, mệt mỏi của thế giới. Ba năm trôi qua. Bụng Thùy vẫn cứ thế. Gã quen dần với sự hiện diện của đứa con chưa bao giờ được sinh ra, chưa bao giờ được nghe thấy tiếng cười, tiếng khóc, tiếng bi bô gọi bố của nó. Đến năm thứ tư. Gã bắt đầu phát hiện ra mình có những dấu hiệu không tốt về sức khỏe. Gã suy kiệt dần. Gã bất chợt nhớ về cha mẹ. Họ đều chết vì K. Gã biết, loại này vẫn có di truyền. Năm thứ tư. Thiên thần vẫn chưa chào đời. Gã đã ở giai đoạn cuối. Thiên thần đến, gã sẽ đi. Gã đã kiếm đủ tiền cho Thùy (cả đứa con gã đang đợi chờ bằng niềm tin) sống hết đời. Nhờ có tiền, bệnh gã được duy trì thêm khoảng dăm tháng nữa. Ngày gã hấp hối, Thùy chuyển dạ. Vậy là đức tin đã thành hiện thực.
Thùy đưa cậu bé ba tuổi, đã chạy lon ton được đến bên mộ gã. Đôi mắt thiên thần trong veo. Vành môi đỏ. Khuôn mặt tròn và mái tóc hoe hoe. Gió lướt qua vuốt ve nhẹ trên má cậu bé. Thùy chắp tay nguyện cầu, đọc mấy câu kinh. Linh hồn Gã đang mỉm cười. Hạnh phúc vẫn là điều kì diệu nhất. Thùy luôn nghĩ: “Gã chỉ làm một cuộc phiêu lưu ở nơi khác, chứ không hề biến mất khỏi cõi trần này”. Thùy yêu chồng, cũng giống như yêu đức tin của mình. Đức tin đôi khi đã cứu rỗi linh hồn con người khỏi những lầm lạc.
Trần Hương Giang/Diễn đàn Đông Tây . | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Wed Jan 22, 2020 9:20 am | |
| .
Một câu chuyện yêu đương
Chàng và nàng rất trẻ, họ mới lấy nhau được 2 năm. Chàng vốn theo nghề chụp hình, nhưng say mê văn chương. Ngày lại ngày chàng cặm cụi viết sách, tuy rằng sách của chàng nằm dưới lớp bụi trên kệ ở các cửa hàng sách. Chàng rất yêu và chiều theo ý nàng. Thế rồi một ngày nọ… - Nàng bảo chàng: “Anh đi chụp hình đám cưới con bạn em. Nó hứa trả công hậu đấy”. - Chàng đáp: “Bữa đó anh có hẹn với một nhà xuất bản. Em nói với bạn em chịu khó mời người khác”. - Nàng bĩu môi: “Anh bớt viết đi. Có ai đọc văn anh đâu”. - Chàng đáp: “Rồi một ngày nào đó, người ta sẽ nhìn nhận những gì anh viết”. - Nàng xì một tiếng: “Em chẳng quan tâm tới chuyện đó. Nhưng dứt khoát anh phải chụp hình đám cưới của bạn em”. - Chàng: “Em nghĩ lại đi”. Cuộc tranh luận của họ chấm dứt với lời tuyên chiến của nàng: “Cho anh 3 ngày để suy nghĩ, nếu không…”
Ngày thứ nhất. Nàng “đình công”. Bếp núc nguội ngắt, tủ lạnh trống trơn. Quần áo dơ nằm chỏng trơ trong phòng tắm. Máy thu hình, máy tính, dàn hifi… bị nàng nhét xuống kho. Để tỏ lòng “nhân từ”, nàng để lại chiếc giường đôi cho cả hai. Chàng vẫn chúi mũi vào những trang giấy viết dở. Trong túi chàng còn một ít tiền. Ngày thứ nhì. Nàng tiến hành lục soát và chỉ để lại cho chàng cái túi trống rỗng và một mẩu giấy cảnh cáo: “Chớ có dại cầu viện từ bên ngoài, nếu không hậu quả sẽ thê thảm hơn đó”. Quả tình chàng đã lo lắng. Buổi tối, chàng năn nỉ nàng nhưng vô vọng. Nàng muốn chàng phải tuyệt đối tuân theo ý nàng. Đêm thứ ba. Chàng nằm quay mặt về một phía, nàng ngoảnh mặt nhìn sang phía khác. - Chàng: “Chúng ta cần nói chuyện…”. - Nàng: “Trừ phi là chuyện chụp hình đám cưới…”. - Chàng: “Chuyện rất quan trọng”. - Nàng im lặng - Chàng: “Anh đã gặp một cô gái”.
Nàng không tin vào tai mình. Nàng muốn vùng dậy tát cho chàng một cái, nhưng cố nén chờ chàng nói hết. Chàng rút từ trong ngực áo, chỗ trái tim chàng, một tấm hình. Mắt nàng nhòe lệ nghĩ, sao hôm qua mình quên lục chỗ đó nhỉ. - Chàng: “Cô ấy rất đẹp và nhân hậu”. Trái tim nàng tan nát khi biết rằng có tấm hình của một người con gái khác ở bên trái tim chàng. - Chàng: “Cô ấy hứa sẽ giúp anh thực hiện ước vọng văn chương”. Nàng giật mình bởi trong quá khứ, chính nàng cũng đã từng hứa như vậy. - Chàng: “Cô ấy rất yêu anh”. - Nàng ngồi bật dậy và quát to: “Bộ em không yêu anh hay sao?”. - Chàng: “Anh nghĩ là cô ấy sẽ không ép anh phải làm những điều anh không muốn”. - Nàng giận lắm. Chàng chìa bức hình cho nàng: “Em có muốn biết mặt cô ấy không?”. Nàng hất mạnh tay chàng. Chàng thở dài cất tấm ảnh sau ngực áo. Nàng bật khóc. Chàng tắt đèn nằm xuống. Nàng chong đèn ngồi một mình.
Chàng dường như ngủ say thở đều đều. Nàng thao thức. Nàng hối hận vì cách đối xử với chàng. Nàng sẽ không bắt ép chàng phải nhất nhất theo ý mình. Nàng muốn đánh thức chàng và nói với chàng những lời thật âu yếm. Nhìn vào ngực áo chàng, nàng muốn biết cô gái kia ra sao. Nàng nhẹ nhàng đưa tay rút tấm ảnh. Chợt nàng bật cười rồi liền đó òa khóc. Người trong ảnh không ai khác chính là nàng. Nàng khẽ hôn lên má chàng đang giả vờ ngủ.
(Sưu Tầm) | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Fri Jan 31, 2020 5:50 pm | |
| . Biển chiều nay đẹp quá phải không anh? - Đặng Trung Sinh
Hắn ngồi đó, mắt đăm đăm nhìn ra biển như nhìn vào cõi hư vô, điếu thuốc cứ thế cháy dần, cho đến khi tàn lửa chạm vào ngón tay, hắn vứt tàn thuốc và châm điếu khác, rít một hơi dài, đôi mắt vẫn đăm đăm nhìn ra biển, điếu thuốc lại tiếp tục cháy… Biển chiều nay lặng sóng, từng làn sóng nhẹ nhàng vỗ vào gộp đá, mơn man… Xa xa, những con thuyền đánh cá đang gần như đứng yên trên biển cả… – Biển chiều nay đẹp quá phải không anh? – Ừ, biển đẹp quá em ạ…
Hắn giật mình bởi câu đối đáp của ai đó rất gần. Hắn quay lại tìm kiếm, một đôi trai gái đang ngồi cách hắn một gộp đá, cô gái đang tựa đầu vào vai chàng trai, cả hai đang nhìn ra biển, ánh mắt ngời lên niềm hạnh phúc… Hắn giật mình không phải vì đôi trai gái đã phá đi sự tĩnh lặng mà hắn đang trải nghiệm, hắn giật mình vì đã nghe lại chính câu hỏi mà cách đây gần 10 năm hắn đã từng nghe: – Biển chiều nay đẹp quá phải không chú? – Ừ, nhưng chú yêu rừng núi quê mình hơn! Ngày ấy, tại chỗ này, chính nơi hắn đang ngồi, người con gái của hắn cũng tựa đầu vào vai hắn và hỏi hắn câu hỏi này, có khác chăng chỉ là cô gái kia gọi chàng trai bằng “anh”, còn người con gái của hắn thì gọi hắn bằng “chú” mà thôi. Và cũng chính câu đối đáp của đôi trai gái đã đưa hắn trở về ký ức…
– Chú ơi! Cho con xem cái này… – Cái này hả con… như thường lệ hắn đáp nhưng không nhìn vào cô gái, mà thuận tay lấy các món hàng theo cô gái yêu cầu, sau một lúc chọn lựa cô gái thanh toán tiền, hắn lại tiếp tục công việc của mình… – Chú ơi! Cho con hỏi… Lúc này hắn mới nhìn kỹ cô gái trước mặt, “cô bé” (sau này hắn luôn thích gọi như vậy) còn rất trẻ, chắc chỉ bằng tuổi con trai hắn, nghĩa là khoảng 20-21 tuổi, thân hình mảnh dẻ, một bên má lúm đồng tiền trông rất ngộ, nếu không nói là xinh. Sau một lúc trao đổi, hắn biết cô bé đang cần việc làm và có ý nhờ hắn hỏi thăm giùm. Tuy không chắc lắm nhưng hắn cũng hứa là sẽ hỏi thăm giùm cô bé và cho cô bé số điện thoại để liên lạc… Bẵng đi ba bốn hôm, khi mà hắn đã quên đi lời hứa, chuông điện thoại reo, hắn nghe máy… – Thưa chú, con là H hôm trước con có nhờ chú tìm giùm việc làm… – À! Chú có hỏi thăm một vài nơi nhưng người ta nói chưa cần người con ạ! – hắn nói dối… – Con cám ơn chú! Con đã tìm được việc rồi chú ạ, con điện để báo khỏi phiền chú… – Thế à! Chúc mừng con…
Thời gian trôi, hắn đã quên đi lời hứa và tấm lòng chân thật của cô gái… Khoảng hơn một tháng sau, hắn lại nhận được điện thoại của cô gái, lần này thì cô gái báo cho hắn biết cô đã nhận được tháng tiền công đầu tiên và có ý mời hắn đi uống nước để cám ơn…!!! Sau một lúc suy nghĩ, đắn đo mãi hắn mới nhận lời, bởi hắn có giúp được gì đâu…? Gặp nhau, sau những câu hỏi thăm bỡ ngỡ, dần dần quen, cô gái ríu rít kể cho hắn nghe đủ thứ, cô gái có vẻ rất hài lòng với công việc đang làm là dạy kèm cho hai cậu học sinh lớp 7 của mình… sau lần uống nước đó hắn thường xuyên gặp cô gái hơn, qua từng câu chuyện hắn hiểu thêm về hoàn cảnh của cô gái và cảm thấy ở cô gái một cái gì đó dễ mến, nhất là tính cách vui vẻ, chân thật của một cô gái vừa mới rời thôn quê vào chốn thị thành để đi học, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn hắn, hắn chỉ coi cô gái như là con gái mình mà thôi…
Cho tới một ngày… Hắn cùng cô bé ngồi trong một quán café, không gian trong quán rất trữ tình… sau những phút yên lặng bỗng dưng cô gái nép vào người hắn và nhỏ nhẹ: – Chú à… con nhớ chú nhiều lắm…! Hắn hơi giật mình, nhưng sau một lúc trấn tĩnh, hắn cười nhẹ. – Sao chú lại cười…? – Bé à… con bớt giỡn đi… chú chỉ xem con như con gái mình mà thôi… – Không… con nhớ chú thiệt mà…! Sau nhiều phút lặng thinh… không hiểu ma xui, quỷ khiến thế nào, hay cái bản tính đàn ông trong hắn đã trỗi dậy, hắn đặt một nụ hôn nhè nhẹ lên mái tóc của cô gái… cô gái yên lặng, ngất ngây trong hạnh phúc… – Mình về đi… – Dạ… Hắn nhớm mình chuẩn bị đứng dậy đến quày thanh toán tiền, cô gái bỗng ôm lấy cổ hắn và đặt lên môi hắn một nụ hôn… hắn đón nhận một cách thụ động, thờ ơ… rồi tới quày thanh toán tiền ra về… Đêm đó, hắn trằn trọc và suy nghĩ rất nhiều, lương tâm và cái thằng đàn ông trong hắn cứ co kéo nhau mãi để giành quyền sai khiến hắn nên làm như thế nào… rồi cuối cùng hắn cũng quyết định sẽ không gặp cô bé nữa… Ngày hôm sau, chuông điện thoại của hắn đổ dồn liên tục, hắn quyết định không nghe máy… nhưng rồi ngày hôm sau nữa cũng lại như vậy. Hắn đã không cầm lòng và đã lặng yên khi nghe đầu dây bên kia cô bé nói chuyện với hắn trong nước mắt và xin được gặp hắn chỉ một lần thôi. Sau khi suy nghĩ, hắn đồng ý, bởi hắn cũng muốn gặp để giải thích với cô bé rằng tình cảm mà hắn dành cho cô bé không phải là tình yêu nam nữ mà như tình cảm một người cha dành cho con mà thôi…
Gặp nhau, cô bé khóc rất nhiều mặc cho hắn cố giải thích, cô bé cũng nhất định không chấp nhận cái tình cảm cảm của một người lớn mà hắn dành cho cô bé… Giải thích mãi rồi cô bé cũng chịu, nhưng lại xin được hắn chở ra biển để được cùng ngắm biển với hắn một lần thôi… để cô bé khỏi bị hụt hẫng, hắn đã đồng ý… Và cũng tại nơi này, vào cái buổi chiều hôm đó, hắn và cô bé đã ngồi trước biển… khi mà hai thân xác một nam, một nữ kề sát vào nhau, không còn khoảng cách về lứa tuổi, cái thằng đàn ông trong hắn đã trỗi dậy… khi mà cô bé đã hoàn toàn lọt vào lòng hắn, hoàn toàn dâng hiến… khi mà cái khoảng cách tội lỗi không còn gì che chắn, thì từ trong sâu thẳm lý trí của hắn, lương tâm hắn bừng tỉnh… hắn đẩy cô bé ra xa… Bị từ chối… cô bé đã khóc nức nở, mặc cho hắn đã dùng hết khả năng để an ủi cô bé… rồi cuối cùng cô bé cũng nhận ra được sai lầm của mình và lí nhí cám ơn hắn… Để cô bé có đủ thời gian trấn tỉnh trở lại, hắn đưa cô bé trở về… Rồi cũng từ cái buổi chiều hôm đó hắn đã thay số điện thoại và không bao giờ gặp lại cô bé lần nào nữa…
Chiều nay, cũng như bao buổi chiều khác, mỗi khi căng thẳng hay có chuyện không vui, hắn lại ra đây, chính nơi mà hắn và cô bé đã có những giây phút bên nhau thật tuyệt vời và cũng để lại trong lòng hắn một kỷ niệm thật sâu sắc. Cái kỷ niệm đó làm cho hắn mỗi khi nhớ lại, hắn lại tự hỏi lòng mình: Tại sao lại như vậy…? hắn đã cư xử đúng hay sai, rằng hắn có yêu cô bé không? không yêu sao lại nhớ? rồi cuối cùng hắn cũng tìm được câu trả lời: Hắn đã kịp chiến thắng bản năng để cư xử đúng… nỗi nhớ nhung chỉ là một miền ký ức mà thôi… giờ đây ngồi trước biển, hắn luôn cầu mong cho cô bé được hạnh phúc… Biển vẫn mơn man, rì rào sóng vỗ, những con thuyền đã lên đèn, trước mặt hắn là cả một mặt biển long lanh với những ánh đèn xa tít tắp… . | |
| | | NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Thu Feb 06, 2020 9:50 am | |
| .
Sỏi đá cũng cần có nhau... - Sao Băng
Sự kiện bình thường, nhưng cũng khác thường. Các nhân vật bình thường, nhưng cũng khác thường. Hạnh phúc bình thường, nhưng cũng khác thường. Người kể chuyện dẫn chúng ta đi theo dòng cảm xúc của cá nhân, rồi hòa vào một cảm xúc chung của tình yêu thương và cảm thông với những số phận bình thường, mà cũng lại khác thường.
Ngày cưới đại ca của tôi, trời đã mưa rất to. Tôi và cô bạn thân mò mẫm mãi qua những chặng đường xa cuối cùng cũng đến được nhà đại ca. Cảm giác vừa thân thiết vừa ngại ngùng. Quen nhau đã bốn năm rồi nhưng đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp mặt và nói chuyện trực tiếp với đại ca… Tôi đã gặp đại ca ở một nơi chữa bệnh bằng cách bấm huyệt. Hàng ngày, tôi thấy đại ca, dáng người to béo, ngồi trên chiếc xe lăn được mẹ đẩy đi bấm huyệt. Nghe nói đại ca bị đánh vào cổ, dẫn đến liệt tứ chi. Nghe nói ngày đó đại ca mới ra trường đi làm. Nghe nói đại ca ngồi trên xe lăn như thế đã bốn năm rồi… Tôi thương mẹ đại ca, gương mặt sạm đen với nụ cười khắc khổ. Bác vẫn từng ngày đẩy xe, từng giờ quạt mát cho đại ca trong những ngày hè nóng nực. Nhưng tôi chưa bao giờ nói chuyện với bác, cũng như chưa bao giờ nói chuyện với đại ca.
Ở chỗ bấm huyệt, vào mùa hè có rất nhiều trẻ con, chủ yếu là học sinh cấp hai từ khắp nơi đến chữa cận thị. Bọn chúng,có đứa ngoan, cũng có đứa hư, nhưng tình cảm đều hồn nhiên, trong sáng. Tôi – một sinh viên năm hai – đã hòa mình với bọn chúng. Chúng tôi cùng xếp hàng chờ đến lượt bấm huyệt. Cùng dạy nhau chơi trò ru bic, gấp hạc giấy, gấp trái tim… Tôi đã nhận từ bọn trẻ không ít tình cảm khi chúng nhường cho tôi bấm huyệt trước để về vì nhà tôi ở xa. Chúng còn tặng tôi những món quà, những tấm hình nhỏ làm kỉ niệm trước ngày về quê đi học… Một cách tự nhiên, tôi cũng muốn trao lại những tình cảm ấy cho chúng và cho những bệnh nhân đi bấm huyệt khác. Ngày cuối cùng, trước khi trở về thành phố học tập, ngoài những món quà nhỏ tặng bọn trẻ con, tôi đã tặng đại ca một cuốn sách. Đó là cuốn hạt giống tâm hồn về ý nghĩa cuộc sống kèm lời chúc đại ca sớm hồi phục. Trong cuốn sách, có ghi số điện thoại của tôi. Tôi và đại ca quen nhau từ đó. Quen đại ca được một thời gian ngắn, tôi nhờ cô bạn thân cùng làm bạn thêm với đại ca. Suốt bốn năm, chúng tôi cùng nhắn tin cho đại ca. Và hôm nay, chúng tôi cũng cùng nhau đến dự đám cưới này.
Lần đầu tiên nói chuyện trực tiếp, tôi và cô bạn thân thấy đại ca thật hiền. Trái ngược hẳn nick name chúng tôi đặt cho “đại ca”. Đại ca vẫn phải ngồi trên xe lăn. Nhưng có thể cố gắng đứng dậy khoác vai hai chúng tôi làm điểm tựa để chụp ảnh kỉ niệm. Ảnh cưới của đại ca rất đẹp. Chú rể cười thật hiền và hạnh phúc, cô dâu cũng cười rất tươi và xinh. Những người bạn của đại ca từ xa về dự đám cưới, trong đó có chúng tôi, vừa thầm mừng cho đại ca, vừa băn khoăn muốn biết vợ của đại ca là người thế nào. “Em thay mặt anh trai em cảm ơn các anh chị đã bớt chút thời gian và không quản đường xá xa xôi về dự đám cưới… Không giấu gì các anh chị, anh trai em có người thương. Chị ấy là người làng bên. Hồi nhỏ, chị ấy bị ngã gãy chân nhưng nhà nghèo không có tiền chữa trị nên bị tật không đi lại được. Gần đây có ông cậu làm ăn khấm khá, giúp đỡ chị ấy đi phẫu thuật nên bây giờ chị ấy đi lại được nhưng hơi khập khiễng…” Em trai đại ca đã giải đáp băn khoăn cho chúng tôi.
Rồi đại ca đi đón cô dâu về. Cô dâu nhỏ nhắn, xinh xắn trong chiếc váy trắng, đẩy chiếc xe lăn của chú rể, bước khập khiễng vào hôn trường. Nhưng ánh mắt chị ngơ ngác, vô hồn. Có lẽ chị là cô dâu duy nhất tôi gặp không đi giày hay dép cao gót. Thay vào đó chị chỉ đi đôi dép lê bình thường mọi người vẫn đi ở nhà. Đại ca lại gắng gượng tì vào đôi vai nhỏ bé của chị, cùng chị đứng lên chào quan viên hai họ. Chân chị thoáng chuệnh choạng nhưng lại cố gắng đứng vững. Còn gương mặt vẫn một vẻ ngơ ngác, vô hồn. Mọi người vỗ tay chúc mừng hạnh phúc cho hai vợ chồng đại ca nhưng trong lòng ai cũng ngậm ngùi. Mẹ đại ca khẽ chấm nước mắt trước khi lên tặng con dâu món quà kỉ niệm. Tôi lại nhớ lời bác nói với tôi trước đó: “Anh ấy hiền lắm, hiền nhất nhà. Từ bé đến nay chưa đánh ai bao giờ. Nếu mà không bị thế này thì sẽ tha hồ chọn lựa nhưng giờ bị thế này đành phải chấp nhận thôi cháu ạ!” Nhận món quà của mẹ chồng, vợ đại ca cũng khẽ lau nước mắt. Nhiều người cũng ứa nước mắt theo. Vì mừng hay vì thương? Cho chị? Hay cho đại ca của tôi? Hôm nay là ngày vui của anh chị. Ai cũng biết bao khó khăn còn đè nặng trên những đôi chân tật nguyền. Nhưng ai cũng mong cho anh chị hạnh phúc.
Tiếng nhạc lại nổi lên da diết: “Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng… Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”… . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Mon Feb 10, 2020 11:25 am | |
| .
Cúc hương ngốc dại - Nguyễn Thiên Ngân Nhà Tuân khá xa nhà tôi. Có những tối Tuân đi học tiếng Anh về, ghé ngang nhà đưa cho tôi một thỏi chocolate rồi lại tất tả đạp xe đi. Lúc nào cậu ấy cũng vội vã, một cái vẻ vội vã rất buồn cười vì đôi khi chẳng có gì để vội cả. Có lẽ, Tuân không giỏi che giấu xúc cảm, nên cậu ấy thường quay đi khi bị tôi nhìn sâu vào mắt. Thành phố vào mùa mưa. Những buổi sớm thức dậy nghe mưa rì rầm ngoài cửa sổ, tôi thích thú vô cùng. Không hiểu sao tôi thích màu xám xịt u buồn của bầu trời nặng mây hay mưa giông. “Vì An biết đằng sau nó vẫn luôn có mặt trời”, Tuân từng nói như vậy khi tôi chia sẻ suy nghĩ của mình. Tôi không rõ. Có lẽ Tuân suy nghĩ hơi quá trầm trọng theo chiều hướng trong những cuốn tiểu thuyết cậu ấy hay đọc. Đơn giản chỉ là tôi thích bầu trời màu chì, thế thôi. Những ngày mưa, tôi ngồi lì bên ban công, nhấm nháp mẩu chocolate Tuân mang đến. Tuân luôn mua loại dark chocolate, bất chấp tôi than van rằng mình chỉ thích loại chocolate sữa hoặc có nhân hạt dẻ. Đó là điều duy nhất Tuân làm trái ý tôi. Riết rồi tôi cũng quen ăn chocolate đắng từ lúc nào không rõ. Và tôi thấy Tuân đúng. Tẻ nhạt biết bao những thỏi chocolate không đắng! Nếu quen thuộc và dễ chịu với cảm giác bình yên một mẩu chocolate sữa mang lại, làm sao bạn có thể nhận ra rằng dư vị của mẩu chocolate đắng trên miệng rất lâu sau đó bao giờ cũng rất ngọt ngào. Ngọt ngào bất ngờ, kỳ lạ. Thi thoảng Tuân đến, cùng tôi ngồi trên ban công, yên lặng nhìn mưa. Cậu cẩn thận vun lại mấy chậu cúc hương be bé xinh xinh rồi kéo vào sát chân tường. “Thử tưởng tượng cơn mưa nặng trình trịch đó giáng xuống mấy khóm hoa mỏng manh này, thương quá!” - Tuân lúng túng giải thích khi tôi nhìn cậu đầy ngạc nhiên, thích thú. Hai đứa ngồi đong đưa chân, đôi lúc giật bắn mình khi nước mưa lạnh toát nhỏ trúng đỉnh đầu và hít đầy lồng ngực không gian mênh mang mưa pha lẫn mùi cúc hương hăng hắc gần gũi đến tê dại. Hoàng xuất hiện trong cuộc sống của tôi, mang đến một làn gió mới. Tôi quen cậu ta ở lớp nhảy hiện đại, cái lớp mà tôi đã nài ép Tuân đi học chung hàng trăm lần nhưng cậu ấy nhất mực không đồng ý. Không còn những chiều chống cằm mơ màng đọc tiểu thuyết Tuân mang đến, không còn những cuộc nói chuyện lơ mơ chẳng đi về nơi đâu... Tôi cùng Hoàng lang thang những quán cà phê cóc trong thành phố, nghe Hoàng kể về những chuyến đi xa. Đôi lần Hoàng gửi xe Honda đâu đó, xuất hiện trước nhà tôi với chiếc xe đạp thể thao, hăm hở rủ tôi đi dạo buổi chiều. Những vòng xe bất giác nhắc tôi về Tuân, thoáng chút ăn năn. Ghé nhà không gặp tôi, Tuân gửi lại chocolate đắng cho mẹ. Một buổi chiều mưa hiếm hoi gặp nhau, tôi rạng rỡ thông báo với Tuân: - Mình đã thích một người! - Thế à?! - Tuân trả lời ra vẻ thờ ơ nhưng tôi cũng không để ý đến. - Cậu không biết bạn ấy đâu - tôi tiếp tục hồ hởi. - Vậy ư? - Cậu còn cú pháp nào thú vị hơn nữa không? Vậy ư? Thế à? Sao nữa? Thật chứ?! - tôi bắt đầu tức giận. Tuân nhảy phóc xuống ban công nhìn tôi bằng đôi mắt buồn tênh, và giọng nói cũng buồn tênh: - Mình biết điều đó trước cả khi cậu nói ra. Rồi đau xót, cậu ta quét mắt sang chậu cúc hương dưới ban công. Tôi hoảng hốt nhìn theo. Chúng đã héo rũ, vàng bợt ra từ lúc nào. Trời thì đầy mưa. Tuân biến mất với những chậu cúc hương héo rũ. Nhiều ngày sau đó cậu ấy không ghé nhà tôi nữa. Tôi nhận ra vì không còn những thỏi chocolate đắng nghét mang dư vị ngọt ngào gửi lại. Hoàng thì vẫn mới mẻ và thú vị như một trang truyện phiêu lưu. Tôi quên dần Tuân, cũng dần bỏ quên cảm giác thèm da diết một thanh chocolate đắng. Cuối mùa mưa đó, Tuân xuất hiện ở nhà tôi như chưa hề biến mất. Tay Tuân cầm một chậu cúc hương be bé xanh non chúm chím những nụ vàng li ti. Tôi ngượng ngùng bối rối. - Mình không biết chăm sóc, chúng lại chết nữa thôi. Tuân im lặng đặt nó vào chỗ cũ, nheo mắt nói với tôi: - An quên chăm sóc, chứ không phải là không biết. Không hiểu sao tôi muốn khóc. Thế là nước mắt tôi trào ra, rồi tôi khóc rưng rức như bị đòn oan. Tuân bối rối, nhưng cậu ấy không cuống quýt dỗ dành như mọi lần bị tôi mè nheo. Cậu ấy vỗ nhẹ lên vai tôi, nhẹ nhàng: - Mình đùa thôi, An đừng khóc. Cúc hương là giống thân thảo mong manh, nở hết một mùa hoa, nó sẽ héo, để hạt rơi xuống mọc lên cây khác. Chậu cúc hương này mình gieo từ những hạt mùa cũ đấy. Giá như An thấy chúng từ lúc nảy mầm, dễ thương lắm! Tôi vẫn khóc nhiều, mãi lâu sau mới bình tĩnh trở lại. Thậm chí bản thân tôi cũng không hiểu vì sao. Tuân cứ bình tĩnh đến lạ lùng. Tôi phá tan bầu không khí ngượng ngùng bằng cách hỏi chỏng Tuân: - Còn chocolate đắng đâu? Tuân cười: - Bấy nay, mình tưởng An đã “cai nghiện” nó rồi?! Tôi đột nhiên muốn khóc trở lại. Tuân thản nhiên như không biết gì, chậm rãi thông báo - vô tâm hệt như cái ngày tôi nói với Tuân về Hoàng. - An này, cuối tuần này mình bay. Ba mình sẽ đón mình ở Canberra. Đôi lúc mình cảm thấy lo lắng, không hiểu mình sẽ phải cư xử thế nào với dì và các em con dì. Rồi mình sẽ mất bao lâu để không còn thấy lạc lõng ở nơi xa lạ đó. Thậm chí mình muốn ở lại, muốn tung hê tất cả những gì ba đã chuẩn bị cho mình: những ngày miệt mài học tiếng Anh, giấy tờ thủ tục... Nhưng bây giờ thì mình biết, mình phải đi... Tôi không nhớ mình đã làm gì trong buổi chiều Tuân đi. Tôi chỉ nhớ cảm giác trống trải lạ lùng, và tôi khóc một cách vô ý thức. Bất cứ một điều gì gợi về Tuân cũng khiến tôi thổn thức, dù có khi đó chỉ là một chiếc lá vàng rơi trong khoảng trời im lặng. Những thanh dark chocolate tôi tự mua không còn để lại dư vị ngọt ngào. Cảm giác đắng nghét, đắng khủng khiếp đọng lại mãi mãi trong tôi, tựa như một bản nhạc đang lên đến đỉnh điểm thì bất ngờ bặt câm khiến người ta ngơ ngẩn, hụt hẫng đến vô chừng. Hoàng hỏi vì sao tôi bỗng nhiên buồn bã, nhưng làm sao tôi có thể nói cho Hoàng hiểu được. Bốn năm đại học trôi qua như chớp mắt, không có quá nhiều sự kiện. Tôi và Hoàng chia tay, kết thúc một mối tình trong sáng nhưng quá nhiều trúc trắc tiềm ẩn mà cả hai tự biết mình không thể nào hóa giải nổi. Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn đi chơi cùng nhau như hai người bạn đầy thấu hiểu. Tôi thích như vậy hơn. Một quyển sách phiêu lưu dù thú vị bao nhiêu, thì kết cục cũng đã bị phơi bày khi gấp lại. Có chăng, đó chỉ là một quyển sách hay và đáng nhớ chứ người ta không thể nào đọc mãi. Tuân không liên lạc từ ngày đó. Tôi đã vượt qua cảm giác trống rỗng từ rất lâu, nhưng mỗi ký ức về Tuân đều làm tôi thấy lòng chùn lại, tựa như một phím đàn hoang phế vụt run rẩy khi một lần được phủi bụi và rung lên sau bao nhiêu mùa quên lãng. Hai mươi mấy tuổi, tôi không còn là một cô bé mười tám khờ khạo không thấy được lòng Tuân, cũng không hiểu rõ lòng mình. Có thể tôi yêu Tuân mà đến mãi sau này mới nhận ra, cũng có thể tôi chỉ mang một hình bóng trọn vẹn của quá khứ ra để lừa dối những dại khờ trong tình cảm hiện tại của mình. Nhưng có một điều tôi biết, rằng sau tất cả những cuộc nổi loạn, rốt cục cảm giác bình yên của tôi cũng chỉ nằm lại mãi mãi trong những chiều mưa ngồi bên Tuân, đong đưa bàn chân trên ban công, nghe cậu ấy kể những câu chuyện hoang đường nhưng êm đềm và hít đầy mùi hăng hắc mát dịu của khóm cúc hương đẫm mưa... . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Sun Feb 16, 2020 8:12 am | |
| . CON CỌP YÊU QUÍ CỦA TÔI - Hưng Yên
Tôi nhất đinh đòi thày bu tôi phải cưới Hương cho tôi. Tôi thích nàng, tôi yêu nàng và tôi phải lấy nàng cho bằng được. Nếu thày bu tôi không hỏi cưới nàng cho tôi thì tôi sẽ bỏ nhà ra đi, đi giang hồ hay đi theo Việt Minh cho Tây nó bắn tôi lòi ruột ra. Chẳng thà thế chứ sống mà thiếu Hương tôi sống không được. Tôi cũng đã ngỏ ý ấy với nàng và nàng bảo hễ cứ có mai mối bên nhà tôi tới là bên nhà nàng bằng lòng ngay. Tình yêu của tôi đối với Hương nó vĩ đại và mãnh liệt như thế có lẽ cả làng ai cũng biết. Biết nhưng có ai giúp gì được cho tôi đâu, có khi họ còn nói ra nói vô khiến bu tôi càng quyết liệt không cho tôi lấy Hương, và khi nghe tôi dọa đi theo Việt Minh cho Tây nó bắn tôi lòi ruột ra, bu tôi còn bảo: - Chẳng thà Tây nó bắn mày chứ bu giết mày không được con ạ – Bu tôi rơm rớm nước mắt – Ðẻ mày ra, nuôi mày tới bây lớn sao tự dưng mày lại không muốn sống nữa hở con? Gái làng này thiếu gì sao mày không lấy mà mày lại đòi lấy cái con tuổi cọp ấy? Mày tuổi lợn mà bu lại cưới vợ tuổi cọp cho mày thì có khác nào bu giết mày không?! Thày bu tôi hiếm muộn chỉ sinh được có 8 người con, 5 trai 3 gái. Các chú các bác tôi người nào cũng từ 10 đến 12 con cơ. Chỉ cái việc có 5 thằng con trai thôi mà đã gây ra một sự xì xèo rồi. Người ta bảo sanh 5 đứa con gái là sanh được “Ngũ Long Công Chúa” quý lắm, cha mẹ thế nào cũng được nhờ, tha hồ ngồi rung đùi mà hưởng. Chả thế mà ca dao Việt Nam ta đã có những câu: Mẹ sinh con trai làm chi, Ðầu gà má lợn đem đi cho người! Mẹ sinh con gái như tôi, Ðầu gà má lợn mẹ ngồi mẹ sơi!
Lúc đầu bu tôi làm liền tù tì một lèo 3 đứa con gái, thày tôi khoái chí bảo: “Bu mày ráng thêm 2 con tèo nữa cho đủ Ngũ Long Công Chúa, sau đó làm thêm vài thằng cu tí nữa là tha hồ mà sướng!”. Nhưng bu tôi chỉ sanh có 3 đứa con gái, kế đó lại làm một lèo 5 thằng con trai rồi thôi luôn. Chơi tam cúc có 4 con tốt cùng loại đỏ hay đen thì gọi là tứ tử, có 5 tốt là ngũ tử. Tứ tử trình làng, ngũ tử cướp cái, khéo chơi một chút là ăn trùm làng. Còn đẻ mà 5 thằng con trai thì người ta lại bảo là ngũ quỷ, thế nào trong 5 thằng cũng có một, hai thằng chẳng ra gì. Trong 5 anh em trai thì tôi là thằng thứ ba, nếu tính cả ba người con gái thì tôi là thằng thứ sáu. Hai ông anh trước tôi đã lập gia đình rồi, các ông ấy củ mỉ cù mì, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Lấy vợ xong là chí thú làm ăn, chỉ mong sao nói được nghiệp nhà, cầy ruộng cấy lúa. Nói một cách giản dị là làm một anh nông dân chứ không có cao vọng gì cả. Hai đứa em trai thì còn đi học, chúng chưa biết gì, có muốn vợ cũng phải chờ vài năm nữa. “Nữ thập tam, nam thập lục” các cụ ta đã bảo như thế nên dù tôi mới 16 tuổi đã đòi vợ cũng không ai nói gì được. Cái điều ồn ào nhất là tôi tuổi heo mà lại đòi lấy vợ tuổi cọp. Hương kém tôi 3 tuổi, mới 13 thôi mà trông cứ mơn mởn ra, mỗi lần gặp nàng là tôi chỉ muốn cắn cho một cái. Trai làng tôi nhiều thằng nhìn nàng đôi mắt cứ hau háu, thèm nhỏ dãi, nhưng chúng chỉ dám đứng xa xa mà nhìn thôi chứ không dám xáp lại gần. Lấy vợ tuổi cọp để về chầu ông bà ông vải sớm à?! Con gái tuổi Dần khó lấy chồng lắm, chả biết đã có bao nhiêu bà bị ở giá xuốt đời vì sanh nhằm năm Dần và đã có bao nhiêu ông sớm ngỏm củ tỏi vì lấy phải vợ tuổi cọp, thế nhưng người ta vẫn cứ kiêng “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” mà lị! Thày tôi ngày trước có đi lính Pháp, dù gì thì cũng đã có tiếp xúc với Tây học một tý nên không đến nỗi nào. Thấy tôi tuyên bố nhất định phải lấy Hương, dù hôm trước cưới, hôm sau có đi ngủ với giun ngay cũng cứ lấy, thày tôi bảo: - Nó đã nhất định như thế thì mình cứ đi nói con đó cho nó. Biết đâu thằng này chẳng đặc biệt hơn người ta, tôi nghe kể heo rừng mà thuộc loại “lăn chai” thì cọp cụng chả làm gì được! Nghe thày tôi nói, tôi đã mừng mừng nhưng bu tôi lại gắt lên: - Ông có đẻ đâu mà ông đau, đã không cản nó thì chớ lại còn nối giáo cho giặc, không nghe cụ Lý Ngọ bảo “Dần, Thân, Tỵ, Hợi tứ hành xung” đấy à? Ai lại đi cưới con gái tuổi Dần về cho con mình, có mà điên! Thày tôi cười khà khà: - Gớm, cái lão Lý Ngọ ấy nói đã chắc gì đúng. Lão để mồ, để mả, coi hướng nhà hướng cửa, bói toán cho người khác thì được thế mà chính lão lại nghèo rớt mồng tơi!
Cụ Lý Ngọ người làng bên, làm thày địa lý và coi bói, cũng phét lác khiếp lắm. Nhờ cụ coi thế đất hoặc sửa hướng cửa, hướng nhà cho thì chỉ một bữa rượu với vài đồng bạc. Cụ khoe là đã để mồ để mả cho nhiều người, có người nhờ cụ mà ăn nên làm ra hoặc con cái học hành đỗ đạt làm đến tri phủ, tri huyện, còn những hạng như lý trưởng, chánh tổng thì khối. Có điều cụ làm cho người ta được, còn làm cho chính mình lại không được, hoặc giả là cụ quên chưa làm cho mình nên lúc nào cụ cũng chỉ có một cái quần cháo lòng với cái áo the thâm rách và cái khăn xếp dán nhấm tứ tung. Một hôm đi qua trước cửa nhà tôi, cụ đứng ngắm nghía một lát rồi lững thững bước vào. Nghe chó sủa, thày tôi chạy ra, may mà đúng lúc, nếu không thì cụ đã bị mấy con chó cắn cho te tua rồi, “chó cắn áo rách” mà lị! Sau một tuần trà nước, cụ bảo: - Tại căn nhà này quay về hướng Nam, chứ nếu mà hướng Bắc thì ông đã có 5 đứa con gái thay vì 5 thằng con trai rồi! Chắc ý cụ muốn nói thay vì “Ngũ Quỷ” là “Ngũ Long” chứ gì. Thấy tôi ngồi học ở bàn, cụ gọi đến cho cụ coi, ngắm nghía một lát, cụ phán: - Thằng này tướng mạo coi cũng tạm được, nhưng mặt này là mặt bán trời không mời Thiên Lôi đây! Khi cụ đi rồi, tôi nghe thày tôi lẩm bẩm: - Làm cửa về hướng Bắc để mùa Ðông gió Bấc thổi vào cho mà chết rét, còn nhà có nhiều con gái chỉ tổ lo ngay ngáy chứ nước mẹ gì, dốt thế mà cũng bàn! Riêng tôi, chỉ nhìn hình dáng cụ là đã chán rồi, tôi hỏi thày tôi: - Chắc nhà ông thày Ðịa Lý này ngon lành lắm hở thày? - Không bằng cái bếp nhà mình!
Có tin vào thày bói cũng chỉ nên tin một phần nào cho nó vui thôi chứ chẳng nên tin nhiều làm gì. Những vị có chân tài, đọc nhiều, hiểu rộng và có nhiều kinh nghiệm chả nói làm gì, còn phần đông là những tay ấm ớ, nghèo rớt mồng tơi lại chỉ cách cho người khác làm giầu mới tiếu lâm chứ?! Cứ tin vào những điều các vị ấy tán hiêu tán vượn thì có ngày đổ thóc giống ra mà ăn! Làm cái gì cũng phải coi ngày, coi giờ, hạp với không hạp, kiêng cái này cữ cái kia... Cứ như việc lấy vợ của hai ông anh tôi thì rõ. Trước khi cưới dâu, bu tôi đã nhờ thày so tuổi, coi ngày đủ thứ, thế nên hai ông anh tôi mới dinh về được hai bà vợ, một bà thì như cái hột mít, còn một bà lại gầy đét như con cá hố! Hai người con dâu này đều do bu tôi chọn cả. Tôi ấy à, nếu không lấy được người tôi yêu chẳng thà tôi ở giá cho đến già hoặc đi theo Việt Minh cho Tây nó bắn lòi phèo ra chứ nhất định không chịu bắt chước mấy ông anh tôi. Thày tôi xem chừng đã ngả hẳn về phía tôi, chỉ riêng bu tôi là còn găng lắm, có lúc bà nổi cơn tam bành chửi tôi thậm tệ, bà nhiếc: “Cho mày đi học ngậm bút sắt hay ngậm cái gì mà mày ngu thế? Tử tế không muốn lại muốn rước cái của nợ vào mình”. Có lần bu tôi lại dùng tình cảm để lung lạc tôi, bà mếu máo: - Mày có chọc phá đền miếu nào không hở con, để đến nỗi những người khuất mày khuất mặt nổi giận mà phạt mày trở nên dở dở ương ương thế? Có thì bảo cho bu biết để bu sửa lễ tạ lỗi cho, kẻo càng ngày nó càng lậm vào thì khổ đấy con ạ, chứ cưới vợ đẹp về rồi lăn đùng ra chết thì cưới làm gì?! Mày nghe lời bu đi, chọn con khác, hễ bu nhờ thày coi tuổi mà thấy hạp là bu cưới ngay cho! Mặc bu tôi nói gì thì nói, tôi vẫn khăng khăng chỉ lấy Hương của tôi thôi. Nói mãi mỏi mồm, bu tôi bèn đổi chiến thuật là không thèm nói gì đến tôi nữa. Trong làng tôi lại có tiếng xì xèo: “Ðã bảo là đẻ 5 thằng con trai, Ngũ Quỷ thì thế nào chả có một, hai thằng chẳng ra gì mà”! Ngoài ra họ còn đồn tôi là thằng dở hơi hoặc điên điên khùng khùng... Một lần Dì Năm, em gái của bu tôi tới chơi, lấy tay sờ trán tôi như mấy bà mẹ thường khám xem con mình có ấm đầu không rồi Dì hỏi: - Mày có bị làm sao không thế hở con? Tôi hỏi lại: - Làm sao là làm sao hả Dì? - Nghĩa là mày có ốm đau, bệnh tật gì không mà mày lại kỳ cục thế? - Con có làm gì đâu mà Dì bảo là kỳ cục? - Không kỳ cục làm sao mày tuổi Hợi lại đòi cưới con vợ tuổi Dần? - Thế tuổi nào mới lấy vợ tuổi Dần được? - Không tuổi nào lấy vợ tuổi Dần được! Tôi ngập ngừng: -Thế nếu Dì cũng tuổi Dần thì Dì có bảo là không tuổi nào lấy vợ tuổi Dần được không? Bu tôi đứng bên cạnh, cho là tôi hỗn với Dì, sẵn tay cầm cái chổi, bà đập lên đầu tôi cái cốp làm tôi giật mình bỏ chạy.
Thế mới biết ở đời làm chuyện gì cũng phải có quyết tâm mới được. Việc càng khó thì quyết tâm càng phải cao, chứ nếu cứ xìu xìu ển ển, đến đâu hay đến đó thì còn lâu mới thành công được. Thày tôi tuy đã ngả hẳn về phía tôi nhưng là theo kiểu thụ động thôi, chứ thày tôi cũng không thể bênh vực tôi một cách tích cực được, dù gì thì cụ ông cũng phải nể cụ bà chứ! Riêng tôi, đã “chót đành phải chét”, làm một phát tháu cáy. Nếu bu tôi theo ván bài này tới cùng có lẽ tôi phải đổi chiến thuật khác. Thú thật, bỏ Hương để lấy người khác thì tôi không bỏ được, còn bỏ nhà đi theo Việt Minh cho Tây nó bắn lòi phèo ra tôi cũng teo lắm, thế nhưng tôi vẫn phải tố một cú chót xem sao. Một hôm tôi giả vờ sắp xếp quần áo bỏ vào một cái rương nhỏ, như đang chuẩn bị cho một chuyến đi xa. Tôi cố làm dềnh dang cho bu tôi thấy. Quả nhiên, tưởng tôi sắp bỏ nhà đi xa thật, bu tôi khóc bù lu bù loa: - Ối giời ơi, con ơi! Mày tính bỏ thày bỏ bu mày đi thật đấy à? Mày muốn lấy vợ thì bu lấy cho mày chứ bu có cấm cản gì mày đâu? Chẳng qua là bu chỉ không bằng lòng cho mày lấy cái con tuổi Dần ấy thôi. Ðẻ mày ra, nuôi mày từ lúc một bàn tay không hết, hai bàn tay không đầy cho tới bây lớn để mày giả nghĩa thày, nghĩa bu như thế đấy hở con?! Dù chỉ mới dàn giáo thế thôi chứ tôi đã định đi ngay đâu, nhưng thấy bu tôi khóc thảm thiết quá, tôi cũng mủi lòng nước mắt, nước mũi chẩy lã chã, nói không nên lời: - Bu không thương con thì bu cứ để con đi chết trận chết mạc, chết đông chết tây cho rồi!... Quả thật là tiến thoái lưỡng nan. Làm cho bu tôi tưởng là tôi sắp đi, bây giờ không đi cũng kỳ, còn đi thật thì biết đi đâu? Ðang lúng túng không biết phải làm sao, thì may quá, cậu Út tôi tới. Bên Ngoại tôi chỉ có cậu Út là người danh giá và có uy tín với chúng tôi hơn cả. Chẳng những cậu có uy tín với đám trẻ mà còn uy tín cả với người lớn nữa. Cậu có bằng Ðíp-lôm lại đang làm Nhật trình ở trên Hà Nội. Ngày đó ở quê tôi, các vị làm văn, làm báo được coi là danh giá lắm. Cậu Út làm Nhật trình tức là làm báo. Thỉnh thoảng cậu mới về thăm nhà một lần, đầu cậu chải bi-dăng-tin bóng loáng, tóc để cánh gà úp sát vào tai, chân đi giầy đơ-cu-lơ, quần tây trắng, áo sơ mi trắng bỏ trong quần, túi áo cài chiếc bút máy hiệu Kaolo, thứ bút mà mỗi khi viết phải mở nắp rồi xoay xoay cho cái ngòi bút trồi lên, viết xong lại vặn cho cái ngòi bút tụt xuống rồi đậy nắp lại. Ngày ấy bọn trẻ chúng tôi thì thào chỉ mấy ông làm Nhật trình mới có loại bút đó. Mỗi lần cậu Út về, cậu kể chuyện Hà Nội tưng bừng, cậu nói gì người lớn cũng như đám trẻ chúng tôi đều tin hết. Bước vào nhà, thấy bu tôi đang bù lu bù loa, còn tôi thì mếu máo, cậu mới hỏi đầu đuôi sự việc. Bu tôi kể câu chuyện tôi đòi lấy vợ tuổi Dần cho cậu nghe. Ðợi bu tôi nói xong, tôi cũng bầy tỏ nỗi lòng để cậu hiểu. Nghe xong, cậu cười cười hỏi tôi: - Cháu định lấy cái con Hương, con ông Chánh Ðoàn ở xóm Giữa chứ gì? Vừa rồi đi đường cậu cũng có gặp nó, con này được, đã thắt đáy lưng ong lại mảnh mày hay hạt... Quay về phía bu tôi, cậu tiếp: - Chị mà được đứa con dâu như thế là quý lắm rồi còn đòi chi nữa. Còn cái vụ tuổi tác, hạp với không hạp, nó xưa quá rồi chị ơi. Cứ tin vào mấy ông thày bói thì có ngày đổ thóc giống ra mà ăn, rồi hoa hồng không trưng đi trưng hoa cứt lợn!... Thật cậu là người ăn học có khác, cậu nói câu nào cứ chắc nình nịch câu ấy. Chiều hôm đó, cậu ở lại dùng cơm với gia đình tôi và cũng nhờ sự dẫn giải của cậu mà bu tôi nghe ra.
Cuối năm đó, tôi rước được con cọp yêu quý của tôi về nhà. Cậu Út tôi lại còn bảo: - Cưới vợ rồi, nếu mày không muốn ở nhà quê thì lên Hà Nội làm Nhật trình với cậu. Cũng phải ra ngoài để mở mắt ra với người ta, chứ cứ lúi húi thế này mãi đến bao giờ mới khôn được?! Người xưa có câu “Không vào hang hùm sao bắt được cọp con” thật đúng quá sức. Tôi không chỉ vào “hang hùm” một lần, mà đã mò mẫm vào nhiều lần, có thể nói là rất nhiều lần. Cứ thế rỉ rả tôi đã khều ra được gần một tá cọp con, con nào con nấy đều rất dễ thương, còn con cọp mẹ thì càng ngày càng hiền khô à. Nghe đến đây có lẽ quý vị thày bói cảm thấy ngứa tai, “nghịch nhĩ” lắm đấy: Ừ, ba hoa cho lắm vào, đến khi lăn đùng ra chết nhăn răng mới không kịp hối! Quý vị rủa tôi như thế cũng chẳng sao.
Tôi sinh năm 1935, tuổi Ất Hợi, còn con cọp cưng của tôi sinh năm 1938, tuổi Mậu Dần. Con Heo 74, con Cọp 71... Hai con ôm nhau ngủ đã gần 60 năm nay mà chẳng có chuyện gì xẩy ra cả. Giả như bây giờ tôi có nhắm mằt xuôi tay mà về chầu ông bà đi chăng nữa thì cái câu “Tứ Hành Xung” của quý vị thày bói cũng là sai rồi! . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Mon Feb 24, 2020 3:22 pm | |
| .
Một thuở yêu người - Ngô Lạp
Chàng đứng trên cao nhìn xuống cái hồ nước bốc khói dưới kia, lòng chợt thấy nhói đau vì một chùm kỷ niệm xưa bất chợt ùa về và bóp nghiến lấy trái tim bệnh tật của chàng. Chàng thấy mình vẫn còn đang là một chàng trai ba mươi hai tuổi, mạnh mẽ, yêu đời, nét mặt lúc nào cũng trầm tư như một triết gia. Còn nàng là cô bé mới hai mươi tuổi tràn đầy sức sống và đang yêu đủ thứ: nàng yêu văn thơ, yêu tiểu thuyết, yêu những bản nhạc Hoa lời Việt lúc đó đang rất thịnh hành. Và nàng cũng đang yêu chàng say đắm...
Chàng quen nàng thật tình cờ khi chàng và các bạn học cùng lớp đi dã ngoại ở suối nước nóng này. Nàng ngồi một mình cô đơn nhưng giả vờ ngổ ngáo khi chàng bước đến làm quen. Nàng tự giới thiệu nàng là sinh viên năm thứ nhất, và nhà của nàng ở gần bên suối nước nóng, cũng thuộc xã Đạ Long của huyện Đam Rông này. Nàng giới thiệu cho chàng biết đôi chút về quê hương của nàng, một huyện lỵ nhỏ với người dân tộc thiểu số chiếm tới hơn bảy mươi phần trăm dân số. Nàng kể cho chàng nghe về những buổi chiều thứ bảy nàng thường ra ngồi bên suối nước nóng để nghe tiếng suối róc rách như thì thầm tâm sự với nàng. Đôi khi nàng tắm suối bằng một bộ đồ tắm che kín gần hết toàn thân, trầm mình trong làn nước nóng đủ dịu dàng để ve vuốt làn da trắng của nàng và cũng đủ bạo liệt để làm cho nàng xuýt xoa khe khẻ... Rồi thứ hai đầu tuần sau đó chàng găp lại nàng trên giảng đường trường đại học. Nàng học khoa Ngữ Văn. Chàng ngơ ngẩn nhìn nàng mặc chiếc áo choàng màu đỏ bước đi dưới rặng thùy liễu. Nàng nhìn chàng mĩm cười, một nụ cười e ấp. Chàng về phòng trọ ngơ ngẩn không biết ngày mai mình có tiết học môn writing hay là môn morphology, và chàng tự chế nhạo mình vì chưa bao giờ chàng lại tỏ ra lẩn thẩn đến như vậy...
Chàng không nhớ lúc ban đầu chàng và nàng đã yêu nhau như thế nào, nhưng chàng lại nhớ rất rõ những giây phút chàng và nàng ngồi bên nhau trong quán cà phê Serenade gần nhà thờ Con Gà. Chàng rất nhớ cái đêm Giáng sinh năm ấy. Trời lạnh cực kỳ tưởng như có thể thở ra khói, và chàng vốn thích như vậy. Sau khi tan lễ, chàng và nàng tay trong tay cùng đi dạo phố. Phố vẫn sáng trưng đèn và còn vài cửa tiệm bán đồ lưu niệm đang mở cửa. Thế là chàng vào một cửa tiệm và chọn mua một con búp bê kháu khỉnh. Chàng nói: “Anh tặng em con búp bê này vì nó rất giống em, nó có nước da trắng hồng và mái tóc dài đen óng ả, em hãy giữ lấy món quà tặng này nhé, em yêu.” Nàng làm dáng điệu nhún chân như một tiểu thư người Pháp, bảo chàng là nàng vô cùng hân hạnh, và hứa sẽ giữ mãi kỷ vật tình yêu của chàng... “...cho đến thiên thu...!” nàng nói vậy. Nghe giọng nói của nàng, chàng hiểu là nàng không đùa mà đã nói thật bằng cả trái tim vì khi nhìn sâu vào mắt nàng, chàng thấy chúng long lanh như hai viên ngọc bích...
Hình như có người đang leo dốc để đến suối nước nóng. Chàng có thể thấy rõ người đó từ xa. Đó là một người đàn ông cao gầy trạc bằng tuổi chàng. Người đó mặc một chiếc áo gió màu nâu sẩm, cách ăn mặc ra vẻ một người dân địa phương. Chàng thấy người đó đến ngồi bên hồ, nơi có dòng nước nóng đổ vào, nhưng không xuống tắm. Người đó nhìn đáy nước trong veo và ngồi im lặng như đang trầm tư mặc tưởng. Chàng mừng vì có người để nói chuyện. - Chào anh, - chàng nói - Anh không tắm suối à? – Người lạ nở nụ cười vui vẻ và thân thiện. – Dạ không anh ạ, tôi chỉ đưa vợ tôi đi dạo một vòng theo thông lệ. Vợ tôi thích nơi này lắm. Cô ấy thích đến suối vào những buổi chiều thứ bảy...” Chàng ngồi xuống bên người đàn ông. Vợ ông ấy vẫn chưa đến. Bà ấy còn đi dạo một vòng ở khu rừng thông xinh đẹp cạnh đó. Cũng như chàng và nàng ngày ấy, mỗi khi đến suối nước nóng chàng và nàng đều đi dạo cả tiếng đồng hồ trong rừng thông. Rừng thông này tuyệt đẹp và là một nơi lý tưởng dành riêng cho các cặp tình nhân. Chàng kể cho người đàn ông nghe về những kỷ niệm của chàng và nàng ở suối nước nóng này. Những kỷ niệm ngọt ngào, những nụ hôn say sưa, những giận hờn bâng quơ, những nhớ thương ray rức... Người đàn ông ngồi nghe một cách kiên nhẫn. Ông ấy thỉnh thoảng gật đầu như tán thưởng cho những kỷ niệm đẹp đẽ của chàng và nàng. Hình như ông còn muốn nghe nhiều hơn nhưng chàng không kể nữa. Rốt cuộc ông phải kể cho chàng nghe về câu chuyện của ông trong khoảng thời gian chờ đợi vợ. Ông gặp bà khi ông được đổi về dạy ở một trường học gần đây, lúc đó bà đã là một cô giáo dạy học ở trường này được vài ba năm. Bà nhỏ hơn ông gần mười tuổi. Lúc đầu ông thấy bà có vẻ khác biệt so với những cô giáo khác. Hình như bà chẳng quan tâm đến điều gì ngoài công việc dạy học ở trường và những công việc riêng tư khác ở nhà mà không ai biết rõ. Mọi người chỉ biết bà là một cô giáo tử tế và thân thiện với tất cả mọi người. Bà có thói quen vắng mặt trong tất cả những ngày thứ bảy dù có cuộc họp đột xuất. Mọi người cho rằng bà phải về nhà ngày cuối tuần để săn sóc mẹ già nên rốt cuộc cô hiệu phó phải phân tiết dạy cho bà để tránh cho bà phải đi dạy vào các ngày thứ bảy...
Trong trường có ít giáo viên nam, và trong số đó ông là người trẻ nhất. Bản tính nghệ sĩ, ông thường trổ tài đánh đàn ghi ta và hát những bài nhạc Trịnh rất là da diết, nhờ đó mà ông đã chiếm lấy nhiều trái tim đa cảm của các cô giáo cũng như các cô gái trong làng. Nhưng ông chỉ yêu bà. Ông quan tâm săn sóc cho bà từng ly từng tí và kết quả đáp lại từ bà chỉ là sự lạnh lùng vô cảm. Điều đó làm cho ông gần như tuyệt vọng... Một chiều thứ bảy, ông một mình đi lên suối nước nóng Đạ Long. Lúc ấy đã hơn ba giờ chiều, trời còn nắng lắm. Ông ngồi trong một lùm cây, định bụng sẽ xuống tắm khi trời mát hơn chút nữa. Và ông phát hiện bà đã có mặt bên hồ nước nóng từ lúc nào không biết. Bà ngồi đó một mình, nhìn chăm chăm vào đáy hồ trong xanh mà trong đó nước nóng chỉ lên tới đầu gối là tràn ra bên ngoài. Rồi ông thấy bà đưa hai tay ôm lấy mặt. Một lát sau, bà khóc... Bà chỉ ngẩng đầu lên khi bàn tay của ông khẻ chạm vào vai bà, nhẹ nhàng và đầy chu đáo. Bà quay lại nhìn ông, và ông không thể tin được điều gì đã xảy ra với ông khi bà đột nhiên ngả vào lòng ông, người yếu mềm như vừa qua khỏi cơn bệnh nặng... Rồi ông và bà cưới nhau. Ông dọn về nhà bà mà ở. Bà chăm sóc cho ông thật là chu đáo, nhưng chẳng hiểu sao, ông vẫn không chạm được đến trái tim của bà. Trái tim của bà hình như đã đóng kín từ rất lâu rồi, và chìa khóa vào trái tim bà dường như đã bị đánh mất. Hơn hai mươi năm sống chung với nhau, bà không làm điều gì cho ông phiền lòng, nhưng với bà, ông chỉ là người lỡ đường được bà thương hại mà cho tạm trú ở ngoài mái hiên và ông chưa bao giờ được phép bước vào trái tim của bà, một trái tim đã bị bao phủ bởi không biết bao nhiêu là hồi ức và kỷ niệm...
Chàng lắng nghe người đàn ông kể chuyện mà tưởng như ông ta đang kể về mối tình giữa chàng và nàng của hai mươi năm trước. Chàng giống như nhân vật Từ Thức vừa trở lại trần gian sau mấy ngày lạc ở cõi tiên và chợt nhận ra là mình đã ra đi đến tận trăm năm, và thật tội nghiệp cho những người ở lại trần gian như nàng. Chàng muốn khóc to lên cho vơi đi mặc cảm đã làm cho nàng phải khổ sở trong hai mươi năm dài dằng dặc. Chàng muốn quỳ gối trước mặt nàng mà xin tha thứ, nhưng... Nàng vừa lên đến lưng đồi và bước dần đến suối nước nóng với những bước chân thật nhẹ. Đúng là nàng với những bước chân của một vũ nữ ba lê. Đúng là nàng với chiếc mụt ruồi duyên nơi khóe miệng. Chàng muốn kêu lên cho nàng biết, để nàng chạy ào đến bá cổ người yêu và đu người lên mình chàng với một cử chỉ vô cùng duyên dáng. Chàng muốn ôm chặt nàng vào lòng để nhẹ nhàng xin lỗi chuyện ngày xưa, chuyện chàng và nàng đã phải chia tay nhau sau một đêm ân ái, lý do là chàng đã có gia đình từ khi chàng ba mươi tuổi...
Nàng bước chân về phía chàng và người đàn ông nàng lấy làm chồng. Nàng gật đầu chào chàng một cách lãnh đạm khi được chồng giới thiệu. Nàng đã không nhận ra được chàng sau bao nhiệu năm dài xa cách. Nàng lặng lẽ bước đến hồ nước nóng. Nàng ngâm chân mình xuống làn nước ấm và lấy ra một con búp bê đặt trước mặt mình và trầm ngâm suy tưởng. Đó là một con búp bê có nước da trắng hồng và mái tóc dài đen... . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Wed Mar 25, 2020 8:20 am | |
| . “VỢ NHẶT” CỦA ANH K... - ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Chiều qua, nghe điện thoại, thằng bạn bảo: - “Con Thủy nó lừa hết tiền bạc của ông ấy rồi. Còn lừa ông ấy đứng tên vay nợ nhiều người mà toàn cam kết là vay cho riêng mình...." Anh hơn tuổi, học trước nhiều khóa, lại chơi với nhau khi lão đã ra trường chán chê nên chỉ loáng thoáng nghe chuyện tình duyên của anh lận đận lắm. Mọi người kể, thời sinh viên, anh yêu mê mệt “cô bé” tên Chi, nhưng chẳng hiểu lý do gì mà hai người lại chia tay, anh “khép cửa tình yêu” từ đấy. Bạn bè đồng trang lứa, rồi đàn em sau anh 5 khóa, 10 khóa, 15 khóa... lần lượt rời bỏ cuộc sống độc thân, anh vẫn lầm lũi một bóng đi đi về về căn gác đã mua từ thời trai trẻ.
Thế rồi đùng cái anh yêu. Yêu vội, rồi cưới gấp theo đề nghị của “nhà gái”. Đến dự đám cưới, nhìn cô dâu, lão choáng vì người đâu mà xấu. Cái mặt đã dài lại còn vẹo vọ. Hàm răng đã cái thò cái thụt lại xỉn màu nham nhở. Nói không quá lời, Thị Nở nếu hiện diện có khi nhan sắc nhìn còn dễ chịu hơn, duyên hơn… Quá thất vọng, lão buột miệng, thốt câu: - “Đã nhịn đến từng này tuổi sao lại đi rước hàng tồn kho phế phẩm như thế!”. Bạn bè bấu lão, nhắc: - “Nói khẽ thôi kẻo nhà gái họ nghe thấy, chửi vỡ mặt đấy.”. Rời hôn lễ, lão ghé tai anh nói nhỏ: - “Nhịn bao năm mà lấy vợ xấu thế.”. Anh cười ngất, đấm lưng lão, chửi: - “Thằng khỉ! Chỉ cần anh thấy chị mày trẻ trung, xinh đẹp là okê rồi.”. Mừng cho anh đã có mái ấm gia đình nhưng thật lòng lão vẫn thấy gợn gợn điều gì đó rồi sẽ không ổn với người “vợ nhặt” của anh...
Cưới xong, nghe vợ, anh bán nhà ngoài Hà Nội rồi chuyển công tác vào Sài Gòn cùng vợ, chấp nhận trở lại làm anh công chức quèn để vợ chồng sớm sinh em bé. Từ đấy, lão với anh không gặp lại. Mấy lần liên lạc với anh qua điện thoại nhưng anh không bắt máy, tưởng anh thay số nên lão xóa khỏi danh bạ, vì thế lão mù tịt về anh, vẫn nghĩ, cuộc sống của anh chắc vẫn ổn.
Chiều qua, nghe điện thoại, thằng bạn bảo: - “Con Thủy nó lừa hết tiền bạc của ông ấy rồi. Còn lừa ông ấy đứng tên vay nợ nhiều người mà toàn cam kết là vay cho riêng mình. Giờ ông ấy khổ lắm. Không vợ, không con, sắp tuổi nghỉ hưu rồi mà không có chỗ trú nắng trú mưa, lại cõng một đống nợ trên lưng…”
Buông điện thoại, lão thẫn người, thương anh là người tốt sao số lại khổ đến thế!
Hà Nội, 17/9/2013 Đặng Xuân Xuyến. | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Sat Apr 25, 2020 9:38 am | |
| .
CHUYỆN TÌNH - VÕ CÔNG LIÊM
1. Tuyết Cầm đứng bên cạnh mẹ ở ga Hàng Cỏ vào một sáng mờ sương. Hà Nội còn đang ngủ. Tuyết Cầm lặng đứng chờ tàu đưa vô Nam; giữa không gian đó hình ảnh tháp Rùa vẫn là dấu tích kỷ niệm của những ngày thơ ấu với những đêm ngồi ăn kem bên cạnh bố mẹ ở hồ Hoàn Kiếm… Hành khách kẻ đứng, người ngồi nhốn nháo mong con tàu hú còi để lao vào một dặm trường dài. Đây là ước mơ mấy chục năm qua, bởi; Sài Gòn là mộng là cái gì ngoài trí tưởng và cũng là biểu tượng lạ lùng. Tuyết Cầm đọc được sự hạnh phúc trên gương mặt của từng người mà ngay cả mẹ nàng cũng có ao ước đó.
Hai mẹ con ngồi trong lòng tàu đầy ấp người và vật, thở phào nhẹ nhõm đã lấy được chỗ ngồi cạnh cửa sổ. Không lâu tàu chuyển bánh, chuyến tàu xuyên Việt nhả khói giữa trời mù sương vào tiết thu đông, hơi gió lành lạnh, xông lên mùi đất mốc ở hai bên vệ đường. Mẹ quấn khăn len, ôm vai Tuyết Cầm mỉm nụ cười âu yếm. Riêng Tuyết Cầm vẫn mang mang buồn, phần xa quê, nhớ những tháng năm khép kín, nhớ những buổi nắng mưa cùng bè bạn, phần sợ đất phương Nam lắm điều phức tạp nhiễu nhương. – Bây giờ thì sạch sẻ lắm rồi! Trâm mẹ Tuyết Cầm nói. Nàng bình tâm và nhìn ra trời xa với những toan tính tương lai. Tuyết Cầm hai mươi tuổi nhưng trông chừng mười sáu. Vóc hạc nhưng được nước da trắng bột lọc và mái tóc đậm huyền đổ xuống vai làm cho nàng có nét đẹp liêu trai đúng nhân dáng người Hà thành của những năm xa xưa còn sót lại. Tuyết Cầm ngủ trên vai mẹ. Xuống ga Bình Triệu trời chợp tối, ánh sáng miền Nam đập vào thị giác mọi người như một bở ngỡ hay cái mới lạ trước mắt mà làm cho người vừa nhẹ nhàng vừa choáng ngợp? Nhìn Sài Gòn đêm và ngày vô tư, chất phát, ăn ngay nói thật đó là ‘đặc sản’ dễ thu hút khách thập phương. Nhưng trong Sài Gòn có cái bừng dậy không ai ngờ. Tuyết Cầm nhận ra được điều đó chớ không bức xúc, nhiễu nhương như nàng đã nghe qua từ lâu. Hành lý hai mẹ con không đầy tay, mỗi người mỗi túi xách nhỏ. Nhốn nháo giữa tiếng cười nói, đôi khi nghe lạ tai nhưng vui. Họ nếm hương vị của ngôn ngữ như món ăn mới nơi xứ lạ. Tuyết Cầm tự nhiên phấn khởi lạ thường. Mong một ngày mai huy hoàng hơn. Sáu tháng sau; không khí Sài Gòn trở nên thân quen, không còn xa lạ. Tuyết Cầm nhận ra cái nhân tính giữa hai miền; một đằng cổ kính bảo thủ, một đằng cổ kim hòa điệu. Hai tư duy là hai chính kiến. Chính điều đó đôi khi làm cho nàng suy nghĩ miên man giữa thực và ảo, bởi; ngay mẹ nàng là nạn nhân của tình yêu, một thứ hạnh phúc không bao giờ có thực…Tuyết Cầm hiểu thực trạng đó, một thực trạng tuyệt vọng: mười năm vắng mặt của người cha. Mười năm đi ‘B’ là một chuyển đổi ngoài qui ước. Hai mẹ con nuôi hy vọng thì giờ đây tuyệt vọng. Không biết người thân yêu mình giờ ở đâu. Trước hoàn cảnh đó họ hướng tới cái mới hơn, một đổi mới tư duy và một đổi mới thời đại để làm sống cuộc đời.Tuyết Cầm gặp Nguyên vào đầu năm khoa ngữ văn đại học Tổng Hợp thành phố. Chỉ một thoáng bất ngờ họ đã sa vào tình yêu, một thứ tình yêu không phân chia, họ yêu nhau đậm đà. Lê Tuyết Cầm trong một âm vang Hà Nội quyến rũ, Nguyễn Nguyên trong tư thế của con người mới, việc mới, kết hợp bằng một tư chất kẻ cả đầy vị tha và giàu lòng nhân ái. Họ tìm thấy một tình yêu lý tưởng – em có thuận cho anh cưới em sau ngày ra trường? Nguyên nói. Tuyết Cầm mỉm nụ cười với đôi mắt đầy hứa hẹn. Đôi tình nhân lý tưởng, một chọn lựa thức thời và hợp lý giữa thời buổi này. Chưa hưởng tuần trăng mật thì Nguyên nhận nhiệm vụ mới: đặc trách văn hóa vụ ở tòa lãnh sự quán nơi xứ người. Để rồi Tuyết Cầm giẫm chân trên con đường cũ như mẹ nàng. Và; cho tới bây giờ Tuyết Cầm mang trong lòng nỗi buồn cô phụ. – Biết đến bao giờ thì hết kiếp này? Nàng nghĩ.2. Huế vào cuối tháng tám trời thường hay lũ lụt, hết lụt lại mưa dầm, khí trời ủ dột. ẩm thấp, chợ đò vắng teo, ít người qua lại. Nhưng bù vào; trong cái xấu có cái đẹp tự nhiên của nó. Dù mưa hay không mưa Hoàng thường hay đứng chờ người yêu tan trường về. Họ gặp nhau mừng lắm, cười nói không ngớt và đưa nhau vào quán cà phê trong một con hẻm kín đáo, ở đây đông bạn bè sinh viên học sinh cụm đầu nhau kể chuyện hoặc để nghe mưa; cũng là cái thú nhàn nhã của đám trai thanh gái lịch xứ Huế. ‘Tuổi đá buồn’, có lẽ; không nơi nào giàu tình như ở xứ này. Một thứ tình lạ đời như mưa nắng bất thường hay xẩy ra; chính cái mạch đó du nhập vào hồn người để trở nên bản tính cố cựu của dân đất thần kinh văn vật.
Lệ Chi và Hoàng yêu nhau hơn ba năm trong nhà ngoài ngõ ai cũng biết – Ôi! lạ gì bọn chúng; Con Lệ Chi gái cưng của cụ Cả Đoan. Thằng Khắc Hoàng con Tư Vạy. Đám sinh viên đàm tiếu. Sau Mậu Thân cả hai ra trường sư phạm, dạy gần nhau và thường chờ đón nhau về một lúc, cứ thế mà nhiều người tưởng là tình nhân hơn vợ chồng. Sống với nhau hơn hai năm chưa có một mặt con. Cha mẹ Hoàng nôn nao chờ đợi đứa cháu đích tôn; không giống lông cũng giống cánh, ngược lại ông bà Cả Đoan chả hoài mong. Họ còn ậm ực. Vì lẽ; Hoàng đã đi trước một bước cho nên mẹ Lệ Chi ngậm đắng may mà không vỡ lở, không gây tai tiếng cho ông bà Cả Đoan. Không biết nhu cầu đó của gia đình hay của Khắc Hoàng. Đột nhiên mấy tháng qua tính tình Hoàng thay đổi hẳn, không còn mặn nồng như xưa. Bà con xa gần, bè bạn nghĩ Hoàng có tình ý khác mà biến chất đối với Lệ Chi so với trước đây. Đi đâu; dù ngày hay đêm đều cặp tay nhau thì ai mà nghĩ bỏ nhau. Cuối xuân năm bảy lăm đổi đời không biết giao du ở đâu, gặp gỡ ở đâu Lệ Chi đâm ra yêu một thanh niên miền Bắc. Y tên Cừ có điạ vị cao trong xã hội con nhà bần cố nông, một thứ dân đang được trọng vọng và đề cao. Thầm kín với nhau đâu chừng một năm thì họ tuyên bố kết hôn. Từ trường học cho tới thị dân bàng hoàng cho một cuộc tình lạ lùng và ít có. Nhưng cũng đành. Suy ra; cả hai gia đình có nợ tiền kiếp nên mới gặp nhau… Hôm Lệ Chi lên xe hoa người ta đi xem đông, nhất là đám học trò cũ của thầy Ngô Khắc Hoàng và cô Đoàn Lệ Chi. Khoảng xa Khắc Hoàng tay cầm dù đen đứng dưới tàn cây mù u giữa trời se lạnh, gương mặt sắt lại. Hoàng lặng bước qua cầu, gió từ sông thổi lên tợ như réo gọi hồn ai. Nghe đâu về sau Khắc Hoàng bỏ xứ lên cao nguyên trồng trà. Vợ cũ Lệ Chi có tới ba mụn con với Cừ.
3. Đồng bằng sông Cửu long là vựa lúa nuôi cả nước. Sau thời kỳ bao cấp cho tới thời đổi mới những vùng ruộng, nước làm ăn nên. Từ chổ tá điền lên chủ vựa đều thay đổi bởi kinh tế thị trường như cuộc cách mạng kinh tế; mua một bán mười nhu cầu lúa gạo khẩn trương thu mua, xuất khẩu, tiếp cận thị trường quốc tế. Lúa gạo Việt Nam đứng hạng nhứt nhì thế gìới, từ mặt phẳng lên mặt dày. Khởi từ chỗ ruộng nước, lây qua biển lưới đem lại kỹ nghệ nặng nhẹ khắp cả nước, bộ mặt đô thị hóa được điểm trang, đồng tiền đi trước mực thước đi sau. Tánh dân cũng thay đổi bởi nhu cầu đời sống, khắp nơi nở rộ không phân biệt đâu quê, đâu thành. Khó phân biệt thằng hay ông mà trở thành vô giai cấp. Mén trước làm công cho vựa lúa Sáu Lợi. Một mình Mén nuôi mẹ và em nhỏ. Sau khi cha hy sinh ở chiến trường Cam-Pu-Chia. Tính ra cha Mén mất đã gần ba mươi năm; lúc đó Mén đâu chừng tám tuổi. Mẹ Mén giờ đây cũng ngoài sáu mươi. Bà Thôi mẹ Mén khô như con mắm, cọng thêm thằng em trai chạy xe lôi vẫn không đưa đẩy gia đình hội nhập vào đời sống mới. Mén nghèo nhưng nhan sắc Mén không nghèo rất nhiều mối lái dòm ngó. Đổi đời; đổi tất cả, đổi tư duy, đổi cuộc sống, đổi nghèo sang giàu, đổi dốt sang dát, rồi từ đó mới có từ ‘đại gia’ ra đời. Đã mang tiếng kếch sù thời hay sinh chứng đòi hỏi. Mén lọt mắt xanh con cú vọ và về sau sa bẫy mà không hay. Mén nuôi hận bởi bè nhóm lưu manh, lường gạt, phỉnh phờ đưa Mén đến tuyệt vọng hết lối thoát. Tình cảnh đó đâu giấu mắt làng xã, chòm xóm. Nếu Mén muốn có một tấm chồng đàng hoàng. E khó cho Mén. Mà thiệt! Mén vô tình trong thời gian làm cho chủ vựa Lợi; trong đám nô tỳ có Xu thường hay lén nhìn Mén. Nhưng chưa bao giờ tỏ ý. Xu con mồ côi ở với bà dì. Xu lùn, xấu xí lại có tật cà-lăm. Xu nuôi mộng tình yêu như thằng gù thành Đức Bà. Bỗng nhiên nghe Mén sắp đi nước ngoài; lấy chồng Hàn quốc. Mén đổi đời không phải đổi nghèo sang giàu mà đổi cuộc đời phủ phàng sang hạnh phúc. Mén quyết ra đi!
Chẳng hay Mén trở về quê cũ sau hai năm sống bên nước Hàn. Mén về sống bên cạnh mẹ già, mù lòa, tật nguyền. Cả hai cùng đau khổ không nói nên lời. Xu thường khi đứng ngoài bụi hoa râm bụt nhìn trộm qua nhà Mén và cũng thường khi để lại những tặng phẩm thu nhặt được đặt trước sân nhà Mén. Nàng chẳng hiểu những phẩm vật này của ai để lại. Cứ thế! Hai năm sau không thấy quà tặng vô hình để lại trước sân nhà. Mén chỉ biết Xu nhặt lúa rơi chết cách đây hai năm. Mộ chôn không xa nhà Mén. . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Tue May 05, 2020 2:45 pm | |
| .
Ngoại tình - Mai Bửu Minh
Cọc… cọc,cọc… Hình như Thụ nghe có tiếng gõ cửa quen thuộc, anh nhỏm dậy, xoay mình, nhấc mí mùng và bước xuống giường một cách êm ái như bước chân của một chú mèo khôn ngoan. Trước khi đi Thụ còn cẩn thận nhìn Thảo nằm ngủ một cách hớ hênh mệt mỏi thật tội nghiệp. Thảo đã bị anh quần nhừ tử đến mức mệt lả, rã rời và ngủ thiếp đi ngay khi anh buông ra, không kịp làm công việc vệ sinh của người phụ nữ sau cuộc ái ân. Hình như lại có tiếng gõ cửa khe khẽ thúc giục Thụ bước đi bỏ lại người vợ gầy đét, bộ ngực lép xẹp khiến cả thân hình như dính sát giường.
- "Huệ hả?" - "Anh sợ em tới à?" Giọng nói của Huệ ngọt ngào ở đâu đó vang vang trong đầu Thụ và anh như bị giọng nói ấy lôi đi. Họ đi, Thụ cũng chẳng biết đi đâu mà hình như xa lắm, lạ lắm với những bước chân nhẹ nhàng như bay, như bay. Thụ có cảm giác chiếm hữu cả thân thể tròn đầy của Huệ trong tay và cô nàng cuồng nhiệt đưa Thụ chìm vào tâm trạng đê mê với hưng phấn tột cùng. Đến lúc, Thụ cảm thấy như tất cả sinh lực tồn tại trong người mình bị vắt kiệt, hút sạch khiến anh rã rời mà vẫn còn nghe giọng Huệ thì thầm: - Em đã có thai với anh rồi. Em sẽ đẻ cho anh một thằng nhóc giống anh y chang… Nói xong, đột nhiên Huệ bật cười, tiếng cười giòn, vang khanh khách, kéo dài như từ đâu đó vọng lại nghe rờn rợn. Thụ đưa tay sờ lên mặt Huệ, bịt chặt miệng cô lại và tay anh bị hất ra. Thụ mạnh tay hơn và anh thét lên đau đớn bởi bàn tay mình bị cắn mạnh. Thụ giật mình, mở to mắt nhìn… Huệ đâu không thấy chỉ thấy Thảo hả miệng nhả bàn tay anh ra, giận dữ lăn tấm thân không mảnh vải che vô sát vách. Thụ biết mình vừa nằm mơ. Thụ thở dài, uể oải, nhỏm dậy, đi ra nhà tắm để thay đồ.
Thụ chẳng nhớ đây là lần thứ mấy mình bị như vậy. Ban đầu anh cho là tại cơ thể mình dồi dào sức lực, còn Thảo bị chứng lãnh cảm cả tháng mới chiều anh một lần nên cái chất quỷ quái đó dư thừa và tràn ra trong mộng mị. Thụ không phải lao tâm, lao lực gì nhiều dù đang sống đời một người thầy giáo vì nhờ Thảo - vợ anh là một cán bộ có uy tín ở một công ty kinh doanh - biết vun vén cho gia đình. Những công việc lặt vặt trong nhà chẳng làm vơi đi chút nào sức lực của một thanh niên cường tráng ăn ngon, ngủ khỏe, không rượu, không hút thuốc như Thụ. Bạn bè đồng nghiệp không ít người thèm có cuộc sống như Thụ và anh biết quý hạnh phúc đang có nên cố giữ gìn. Chuyện ái ân, Thảo không thích, anh đành chịu nhịn. Anh đã để ý và nghi nghi mỗi lần gặp Huệ thì đêm đó mình nằm mơ và… cho nên chiều qua thấy Huệ tới với bộ đồ mỏng tang, căng cứng là anh sợ đêm đến… Có lẽ, tất cả chỉ tại đôi mắt khát khao tò mò của anh mở đường cho những ý nghĩ đen tối làm vẩn đục tâm hồn mình. Mà, cũng có thể tại tâm hồn xấu xa của anh xúi giục đôi mắt thèm thuồng nhìn Huệ. Huệ không thể so sánh với những diễn viên điện ảnh, những hoa hậu mà anh từng thấy trên màn ảnh, báo chí v.v… Nhưng Huệ có thân hình cân đối, nở nang đủ độ tròn đầy của người con gái đang tuổi đôi mươi, sôi nổi, trẻ trung, tươi rói, mời gọi mọi ánh mắt…
Mỗi lần Huệ đến, Thụ chỉ nhìn lén chớ chưa bao giờ dám nhìn cô một cách công khai. Thụ sợ ánh mắt dò xét của vợ vốn đã ý thức được hạn chế của mình nên rất đa nghi trước mọi thái độ của chồng. Ngay cả những lúc xem tivi, màn hình xuất hiện những cảnh các cô gái ăn mặc hở hang khêu gợi là anh phải kiếm cớ quay qua nói chuyện với vợ và anh đã thấy ngay Thảo cũng đang nhìn anh dò xét. Thụ có cảm giác như Thảo sợ anh nhìn được thân thể người phụ nữ khác mà thầm so sánh, mà chán vợ…Thế nhưng, Thảo làm chung với Huệ và thường đưa bạn về nhà ăn cơm trưa, làm bánh mứt v.v… Cho nên không ít khi đi ra đi vô anh đã đụng nhẹ da thịt và nghe mùi hương nước hoa trên người Huệ. Anh còn nhìn trộm được Huệ khi cô ấy ngồi khom rửa chén. Cái ngực khá to, săn chắc, trắng ngần bị đầu gối đùn lên như muốn chui ra khỏi cổ áo rộng. Trời ơi, ai biết lúc đó đầu óc xấu xa tội lỗi của anh lại nhen lên điều ước ao được gục mặt vô chỗ đó dù có nghẹt thở chết đi cũng được… Nhưng may, đó là điều xấu xa, tội lỗi chỉ thoáng qua trong ý nghĩ của một kẻ nhút nhát như Thụ. Chính vì nhút nhát, ngày trước anh mới bị Thảo - cô học viên bổ túc văn hóa hớp mất hồn, bắt sống làm chồng. Đời một người thầy giáo xa quê, nghèo khó được một cô gái và cả gia đình cô quan tâm giúp đỡ lúc khó khăn, bệnh hoạn, nặng ân tình cho nên bao nhiêu năm qua anh chưa hề làm cho Thảo và gia đình bên vợ phật lòng điều gì về tư cách của mình. Ở trường, Thụ là một thầy giáo dạy giỏi, tận tâm, tận lực, nghiêm trang. Ở nhà, Thụ là người chồng mẫu mực, chung thủy với vợ, phụ tiếp việc nhà, không la cà hàng quán, không nhậu nhẹt say sưa, không cờ bạc, trai gái…Và, Thụ cũng từng tự hào về mình… Thế nhưng, từ lúc có Huệ tới lui vui tươi như một đứa em gái trong nhà và Thụ đã cho con mắt trộm nhìn những đường nét trên cơ thể Huệ… Huệ ăn mặc sao coi cũng hấp dẫn bởi thân hình căng cứng như phơi hết eo ra eo, ngực ra ngực, mông ra mông với những đường cong đầy khiêu gợi. Và, ai biết được con mắt xúi giục ý nghĩ bậy bạ… Anh phải kềm nén chỉ gởi những thèm muốn vào lòng với sự tự biện hộ…Mình có ước ao, thèm muốn trong ý nghĩ thôi thì ai mà biết và chẳng tội tình gì. Ờ, con người luôn hướng tới cái đẹp, cái tốt để chiêm ngưỡng, đánh giá… Có vậy mới biết đẹp, tốt… Ờ, mình có thèm muốn khi nhìn cái đẹp nhưng biết kềm lòng tham không giành lấy những gì không phải của mình thì có gì tội lỗi. Người ta, ai chẳng chảy nước miếng khi có ai đó đang ăn me chua chép chép trước mặt… Tất cả chỉ diễn ra trong suy nghĩ của con người trầm lặng, nhút nhát như Thụ. Nhưng tại sao anh chỉ nằm mơ thấy mình làm tình với Huệ mà không với ai khác? Những cô gái trên màn ảnh còn hấp dẫn hơn nhiều với những trang phục như mời gọi mọi ánh mắt hãy nhìn vào những chỗ còn kích thích các tuyến thèm thuồng hơn cả me chua như những cảnh tắm biển chẳng hạn… Thụ không giải thích được nhưng rõ ràng là anh bị bệnh. Căn bệnh có tên gọi đàng hoàng mà anh từng thấy trên những tờ giấy quảng cáo dán ở các cột điện, gốc cây, vách tường… Toàn là thuốc gia truyền, hiệu nghiệm nhưng lâu nay anh không hề nhìn kỹ, giờ thì phải nhớ rõ địa chỉ… Thụ nghĩ là mình không nên nói cho vợ biết, sợ cô nàng tra gạn, anh trả lời không suôn sẻ chuyện mộng mị, Thảo lại nghi ngờ, ghen bóng ghen gió càng khổ…
Trời đã sáng bửng rồi, Thụ loay hoay quét dọn nhà cửa xong mà Thảo vẫn chưa đi làm. - Trễ rồi, anh vô dắt xe giùm em… Thụ lẳng lặng dắt xe ra sân. Quay vô, Thụ đã thấy vợ mình đứng uốn éo, xoay tròn trước cái gương gắn trên cánh cửa tủ đứng. Nhìn cái đít teo ngắt, thân hình suôn đuột của Thảo mà Thụ thở dài. May ra, nếu Thảo đi thẫm mỹ viện "bơm toàn phần" thì những cơ sở may mặc cho cô ấy đỡ phải mang tiếng. Đó! Lại một cái quần mới, loại may sẵn, màu lông chuột, phải người khác mặc chắc xem được hơn. Thụ nhắc vợ:"Trễ rồi, không lo đi. Bữa khác mặc tha hồ ngắm…" - Của con Huệ, em mặc thử, chút ghé trả nó. Coi được không anh? Thụ khẽ lắc đầu. Thảo phùng má phụng phịu: "Em mặc gì, anh cũng chê… Coi, anh tái mét mà… làm dữ…" Thảo đi, Thụ ngồi vô bàn soạn bài. Chút sau, nghe tiếng xe đạp quẹo vô sân, Thụ ngẩng đầu lên, nhìn. Máu trong anh bỗng như rần rần dưới làn da, trái tim hồi hộp khi Thụ thấy Huệ kéo cây chổi, dựng xe đạp. Thụ thò tay nhéo vô đùi đau điếng và loay hoay làm rớt cây viết, anh biết không phải mơ. Chẳng đợi anh chào hỏi, mời gọi. Huệ thân mật ngồi ngay xuống cái ghế phía bên kia bàn, đối diện với Thụ. Thụ lúng túng, ấp úng: - Thảo… Thảo đi rồi… Thụ cúi đầu giấu ngay ánh mắt bối rối của mình vừa chạm phải cái lõm sâu giữa ngực Huệ đang nửa kín, nửa hở trong vuông cổ áo rộng. - Hi hi… anh như ông từ giữ đền… Chỉ mới ghé đàng em mà. Bữa nay chị ấy đi nhận hàng, tối mới về, em cho anh hay khỏi lo…
Huệ vừa nói vừa cười duyên, tự nhiên như mọi khi. Thụ nhớ tới giấc mơ đêm qua mà nghe lành lạnh sau ót. Anh nhìn đôi mắt đen láy, to tròn của Huệ và như người thất thần bởi ý nghĩ: "Cô ấy từng cười mình trong giấc mơ và nói anh sợ em tới hả. Còn bây giờ thì bảo vợ mình tối mới về, đừng lo ư?"… Huệ đứng lên, tự nhiên bước ra sau, vừa đi vừa nói: - Ăn ổ bánh mì, đi vội, quên uống nước… Chỉ kêu em cho anh biết trưa nay chỉ không về để anh khỏi lo… Thụ nhìn theo Huệ với cái áo thun ngắn tay, bó sát thân hình tròn lẳn. Cái quần màu lông chuột… Y cha, cái quần hồi nãy Thảo mặc thử… Mặc vậy mới nên mặc, nó ôm sát cái mông nở nang núng nảy theo bước đi… Thụ đứng dậy, xoay hẳn người nhìn theo Huệ tự nhiên ra nhà sau uống nước… Anh nghe tim mình đập loạn xạ và người rần rật với ý nghĩ: "Bước theo Huệ, gạt cô ấy vô buồng lấy cái gì đó gởi cho Thảo, và mình… làm như giấc mơ…" Óc chỉ nghĩ vậy nhưng Thụ bị chôn chân một chỗ nhìn Huệ quay ra. Huệ cười tươi và nói: - Hai ông bà nhà lạnh tanh… Kiếm đứa con đi… Em về à… "Kiếm đứa con đi"… còn trong mơ hình như cô ấy nói đã "có thai"… Thụ xoay người nhìn theo Huệ bước ra sân mà đầu anh ong ong nhức buốt. Hình như trong đó đã xảy ra một cuộc chiến giữa những ý nghĩ nhút nhát nhưng nghiêm khắc bênh vực cho ý thức đạo đức và những ý nghĩ tội lỗi mong muốn thực hiện những ao ước, thèm thuồng bấy lâu. Huệ leo lên xe. Cái quần tây màu lông chuột như căng ra dán sát mông cô ấy… Bất giác, miệng Thụ bật lên tiếng tặc lưỡi nhẹ và anh hốt hoảng quay lại quan sát căn nhà quạnh hiu của mình tưởng như sợ có ai bắt gặp mình vừa tiếc rẻ điều gì… tội lỗi. Đêm ấy, Thụ không dám ngủ, anh thức chấm bài tới khuya và gục tại bàn mà vẫn nằm mơ gặp Huệ. Cô ấy cười cợt chế giễu anh: "… nhát quá thì làm được gì…" Thụ chợt bừng tỉnh và đó là lần đầu tiên anh mơ thấy Huệ mà không bị…
Huệ được phân công về một cửa hàng, không thấy tới nhà Thụ nữa. Thụ nghe Thảo nói thỉnh thoảng Huệ có về công ty gặp Thảo và hình như hơi xanh xao vì công việc bận rộn vất vả của cửa hàng. Lạ, Thụ cũng không còn nằm mơ thấy Huệ nữa nên căn bệnh tự dưng khỏi hẳn. Ba tháng sau, Thụ vừa bới cơm vừa cằn nhằn với vợ: - Họp hành gì mà… anh chỉ sợ trễ giờ tới trường… - Ôi tức muốn lộn gan lên đầu. Họp kiểm điểm con Huệ. Nó chửa hoang mà cứ cãi bướng làm như mình là gaí đoan trinh lắm. Hứ, không quan hệ với ai. Không! Không gì hết mà cái bụng giờ phình ra… Còn giả đò tưởng bệnh ung thư gì… khám nghiệm hết chối cãi, cái thai đã hơn ba tháng… "Bộp" Cái chén trên tay Thụ đang đưa qua cho Thảo bỗng rớt xuống, bể ra, cơm văng ra sàn nhà. Thảo ngước mắt nhìn chồng toan trách chợt hốt hoảng bởi thấy gương mặt Thụ tái mét, mồ hôi tươm ra trên trán. Thảo chạy lấy chai dầu gió, miệng càu nhàu: - Mai mốt em có về trễ thì anh cứ ăn cơm trước. Đói muốn xỉu như vậy đó…thiệt là… Thảo có biết đâu, Thụ đang nghĩ tới giấc mơ đêm rồi. Anh đã mơ thấy Huệ tới, tay chỉ vô cái bụng no no đội áo mà nói: "Tính sao đây anh?". Thụ đã hoảng sợ, lắc đầu lia lịa và giật mình thức dậy. Thụ cho là tại anh đã nghe phong phanh cái tin thảo chửa hoang mà mơ thấy vậy. Nay tin đó là thật khiến anh giật mình…
Huệ đi, không ai biết đi đâu. Đi không báo cơ quan, bạn bè, gia đình, nhưng ai cũng biết Huệ đi vì cái bụng đã không thể che đậy được nữa. Thụ chỉ nghe vợ nói gia đình Huệ đã cho người đi tìm, chắc là cô ấy bỏ đi với người đã làm cho cái bụng cô lớn lên… Nhưng không. Người ta dò la, điều tra mong biết được cái người đã làm hại đời cô ấy nhưng tuyệt nhiên không ra manh mối. Huệ không giao du với bạn trai, không thân thiết với đàn ông trong và ngoài cơ quan, chỉ chơi thân thiết với Thảo… Mà ngay cả Thảo cũng chịu thua… Nghe vợ nói mà Thụ hài lòng với chính mình. May mà mình nhút nhát, nếu không… giờ đây cô ấy khai báo cái bào thai ấy của mình thì… Cái nhút nhát đã làm cho những ý nghĩ tội lỗi chỉ hoành hành trong mộng mị, chết ngay trong đầu không kịp thành hiện thực… Trưa đạp xe đến trường, ngang nhà Huệ, Thụ tò mò nhìn vào và nhận ra ngay cô ấy đang đút cơm cho con ăn trước hiên nhà. Huệ vẫn như ba năm trước tuy có nét chững chạc hơn thay cho nét hồn nhiên tươi trẻ thuở nào. Đứa bé trai con Huệ khá bụ bẫm, kháu khỉnh thấy Thụ dừng xe đã há miệng cười. Huệ nhận ra Thụ vội ôm con đi gấp vô nhà, khép cửa lại. Thấy Huệ có vẻ ngượng ngùng khi gặp người quen y như lời Thảo kể, Thụ vội đạp xe đi ngay… Tội nghiệp cô ấy… Mà cái tên mất dạy nào đó nỡ để cô một mình chịu tiếng xấu, cực khổ sinh đẻ, nuôi con, sao trời không trừng phạt nó nhỉ… Trong khi vợ chồng Thụ cầu trời khấn phật, đi hết bệnh viện này tới bệnh viện nọ đành chịu thua bởi chứng vô sinh ở Thảo. Thụ bàn với Thảo đừng buồn phiền gì nữa, cứ xin đứa con ở trại mồ côi nào đó về nuôi coi như con đẻ cho nhà cửa thêm ấm cúng, nhưng Thảo gạt phăng đề nghị của anh. Thụ thuyết phục mãi không được cũng đành chịu vì từ lâu mọi chuyện trong nhà đã quen với sự quyết định của Thảo, người có vai trò chính tạo dựng, lo toan mặt tài chính của gia đình.
Huệ đón đường anh, Thụ mỉm cười thân thiện dừng xe đạp, Huệ bồng đứa bé tới bên anh giọng tươi vui: - Con anh nè, nuôi nó đi… giống anh y chang, thích không? - Huệ… Đừng… đừng nói chơi... Thụ biến sắc, lo sợ ấp úng. -Anh… sợ à… Hèn vậy… Tôi không tha anh đâu… Vừa nói Huệ vừa đưa tay nắm lấy yên sau xe đạp khi Thụ toan phóng đi. Anh cố đạp thật mạnh cho xe lao đi nhanh nhưng sao Huệ chạy nhanh vậy, còn đứa bé trên tay Huệ đưa tay vẫy vẫy anh, miệng kêu "ba ba…" Thụ gò lưng đạp xe, anh nghe chân mình như bị vọp bẻ, tê cứng đạp không nổi nữa và anh ngã quỵ xuống, giật mình… tỉnh giấc mơ. Thụ hất cái chân Thảo đang gác ngang qua đôi chân mình khi ngủ. Mồ hôi đang rịn ra trên trán anh bởi ý nghĩ: Bậy quá, từ nay không có bàn bạc gì với Thảo chuyện xin con nuôi nữa. Mình cũng không nên gặp mặt hai mẹ con Huệ làm chi…
Tránh né không gặp mẹ con Huệ thì dễ thôi nhưng Thụ không thể tránh né những lời nói nửa đùa, nửa thật của bạn bè đồng nghiệp. "Thụ à, hồi đó con Huệ hay tới nhà mày chơi sao bây giờ con nó giống mày y chang vậy"… "Vợ chồng mày không con, lại là chỗ thân tình với con Huệ, sao không nuôi giùm con của nó, cho nó rảnh rang…" "Tội nghiệp con nhỏ, tới giờ vẫn giữ kín không cho ai biết cha thằng nhỏ là ai… "Trời Phật! Thằng nhỏ giống anh thiệt… Cái trán, đôi mắt, cái miệng, lỗ mũi và cả cái lỗ tai nhỏ xíu… của thằng nhỏ mà anh nhìn thấy Huệ đưa tới trường mẫu giáo sao…giống tấm hình Thụ chụp hồi còn nhỏ… Thụ xem lại hình, lén nhìn thằng nhỏ… và biết rằng bạn bè có cớ để nửa chơi, nửa thật chọc mình. Thụ bỗng sinh tật ít nói hơn và hay biến sắc mỗi khi có ai nói chuyện gia đình mình nên xin con nuôi thế nào hoặc ai đó nhắc đến Huệ… Cô ấy vẫn thui thủi lẩn tránh mọi người và phải nhờ đứa em đưa rước con mình đi học. Nhưng, tai ác hơn khi lời trêu chọc đó đến tai Thảo và cô ta đã có những chuyến viếng thăm Huệ đột ngột cũng như hay cáu gắt với Thụ hơn. Và điều Thụ lo sợ nhất đã xảy ra khi đang đêm Thảo dựng anh dậy với lý do anh đã láp váp kêu tên Huệ khi ngủ. Thảo buộc anh phải thừa nhận có lén lút ngoại tình với Huệ và vì giữ thể diện cho anh nên Huệ một mình cam chịu. Thụ không thừa nhận và chỉ thổ lộ có nằm mơ thấy Huệ, có ái ân với cô ấy trong mơ nhưng hoàn toàn không có trong thực tế. Thụ nhận như vậy chỉ làm Thảo điên tiết lên và làm sao tin được. Thảo tới nhà Huệ với cơn điên vì tức hơn vì ghen, nhưng Huệ một mực không thừa nhận. Cô nàng thề độc nhưng không thể chỉ ra cha thật của đứa bé là ai thì chẳng ai tin, khiến sự việc rùm beng lên. Cả gia đình của Huệ cũng cho rằng cô ấy có thể dan díu với Thụ, khuyên cô ấy thú nhận. Bằng chứng là đứa bé có quá nhiều nét giống Thụ và lúc trước khi có thai, Huệ thường đến chơi nhà vợ chồng Thụ… Chịu không nổi tiếng đời dèm pha, Huệ nhục nhã ôm con bỏ xứ đi lần nữa, nhưng Thụ ở lại cũng không yên thân. Thụ vốn tính lầm lì ít nói bây giờ như người câm vì không ai tin anh… Thậm chí có người còn chửi anh là tên vô trách nhiệm và Huệ hy sinh một mình gánh chịu một cách không đáng… Đau khổ hơn hết là sự đay nghiến của Thảo, Thụ không chịu nổi và anh cũng bỏ đi, chẳng biết đi đâu. Ai cũng cho là Thụ đi theo Huệ tới một nơi nào đó.
Hai mươi lăm năm sau, Huệ trở về với người thanh niên đã là phó tiến sĩ Sinh lý học - con của Huệ. Thảo không ngờ hai mẹ con Huệ tới đây để tìm Thụ… Càng không ngờ anh chàng phó tiến sĩ này tìm Thụ để nhận cha và minh oan cho Thụ và mẹ mình với những thành tựu mà anh đạt được trong con đường nghiên cứu khoa học. Những nghiên cứu của anh đã được thế giới công nhận như: Thụ tinh nhân tạo, sinh con trong ống nghiệm và đặc biệt là chứng minh được những trường hợp hi hữu thụ tinh tự nhiên không qua giao hợp… Thảo không hiểu gì nhiều về những vấn đề khoa học sinh lý mà chàng trai này nói, nhưng khi được nhắc lại chuyện mượn cái quần màu lông chuột mặc thử thì Thảo nhớ, nhưng Thảo không thể tin được… Mà chàng trai này thì rõ ràng giống y chang ảnh Thụ ngày xưa nhưng giờ ông ấy ở đâu không ai biết… .
| |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Sun May 10, 2020 1:20 pm | |
| .
Chuyện tình của Mỵ - Ngô Lạp
Trong căn phòng xinh đẹp, gã chủ nhà lần lượt giới thiệu với tôi những thứ được gã xem là vô giá: một bộ sưu tập những bức tranh nổi tiếng của các danh họa trong nước mà không biết gã đã lôi ở đâu về - cũng không biết đó là tranh thật hay tranh nhái - nhưng nghe gã nói mỗi bức tranh có giá ít nhất vài ngàn đô la, hay những đồ cổ ngoạn mà gã đã chịu khó mang về mỗi khi có dịp đi du ngọan Malaysia, Singapore hay Trung Quốc: những pho tượng Di lặc bằng ngọc trắng, những con rồng bằng mã não tỏa ánh hồng rờn rợn và những bức tượng mỹ nhân đẹp và sống động như người thật…
Gã thừa tiền nên sưu tập toàn những đồ quý hiếm mà các tay chơi chuyên nghiệp dù có mơ cũng khó lòng có được. Dẫu sao thì nhìn gương mặt bóng nhẫy của gã người ta cũng có thể hiểu rõ hòan cảnh hiện tại của gã. Gã dường như không biết mình phải tiêu làm sao cho hết cái số tiền lãi vặt cứ sinh sôi nẩy nở trong ngân hàng mà vợ chồng con cái gã cứ tiêu hoài không hết, mà tiền lãi chưa hết thì tiền gốc lại sinh sôi đầy dẫy ra rồi… Gã cười cười ra vẻ khiêm tốn bật nút chiếc máy hát, hạ chiếc kim xuống cái đĩa hát lóng lánh màu đen vương giả. - Cái máy hát đĩa này giá mười ngàn đô đặt mua từ bên Đức gửi về, âm thanh cứ trong vắt như là pha lê… Gã nói. Rồi gã lặng im một cách trang trọng như muốn nhắc nhở vị khách quí là tôi hãy cùng gã lắng nghe bản giao hưởng số 3 của Brahm… Nghe tôi khen âm thanh của chiếc máy, gã dường như lại càng hể hả vì có người hiểu biết giá trị của món đồ chơi trưởng giả của gã. - Mời cậu cứ ngồi chơi thưởng thức nhạc, đã lâu lắm ta chưa gặp lại nhau, nhân tiện mời cậu thưởng thức món chân gấu hầm rượu vang đỏ, ngon tuyệt… Hai gò má bóng nhẩy của gã qua nhiều năm không gặp đã trở nên múp míp khác hẳn ngày xưa khi gã vừa mới khăn gói lên vùng núi cao để khai thác thiếc. - Mời cậu nâng ly, mừng hội ngộ - gã đưa cho tôi một ly martin sóng sánh. – Tôi nhấp khẻ một chút rượu mạnh, gắp một miếng thịt dòn tan thơm phức mùi rượu ướp và bất giác nghĩ đến gã của những ngày xa xưa.
Ngày ấy gã thật đẹp trai, trắng trẻo thư sinh và hiền như một thầy tu. Gã lớn hơn tôi chừng bảy, tám tuổi. Ấy là vào năm 1985 khi tôi còn làm đội trưởng đội chiếu bóng lưu động số 2 của tỉnh, gặp gã còm nhom đói rách cùng với năm anh em làm sái thiết đóng đô thường trực trên cái xã vùng cao của người dân tộc Raglai này. Hồi ấy anh em gã tạm trú ở một cái nhà sàn tồi tàn nhất trong tổng số ba mươi cái nhà sàn trông từa tựa như nhau chỉ trừ cái nhà Rông là lớn nhất. Ngày ấy vì tội nghiệp gã nên mỗi lần đem máy lên chiếu phục vụ cho người dân tộc các xã vùng cao thì tôi lại mời gã qua dùng cơm với đội, nhân tiện tôi nhờ gã dẫn đi thăm thú khắp vùng, chụp hình những cô gái thượng giã bắp bằng những cái cối đá, ngực để trần thổn thện. Ở đó bắp là món ăn chính hàng ngày vì tôi thấy nhà nào cũng treo bắp thành từng xâu đầy trên các cây lồ ô gác ngang rường nhà, những trái bắp xông khói trông thật đã mắt... - Ngày cậu lên xã vùng cao chiếu bóng, lúc ấy tôi còn đói rét lắm… - gã nói. - Chưa có kinh nghiệm khai thác, sái thiếc làm ra không có đầu mối tiêu thụ, phải cùng mấy thằng đàn em ăn bắp quanh năm chẳng khác nào các nhà sư ăn chay trường. May mà lâu lâu còn có các cậu lên chiếu phim, được các cậu mời ăn cơm trắng cùng với thịt rừng du kích xã đi bắn về, được uống ké rượu cần say loạng choạng thật là vui. Tôi vẫn còn nhớ mãi tình cảm ấy… Thật là cơ duyên. Có vay thì có trả. Tôi đã được cậu chiêu đãi trong lúc thiếu thốn, giờ có dịp được phục vụ lại cậu. Mà không phải lúc này đâu nhé, bất cứ lúc nào có thể, cậu hãy hú tôi một tiếng. Tiền bạc không là vấn đề, mong sẽ gặp nhau ở những nơi có ê hề món ngon vật lạ, để tôi thỏa sức mà phục vụ cho cậu… Tôi nghe gã bằng tai, nhưng mắt thì tôi cứ nhìn vào đĩa thịt gấu ướp rượu thơm phức trước mặt mình. Gã đã trở nên giàu có đến mức muốn ăn món gì cũng được, muốn nghe nhạc gì cũng có… Nhưng trong ký ức còn sót lại của tôi thì gã vẫn là một cậu thanh niên gầy còm ốm yếu có vóc dáng thư sinh, hình như lỡ dở chuyện yêu đương nên tóc tai cạo trọc, cặp mắt buồn tênh. Gã một mình mang theo chút vốn lên xã vùng cao làm nghề khai thác thiếc. Gã chiêu mộ đàn em đến từ những vùng quê miền bắc xa xôi như Thanh Hóa, Hải Phòng, bỏ tiền ra muớn họ khai thác mỏ. Gã đã trải qua khá nhiều đói khát, thất bại. Có khi gã phải tạm nghỉ cả tuần hay cả tháng vì nhân công chán nản bỏ trốn gần hết, hoặc cả nhóm thợ lên cơn sốt rét ác liệt phải tạm thời rút lui về đồng bằng chữa bệnh… Những lúc ấy mà có đội chiếu bóng của chúng tôi lên thì… - Anh còn nhớ lúc ta đi ngang chổ các cô gái thượng tắm suối không? - Tôi hỏi – Không hề quên! – gã trả lời tôi bằng cái nhìn đồng lõa. Thật vậy, trước mặt người lạ, các cô gái thượng tắm truồng thường luống cuống không biết phải che đậy phần trên hay phần dưới, thật là ngây thơ trong trắng đến tội nghiệp...
Rồi trong ký ức dịu dàng của tôi, những ngày sơn cước của năm 1985 lại ùa về. Những đêm trăng sáng cùng nằm gối đầu trên chiếc gối mây nhìn bóng trăng xuyên qua mái nhà sàn tôi và gã thường kể cho nhau nghe những kỷ niệm riêng tư. Gã coi tôi như em, nên thường kể cho tôi nghe về những chuyện vui buồn mà gã biết. Gã thường kể cho tôi nghe câu chuyện về cô bạn thân của gã. Cùng lớn lên trên một xóm nghèo nằm tận bên kia sông, Mỵ càng lớn càng xinh đẹp. Mỵ là con nhà nghèo nên phải nghỉ học từ năm lớp chín, ở nhà chăm sóc đứa em gái nhỏ. Mẹ mất sớm cho nên Mỵ trở thành trụ cột của gia đình từ nhỏ vì cha Mỵ cứ bệnh tật triền miên… Mỵ hàng ngày gánh rau quả qua sông trên một chiếc xuồng con để đến chợ xã ngồi bán cho đến gần trưa, rồi lại qua sông về nhà lo cơm nước cho cả gia đình… Tấm lưng thon của Mỵ làm say đắm không biết bao nhiêu đàn ông trong cái xã nhỏ bé này, chỉ trừ có một người không hề biết rung động mỗi khi tình cờ gặp Mỵ… Không phải người đàn ông ấy khờ khạo nên không cảm xúc trước vẻ đẹp của một giai nhân, nhưng chỉ vì người ấy là một... thầy tu, mà thầy tu còn đi mê gái thì mới là sự lạ. Trong năm ấy, ba Mỵ qua đời sau những cơn bệnh trầm kha không chữa trị được. Thế là vị sư trẻ trụ trì ngôi chùa Giác Lâm ở vùng đó được mời đến để đọc kinh cầu siêu tịnh độ cho cha của Mỵ. Căn nhà đơn chiếc chỉ có bà dì ruột tất tả lo toan mọi điều tang lễ dưới sự giúp đỡ của vài người bà con trong họ mẹ. Cũng đơn chiếc có một mình Mỵ và em gái mặc đồ tang trắng ngồi sau lưng các vị sư thầy và cúi mình vái lạy sau những hồi kinh. Mà vị sư trẻ có khuôn mặt mới thanh tú làm sao, đôi lông mày cong cong như con gái, mặt trắng khôi ngô, nghiêm trang thuần khiết với cái nhìn vừa dịu dàng vừa sâu sắc, cứ mỗi lần mở miệng nói chuyện với Mỵ thì lại làm cho Mỵ rùng mình vì một cảm giác ấm áp lan tỏa khắp châu thân… Chưa bao giờ Mỵ được nghe một giọng đọc kinh nào vừa thanh tao thánh thót vừa có âm điệu du dương đến thế. Giọng đọc kinh của vị thầy tu trẻ cứ hết câu này sang câu khác như ru Mỵ vào trong một bầu trời thanh bình hoan lạc, nơi đó cái chết chỉ là một giấc ngủ dài hơi mà không mộng mị…Mỵ tự nhiên thấy vơi đi nổi buồn mất cha và nghe vị sư trẻ đọc kinh suốt ngày không biết chán… Hình như sư thầy đã quen với những đêm thức trắng tụng kinh nên Mỵ thấy thầy chỉ hơi chợp mắt vào lúc ba giờ sáng. Hơn bốn giờ thầy lại mặc áo tiếp tục tụng kinh cho tới sáng. Trong thâm tâm, Mỵ thấy thầm kính phục vị sư thầy trẻ tuổi và trái tim Mỵ bỗng nhiên rung động về cả giọng đọc kinh tha thiết cũng như dáng vẻ khôi ngô của vị thầy tu…
Sau khi mãn tang cha rồi, Mỵ vẫn thường xuyên mười bữa nửa tháng mang theo nhang đèn hoa quả đi xuồng vượt sông qua chùa, trước là thăm sư thầy, sau là nhờ sư thầy đọc kinh siêu độ cho cha… Tình yêu nẩy nở trong lòng người con gái tự bao giờ không biết nên Mỵ trở nên khác thường trong từng cử chỉ, khi thì phấn khích, khi lại buồn bã một mình thâu đêm suốt sáng. Trong những ngày ấy, chắc hẵn nàng đã xấp xỉ tuổi đôi mươi, cái tuổi đầy chín chắn để bước vào tình yêu, dù là một tình yêu vô vọng, và vị sư thầy năm ấy tuổi trạc hai lăm, là vị sư thầy nhỏ tuổi nhất ở vùng này từ trước tới nay. Nhưng làm sao mà thầy không cảm thấy, không nhìn thấy cái tình yêu nồng thắm mà vị tín nữ kia đang trao gửi trọn vẹn cho thầy, có lẽ đúng hơn là thầy muốn tránh né cái tình yêu nam nữ, mặc cho cô gái ngày càng u sầu héo hắt trông thật thương tâm… Cô gái ngày càng thêm yêu cuồng dại, cứ mỗi tuần lại mang theo nhiều thứ để cúng dường cho nhà chùa, và cũng để thỏa mãn mối tình ngang trái của mình… Cô gái chỉ cần được ngồi suốt buổi để nghe thầy giảng kinh, lắng tai chăm chú nghe thầy đọc những câu trong kinh Báo ân với chất giọng du dương truyền cảm rồi khẽ nhìn sâu vào mắt của sư thầy như cố gắng tìm kiếm một tia sáng nào đó của một mối tình vô vọng. Cô gái đã không thể nào giấu diếm mãi nổi lòng của mình trước kẻ vô tâm. Rồi một buổi trưa nọ khi trong chùa chỉ có hai người, cô đã khóc thật nhiều khi tự mình thú nhận tình yêu với vị sư thầy. Cô nghĩ rằng chẳng có gì là xấu hổ khi công khai tình yêu của mình với sư thầy, vì sư thầy là một người đạo cao đức trọng dù rằng tuổi vẫn còn son trẻ… Không biết lúc đó có một sức mạnh nào đã xui khiến cho Mỵ ôm chầm lấy nhà sư mà thổn thức khóc. – Thầy ơi , hãy giúp con với, con đã lỡ yêu thương thầy lắm rồi. Thầy ơi, thầy hãy hòan tục đi. Thầy và con sẽ có một cuộc sống nên thơ vui vẻ, thầy hãy cho con cơ hội, thầy hãy đáp lại tình yêu của con, hãy cứu vớt đời con. Nếu thầy không đáp lại thì con xấu hổ lắm, con sẽ không thiết sống ở cõi trần tạm bợ này nữa... Vị sư thầy ngơ ngác nhìn cô gái như thấy hình dáng của yêu nữ hiện lên thử thách lòng mình - hãy bình tỉnh, vị sư thầy khuyên nhủ… - Chắc tín nữ trong lúc nhất thời cảm thấy xúc động nên phát tâm trần tục với kẻ tu hành, nếu tín nữ bình tâm trở lại, bần tăng tin là mọi chuyện sẽ trở nên bình thường như cõi đời sắc sắc không không này thôi, tín nữ đừng vì bần tăng mà làm hủy họai cả tinh thần và thể xác của mình nữa…
Những câu khuyên nhủ của vị sư trẻ không làm nản chí cô gái, cô vẫn khăng khăng thuyết phục vị sư thay lòng đổi ý. Cô cương quyết đến nỗi sư thầy cảm thấy ái ngại không biết dùng lời lẽ nào đủ khôn khéo để thuyết phục cô gái si tình. Sau cùng thầy đành phải đánh một nước bài liều lĩnh… - Con hãy cho ta có thời gian để đọc kinh suy ngẫm, rồi tối nay vào lúc nửa đêm con hãy qua đây gặp ta. Nếu định mệnh đã buộc ta không thể đạt thành chánh quả, thì cứu một mạng người cũng là điều nên làm. Ta sẵn sàng làm theo sự sắp xếp của con… Thật ra, cả nhà sư và cô gái đều biết rằng vào mùa này ban đêm nước nguồn từ trên núi thường xuyên đổ xuống dữ dội tràn ngập cả hai bên bờ sông. Ban ngày nước rút sự đi lại còn khó khăn huống chi là nửa đêm khi trời tối đen như mực. Làm sao thân gái có thể vượt qua con sông dữ để đến được với nhà sư… Rồi đêm đó, nước lớn thật sự, lớn khủng khiếp như chưa bao giờ lớn đến như vậy trên con sông này. Dưới ánh trăng vằng vặc, nước lũ tràn về trắng xóa cả hai bên bờ sông, làm thành một cái biển nước mênh mông tít tắp lạnh lùng, ai đứng trên bờ nhìn thấy cảnh nước trôi cuồn cuộn như thế cũng phải từ bỏ cái ý định điên cuồng là bơi qua sông, dù là bằng bất cứ loại phương tiện gì… À không, cậu đừng ngắt lời tôi, hãy để tôi kể cho hết câu chuyện buồn này… Đêm hôm đó, Mỵ đẩy xuồng ra sông dù biết rằng làm thế là đùa giỡn với số mệnh của mình, nhưng Mỵ vẫn làm, vì người ta thường nói: “Tình yêu mạnh hơn cái chết”… phải không cậu? Rồi việc gì đến sẽ phải đến… Sáng hôm đó người ta tìm thấy chiếc xuồng của Mỵ kẹt lại trong mấy cây kèo của một căn chòi bị trôi trên sông. Dĩ nhiên, không ai còn thấy mặt cô gái xinh đẹp ở cái xóm nhỏ đó nũa, cũng như không ai biết được câu chuyện bí mật đã từng xảy ra giữa hai người: một cô gái đẹp và một vị thầy tu, mà ta có thể gọi một cách lãng mạn là một mối tình tục lụy…
Còn về phần vị sư thầy trẻ tuổi thì sao hả? Cậu có vẻ trách móc nhà sư vì đã đưa ra một đòi hỏi quá sức đối với một cô gái nhỏ… Thật vậy, đòi hỏi thật là quá đáng. Nhưng thử đặt cậu vào vị trí của một nhà sư không hề biết qua về tình yêu và tâm lý của phụ nữ thì cậu sẽ đưa ra được điều kiện nào tốt hơn điều kiện mà nhà sư trẻ đã đưa ra? Vậy là nhà sư trẻ đâm ra hối hận… Những ngày sau đó sư thầy đóng cửa sám hối tội lỗi của mình dưới chân Phật tổ. Thầy không ăn uống gì trong suốt một tuần lễ và sau đó thì thầy bỏ chùa mà đi đâu không rõ… Sau khi vị thầy tu trẻ bỏ chùa ra đi, sự thật mới từ từ hé lộ qua lời kể của cô em gái của Mỵ, và vì chẳng còn ai để trách cứ nên câu chuyện đã từ từ trôi vào quên lãng… Những tình tiết của câu chuyện được kể vào năm 1985 giờ đây lại hiện về mồn một từng chữ từng lời trong tâm trí tôi. Giờ đây trước mắt tôi là người bạn cùng xóm với cô Mỵ xinh đẹp trong câu chuyện, một cô Mỵ ngây thơ trong trắng nhưng lại yêu điên cuồng say đắm hơn cả nàng Juliet. Anh bạn này, qua hai mươi năm dài đăng đẳng mà lúc nào cũng nhớ đến bạn gái thân yêu của mình và kể lại cái chết của Mỵ cũng như mối tình tuyệt vọng của Mỵ bằng một giọng kể buồn muôn thuở… Rồi tôi giật mình rời bỏ quá khứ của những năm một chín tám lăm để trở về thực tại qua cái vỗ vai thân thiết của gã chủ nhà. – Nào, nâng ly đi cậu em. Cậu hãy chúc cho sự thành đạt của người anh nuôi của mình đi chứ. Kia là tay gấu sốt rượu vang Pháp, kia là món hải sâm cực bổ và chén chè yến đắt tiền, cậu hãy dùng cho vui lòng anh chứ… Tôi mỉm cười nhìn lên trên chiếc kệ bằng gỗ cây sưa lên nước bóng ngời, nhìn những món đồ gia bảo mua được từ mọi miền thế giới, tôi chợt thấy lẫn lộn trong đó là một cái mỏ dùng cho các bậc tu hành để công phu tụng niệm… Trên cái mõ đen bóng được truyền tay y bát mấy trăm năm, tôi thấy có ghi hai chữ Hán “Giác Lâm”, cái tên này nhắc cho tôi nhớ đến một nhân vật trong truyện kể, và trong phút chốc tự nhiên trí óc của tôi rực sáng lên, tôi buột miệng: - Tôi chỉ muốn hỏi anh một câu này thôi nhé? - Cậu cứ tự nhiên. - Có phải chính anh là vị sư trẻ trong câu chuyện đó không? Gã mĩm cười, không nói. Nhưng trong đôi mắt đang nhìn xuống, gã đã công nhận với tôi điều đó là sự thật… Cũng trùng khớp với những gì tôi nhớ về gã khi lần đầu gặp gỡ… Cái đầu trọc lóc, vẻ mặt chán chường. Và cả câu chuyện về nàng con gái tên Mỵ… - Tội nghiệp Mỵ… - Tôi lẩm bẩm… - Nhưng tôi không giết Mỵ…! - Gã cười vui vẻ như không có chuyện gì xảy ra, rồi không để tôi phải nghĩ ngợi lâu, gã nói tiếp – Nghĩa là Mỵ không chết, Mỵ vẫn còn sống…!
Rồi gã kể cho tôi nghe vì sao Mỵ không chết. Đêm đó, Mỵ lấy xuồng để qua với gã thật, nhưng xuồng trôi ngay khi vừa bỏ xuống nước. Điều đó làm cho Mỵ sợ… Và sáng hôm đó khi nước rút, Mỵ lặng lẽ ra đi đến một nơi không ai biết nhằm chôn dấu mối tình mà Mỵ biết sẽ bị rùm beng lên vào những ngày sau đó. Rồi Mỵ lấy chồng, có hai con, sau đó lại ly dị chồng và dắt theo đứa con nhỏ về lại quê hương… - Tội nghiệp cho chị Mỵ… Rồi anh có gặp lại chị ấy không? - Được rồi, tôi sẽ cho cậu thêm một sự ngạc nhiên nữa nhé! Mỵ ơi, mang cà phê lên cho chú Thanh đi em. . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Mon May 18, 2020 2:15 pm | |
| .
Mối tình xa... - Thanh Vân
Tôi với chàng quen nhau thật tình cờ. Không ai nghĩ rằng chúng tôi có thể yêu nhau. Nếu mặt trăng mặt trời khác nhau làm sao thì tôi với chàng khác nhau như vậy. Tôi ham tranh đua, tôi thèm châm biếm, chàng thì hiền như cục đất. Trước khi chàng nói yêu tôi, tôi đã biết gần hết cuộc đời ái tình và sự nghiệp của chàng qua những bài viết xuất hiện đó đây trên các tạp chí Văn học tỵ nạn. Chàng tuy là dân trường Tây, người Bắc nhưng suốt đời chưa tán gái, vợ chàng dân tỉnh lẻ miền Trung, chàng gặp nàng, yêu nàng và thành vợ chồng. Sau đêm tân hôn để trở thành đàn ông thứ thiệt, chàng lấy bổn phận làm kim chỉ nam cho cuộc đời. Mà bổn phận của người đàn ông, theo chàng, là “sợ vợ”, và đi làm đem hết tiền về cho vợ, mọi chuyện khác vợ lo. Rồi chàng có con, vậy là hướng đi của chàng còn rõ ràng hơn, không được nhìn người đàn bà nào khác ngoài vợ, vợ là ‘tình đầu’, vợ là ‘tình cuối”, vợ cười là lòng chàng vui, vợ nhăn mày là lòng chàng héo hắt... Mấy chục năm trôi qua, từ trong nước ra đến hải ngoại, cuộc đời chàng lặng lẽ an bình...
Vậy mà ma đưa lối, quỷ dẩn đường sao chàng lại gặp tôi và... đòi yêu tôi. Chắc cuộc đời của chàng sau mấy chục năm làm chồng êm đềm qúa nên chàng thèm sóng gió. Nếu muốn yêu, muốn có người tình bé nhỏ để “dối già” thì thiếu gì những em gái hậu phương, hiền lành, ham tiền, ham danh vọng để chàng dấu diếm vợ đem đi xây lâu đài tình ái trong hóc kẹt nào. Rồi sau đó, trong những giờ chàng có quyền đi ra khỏi nhà, nói trắng ra, đi làm đem tiền về cho vợ tiêu, chàng có nơi có chốn cho tình cảm phiêu lưu và có cảm tưởng rằng mình là người hào hoa phong nhã, vợ sợ như thần, vẫn có “ngừơì tình nhí” như ai... mặc dù sau những giờ phút đó lại trở về nhà đóng vai người chồng gương mẫu. Nhưng sao chàng lại chọn tôi, người tình không “nhí” cũng không “hiền” cho cuộc đời của chàng tan tác như lá mùa Thu? Ui... có trời mới hiểu nổi. Lúc đầu, những lời tỏ tình ngây ngô của chàng làm tôi vui vui, tôi nghĩ chàng này người Bắc mà giả bộ vậy chứ đến tuổi của chàng thì còn yêu ai... nhưng rồi ngày qua ngày... cái “ngây ngô“ của chàng đã làm cho con tim tôi rung động và tôi cũng trả lời những lá thư tình của chàng một cách đều đặn, bụng cứ nói thầm “A sợ vợ mà dám chơi trèo, ta sẽ cho nhà ngươi khốn khổ”... Mà mới nhìn qua thì cán cân chênh lệch quá nhiều, chàng hiền lành, tôi tai quái, chàng có vợ (mà lại sợ nữa chứ) tôi độc thân... thấy rõ ràng chàng thua là cái chắc. Vậy mà nói cho chàng nghe, chàng “tỉnh bơ” trả lời “không sao, anh chịu được”… Rứa là chàng... chết. Cuộc tình chênh lệch của chúng tôi cũng như mặt trận Quốc Cộng, mỗi ngày mỗi lan rộng.
Những tưởng rằng cuộc tình có lớn đến đâu rồi cũng sẽ tan mau như tuyết trắng trên núi Big Bear của miền Cali hai mùa nóng lạnh, vậy mà tình của chúng tôi đã qua hai mùa lá rụng vẫn chưa phai. Ui, hai mùa Thu rồi chứ ít ỏi gì! Nó lạ lùng vì tôi là con người không yêu ai lâu hơn vài tháng và chàng thì mấy chục năm chỉ có một vợ hiền. Lá thư tình đầu tiên chàng viết cho tôi vào một đêm mùa Thu khi vợ chàng đi vắng, chàng ở nhà buồn buồn nhớ vợ nên viết cho tôi, chàng viết rằng đêm hôm trước chàng nằm mơ thấy tôi và chàng đi lang thang ngoài bãi biển nhưng rồi nhìn lại tôi đã biến mất, chàng bàng hoàng thương nhớ xót xa… Đọc thơ chàng tôi cười muốn ngạt thở nhưng nghĩ lại chàng hiền lành nên lâu lâu nói dóc không sao. Tôi không nỡ viết thơ lại “móc họng” chàng, lần đầu tiên tôi biết “thương xót” đàn ông tỏ tình lạc điệu. Tôi nổi tiếng đanh đá mà! Có một chàng cũng nổi tiếng “độc” hay làm thơ tình tặng tôi đã bị tôi “quay” như dế, tôi càng “quay” chàng càng “cay” và nhiều người đã ngạc nhiên không hiểu sao chàng này mồm thuộc loại ăn mắm ăn muối, chưa ai đụng tới đã nhảy đông đổng mà lại quá dịu dàng với tôi, họ đâu biết rằng chàng thuộc loại “ưa tìm thương đau”, con tim càng nhỏ lệ, thơ chàng càng nồng nàn…. Mà tôi lại lạc đề rồi… Trở lại chuyện tình của tôi với người đàn ông sợ vợ. Tưởng tôi với chàng suốt đời đi song song, chàng sống mãi bên vợ hiền, lâu lâu thả hồn mơ mộng cho làm loạn phút giây, còn tôi mãi mãi độc hành với con tim bọc sắt không biết yêu. Vậy mà… chúng tôi yêu nhau đã hai năm… Hai năm dài như hai mươi năm mà cũng có thể ngắn như hai ngày. Tôi càng tai quái, chàng càng dịu dàng. Những câu chuyện chúng tôi nói với nhau, người ngoài nghe được… sẽ cho rằng hai đứa tôi loạn trí.
Chuyện không đầu không đuôi, tôi ủ ê xin chàng tấm hình hai vợ chồng chàng chụp chung, nói rằng để thấy chàng hạnh phúc tôi sẽ yên bụng và sẽ thương chàng hơn, tôi làm trận, tôi làm giặc và chàng anh dũng trả lời có sá chi ba chuyện lẻ tẻ, cuộc đời của chàng đã đi quá nửa, chàng yêu tôi hơn bản thân của chàng thì còn sợ gì mà không làm cho tôi vui lòng. Vậy là chàng gởi cho tôi hình hai vợ chồng chàng âu yếm bên nhau... Nhận được hình buổi sáng, buổi trưa chàng hết làm việc…. Tôi rú lên rằng xin vĩnh biệt chàng, chàng hạnh phúc quá mà, vợ chàng không đẹp, không đáng cho tôi ghen... Rồi máu ghen nổi lên, tôi chê bai, tôi mai mỉa. Chàng mệt nhoài im lặng chịu trận cái điên của tôi, không một lời chê vợ cho tôi vừa lòng, cũng không nịnh tôi chữ nào cho tôi mát ruột! Chàng cứ im và tôi cứ gây... để rồi sau cùng tôi cười xòa xin lỗi chàng nhìn nhận rằng tôi ghen, vợ chàng đẹp tôi cũng ghen, không đẹp tôi cũng ghen… vậy thì tốt nhất là chàng nên quên hết những lời tôi đã nói. Chúng tôi lại tiếp tục tâm sự với nhau, chúng tôi kể cho nhau nghe những giấc mơ vô tưởng nhưng chưa một lần chàng nói gì về việc sẽ rời xa vợ hiền, chàng chỉ nói rằng chàng sẽ yêu tôi suốt cuộc đời còn lại của chàng, chàng mơ một ngày nào đó tôi sẽ ngồi bên chàng hát cho chàng nghe, cười cho chàng vui... Chàng đã quên cơn điên ồn ào mà chàng than rằng đã làm cho ruột gan chàng bào bọt.
Dù chàng vẽ ra một cuộc sống chung thật êm đềm thơ mộng, những buổi chiều mùa Đông hai đứa cầm tay nhau đi dọc theo bờ sông Seine nhìn mưa rơi, ăn trái chataigne rang nóng bỏng của anh chàng Rệp đầu đường Rivoli, hay những buổi tối tôi ngồi đàn cho chàng nghe, không bao giờ chàng cho biết chàng sẽ cất vợ chàng nơi nào để có thể thực hiện những mơ ước đó với tôi. Những khi tôi làm bộ nhu mì hỏi thăm về đời sống gia đình của chàng thì chàng hớn hở kể cho tôi nghe lại những câu chuyện giữa hai vợ chồng chàng, những dự tính tương lai cho nhà cửa, con cái…. để rồi sau đó chàng lặng ngắt nghe tôi ray rứt kêu chàng là Sở Khanh, nói yêu tôi, đòi chung sống với tôi mà vẩn mê vợ nồng nàn. Tôi bù lu bù loa nói rằng may mà chàng chưa cầm tay tôi, chưa vuốt tóc tôi chứ không thì tôi nhục mà chết... Ôi, không biết chàng mắc nợ tôi kiếp nào mà kiếp này vài ngày lại trả nợ, tôi cười, chàng hớn hở cười theo, ba hoa kể chuyện tương lai, ngậm ngùi kể lại sự nhớ nhung khi hai đứa xa nhau không liên lạc được hàng ngày, tôi gây, chàng nín lặng, tôi la hét, chàng dịu dàng nói rằng tôi đang điên chàng không chấp. Cuộc tình cứ thế mà trôi qua theo ngày tháng. Một năm chàng đi du lịch với vợ chừng năm lần. Đi xa hay đi gần chúng tôi vẫn tìm cách liên lạc được với nhau.
Những lần điện thoại bị cắt ngang vì vợ chàng thình lình xuất hiện sau lưng, chàng ú ớ thanh minh rồi nhét máy vào túi để cho tôi điên lên vì tự ái rồi sau đó chàng lại kiếm một hóc kẹt nào để tỉ tê năn nỉ cho lòng tôi dịu xuống, cho tim tôi tan thành nước... Những ngày chàng lênh đênh trên mặt biển không nói chuyện được với nhau, hai đứa tôi đều cùng như bị bệnh… như người nghiện ma túy, mỗi ngày chúng tôi cần tâm sự với nhau vài câu, thiếu tiếng nhau như người nghiền thiếu thuốc, cả hai, khi gặp lại, đều tả cho nhau nghe sự nhớ nhung của mình và đều thấy rằng chúng tôi cùng có một triệu chứng và… cơn đau nổi lên cùng một thời… Chàng hay cười nói với tôi là không bao giờ tôi xa chàng được nữa, sự cảm thông giữa hai chúng tôi quá nặng, cái “Telepathie” quá rõ ràng, chàng buồn tôi sẽ buồn hơn, chàng buồn quá chết đi thì tôi sẽ “ngáp ngáp” theo mà thôi! Tôi thường nỉ non than vắn thở dài với chàng rằng tôi yêu chàng vì chàng trung hậu, có lòng, bao nhiêu người theo tôi mà tôi dửng dưng đùa giỡn vì họ không có lòng như chàng nhưng cũng chính cái “trung hậu” của chàng làm cho chúng tôi xa nhau mãi mãi… Tôi dịu dàng than thở, chàng khổ sở an ủi tôi, tôi nổi cáu, nổi ghen dọa sẽ có bồ như chàng có vợ, như vậy tôi với chàng đều tội lỗi như nhau chàng sẽ khỏi nghe tôi chì chiết, chàng hét lên chàng chịu được tánh khí bất thường của tôi vì đó là cái giá chàng phải trả… Chàng ngây thơ nhưng ngoan cố cứ than tôi khó tính chứ vào địa vị một người nào khác mà được chàng thương yêu như vậy sẽ quá hài lòng mà an hưởng mối tình của chàng.
Chàng cứ xuýt xoa rằng sao hai chúng tôi hạp nhau thế này (chắc ý chàng muốn nói “Les extrêmes s’attirent, chàng dân học trường Tây mà, suy nghĩ như Tây, hành động như ông đồ nho sợ vợ!) mà ngày chàng còn độc thân không cho chàng gặp, phải được vậy cuộc đời sẽ đẹp biết bao. Rồi chàng nói đến sự bất công của ông Trời và tiếp tục thở vắn than dài. Ui, ui sao chàng không nói rõ ra rằng ngày đó chàng đã quá tuổi lập gia đình. Dù chàng vẽ ra một cuộc sống chung thật êm đềm thơ mộng, những buổi chiều mùa Đông hai đứa cầm tay nhau đi dọc theo bờ sông Seine nhìn mưa rơi, ăn trái chataigne rang nóng bỏng của anh chàng Rệp đầu đường Rivoli, hay những buổi tối tôi ngồi đàn cho chàng nghe, không bao giờ chàng cho biết chàng sẽ cất vợ chàng nơi nào để có thể thực hiện những mơ ước đó với tôi. Những khi tôi làm bộ nhu mì hỏi thăm về đời sống gia đình của chàng thì chàng hớn hở kể cho tôi nghe lại những câu chuyện giữa hai vợ chồng chàng, những dự tính tương lai cho nhà cửa, con cái…. để rồi sau đó chàng lặng ngắt nghe tôi ray rứt kêu chàng là Sở Khanh, nói yêu tôi, đòi chung sống với tôi mà vẫn mê vợ nồng nàn. Tôi bù lu bù loa nói rằng may mà chàng chưa cầm tay tôi, chưa vuốt tóc tôi chứ không thì tôi nhục mà chết... Ôi, không biết chàng mắc nợ tôi kiếp nào mà kiếp này vài ngày lại trả nợ, tôi cười, chàng hớn hở cười theo, ba hoa kể chuyện tương lai, ngậm ngùi kể lại sự nhớ nhung khi hai đứa xa nhau không liên lạc được hàng ngày, tôi gây, chàng nín lặng, tôi la hét, chàng dịu dàng nói rằng tôi đang điên chàng không chấp. Cuộc tình cứ thế mà trôi qua theo ngày tháng. Một năm chàng đi du lịch với vợ chừng năm lần. Đi xa hay đi gần chúng tôi vẫn tìm cách liên lạc được với nhau.
Chúng tôi cứ đùa là nếu ở chung với nhau chắc sẽ chẳng cần nói chuyện, nhìn nhau đã biết người kia muốn gì… Vì vậy, tôi đề nghị… nên xa nhau mãi mãi, cho tình đẹp, cho nghĩa bền, cho chàng được tiếng là người chồng tốt. Tôi vẫn tự cho mình khôn ngoan và chàng cù lần, chàng tán không ồn ào nhưng dai dẳng, tôi đùng đùng la hét để rồi ỉu xìu chấp nhận mình thua. Chàng thường ngạo tôi “khôn ngoan không qua tình ái” mê nhau rồi... đầu óc bỏ đi. Tôi trả lời, tui không mê chàng, tui đùa chơi cho chàng tưởng bở, chàng trả lời đùa làm chi cho mất ngủ, cho ủ ê, cho chàng cảm thấy được yêu thứ thiệt... Ui chao ơi, con cóc đã mở miệng nên tôi đành dùng độc kế, tôi hét lên rằng từ đêm tân hôn với vợ chàng không còn trong sạch để nói chuyện yêu thương, tôi yêu chàng vì tôi yêu tôi, tôi nói chuyện với chàng không cần gìn giữ, không thèm làm dáng, tui nói như nói với chính tôi. Chàng cười lớn “vậy thì hai đứa mình là một rồi em ơi!”... tôi thở dài than thở, lấy vợ gần bốn mươi năm rồi chàng còn gì cho tôi nữa đâu, chàng trả lời còn nguyên, còn vẹn, sông cạn rồi sông đầy…. Đúng là tôi khôn cho lắm cuối cùng cũng thua, chỉ còn vớt vát chê chàng là Bắc kỳ lẻo mép.
Mà tôi dại dột dám nghỉ chàng cù lần, chậm lụt nên nhảy vào cùng chàng ca khúc yêu đương! Hai tháng xa nhau ít dịp liên lạc, ra khỏi nước Mỹ mỗi đứa mổi nơi, trời đất bao la, điện thoại nhiều nơi không có, tôi có quên được chàng hay không? Chàng có vẻ tự tin nhưng cũng dặn hờ tôi đừng nghe lới Tàu Cộng, trong đời không có người nào yêu tôi bằng chàng, cứ yên tâm yêu chàng hết mình rồi một ngày kia chàng sẽ thuộc về tôi, tôi mỉm cười muốn trả lời chàng rằng ngày xưa khi rời xứ Huế bước chân ra đi, mẹ tôi có dặn dò đừng bao giờ tin lời trai già dụ dỗ... Nhưng rồi tôi nhớ đến tiếng cười của chàng mỗi ngày cho con tim tôi nhẹ nhàng bay bổng nên chỉ viết cho chàng mấy câu thơ của một tác giả tôi không nhớ tên. Vậy mà hai năm đã qua từ lá thư tình đầu tiên chàng viết cho tôi một đêm vợ chàng đi vắng. Giờ đây tôi có cả ngàn lá thư tình của chàng, tôi nhìn mà không dám đọc lại sợ tim mình thổn thức, sợ hồn mình bâng khuâng. Thơ đầu tiên của chàng làm tôi cười đến ngạt thở, thơ mới viết của chàng làm tim tôi nhói buốt vì nhớ nhung.
Bây giờ đang mùa Thu, nắng Cali dịu dàng, hoa tường vi đủ màu đủ sắc nở khắp đường phố. Tôi với chàng vẩn hạnh phúc ủ ê trong cuộc tình đến muộn. Sau giờ làm việc chàng lại về nhà đóng vai người chồng yêu vợ thương con, tôi vùi đầu tìm quên cái “khùng” của mình trong sự chờ đợi điện thoại của chàng. Mỗi ngày nghe chàng cười chừng mươi lần, nhớ chàng ray rứt ngày đêm, con người ngổ ngáo của tôi đã bay đi chốn nào không hẹn ngày trở lại. Tôi mơ một chuyến đi xa, biệt tăm biệt tích… nhưng tiếng cười của chàng làm cho tiếng đập con tim của tôi nhẹ lại, không nghe tiếng chàng tôi sẽ bị bể tim ra mà chết! Cứ lý luận vậy, biết ngày nào tôi xa được chàng? Hai năm đã qua mà mối tình vẩn không có lối thoát, tôi với chàng sắp xa nhau hai tháng. Chàng đi Tây với vợ, tôi đi Tàu một mình. Chưa đi Tàu tôi đã khoe chữ nho với chàng, tôi than “Tri giao quái ngã sầu đa mộng”, bạn bè ngạc nhiên sao tôi cứ mơ mộng cho nhiều rồi buồn bã, chàng trả lời ngay “Thiên hạ hà nhân bất mộng trung” (thử hỏi trong đời có ai là người không ở trong mơ). Vậy Anh ơi: Khi chiếc lá xa cành Lá không còn màu xanh Mà sao em xa anh Tình vẫn xanh vời vợi.
Thanh Vân . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? Sun Aug 30, 2020 2:46 pm | |
| . Khoảng trống bâng khuâng - Trần Doãn Nho
Nghe cô bạn báo tin là đã tìm được việc làm, Doãn rời Cali nắng ấm, dẫn theo đứa con gái đang còn học cấp ba, qua vùng New England giá lạnh. Thấy chỉ hai mẹ con dắt díu nhau, cô bạn sửng sốt: - Thế anh Hùng đâu? Doãn cười buồn: - Tụi tui bỏ nhau rồi. - Trời ơi là trời! Sao mà đến nông nổi này, Doãn? Ngoại tình? Gây gỗ nhau hàng ngày? Tiền bạc không rõ ràng, sòng phẳng? Hay mẹ chồng khó tính? Doãn xua tay: - Tui có cái may là không dính gì đến mấy chuyện đó. Nhưng vô phước lại dính đến một cái khác, còn tệ hơn. Nhưng chuyện dài lắm, phải có thì giờ mới kể hết được. - Lạ chưa! - Ừ, thì lạ. Tóm tắt là như thế này: Hùng ghen. - Tưởng gì. Có ghen mới có yêu, có yêu mới có ghen. Vợ chồng ai mà không có lúc ghen tuông này nọ. Tụi tui cũng vậy thôi, đâu có khác gì bà. - Ghen tuông vớ vẩn thì nói làm gì. Hùng mắc bệnh ghen. Cái gì ông ấy cũng ghen, kỳ quặc hết chỗ nói. Trang điểm ngó cho được mắt đi làm, cũng thắc mắc: để cho mấy thằng đàn ông trong hãng ngắm phải không? Mua cái áo đẹp cũng hỏi: có chồng hai con thì cần gì phải mặc áo đẹp. Xin về Việt Nam thăm nhà, thì đay đi nghiến lại, nói là về để thăm thằng bồ cũ. Thế thì còn được đi, ghen kiểu này mới chết. Ông anh họ tui từ tiểu bang khác tới chơi, ông ấy đi làm về thấy hai anh em tui đang ngồi nói chuyện, chẳng nói chẳng rằng, tới tát ngay mặt ông anh họ tui một cái tát xửng vửng. Một lần khác, buổi chiều xong ca, hãng cần hàng gấp, yêu cầu công nhân ở lại thêm ít chục phút làm cho xong, ông ấy về nhà không thấy tui, chạy tới hãng tìm, vào thấy tui với mấy bà đang còn ngồi làm, liền đi tìm thằng Mễ group leader gây gỗ, vác nguyên cái ghế ném thẳng vào nó, may mà không trúng. Kể sơ sơ vậy, bà nghĩ xem, tui làm sao chịu nổi… - Ờ… ờ… ghen kiểu đó thì thiệt tình đây là lần đầu tui nghe kể… Mà thôi, đèn nhà ai nấy rạng, tui không ngờ bà lâm cảnh éo le như thế. Đã lỡ, thôi cứ ở đây, tiểu bang này job nhiều lắm, tha hồ mà chọn lựa. Cứ đi làm cái đã rồi hẳn hay.
Nửa tháng sau, cô bạn đã tìm được việc làm cho Doãn. Ngày đầu tiên đi nhận việc, cô bạn chở Doãn đến hãng, dặn: - Có một số người Việt làm trong hãng. Tạm thời chưa có xe, tui chở bà đi hàng ngày. Chiều, tui có nhờ người chở bà về. Đển cuối tuần này, vợ chồng tui sẽ dẫn bà đi mua xe. Ở đây tuyết dữ lắm, phải kiếm xe thật tốt mới yên tâm đi làm mùa đông. Vào làm thủ tục giấy tờ, chị đụng ngay một tay sếp người Á Đông. Mặt mày láng bóng, thân hình cao lớn, điệu bộ bệ vệ. Tóc hớt cao. Chắc là Đại Hàn, chị nghĩ thầm. Anh ta lặng lẽ đưa giấy tờ cho chị điền vào, rồi tiếp tục làm việc với cái máy vi tính. Xong xuôi, bằng một thứ tiếng Anh khá sánh sõi, anh ta giải thích cho chị một số chính sách của hãng về giờ giấc làm việc, lương bổng, nghỉ phép... Anh ta nói vắn tắt, mắt không nhìn thẳng vào mặt chị, rồi chấm dứt bằng một câu hỏi đầy nguyên tắc: - Chị còn muốn hỏi gì nữa không? - Không, chị đáp cộc lốc. Thấy cái mặt là hết muốn thắc mắc rồi, chị bực dọc nói thầm trong trí. Sau đó, anh ta im lặng dẫn chị xuống khu vực làm việc, giới thiệu với mọi người, rồi đi ngay. Tay sếp này trông bộ khó chơi. Cũng chẳng sao, mình đâu phải thứ lười nhác gì mà sợ. Sau khi đã làm quen với công việc được giao, chị bắt đầu nghĩ về người đàn ông. Khuôn mặt anh ta cứ như níu kéo mãi ý nghĩ của chị. Nó gợi cho chị về một cái gì rất mơ hồ, nhưng dai dẳng. Chị cố xua đuổi ra khỏi đầu óc để tập trung làm quen với công việc mới mẻ. Nhưng vô ích. Thỉnh thoảng, khi nghe tiếng bước chân đi vòng vòng của anh ta trong khu làm việc, chị liếc nhìn. Lạ thì thật lạ, mà quen thì cũng thật quen. Cảm giác lẫn lộn đó cứ thoắt biến thoắt hiện trong đầu óc chị. Cuối cùng, chị quả quyết: dứt khoát anh ta phải giống một ai đó trong số những người chị quen biết, có thể là quen thân. Giờ giải lao, chị hỏi những người cùng làm thì được biết anh ta cũng là người Việt với cái tên nửa nạc nửa mỡ: Bruce Nguyen, mới đến nhận việc ở đây chỉ chừng năm, sáu tháng. Anh ta không bao giờ dùng tiếng Việt, kể cả đối với những công nhân không hề biết một tiếng Mỹ nào. Có người ngờ rằng anh ta không biết nói tiếng Việt. Nhưng đa số cho là anh ta biết, nhưng không muốn nói. Mất gốc, đôi ba người thì thào như vậy. Tuy thế, không ai ghét anh ta, vì anh ta cư xử rất công bằng, không mấy khi to tiếng với ai, thậm chí đôi lúc còn khá dễ dãi đối với công nhân.
Một hôm, vào giờ ăn trưa thường lệ, chị muốn gọi điện thoại cho đứa con, nhưng cái điện thoại trả tiền duy nhất trong hãng bị một anh chàng chiếm lấy, giữ chặt để nói chuyện. Chị đứng đợi hoài, sốt ruột vì giờ ăn trua sắp hết. Anh chàng supervisor bỗng từ đâu đó trong văn phòng xuất hiện, hỏi chị: - Cô cần điện thoại? - Vâng. Anh ta vẫy chị vào văn phòng, chỉ cái điện thoại treo trên tường gần cửa ra vào, rồi đi tránh ra bên ngoài. Gọi xong, chị quay ra, thấy anh ta đang đi lui đi tới, buột miệng nói tiếng bằng tiếng Việt: - Cám ơn ông nhiều lắm. - Không có gì! Chị nhìn anh ta, lắp bắp: - Ông… cũng biết nói tiếng Việt? Anh ta cười, không đáp, vội vã quay vào phòng. Một tia sáng chợt lóe lên trong ký ức mù tăm của chị, khiến chị đột ngột quay lại vào phòng, nhìn thằng vào mặt anh ta, kêu lên: - Thảo, anh Thảo. Nhất định anh là Thảo… Chị nghẹn lời. Vẫn cúi mặt trên đống giấy tờ, anh ta đáp một cách hờ hững: - Không có gì, cô. Cái nhếch mép làm phần môi trên phía bên phải nhích lên khiến cái miệng như hơi méo đi một chút là của Thảo, chứ không thể của ai khác. Dấu tích nhỏ nhoi này đúng là một tia sáng xuyên vào tầng sâu xa nhất của ký ức, đánh thức dậy tất cả mọi điều tưởng như đã yên ngủ, tưởng như tan biến hẳn. Cái nhếch môi ấy, chao ôi, là dễ ghét! Nó ngạo mạn, bất cần đời. Nó thách thức, mỉa mai. Nhưng chính cái nhếch môi ấy, chị nghĩ, lại đã là một phần đời của chị.
*
Thực ra, đâu phải chỉ là một cái nhếch môi! Lai Doãn, 15 tuổi rưởi, học đệ tứ, một hôm, bỗng nhiên khám phá ra có một gia đình đến ở cạnh nhà, chênh chếch về phía trái nhìn từ vuông cửa sổ phòng cô. Nói bỗng nhiên, vì tình cờ chiều hôm ấy, sau một giấc ngủ trưa hè mệt mỏi, cô thức dậy mở toang cửa sổ, chợt nghe tiếng dội nước ào ào phía bên kia hàng chìa tàu. Cô nhìn sang, đỏ mặt vì nhìn thấy một thanh niên đang tắm, thân hình cao lớn, khỏe, với những bắp thịt tay, chân rắn chắc đẫm nước dưới ánh nắng nồng. Cô vội khép cửa lại, băn khoăn tự hỏi anh chàng này từ đâu đến. Cô hỏi mẹ, mới hay có một gia đình đâu từ dưới quê lên xin che lều ở tạm để lánh bom đạn. Họ ở đó đã hai tuần rồi. Chỗ ở là góc của một ngôi đền đổ nát, từ lâu bỏ hoang, nơi mà thuở bé, cô vẫn thường ra chơi nhảy dây, lò cò, đuổi bắt với đám trẻ con hàng xóm. Cô tự nhủ: may mà mình đã lớn, chứ không thì tức biết mấy, vì bị mất chỗ chơi đùa. Dần dà, cô biết gia đình đó có bốn người: một bà mẹ trung niên, lam lũ, và ba đứa con, hai trai một gái. Cái lều che tạm như một cái cây mua về trông trong vườn, lớn dần. Lúc đầu, chỉ đâu có vài miếng tôn che quanh, trên lợp ít tấm tranh. Chừng tháng sau, mở cửa nhìn sang, cô bỡ ngỡ khi nhìn thấy ở đó là một căn nhà tương đối đàng hoàng, có cửa ngõ, có mái. Cái cảnh nấu nướng, tắm rửa ở ngoài trời không còn nữa. Tất cả sinh hoạt biến đâu mất đằng sau ngôi nhà. Cũng từ đó, cô thấy mấy người con cắp sách đi học. Gia đình mới và ngôi nhà điềm nhiên hòa nhập vào trong cuộc sống thường ngày của xóm cô. Nói đúng hơn, không phải xóm cô, mà là xóm sau, nơi mà từ khi bắt đầu lớn, cô không hề đặt chân đến nữa. Chỉ cách có một hàng rào, mà cái xóm sau đó như thể là một thế giới khác, càng lúc càng xa lạ với cô, mặc dù hàng ngày cô vẫn nhìn ra lối đi, nhìn đám trẻ con nô đùa và những người lớn đi vô đi ra. Vẫn còn đó, bao nhiêu người cũ. Xóm sau nghèo hèn cùng với những cái tên nghe cũng nghèo hèn: chị Mận kẹo kéo, bà Dần mù, ông Bảy xích lô, chị Chắc bánh bèo, mụ Thu bún bò, thằng Vẻ sẹo... Bây giờ, với sự tham dự của gia đình mới, xóm sau lại có thêm tên: mụ Bầm mắm ruốc, con Mượn lùn. Nhà cô thuộc xóm trước, giàu có, bề thế. Ngay cái tên của cô, nghe cũng khác: Lai Doãn.
Một hôm, trên đường đi học về, gặp mưa giông, cô chạy vào trú mưa ở một góc phố và quen với Mượn, cô con gái của cái gia đình mới ngụ cư đó. Mượn trạc tuổi cô, nhưng học thua cô hai lớp ở trường bán công, vì ở nhà quê, chiến tranh làm việc học hành của Mượn bị gián đoạn. Qua trò chuyện, cô đâm ra có cảm tình với cô gái nhà nghèo này. Hai người thân nhau. Nhờ thế, cô có dịp trở lại xóm sau, ghé thăm nhà người bạn nghèo. Lần đầu tiên, khung cảnh một nhà nghèo làm cô khiếp đảm: nền nhà đất lổ chổ, lồi lõm, những chiếc ghế cáu bẩn, nhớp nhúa, bếp ám khói, giường ngủ thì là giường tre, ọp ẹp, ly chén thô tháp, chiếc mùng ngủ cáu bẩn, vá chằng vá đụp, ảng nước, gáo dừa... Cô nghe mùi ruốc kho, mùi đất, mùi tranh tre, mùi đồ ăn tanh tao, khó thở. Cô tự nhủ thôi đừng đến nữa, gặp nhau chơi đâu đó ngoài đường là được rồi. Nhưng, cô lại đến, vì thấy Mượn vui tính. Một vài lần. Nhiều lần khác. Rồi hầu như ngày nào cũng đến. Có ngày vài lần. Lúc đầu, cô còn dùng lối cửa ngõ, phía trước nhà cô, đi vòng theo con hẻm nhỏ để đến nhà Mượn. Sau, để cho tiện và mau, cô trổ lối đi tắt ngang qua một khoảng hở trong hàng chìa tàu. Nếu thích, cô đi xuống nhà bếp, vạch lá, chui ngang là đến ngay cửa trước nhà Mượn. Ăn cơm nguội với nước mắm. Luộc khoai. Nấu chè. Đọc truyện. Làm bài. Học bài. Tâm sự. Hóa ra nhà nghèo có những thứ thú vị riêng. Đến một lúc, cô kinh ngạc nhận thấy cô đâm ra mê căn nhà của Mượn còn hơn nhà mình. Được ăn uống tự do. Được nghe những lời tán tụng quê mùa, nhưng chân thật của bà mẹ nghèo. Được cô bạn gái vui tính, ân cần, sẵn sàng chìu cô. Lại được có người anh của Mượn để hỏi han bài vở. Cô lại càng kinh ngạc hơn khi khám phá ra cô còn có một ước mơ kỳ quặc khác: ước mơ được nghèo như Mượn. Cô nói ý nghĩ đó với Mượn thì Mượn cười nghặt nghẽo: - Doãn muốn mỉa mai mình chăng? Có ai lại thích được nghèo. Còn cái gì đau đớn hơn cái nghèo đâu, Doãn? Mà lại, muốn giàu thì khó, chứ muốn nghèo thì quá dễ. - Nào, bày cho mình đi. Làm sao để được nghèo? - Thì... thì... thì… Mượn lúng túng. Để mình suy nghĩ đã. Ừ, thì... sao nhỉ? - Thấy chưa, đâu có dễ. Nhiều lần, mình cũng suy nghĩ thử xem có cách gì để được nghèo, nhưng khó quá. Đúng là cô có suy nghĩ về những cái cách để được nghèo. Thậm chí, đôi lúc, chuyện đó đi cả vào trong giấc mơ. Nhưng dường như cô không tìm hiểu tại sao cô lại cứ băn khoăn về chuyện đó như thế.
Một hôm, thứ bảy, như thường lệ, cô sang nhà Mượn chơi. Chuyện trò, làm bài, nấu ăn. Suốt buổi chiều. Khi trở về nhà, tự dưng, cô bâng khuâng. Một cảm giác rất mới lạ. Như thiêu thiếu một cái gì. Đứng trên phòng, nhiều lần cô mở cửa sổ nhìn vơ vẩn xuống nhà Mượn. Trời nhá nhem tối. Hàng chìa tàu có những nhánh cao vươn lên. Căn nhà tranh buồn bã lẫn với những bức tường rêu phong của ngôi đền cũ. Đêm đó, cô khó ngủ. Hôm sau, cô lại sang nhà Mượn. Ở lại chơi lâu hơn. Khi về, cũng vậy, cô man mác buồn. Đầu nhưng nhức muốn đau. Cô mệt, không muốn ăn. Mẹ sờ đầu, hỏi cô có muốn đi khám bác sĩ không. Cô đáp là chẳng có gì. Hôm sau nữa, cô định sang nhà Mượn, nhưng cô mở cửa sổ nhìn một hồi lâu, rồi chần chừ không muốn đi. Đến chiều, Mượn đứng bên kia gọi. Cô uể oải chui qua hàng rào. Mượn nấu chè khoai trộn đậu phụng đãi cô. Cô ăn cầm chừng, nhìn quanh, hỏi: - Bác đi chợ à? - Ừ, mẹ mình đi bán. Giờ này đâu đã về, Doãn biết mà. - Còn thằng Tống đâu không thấy ? - Câu cá sau hồ, có lẽ. Nó như con sóc, chẳng khi nào chịu ở yên một chỗ. Ngày nào cũng như ngày nào, không chịu ở nhà. Cô bối rối, hồi hộp hỏi tiếp: - Còn anh, anh gì... à anh Thảo, phải anh Thảo không, anh đi học nhỉ? Mượn phá lên cười: - Doãn độ này lẩm cẩm quá. Bữa nay nghỉ hè, làm gì mà đi học. Anh về làng học thi. Trời, về làng, hèn gì! Cô cố húp hết chén chè, nói giọng ra vẻ lơ là: - Anh đi lâu vậy mà Mượn không nhớ à? Mượn vỗ vai cô: - Anh có việc của anh, mình có việc của mình. Mà lại, anh là anh chứ bồ bịch chi mà phải nhớ? Ờ, mà có. Thiếu anh, mình cũng có hơi mệt với việc nhà. Nhưng không sao. Để cho anh học. Về làng học yên tĩnh hơn. - Anh chịu khó nhỉ? - Ừ, lên đây, anh học nhảy hai lớp đó, vì ở quê bị trễ hai năm. Năm nay thi tú tài bán.
Đêm đó về, cô tự thú với lòng mình: cô nhớ anh Thảo của Mượn. Thì ra lâu nay, cô thích đến chơi với Mượn chỉ vì cái anh chàng Thảo này. Cô tự hỏi: chẳng lẽ mình mà lại, mà lại... cái anh chàng Thảo đó. Đúng là cô phải ghét cái anh chàng nhà nghèo mà khó thương đó chứ! Gặp cô, thấy cô chào, anh ta chỉ gật đầu nói nhỏ “chào cô”, rồi đi mất. Hỏi anh ta một bài toán khó, anh ta chỉ vẻ vội vàng, xong là đi ngay. Cô ở nhà trên, anh ta xuống nhà dưới. Cô ở trong bếp với Mượn, thì anh ta ra ngoài sân. Thỉnh thoảng, cô nhìn anh ta, nói một câu pha trò gì đó, anh ta chỉ cười nửa môi. Phần môi trên phía bên phải hơi nhếch lên, nhìn thấy ghét không chịu được. Nhiều lần, tức quá, cô ăn mặc thật đẹp, xuống nhà Mượn. Anh ta vẫn thế, nhìn cô chào qua loa rồi bỏ đi, không thèm ngắm nghía, không tỏ ra bối rối, không... gì cả. Thỉnh thoảng, cô dò hỏi Mượn xem anh ta có bình phẩm gì về cô không, Mượn cho biết anh ta chẳng nói gì cả. Qua lời Mượn, cô chỉ biết anh ta vừa đi làm vừa đi học. Học hành siêng năng, chăm chỉ. Ai kêu việc gì cũng đi làm: dạy kèm, phụ thợ nề, bốc vác... Anh chàng vắng mặt cả tháng trời. Mấy ngày đầu, cô chỉ hơi buồn buồn. Dần dà, cô nhớ. Rồi nhớ quay, nhớ quắt. Từ căn phòng, cô mở cửa nhìn xuống, qua hàng chìa tàu, trông ngóng. Mượn gọi, cô chần chừ không muốn đi. Nhìn đâu, cô cũng thấy anh chàng Thảo. Đầu húi cao, chiếc áo sơ mi trắng mỏng, sờn. Chiếc quần xanh nội hóa, bạc thếch. Chiếc xe đạp đàn ông, không có chắn bùn, để trơ ra hai bánh xe trông giống người ốm ở trần. Khi đi, dáng hơi khum về phía trước. Giọng nói ngắn, chắc nịch. Anh ta đi đi về về. Thỉnh thoảng cô thấy, thỉnh thoảng cô không thấy, nhưng biết chắc anh ta ở đâu đó, quanh cô. Cô yên trí vui chơi, học hành, ngủ ngáy. Giờ anh ta đi rồi, cô thấy mọi thứ trong đời trông chênh vênh, lấp lửng. Ngày, cô nghe chung quanh lao xao liếng xiếng như thể sắp có chuyện gì xảy ra. Đêm, cây cối, nhà cửa, ghế bàn lặng im thin thít, y như sợ hãi một ai.
Anh chàng trở lại. Nắng vỡ òa cùng với tiếng ve kêu ầm ĩ. Hàng chìa tàu lớn thêm một đoạn. Xóm sau, người vô ra tấp nập. Đám trẻ con cũng túa ra đường rộn ràng chơi giỡn. Thảo về. Cô xuống Mượn chuyện trò ríu rít. Lại nấu chè. Chiên cơm. Luộc khoai. Làm bánh. Thảo vẫn thế, không biểu lộ một cái gì khác đối với cô. Nhưng bây giờ cô chẳng lấy đó làm phiền. Sao cũng được, miễn Thảo quanh quẩn ở đâu đó. Cô thích mọi thứ nơi anh ta. Dáng đi. Điệu nói. Thái độ nghiêm nghị, pha chút kiêu ngạo vô lý. Cái nhếch môi bất cần đời. Cái áo sờn. Cái quần cũ. Chiếc xe đạp vứt ngoài đường không ai thèm lấy. Cô yêu mến căn nhà tồi tàn này. Mùi đất. Mùi ẩm mốc. Ghế giường xọp xẹp, cáu bẩn. Chiếc mùng vá chằng vá đụp. Son quánh, chén đũa, ly tách rẻ tiền, cái sứt, cái mẻ, cái móp. Những bữa ăn vô cùng đạm bạc: rau dền chấm nước ruốc, cơm nguội chan nước mắm ớt, cá cấn kho khô, canh bắp chuối, bánh canh bột lọc nhân đậu, không tôm thịt. Cô thương bà mẹ tóc rối, khuôn mặt già trước tuổi, hai bàn tay cục mịch xắt chuối, quậy cám heo, rửa rau, giọng nói nhà quê chơn chất, khi nào cũng “cô cô tui tui” với cô. Mượn vui tính, chân thành. Thằng Tống ngoan ngoãn. Và cô đâm phiền với cái sạch sẽ, ngăn nắp, phú quý của nhà cô. Cái nền nhà lót gạch hoa láng bóng trông vô duyên tệ. Tủ buýp phê với bao ly, tách, tượng, bình hoa, máy nghe nhạc, quạt trần trông thừa thãi. Cô cũng không ưa những ông, những bà ăn mặc sang trọng, bạn bè của ba má thường đến nhà cô, rượu trà, nhậu nhẹt, cười đùa sảng khoái. Cô ghét đám bạn học của anh cô, chị cô và cả của cô. Cô cũng ghét luôn cái trò tặng quà, rủ đi cắm trại, đi xi nê, đi picnic... Cô thích nghèo. Thích lạ lùng. Thích da diết. Thích hết thảy những gì mà cái nghèo sản sinh ra: sự chơn chất, bẩn thỉu, thiếu thốn. Thích Thảo. Vì sao? Cô không rõ vì sao. Trong thâm tâm cô, cô ao ước một ngày vật đổi sao dời thế nào dó để cô có thể yêu Thảo thoải mái và lấy Thảo. Hè năm đó, Thảo thi đậu tú tài bán. Cả nhà Mượn vui. Cô vui. Ngoài cái vui vì thấy cái vui của gia đình Thảo, cô có một cái vui riêng khác: chiếc bằng tú tài nâng Thảo lên một bậc, khiến khoảng cách giữa hai gia đình thu hẹp lại, nhờ đó, biết đâu, ước mơ của cô có thể thực hiện được. Nhưng đùng một cái, gia đình Thảo ra đi. Đột ngột. Đi hẳn. Không thư, không từ, không liên lạc. Căn nhà và toàn bộ người trong gia đình Thảo biến mất y như chẳng hề có ở đó. Cô bàng hoàng, ngã bệnh.
*
Đúng là Thảo của chị mấy chục năm về trước. Chính cái nhếch môi của anh đã nhắc chị nhớ lại những ngày tháng xa xưa đó, mà bao năm rồi, chị không hề nhớ. Chị yêu. Đó là một thứ tình yêu đầu đời, lặng lẽ và đơn giản, vô cùng đơn giản. Một tình yêu đơn phương, theo kiểu nói thời thượng hồi đó. Nếu Thảo còn ở đó, thì sao chẳng rõ. Thảo đi rồi, mọi thứ như tan vỡ, vụn vằn trong đời chị. Cô học trò Lai Doãn mười bảy tuổi mất phương hướng. Buồn. Chán. Đau đớn. Hụt hẫng. Chênh vênh. Dường như có cả năm trời sau, cô mới lai tỉnh. Một hôm, chị có việc vào gặp Thảo để điều chỉnh chuyện lương bổng. Sau khi xong, chị đứng lại, ngập ngừng hỏi: - Xin lỗi, nếu tôi nhớ không lầm thì ông là ông Thảo, anh của Mượn, ở kế nhà tôi hồi đó. Tôi là Lai Doãn. Anh ta tỏ vẻ hơi ngạc nhiên, nhìn chăm chị một lát, rồi nói: - Lai Doãn. Cô Lai Doãn. Tôi nhớ. Chị định hỏi thêm đôi điều nữa, nhưng anh ta đã cúi đầu xuống trên đống giấp tờ, tiếp tục làm việc. Chị bực mình, đi ra, lẩm bẩm: “Cũng chẳng khác gì ngày xưa, cái anh chàng dễ ghét này.” Từ đó, chị không có ý định hỏi thêm anh ta bất cứ điều gì nữa. Chừng một tháng sau, chị nhận được một hộp nhỏ gửi qua đường bưu điện. Đó là một hộp giấy cứng, gói ghém cẩn thận. Mở hộp, một tấm thiệp kèm theo một lá thư ngắn rơi ra. Chữ viết nắn nót, tròn trịa:
Cô Lai Doãn, Đáng lẽ món quà này sẽ đến với cô vào ngày sinh nhật của cô nửa năm sau, ngày 18 tháng 9. Nhưng món quà này đã đợi cô quá lâu, đến những hai mươi sáu năm, sáu tháng và ba ngày. Tôi nhận ra cô ngay khi cô vừa mới đến làm việc, dù có ít nhiều thay đổi. Đôi mắt cô, như ngày nào, dễ gì quên được! Gia đình tôi không còn ai. Bà già mất trước 1975. Mượn và đứa em út chết trên đường vượt biên. Tôi sang đây từ năm 1975. Xin được hoàn lại cố chủ, như một gợi nhớ về những ngày xưa không thể nào tìm lại được. Chúc cô vui. Phùng Tiến Thảo.
Đọc xong, chị ôm lấy ngực, cảm thấy ngộp thở. Chị run run mở hộp quà. Xé hết băng keo dán, chị sửng sốt khi thấy chẳng có gì ngoài một lô toàn những mảnh giấy học trò cũ rích, một số ảnh vàng ố, ít sợi tóc, và cuốn sổ ghi chép nhỏ. Chị vội vàng cầm ảnh lên xem. Thì ra là ảnh chị chụp hồi nhỏ: ảnh chụp riêng, ảnh chụp chung với Mượn. Còn những mảnh giấy thì toàn là nét chữ chị viết đủ hình dáng: vuông có, tròn có, hình chữ nhật có, hình nhiều cạnh có... Chúng được cắt xén cẩn thận quanh những chữ ký, hoặc những hàng chữ mà chị viết bậy bạ cho vui khi ngồi trên bàn hay ngồi đâu đó ở nhà Thảo. Nhiều nhất là chữ ký. Ký ngang, ký dọc. Có những giòng chữ đại loại như: “đêm buồn”, “những chiều vui”, “chiều nắng đổ ngoài hiên”, “trời, chè ngon quá”, “có cái chi đây mà quên mất”, “cái con khỉ”, “tình chỉ đẹp khi còn dang dở”... Những hàng chữ viết nguệch ngoạc, vu vơ. Cũng có những trang giấy nháp làm toán đại số, hình học, mấy bài thơ học trò chị chép cho Mượn, cuốn sổ nhỏ ghi nhạc, thơ và những việc phải làm trong ngày, các ngày giỗ, ngày nghỉ học. Lục lọi hết thảy những thứ để trong hộp, chị có cảm giác như tất cả những vết tích gì mà chị để lại nhà Thảo đều được Thảo thu gom lại, cất giữ, không sót một thứ gì, kể cả những sợi tóc, hẳn là vương vãi vô tình đâu đó trên trang giấy mà chị viết ngày nào. Ôi, Thảo! Chị kêu lên và nghe đôi mắt nhòe nhoẹt. Cả một thời mộng mị hiển hiện trở lại. Vuông cửa sổ, hàng chìa tàu, lối đi vào xóm, ngôi nhà tồi tàn với mùi đất, mùi ẩm mốc, và anh chàng Thảo đi vô đi ra, áo sờn, quần bạc. Mùi ruốc kho. Cơm chiên. Khoai luộc. Chè chuối. Và cái nghèo yêu dấu! Tình yêu, phải tình yêu! Chị bâng khuâng nhìn vào khoảng không và tự hỏi: có phải món quà này là lời tỏ tình kỳ lạ nhất mà chị nhận được vào cái tuổi mà tình yêu chỉ còn là một âm vang không còn mấy ý nghĩa. Thảo ơi, nếu Thảo biết được rằng, hồi đó, cô bé Lai Doãn mười bảy tuổi đã quay quắc như thế nào khi bỗng Thảo không còn ở đó nữa y như thể Thảo đã biến mất khỏi trần gian. Cô bé đau. Cô bé chết đứng chết ngồi bên vuông cửa sổ, khi nhìn qua hàng chìa tàu, chỉ thấy bức tường gạch cũ rêu phong, cây bông sứ khẳng khiu, chơ vơ, buồn thảm. Cô bé nhớ mùi ruốc kho, mùi cám lợn, mùi chè khoai, nhớ chiếc bàn gỗ sần sùi với hai chiếc ghế đẩu mà có lần cô bé suýt bị rách quần khi ngồi xuống vì bị cái đinh sút ra ngoài, móc phải. Cô bé cứ ngồi bần thần ngắm mãi cái khoảng trống nơi hàng rào mà cô bé chui qua chui về biết bao nhiêu lần. Thảo đi rồi, cái khoảng trống dần dần bị bít lại vì những nhánh chìa tàu đâm chỉa ra. Có lần, cô bé tức, cô bé tìm cách bẻ hết chúng đi. Nhưng làm sao được, chỉ một thời gian ngắn sau, chúng mọc ra lại. Chúng vô tình, cô bé biết. Nhưng mỗi lần mở cửa sổ ra nhìn, cô bé cứ có cảm giác như chúng đồng lõa với Thảo, cố tình khép lại, khép hẳn đi của cô bé một đoạn đời. Cô bé đau lòng lắm, vì cô bé biết cô bé đã yêu. Cô bé ngã bệnh. Rồi cô bé lành. Tức quá, cô bé tìm cách quên. Và quên được. Hai mươi sáu năm (Thảo nhắc cô bé mới biết, đã hai mươi sáu năm). Thời gian quá dài, đủ để vùi chôn tất cả, sá gì những kỷ niệm mong manh thuở đầu đời.
Trong thoáng chốc, chị hóa thân thành cô bé Lai Doãn ngày nào. Chị khóc nhẹ, thẩn thờ nhìn ra. Phố xá. Xe cộ. Buyn-đinh. Hình dáng anh chàng supervisor nói tiếng Anh, mặt mày trắng trẻo, bệ vệ. Mọi thứ chung quanh đều giàu có, no đủ. Tìm đâu ra mái tranh, con đường hẻm, cây bông sứ, ngôi đền cũ. Còn đâu mùi... nghèo. Và tìm đâu ra hàng chìa tàu với cái khoảng trống bâng khuâng để chị chui qua chui về một thời điên mê mộng mị!
8/1997 (Nhuận sắc 8/2019)
. | |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? | |
| |
| | | | Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không? | |
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |