Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon

Diễn Đàn của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  GalleryGallery  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Keywords
chẳng nguyet truyện không Trung bich Nguyen nhac VNCH hoang Chung chất linh Saigon ngắn quang quynh trong thuoc Nhung chuyen ngam phải quan sáng quốc
Latest topics
» "Chinh Phụ Ngâm & Vườn hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng"
Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeThu Apr 04, 2024 12:38 am by Admin

» "Chinh Phụ Ngâm & Vườn hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng"
Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeThu Apr 04, 2024 12:09 am by Admin

» "Chinh Phụ Ngâm & Vườn hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng"
Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeThu Apr 04, 2024 12:09 am by Admin

» qua đi thôi bão nổi
Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeSat Mar 11, 2023 3:11 am by Admin

» Cụ Hoang Xuân Hãn
Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeSun May 08, 2022 10:37 pm by Admin

» Giáo dục VNCH - Giáo dục con đường khai phóng
Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeMon Jan 10, 2022 4:06 am by Admin

» Suy tư về kiếp người - Về Cùng Cát Bụi
Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeSun Jan 09, 2022 4:25 am by Admin

» AI ĐÃ HẠ GỤC CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN?
Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeSat Jan 08, 2022 2:41 am by Admin

» NHẠC THIỀN - Cõi Thiền trong Âm Nhạc
Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeThu Jan 06, 2022 4:11 am by Admin

April 2024
MonTueWedThuFriSatSun
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
2930     
CalendarCalendar
Affiliates
free forum

Affiliates
free forum


 

 Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu

Go down 
3 posters
Tác giảThông điệp
NHViet
Khách viếng thăm




Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeMon May 21, 2012 7:17 pm

.
Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Romance-of-busy-broker-jk-2-638

LGT:  O. Henry là bút danh của William Sydney Porter. Ông sinh năm 1862 và mất năm 1910, cùng năm qua đời của Mark Twain.
O. Henry là một nhà văn Mỹ đầy “sinh lực văn chương”, viết truyện ngắn nhiều tới mức người ta phải lập danh sách các truyện của ông theo thứ tự ABC để tra cứu cho tiện. Ông chuyên viết về sinh hoạt của những con người bình thường ở Thành phố New York. Ông là bậc thầy về lối kết cục bất ngờ gây ngạc nhiên: cốt truyện cứ phát triển, thắt dần, thắt dần rồi đột nhiên chuyển sang một tình huống mỉa mai, châm biếm, trùng khớp hoặc kết thúc đột ngột đến không ngờ. Đó chính là nghệ thuật độc đáo điển hình của O. Henry, và là một trong những nguyên nhân khiến người đọc phải nhớ mãi, phải suy ngẫm.


Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Couple-in-Love-Picture

Khi người ta yêu
O. Henry


Khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì dường như không có việc gì là quá khó khăn, nhọc nhằn cả.
Đó chính là giả thuyết của chúng tôi. Câu chuyện này sẽ rút ra một kết luận từ đó, đồng thời cho thấy rằng giả thuyết này là không đúng. Đây là một điểm mới trong Logic và là một tiểu xảo điêu luyện trong nghệ thuật kể chuyện, một nghệ thuật còn lâu đời hơn cả Vạn lý trường thành ở Trung Hoa vậy.

Joe Larrabee ra đời trong căn nhà bằng gỗ sồi ở miền Trung Tây, nước Mỹ với nhịp đập của một tài năng thiên bẩm về nghệ thuật tạo hình. Lên 6, chú đã vẽ được bức tranh máy nước công cộng với một người vội vã bước qua. Tác phẩm của họa sĩ tí hon này đã được đóng khung, treo trong tủ kính của một cửa hàng dược phẩm bên cạnh một bông lúa mì có những dãy hạt không đều nhau. Hai mươi tuổi, anh rời quê lên New York, với chiếc nơ hai dải thắt trên cổ áo, và tất cả vốn liếng được gói ghém thành một bọc, còn thắt chặt hơn.
Delia Caruthers chơi dương cầm tại một ngôi làng trồng toàn thông ở miền Nam nước Mỹ, triển vọng tới mức họ hàng đã gom góp tiền bạc giúp cô lên miền “Bắc” để “ăn học thành tài”. Người ta chưa biết dung nhan của cô, nhưng đó chính là câu chuyện mà chúng tôi muốn kể cho các bạn nghe.

Joe và Delia gặp nhau tại một xưởng họa nơi một số sinh viên mỹ thuật và âm nhạc thường gặp gỡ nhau để bàn luận về hội họa ánh sáng và bóng tối, về Wagner, về âm nhạc, các tác phẩm của Rembrandt, các tuyệt tác, Waldteufel, giấy dán tường, Chopin và Oolong.
Joe và Delia đem lòng yêu nhau và cưới nhau trong một thời gian ngắn, vì như đã nói ở trên, khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì dường như không có việc gì là quá khó khăn, nhọc nhằn cả.
Anh chị Larrabee bắt đầu sống chung trong một căn hộ. Đó là một căn hộ đơn độc, y như cung La thăng bên tay trái cuối bàn phím dương cầm vậy. Nhưng họ vẫn hạnh phúc vì họ có nghệ thuật và họ có nhau. Và lời khuyên của tôi cho anh chàng thanh niên trẻ tuổi này là hãy bán tất cả những gì mình có, rồi đem cho người quản gia khốn khổ kia, để đổi lấy đặc ân được sống trong một căn hộ với nghệ thuật của anh và với Delia của anh.

Những người sống trong căn hộ sẽ xác nhận câu châm ngôn của tôi: hạnh phúc của họ là hạnh phúc duy nhất chân chính! Thương nhau trái ấu cũng tròn, trái lim cũng ngọt, bồ hòn cũng ngon, vì thế ngôi nhà của cặp uyên ương hạnh phúc không bao giờ quá chật chội cả - người ta có thể ngả cái tủ áo xuống làm cái bàn billard, biến cái mặt lò sưởi thành dụng cụ tập bơi thuyền, cái bàn viết thành một buồng ngủ dự trữ, cái giá để chậu rửa mặt thành chiếc dương cầm đứng, quây bốn bức tường lại với nhau, nếu họ muốn, với chàng và Delia của chàng vui vầy trong đó… Còn nếu không thì ngôi nhà phải thật rộng, thật dài, người ta vào qua eo biển Golden Gate, treo mũ ở mũi Hatteras, áo choàng ở mũi Cape Horn và bước ra qua bán đảo Labrador.
Joe học vẽ trong lớp của Thầy Magister vĩ đại - bạn biết tên tuổi của ông ta rồi đấy. Học phí của ông cao giá; bài học của ông nhẹ nhàng - những điểm nhấn mạnh của ông đã đem lại tiếng tăm cho ông. Còn Delia theo học dương cầm dưới sự hướng dẫn của Ông Rosenstock - bạn cũng đã biết tiếng tăm của ông ấy là người chuyên làm loạn bộ bàn phím của dương cầm.

Cặp vợ chồng trẻ sống vô cùng hạnh phúc, chừng nào họ còn tiền. Mọi cặp vợ chồng đều thế cả - nhưng tôi sẽ không cao giọng yếm thế nữa. Mục đích của họ được đề ra rất rõ ràng. Joe phải phấn đấu để nhanh chóng có khả năng sáng tác được tranh tới mức các quý ông lịch sự, với hai bên tóc mai mong mỏng nhưng ví tiền lại dày dày, phải tới túc trực tại căn hộ của anh, để có được đặc ân mua tranh của anh. Còn Delia thì phải điêu luyện về Âm nhạc tới mức có thể xem thường nó, để khi thấy các ghế hoặc các lô xem hòa nhạc trong nhà hát không bán được vé, nàng phải biết lập tức cảm thấy đau họng, ăn tôm hùm trong một phòng ăn riêng, và không chịu lên sân khấu biểu diễn nữa.  

Nhưng theo ý kiến của riêng tôi, tuyệt nhất vẫn là cuộc sống gia đình trong căn hộ bé nhỏ xinh xinh ấy - những cuộc trò chuyện ríu rít, líu lo, sau một ngày đi học về; những bữa ăn tối ấm cúng, và những bữa điểm tâm nhẹ nhàng, tươi mát; sự trao đổi cho nhau những hoài bão - những hoài bão được hòa quyện lẫn nhau, của người này quấn quít với người kia, không sao kể xiết; sự giúp đỡ cùng sự khích lệ lẫn nhau; và – xin bỏ qua cho sự vụng về chất phác của tôi nhé - cả món ô-liu nhồi thịt và bánh sandwich kẹp phó-mát vào lúc 11 giờ tối nữa chứ.
Nhưng được một thời gian thì Nghệ thuật bắt đầu xuống dốc. Sự đời đôi khi vẫn thế, cho dù đôi khi người bẻ ghi xe lửa không ra hiệu như vậy. Mọi thứ đều ra đi mà chẳng có gì trở lại, như người đời vẫn nói. Tiền không đủ để trả học phí cho Thầy Magister và Ông Rosenstock. Khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì dường như không có việc gì là quá khó khăn, nhọc nhằn cả. Vì thế, Delia cho biết nàng sẽ dạy nhạc, để cho nồi xúp có thể tiếp tục reo sôi trên bàn ăn.

Đã hai, ba ngày nay, nàng đi săn lùng học sinh muốn học nhạc. Một buổi tối nàng trở về nhà, mặt mày hớn hở.
“Anh Joe yêu quý,” nàng nói, hân hoan, vui sướng, “em đã tìm được một học sinh rồi. Ôi, mà là người đáng yêu nhất! Đó là con gái Tướng A.B. Pinkney, trên Phố 71. Chà, ngôi nhà của họ mới đẹp làm sao, Joe ạ, giá mà anh được thấy cái cửa trước của nó nhỉ! Mỹ thuật Byzantine, em tin chắc thể nào anh cũng sẽ thốt lên như vậy. Còn nội thất bên trong nữa chứ! Ôi, anh Joe ạ, trước đây em chưa hề được thấy những thứ đó bao giờ”.
“Học trò của em là con gái Đại tướng, cô bé tên là Clementina. Em yêu cô bé kinh khủng. Đó là một cô bé tinh tế - bao giờ cũng mặc toàn trắng; còn phong cách thì vô cùng dịu dàng, giản dị! Cô bé mới 18 tuổi. Em sẽ dạy 3 buổi một tuần; và anh thử nghĩ xem, anh Joe! Chỉ có 5 đô-la một buổi. Thôi cũng không sao; vì khi em kiếm được thêm hai hay ba học sinh nữa, thì em lại tiếp tục đi học Ông Rosenstock. Bây giờ thì anh đừng cau mày, ưu tư nữa nhé, anh yêu, và ta cùng thưởng thức một bữa tối thật ngon nào”. 
“Dele, đối với em thế là ổn rồi,” Joe vừa nói vừa ra sức mở hộp đậu Hà Lan bằng một con dao phay và một chiếc rìu nhỏ, “thế còn anh thì thế nào? Em nghĩ rằng anh sẽ cam tâm để cho em lam lũ, bươn chải kiếm tiền, trong khi anh cứ rong chơi trên các nẻo đường phù phiếm của nghệ thuật được chăng? Không đời nào nhé! Anh thấy là anh có thể bán báo, hoặc đi lát đường, cũng đem về đôi ba đồng chứ.”

Delia chạy đến ôm choàng lấy cổ Joe.
“Ôi, anh Joe yêu quý của em, anh ngốc lắm! Anh phải tiếp tục học vẽ. Phải chăng em bỏ học nhạc và đi làm, chỉ vì một vấn đề gì đó khác ư? Trong khi em dạy là em vẫn học đấy chứ. Chẳng lúc nào em rời âm nhạc của em cả. Với 15 đô-la một tuần, chúng ta vẫn có thể sống ung dung như một ông hoàng. Anh không được nghĩ đến chuyện bỏ học Thầy Magister đấy nhé!”
“Thôi được,” vừa nói Joe vừa giơ tay với lấy chiếc đĩa sâu để cơi rau. “Nhưng anh không thích để em đi dạy học tí nào. Đó không phải là Nghệ thuật. Mà em sinh ra không phải là để làm những chuyện đó.”
“Khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì dường như không có việc gì là quá khó khăn, nhọc nhằn cả.” Delia đáp.
“Thầy Magister khen nức khen nở bầu trời trong bức phác họa anh vẽ ở công viên,” Joe nói. “Và Tinkle đã đồng ý để anh treo hai bức trong số đó tại cửa hiệu của ông ấy rồi. Có thể anh sẽ bán được một bức nếu một gã giàu có, ngốc nghếch nào đó để mắt tới chúng.”
“Em đánh cuộc là anh sẽ bán được tranh,” Delia nói, giọng ngọt ngào. “Bây giờ thì ta hãy cảm ơn Tướng Pinkney và món bê thui này đã.”

Trong cả tuần sau đó, cặp vợ chồng Larrabees đều ăn sáng rất sớm. Joe thì rất say sưa về mấy bức phác họa cảnh bình minh mà anh vẽ trong Công viên Trung tâm, còn Delia chuẩn bị thức ăn cho Joe một cách nâng niu, chiều chuộng, cùng những lời tán dương, khen ngợi và những nụ hôn nồng nàn trước khi ra khỏi nhà vào lúc 7 giờ sáng. Nghệ thuật quả là một thiếu nữ duyên dáng, quyến rũ biết chừng nào! Còn Joe thì nhiều khi 7 giờ tối mới về tới nhà.

Cuối tuần, Delia kiêu hãnh một cách duyên dáng nhưng có vẻ uể oải, mệt nhoài, đặt một cách đắc thắng 3 tờ 5 đô-la lên chiếc bàn rộng 8x10 inches kê giữa căn phòng khách rộng 8x10 feet.
“Đôi khi,” Delia nói, giọng hơi mệt mỏi, “Clementina làm cho em phát mệt. Em ngờ rằng cô bé không chịu thực hành, em cứ phải nhắc đi nhắc lại một vấn đề không biết bao nhiêu lần. Và rồi lúc nào cô bé cũng mặc toàn đồ trắng, trông thật đơn điệu. Nhưng Tướng Pinkney thì quả là một ông già đáng mến thật. Ước gì anh được biết ông ấy nhỉ, anh Joe ạ. Thỉnh thoảng ông ấy có vào khi em đang đàn với Clementina – ông ấy góa vợ, anh biết đấy – chuyên đứng đó, tay vuốt chòm râu dê. “Tình hình nốt móc đôi và nốt móc ba tiến triển thế nào rồi, cô giáo?”, bao giờ ông ấy cũng hỏi như vậy.
“Ước gì anh được thấy ván ốp của căn phòng khách nhà ấy nhỉ, anh Joe ạ! Và cả những tấm thảm lông cừu Astrakhan nữa chứ. Mà Clementina có cái lối ho rất ngộ. Em hy vọng cô bé khỏe hơn cái bề ngoài còm nhom của cô ấy. Ồ, quả là em đã cảm thấy gắn bó với cô bé ấy rồi. Cô bé dịu dàng, và đài các biết nhường nào. Em trai của Tướng Pinkney đã từng làm Công sứ ở Bolivia đấy”.

Thế rồi đến lượt Joe, với dáng vẻ của một Monte Cristo, anh rút ra một tờ mười đồng, một tờ năm, một tờ hai, và tờ một đồng, rồi đặt chúng bên cạnh những đồng tiền do Delia kiếm được.
“Anh bán được bức tranh màu nước vẽ đài kỷ niệm cho một ông từ Peoria tới,” Joe tuyên bố, với dáng vẻ áp đảo.
“Đừng có rỡn với em nhá,” Delia nói, “chẳng có chuyện từ Peoria gì hết!”
“Lặn lội từ Peoria tới thật đấy. Ước gì em được gặp ông ấy nhỉ, Dele ạ. Ông ta là một người to béo, quàng một chiếc khăn len to đùng, miệng ngậm một cái tăm xỉa răng bằng lông chim. Ông ta đã thấy bức phác họa tại cửa hiệu của Tinkle, lúc đầu ông ấy tưởng đó là một cái cối xay gió, thế nhưng ông ấy vui tính thật, mua luôn. Ông ấy còn đặt ngay một bức nữa - một bức phác họa sơn dầu vẽ Ga xe lửa Lackawanna - để ông ấy mang theo về Peoria. Những bài học âm nhạc! Ôi anh cho rằng Nghệ thuật vẫn còn lẩn khuất trong những bài học âm nhạc đó”.
“Em vui biết chừng nào vì anh vẫn tiếp tục học vẽ được,” Delia hồ hởi nói. “Anh nhất định phải thắng, anh yêu ạ. Ba mươi ba đô-la! Trước đây, chúng ta chưa bao giờ có nhiều tiền đến thế để mà xài. Tối nay, chúng ta phải thưởng thức món sò huyết mới được”. 
“Và cả món thịt thăn nõn om nấm nữa chứ”, Joe nói. “Em này, cái dĩa lấy ô-liu của nhà mình đâu rồi, em nhỉ?”.

Vào buổi tối thứ bảy sau, Joe về tới nhà trước tiên. Anh trải rộng 18 đô-la anh kiếm được lên trên bàn phòng khách, rồi rửa sạch hai bàn tay dính đầy sơn sẫm màu.
Nửa giờ sau, Delia về tới nhà, bàn tay phải bị buộc băng lung tung thành một bọc không ra hình thù gì.
“Thế này là thế nào?” Joe thắc mắc sau câu chào hỏi như thường lệ. Delia cười, nhưng không vui lắm.
“Clementina,” Delia giải thích, “cứ khăng khăng đòi ăn món thỏ xứ Wales sau khi học đàn xong. Cô bé quả là một cô gái kỳ quặc, lạ lùng. Đòi ăn món thỏ xứ Wales vào lúc 5 giờ chiều. Ngài Đại tướng cũng có mặt tại đó. Giá anh được thấy ông ấy chạy đi lấy cái lò hầm, anh Joe ạ, cứ như thể không có người giúp việc trong nhà vậy. Em thông cảm Clementina không được khoẻ lắm; cô bé vụng về biết chừng nào. Trong lúc múc món thỏ hầm, cô ấy đã đánh đổ nước canh sôi sùng sục lên tay và cổ tay em. Đau kinh khủng, anh Joe ạ. Cô bé rất lấy làm tiếc! Còn Tướng Pinkney nữa chứ! – Anh Joe ạ, ông già gần như hóa điên. Ông chạy vội xuống dưới nhà và sai một người nào đó - họ bảo đó là một người công nhân lò sưởi hoặc một người làm gì đó đang ở dưới tầng hầm - chạy ra hiệu thuốc để mua dầu và các thứ để băng cho em. Bây giờ em không còn cảm thấy đau đến thế nữa.”

“Thế đây là cái gì?” Joe vừa hỏi vừa nhẹ nhàng cầm lấy bàn tay rồi rút mấy sợi tơ trắng dưới những lần băng gạc.
“Đó là một thứ mềm làm đệm, có tẩm dầu, “Delia nói. “Ồ, anh Joe, anh lại bán được thêm một bức nữa rồi đấy à?” Nàng đã nhìn thấy tiền để trên bàn.
“Sao cơ?” Joe nói; “cứ hỏi ông già ở Peoria thì biết. Hôm nay, ông ta đã lấy bức ga xe lửa rồi; ông ta còn không chắc lắm nhưng ông ấy nghĩ là ổng muốn có một bức phong cảnh công viên và một bức cảnh Vịnh Hudson. Mà chiều nay em bị bỏng tay lúc mấy giờ nhỉ, Dele?”.
“Vào quãng năm giờ gì đó,” Delia nói, giọng kể lể, than vãn. “Cái bàn là – à em muốn nói là lúc đó món thỏ hầm vừa mới bắc ra khỏi lò. Giá mà anh được thấy Tướng Pinkney nhỉ, anh Joe ạ, khi đó…”.
“Em hãy ngồi xuống đây một lát đã, Dele,” Joe nói. Anh dìu Delia tới chiếc sofa, ngồi xuống cạnh vợ rồi quàng tay qua vai nàng. “Anh hỏi thực em nhé, hai tuần qua em làm gì hả Dele?” anh hỏi.
Delia lặng thinh trong giây lát, cặp mắt chan chứa một tình yêu nồng nàn và một thái độ cứng cỏi, kiên cường, đoạn lẩm nhẩm đôi lời một cách mơ hồ về Tướng Pinkney; nhưng cuối cùng nàng cũng cúi đầu nói ra sự thật, nước mắt đầm đìa, lã chã tuôn rơi.

“Thực ra em chẳng kiếm được học sinh nào cả” Delia thú thật. “Nhưng em không chịu được cảnh phải để anh bỏ học; em đã xin được một chỗ làm, chuyên là áo sơ-mi, tại hiệu giặt là to lớn ấy ở Phố 24. Em nghĩ em đã phịa chuyện về Tướng Pinkney và Clementina rất cừ, phải không, anh Joe? Và sau khi một cô gái trong xưởng vô ý chạm chiếc bàn là nóng vào tay em chiều nay, suốt trên đường về nhà, em đã phải nghĩ cách bịa câu chuyện về món xúp thỏ xứ Wales. Anh không giận em chứ, anh yêu, Joe? Và nếu như em không kiếm được việc làm thì rất có thể anh cũng chẳng bán được các bức họa của anh cho ông già Peoria ấy.”
“Ông ta chẳng phải từ Peoria tới …” Joe chậm rãi nói.
“Mà ông ta từ đâu tới cũng chẳng thành vấn đề. Anh thông minh biết chừng nào, anh Joe ạ - bây giờ thì hôn em đi nào, anh Joe – mà điều gì đã khiến anh nghi ngờ rằng em không dạy nhạc cho Clementina nào?”
“Anh chẳng nghi ngờ gì cả”, Joe nói, “cho tới tận tối hôm nay. Chiều nay, anh cũng không nghi ngờ gì, anh chỉ gửi thứ bông xơ và dầu từ phòng máy lên cho một cô gái trên gác tay bị bỏng bàn là. Hai tuần nay, anh vẫn cho chạy máy trong xưởng giặt là đó mà.”
“Thế thì anh đã không …”, Delia thốt lên.
“Cả Ông già Peoria mua tranh,” Joe nói, “lẫn Tướng Pinkney đều là những sáng tác của cùng một thứ Nghệ thuật – nhưng người ta không thể gọi loại hình nghệ thuật này là hội họa hay âm nhạc được!”

Thế rồi cả hai ôm nhau cười ngất, và Joe lại nói:
“Khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì dường như không có việc gì là…”
Đến đây Delia đã đặt tay lên môi anh không cho anh nói tiếp. “Không”, Delia nói, “chỉ cần nói Khi người ta yêu thế thôi!”.

Điền Thanh
(dịch từ nguyên bản tiếng Anh nhan đề “A Service of Love”)
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeSat May 05, 2018 12:10 am

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Th?id=OIP.C8Ojc59QcTtGlv2_1AAR2AHaEa&pid=15


TIỀN TÀI VÀ THẦN TÌNH ÁI
O. Henry


Nghe có tiếng xe hơi đậu, ông Anthony Rockwall – nhà công nghiệp, chủ hãng xà phòng Rockwall Eureka nay đã nghỉ hưu – ngẩng lên, nhìn qua cửa sổ phòng đọc sách của dinh thự nhà ông trên Đại lộ số 5. Thấy người hàng xóm ở kế bên phải – lão quý tộc G. Van Schuylight Suffolk Jones – bước xuống xe, ông tức cười. Như thường lệ, vừa chạm mặt pho tượng Ý thời Phục hưng đặt trước tiền sảnh dinh cơ của ông Vua Xà phòng, lão quý tộc lại nhăn tít cái mũi khoằm khoặm lại.

Cựu hoàng xà phòng lắc đầu: ”Khó chịu với cái bức tượng cổ ấy làm gì cơ chứ; phải lão đừng để ý, ta đã tặng nó cho viện bảo tàng rồi… Hè tới đây, ta sẽ cho sơn xanh trắng đỏ lại ngôi nhà này, không biết lúc ấy cái mũi vẹt nòi Hoà Lan của lão còn chun tới đâu nữa!”.

Vươn vai đứng dậy bước ra cửa phòng, với cái giọng rền vang như chuông vỡ, ông gọi to: “Mike!” vẫn cái giọng gào đến rách bầu trời như ngày nào của ông trên thảo nguyên Kansas. Và khi nghe có tiếng người hầu đáp, ông bảo: “Nói với con trai ta, có đi đâu thì cũng phải vào đây một lúc đã, nhé!”.

Khi con trai ông – một tay xóc xóc xâu chìa khóa trong túi quần, tay kia vò đầu nhưng quần áo vẫn tươm tất – bước vào, ông đặt tờ báo sang một bên, soi mói nhìn anh. Đột nhiên, ông hỏi:
-Richard, khoản xà phòng con tiêu pha thế nào?
Richard bối rối. Mới ra trường, về nhà chưa đến sáu tháng, chưa hiểu hết tính khí của ông già, anh lúng túng cứ như một cô gái khi đến dự buổi khiêu vũ đầu tiên trong đời.

Anh lắp bắp:
– Đâu chừng… sáu đô la một tá, bố à!
– Còn quần áo con vẫn mặc?
– Dạ… cỡ sáu mươi đô; cũng vừa phải thôi…

Ngồi nhỏm dậy, vẻ dứt khoát, ông già bảo:
– Con thuộc giới thượng lưu. Bố nghe nói giới trẻ thượng lưu vẫn xài xà phòng loại hai mươi bốn đô một tá, và quần áo chúng mặc không thứ nào dưới một trăm đô; con đâu có thiếu tiền, tội gì phải dè sẻn! Hiện nay, không phải vì tư vị mà bố vẫn xài xà phòng Eureka loại cũ; đó là loại tốt nhất đấy. Đừng có vì hà tiện mười xu mà đi mua loại xà phòng tồi; đối với thanh niên ở thế hệ của con, với vị trí xã hội như con, xài xà phòng loại năm mươi xu một bánh thì cũng cho là được đi. Bố đã nói, con thuộc giới thượng lưu; người ta vẫn thường nói là phải phấn đấu cả ba đời mới chen chân được vào giới đó, bố không tin như vậy. Cũng như dầu để nấu xà phòng, tiền bạc bôi trơn tuốt; tiền bạc sẽ đặt con vào giới thượng lưu. Nói không quá đáng chứ, nhờ có tiền, bố mới là bố, bố thô lỗ, bố cục mịch không khác mấy lão ở kế nhà mình, vậy mà bố còn phải vãi tiền ra mới được xem là cùng giới với họ…

-Cũng có thứ mà tiền không làm được đâu, bố à! – Richard rầu rĩ đáp.
Ông già tỏ ra phật ý:
-Thời buổi này mà con còn nói vậy à? Bố sẵn sàng đánh cuộc đấy. Con cứ thử tra từ đầu đến cuối quyển đại từ điển bách khoa xem, có thứ gì mà con không mua được bằng tiền không…

Vẻ bứt rứt, Richard đáp:
– Có đấy bố; có một thứ mà không tiền bạc nào mua được, nó không thể đưa ta vào giới xã hội thượng lưu đặc biệt được.
Ông Anthony kêu lên:
-Thật vậy sao? Đâu, con nói thử đi, có thứ gì mà tiền bạc không thể mua được đâu nào?

Richard lắc đầu.
Ông già quạu:
-Bố kêu con vào là vì chuyện ấy đấy; từ hai tuần nay bố để ý thấy hình như con có chuyện gì không ổn. Có gì mà phải buồn cơ chứ. Bố chỉ nhón tay một cái là thu được ngay mười một triệu đô la trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ, không tính của chìm. Nếu là do cái bệnh gan của con, chiếc du thuyền Rambler thả neo trong vịnh kia sẽ là của con; đổ than vào, chỉ cần hai ngày nó có thể đưa con tới tắm biển ở Bahamas…
Richard hiểu ý ông già muốn nói gì; anh nói giọng uể oải:
– Bố đoán gần đúng rồi đấy.
– A! – ông già nheo mắt, reo lên - Vậy thì nói đi, thế tên con bé là gì?
Richard đi đi lại lại quanh phòng; ông già tuy hay lớn tiếng nhưng coi bộ từng trải, dễ gần, có thể trút bầu tâm sự được.

Thấy Richard không trả lời, ông già lại đoán:
– Con chưa biết tên cô ta à; sao không hỏi? Bố tin là cô ta ngã vào vòng tay con ngay ấy chứ! Con có tiền này, đẹp trai này, lịch thiệp này, mà lại sống đứng đắn, tay con chưa kịp hôi mùi xà phòng Eureka này, con có học này… cô ta còn muốn gì nữa, hả?
- Con không có cơ hội nào để thổ lộ cả – Richard rầu rĩ đáp.
- Cơ hội… - Ông già kêu lên: – Sao không tạo cơ hội? Mời cô ta đi dạo ở công viên, đưa cô ta về nhà sau khi xem lễ, đón cô ta sau buổi hòa nhạc… Ôi dào, cơ với chả hội!
- Bố không biết ấy chứ… trong tầng lớp của nàng, giờ giấc sít sao lắm, được sắp đặt trước hàng mấy ngày… Không cưới được nàng, đối với con, thành phố này chẳng khác gì chốn ngục tù u ám… Con không thể nào viết thư tỏ tình cho nàng được, làm như vậy không được đâu!

- Thôi đi, ý con muốn nói tiền bố cho con chưa đủ để mua một hai giờ trò chuyện riêng với cô ta chứ gì?
- Trễ rồi bố à! Con trù trừ quá lâu rồi. Trưa ngày kia là Lantry đi châu Âu học trong hai năm. Ngày mai con sẽ gặp riêng cô ấy được ít phút. Hiện giờ cô ấy đang ở nhà bà dì ở Larchmont, con không đến đó được, nhưng cô ấy đã nhận lời cho con đi xe đến đón cô ấy ở ga xe lửa trung tâm lúc 8g30, từ đó tụi con phải đi thật nhanh đến rạp Wallace. Mẹ cô ấy và mấy người nữa sẽ đợi sẵn ở đó để cùng vào xem kịch với tụi con. Bố thử nghĩ, trong hoàn cảnh ấy, với sáu, bảy phút, con làm sao nói chuyện được với cô ấy, nói được gì nào? Rồi trong khi xem kịch hoặc cả sau đó nữa, còn cơ hội nào để con bày tỏ với cô ấy đây? Không, không còn cơ hội nào nữa đâu! Tiền bạc của bố không giúp gì được đâu, không mua được phút nào đâu! Nếu mua được, hẳn người giàu đã bỏ tiền ra mua để được sống lâu hơn… Từ bây giờ cho đến lúc cô ấy lên đường, không hy vọng gì kiếm ra thời gian để gặp riêng cô ấy được!

Ông Anthony nheo mắt:
– Được rồi, được rồi, Richard. Giờ thì con có thể xuống câu lạc bộ chơi được rồi đấy. Bố hy vọng là con không quá si ngốc đến mức quên cả vui chơi… Bố mừng vì đó không phải là cái bệnh gan của con. À, thỉnh thoảng con cũng nên vào đền thắp vài nén nhang cầu thần Tiền tài phù hộ… – Ngừng một chút, ông tiếp – Con nói không thể dùng tiền mua thêm thời gian phải không? Ồ, dĩ nhiên, con không thể đặt mua sự vĩnh cửu và người ta gói lại mang đến tận nhà cho mình được, nhưng bố thì đã nhiều lần bố trông thấy Thần Thời gian vấp té dập cả chân khi bước qua mấy cái mỏ vàng đấy!

Tối đó, lúc ông già đang đọc tờ báo buổi chiều thì bà cô Ellen dịu dàng, đa cảm, da đã nhăn nheo, bị đè nặng trước sự giàu sang đến thăm; chẳng mấy chốc, cuộc chuyện trò giữa hai anh em đã xoay quanh chuyện cảnh truân chuyên của những lứa đôi.
Ông anh che miệng ngáp:
– Nó nói với tôi cả rồi, và tôi cũng đã nói với nó là tiền bạc của tôi là để lo cho nó, nhưng nó không tin là tiền bạc có thể lo được. Nó nói tiền bạc cũng chẳng ích gì. Nó nói là dù cho có cả chục ông triệu phú cùng xúm vào cũng không thể nào lay chuyển nổi các ước lệ xã hội nghiêm ngặt…
Cô Ellen nóng nảy:
– Anh Anthony này, anh đừng nói đến chuyện tiền bạc nữa, có được không! Đối với tình yêu chân thành thì tiền bạc có ý nghĩa gì cơ chứ! Anh phải biết, tình yêu có sức mạnh vạn năng. Phải chi nó chịu nói sơm sớm một chút… Em biết, cô bé không từ chối thằng Richard nhà mình đâu. Giờ thì trễ quá rồi, thằng bé đâu còn dịp nào để ngỏ ý với cô bé nữa chứ! Tiền bạc của anh làm sao mua được hạnh phúc cho con trai anh chứ!

Tám giờ tối hôm sau, cô Ellen lục trong chiếc hòm mọt đục, lấy ra một chiếc nhẫn vàng trông là lạ, đem đến cho Richard. Cô bảo:
– Đây là chiếc nhẫn mẹ cháu để lại cho cô. Mẹ cháu nói là nó đem lại may mắn trong tình yêu, và dặn cô trao lại cho cháu khi nào cháu tìm được người yêu. Tối nay, cháu nhớ đeo vào tay…
Richard thành kính cầm chiếc nhẫn, ướm vào ngón tay út; nó hơi lỏng, vào quá đốt thứ hai một tí mới dừng lại. Với phong thái chững chạc của một người đã trưởng thành, anh cởi nhẫn ra, cất vào túi áo vét, xong, anh quay điện thoại gọi xe ngựa tới.

Tám giờ ba mươi hai phút, anh nhìn thấy Lantry đứng lẫn trong đám đông trước cửa nhà ga. Thấy anh, cô gái nói nhanh:
– Mình phải nhanh nhanh lên mới được, đừng để mẹ phải đợi lâu!
– Tới rạp Wallace, càng nhanh càng tốt. – Richard ra lệnh cho viên xà-ích, đầy vẻ chiều chuộng.
Họ bon bon theo đường Bốn mươi hai tới đại lộ Broadway, xuôi xuống khu rực rỡ ánh đèn, dẫn từ những bãi cỏ mịn màng của hoàng hôn đến những khu đồi núi của ban mai. Đến đường Ba mươi tư, Richard đập vai viên xà ích, bảo dừng lại. Anh xin lỗi cô bạn, xuống xe:
- Tôi bị rớt chiếc nhẫn. Chờ tôi một phút, tôi thấy chỗ nó rơi rồi. Nhẫn mẹ tôi để lại, để mất… tôi không đành lòng…
Chưa đến một phút, anh đã quay trở lại, chiếc nhẫn trên tay.

Nhưng, trong khoảng thời gian chưa đến một phút đó, không biết từ đâu, một chiếc xe to kềnh đã đậu chắn ngay phía trước chiếc xe ngựa. Viên xà ích lách sang trái, cố vượt qua, nhưng vướng phải chiếc xe tải chất đầy hàng hóa; anh ta lùi xe, tính lách sang phải, lại đụng nhằm chiếc xe chở bàn ghế tủ giường lổn ngổn đậu ở phía sau, lái xe không biết đã bỏ đi đâu; hết đường xoay trở, tay xà-ích rủa thầm trong bụng, ôm dây cương chịu trận giữa cái mớ xe cộ vô ý thức đó.
Những cảnh ùn tắc thế này nhiều khi làm đình trệ thương mại và giao thông trong thành phố lớn.

-Sao không đi tiếp đi, anh – Cô Lantry giục, vẻ nóng ruột – chúng mình trễ mất!
Richard nhổm lên, nhìn quanh. Anh thấy xe cộ ứ động từng hàng dài, tắc nghẽn lại ở một quảng trường rộng, nơi có Đại lộ Broadway, Đại lộ Sáu và phố 34 giao nhau, tựa như một cô gái cố bó mình trong chiếc dây lưng nhỏ hơn nhiều so với cỡ eo mình. Cả một rừng xe – đã vậy, từ các đường nhánh, xe cộ cứ ùn ùn đổ tới, cản sau xe trước chạm cản trước xe sau, cả cửa xe cũng bị ép cứng, không tài nào mở ra được. Toàn bộ giao thông của khu Manhattan dồn lại quanh họ. Đến người dân New York già nhất trong số hàng nghìn người ngồi dọc hai bên hè phố cũng chưa bào giờ chứng kiến cảnh xe cộ bị tắc nghẽn tới vậy.

Richard ngồi xuống, lắc đầu:
– Xin lỗi em. Mình bị kẹt xe rồi. Ít ra cũng phải cả tiếng đồng hồ mới giải tỏa được cái mớ bòng bong này… Cũng tại anh, phải chi chiếc nhẫn không rớt thì đâu đến nỗi…
Cô Lantry hỏi:
– Chiếc nhẫn đâu, anh cho em xem nào… Em không trách anh đâu; vả lại em chỉ lo mẹ mong rồi lại căn vặn hỏi lý do, chứ kịch thì cũng chẳng có gì đáng để xem…

Mười một giờ tối. Cửa phòng ông Anthony có tiếng gõ. Đang nằm trên giường xem dở quyển truyện phiêu lưu, ông già quát:
– Vào đi!
Đó là cô Ellen. Cô nói, không giấu nổi vẻ náo nức:
– Anh Anthony, tụi nó đính hôn rồi; cô ấy nhận lời cầu hôn của thằng Richard nhà mình rồi!… Tụi nó kẹt xe suốt hai tiếng đồng hồ, và thằng bé nhà mình đã không bỏ lỡ cơ hội…
Ngừng một chút để thở, cô nói tiếp:
– Nào, anh Anthony, giờ thì anh hết khoe của nhé! Chỉ cần một biểu tượng của tình yêu, chỉ cần một chiếc nhẫn tượng trưng cho tình yêu chân thành, chung thủy cũng đủ để thằng Richard nhà mình tìm thấy hạnh phúc… Cháu nó đánh rơi nhẫn trên phố, nó ra khỏi xe để tìm. Sau đó xe chuẩn bị đi thì nghẽn đường. Nó đã thổ lộ tình yêu và chiếm được trái tim cô bé trong lúc cái xe ngựa nằm chết gí ở đấy. Tiền bạc thì làm sao bù được với tấm chân tình kia chứ!

Ông Anthony ngắt lời:
– Đủ rồi, đủ rồi; chỉ cần thằng bé đạt được ý nguyện là tôi mừng rồi. Tôi đã bảo, nếu nó cần thì tốn kém bao nhiêu tôi cũng không tiếc…
Cô Ellen cố cãi:
– Nhưng thử hỏi trong chuyện này, tiền bạc có đem lại được điều gì tốt đẹp không nào?!

Ông Anthony Rockwall dài giọng:
– Thôi nào, cô em; tôi đang đọc đến chỗ tên cướp bị đắm tàu đây này; và hắn lại là tay sành sỏi về tiền bạc đến nỗi không để mình chết đuối được… Cô để tôi đọc hết chương này đã, có được không?
Chuyện đến đây là hết. Tự thâm tâm, tôi mong là độc giả cũng hài lòng với hạnh phúc của Richard. Tuy nhiên, chúng ta vẫn nên đi xuống tận dưới đáy giếng để tìm chân lý.

Sáng hôm sau, trước dinh cơ ông cựu hoàng xà phòng xuất hiện một người mặc áo ngắn tay, thắt chiếc cà-vạt xanh lốm đốm; anh ta rung chuông và được mời ngay vào phòng đọc sách.
Vớ tập ngân phiếu trên bàn, ông Anthony xé một tờ:
– Ồ, một cú thắng đậm vì xà phòng nhé. Đây, năm ngàn tiền mặt, thưởng cho anh về khoản dầu để nấu xà phòng…
Kelly, người mặc áo ngắn tay, nói:
– Tôi còn phải xuất thêm ba trăm đô ngoài kế hoạch nữa đó: thuê thêm chiếc xe hàng với mấy chiếc xe ngựa hết năm đô, chiếc xe tải nặng và mấy chiếc tải nhẹ mất mười đô. Mấy người chạy mô-tô đòi mười đô, bọn lái xe chở hàng đòi những hai mươi đô. Cảnh sát giao thông quất tôi nặng nhất, hai người trước, mỗi người năm mươi đô; hai người sau, một người hai mươi, một người hai mươi lăm… nhưng… họ cũng làm ra trò đấy chứ, ngài Rockwall? Cũng may mà ngài Thị trưởng không nhìn thấy cảnh kẹt xe… Chẳng tập dượt gì mà giờ giấc đâu đó khít rịt; đúng hai tiếng đồng hồ, không sai chạy lấy một giây…

- Một ngàn ba trăm đô, anh cầm lấy. Thưởng thêm cho anh một ngàn, còn ba trăm là để bù vào số tiền túi của anh. Anh không chê tiền chứ, anh Kelly?
- Tôi ấy à? Tôi lại không nện nhừ tử kẻ nào dám sáng chế ra sự nghèo đói ấy chứ lị.

Ông Anthony gọi giật lại khi Kelly vừa ra đến cửa:
– Tôi quên hỏi, ở chỗ kẹt xe, anh có trông thấy một chú bé béo tốt, không mặc quần áo gì cả, giương cung bắn vãi ra bốn hướng không?
Kelly ngơ ngác:
– Sao, ông nói sao? Bắn tên vãi ra ấy à? Dààà… tôi không thấy, nhưng nếu có hẳn nó đã bị cảnh sát bắt nhốt từ trước rồi…

- Tôi cho rằng thằng nhãi ấy không có mặt ở đó – ông Anthony cười khoái chí – Thôi chào anh, Kelly!

Truyện ngắn O.Henry – Theo bản dịch của Mạnh Chương.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeWed May 16, 2018 9:35 pm

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Th?id=OIP.rnceELJ6m-Z_NBcNf6UQ4gHaFj&pid=15

CON NGƯỜI PHÓNG ĐÃNG
Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910)


Bạn sẽ không tìm thấy cái tên Thomas Keeling trong danh bạ thành phố Houston. Bây giờ có thể có, nếu ông Keeling đã không đóng cửa cơ sở làm ăn của ông khoảng một tháng trước và dời đi nơi khác. Ông Keeling dời đến Houston khoảng thời gian ấy và mở một văn phòng thám tử tư nhỏ. Ông cung ứng dịch vụ thám tử theo cung cách khiêm tốn. Ông không có tham vọng cạnh tranh với hãng Pinkerton, nhưng thích làm việc trong những lĩnh vực ít rủi ro hơn.

Nếu một ông sếp muốn kiểm tra những thói quen của người thư ký, hoặc một bà vợ muốn nhòm ngó ông chồng quá trăng hoa, ông Keeling là người lĩnh nhiệm vụ. Ông là người trầm tĩnh, chăm chỉ với nhiều lý thuyết. Ông đọc các tác giả Gaboriau và Conan Doyle, và hy vọng một ngày ông sẽ có vị trí cao hơn trong nghề của mình. Ông giữ một chân thấp kém trong một văn phòng thám tử lớn ở miền Đông, nhưng vì chậm được đề bạt, ông quyết định dời đến miền Tây, nơi mà nghề nghiệp ông ít bị cạnh tranh hơn.

Trong vài năm ông đã dành dụm được 900 đô mà ông ký gửi trong két sắt của một thương gia do một người bạn ở Houston giới thiệu. Ông thuê một căn phòng nhỏ ở tầng lầu, trên một con đường hẻo lánh, treo một tấm biển cho biết loại dịch vụ, rồi vùi đầu vào trong mấy mẩu chuyện Sherlock Holmes của Doyle trong khi chờ thân chủ tìm đến.
Một thân chủ đến gặp ông sau ba ngày ông khai trương văn phòng vốn chỉ có một mình ông. Đấy là một phụ nữ trẻ, khoảng 26 tuổi. Cô người mảnh mai, khá cao, ăn mặc lịch sự. Cô mang một khăn che mặt mỏng, và vén lên trên chiếc mũ rơm sau khi đã ngồi xuống ghế. Cô có gương mặt thanh tú, tao nhã, với đôi mắt xám khá linh động, và cử chỉ có phần lo lắng.

Cô nói, với giọng ngọt ngào nhưng có phần buồn rầu:
- Thưa ông, tôi đến tìm ông vì ông là người tương đối xa lạ, và tôi không thể bàn chuyện riêng tư với những người bạn của tôi. Tôi muốn ông theo dõi những hành động của chồng tôi. Mặc dù nhục nhã phải khai sự thật, tôi e rằng anh ấy không còn yêu thương tôi nữa. Trước khi tôi kết hôn với anh ấy, anh say mê một cô gái trẻ có liên hệ với gia đình nơi anh ở trọ. Chúng tôi đã cưới nhau được năm năm và sống rất hạnh phúc, nhưng gần đây cô gái trẻ đã dời đến Houston, và tôi có lý do để tin rằng anh ấy đang chú ý đến cô. Tôi nhờ ông theo dõi sát sao theo cách có thể được những hành động của anh ấy và báo cáo với tôi. Tôi sẽ đến đây cách hai ngày một lần theo giờ định trước để biết những gì ông đã phát hiện ra. Tên tôi là bà R-, và chồng tôi là người có tiếng tăm. Ông ấy có một hiệu kim hoàn nhỏ ở đường –--. Tôi sẽ chi trả xứng với dịch vụ của ông, và đây là 20 đô để bắt đầu.

Người phụ nữ trao cho ông tờ giấy bạc, và ông tiếp nhận một cách thờ ơ như thể những việc như thế này là chuyện bình thường, rất thường trong nghề nghiệp của ông. Ông cam đoan với bà rằng ông sẽ thực hiện ý muốn của bà một cách trung thành, và yêu cầu hai ngày sau bà trở lại lúc bốn giờ chiều để nghe báo cáo đầu tiên.

Ngày kế, ông Keeling dò hỏi về những điều liên quan đến công tác. Ông tìm ra hiệu kim hoàn, và đi vào giả vờ nhờ siết lại bộ phận thủy tinh trong chiếc đồng hồ đeo tay của ông. Chủ cửa hiệu, ông R-, khoảng 45 tuổi, có tư thái trầm tĩnh và cách thức làm việc rất chăm chỉ. Cửa hiệu nhỏ, nhưng bán hàng loại tốt và có nhiều chủng loại kim cương, nữ trang và đồng hồ. Hỏi han thêm thì được biết rằng ông R- là người có tư cách đứng đắn, không bao giờ uống rượu, và luôn luôn làm việc bên quầy nữ trang của ông.

Ngày hôm ấy, ông Keeling thơ thẩn trong vài giờ quanh cánh cửa của hiệu kim hoàn, và cuối cùng nỗ lực của ông được đền đáp khi ông thấy một phụ nữ trẻ, ăn mặc lòe loẹt với mái tóc đen, đôi mắt huyền, bước vào cửa hiệu. Ông Keeling nhàn nhã đi đến gần cánh cửa nơi ông có thể quan sát những gì xảy ra bên trong. Người phụ nữ bước một cách tự tin đến phía sau hiệu kim hoàn, dựa vào mặt quầy và trò chuyện thân mật với ông R-. Ông đứng dậy, và hai người trao đổi nho nhỏ với nhau trong vài phút. Cuối cùng, ông chủ kim hoàn trao cho cô ít tiền đồng, mà ông Keeling nghe tiếng leng keng khi cô đón nhận vào lòng bàn tay.
Rồi người phụ nữ đi ra và bước nhanh về cuối phố.

Thân chủ ông Keeling trở lại văn phòng ông theo đúng hẹn. Cô bồn chồn muốn biết liệu ông có thấy điều gì giúp minh chứng cho sự nghi ngờ của cô. Ông thám tử thuật cho cô nghe những gì ông đã thấy. Sau khi nghe ông mô tả người phụ nữ trẻ đi vào hiệu kim hoàn, cô nói:
- Đúng là nó rồi. Cái đứa vô liêm sỉ, thật cả gan! Và như thế là Charles còn đưa tiền cho nó. Nghĩ mà xem, chuyện đã xảy ra đến thế này!
Người phụ nữ cầm chiếc khăn tay chấm đôi mắt theo cách bị xúc động.
Ông thám tử hỏi:
- Bà R-, bà muốn như thế nào trong việc này? Bà muốn tôi dò hỏi đến đâu?
- Tôi muốn tận mắt nhìn đủ bằng cớ để thuyết phục điều mà tôi nghi ngờ. Tôi cũng muốn có nhân chứng, để tôi có thể làm đơn xin ly dị. Tôi không muốn tiếp tục cuộc sống như thế này.
Rồi cô trao cho ông tờ giấy mười đô.

Hai ngày sau, khi cô trở lại văn phòng ông Keeling, ông báo cáo:
- Chiều nay tôi đến hiệu kim hoàn với lý do vụn vặt. Cô ấy đã đến đấy, nhưng không ở lại lâu. Trước khi đi, cô ấy nói: “Charles, chúng mình sẽ dùng bữa ăn nhẹ vui nhộn tối nay như anh đề nghị, rồi chúng mình sẽ trở về cửa hiệu mà trò chuyện trong khi anh làm xong cây kim gài đính kim cương mà không bị ai quấy rầy”. Bà R- ạ, tôi nghĩ tối nay sẽ là dịp tốt để bà chứng kiến cuộc gặp gỡ giữa chồng bà và đối tượng khiến chồng bà điên đảo, và tâm tư bà sẽ mãn nguyện được biết vụ việc ra thế nào.
Người phụ nữ kêu lên với đôi mắt lấp lánh:
- Khốn khiếp! Anh ấy bảo tôi rằng anh ấy sẽ có việc quan trọng phải làm cho xong tối nay. Và đây là cách anh ấy sử dụng thì giờ mà không có tôi!
Ông thám tử nói:
- Tôi đề nghị bà ẩn mình trong cửa hiệu để bà có thể nghe những gì họ nói, và khi bà đã rõ chuyện bà có thể gọi nhân chứng vào cho họ đối diện với ông ấy.
Cô đáp:
- Ý kiến hay. Tôi nghĩ có một ông cảnh sát, mà gia đình chúng tôi quen biết, có nhiệm vụ tuần tra khu vực xung quanh cửa hiệu. Do nhiệm vụ, ông ấy sẽ có mặt trong khu vực này vào buổi tối. Tại sao ông không đến gặp ông ấy, giải thích về vụ việc và khi tôi đã nghe đủ bằng chứng, ông dẫn ông ấy đến để cả hai ông làm nhân chứng?
Ông thám tử nói:
- Tôi sẽ trình bày với ông ấy, và thuyết phục ông ấy giúp chúng ta. Xin bà trở lại đây trước khi trời tối, để chúng ta có thể dàn xếp đặt bẫy họ.

***

Ông thám tử đi săn lùng người cảnh sát và giải thích cho ông biết tình hình. Nhà bảo vệ pháp luật nói:
- Buồn cười thật. Tôi không hề biết ông R- là con người phóng đãng. Nhưng rồi, ta không bao giờ hiểu rõ về ai được. Thế là bà vợ ông muốn bắt quả tang ông tối nay. Xem nào, bà muốn ẩn mình trong cửa hiệu và nghe họ nói gì. Có một căn phòng nhỏ phía sau cửa hiệu, nơi ông R- chất than và bao bì cũ. Dĩ nhiên là cánh cửa giữa bị khóa, nhưng nếu ông có cách đưa bà qua cánh cửa này, bà có thể ẩn mình đâu đấy. Tôi không muốn dính dáng đến những chuyện như thế này, nhưng tôi thông cảm với bà. Tôi và bà quen nhau từ thuở còn bé nên tôi không nề hà gì mà không giúp bà làm điều bà muốn.
Vào khoảng chạng vạng tối hôm ấy, thân chủ của nhà thám tử đi vội vã đến văn phòng của ông. Cô ăn mặc giản dị trong màu đen và đội một chiếc mũ tròn màu sẫm và khuôn mặt được bao phủ bởi một tấm mạng.
Cô giải thích:
- Nếu Charlie có trông thấy tôi, anh ấy sẽ không nhận ra tôi.

Ông Keeling và người phụ nữ đi bộ dọc con đường đối diện hiệu kim hoàn, và khoảng tám giờ tối cô gái trẻ mà họ đang quan sát bước vào cửa hiệu. Ngay sau đấy, cô đi ra cùng ông R-, ôm lấy cánh tay ông, và họ bước đi vội vã, hẳn là về phía nhà hàng để ăn tối.
Nhà thám tử cảm thấy cánh tay người phụ nữ kế bên ông run rẩy. Cô nói:
- Khốn khiếp! Anh ta nghĩ tôi đang vô tư trông chờ anh ta ở nhà trong khi anh ta đang lả lướt với con ranh điệu nghệ đầy mưu đồ ấy. Ôi, hạng đàn ông phản bội!
Ông Keeling đưa người phụ nữ đi qua một hành lang mở dẫn đến sân sau của hiệu kim hoàn. Cánh cửa của căn phòng sau không được khóa, và họ cùng bước vào.

Bà R- nói:
- Trong nhà kho, gần cái quầy làm việc của chồng tôi là một cái bàn rộng, với khăn trải bàn phủ xuống đến sàn nhà. Nếu tôi có thể chui xuống dưới cái bàn này, tôi có thể nghe mọi điều họ nói với nhau.
Ông Keeling lấy ra một chùm chìa khóa vạn năng và trong vài phút đã tìm ra một chìa có thể mở cánh cửa đi vào hiệu kim hoàn. Một ngọn đèn khí đốt được vặn thật thấp.
Người phụ nữ bước vào bên trong và dặn dò:
- Tôi sẽ gài chốt cửa bên trong, và tôi muốn ông đi theo dõi chồng tôi và cô ấy. Nhìn xem họ có ăn tối với nhau không, và nếu có, khi họ bắt đầu trở về, ông trở về đây báo tin cho tôi hay bằng cách gõ cánh cửa ba lần.
Sau khi tôi đã nghe đủ câu chuyện họ nói với nhau, tôi sẽ mở chốt cửa, và chúng ta sẽ đối diện với cặp tội phạm. Tôi có thể cần ông bảo vệ tôi, vì tôi không biết họ có thể làm gì tôi.

***

Nhà thám tử nhẹ nhàng bước ra ngoài và đi theo ông chủ kim hoàn cùng cô gái. Chẳng bao lâu sau ông thấy họ đã chọn một phòng ăn riêng trong một nhà hàng và gọi thức ăn tối. Ông nán lại ở đấy cho đến khi họ trở ra, rồi vội vã quay trở về hiệu kim hoàn, bước vào căn phòng phía sau, và gõ cánh cửa ba lần.

Vài phút sau, ông chủ kim hoàn cùng cô gái bước vào, và nhà thám tử trông thấy ánh sáng soi rõ hơn qua một kẽ nứt trên cánh cửa. Ông có thể nghe hai người chuyện trò với nhau một cách thân mật và không ngừng nghỉ, nhưng không thể nghe ra họ đang nói những gì. Ông rón rén vòng ra ngoài con đường, nhìn qua khung cửa sổ, và có thể thấy ông R- đang làm việc ở cái quầy của ông, trong khi cô gái tóc đen ngồi kế bên và trò chuyện với ông.
Ông Keeling nghĩ ông sẽ cho họ thêm ít thời gian, rồi ông đi dọc theo con đường. Người cảnh sát đang đứng ở góc phố.

Nhà thám tử cho ông hay rằng bà R- đang ẩn mình trong hiệu kim hoàn, và mưu kế đang diễn tiến tốt đẹp. Ông nói:
- Bây giờ tôi lui về phía sau, để chuẩn bị sẵn sàng khi bà ấy cho họ sập bẫy.
Người cảnh sát bước trở lại cùng ông, và nhìn qua khung cửa sổ. Ông nói:
- Xem chừng họ đã dàn hòa với nhau tốt đẹp trở lại. Còn người phụ nữ kia đâu?
Nhà thám tử ngạc nhiên:
- Sao thế? Cô ta đang ngồi kế bên ông ấy.
Người cảnh sát thêm:
- Tôi đang nói đến cái cô mà ông R- dẫn đi ăn tối.
Nhà thám tử nói:
- Tôi cũng thế.
Người cảnh sát phân trần:
- Dường như anh đã nhầm lẫn. Anh có biết người ngồi cạnh ông R- là ai không?
- Đấy là người đi ăn tối với ông ấy.
- Đấy là bà vợ của ông R-. Tôi quen biết bà ấy đã mười lăm năm rồi.
Nhà thám tử há hốc:
- Thế thì, ai-? Chúa ơi, thế thì ai đang ẩn mình dưới cái bàn?

Ông Keeling bắt đầu đá cánh cửa của hiệu kim hoàn. Ông R- bước ra và mở cửa. Người cảnh sát và nhà thám tử bước vào.
Nhà thám tử hét lên:
-Khám xét dưới cái bàn, nhanh lên.
Người cảnh sát vén tấm khăn trải bàn lên và lôi ra một chiếc áo đen, một tấm mạng che mặt và một bộ tóc giả phụ nữ.
Ông Keeling chỉ đến người phụ nữ trẻ có đôi mắt đen đang nhìn họ với vẻ kinh ngạc tột độ, hỏi:
- Bà đây có phải là v-v-vợ của ông không?
Ông chủ kim hoàn đáp:
- Chắc chắn rồi. Bây giờ, làm ơn giải thích ông làm cái quái gì mà khám xét dưới mấy cái bàn của tôi và đá cánh cửa của tôi?
Người cảnh sát bắt đàu nhận định tình hình:
- Để xem xét giả chân

***

Các nhẫn kim cương và đồng hồ bị mất trị giá lên đến 800 đô, và ngày hôm sau ông Keeling thanh toán hóa đơn.

Tối hôm ấy, họ giải thích mọi việc cho ông chủ kim hoàn hiểu, và một giờ sau ông Keeling ngồi trong văn phòng của mình xem qua tập ảnh của những tên lừa đảo. Cuối cùng ông đã tìm ra một bức ảnh, ông dừng tay lật tìm và vò đầu bứt tóc. Dưới tấm ảnh của một anh trai trẻ có gương mặt mịn màng với những đường nét thanh tú, là câu mô tả như sau:
“JAMES H. MIGGLES, bí danh Simon Lừa, bí danh Quả phụ khóc, bí danh Kate bịp, bí danh Jimmy Xoáy, kẻ lừa đảo và trộm cắp. Thường giả dạng phụ nữ. Ăn nói rất khéo và nguy hiểm. Bị truy nã ở Kansas City, Oshkosh, New Orleans và Milwaukee.”

Vì thế mà ông Thomas Keeling không tiếp tục dịch vụ thám tử tư ở Houston.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeThu May 24, 2018 9:35 am

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Th?id=OIP.82-Dccop8NpU294OrYeBEAAAAA&pid=15

Tay Súng Tay Đàn

Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910)


Khi chán ngấy cuộc sống buồn tẻ đơn điệu ở nông trại, tôi liền nói với bố tôi:
- Con muốn đi xa bố ạ
- Mày muốn đi đâu? - Bố tôi gắt.
- Con tính về miền Tây. Hiện nay có nhiều dòng người đổ xô về đấy tìm vàng. Con hy vọng....
- Mày điên rồi à? - Bố tôi ngắt lời. - Sao mày không ở nhà mà kế nghiệp tao. Đó chỉ là một nơi hoang dã, vô luật pháp. Người ta có thể đào được mỏ vàng. Còn mày giỏi lắm chỉ được mấy hòn đá cuội.

Tôi chỉ có ý cho bố tôi biết thế thôi, chứ thực ra thì tôi đã quyết cả rồi. Tuổi trẻ là tuổi bay nhảy, quanh quẩn xó nhà hoài cũng chán. Mà tôi đã hơn 20 tuổi đầu rồi, có phải là con nít đâu (!).
Tôi lẳng lặng bỏ vào nhà trong lấy ra hai chiếc túi hành lý trong đựng ít quần áo, vài quyển sách và số tiền tôi dành dụm bấy lâu:
- Mày đi thật à? - Bố tôi nghiến răng. Rồi chẳng nói chẳng rằng, ông vùng vằng đứng dậy vớ ngay chiếc ghế đang ngồi ném mạnh vào tôi.
Nhưng tôi kịp ù té chạy ra ngoài, đầu còn ngoái lại chào:
- Thưa bố, con đi!

*
Tôi vừa ra được đường cái thì nghe vẳng lại tiếng vó ngựa lóc cóc lẫn tiếng đàn Banjo tình tang. Thong thả tiến lại phía tôi, một cỗ xe ngựa tàng, chẳng mui mái gì. Chú ngựa chẳng lấy gì làm mập mạp và có vẻ chẳng mấy sung sức. Ngồi bệch trên xe là một thanh niên dong dỏng, áo quần bẩn thỉu, râu tóc bờm xờm. Bộ mặt dàu dàu, gã như đang thất tình hay chán ngán điều gì. Gã vừa đàn vừa nghêu nghao hát:
Một mình từ nơi xa tít xa
Cây đàn xinh xắn vác trên bờ vai 
Về nơi đây lang thang phất phơ
Đi tìm cô bé trót yêu lâu rồi....

- Này anh bạn, làm ơn cho tôi quá giang với. Tôi nói lớn. Gã dừng hát, ngơ ngác nhìn tôi một hồi rồi ra dấu mời tôi. Tôi tức thì nhảy tót lên xe, ngồi đối diện với gã. Lúc này nhìn kỹ hơn tôi thấy bên hông gã còn lù lù một khẩu súng cũ mèm. Cái cổ đầy ghét bẩn đeo một trái tim xinh xắn bằng gỗ màu đen nhánh. Trên quả tim khắc khuôn mặt một thiếu nữ.
- Cậu về đâu thế? - Tôi hỏi
- Tôi về miền Tây - Gã lừ khừ đáp, miệng ngáp ngáp
- Vậy hai ta đồng chí hướng - Tôi hớn hở - Tên tôi là James, James Kelly. Cậu quê quán ở đâu.
- Tôi chỉ là một tên ma cà bông không cha không mẹ, không cửa không nhà - Gã nhún vai - Tôi sống nay đây mai đó với chú ngựa kia và chiếc giày làm bạn. Cứ gọi tôi là John.

Tôi để ý mỗi lần hắn nói, miệng gã lại tỏa ra một mùi hương không lấy gì làm dễ chịu. Có lẽ đã lâu gã chưa hề súc miệng. Thực ra, chỉ cái áo bẩn thỉu của gã cũng phát ra một mùi gần gần thế.
- John này, nếu muốn cậu có thể đọc mấy cuốn truyện của tôi giải khuây. Tôi mở túi hành lý, lấy ra cuốn Don Quichotte của Cervantes thân mật đưa cho John
- Truyện này thế nào, cậu kể cho nghe được không. John cầm ngược cuốn sách, lật lật vài trang rồi ra vẻ ngượng nghịu. Thú thực tôi không biết đọc.
- Cậu mù chữ à? - Tôi trố mắt
- Vâng. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, tôi chưa bao giờ cắp sách đến trường. Có lần tôi ráng tự học nhưng đành chịu vì không sao nuốt nổi những nét chữ loằng ngoằng. Tôi thấy học bắn súng còn dễ hơn.
- Cậu bắn súng hẳn cừ lắm. Tôi đăm đăm nhìn khẩu súng của John.
- Tàm tạm - John cười cười.
- À nãy nghe cậu hát hay hết ý - Tôi vỗ vai John - Đề nghị cậu hát lại coi nào.
- Được thôi, John cầm chiếc đàn ôm vào lòng, gảy gảy mấy nốt nhạc êm tai rồi nghêu ngao cất tiếng:
Một mình từ nơi xa tít xa
Cây đàn xinh xắn vác trên bờ vai
Về nơi đây lang thang phất phơ
Đi tìm cô bé trót yêu lâu rồi.

Khi chẳng biết còn bao xa, tôi bùi ngùi vì sắp phải chia tay với người bạn mới quen song đáng mến. - John này, chẳng mấy chốc anh em mình sẽ phải xa nhau. Tiếc là chú ngựa quèn của cậu không thể đưa chúng ta đi được mãi. Mong còn gặp lại cậu ở miền Tây hoang dã
- Đừng lo, John cười cười, cái cười tinh ma. Thực tình có được người bạn đường học thức như cậu tôi rất thích. Hai ta sẽ bên nhau suốt quãng đường thiên lý. Tôi đã có cách. Cách gì thì tôi chưa biết. Xe chúng tôi lê thêm quãng nữa thì từ xa phóng đến một cỗ xe trông thật bảnh chọe hai ngựa kéo. Cỗ xe săp tới gần thì, trước sự ngạc nhiên của tôi, John bỗng nhảy xuống chặn đường, rút súng bắn chỉ thiên hai phát.
Đoành... Đoành... Mấy chú ngựa sợ hãi hí vang rồi đứng im.
- Tất cả xuống xe! - John gầm gừ.
Lời ra lệnh của John tức thì có hiệu nghiệm. Gã đánh xe mặt xám xanh, luống cuống nhảy tót xuống, hai tay giơ lên. Rồi liền đó, trong xe bước xuống một người đàn ông trạc tuổi ngũ tuần, tướng người bệ vệ cùng hai ả tiểu thư đỏng đảnh trong những bộ xiêm y lộng lẫy. Tất cả đều có bộ mặt nơm nớp trước họng súng dữ dằn như bề ngoài du thủ du thực của John.
- Cảm phiền quý ông quý bà đổi hộ cho anh em chúng tôi chiếc xe. John dứ dứ súng vào đầu gã đàn ông bệ vệ. Đường còn xa mà cỗ xe của chúng tôi lại dở chứng.
- Lên xe ngay James - John quay sang tôi - Mang theo cả chiếc Banjo nữa đấy.
- Lẽ nào..... John - Tôi ngập ngừng.
- Chẳng sao đâu - John cười hì hì - Bọn nhà giàu mất cái này đã có khối tiền mua cái khác. Chỉ tội nghiệp cho bọn nghèo chúng mình. Tôi không còn cách nào khác hơn là nghe theo lời John. Thực ra trong thâm tâm tôi luôn đồng ý những chuyện như thế này. Thế rồi, bỏ mặc chiếc xe cà rịch cà tàng và bọn người kia lại bên đường, chúng tôi phóng ngay lên cỗ xe ác chiến vừa sắm được dông tuốt. Trên cỗ xe mới còn có chiếc rương nhỏ trong đựng ít quần áo, một số nữ trang và vài ngàn đô la. Vì thế trên đường chúng tôi tha hồ ghé lại mua sắm những thứ cần thiết cho một chuyến đi xa. John còn mua thêm đạn dược và hai khẩu súng lục loại tốt nhất.
- Phải sẵn sàng vì có thể gặp những tên vô lại... - John chợt cười lên thoải mái - Cả bọn da đỏ nữa, vớ vẩn là chúng lột da đầu như chơi.

*
Thay nhau điều khiển chiếc xe, tôi và John cùng nhau chia sẻ những vui buồn trên đường dài ngàn dặm. Với cái thằng tôi lúc ấy, đó là cả cuộc hành trình đầy gian truân mà trước đó tôi không hề lường trước được. Quên sao được những con đường gồ ghề đầy sỏi đá làm chiếc xe cứ xóc lên xóc xuống, khiến mình mẩy tôi muốn rã rời. Quên sao được cái lúc vượt qua sa mạc mênh mông nóng như thiêu đốt, bụi tung mù trời. Họng khô tới nỗi khó nuốt được nước bọt. Mà đâu chỉ một hai tiếng đồng hồ. Phải mất ngót nửa ngày trời dằng dặc mới thoát khỏi cái sa mạc quái quỷ ấy. Và còn nhiều cái khổ khác nữa. Nhưng may thay, điều tôi lo lắng nhất đã không xảy ra, vì nếu xảy ra thì giờ này tôi chẳng còn ngồi đây để mà kể chuyện đời cho các bạn (!) Đó là lúc đi vào miền núi đồi, tiến vào đất nước thù nghịch của người da đỏ thích lột da đầu làm kỷ niệm. Suốt đêm tôi chỉ mơ thấy mình là cái xác ghê rợn với chiếc đầu đỏ hỏn đầy máu không một mảnh da. Chỉ John là bình chân như vại. Có lẽ anh đã quá quen thuộc với cảnh chết chóc cũng nên. Vâng, rất may chuyện đó đã không đến với chúng tôi. Phải chăng những truyền thuyết về tính man rợ của thổ dân da đỏ là thêu dệt quá đáng?

Nơi đầu tiên mà cỗ xe mệt mỏi của chúng tôi dừng bánh là thị trấn Bò Vàng. Đó là thị trấn tương đối sầm uất trên một vùng đất rộng lớn, bằng phẳng. Phía xa là con sông tươi mát uốn mình qua những ngọn núi cao hùng vĩ, tạo nên một cảnh thật tuyệt. Bản thân cái tên Bò Vàng cũng đã tạo cho khách xa một ấn tượng thật thoải mái. Hai bên đường chúng tôi đi qua những nhà thờ lớn nhỏ, hầu hết đều cất bằng ván. Quán xá khá nhiều. Phố phường đông kẻ qua lại trong những bộ y phục nhiều màu sắc. Nhìn chung nơi đây cũng dễ chịu, trái với ý nghĩ ngô nghê của tôi trước kia rằng miền Viễn Tây chỉ gồm bọn giang hồ, dân anh chị tứ phương. Tuy nhiên tôi vẫn cảm thấy điều gì không ổn treo lơ lửng dưới bầu trời xanh biếc của thị trấn này.
- Thôi anh em chúng ta uống gì đỡ khát rồi tìm chỗ nghỉ ngơi đi.
John cho xe đỗ lại trước một quán rượu cũng có tên là Bò Vàng. Chắc xưa kia vùng này nhiều bò lắm - tôi nghĩ. Quán khá đông. Từ các bàn cho đến quầy hầu như kín chỗ, ồn ào lời ăn tiếng nói chen lẫn những tiếng cười ngặt nghẽo về đủ mọi chuyện trên đời kể cả chuyện tìm vàng, điều tôi đang theo đuổi.
- Bọn tôi từ phương xa mới đến, không rõ dân tình ở nơi đây thế nào? Ở quầy, nốc cạn một hơi mấy cốc bia thật tuyệt, chúng tôi vui vẻ bắt chuyện cùng ông chủ quán, một người có thân hình béo phị nặng nề. - Thị trấn này có vẻ tươi vui đấy ông nhỉ?
- Ồ vâng, có lẽ thế - Ông ta nhún vai cười đáp - Thực ra thì nơi đâu cũng có những vui buồn của nó.
- Nghĩa là sao ông chủ? - John lại hỏi.

Anh vừa dứt lời thì ông chủ quán chợt sa sầm lại. Vẻ khiếp sợ hiện rõ trên gương mặt của ông.
Tất cả mọi thực khách trong quán cũng thế. Im bặt. Sững sờ. Khiếp sợ...
John nhìn ra bên ngoài cửa. Có chuyện gì xảy ra vậy?
Lù lù bước vào một gã đàn ông cao lớn, tướng mạo dữ dằn với đôi mắt cú vọ lạnh như băng, bộ râu hàm lởm chởm, áo quần bạc phếch đầy cát bụi. Vết thẹo dài trên trán và hai khẩu súng đeo hai bên hông càng làm tăng thêm sự dữ dằn của hắn. Hắn xăm xăm bước thẳng đến quầy. Lúc này, tất cả khách khứa, trừ chúng tôi, thảy đều tự động bỏ ra ngoài, vẻ sợ hãi ra mặt.
- Dạ thưa ngài dùng chi? - Ông chủ quán khúm núm thưa với người khách mới.
- À hai thằng ranh kia, sao còn dám đứng đây - Hắn chỉa đôi mắt cú vọ vào chúng tôi - Muốn trêu gan tao hả? Nói chưa dứt câu, hắn lấy cánh tay vạm vỡ phang mạnh vào người khiến tôi té nhào ra sau, đầu va mạnh vào thành bàn đau tê tái.
- Quân khốn kia, sao mày dám giở trò ngang ngược - John bất bình, mặt anh đỏ gay.
- Cả mày nữa - Hắn cười gằn với John - Mày cũng lo cút khỏi nơi đây ngay. Tao đến đâu thì tất cả ở đó phải cút hết.
- Chính mày mới phải cút khỏi đây - John nhổ toẹt nước bọt vào mặt hắn. - Ái chà thằng khốn nạn, mày dám hả?
- Lấy vai áo chùi chùi mặt, hắn gầm gừ - Tao truyền cho mày phải luồn dưới háng tao ngay, bằng không thì mày sẽ phải đấu súng với tao.
- Đấu thì đấu, ta sợ gì - John vỗ mạnh vào khẩu súng bên hông anh, vẻ đầy tự tin.
- Thôi đừng, John ơi - Tôi vội vàng kéo vai John - Can cậu. Cậu nên nghĩ lại thì hơn. Cậu có mệnh hệ gì thì...
- Mặc tôi James - John vẫn tỉnh bơ - Tôi chơi súng không tồi đâu.
- Cậu cho tôi xin - Cả ông chủ quán cũng chen vào - Cậu còn trẻ người non dạ, lại từ xa mới đến nên chưa biết uy danh ngài Ben đây. Nhưng mặc ai can ngăn, John vẫn bước theo tên Ben ra ngoài. Tôi có cảm giác đau khổ là trong chốc lát nữa thôi mình sẽ mất đi vĩnh viễn người bạn quý đã chia sẻ cùng tôi trên bao dặm trường.
- Tao sẽ quăng đồng xu lên - Tên Ben khinh khỉnh bảo John - Đồng xu vừa chạm đất thì rút súng.
- Thằng nhãi này điên rồi - Mọi người tụ tập bên ngoài nhìn John xì xầm - Đấu súng với Ben Thẹo là rước lấy cái chết. Chắc nó mới từ trên trời rơi xuống nên không biết tài bắn nhanh như chớp của Ben Thẹo. Trước sự lo lắng tột cùng của tôi, John quả quyết bước ra đường, đối mặt cách Ben Thẹo chừng chục bước. Hắn ta lạnh lùng cho tay vào túi áo móc ra một đồng xu. Giây phút này người tôi ướt đẫm mồ hôi, tim tôi cơ hồ muốn vỡ tung. Một màu không khí bao trùm lên mọi vật. Nhếch mép cười, Ben Thẹo quăng đồng xu lên. Đồng xu vừa rơi xuống chạm đất thì hầu như cùng lúc ấy một tiếng súng chát chúa vang lên.

Đoàng..... Cả không gian im lặng. Tim tôi tưởng đã vỡ trăm ngàn mảnh. Cả John và Ben Thẹo đều ở trong tư thế chĩa súng vào nhau.
Từ họng súng của John bay ra một làn khói, nhưng súng của đối thủ thì không...
Thế rồi một tích tắc sau, thân hình to lớn của Ben Thẹo đổ vật xuống. Chuyện ai không ngờ. Từ giữa ngực tên hung bạo, máu phun ra có vòi. Hắn giãy giãy vài cái rồi im hẳn, đầu nghẹo sang một bên. Mắt hắn còn mở trừng trừng như kinh ngạc về điều vừa xảy đến. Hắn đã chết!
- Trời John... - Tôi xúc động chạy tới ôm chầm lấy John - Tôi không ngờ...
- Thì tôi đã bảo cậu là tôi chơi súng không tồi đâu mà - John cười, hồn nhiên như chưa có chuyện gì xảy ra.
- Tôi cứ tưởng sẽ mất
cậu mãi mãi. Theo cậu gần tháng nay vậy mà giờ tôi mới biết tài năng trác tuyệt của cậu.
- Tài như cậu ít ai bì kịp - Mọi người cũng hồ hởi xúm quanh John.
- Cậu có biết là cậu vừa hạ được Ben Thẹo, tay súng cự phách của miền Tây không? Hắn đã cướp đi mạng sống bao người. Tài hắn chỉ kém Bill Scott. Tên này và đồng bọn vẫn là mối đe dọa của chúng tôi.
- Thế không có ai coi việc an ninh ở đây sao? - John hỏi.
- Có, có chứ - Một người trông có vẻ vai vế vùng này đáp - Nhưng có cũng như không vì ai cũng khiếp sợ chúng. Chính người cầm đầu an ninh trước đây đã bị Ben Thẹo cho sang thế giới bên kia với hàng chục phát đạn vào người.
- Đề nghị cậu giúp chúng tôi thành lập một nhóm dân quân biết sử dụng súng thành thạo - Ông ta khẩn khoản - Chúng tôi xin hứa sẽ chịu mọi phí tổn và tiếp đãi cậu như thượng khách.
Thực ra tôi và John chỉ muốn nghỉ ở đây rồi sau sẽ đi xa hơn để tìm vàng. Song, trước tình cảnh của thị trấn này cùng sự khẩn nài hết lời của dân chúng, John đã không thể từ chối.
Thế là từ đấy chúng tôi trở thành công dân của thị trấn Bò Vàng, nơi con người lãng tử của John sẽ gắn bó suốt quãng đời còn lại của anh. 

*
Việc hạ được Ben Thẹo khiến John từ một người khách vô danh trở nên tiếng tăm khắp vùng. Mọi người khâm phục nhắc đến tên anh. Đến đâu anh cũng được chào đón nồng hậu. Phải nhận rằng nếu John cứ để đầu tóc bờm xờm, mình mẩy hôi hám thì khó mà hấp dẫn được ai. Song từ khi về đây, cách sống của anh đã thay đổi nhiều. Nhờ siêng năng tắm rửa luôn, tóc tai chải chuốt, ăn vận đàng hoàng, trông anh bảnh trai ra phết. Thành thử chẳng bao lâu, thêm với tài đàn hay bắn giỏi đã khiến cho cõi lòng của lắm tiểu thư phải rung động. Nhiều cô tới thăm hỏi anh luôn.
Vậy mà lạ chưa, trước ánh mắt mời mọc đầy tình tứ của các kiều nữ, John vẫn hoàn toàn dửng dưng. Chẳng lẽ anh chàng này lại kén cọ đến thế ư? Song là bạn thân, được ở bên John luôn nên tôi cũng hiểu ra. Nhiều lần tôi thấy anh ngồi một mình, tay nâng niu quả tim gỗ luôn đeo ở ngực không bao giờ rời, mắt đăm đăm nhìn người thiếu nữ khắc trên đó, vẻ mặt u buồn, đôi khi khóe mắt rưng rưng. Thì ra trong anh có một tâm sự buồn.
"Ngày trước tôi có yêu Susan, một thiếu nữ xinh đẹp thùy mị - một ngày kia John thổ lộ với tôi - nhiều chàng trai sang trọng ngỏ lời muốn lấy nàng làm vợ nhưng Susan vẫn một lòng tha thiết yêu tôi, một tên đói rách không cha không mẹ, một chữ bẻ làm đôi không biết. Mối tình chúng tôi đang say đắm thì Susan đột ngột qua đời... Nàng yên nghỉ trong một nghĩa trang nhỏ gần dòng sông Missouri êm ả. Từ đó trở đi tôi sống một cuộc đời lang thang và thề không bao giờ còn yêu ai nữa..."

Sau nhiều tháng trời được sự huấn luyện tận tình của John, thị trấn Bò Vàng có được một đội dân quân khá tinh nhuệ gần ba mươi người. Thảy đều là những thanh niên tình nguyện, trong đó có tôi. Sự có mặt của dân quân làm cướp cạn vùng này giảm đi rõ rệt.
Riêng với John, thấy bóng anh là tên vô lại nào sắp giở trò cũng phải nhanh chân chuồn mất. Cái chết của Ben Thẹo ngày nào vẫn còn là nỗi ám ảnh của bọn chúng. Nhưng có điều John chưa hài lòng là vẫn chưa chạm trán với Bill Scott. Qua lời kể, được biết băng đảng của chúng gồm sáu tên, đặc điểm: một tên chột mắt, một tên da đỏ, một tên cao lêu nghêu gần hai thước. Mấy tên kia không có gì lạ. Đặc biệt Bill Scott có gương mặt thật đẹp trai và trí thức đến nỗi nếu không biết trước thì không ai có thể ngờ đấy là một tên cướp giết người không gớm tay. Bọn chúng đều là những tay súng thiện nghệ mà trội hơn cả chính là Bill Scott. Có người bảo hắn thừa sức bắn trúng con ruồi bay cách xa trăm thước. Hẳn vì khiếp sợ hắn nên thêu dệt thế thôi, nhưng có thể ghi nhận tài cầm súng của Bill Scott chắc phải ngang ngửa với John chứ chẳng chơi (!).
Chúng cướp bóc hết vùng này sang vùng khác, mỗi nơi lâu lâu ghé một lần. Bọn chúng đã thăm viếng nhà nào thì nhà nấy phải mau mau lo nộp đủ yêu cầu của chúng, trái lời thì chỉ có nước hồn lìa khỏi xác. Nói chung, đây là một băng cướp lợi hại, không phải loại cướp vặt tầm thường.

Cuối cùng John cũng được toại nguyện. Một sáng kia, đúng một năm sau cái chết của Ben Thẹo, có mấy người dân quân và cả ông chủ quán Bò Vàng hối hả chạy đến tìm John. Hiện băng cướp của Bill Scott đang hiện diện đầy đủ tại quán này và đang cưỡng hiếp Nancy, con gái ông. Oái ăm thay, chính lúc ấy John vừa lên cơn sốt xong. Nước da xanh xao, trông anh sút đi thấy rõ. Vậy mà John vẫn tỏ ra vô cùng hăm hở khi nghe tin ấy. Đang trên giường bệnh, anh ngồi bật dậy ngay. Dù số quân đông hơn hẳn song chúng tôi không dám khinh địch vì đối phương nổi tiếng là những tay súng có hạng. Bởi thế, để tránh thiệt mạng tối đa cho anh em, kế hoạch John đề ra là phải đánh bất ngờ, đánh úp chúng.
Cái khó cho chúng tôi là trong tay bọn cướp còn có Nancy. Chúng có thể dùng nàng làm vật chắn khiến chúng tôi không dám bắn. Tóm lại, một trận đánh ác liệt sắp diễn ra. Trong trận đánh này nhiều người trong chúng tôi phải hy sinh. Đối với nhân dân thị trấn Bò Vàng này, ngày đó đã đi vào lịch sử và sống mãi trong ký ức. Tôi xin kể lại toàn bộ diễn biến trận đánh ấy...

"Sau khi nhanh chóng bố trí nhiều tay súng mai phục trên các ngả đường, quyết không cho tên cướp nào chạy thoát, John cùng tôi và tám người khác kéo ngay đến ngôi nhà lớn bên kia đường đối diện với quán Bò Vàng, chờ bọn cướp ló ra là giáng đòn phủ đầu. Chúng tôi chưa kịp ổn định vị trí thì từ trong quán, cả sáu tên của băng cướp lục đục kéo ra. Đấy là lần đầu tiên tôi và John thấy tận mắt những tên cướp khét tiếng kia. Thành phần của chúng đúng như lời kể. Tên da đỏ có bộ mặt thật đáng sợ. Chiếc mũi Bản thân hắn cũng lột da đầu nhiều người cũng nên. Tên chột lại càng chẳng đẹp đẽ gì. Chiếc băng đen bịt kín chiếc mắt hư cùng chiếc môi sứt và những vết thẹo chằng chịt trên mặt hắn làm hắn thật ghê tởm. Kẻ nào yếu bóng vía chẳng tài nào dám nhìn, sợ đêm về mơ. Đó là hai tên có bề ngoài thật khó ưa nhất. Những tên kia tương đối đỡ hơn. Song nói chung đều giống nhau ở điểm là toát ra vẻ sát khí lạnh lùng, ngoại trừ Bill Scott. Trời ! Người như thế lại là tướng cướp ư? Với vóc người đầy đặn, cân đối mà lại thêm gương mặt vô cùng trí thức, đẹp trai, phải nói hắn thừa sức chinh phục trái tim nhiều phụ nữ. Hắn lại xuất thân từ gia đình danh giá hẳn hoi. Vậy mà... Chúng tôi ai nấy đều chuẩn bị vào trận. Nhưng quái ác thay, điều chúng tôi lo ngại đã đến. Kề cạnh Bill Scott chính là cô Nancy xinh đẹp trong bộ quần áo rách tả tơi. Bị tên cướp ôm chặt, nàng khóc sướt mướt. Thì ra cưỡng hiếp nàng xong, chúng vẫn chưa muốn buông tha. Ôi giá không vướng Nancy thì chúng tôi đã khạc vào bọn côn đồ những loạt đạn căm thù ngay tức khắc. Tình thế thật khó xử...
- Các bạn cứ để tôi. Nhìn bọn cướp chuẩn bị lên ngựa đi - John ra hiệu cho chúng tôi đừng bắn gì.

Thế rồi chĩa ngay súng về phía quân thổ phỉ, John lấy cò.
Đoàng... Đoàng... Hai tiếng súng vang lên...
Vừa đặt lên mình ngựa, tên cao kều và gã độc nhãn rơi ngay xuống ngựa. Hai phát đạn cực kỳ chính xác của John đã loại khỏi vòng chiến đấu hai tên vô lại. Riêng tên chột bị đạn xuyên qua con mắt lành thành thử hắn phải về chầu trời với đôi mắt mù hoàn toàn!
Bị bắn bất ngờ, mấy tên kia lập tức rút súng bắn xối xả về hướng xuất phát những viên đạn sát hại đồng bọn chúng, khiến chúng tôi vội vàng náu mình. Người qua đường nhốn nháo. Một cụ già bị đạn lạc chết ngay. Thừa lúc ấy, bọn cướp phóng ngựa bỏ chạy. Hai tên chạy một đầu, tên da đỏ chạy đầu khác. Riêng Bill scott siết chặt Nancy lôi vào quán.
Phải công nhận bọn cướp chiến đấu rất ngoan cường. Trên đường đào tẩu chúng đã bị anh em dân quân phục sẵn hai bên đường truy kích liên tiếp. Với hai tên chạy một hướng, những phát đạn đầu của anh em đều trật trong khi đó chúng vẫn bình tĩnh bắn trả, giết chết bốn dân quân. Song ngày tàn của chúng cũng đã đến. Khi chúng cố gắng chạy thoát ra vùng đồi núi thì bắt đầu xơi đạn. Một tên bị lủng sọ bởi viên đạn của Mark Doighs, tay súng khá nhất trong đám dân quân. Tên kia dù không xơi đạn vào đầu nhưng cũng lãnh gần chục phát vào mình. Hắn lì lợm ôm ngựa chạy miết rồi mới chịu gục chết bên bờ sông.
Tên da đỏ thì sao? Thực tôi chưa thấy ai ghê gớm như hắn. Thân hình đẫm máu vì hàng loạt đạn hắn vẫn cố bắn trả, hạ sát ba dân quân. Sau đó hắn còn nhận thêm nhiều phát đạn nữa, đưa tổng số đạn đi vào người hắn hơn hai mươi viên!
Thân thể tên da đỏ chỉ còn là một đống thịt rách nát. Thế mà hắn còn gắng chạy thêm quãng nữa rồi mới chịu buông mình xuống ngựa. Các dân quân tưởng hắn đã chết, tiến lại gần thì hắn dốc hết tàn lực bóp cò, giết thêm một mạng người nữa xong mới chịu chết hẳn. Như vậy, để hạ được ba tên bỏ chạy, chúng tôi đã thiệt hại mất tám người. Nhưng đó chưa phải là tất cả. Để tiêu diệt trọn ổ bọn chúng, chúng tôi đã phải trả một giá đắt hơn nhiều..."

Tôi xin quay sang Bill Scott.
"Sau khi kéo Nancy vào lại trong quán, hắn, một mặt lấy nàng làm vật che chắn, mặt khác xả đạn như mưa về phía chúng tôi. Còn chúng tôi lại không làm gì khác hơn là ngồi im chịu trận. Cựa cựa một chút là nát sọ như chơi. Rất may là những viên đạn của tên cướp không chạm vào ai.
- Sớm muộn Bill Scott cũng phải thua - John nói, song có thể kết cục không đơn giản. Theo tôi, có khả năng xảy ra một trong hai điều: hoặc là Bill Scott buông súng quy hàng, hoặc là hắn sẽ buộc đối phương để hắn cùng Nancy ra đi mà không ai dám bắn theo. Điều thứ nhất khó xảy ra đối với một tên cướp sừng sỏ như hắn. Nhưng đúng như John dự tính, sự việc lại diễn ra theo hướng khác.
- Tao không ngờ vùng này dám trở mặt phản tao - Bill Scott nói lớn, giọng đầy căm giận - Tao sẵn sàng thả con bé ra với điều kiện đứa nào đã xách động bọn bay phải đấu súng với tao. Dưới vòm trời này chỉ nên có một con đại bàng.
- Được rồi - John lẩm bẩm - Năm ngoái cũng ngày này, cũng tại chốn này, Ben Thẹo đã bỏ mạng thì nay đến lượt mày.
- Đừng John! - Sợ John nhận lời đấu súng, tôi vội vàng can ngăn - Đừng quên cậu vừa sốt xong. Bình thường cậu có thể chọi với hắn, song lần này chỉ cần tay cậu kém nhạy đi một chút thôi.
- Đừng lo, James - John vẫn bình tĩnh như ngày nào - Đây cũng là điều hay vì nếu thoát được, hắn sẽ gây lại băng đảng khác và chúng ta chỉ thêm mệt. - Hay là... - Biết không thể nào ngăn được John, tôi đề nghị
- Hay là khi hai người sắp vào cuộc, chúng tôi sẽ đồng loạt xả đạn vào người hắn.
- Không được đâu - John lắc đầu - Rõ ràng với Nancy trong tay, hắn có thể thoát đi dễ dàng. Nhưng hắn đã không làm thế, nên ta cũng phải tỏ ra là kẻ biết chơi. Và anh lên tiếng nhận lời đấu súng với Bill Scott.

Như lần trước với Ben Thẹo, một lần nữa cả không gian lại đắm chìm trong im lặng. Có thể nghe thấy tiếng ruồi bay. Tất cả nín thở nhìn John và Bill Scott rời vị trí lừng lững bước ra đường. Cả hai đều mang vẻ nghiêm trọng, mắt gườm gườm nhau. Dù hoàn toàn tin tưởng vào John tôi vẫn thấy lo. Song như bao người khác, tôi chỉ biết bất lực câm lặng, chờ đợi.
Hai tay súng từ từ bước vào vị trí đối mặt, cách nhau hai mươi bước. Sự căng thẳng đã lên đến tột độ.
Trống ngực tôi đập thình thịch.
Thời gian như dừng lại...
Đất trời như muốn vỡ tung...
Và rồi nhanh như chớp, hai đối thủ cùng rút súng ra.

Đoàng... Một âm thanh xé tai vang lên, tưởng chừng như tiếng nổ của đất trời.
- Bill Scott đã chết! - Mọi người hét to. Thực vậy, một giây sau vang lên cái âm thanh xé tai ấy, thân hình Bill Scott đổ nhào xuống. Mặt hắn đầy máu. Hắn đã trúng đạn vào đầu. Còn John vẫn đứng nguyên, tay buông thõng khẩu súng đang nhả khói. Đối thủ của anh hoàn toàn nằm bất động. Thế là tàn đời một kẻ tàn bạo. Thế là xóa sổ một băng cướp sừng sỏ. Mối đe dọa lớn nhất của thị trấn Bò Vàng từ nay không còn nữa. Nụ cười rạng rỡ sung sướng nở rộ trên mặt bao người.

Nhưng niềm vui ấy không trọn vẹn, không bao giờ trọn vẹn. Phải, mọi người vừa đổ bu quanh xác Bill Scott thì John ôm ngực lảo đảo ngã gục.
Trời ơi, anh cũng trúng thương. Thì ra một viên đạn của Bill Scott cũng bay ra cùng lúc với John và trúng đích. Tôi bàng hoàng chạy đến bên John. Từ ngực anh máu tuôn ra như suối. Quả tim John luôn đeo nơi ngực bị thủng một lỗ tròn, viên đạn ác nghiệt của tên cướp đã đi xuyên qua nó và đi vào ngực John. Qua gương mặt nhợt nhạt và hơi thở yếu ớt của John, tôi biết anh chẳng sống bao lâu nữa.
- Ôi John của tôi - Tôi nức nở.
- Bạn James yêu quý... - John thều thào trăn trối - Tôi sắp ra đi... từ lâu tôi muốn gặp lại Susan. Sau khi tôi chết, bạn hãy đem trái tim tôi luôn đeo bên ngực đến đặt lên mộ nàng..., có lẽ tôi đã sống không tồi..., thuở còn sống, Susan luôn mong tôi được rạng rỡ với đời.

Đến nay, John đã an nghỉ ở vùng đất này được 10 năm. Gót chân phiêu lãng của anh mãi mãi đứng lại nơi đây. Những vòng hoa tưởng nhớ thường xuyên được mọi người đặt lên mộ anh.
Mười năm rồi... Vậy mà tôi cứ ngỡ như ngày hôm qua...
Trên quãng đời còn lại của tôi có thể sẽ thêm nhiều bạn nữa, có thể sẽ thêm nhiều kỷ niệm. Nhưng tôi tin chắc rằng người bạn tuyệt vời nhất đời tôi là John, những kỷ niệm tuyệt vời nhất đời tôi mãi mãi vẫn là những ngày tháng ngắn ngủi được sống bên cạnh chiếc xe ọp ẹp năm xưa, áo quần bẩn thỉu, tóc tai bù xù, anh cầm ngược cuốn Don Quichotte mà lật lật...

Giờ đây, khi John đã vĩnh viễn sang thế giới bên kia gặp lại người con gái của lòng mình, tôi tưởng chừng vẫn còn nghe đâu đây giọng ấm áp của anh ngày nào cùng tiếng đàn Banjo réo rắt:
Một mình nơi xa tít xa
Cây đàn xinh xắn vác trên bờ vai
Về nơi đây lang thang phất phơ
Đi tìm cô bé trót yêu lâu rồi....

Theo "THE ADVENTUROUS COWBOY"
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeThu May 31, 2018 12:26 am

.

Tên Trộm Hoàn Lương
O. Henry (1862-1910)


Viên cai ngục đến xưởng giày trong nhà giam, nơi Jimmy Valentine đang cần mẫn khâu mũi giày, để đưa anh ta lên phòng giám đốc. ở đấy, viên giám đốc nhà giam giao cho Jimmy tờ lệnh được tha vừa được ngài Thống đốc Tiểu bang phê chuẩn sáng nay. Jimmy thờ ơ cầm lấy tờ giấy, không nói gì. Anh bị kêu án bốn năm và đã ở đây được mười tháng. Đối với một người quen biết rộng như Jimmy thì cái án ấy chả bõ bèn gì, "xoay" một cái là ra ngay!

Ông Giám đốc nhà giam nói: - Thế nào, anh Valentine? Sáng mai anh được ra rồi đấy. Hãy tự răn mình và tỏ ra là một người đàn ông chân chính. Tôi biết tự thâm tâm anh không phải là người xấu. Hãy thôi đừng trộm két sắt nữa và cố sống cho nghiêm chỉnh xem nào.
- Thưa ngài, tôi ư? Tôi trộm két sắt ư? - Jimmy trố mắt, ngạc nhiên hỏi.
Ông Giám đốc cười: - Thôi đi! Hừ, không với chả có. Thế cái vụ ở Springfield ai làm? Tại sao anh phải vào đây? Anh thì chạy tội là giỏi nhất!
Jimmy vẫn tỉnh bơ chối: - Ái chà! Không đâu, thưa ngài. Tôi chưa bao giờ đặt chân tới Springfield cả.
Ông Giám đốc nhà giam dễ dãi cười, quay sang bảo người cai ngục:
- Cronin, anh đưa cậu ta về phòng. Báo chuẩn bị đồ đạc phóng thích cho cậu ta và bảy giờ sáng mai đưa cậu ta đến đây. Valentine! Hãy nhớ lời tôi nhé!
Bảy giờ mười lăm phút sáng hôm sau. Valentine đứng trước cửa nhà giam. Anh mặc một bộ complet cắt thật vụng về, chân mang đôi giày cứng nhắc thường phát cho những người tù được phóng thích.
Hồi nãy, viên thư ký nhà giam đưa cho anh một vé tàu và năm đô-la với hi vọng của nhà nước rằng với số tiền ân huệ ấy, anh sẽ có thể làm lại cuộc đời trở nên một công dân lương thiện. Ông Giám đốc nhà giam mời anh điếu xì gà rồi bắt tay thật chặt. Valentine, người tù số 9762, được vào sổ như sau: "Lệnh tha của Thống đốc".

Thế là Jimmy Valentine đường hoàng trở về với những con đường đầy ánh nắng. Chẳng màng đến tiếng chim hót líu lo, đến cành lá xanh tươi đang vẫy gọi bên đường, đến hương hoa thơm ngát từ khu vườn gần đấy, Valentine đi một mạch đến quán ăn. Tại đây, anh tận hưởng hương vị tuyệt vời của tự do bằng cách chén sạch nguyên con gà quay vàng rộm, uống cạn chai vang trắng, rồi khoan khoái phì phà điếu xì gà đắt tiền, đắt hơn nhiều so với điếu của viên Giám đốc nhà giam vừa tặng. No nê, thỏa mãn, anh nhàn tản đi đến nhà ga, điệu nghệ búng đồng xu con vào chiếc nón của người hành khất mù đứng trước sân ga, rồi nhanh nhẹn lên tàu.
Ba tiếng đồng hồ sau đó, anh xuống tàu ở một ga nhỏ hiu quạnh, nằm gần ranh giới tiểu bang. Dừng chân ở quán cà phê mang tên Mike Dolan, Jimmy bước vào thân mật tay bắt mặt mừng ông chủ quán đang đứng sau quày.
Ông chủ quán nói:
- Xin lỗi cậu, Jimmy, tớ không thể xoay sở sớm hơn được. Có ý kiến phản đối việc tha cậu ở Springfield nên tay Thống đốc Tiểu bang rét quá suýt nữa hắn thôi không giải quyết đấy. Thế nào, khỏe chứ?
Jimmy cười: - Khoẻ. Có chìa khóa cho tôi không đấy?
Cầm lấy chìa khóa, Jimmy lên lầu, ra mãi căn phòng nhỏ phía sau. Đồ vật trong phòng vẫn y nguyên. Trên sàn nhà vẫn còn hột nút áo của ông Chánh thanh tra Ben Price, lúc ông ấy cùng đám cảnh sát dưới quyền ập vào túm lấy anh. Hạ chiếc giường xếp xuống, Jimmy mở ngăn bí mật trong vách, lấy ra chiếc vali bám bụi. Anh thận trọng đặt lên bàn, mở nắp, rồi đứng im, khoan khoái ngắm bộ đồ nghề mở két sắt độc nhất vô nhị của anh, bộ đồ nghề mở két hữu hiệu nhất miền Đông nước Mỹ. Nó đầy đủ các cơ phận, làm bằng loại thép cứng nhất, thiết kế theo mẫu mới nhất. Nào khoan, nào đục, nào kẹp, nào kềm, có một số bộ phận do đích thân Jimmy vẽ kiểu. Anh rất tự hào về bộ đồ nghề này. Anh đã phải trả hết 900 đô để đặt làm theo ý riêng của mình ở một chỗ chuyên làm dụng cụ cho giới giang hồ.
Nửa giờ sau, Jimmy xuống lầu, ra cửa. Giờ đây, anh mặc bộ complet vừa vặn, kiểu mới, tay xách chiếc vali.
Người chủ quán nháy mắt, hỏi:
- Đi làm sớm thế?
- Làm gì? - Jimmy ra bộ ngơ ngác, - Ơ hay, cái cậu này. Tôi chỉ là một nhân viên công ty bánh ngọt và chế biến lương thực New York đấy, nhớ chưa? Người chủ quán gật lia lịa, rối rít mời Jimmy uống rượu, nhưng anh từ chối, Jimmy không bao giờ uống rượu.

Một tuần sau ngày Valentine, người tù số 9762, được phóng thích, một vụ trộm lớn được tiến hành rất khéo ở Richmond, bang Indiana. Không một dấu vết để lại. Hai tuần sau, lại thêm một vụ khác. Lần này chiếc két bị trộm là loại hiện đại nhất, có gắn cả thiết bị báo động chống trộm, thế mà cánh cửa dày cộm của nó vẫn bị mở toang như người ta mở cửa sổ đón gió hè. Vụ trộm này xảy ra ở Logansport, số của cải bị mất trộm trị giá khoảng 1500 đô, trong tủ còn có nhiều hối phiếu và tiền xu lẻ nhưng không hề bị tên trộm mó tay vào.
Cảnh sát bắt đầu quan tâm, nhưng mãi đến vụ trộm ở ngân hàng Jefferson City, số thất thoát lên cao, thì ông Chánh thanh tra Ben Price mới chịu xuất quân. So sánh dấu vết tại hiện trường, ông phát hiện ngay một nét tương tự về phong cách thực hiện của các vụ án.
Ông tuyên bố:
- Chính thằng Jimmy Valentine chứ không ai khác! Hắn lại giở trò rồi đấy. Xem cái núm khóa kia kìa - nó bị kéo tung ra cứ như người ta nhổ củ cải vào tháng mưa ấy. Kiểu ấy thì chỉ có cái kích hiện đại của thằng Valentine mới làm nổi thôi. Lại xem mấy thanh ngang kia kìa, chỉ khoan có một lỗ là bung ngay thế kia thì ngoài thằng Valentine ra chẳng có ai làm nổi!
Ông Ben Price đã thuộc lòng tính nết Jimmy. Ông nắm cả những thói quen nhỏ nhất của tên trộm tài hoa này qua những lần điều tra vụ cướp ở Springfield vừa qua. Jimmy thường đánh theo lối nhảy cóc. Đánh nhanh, rút lẹ, lẩn đi thật xa, rồi lại ra tay tiếp, lần sau táo bạo hơn lần trước. Hắn không cần phụ tá. Giới chủ ngân hàng phần nào nhẹ nhõm khi nghe tin ông Ben Price lại lên đường lần theo dấu vết tên trộm quỷ quái ấy. Một chiều nọ, Jimmy Valentine tay xách vali, xuống xe tại một thị trấn nhỏ, tên là Elmore. Đấy là một thị trấn hẻo lánh, cách đường xe lửa xuyên Mỹ trên năm dậm, thuộc bang Arkansas. Trông anh ta như một sinh viên năm cuối bậc đại học, thích thể thao, đang trên đường về quê thăm nhà. Bước chậm rãi trên lề đường lót ván, anh dừng chân ở khách sạn.

Bỗng một thiếu nữ băng qua đường, đi ngang trước mặt anh, rồi rẽ vào căn nhà có treo tấm biển "Ngân hàng Elmore". Tình cờ cô liếc mắt nhìn anh. Thế là tâm hồn anh như choáng ngợp bởi ánh mắt diệu kỳ ấy, đầu óc bay bổng tận đâu đâu. Anh như đã biến thành một người nào khác. Cô thiếu nữ thẹn thùng cúi gầm mặt, hai má ửng hồng. Chả lẽ ở Elmore này, ăn vận như thế,... đẹp trai như thế, hiếm lắm!
Jimmy vội túm ngay lấy một cậu bé con đang ngồi chơi trên bậc thềm gần đấy, giả vờ đang có ý muốn mua cổ phiếu của ngân hàng ở đây, nên phải hỏi để nắm tình hình. Cứ mỗi câu hỏi, anh ta lại giúi vào tay cậu bé đồng mười xu. Một lúc sau, cô gái đi ra, lần này không thèm để mắt đến chàng trai tay xách vali vẫn còn đứng đấy.
Jimmy nháy mắt, hỏi cậu bé:
- Hình như là cô Polly Simpson đấy phải không?
- Không đâu, chính là cô Annabel Adams đấy chứ. Bố cô ấy là chủ ngân hàng này.
Jimmy đến khách sạn gần đấy, đăng ký mướn phòng với tên Ralph Spencer. Anh nhẩn nha ở quày tiếp tân, gợi chuyện với anh nhân viên khách sạn, nói cho anh ta hay rằng mình muốn ở lại thị trấn Elmore này để làm ăn bằng việc kinh doanh giày, liệu có sống nổi không?
Người nhân viên tiếp tân nhìn vẻ bên ngoài bảnh bao của Jimmy ra dáng kính nể.
Anh ta nhiệt tình cho biết:
- Vâng, mở hàng giày ở đây sống lắm! Hiện ở đây chưa có nơi nào kinh doanh giày cả. Trước nay mặt hàng này chỉ được bày bán ở cửa hàng tạp hóa và vật tư ở đằng kia. Việc kinh doanh buôn bán tại đây đang có chiều hướng phát triển khá. Hi vọng rằng sau khi cân nhắc thiệt hơn, ông sẽ quyết định lập nghiệp ở đây. Dân cư nơi đây hiền và hiếu khách lắm!
Jimmy cười: - Vâng. Cảm ơn nhiều. Tôi sẽ ở lại vài ngày xem sao. ồ, không cần gọi bồi làm gì, tự tôi xách lấy được rồi.
Thế là Ralph Spencer, con phượng hoàng thoát xác cất cánh lên cao từ đống tro tàn của người tù Valentine - đống tro tàn phát xuất từ ngọn lửa tình nồng cháy qua lần đầu gặp gỡ. Jimmy quyết định lập nghiệp ở thị trấn nhỏ tên Elmore này. Hiệu giày của anh hoạt động tốt, có lãi.
Về mặt quan hệ xã hội, Jimmy cũng thành công không kém, anh quen biết nhiều, và hơn cả, sở nguyện của anh cũng đã thành. Annabel Adams nay là bạn anh và tình cảm của anh dành cho nàng ngày càng say đắm. Đến cuối năm ấy, có thể tóm tắt hoàn cảnh sống của chủ hiệu giày Ralph Spencer như sau: anh được hầu hết cư dân trong thị trấn tin yêu, cửa hàng giày của anh ngày càng thịnh vượng. Trên tất cả, anh vừa đính hôn với cô Annabel Adams và đám cưới sẽ cử hành trong hai tuần nữa. Ông Adams, chủ ngân hàng Elmore, bố vợ tương lai của anh, rất hài lòng với chàng rể quý. Phần Annabel, cô yêu anh bao nhiêu thì quý trọng anh chừng ấy. Lúc này, Ralph Spencer gần như là thành viên chính thức của gia đình Adams. Ngày nào anh cũng đến chơi nhà bố vợ và nhà cô chị của Annabel.

Một hôm, Jimmy ngồi viết thư cho một người bạn ở St. Louis:
Billy thân mến,
Tớ muốn tối thứ tư tới đây, lúc chín giờ, cậu đến quán Sullivan ở Little Rock gặp tớ. Nhờ cậu giúp cho một việc. Ngoài ra, tớ muốn tặng cậu bộ đồ nghề của tớ. Tớ biết cậu khoái muốn chết khi có được một bộ như thế, làm bộ khác phải mất hơn nghìn đô-la là cái chắc. Billy ạ, tớ đã bỏ nghề rồi - được hơn năm nay. Hiện tớ đang có một cửa hàng, một cuộc sống lương thiện và hai tuần nữa tớ sẽ làm đám cưới với một cô gái tuyệt diệu nhất trên đời này. Cậu biết không? Tớ đã nhận thức rằng chỉ lương thiện mới sống đời được, và tớ đã nhất quyết từ nay sẽ không tơ hào của ai một đồng xu nhỏ. Cưới vợ xong, tớ sẽ bán tất rồi dọn về miền Tây sinh sống, chỉ ở đấy mới hi vọng tớ sẽ không bị quấy rầy vì những tai tiếng cũ của mình. Tớ nói thật đấy! Vợ tớ đúng là một nàng tiên. Nàng tin ở tớ hết lòng và chính vì thế tớ sẽ cố hết sức không làm một điều gì để phụ lòng tin ấy.
Nhớ đến quán Sully's nhé. Tớ cần cậu lắm, và tớ sẽ đem bộ đồ nghề đến cho cậu.
Bạn cậu,
Jimmy

Vào tối thứ hai ấy, lúc Jimmy đang ngồi viết những dòng cuối cùng gởi cho bạn, thì Ben Price ngồi lắc lẻo trên chiếc xe ngựa thồ chạy đến Elmore.
Đến nơi, ông lặng thinh, kín đáo rảo quanh một vòng để nắm tình hình qua chiếc gương trong cửa hàng tạp hóa nằm đối diện với tiệm giày của Ralph Spencer. Ông chăm chú quan sát thật kỹ dung mạo và dáng điệu của ông chủ trẻ.
Ben Price thích thú cười:
- Thế đấy, Jimmy, chú mày lại sắp đi cưới con gái chủ ngân hàng cơ đấy!
Sáng hôm sau, Jimmy đến dùng điểm tâm bên nhà vợ. Hôm nay, anh định đi Little Rock để sắm sửa mấy món đồ chuẩn bị cho đám cưới và mua một món quà thật đáng giá cho Annabel. Kể từ lúc định cư ở Elmore đến nay, đây là lần đầu tiên anh rời thị trấn đi xa. Có lẽ không hề gì, vì tính từ vụ "làm ăn" cuối cùng đến nay đã ngót một năm rồi.
Điểm tâm xong, cả nhà Annabel đều kéo nhau đi tiễn chân Spencer - ông Adams, Annabel, cả cô chị của Annabel cùng hai cô gái nhỏ mới lên năm và lên chín. Họ đến khách sạn nơi Jimmy ở để anh lấy hành lý - chiếc vali dạo ấy. Rồi tất cả kéo nhau đến ngân hàng. Ở đấy, xe ngựa đang chờ Jimmy cùng với người xà ích tên Dolph Gibson để đưa anh ra ga.
Ông Adams mời chàng rể quý vào ngân hàng chơi chốc lát, ông muốn khoe mọi người chiếc tủ sắt hiện đại ông vừa cho lắp đặt xong dưới tầng hầm. Đám nhân viên ngân hàng cúi chào anh răm rắp.
Đấy là một két sắt khá lớn được gắn chìm vào vách. Cửa tủ rất chắc chắn, mỗi lần quay tay nắm là ba thanh thép lớn đâm sâu, gắn chặt vào vách tủ. Trên cửa còn có cả núm khóa hẹn giờ tự động. Ông Adams phổng mũi giải thích những tính năng hiện đại của chiếc két sắt cho chàng rể quý, nhưng anh ta tỏ ra không quan tâm lắm. Hai bé gái, cháu May và Agatha, con gái của người chị Annabel, tỏ vẻ thích thú lắm. Chúng trố mắt nhìn lớp thép bóng loáng, mấy núm điều khiển tròn xoe trên cửa.
Trong khi mọi người đang lắng nghe ông Adams giải thích về cách đóng mở cửa, Ben Price từ từ bước vào, ông ta tì tay lên mặt quày bình thản nhìn quanh. Cô nhân viên đến hỏi, ông đáp đang chờ người quen.
Bỗng có tiếng phụ nữ la thất thanh, không khí hoảng hốt bao trùm lấy khu hầm để tủ sắt. Nhân lúc người lớn đang ham chuyện, cô bé May, chín tuổi, đùa nghịch đẩy Agatha vào trong tủ rồi đóng sập cửa lại. Cô bé còn bắt chước ông ngoại, kéo tay khóa rồi vặn mấy núm điều khiển trên cửa.
Ông Adams vội nhào đến chụp lấy tay nắm lay mạnh, nhưng muộn rồi. Ông hốt hoảng kêu lên:
- Chết rồi! Không tài nào mở được. Lại chưa kịp chỉnh số hẹn giờ mới chết!
Người mẹ thất đảm hét lớn.
Ông Adams run rẩy trấn an con gái:
- Giữ bình tĩnh đi nào! Agatha cháu ơi! - Ông cố gọi thật lớn - Cháu nghe ông nói không? Trong bầu không khí im lặng đến nghẹt thở, mọi người nghe rõ tiếng khóc la của cô bé đang bị nhốt trong hầm tối.
Người mẹ khóc nức nở, cuống quýt lên: - Ôi, phải làm gì kia chứ! Hãy phá cửa ra ngay!
Ông Adams thất vọng, lắc đầu: - Con ơi, phải đến mãi Little Rock mới có người mở được loại cửa này. Ông Ralph Spencer, ta phải làm sao đây? Con bé đến chết mất! Trong ấy ngộp lắm và đầy bóng tối nữa, con bé đến chết vì khiếp sợ thôi!
Người mẹ lúc này như phát cuồng lên, chị đập mạnh đôi tay yếu ớt vào cánh cửa thép nặng nề dầy cộm như muốn phá tung nó ra để cứu con mình. Có người hoảng quá, định lấy cốt mìn phá cửa. Nhưng làm như vậy thì còn gì cháu bé bên trong.
Annabel ngước mắt nhìn Jimmy, ánh mắt khẩn khoản đầy hi vọng. Hi vọng, vì đối với nàng, người yêu của nàng có thể làm được tất cả, ngay cả những điều kỳ diệu nhất.
- Anh Ralph, hãy giúp chị ấy đi anh.
Jimmy nhìn sâu vào mắt nàng, miệng nở một nụ cười khó hiểu. Đối với anh, yêu cầu của nàng chính là mệnh lệnh của trái tim anh. Anh nói:
- Annabel, em hãy cho anh đoá hồng trên áo em.
Cô bỡ ngỡ, không tin vào tai mình, nhưng vẫn đưa tay gỡ lấy cánh hồng trên áo, trao cho người yêu.
Jimmy cẩn thận cài cánh hồng vào túi, rồi bắt đầu xắn tay áo. Chính qua hành động xắn áo ấy, nhân vật Ralph Spencer đã chết, và tên trộm tài danh Jimmy Valentine đã trỗi dậy từ đống tro tàn quá khứ.
Anh nói ngắn, gọn: - Mọi người tránh ra hết đi!
Anh mở toác chiếc vali mang theo. Và từ lúc ấy đối với anh, chung quanh như không có ai. Bằng những hành động rất chính xác, nhanh gọn, anh lấy đồ nghề ra, sắp xếp theo thứ tự sử dụng, vừa làm vừa huýt sáo nho nhỏ. Đấy là một thói quen cố hữu của anh lúc đang "hành sự".
Mọi người nhìn anh trân trối. Chỉ một phút sau, mũi khoan nhỏ của Jimmy ăn thật ngọt vào cánh cửa thép. Mười phút sau, cánh của mở toang. Anh đã phá cả kỷ lục chính anh lập nên qua các lần mở trước.
Cô bé Agatha té xỉu trong vòng tay mẹ. Không việc gì.
Jimmy Valentine cầm lấy áo khoác vắt trên ghế đi nhanh ra cửa. Anh nghe có tiếng kêu "Anh Ralph!" thật thân thương nhưng xa vắng làm sao. Anh vội bước đi.

Bỗng có người chắn lối anh đi.
Jimmy cười, vẫn nụ cười khó hiểu ấy: - A, xin chào ông Ben. Ông đã đến đấy ư? Thôi ta đi nào, đến mãi bây giờ tôi mới thấy được rằng cuộc sống thật phù du vô ích.
Nhưng ông Ben Price cứ đứng yên. Ông ta nói:
- Ông Ralph Spencer, ông nhầm rồi đấy! Tôi không hề quen ông. Hình như xe đang chờ ông ngoài ấy?
Nói xong, ông quay lưng đi thẳng.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeMon Jun 04, 2018 12:12 am

.

Những Quả Tim Và Những Bàn Tay

Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910)


Tại nhà ga Denver có một nhóm hành khách đổ xô lên chuyến tàu tốc hành của hãng B&M đi về miền đông. Trong một ngăn toa, một cô gái trẻ rất đẹp, ăn mặc thanh lịch, đang ngồi giữa những tiện nghi xa xỉ dành cho hành khách thường phải di chuyển. Trong số những người mới lên tàu là hai người đàn ông; một người điển trai với vẻ mặt và cử chỉ hiên ngang và thẳng thắn; người kia bù xù, mặt lầm lì, cao lớn, quần áo lôi thôi lếch thếch. Cả hai bị còng tay lại với nhau.

Khi hai người đi dọc theo hành lang trong toa tàu để tìm chỗ ngồi, họ thấy chỉ có băng ghế đối diện với cô gái là còn trống. Hai người ngồi xuống đấy. Cô gái liếc nhìn họ trong một thoáng xa xôi không bận tâm, rồi, với một nụ cười dễ mến làm gương mặt cô sáng lên và một màu hồng dịu ánh trên đôi má, cô chìa ta một bàn tay nhỏ ủ trong một chiếc găng tay màu xám.
Khi cô nói với giọng ngọt ngào và từ tốn, ta có thể nhận ra là cô đã từng nói với người nghe, và từng nghe người nghe đó nói:
- À, anh Easton, nếu anh cho phép em được mở lời, em xin nói. Có khi nào anh nhận ra bạn cũ anh đã gặp ở miền Tây không?
Người trai trẻ hơi giật nẩy người khi nghe giọng nói, dường như có một chút bối rối nhưng kịp trấn tĩnh ngay được, rồi đưa bàn tay trái của anh nắm lấy những ngón tay của cô. Anh mỉm cười:
- Đây là cô Fairchild. Xin lỗi cho tay phải, hiện đang bận.
Anh nâng bàn tay phải của anh lên một tí, với cái "số tám" bóng loáng cột chung vào bên trái của người đồng hành. Ánh mắt đang tươi vui của cô gái dần đổi thành nét hãi hùng hoang mang. Màu hồng mờ dần trên đôi má cô. Đôi môi cô hé mở trong vẻ đau khổ mơ hồ. Easton, với tiếng cười nhỏ như thế lấy làm vui thú, định cất tiếng tiếp khi người kia cắt ngang.
 
Con người lầm lì đã quan sát nét mặt của cô gái qua khoé mắt sắc sảo của anh.
- Cô à, tôi xin lỗi đã chen vào câu chuyện, nhưng tôi thấy là cô có quen biết với sếp Sĩ quan Tư Pháp (marshal - cấp chỉ huy có nhiệm vụ thi hành án toà như tầm nã tội phạm, giải tù nhân, và các nhiệm vụ khác mà toà án phán quyết) này. Nếu cô yêu cầu sếp nói giúp tôi một tiếng khi chúng tôi đến nơi, ông ấy sẽ sẵn lòng, và như vậy sẽ đỡ cho tôi rất nhiều. Ông ấy đang giải tôi đến nhà tù Leavenworth. Tôi bị bảy năm vì tội làm bạc giả.
Cô gái thở phào, nét hồng trở lại trên gương mặt cô.
- À! Thế là anh đang thi hành nhiệm vụ đấy à? Một Sĩ quan Tư Pháp!
Easton nói giọng nhẹ nhàng:
- Em Fairchild mến, anh phải làm việc gì đấy. Tiền có thể làm ra tất cả, và em biết đấy, phải có tiền để theo kịp với đám đông ở Washington. Anh thấy có thông báo tuyển dụng ở miền Tây và... à, cái chức sĩ quan Tư Pháp không được cao như Đại Sứ, nhưng...
Giọng cô gái ấm đi:
- Chức đại sứ không còn kêu nữa. Anh hẳn biết điều ấy. Và bây giờ anh là một trong số những anh hùng miền Tây xông pha đấy, anh cưỡi ngựa, bắn súng và lăn xả vào mọi hiểm nguy. Khác với cuộc sống ở Washington. Đám bạn bè cũ hẳn phải nhớ nhung anh đấy. Đôi mắt cô gái mở to, trầm trồ nhìn chiếc còng tay sáng bóng.
Người đàn ông kia nói:
- Cô ạ, cô đừng lo cho họ. Mọi sĩ quan Tư Pháp đều phải bị còng chung với tù nhân để giữ cho tù không trốn thoát. Ông Easton biết rõ nhiệm vụ của ông ấy.
Cô gái hỏi: - Em có thể gặp lại anh ở Washington không?
Easton nói: - Phải còn lâu. Anh e rằng thời bay nhảy của anh đã qua rồi.
- Em yêu miền Tây. Cô gái nói, không có vẻ gì liên quan đến câu chuyện. Đôi mắt cô long lanh dìu dịu.

Cô nhìn ra ngoài cửa sổ toa tàu. Cô bắt đầu nói một cách chân thật và giản đơn, không còn lớp bóng loáng của kiểu cách và cử chỉ:
- Mẹ em và em đi nghỉ hè ở Denver. Bà trở về nhà tuần trước vì cha đang bệnh. Em có thể sống mà cảm thấy hạnh phúc ở miền Tây. Em nghĩ khí hậu ở đây hợp với em. Tiền bạc không phải là tất cả. Nhưng thiên hạ luôn luôn lẫn lộn nhiều việc và vẫn thường ngu xuẩn...
Con người lầm lì cắt ngang:
- Nè ông sĩ quan, như vậy là không công bằng gì hết! Tôi cần uống thức gì đó, với lại cả ngày chưa được hút điếu nào. Ông nói chuyện xong chưa? Ông dẫn tôi đi vào toa hút thuốc đi chứ! Tôi thèm gần chết một điếu thuốc.

Cả hai hành khách bị còng tay vào nhau đứng dậy, Easton với cùng nụ cười chậm chạp trên môi.
Anh nói nhỏ: - Anh không thể từ chối lời yêu cầu về thuốc lá. Nó là bạn của kẻ xấu số. Xin chào em Fairchild. Vì nhiệm vụ, mong em hiểu nhé!
Anh đưa bàn tay để từ giã.
Cô lại tròng vào kiểu cách và cử chỉ:
- Tiếc quá anh không đi về phía đông, nhưng em đoán anh phải đi Leavenworth.
- Đúng thế. Anh phải đi Leavenworth.
Hai người lướt dọc hành lang về phía toa hút thuốc.

Hai hành khách ngồi gần đấy đã nghe hầu hết câu chuyện.
Một người nói:
- Ông Sĩ quan ấy thật tế nhị. Một vài anh miền Tây xem ra có vẻ được đấy.
Người kia nói:
- Nhưng trông tuổi còn khá trẻ so với chức vụ ấy phải không?
- Còn trẻ á? Tại sao... Ô hay! Anh không để ý sao? Anh có bao giờ biết một sĩ quan Tư pháp nào lại còng tội phạm vào tay phải của họ không?
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeWed Jun 13, 2018 11:28 am

.

Hai mươi năm sau
Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910)


Viên cảnh binh đi tuần ngược đường phố một cách oai vệ. Vẻ oai vệ đó là thông thường, không phải để phô trương, vì khán giả rất ít, mới có gần mười giờ tối, nhưng những cơn gió lạnh lẽo pha chút mùi vị mưa đá làm cho phố phường hầu như hoang vắng.
Vừa đi xem xét các cửa ngõ, tay quay chiếc dùi cui theo những động tác rắc rối và khéo léo, thỉnh thoảng lại xoay người đưa cặp mắt soi mói nhìn suốt đường phố yên tĩnh, viên cảnh binh với vóc người lực lưỡng và dáng đi hơi có vẻ nghênh ngang là hình ảnh đẹp đẽ của kẻ bảo vệ an ninh. Khu phố này người ta thường đi ngủ sớm. Thỉnh thoảng cũng thấy có ánh đèn của một quầy bán thuốc lá hoặc một tiệm ăn mở suốt đêm; nhưng phần lớn các cửa hàng đã đóng kín từ lâu.

Đến khoảng giữa một dãy nhà nọ, viên cảnh binh bỗng chậm bước lại, một người đàn ông đang đứng dựa vào khung cửa một hiệu bán đồ sắt tối om, miệng ngậm một điếu xì gà chưa châm. Khi viên cảnh binh tiến về phía hắn, người đó vội nói nhanh:
- Không có gì cả đâu, thầy đội ạ, – hắn nói cho viên cảnh binh yên lòng. – Tôi đang đợi một người bạn đấy thôi. Đây là một cuộc hẹn hò từ hai mươi năm trước. Thầy đội nghe chắc cũng chẳng lạ có phải không? Vâng, tôi xin kể cho thầy đội nghe để thầy đội thấy rõ là không có gì khuất tất. Cách đây cũng khoảng thời gian hai mươi năm, ở nơi cửa hiệu này có một quán ăn.
- Quán ăn của ‘Big Joe’ Brady. Đúng, cách đây năm năm người ta mới phá nó đi, – viên cảnh binh nói.
Người đàn ông đứng trong khung cửa đánh một que diêm châm điếu xì gà. Ánh sáng cho thấy rõ bộ mặt tai tái, quai hàm vuông, cặp mắt sắc sảo và một vết sẹo trắng nhỏ gần lông mày bên phải. Chiếc ghim cài khăn quàng của hắn ta là một viên kim cương lớn ghim một cách kỳ quặc.

- Cũng đêm này hai mươi năm trước đây, – hắn nói, – tại quán ăn của ‘Big Joe’ Brady, tôi đã ăn bữa tối với Jimmy Wells, thằng bạn thân nhất của tôi, một tay tốt bụng nhất trên đời. Nó với tôi cùng lớn lên ở New York này như hai anh em. Tôi mười tám tuổi còn Jimmy hai mươi. Sáng hôm sau tôi phải đi miền Tây để làm ăn. Không thể nào kéo Jimmy ra khỏi New York được, nó cho rằng nơi đây là nơi duy nhất trên thế giới. Phải, đêm ấy chúng tôi đã thỏa thuận với nhau rằng kể từ ngày ấy, giờ ấy, đúng hai mươi năm sau, chúng tôi sẽ gặp lại nhau ở đây, dù cho hoàn cảnh chúng tôi khi đó là thế nào đi nữa, dù có phải vượt đường xa đến đâu đi nữa, chúng tôi đã tính ra rằng, trong hai mươi năm, dù có thế nào thì số phận mỗi đứa chúng tôi cũng đã an bài, cơ đồ mỗi đứa chúng tôi cũng đã ổn định rồi.
- Nghe hay đấy nhỉ, – viên cảnh binh nói. – Dẫu sao thì thời gian giữa hai cuộc gặp kể cũng là khá dài. Thế từ khi ra đi anh có được tin gì về bạn anh không?
- A, có, chúng tôi có viết thư cho nhau một thời gian, – người kia nói, – nhưng được một hai năm sau chúng tôi bặt tin nhau. Thầy đội cũng biết đấy, miền Tây là một nơi khá hắc búa, tôi đã phải ngược xuôi khá vất vả. Song tôi biết nếu Jimmy nó còn sống thì thế nào nó cũng đến gặp tôi ở đây vì nó luôn luôn là một thằng bạn trung hậu và thành thật nhất đời, nhất định nó sẽ không quên. Tôi đã đi một nghìn dặm đến đứng ở cái cửa này đêm nay, nhưng nếu thằng bạn cũ của tôi mà đến đây thì cũng thật bõ công.
Người đang đợi rút ra một chiếc đồng hồ rất sang, vỏ nạm những hạt kim cương nhỏ. - Mười giờ kém ba phút, – hắn nói to, – chúng tôi chia tay nhau ở quán này đây đúng lúc mười giờ.
- Anh làm ăn ở miền Tây khá chứ? – viên cảnh binh hỏi.
- Thầy đội nói đúng! Tôi mong thằng Jimmy bằng được một nửa của tôi là tôi mừng rồi, nhưng tốt bụng như nó thì nó thuộc vào loại làm ăn cần cù, vất vả. Tôi đã phải đến với những tay lão luyện hạng nhất mới kiếm ăn được. Ở New York con người sinh ra thủ cựu. Phải là miền Tây thì mới làm cho con người ta sắc như lưỡi dao cạo được.
Viên cảnh binh múa cái dùi cui, bước đi một hai bước.
- Tôi phải đi đây, mong rằng bạn anh thế nào cũng tới. Anh chỉ đợi anh ta đến đúng giờ hẹn thôi chứ?
- Không, – người kia nói, – ít nhất tôi cũng sẽ đợi nó nửa giờ. Nếu Jimmy còn sống trên quả đất này, thì vào giờ ấy thế nào nó cũng đến. Chào thầy đội.
- Chào anh, – viên cảnh binh nói, rồi lại tiếp tục đi tuần, vừa đi vừa chú ý xem xét các cửa ngõ.

Lúc này trời mưa bụi, lạnh lẽo và gió lúc nãy thổi từng cơn ngập ngừng thì bây giờ đã nổi lên, thổi đều và mạnh. Một vài khách bộ hành còn đi lại trong khu phố vội vã rảo bước, lặng lẽ âm thầm, cổ áo choàng kéo cao, hai tay thọc vào túi. Và ở cửa hiệu bán đồ sắt, con người đã vượt một nghìn dặm để giữ đúng một lời hẹn hò vu vơ đến mức gần như vô lý, với một người bạn thời trẻ của mình, vẫn đứng hút thuốc và chờ đợi.
Được chừng hai mươi phút thì một người cao lớn mặc áo khoác dài, cổ kéo lên đến tận tai từ phía bên kia đường, hớt hải chạy sang.
Hắn đi thẳng tới chỗ người đang đứng đợi. - Bob đấy ư? – hắn hỏi một cách nghi hoặc, ngờ vực.
Người đứng trong cửa kêu lên: - Jimmy Wells, mày đấy à?
- Trời ơi! – Người mới đến kêu to, nắm chặt cả hai bàn tay người kia.
– Đúng là Bob đây rồi. Tao tin chắc rằng nếu mày còn sống thì thế nào cũng gặp mày ở đây. Phải, phải, hai mươi năm quả thật là dài. Bob này, quán ăn cũ mất rồi, ước gì nó vẫn còn để chúng mình lại đánh chén một bữa nữa ở đây, miền Tây đối với mày như thế nào, ông bạn?
- Tuyệt! Miền Tây đã cho tao tất cả những gì tao muốn. Mày thay đổi nhiều quá đấy. Jimmy ạ. Tao không ngờ mày lại cao thêm lên đến bốn năm phân.
- Ờ, sau năm hai mươi tuổi, tao có lớn thêm một chút.
- Ở New York mày làm ăn khá chứ, Jimmy?
- Tiềm tiệm thôi, tao làm ở một công sở của thành phố. Đi thôi, Bob chúng ta sẽ tới một chỗ tao quen, rồi chúng ta sẽ nói chuyện lâu với nhau về thời xưa.

Hai người khoác tay nhau đi ngược đường phố. Người từ miền Tây tới mà thành công đã làm cho tự cao tự đại thêm, bắt đầu nói sơ qua về lịch sử làm giàu của mình. Người kia tùm hụp trong chiếc áo khoác, chăm chú lắng nghe.
Ở góc phố có một hiệu tạp hóa, đèn điện sáng trưng. Khi họ bước tới chỗ ánh sáng chói lòa ấy, cùng một lúc cả hai đều quay lại nhìn chằm chằm vào mặt nhau.
Người từ miền Tây đến bỗng đứng sững lại và rút tay ra.
- Mày không phải là Jimmy Wells, – hắn kêu lên. – Hai mươi năm lâu thật đấy, nhưng cũng chưa đủ để thay đổi mũi của một con người, từ một cái mũi dọc dừa thành một cái mũi ống nhổ được.
- Đôi khi thời gian ấy đã biến một người tốt thành xấu đấy, – người cao lớn nói. – Mày đã bị bắt được mươi phút rồi, “Silky” Bob ạ. Chicago dự tính mày có thể đi qua chỗ chúng tao và điện cho chúng tao biết là họ có câu chuyện muốn nói với mày. Yên mà đi thôi chứ, ông bạn? Thế là biết điều đấy. Bây giờ trước khi đi về bót thì đây là mấy chữ người ta nhờ tao đưa cho mày. Mày có thể đọc ngay ở đây, bên cửa sổ này cũng được. Của viên cảnh binh tuần tra Wells đấy.

Người từ miền Tây đến giở mảnh giấy nhỏ người kia đưa cho. Khi hắn bắt đầu đọc, tay hắn vẫn vững như thường, nhưng khi đọc xong, tay hắn hơi run run. Bức thư khá ngắn ngủi.

“Bob,
Tao đã đến chỗ hẹn đúng giờ. Khi mày đánh diêm châm xì gà, tao đã nhận ra mặt một người đang bị truy nã ở Chicago. Dẫu sao tao cũng không thể tự tay làm việc đó, nên tao đã đi tìm một nhân viên mặc thường phục để nhờ làm hộ.
Jimmy."

Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeSun Jun 17, 2018 10:30 pm



Giấc mơ (The Dream)

Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910)


(Đây là tác phẩm cuối cùng của O. Henry. Tờ tạp chí The Cosmopolitan Magazine đã đặt ông viết truyện này, nên sau khi ông qua đời, người ta đã tìm thấy bản thảo còn đang ở trong phòng của ông, trên bàn đầy bụi bặm.)

Murray đã mơ một giấc mơ.
Cả tâm lý học lẫn khoa học đều lần mò khi họ thường giải thích cho chúng ta về những cuộc phiêu lưu kỳ lạ đối với những bản ngã phi vật chất của chúng ta khi chúng ta lang thang trong vương quốc của “Người Anh Em Sinh Đôi của Tử Thần, Đó là Giấc Ngủ”. Câu chuyện sau đây sẽ không có ý định làm sáng tỏ chuyện đó; chẳng qua đây chỉ là một ghi chép lại giấc mơ của Murray mà thôi. Một trong những giai đoạn gây khó hiểu nhất về giấc ngủ mà như thức thật kỳ lạ đó là ở chỗ những giấc mơ dường như nói về những năm tháng lại có thể xảy ra chỉ trong vòng một vài giây hay một vài phút.
Murray đang nằm đợi trong xà lim dành cho kẻ tử tù. Một ánh sáng điện hình vòng cung trên trần dọc hành lang chiếu sáng rực lên bàn của hắn. Trên tờ giấy trắng một con kiến đang bò cuống cuồng khi Murray lấy phong bì ngăn nó lại. Cuộc xử tử trên ghế điện được ấn định vào lúc 8 giờ tối. Murray mỉm cười nhìn vào
con vật mua vui khôn ngoan nhất trong các loài côn trùng.
Còn có bảy tử tù khác trong khám. Kể từ lúc bị giam trong xà lim đó, hắn đã chứng kiến thấy có ba tử tù đã bị giải đi để thực hiện số phận của họ; một người nổi điên khùng, vật lộn như một con sói bị mắc bẫy; một người điên cũng không kém, lại giả môi giả miếng cầu khấn Chúa trời; người thứ ba vô cùng yếu ớt, ngã sụp xuống và bị buộc chặt vào một tấm ván bằng đai da. Hắn phân vân không hiểu là tim, chân và mặt mình rồi sẽ bị trừng phạt ra sao; vì lúc này là buổi tối cuối cùng của hắn. Hắn nghĩ chắc phải gần 8 giờ rồi.

Đối diện với xà lim của hắn cách đó hai xà lim là xà lim nhốt Bonifacio, một tên giết người đảo Sicily, kẻ đã giết chết vị hôn thê của mình và hai nhân viên cảnh sát đến bắt hắn. Murray đã từng chơi cờ hàng mấy tiếng đồng hồ liền, tên nào bắt đầu đi quân cờ đều gióng lên thật to với đối thủ mà mình không nhìn thấy mặt bên kia hành lang.
Tiếng oang oang của Bonifacio với chất giọng nghe như hát không gì phá vỡ nổi ấy vang lên:
- Ê, kiện tướng Murray; cậu thấy thế nào… ổn chứ… hả?
- Ổn, Bonifacio – Murray nói một cách vững vàng, khi ấy hắn đã cho phép con kiến bò lên chiếc phong bì và sau đó hắn thả nhẹ nhàng nó xuống sàn đá.
- Thế là ổn, kiện tướng Murray ạ. Những tên đàn ông như chúng mình đây, những người phải chịu chết ấy mà. Tuần sau đến lượt tớ rồi. Không sao. Hãy nhớ rằng, kiện tướng Murray ạ, tớ đã đánh bại cậu ở ván cuối cùng đấy nhé. Có thể đến lúc nào đó chúng mình lại chơi tiếp. Tớ cũng không biết nữa. Có thể lúc họ chuẩn bị giải chúng ta đi, chúng ta sẽ lại kêu thật to ván cờ chúng ta chơi.
Cái triết lý cứng cỏi của Bonifacio với một chuỗi tiếng cười nghe như tiếng nhạc, váng cả tai tiếp theo đó đã làm cho trái tim tê dại của Murray trở nên ấm hơn là cảm thấy lạnh ớn. Nhưng Bonifacio còn sống đến tuần sau cơ mà.

Những người sống trong các xà lim nghe thấy tiếng then sắt kêu to lạch cạch quen thuộc khi cửa ở cuối hành lang mở ra. Ba người tiến lại xà lim của Murray và mở khóa. Hai người là quản tù, còn một người gọi là “Len”, ồ, không phải; đó là tên trước đây; lúc này gọi là Đức cha Leonard Winston, một người bạn và người láng giềng từ những ngày cả hai còn đi chân đất.
- Tôi đã xin phép họ để tôi thế chỗ cha tuyên uý trong nhà tù – ông ta nói, nắm chặt tay Murray. Bên bàn tay trái, ông cầm một quyển Kinh Thánh nhỏ, rồi dùng ngón tay trỏ đánh dấu trang sách.
Murray khẽ mỉm cười và sắp xếp một hay hai cuốn sách cùng với vài cái quản bút cho có thứ tự trên bàn. Nhẽ ra hắn phải nói mấy lời, nhưng trong đầu không sao nghĩ ra được lời nào thích hợp cả. Những tù nhân đã đặt tên thánh cho xà lim dài trên hai mét và rộng chưa đến một mét là Limbo Lane [73].
Viên quản giáo quen thuộc, một người to lớn, thô kệch nhưng tốt bụng, lấy từ trong túi ra một chai rượu whisky nhỏ và đưa cho Murray, nói:
- Đây là việc làm theo lệ thôi, cậu ạ. Chẳng qua là nhằm giúp cho ai đó có một chút chất kích thích. Không có nguy cơ trở thành nghiện được đâu.
Murray nốc một hơi.
- Khá lắm! – Viên quản tù nói – Chỉ là một chút thuốc bổ thần kinh thôi, rồi mọi việc lại êm như nhung ấy mà.

Họ đi vào hành lang và tất cả bảy tử tù đều biết. Limbo Lane là một thế giới nằm bên ngoài thế giới; nhưng khi bị mất đi một hoặc nhiều hơn năm giác quan, thì nó biết cung cấp ngay giác quan khác để bù vào. Ai cũng biết là gần 8 giờ rồi và Murray sẽ lên ghế điện vào lúc 8 giờ. Trong nhiều xà lim Limbo Lane đều có giới quý tộc của tội ác. Tên giết người giữa ban ngày ban mặt, đánh đập kẻ thù của mình hoặc truy đuổi hắn, mặt đỏ phừng phừng đầy cảm xúc nguyên thủy và nhuệ khí muốn đánh nhau, tỏ ra khinh bỉ con chuột, con nhện hay con rắn đội lốt người.
Vì thế, trong số bảy tử tù, chỉ có ba tử tù nói lời từ biệt với Murray khi hắn đi xuôi theo hành lang giữa hai hàng lính gác. Đó là Bonifacio, Marvin, kẻ đã giết chết người lính gác trong khi trốn tù, và Bassett, một tên chuyên cướp tàu hỏa, kẻ bị đẩy đến việc giết người vì người đưa thư tốc hành đã không giơ tay lên khi hắn ra lệnh. Bốn tử tù kia trông nung nấu căm thù, câm lặng trong các xà lim của mình, rõ ràng chúng cảm nhận thấy sự tẩy chay xã hội trong cái xã hội Limbo Lane một cách thấm thía hơn là cảm nhận nhớ về những hành vi phạm pháp không lấy gì làm tốt đẹp của mình.
Murray ngỡ ngàng trước sự bình tĩnh, gần như vô cảm của mình. Trong phòng hành quyết có khoảng hai mươi người, gồm những quản giáo nhà tù, phóng viên báo chí và những người đứng xem đã từng thành công…

* * *

Viết đến đây, khi câu văn còn dở dang, thì bàn tay của Thần Chết đã ngắt luồng ý tưởng của O. Henry khi ông viết kể lại truyện ngắn cuối cùng của mình. Ông đã dự định viết truyện ngắn này phải khác hẳn những truyện ngắn khác, khởi đầu cho một loạt truyện mới theo văn phong mà trước đó ông chưa từng sử dụng. Ông nói: “Tôi muốn cho công chúng hay rằng tôi có thể viết một cái gì đó mới mẻ, ý tôi nói là mới mẻ đối với tôi, một câu chuyện không có tiếng lóng, với một cốt truyện đầy kịch tính chân thật, được xử lý theo cách sẽ gần gũi hơn với ý tưởng của tôi về cách viết truyện hiện thực”.

Trước khi viết truyện này, ông đã phác họa ý tưởng mà ông định phát triển: Murray, một tội phạm bị kết án đã sát hại dã man người yêu của mình – một tên giết người trong lúc nổi giận vì ghen tuông – thoạt tiên hắn đối mặt với án phạt tử hình một cách bình tĩnh, và trông diện mạo của hắn, hắn tỏ ra vô cảm với số phận của mình. Nhưng khi hắn đi gần đến chiếc ghế điện, bỗng nhiên hắn đột ngột thay đổi tình cảm. Hắn đứng đó, bàng hoàng, choáng váng, sửng sốt. Toàn bộ khung cảnh phòng hành quyết, gồm có những nhân chứng, những người đứng xem, cùng những chuẩn bị cho việc hành quyết, tất cả đã trở nên không thật đối với hắn.
Trong đầu hắn loé lên nhận ra rằng có điều gì đó nhầm lẫn khủng khiếp đang diễn ra đối với hắn. Tại sao hắn lại bị cột chặt vào chiếc ghế? Hắn đã làm gì? Hắn đã phạm tội gì? Trong giây lát, trong khi người ta điều chỉnh dây cột hắn, thì một hình ảnh hiện lên trước mắt hắn. Hắn đã mơ một giấc mơ. Hắn nhìn thấy một túp lều nông thôn nhỏ bé, rực rỡ dưới ánh mặt trời, núp mình dưới một lùm hoa. Có một phụ nữ ở đó và một đứa trẻ. Hắn trò chuyện với họ và thấy đó là vợ và con mình, cùng với túp lều là nhà của mình.
Vậy, rốt cuộc, đây là một sự nhầm lẫn. Một kẻ nào đó đã phạm phải một sai lầm đầy sợ hãi, không thể cứu vớt được. Việc kết tội, việc xử án, việc kết án rồi đến án tử hình trên ghế điện – tất cả chỉ là một giấc mơ. Hắn ôm vợ trong tay và hôn đứa con của mình. Đúng, đó là niềm hạnh phúc. Đó là một giấc mơ.
Rồi sau đó, sau khi người quản tù ra hiệu, dòng điện chết người được bật lên. Murray đã mơ một giấc mơ nhầm lẫn.

[73] Limbo, theo Cơ Đốc giáo La Mã, đấy là nơi không phải địa ngục mà cũng không phải là thiên đường dành cho những người không làm điều ác xuống sau khi chết, hay ta còn gọi là minh phủ.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeTue Jun 26, 2018 3:15 pm

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Ohenry-108565


CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG
(The Last Leaf, 1907) 
O. Henry (Mỹ)


Trong một khu nhỏ ở phía Tây Công viên Washington, phố xá chạy ngang chạy dọc lung tung như hóa rồ, rồi đứt quãng ở những mảnh đất nhỏ gọi là “quảng trường”. Những “quảng trường” này tạo nên những góc độ và những đường cong kỳ lạ. Một đường phố tự cắt nó một hoặc hai lần. Một nghệ sĩ có lần đã phát hiện ra là phố này có một khả năng rất quý. Hãy tưởng tượng một tay thu ngân nào đó mang hóa đơn đòi tiền sơn hay giấy và vải vẽ đi qua con đường này, đột nhiên lại gặp ngay chính mình quay trở ra, tiền nợ không thu được một xu nhỏ!
Bởi vậy, chẳng bao lâu, giới nghệ sĩ liền mò tới cái Làng Greenwich cổ kính, kỳ quặc này, lùng thuê những phòng có cửa sổ hướng bắc, đầu hồi kiểu thế kỷ mười tám. Những buồng xếp sát nóc kiểu Hà Lan và tiền thuê rẻ. Rồi từ Đại lộ thứ Sáu, họ nhập cảng vào vài chiếc cốc vại bằng thiếc, một hai chiếc lò hâm thức ăn và họp thành một “xóm”.

Phòng họa của Sue và Johnsy đặt ở tầng thượng một ngôi nhà gạch ba tầng thấp lè tè. “Johnsy” là tên gọi thân mật của Joanna. Một cô từ bang Maine tới, cô kia quê ở California. Họ đã gặp nhau tại bàn ăn chung của hiệu “Delmonico” ở Phố thứ Tám và thấy những sở thích của họ về nghệ thuật món rau diếp xoăn trộn dầu dấm và kiểu ống tay rộng hợp nhau đến nỗi kết quả là họ cùng chung nhau thuê một phòng họa.
Khi ấy là khoảng tháng Năm. Đến tháng Mười một, có một gã khách lạ, lạnh lẽo, chưa ai từng thấy, mà thầy thuốc gọi là chứng viêm phổi, oai vệ đi khắp xóm, ngón tay lạnh ngắt của gã chạm vào chỗ này một người, chỗ kia một người. Bên khu phía Đông, tên phá hoại này xăm xăm bước đi đánh ngã hàng chục nạn nhân, nhưng khi qua những “quảng trường” chật hẹp, chằng chịt và mọc rêu thì hắn lại từ tốn thong thả tiến bước.
Ông Viêm Phổi không phải là hạng người được gọi là lịch sự mã thượng. Một phụ nữ nhỏ bé, thiếu máu vì những cơn gió hiu hiu của miền California, đâu có phải là đối thủ xứng đáng của tên bợm già có hơi thở dồn dập và nắm tay đỏ lòm ấy. Thế mà hắn vẫn cứ đánh vào Johnsy và cô ta nằm lăn như bất động trên chiếc giường sắt sơn và qua những tấm kính cửa sổ nhỏ kiểu Hà Lan, cô trân trân nhìn cái đầu hồi của tòa nhà gạch bên cạnh.

Một buổi sáng, viên bác sĩ bận rộn, nháy cặp lông mày rậm, đốm bạc, mời Sue ra ngoài hành lang.
“Bệnh tình của cô ấy có thể nói là mười phần chỉ còn hy vọng được một thôi, ta hãy tạm nói thế,” ông vừa nói vừa vẩy cái cặp sốt cho thủy ngân hạ xuống. “Và muốn có được một phần đó thì cô ấy phải có ý muốn sống kia. Cái cung cách con người ta cứ sắp hàng đứng sẵn bên phía anh chủ thầu đám ma, làm cho mọi thứ thuốc men đều trở thành vô dụng. Cô bạn nhỏ nhắn của chị yên trí là mình không thể khỏi được. Cô ta có điều gì lo nghĩ không?”
“Cô ấy… cô ấy mong muốn có ngày được vẽ Vịnh Naples 4,” Sue đáp. “Vẽ à? Bậy! Cô ấy không có điều gì đáng để bận tâm hơn gấp đôi sao? Chàng trai nào đó chẳng hạn?”
“Một chàng trai nào ư?” Sue nói, giọng rít lên như tiếng đàn môi. “Một người đàn ông đáng gì để… Nhưng không, không có cái chuyện ấy đâu, bác sĩ ạ.”
“Thế thì đây là điểm bất lợi,” bác sĩ nói. “Tôi sẽ làm tất cả những gì khoa học có thể làm được thông qua những cố gắng của tôi. Nhưng khi nào bệnh nhân bắt đầu đếm những chiếc xe đi theo đám tang của mình thì tôi sẽ phải trừ khả năng chữa bệnh của thuốc men đi năm mươi phần trăm. Nếu chị làm cho cô ta hỏi được một câu về mốt tay áo mới của áo choàng mùa đông thì tôi xin thưa với chị khả năng khỏi bệnh của cô ấy sẽ là một trên năm chứ không phải là trên mười nữa.”

Sau khi bác sĩ đi khỏi, Sue vào phòng làm việc và khóc đến ướt đẫm cả một chiếc khăn trải bàn Nhật Bản. Rồi cô lại thản nhiên mang chiếc bảng vẽ của mình đi vào phòng Johnsy, miệng huýt sáo một điệu nhạc rác tim 5.
Johnsy nằm quay mặt về phía cửa sổ, tấm khăn trải giường phủ lên người, hầu như không có một gợn. Sue ngưng huýt sáo, tưởng bạn đang ngủ.
Cô bày bảng vẽ của mình ra và bắt đầu vẽ bằng bút sắt và mực để minh họa cho một truyện ngắn đăng trên một tờ tạp chí. Các nghệ sĩ trẻ phải lát con đường dẫn tới Nghệ thuật bằng những bức tranh minh họa cho những truyện ngắn của các tạp chí, do các nhà văn trẻ viết để lát con đường của họ dẫn tới Văn học.
Sue đang vẽ phác chiếc quần cưỡi ngựa đúng mốt và chiếc kính một mắt trên mặt nhân vật chính, một tay chăn bò Idaho, thì bỗng nghe thấy có tiếng thì thầm cứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Cô vội chạy tới bên giường.

Mắt Johnsy mở to. Cô đang nhìn ra ngoài cửa sổ và đếm – đếm ngược. “Mười hai,” cô lầm bầm, rồi một lát sau, “mười một”; rồi “mười,” và “chín”; rồi “tám” và “bảy” thì hầu như được đếm cùng một lúc.
Sue lo lắng nhìn ra phía cửa sổ. Có cái gì ngoài đó mà đếm? Chỉ thấy một cái sân trơ trụi, ảm đạm và bức tường bên trống trơn của tòa nhà gạch cách đấy chừng sáu thước. Một dây thường xuân già, già lắm, rễ đã mục nát và sần sùi những mấu, leo lên đến giữa bức tường gạch. Hơi thở lạnh lẽo của mùa thu bứt rụng hết lá của nó chỉ còn lại bộ xương cành, gần như trơ trụi bám vào những viên gạch vỡ nát.
“Gì thế, Johnsy?” Sue hỏi.
“Sáu,” Johnsy nói, giọng gần như thì thào. “Bây giờ chúng rụng mau hơn. Trước đây ba ngày còn có tới gần một trăm. Em đếm nhức cả đầu. Nhưng bây giờ thì thật là dễ. Lại một chiếc nữa. Giờ chỉ còn lại có năm thôi.”
“Năm gì, Johnsy? Cho Sudie 6 của em biết đi.”
“Những chiếc lá. Trên cây thường xuân khi nào chiếc lá cuối cùng rụng thì em cũng ra đi thôi. Em biết điều đó đã ba ngày nay rồi. Ông bác sĩ không nói với chị sao?”
“Ồ, chị chưa bao giờ lại nghe thấy một chuyện vô lý đến như thế.” Sue trách, làm ra vẻ mạnh bạo khinh thường. “Những chiếc lá thường xuân già đó thì có liên quan gì đến việc em khỏi bệnh kia chứ? Tại em vốn mến cái cây leo ấy đấy, em hư lắm. Đừng nói chuyện ngốc nghếch nữa. Ấy, sáng nay ông bác sĩ đã nói với chị là em sẽ chóng bình phục thôi, đúng ra là ông ta nói thế nào nhỉ – khả năng khỏi là mười phần chắc chín; ông ta nói thế! Ấy, cũng tựa hồ như là khi chúng ta ngồi trên xe hàng hay đi qua một tòa nhà mới đang xây ở New York này, mười phần thì họa chăng chỉ có một phần mới xảy ra tai nạn. Giờ thì em cố ăn tý cháo nhé và để Sudie quay về với bản vẽ của mình, có thế chị mới bán được tranh cho lão chủ bút, để mua rượu poóc tô7 cho đứa em ốm của chị và mua sườn lợn cho cái bản thân háu ăn của chị chứ.”
“Chị chẳng cần phải mua thêm rượu nữa đâu,” Johnsy nói, mắt vẫn nhìn trân trân ra ngoài cửa sổ. “Lại một chiếc nữa rụng kìa. Không, em không muốn ăn cháo đâu. Còn lại đúng bốn chiếc. Em muốn thấy chiếc cuối cùng rụng xuống trước khi trời tối. Đến lúc đó thì em cũng ra đi thôi!”
“Johnsy yêu quý,” Sue nói và cúi xuống bên người bạn, “em hãy hứa với chị là em hãy nhắm mắt lại và không nhìn ra ngoài cửa sổ nữa cho tới khi chị xong việc được không? Mai chị phải trao những bức tranh này rồi. Chị cần ánh sáng, nếu không thì chị đã kéo mành mành xuống rồi đấy.”
“Chị không vẽ ở buồng bên được ư?” Johnsy lạnh nhạt hỏi.
“Chị muốn ở đây bên cạnh em kia,” Sue đáp. “Vả lại chị không muốn em cứ nhìn mãi những chiếc lá thường xuân vớ vẩn đó nữa.”
“Bao giờ xong chị bảo em ngay nhé!” Johnsy nói rồi nhắm mắt lại, nằm yên và trắng bệch như một pho tượng đổ, “vì em muốn được thấy chiếc lá cuối cùng rụng xuống. Em đợi mãi ngán lắm rồi, em nghĩ mãi mệt lắm rồi. Em muốn buông trôi hết thảy và giong buồm xuôi dòng như một trong những chiếc lá mệt mỏi và tội nghiệp kia.”
“Cố ngủ đi,” Sue nói. “Chị phải đi mời cụ Behrman lên làm mẫu cho chị vẽ một người thợ mỏ già khổ hạnh. Chị sẽ không đi lâu quá một phút đâu. Đừng có động đậy, chờ chị quay lại nhé.”

Cụ Behrman là một họa sĩ ở tầng dưới cùng, dưới tầng của họ. Cụ đã ngoài sáu mươi và có một bộ râu như Moses 8 của Michael Angelo loăn xoăn trừ cái đầu như đầu thần Satyr 9 lòa xòa xuống cái thân hình một tiểu yêu. Behrman là một người thất bại trong nghệ thuật. Cụ múa cây bút vẽ đã bốn mươi năm mà vẫn không với tới được gấu áo vị nữ thần của mình. Cụ luôn có ý định vẽ một bức tranh kiệt tác, nhưng chưa bao giờ bắt đầu cả. Bao năm nay cụ chẳng vẽ được gì, ngoài việc thỉnh thoảng bôi bác một bức cho ngành buôn bán hay quảng cáo. Cụ kiếm được chút ít bằng cách ngồi làm mẫu cho các nghệ sĩ trẻ cùng ở xóm đó, không đủ tiền thuê nổi một người làm mẫu chuyên nghiệp. Cụ uống rượu nặng quá độ và vẫn nói về các tác phẩm kiệt xuất sắp tới của mình. Còn thì ngoài ra cụ là một ông già nhỏ nhắn dữ tợn, hay chế nhạo cay độc sự mềm yếu của bất kỳ ai, và tự coi mình là một con chó xồm lớn chuyên gác cửa bảo vệ hai nữ nghệ sĩ trẻ ở phòng vẽ tầng trên. 

Sue tìm thấy cụ Behrman sặc sụa mùi rượu dâu loại nặng trong gian buồng tối om om của cụ ở tầng dưới. Trên giá vẽ ở góc buồng là một tấm vải trống trơn, từ hai mươi lăm năm nay vẫn cứ chờ đợi mãi nét vẽ đầu tiên của bức tranh kiệt tác. Cô kể cho cụ nghe ý nghĩ kỳ quặc của Johnsy và nói cho cụ biết cô lo lắng như thế nào về Johnsy; cô ấy yếu đuối và mảnh mai như một chiếc lá, quả thật rất có thể sẽ bay đi mất, khi mối ràng buộc mong manh giữa cô ấy ở trên trần thế này suy yếu.
Cụ Behrman cặp mắt đỏ ngầu, nước mắt chảy ròng ròng, hét lên sự khinh bỉ và nhạo báng của mình đối với những chuyện tưởng tượng ngốc nghếch ấy. Cụ quát to:
“Sao! Trên đời này lại có những người ngớ ngẩn muốn chết chỉ vì một cây leo chết tiệt nào đó rụng hết lá ư? Tôi chưa bao giờ nghe thấy một chuyện như thế cả. Không, tôi sẽ không ngồi làm mẫu cho cô vẽ cái lão già ngu xuẩn ngớ ngẩn của cô đâu. Tại sao cô lại để cho những chuyện vớ vẩn ấy chui vào đầu óc cô ta? Chà, tội nghiệp cô bé Johnsy.”
“Em nó ốm nặng và yếu lắm,” Sue nói. “Cơn sốt đã làm đầu óc nó đâm ra bệnh hoạn, đầy những ý nghĩ kỳ quái. Thôi được, cụ Behrman ạ, cụ không muốn ngồi làm mẫu cho cháu thì thôi. Nhưng cháu thấy cụ thật là một ông già kinh khủng, sao mà lắm nhời, lắm điều thế.”
“Cô thật đúng là đàn bà!” cụ Behrman hét lên. “Ai bảo là tôi không muốn ngồi làm mẫu? Đi, tôi lên cùng với cô. Tôi đã nói suốt nửa tiếng đồng hồ rằng tôi sẵn sàng ngồi làm mẫu kia mà. Trời, đây không phải chỗ cho một con người tốt như cô Johnsy nằm. Một ngày kia tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất và tất cả chúng ta sẽ đi khỏi nơi này. Trời, nhất định thế.”
Khi hai người lên tới gác trên thì Johnsy đang ngủ. Sue kéo tấm mành mành xuống che kín cửa sổ và ra hiệu cho cụ Behrman sang buồng bên cạnh. Sang đến nơi, họ ngoái ra ngoài cửa sổ, sợ sệt nhìn cây thường xuân. Rồi họ nhìn nhau, không nói mất một lúc. Một cơn mưa lạnh lẽo dai dẳng, pha lẫn tuyết đang đổ xuống. Cụ Behrman mặc chiếc áo sơ mi cũ màu xanh, ngồi làm một tay thợ mỏ già trên cái ấm đun nước lật úp giả làm một tảng đá.

Sáng hôm sau Sue tỉnh dậy sau khi chợp mắt được một giờ thì thấy Johnsy đang mở to cặp mắt thẫn thờ nhìn tấm mành mành màu xanh đã kéo xuống.
“Kéo nó lên, em muốn xem,” cô thều thào ra lệnh.
Sue làm theo một cách chán nản.
Nhưng ô kìa sau trận mưa vùi dập và những cơn gió phũ phàng kéo dài cả một đêm, tưởng chừng như không bao giờ dứt, vẫn còn một chiếc lá thường xuân bám trên bức tường gạch. Đó là chiếc lá cuối cùng trên cây. Tuy ở gần cuống lá còn giữ màu xanh xẫm, nhưng rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa, tuy vậy, chiếc lá vẫn dũng cảm bám vào cành cách mặt đất chừng sáu thước.
“Đó là chiếc lá cuối cùng,” Johnsy nói. “Em cứ tưởng là nhất định hôm qua nó sẽ rụng. Em nghe thấy gió thổi. Hôm nay nó sẽ rụng thôi và cùng lúc đó thì em sẽ chết.”
“Em thân yêu,” Sue nói, cúi khuôn mặt hốc hác xuống gần gối. “Nếu em không còn muốn nghĩ đến mình nữa thì hãy nghĩ đến chị, chị sẽ làm gì đây?”
Nhưng Johnsy không trả lời. Trong khắp thế gian, cái cô đơn nhất là một tâm hồn đã chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến đi xa xôi, bí ẩn của mình. Những sợi dây ràng buộc cô với tình bạn, với thế gian này cứ lơi lỏng dần từng cái một thì ý nghĩ kỳ quặc kia hình như lại càng choán lấy tâm trí cô mạnh mẽ hơn.

Ngày hôm đó trôi qua và ngay cả trong ánh hoàng hôn, họ vẫn trông thấy chiếc lá thường xuân đơn độc bám lấy cái cuống của nó trên tường và rồi, cùng với màn đêm buông xuống, gió bấc lại lồng lộn, trong khi mưa vẫn đập mạnh vào cửa sổ và từ mái hiên thấp kiểu Hà Lan mưa rơi lộp độp xuống mặt đất.
Khi trời vừa hửng sáng thì Johnsy, con người tàn nhẫn, lại ra lệnh kéo màn lên.
Chiếc lá thường xuân vẫn còn đó.
Johnsy nằm nhìn lá hồi lâu. Rồi cô gọi Sue đang quấy món cháo gà trên lò hơi đốt.
“Em thật là một con bé hư, chị Sue ạ,” Johnsy nói. “Có một cái gì đó đã làm cho chiếc lá cuối cùng kia vẫn còn đấy để cho em thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là có tội. Giờ thì chị có thể cho em xin tí cháo và chút sữa pha ít rượu poóc tô và, không, mang cho em chiếc gương tay trước đã, rồi xếp những chiếc gối lại quanh em, để em ngồi dậy xem chị nấu nướng.”
Một giờ sau cô lại nói: “Sue ơi, em hy vọng một ngày nào đó sẽ được vẽ Vịnh Naples.”

Buổi chiều bác sĩ tới và khi ông ta về, Sue kiếm cớ theo ông ra ngoài hành lang.
“Được năm phần mười rồi,” bác sĩ nói và cầm lấy bàn tay mảnh dẻ run rẩy của Sue. “Chăm sóc chu đáo thì chị sẽ thắng. Và bây giờ tôi phải xuống dưới nhà thăm một bệnh nhân khác. Tên ông cụ là Behrman, hình như là một nghệ sĩ gì đó. Cũng lại chứng sưng phổi, ông cụ già yếu, bệnh tình nguy kịch, chẳng còn hy vọng gì, nhưng hôm nay ông cụ sẽ vào nằm bệnh viện để được chăm sóc chu đáo hơn.”
Hôm sau, bác sĩ bảo Sue: “Cô ấy khỏi nguy hiểm rồi, chị đã thắng. Giờ, chị chỉ còn bồi dưỡng và chăm nom, có thế thôi.”
Và buổi chiều hôm đó Sue tới bên giường Johnsy đang nằm và đang vui vẻ đan một chiếc khăn choàng len màu xanh thẫm rất vô dụng. Sue ôm lấy cả người Johnsy lẫn những chiếc gối.

“Chị có câu chuyện muốn nói với em, con chuột bạch của chị,” cô chị nói.
“Hôm nay cụ Behrman đã chết vì sưng phổi ở bệnh viện rồi. Cụ ấy chỉ có hai ngày. Buổi sáng ngày thứ nhất, bác gác cổng thấy cụ ấy ốm nặng trong căn phòng của cụ ở tầng dưới. Giày và áo quần cụ ướt sũng và lạnh buốt. Mọi người không ai hiểu được cụ ấy đã đi đâu trong đêm khủng khiếp như thế, nhưng rồi họ tìm thấy một chiếc đèn bão vẫn còn cháy sáng và một chiếc thang đã bị lôi ra khỏi chỗ để của nó, vài chiếc bút lông rơi vung vãi và một bảng màu xanh vàng pha trộn lẫn lộn, và em ạ, hãy nhìn ra ngoài cửa sổ kia, hãy nhìn chiếc lá thường xuân cuối cùng ở trên tường.
Em có tự hỏi tại sao chẳng bao giờ nó rung rinh hoặc lay động khi gió thổi không? Ồ, em thân yêu, đó chính là tác phẩm kiệt xuất của cụ Behrman đấy. Cụ vẽ nó vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng.”  

Ngô Vĩnh Viễn dịch

Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeSat Jul 07, 2018 11:15 am

.

Tên cớm và bản thánh ca
(The Cop and the Anthem)
Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910)


Soapy trằn trọc trên chiếc ghế ở công viên Madison, khi những con ngỗng trời văng vẳng kêu đêm, khi những người đàn bà không có áo da hải cẩu trở nên dịu dàng với các đức ông chồng và khi Soapy trằn trọc trên chiếc ghế của mình ở công viên thì bạn có thể biết được rằng mùa đông đã đến gần.

Một chiếc lá vàng rơi vào lòng Soapy. Đó là tấm danh thiếp của Thần Rét. Thần rất tốt đối với những khách trọ thường xuyên của công viên Madison và thẳng thắn báo trước cho họ biết cuộc đến thăm hàng năm của mình. Tại các ngã tư, thần đã trao lá thiếp của mình cho gió bắc, gia nhân của lâu đài Ngoài trời, để những người trọ ở lâu đài có thể chuẩn bị sẵn sàng.
Soapy nhận thấy đã đến lúc phải lập ra ủy ban một người bàn biện pháp và phương tiện chống cái rét đang tới, chính vì thế mà anh ta cứ trằn trọc mãi trên ghế.
Nhưng tham vọng tránh rét của Soapy không có gì là cao xa lắm. Anh ta không hề tơ tưởng đến những chuyến du hành trên Địa Trung Hải, đến bầu trời ru ngủ của miền Nam hoặc những cuộc đi chơi thuyền lênh đênh trên vịnh Vesuvius. Tất cả sự khao khát của lòng anh chỉ là được sống ba tháng ở Khám Đảo. Ba tháng chắc chắn có cơm ăn, có giường ngủ và có bạn đồng cảnh thoát khỏi gió bấc và bọn áo xanh[11] đối với Soapy, có vẻ là cái tinh tuý của những điều đáng thèm muốn. Đã bao năm nay khám Blackwell mến khách đã là nơi trú ngụ của Soapy về mùa đông y như những người dân New York giàu có hơn, cứ mùa đông đến lại mua vé đi Palm Beach[12] và Riviera [13] thì Soapy cũng khiêm tốn thu xếp cho chuyến đi hàng năm của mình tới Khám Đảo. Và nay thì đã đến lúc rồi. Đêm qua, ngủ trên ghế gần bệ nước phun, trong công viên cổ kính này, ba tờ báo ra ngày chủ nhật lót dưới áo đắp trên cổ chân và trên bụng đã không còn chống nổi cái rét nữa. Vì thế mà trong đầu óc anh Khám Đảo lù lù hiện ra rất đúng lúc. Anh vốn coi khinh những thức ăn người ta lấy danh nghĩa làm phúc ban cho dân nghèo của thành phố. Theo quan niệm của Soapy, pháp luật còn dễ chịu hơn là lòng từ thiện. Thành phố có vô số những tổ chức và hội từ thiện, anh có thể đến đấy và được cho ăn, cho ngủ, theo cái mức sống đạm bạc, đơn sơ. Nhưng với một tâm hồn đầy tự hào như Soapy thì những của làm phúc ấy thật nặng nề. Mọi thứ nhận được của các bàn tay từ thiện, nếu không phải trả bằng tiền thì lại phải trả bằng sự nhục nhã về tinh thần. Tựa như Caesar có Brutus[14], mỗi chỗ ngủ làm phúc đều phải trả giá bằng một sự tắm gội, mỗi miếng bánh đều phải được bù lại bằng một sự soi mói vào đời tư của cá nhân. Cho nên thà làm khách của pháp luật còn hơn, tuy có bị luật lệ câu thúc thật đấy nhưng pháp luật cũng không vô cớ xen vào những việc riêng của một con người lịch sự.

Sau khi đã quyết định sẽ ra Khám Đảo, Soapy liền bắt tay ngay vào việc thực hiện nguyện vọng của mình. Cố nhiên cách dễ dàng để làm việc đó, cách dễ chịu nhất là đến ăn một bữa thật sang ở một khách sạn đắt tiền, ăn xong tuyên bố không có tiền trả là sẽ được người ta lặng lẽ không om sòm trao cho cảnh sát. Một vị quan tòa dễ tính sẽ làm nốt những việc còn lại.
Soapy rời ghế, lững thững ra khỏi công viên và đi ngang qua mặt đường nhựa phẳng lì nơi đại lộ Broadway và đại lộ thứ Năm gặp nhau. Anh đi ngược đại lộ Broadway và dừng lại trước một tiệm ăn lộng lẫy, đêm đêm nơi đây tập trung những sản phẩm chọn lọc nhất của nho, tằm và chất nguyên sinh.
Soapy tự tin ở mình từ chiếc khuy áo gi-lê cuối cùng trở lên. Râu anh cạo nhẵn nhụi, áo anh chỉnh tề và chiếc nơ đen thắt sẵn, gọn gàng là của một giáo sĩ biếu anh nhân ngày Lễ Tạ ơn. Nếu anh tới được một bàn trong hiệu ăn mà không lộ thì anh sẽ thành công. Phần con người anh hở ra bên trên mặt bàn sẽ không làm cho gã hầu bàn nghi kỵ gì hết. Soapy nghĩ bụng: có lẽ là nên làm một chú vịt trời quay với một chai vang trắng Chablis, rồi pho-mát Camembert, một tách cà phê và một điếu xì gà. Thứ xì gà một đô-la là được rồi. Tổng số tiền sẽ không lớn quá khiến chủ hiệu phải dùng đến biện pháp trả thù tối cao. Nhưng bữa ăn cũng phải làm cho anh no nê, hể hả mà đi tới nơi trú ẩn mùa đông của mình.
Nhưng Soapy vừa đặt chân vào bên trong cửa tiệm ăn thì một con mắt của lão “sếp” bồi đã bắt gặp chiếc quần sờn gấu và đôi giày tàng của anh. Những bàn tay khỏe mạnh, nhanh nhẹn đã xoay anh lại, lặng lẽ và chóng vánh tống anh ra vỉa hè, cứu chú vịt trời đang bị đe dọa, thoát khỏi số phận hẩm hiu.

Soapy rời khỏi đại lộ Broadway. Con đường của anh đến Khám Đảo có vẻ không phải là một con đường đầy lạc thú. Cần phải nghĩ ra một cách khác để vào tù.
Tại một góc phố của đại lộ thứ Sáu, ánh đèn điện và những hàng hóa bày biện khéo léo sau tấm kính dày làm một cửa hiệu nọ nổi bật lên. Soapy nhặt một hòn đá củ đậu choang vào cửa kính. Mọi người đổ xô đến góc phố, dẫn đầu là một viên cảnh sát. Soapy đứng im tại chỗ, hai tay đút túi quần và mỉm cười khi trông thấy những chiếc khuy đồng.
Viên cảnh sát hỏi dồn: - Đứa ném vỡ cửa kính đâu rồi?
- Thế ông không nghĩ rằng tôi có thể có liên quan đến chuyện ấy hay sao? – Soapy thân mật nói như ta đón chào một vận may, tuy không phải là không có phần châm biếm.
Đầu óc viên cảnh sát từ chối không chịu tin lời Soapy dù chỉ xem đó là một manh mối. Nhưng kẻ đập vỡ tủ kính không bao giờ đứng lại để hội đàm với tay chân của pháp luật. Chúng ù té bỏ chạy ngay, nhác thấy ở giữa phố có một người đàn ông đang chạy đuổi kịp một chiếc xe buýt, viên cảnh sát liền rút dùi cui ra đuổi theo.

Chán ngán sau hai phút thất bại, Soapy lững thững bước đi. Bên kia đường có một quán ăn không có gì là sang trọng. Quán ăn này phục vụ cho những cái dạ dày to mà túi tiền lại nhỏ. Không khí trong quán đặc sệt nhưng xúp thì lại loãng, bát đĩa thì dày nhưng khăn bàn lại mỏng dính. Soapy lê đôi giày tố giác và chiếc quần lộ tẩy của mình vào trong quán, không gặp trở ngại gì. Anh ngồi vào bàn, xơi bít-tết, bánh nướng, bánh rán và pa-tê. Ăn xong, anh tiết lộ cho gã hầu bàn biết là một đồng xu nhỏ với bản thân anh hoàn toàn xa lạ nhau.
- Bây giờ thì hãy nhanh nhảu lên, đi gọi một tên cớm lại đây, – Soapy nói, – và đừng để một người lịch sự phải chờ lâu.
- Không cần phải gọi cớm với cái thứ mày, – gã hầu bàn đáp, giọng như bánh ga-tô phết bơ mà mắt thì cứ long lên như quả anh đào trong cốc rượu “cốc-têu”[15] kiểu Manhattan, “đồ ăn quỵt”.
Hai gã hầu bàn quẳng Soapy ra cửa, mang tai trái anh đập xuống vỉa hè gồ ghề. Soapy cố nhấc từng khớp xương đứng dậy, như mở một cái thước thợ mộc rồi phủi bụi quần áo. Việc bị bắt hình như chỉ là một giấc mộng vàng. Khám Đảo xem ra xa vời quá. Một viên cảnh sát đứng trước một cửa hiệu tạp hóa cách đấy hai nhà, cười phá lên rồi bỏ đi xuống cuối phố.

Đi được năm dãy nhà, lòng can đảm của Soapy mới lại cho phép anh mơ tưởng đến chuyện bị bắt. Lần này, dịp may đưa đến một cơ hội mà anh ngốc nghếch cho là “ăn chết”. Một phụ nữ trẻ tuổi ăn mặc nhũn nhặn, dễ coi đang đứng trước một cửa hàng, thích thú ngắm những chiếc cốc cạo râu và lọ mực bày trong tủ kính, và cách đấy hai thước, một viên cảnh sát to lớn bộ dạng nghiêm nghị đang đứng tựa vào một cái vòi nước.
Soapy dự định sẽ đóng vai một gã “ghẹo gái” khốn nạn, đáng khinh. Vẻ mặt lịch sự và thanh tú của nạn nhân, cùng với sự gần gũi của viên cảnh sát đầy tinh thần trách nhiệm khiến anh tin chắc rằng chỉ lát nữa thôi anh sẽ cảm thấy bàn tay êm dịu của Nhà nước nắm chặt cánh tay anh, đảm bảo cho anh có được nơi trú ngụ qua mùa đông trên hòn đảo nhỏ ấm cúng kia.
Soapy nắn lại cái nơ làm sẵn của bà giáo sĩ, kéo hai cổ tay áo sơ-mi nhăn nhúm cho thò ra ngoài, hất lệch cái mũ thành một độ nghiêng thật “càn” rồi sán lại gần người đàn bà trẻ tuổi. Anh đưa mắt liếc cô ta, đột nhiên hết ho lại “e hèm”, cười nụ, cười duyên và trơ tráo, giở ra đủ trò thô bỉ và đáng ghét của tên “ghẹo gái”. Soapy liếc mắt thấy tên cảnh sát đang chăm chú theo dõi mình.
Người đàn bà trẻ tuổi nhích xa ra mấy bước rồi lại chăm chú nhìn những chiếc cốc cạo râu. Soapy đi theo, mạnh bạo bước lại cạnh cô ta, nhấc mũ chào và nói:
- Ô kìa, Bedelia! Em có muốn đến chơi ở sân nhà anh không?
Viên cảnh sát vẫn nhìn theo. Người đàn bà trẻ tuổi bị chòng ghẹo chỉ cần vẫy một ngón tay là Soapy sẽ thực sự lên đường tới nơi trú ngụ trên đảo. Anh đã tưởng đâu như cảm thấy không khí ấm áp dễ chịu của đồn cảnh sát.
Người đàn bà trẻ tuổi quay lại nhìn anh và đưa tay ra nắm lấy tay áo Soapy.
- Có chứ, anh Mike, – cô ta nói vui vẻ, – nếu anh thết em một chầu rượu. Đáng lẽ là em nói với anh từ khi nãy kia, nhưng tên cớm đang theo dõi.
Với người đàn bà trẻ tuổi diễn cái trò dây bìm bìm bám vào cây sồi, Soapy rầu rĩ đi ngang qua mặt viên cảnh sát. Hình như số mệnh buộc anh cứ phải sống tự do.

Tới góc phố gần đây, Soapy vùng ra khỏi tay cô bạn và bỏ chạy. Anh dừng lại trong một khu phố ban đêm có những đường phố sáng nhất, những cô gái nhẹ dạ nhất, những lời thề chóng quên nhất và những vở ca kịch hời hợt nhất. Đàn bà mặc áo lông thú, đàn ông mặc ba-đờ-suy vui vẻ bước đi trong không khí giá lạnh. Soapy bỗng lo sợ cảm thấy có một phép lạ kinh khủng nào đó làm cho anh không sao có thể bị bắt được. Ý nghĩ ấy khiến anh hơi hốt hoảng. Và khi gặp một viên cảnh sát khác đang bệ vệ đi dạo trước cửa một rạp hát rực rỡ ánh đèn, anh như người sắp chết đuối vội vớ lấy cái cọng rơm trước mắt là “làm rối loạn trật tự”.
Trên vỉa hè, Soapy gân cổ, giọng khàn khàn gào toáng lên, những câu nhố nhăng như say rượu. Anh nhảy nhót la hét, nói năng huyên thuyên như hóa rồ, làm đủ các trò váng trời khác.
Viên cảnh sát múa tít cái dùi cui, quay đi phía khác và nói với mọi người qua đường. - Một sinh viên trường Yale đấy mà, họ ăn mừng vì họ vừa mới cho trường Hartford ăn trứng ngỗng[16]. Ồn một chút nhưng vô hại. Chúng tôi đã được lệnh để mặc họ.

Thất vọng, Soapy chấm dứt cái trò huyên náo vô hiệu quả. Cảnh sát sẽ không bao giờ chịu mó đến anh. Trong trí tưởng tượng của anh, Khám Đảo hiện ra như một cảnh bồng lai không thể nào với tới được. Anh cài lại khuy chiếc áo mỏng để chống lại cơn gió buốt.
Trong một hiệu bán thuốc lá, Soapy thấy một người đàn ông ăn mặc sang trọng đang châm điếu xì gà vào một ngọn lửa chập chờn. Lúc vào hiệu, ông ta dựng cái ô lụa bên cạnh cửa.
Soapy bám vào, cầm lấy cái ô và thong thả ung dung bước ra.
Người đang châm xì gà vội vàng chạy theo. Ông ta nghiêm nghị nói:
- Ô của tôi.
- Ồ, thế à, đã ăn cắp lại còn khiêu khích, – Soapy cười mũi. – Thế sao anh không đi mà gọi cảnh sát? Tôi lấy đấy. Ô của ông! Sao ông không gọi cớm đến? Có một tên đứng ở góc phố kia kìa.
Người có ô đi chậm lại. Soapy cũng đi chậm lại và linh cảm thấy mình lại không gặp may rồi. Viên cảnh sát tò mò nhìn hai người.
Ông có ô ấp úng: -
- Tất nhiên… đó là, vâng, ông cũng biết những chuyện nhầm lẫn như thế thường xảy ra như thế nào… Tôi… nếu đấy là ô của ông, mong ông thứ lỗi cho… Sáng nay tôi nhặt được nó ở một tiệm ăn… Nếu ông nhận ra là của ông, vâng… tôi mong ông sẽ…
- Dĩ nhiên đây là ô của tôi, – Soapy nói một cách đểu cáng.
Người trước đây có cái ô bèn rút lui, còn viên cảnh sát thì vội vã chạy tới giúp một cô gái tóc vàng cao dong dỏng, mặc áo choàng đi xem ca kịch đang sang ngang đường trước mũi một chiếc xe buýt đang lao tới còn cách đấy hai dãy nhà.

Soapy đi về phía Đông qua một đường phố đào bới ngổn ngang vì đang sửa chữa. Anh giận dữ quăng chiếc ô vào một cái hố. Anh lẩm bẩm rủa bọn người đội mũ sắt, mang dùi cui. Anh thì muốn rơi vào nanh vuốt của họ, thế mà họ thì hình như lại cứ coi anh như một ông vua không bao giờ có thể làm cái gì sai được.
Cuối cùng Soapy đến một trong những đại lộ ở phía Đông thành phố, nơi ánh đèn và tiếng ồn ào đều yếu ớt. Anh đã quay về đây, hướng về phía công viên Madison. Vì, dù cho tổ ấm chỉ là một chiếc ghế ở công viên thì cái bản năng trở về tổ ấm vẫn tồn tại.

Nhưng tới một góc phố kia tĩnh mịch lạ thường Soapy bỗng đứng sững lại. Nơi đây, có một ngôi nhà thờ cổ kính, kiến trúc lạ mắt, cầu kỳ, rắn rỏi. Một ánh sáng dịu chiếu qua khung cửa kính màu tím. Bên trong chắc hẳn người chơi đại phong cầm đang nhẹ tay lướt trên phím đàn, ông luyện thêm bản thánh ca cho ngày chủ nhật sắp tới, vì có tiếng nhạc du dương bay ra, lọt vào tai Soapy, giữ chặt anh lên những hình uốn lượn của hàng rào sắt.
Trăng đã lên cao, rực rỡ, thanh bình. Xe cộ và khách bộ hành đã vãn; bầy sẻ mơ màng líu ríu dưới các mái hiên và trong giây lát cảnh vật tựa hồ như một nghĩa trang nơi thôn dã. Và bản thánh ca người nhạc công đang dạo như trói chặt Soapy vào hàng rào sắt, vì anh biết rất rõ vào cái thời mà anh còn có những thứ như mẹ, hoa hồng, ước mơ, bạn bè. Những ý nghĩ trong sáng và những chiếc cổ cồn trắng tinh.

Tâm trạng nhạy cảm của Soapy, lúc ấy cùng với ảnh hưởng của ngôi nhà thờ cổ kính làm tâm hồn anh bỗng thay đổi một cách đột ngột và kỳ lạ. Đột nhiên, anh kinh hoàng, nhìn thấy cái vực sâu anh đã rơi xuống, những thèm khát thấp hèn, những hoài vọng đã chết, những khả năng bị hủy hoại và những động cơ đê tiện đã tạo nên cuộc đời anh.
Và trong chốc lát, trái tim anh cũng rung động đáp lại cái tâm trạng mới lạ ấy. Một vụ xúc động mạnh mẽ đột ngột thôi thúc anh hãy chiến đấu chống lại số phận tuyệt vọng của mình. Anh sẽ tự kéo mình ra khỏi vũng bùn; anh sẽ chiến thắng cái xấu đang chiếm lĩnh con người anh. Vẫn còn kịp, anh hãy còn tương đối trẻ. Anh sẽ làm sống lại những ước mơ hăng hái ngày trước và sẽ theo đuổi chúng không hề nao núng. Những nốt nhạc đại phong cầm trang nghiêm mà êm dịu kia đã dấy lên một cuộc cách mạng trong lòng anh. Ngày mai anh sẽ tới khu buôn bán ồn ào náo nhiệt của thành phố để tìm việc. Một nhà nhập khẩu lông thú đã có lần muốn thuê anh làm lái xe. Ngày mai, anh sẽ tìm ông ta để xin việc. Anh sẽ là một con người ở đời như ai. Anh sẽ…

Soapy bỗng cảm thấy có một bàn tay đặt lên cánh tay anh. Anh vội quay lại và thấy ngay bộ mặt phèn phẹt của một viên cảnh sát.
- Mày làm gì ở đây? – viên cảnh sát hỏi.
- Không, tôi chẳng làm gì cả, – Soapy trả lời.
- Thế thì đi theo tao, – viên cảnh sát nói.
Sáng hôm sau, tại tòa án xử những vụ vi cảnh, quan tòa tuyên bố: “Ba tháng tù ở Khám Đảo!”

-------------------
[11] Cảnh sát.
[12] Bờ biển ở miền Nam nước Mỹ, bang Florida.
[13] Bờ biển ở miền Nam nước Pháp, cũng như Palm Beach, là nơi nghỉ sang trọng.
[14] Brutus (85–42 trước Công nguyên) là con nuôi của Caesar (101–44 trước Công nguyên, Hoàng đế La Mã) và đã âm mưu với Cassius đâm chết Caesar tại thượng viện.
[15] Pha trộn nhiều thứ rượu với nhau.
[16] Thua một trận đá bóng.
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeWed Jul 11, 2018 11:42 am

.

Căn phòng đủ tiện nghi
Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910)


Một số người sống trong một quận gạch đỏ dưới phía đông của thành phố luôn luôn thiếu ổn định, mãi trôi giạt, lang thang. Tuy vô gia cư, họ vẫn có hàng trăm chỗ ở. Họ nhảy từ phòng cho thuê này qua phòng khác (phòng nào cũng đủ tiện nghi nội thất), luôn trong cảnh lông bông, lông bông về chỗ trú ngụ, lông bông về tâm hồn và tư tưởng. Họ ca hát “Tổ ấm gia đình” trong điệu dân ca Mỹ rộn ràng, họ mang đồ tế nhuyễn trong một cái thùng đáng lẽ chỉ để đựng đồ linh tinh, dây leo làm cảnh quấn quanh cái mũ rộng vành ta thường thấy trong các bức họa, một cái cây nhỏ là cây bóng mát. Vì thế, những ngôi nhà của quận này, với hàng nghìn nhân khẩu, có hàng nghìn câu chuyện để kể, đương nhiên, phần lớn đều vô vị, nhưng sẽ là điều lạ lùng nếu ta không thể tìm ra một vài bóng ma trong đám dân cư lông bông này.

Một buổi tối, một thanh niên lượn vòng, bấm chuông những toà nhà màu đỏ đổ nát này. Đến toà nhà thứ mười hai, anh đặt túi hành lý lép kẹp trên bậc thềm, lau cái trán đã lấm đầy bụi. Cái chuông phát ra âm thanh khe khẽ và xa xôi trong những chiều sâu nào đấy hun hút, trống rỗng.
Một người đàn bà đi ra cửa. Bà làm anh liên tưởng đến một con sâu bệnh hoạn, háo ăn háo uống đã đục khoét cả một cái quả chỉ chừa lại vỏ cứng và bây giờ đang lo kiếm khách trọ nào đấy có thể xơi được, để lấp đầy chỗ hổng. Anh hỏi bà có phòng trống cho thuê hay không.
Bà trả lời, tiếng phát ra từ cổ họng, cổ họng dường như được lót lông thú:
- Mời vào. Tôi có tầng ba, phía sau, đã trống một tuần nay. Anh muốn xem không?
Người thanh niên theo bà đi lên cầu thang. Một luồng ánh sáng nhợt nhạt không rõ phát ra từ đâu lắp bớt những khoảng tối trong các hành lang. Họ bước không một tiếng động nào trên một tấm thảm mà cái khung cửi dệt của nó hẳn phải không dám nhìn nhận nó nữa. Dường như tấm thảm đã trở nên một loài thực vật, trong bầu không khí nặng không hề có ánh mặt trời, nó đã bị thoái hoá thành một lớp địa y lùm xùm hay rêu lan tràn mọc từng mảng đến tận cầu thang, nó trơn nhớt dưới chân như là một chất hữu cơ. Ở mỗi chỗ ngoặt của cầu thang là những hốc lõm trên tường. Có lẽ một loại cây cỏ nào đó đã từng mọc trong đấy. Nếu đúng thế, hẳn mấy cây cỏ đó đã tàn lụi trong bầu không khí hôi hám. Có thể có những bức tượng của các vị thánh đã được đặt ở đấy, nhưng ta có thể suy luận dễ dàng là ma quỷ đã lôi họ qua bóng tối xuống những vực sâu có trang bị đồ đạc trần tục ở phía dưới.
Bà chủ nói qua cổ họng được lót lông thú:
- Phòng này đây. Phòng này tốt lắm. Ít khi trống. Mùa hè vừa rồi có người đứng đắn thuê - không gây rắc rối gì cả, lại còn trả tiền trước. Nước ở cuối hành lang. Sprowls và Mooney đã thuê ở đây ba tháng. Họ diễn trên sân khấu văn nghệ tạp kỹ. Cô B’retta Sprowls - chắc ông có nghe nói đến cô ấy - À, mà đấy chỉ là tên sân khấu - trên tủ quần áo ngay đây là nơi họ treo giấy hôn thú, có đóng khung đàng hoàng. Vòi ga ở đây, có nhiều tủ quần áo, ông thấy đấy. Ai cũng thích phòng này. Không mấy khi trống.
- Bà có nhiều nghệ sĩ sân khấu thuê phòng ở đây không?
- Họ đến rồi đi. Giới sân khấu có thuê một số phòng ở đây. Đúng thế, ông ạ, nơi đây là quận sân khấu. Mấy diễn viên không bao giờ ở lâu một chỗ nào cả. Một số có thuê ở đây. Vâng, họ đến rồi đi. Anh thanh niên nhận thuê phòng, trả trước một tuần. Anh bảo anh cảm thấy mệt và muốn nhận phòng ngay. Anh đếm tiền. Bà chủ bảo phòng đã sẵn sàng, ngay cả khăn lau và nước đều sẵn sàng.
Khi bà chuẩn bị ra ngoài, anh thanh niên hỏi câu hỏi anh đã có trên đầu môi cả nghìn lần:
- Có một cô gái trẻ - Cô Vashner, cô Eloise Vashner - bà có nhớ cô đã đến thuê ở đây không? Rất có thể cô hát trên sân khấu. Da trắng, tầm vóc trung bình, với tóc vàng kim đo đỏ và một bớt sẫm gần lông mày bên trái.
- Không, tôi không nhớ tên. Giới sân khấu thay đổi tên liên tục cũng như họ thay đổi phòng. Họ đến rồi đi. Không, tôi không nhớ tên này.

Không. Luôn luôn là không. 5 tháng điều tra liên tục rồi không tránh khỏi vô vọng. Bỏ rất nhiều thì giờ ban ngày để hỏi han mấy ông bầu, nhân viên đại diện, trường kịch nghệ, ban hợp xướng. Ban đêm trà trộn trong số khán giả của các sân khấu từ những nhà hát đầy ngôi sao đến các phòng ca nhạc hạ cấp. Anh, người yêu cô nhất trần đời, đã cố công tìm kiếm cô. Anh chắc chắn là từ khi cô biến khỏi nhà, thành phố thênh thang bao quanh toàn là nước này chứa chấp cô ở đâu đấy, nhưng nó như là một vũng lầy khủng khiếp, luôn luôn xoáy động, không có nền chắc chắn, các vật thể nổi hôm nay bị chìm lấp ngày mai trong bùn nhớt.
Căn phòng đủ tiện nghi nội thất đón người khách mới nhất với tia sáng đầu tiên của lòng hiếu khách giả tạo, một thái độ chào đón tất bật, hốc hác, máy móc như là nụ cười đặc biệt của một ả giang hồ. Sự thoải mái hiện đại đến từ ánh sáng phản chiếu từ đồ nội thất rã mục, tấm nệm thêu xơ xác của cái phô-tơi và hai chiếc ghế, tấm gương soi toàn thân rẻ tiền đặt giữa hai cửa sổ, từ một hai khung ảnh sỗ sàng và khung giường bằng đồng đặt ở góc phòng.
Người khách trọ ngồi ngả người trên ghế, bất động, trong khi căn phòng, hoang mang trong ngôn từ như thể là một phòng trọ trong Tháp Babel, cố gắng thuyết minh về chức năng cho thuê đa dạng của nó.
Cái tấm thảm với lắm mùi khác nhau, hình chữ nhật thêu hoa, giống như hòn đảo vùng nhiệt đới bao quanh bởi một vùng biển là tấm lót sàn vấy bẩn, phồng lên chỗ này, tọp xuống chỗ nọ. Trên bức tường dán giấy màu tươi sáng là những tấm hình đi theo những người vô gia cư từ nhà này đến nhà nọ. Những góc cạnh đạo mạo một cách khắc khổ của cái bệ lò sưởi bị che phủ một cách tồi tệ trong cái màn cửa theo mốt thời trang, bị kéo xệch dúm dó về một bên cứ như là tấm vải choàng của vũ nữ ba lê vùng rừng già Amazon ở Nam Mỹ. Trên cái bệ là xác một con tầu chỏng chơ được mang vào bờ khi một cánh buồm may mắn mang chúng đến bến cảng tươi mát - một hai bình hoa vô duyên, ảnh của mấy diễn viên, một lọ thuốc, vài lá bài tây lạc lõng khỏi cỗ bài.
Khi bản mật mã trở nên rõ ràng từ chữ này qua chữ khác, những dấu hiệu nhỏ nhoi còn sót lại sau cuộc diễu hành của những người khách trọ trong căn phòng đủ tiện nghi nội thất trở nên có ý nghĩa. Cái khoảnh tấm thảm xơ xác trước cái bàn phấn bảo rằng những người phụ nữ dễ thương đã đến hàng đoàn. Những dấu tay bé tí trên bức tường nói đến những tù nhân nhỏ tuổi cố lần mò tìm đường ra ánh nắng và không khí. Một vết bẩn vương vãi, toả ra như cái bóng của một bom bùng nổ, là chứng tích của một cái cốc hay chai va vào, tung toé ra lên tường chất đựng bên trong. Trên mặt gương soi toàn thân là tên người “Marie” viết nghệch ngoạc bằng kim cương. Dường như lần lượt những khách trọ trong căn phòng đủ tiện nghi đã trút ra cơn giận dữ - có lẽ không thể chịu nổi vẻ lạnh lùng hào nhoáng rẻ tiền của nó - và đem tất cả cuồng nhiệt ra phá phách. Bàn ghế tủ giường bị đẽo gọt và trầy trụa, cái ghế bành bị móp méo vì mấy lò xo bung ra, trông như là con quái vật khủng khiếp đã bị sát tử trong cơn quằn quại loạn cuồng. Một cơn quấy động nào đấy lộ liễu hơn đã sớt cái bệ lò sưởi đi một lát lớn. Mỗi thanh gỗ sàn tạo một mảng riêng rẽ và kêu thét như là trong cơn đau đớn riêng biệt của từng cá thể. Có vẻ khó tin là những người có thời từng gọi căn phòng này là “nhà” lại có ác ý gây ra bao đau thương như thế cho căn phòng. Và tuy nhiên, có thể là bản năng do ý niệm về “nhà” bị lừa gạt - vốn đã tồn tại một cách đui mù sau cơn giận dữ đầy bất bình đối với cơn phẫn nộ của những người ở trọ. Nếu ta là chủ một túp lều, ta vẫn quét dọn, trang hoàng và giữ gìn nó.

Anh khách trẻ ở trọ, gọn người trong ghế, để những ý tưởng như thế lướt qua êm ái trong đầu anh, trong khi những âm thanh và những mùi hương - đều có đủ tiện nghi nội thất - lan toả vào căn phòng. Anh nghe trong một căn phòng tiếng khúc khích và chuỗi cười vang buông thả không kiềm chế, trong những phòng khác một giọng độc thoại trách mắng, tiếng xúc xắc lanh canh, tiếng ru con và một tiếng khóc sụt sùi, tầng trên là tiếng đàn banjo gầy đầy nhiệt tình. Ở đâu đấy có những cánh cửa đóng sầm; cái thang máy kêu thét không ngừng, một con mèo rên rỉ thảm hại trên hàng rào sân sau. Và anh thở hơi thở của toà nhà - hương vị ẩm lạnh hơn là một mùi - vị nồng nồng lạnh lẽo, mốc meo như thể từ những hố ngầm dưới đất pha trộn với hương sực nức của véc-ni và đồ gỗ mục nát đã lên nấm mốc. Và thình lình, khi anh ngả người như thế, mùi hoa mignonette ngọt dịu tràn ngập căn phòng. Mùi hương dường như đến theo một cơn gió thoảng, với sự chắc chắn, thơm tho và khẳng định thành một hương vị khác có sự sống. Và người con trai thốt lên: “Gì thế, hở em yêu?” như thể là có tiếng gọi anh, rồi anh đứng bật dậy, nhìn chung quanh. Mùi hương nồng nàn bám lấy anh và bao quanh lấy anh. Anh dang cả hai tay ra đón nó, mọi tri giác của anh trong nhất thời đều bị hoang mang, trộn lẫn. Làm thế nào một mùi hương có thể gọi được anh? Chắc chắn, đấy phải là một linh hồn. Nhưng mà, có phải đấy là một âm thanh đã chạm đến anh, đã ve vuốt anh?
“Nàng đã ngụ ở phòng này”, anh thốt lên và bật người ra để níu lấy một ít, vì anh biết anh có thể nhận ra cái gì đấy dù nhỏ nhặt nhất thuộc về nàng hay cái gì đấy nàng đã chạm tay đến. Mùi hương mignonette này, mùi hương nàng vẫn yêu thích và biến thành mùi của riêng nàng, đã từ đâu đến? Căn phòng đã được dọn dẹp một cách cẩu thả. Vương vãi trên chiếc khăn mỏng dính đậy cái bàn phấn là khoảng nửa tá kim cài tóc - những người bạn thầm kín, khó phân biệt nhau của giới phụ nữ, thuộc phái yếu, với cảm hứng vô hạn và một thể ngôn ngữ không thể truyền thông được. Anh bỏ qua những món này, hiểu rõ chúng hoàn toàn thiếu khả năng chứng minh ai là ai. Khi lục lọi trong mấy ngăn kéo của cái bàn phấn, anh tìm thấy một khăn tay nhỏ bị vứt bỏ, nhàu nát. Anh áp nó vào mặt mình. Nó có mùi cây vòi voi nồng nặc xấc xược, anh ném nó xuống sàn nhà. Trong một ngăn kéo khác anh tìm ra vài cúc áo, một tờ chương trình nhà hát, một thẻ cầm đồ, hai mẩu kẹo đường, một lô cuốn sách nói về cách đoán mộng. Trong ngăn kéo cuối cùng là một kẹp tóc bằng vải sa-tanh đen, khiến anh dừng tay, vội bốc lấy nó, giữa băng giá lạnh và lửa nóng cháy. Nhưng cái kẹp tóc cũng chỉ là loại trang sức của nữ giới, khiêm tốn, thông thường và vô nhân cách, không nói lên được điều gì.
Và rồi anh lùng sục khắp phòng như con chó săn đánh hơi con mồi, lướt qua bức tường, bò trên hai chân và hai tay để xem xét từng góc kẹt của tâm trải sàn phập phồng sục sạo cái bệ lò sưởi và mấy cái bàn, màn cửa, màn treo, cái tủ nhỏ ở góc phòng, để tìm kiếm một dấu vết sinh động, dù anh không thể nhận ra là nàng đã ở bên anh, xung quanh anh, tựa vào anh, ở trong anh, bên trên anh, bám lấy anh, âu yếm với anh, gọi anh qua mọi cảm nhận tính tế hơn, đến nỗi ngay những giác quan đơn sơ nhất của anh cũng nhận được tiếng gọi. Một lần nữa, anh trả lời: “Vâng, em yêu!”, và quay người, đôi mắt rừng rực, để nhìn vào khoảng không, vì lẽ anh không thể nhận ra bóng hình, màu sắc tình yêu và đôi vòng tay mở rộng trong mùi hương của hoa mignonette. Ôi, Chúa ơi! mùi hương ấy đến từ đâu và từ bao giờ mùi hương có tiếng nói để kêu gọi?
Thế là anh lần mò xung quanh. Anh vùi mình trong các kẽ ngách và góc kẹt và tìm thấy nút chai và những điếu thuốc lá. Anh bóp chúng bẹp gí trong khinh rẻ. Nhưng có lúc anh tìm thấy trong một nếp gấp của tấm trải sàn nhà một điếu xì-gà đã hút dở và anh lấy chân chà nó với tiếng càu nhàu sắc lạnh. Anh sàng lọc cả căn phòng từ đầu này sang đầu kia. Anh tìm thấy những chứng tích lặt vặt đáng chán và hạ cấp của nhiều khách trọ lãng tử, trong khi không thấy dấu vết nào của một người có thể đã thuê phòng ở đây, người mà linh hồn dường như lảng vảng quanh đây.

Và rồi anh nghĩ đến bà chủ nhà. Anh chạy từ căn phòng bị ma ám xuống mấy bậc thang, đến một cánh cửa có khe nứt toả sáng ra ngoài. Bà chủ nhà ra mở cửa. Anh cố gắng trấn áp nỗi xúc động. Anh van nài:
- Bà có thể cho tôi biết, ai đã thuê căn phòng đó trước khi tôi đến?
- Vâng, thưa ông. Tôi có thể cho ông biết lần nữa. Đấy là Sprowls và Mooney, như tôi đã nói. Tôi nói cô B’retta Sprowls trình diễn ở các nhà hát, nhưng thực ra là bà Mooney. Nhà của tôi nổi tiếng là đứng đắn. Giấy hôn thú, có đóng khung, treo vào cái đinh bên trên.
- Cô Sprowls là người như thế nào - ý tôi muốn nói về ngoại hình?
- Sao cơ? Tóc đen, thưa ông, thấp người, tròn trĩnh, với khuôn mặt trông khôi hài. Họ đã đi ngày thứ ba tuần rồi.
- Và trước họ, ai đã ở đấy?
- Sao cơ? Đấy là một ông làm nghề khuân vác. Ông ta đi mà còn thiếu tiền thuê phòng một tuần. Trước ông là cô Crowder và đứa con của cô ấy, họ ở bốn tháng. Trước nữa là ông Doyle, tiền phòng do các đứa con trả. Ông thuê trong sáu tháng. Đấy là một năm nay, trước nữa thì tôi không nhớ.
Anh cảm ơn bà và lủi thủi trở về phòng. Căn phòng đã chết. Hương thơm cho nó sự sống đã không còn nữa. Mùi hương hoa mignonette đã ra đi. Thay vào đấy là mùi cũ kỹ, nặng nề của đồ đạc lên mốc meo, của bầu không khí ngột ngạt như là trong kho hàng.
Hy vọng tàn rụi đã làm cạn kiệt mọi niềm tin của anh. Anh ngồi nhìn chăm chăm ngọn đèn ga vàng vọt. Rồi anh đi đến cái giường và xé tấm vải giường ra thành từng dải nhỏ. Dùng cái sống của một con dao, anh nhét từng dải vào từng khe hở của các cửa sổ và cánh cửa chính. Khi mọi chỗ đã được lèn chặt, anh tắt ngọn lửa, mở vòi ga hết mức, rồi lên nằm một cách thoải mái trên giường.

*
Đấy là đêm bà McCool cảm thấy thèm bia. Thế là bà đi lấy một lon đến ngồi bên bà Purdy, tại một góc cô tịch dưới tầng hầm nơi các bà chủ nhà tụ họp và nơi con sâu tham lam ít khi chết đói.
Bà Purdy nói, qua một vòng tròn bọt bia li ti:
- Tối nay tôi đã cho thuê được căn phòng trên tầng ba. Một anh thanh niên đến thuê. Anh ta đi ngủ cách đây hai giờ rồi.
Bà McCool nói với lòng thán phục:
- Thật à, bà Purdy? Bà tài lắm mới có thể cho thuê loại phòng như thế. Và McCool thì thầm, đầy vẻ bí ẩn, thêm câu hỏi:
- Thế thì bà có nói cho anh ta biết không?
Bà Purdy nói, cổ họng càng như được lót thêm lông thú dày nhất:
- Có phòng là phải trang bị để cho thuê. Tôi không nói cho anh ấy biết bà McCool ạ.
- Bà nói đúng lắm, có cho thuê phòng thì những người như chúng ta mới sống được. Bà có đầu óc kinh doanh độc đáo lắm. Nhiều người có thể từ chối căn phòng đó nếu họ biết là đã có khách tự tử và nằm chết trên cái giường trong đấy.
- Như bà nói, chúng ta phải lo kiếm sống.
- Thật vậy bà ạ. Đúng một tuần trước tôi đã giúp bà trải lại tấm lót sàn. Một cô gái xinh xắn mảnh dẻ tự tử bằng ga thắp đèn - cái cô có khuôn mặt nhỏ nhắn đấy, bà Purdy.
Bà Purdy đồng tình nói nhưng pha chê bai:
- Cô ấy có thể được xem là đẹp, như bà nói, nếu không có cái bớt trên lông mày bên trái. - Dùng thêm bia đi, bà McCool.
.

Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeWed Jul 25, 2018 8:10 pm

.

Sự ra mắt ngắn ngủi của Tildy

Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910)


Nếu bạn không biết “Quán ăn bình dân và Nhà hàng gia đình” của Bogle thì đó là một thiệt thòi của bạn. Bởi vì nếu bạn nằm trong số người may mắn xưa nay vẫn ăn uống sang trọng thì hẳn bạn sẽ thích thú được biết nửa kia của nhân loại tiêu thụ thực phẩm ra sao. Còn nếu bạn thuộc về cái nửa mà hóa đơn thanh toán do người hầu bàn đem tới là cả một biến cố, thì ắt bạn phải biết quán Bogle, vì ở đấy bạn nhận được cái xứng với túi tiền của bạn, ít ra là về mặt số lượng.

Quán Bogle nằm ngay trên trục chính của khu vực tư sản, tại phố Brown-Jones-and-Robinson cùng Đại lộ số Tám. Trong quán có hai dãy bàn, mỗi dãy sáu chiếc. Trên mỗi cái bàn có một cái giá xếp những lọ đựng đủ món gia vị. Từ cái lọ đựng tiêu bạn có thể lắc ra được một đám mây không mùi vị và u u sầu sầu như bụi núi lửa. Bạn đừng trông đợi tí gì ở cái lọ đựng muối cả. Dù có là một con người có khả năng ép được dòng nước mật lờ đờ từ loại củ cải đỏ nhạt thếch, ý chí của bạn cũng bị thui chột một khi bạn có dịp moi muối từ những cái lọ của quán Bogle. Ngoài ra, trên mỗi bàn có một bầu chứa món nước chấm giả danh tuyệt mỹ làm “theo công thức pha chế của một bậc quý nhân Ấn Độ”.
Ngồi ở quầy thu tiền là tay Bogle lạnh lùng, hãm tài, chậm chạp, tàn tệ, chuyên quơ tiền của bạn. Đằng sau đống tăm xỉa răng, ông ta trả lại tiền thừa cho bạn, thu hóa đơn của bạn lại và phun vào mặt bạn, như cóc phun, một câu về thời tiết. Tốt hơn hết là bạn đừng vượt quá khuôn khổ một sự đồng tình với thông báo khí tượng của ông ta. Vì không phải là chỗ bạn bè của Bogle, mà chỉ là khách ăn một chốc lát của ông ta, bạn và ông ta có thể không gặp lại nhau cho đến khi nào có tiếng tù và gọi đi ăn của thiên sứ Gabriel. Cho nên hãy cầm lấy số tiền ông ta trả lại và xéo đi… đằng quỷ nào thì xéo cho rảnh. Đấy là cái triết lý của Bogle.

Những nhu cầu của khách ăn quán Bogle được đáp ứng bởi hai cô hầu bàn và một giọng nói. Một cô hầu bàn tên là Aileen. Cô ta người cao, đẹp, hoạt bát, duyên dáng và đã thạo lối đùa cợt. Còn họ của cô? Ở quán Bogle này cần quái gì đến tên họ, cũng như cần quái gì đến bát nước rửa tay sau khi ăn cơ chứ.
Tên của cô hầu bàn kia là Tildy. Việc gì cứ phải nhất thiết gọi là Matilda nhỉ? Xin hãy nghe lần này cho rõ nào: Tildy, Tildy. Tildy người lùn bè bè, mặt xấu và quá lo lắng đến việc làm vừa lòng mọi người, đến việc làm vừa lòng mọi người. Bạn hãy nhắc lại câu nói cuối một vài lần, để hiểu cái ý nghĩa của sự lặp lại.
Giọng nói của quán Bogle là vô hình. Nó phát ra từ bếp và chẳng tỏ ra độc đáo hay đặc sắc gì cả. Nó là một giọng nói vô học, bằng lòng với việc đơn thuần lặp lại những tiếng hô món ăn do các cô hầu bàn xướng lên.

Nhắc lại một lần nữa rằng Aileen đẹp có làm bạn phát chán không? Giá cô ấy được khoác bộ quần áo vài trăm đôla và gia nhập đoàn diễu hành lễ Phục sinh, và giá bạn được trông thấy cô ấy, nhất định bạn sẽ vội vã thốt ra những lời kia.
Khách ăn quán Bogle là nô lệ của cô. Cô có thể phục vụ được sáu bàn liền một lúc. Những người đang vội thì nén sự sốt ruột của mình để sung sướng ngắm nhìn dáng đi lanh lẹn và thân hình kiều diễm của cô. Những người đã ăn xong còn ăn nữa để có thể tiếp tục ở trong vòng hào quang những nụ cười của cô. Mọi người đàn ông đến đó - mà khách cũng chủ yếu là đàn ông - đều cố gây ấn tượng với cô.
Aileen biết trao qua đổi lại rất thành công những câu đùa dí dỏm với một tá người ăn một lúc. Và mỗi một nụ cười của cô, như những tràng đạn ghém, găm vào biết bao nhiêu là trái tim. Đồng thời trong lúc ấy cô vẫn thực hiện những chiến công xuất sắc là đem các món thịt lợn xào đậu, những món hầm, trứng tráng, xúc xích với nước chấm từ lúa mì và đủ mọi thứ khác trong lập là, trong chảo, ở thế dựng đứng và thế nằm ngang. Bằng tất cả những yến tiệc kiểu ấy, cộng với sự tán tỉnh và đối đáp hóm hỉnh, quán Bogle đại loại cũng gần như biến thành một phòng khách thượng lưu, với Aileen trong vai bà Recamier.
Nếu những khách thoáng ghé qua đã bị quyến rũ bởi Aileen diễm lệ, thì những người thường xuyên lui tới say mê cô biết chừng nào. Vô số tranh chấp đã diễn ra trong số các khách quen của quán. Tối nào Aileen cũng được hẹn hò. Ít nhất một tuần hai lần có người đưa cô đi rạp hát hoặc đi nhảy. Một đấng nam nhi béo tốt mà cô và Tildy gọi riêng với nhau là “lợn thiến” đã tặng cô chiếc nhẫn ngọc lam. Một người khác biệt hiệu là “tẩm” làm việc trên chiếc xe chuyên sửa chữa của hãng máy kéo đã toan biếu cô một con chó xù hễ khi nào người anh anh ta vớ được hợp đồng chuyên chở ở Đại lộ số Chín. Còn người đàn ông vẫn ăn món sườn trơ xương với rau bina và nói rằng anh ta làm nghề mua bán cổ phần chứng khóan đã mời cô đi xem “Parsifal” với anh ta.
- Tớ chẳng biết nơi ấy ở đâu, - Aileen tâm sự với Tildy, - nhưng mà bao giờ phải có nhẫn cưới nằm trên ngón tay đã thì tớ mới cất công may quần áo đi đường, tớ nói có phải không nào?

Thế còn Tildy thì sao?
Trong quán Bogle nghi ngút hơi, lao xao tiếng nói chuyện và thơm mùi bắp cải có một tấn bi kịch của cõi lòng. Tildy, với cái mũi thô, bộ tóc màu cỏ khô, da mặt có tàn hương, thân hình bồ sứt cạp thì chẳng có ai nhòm ngó đến cả. Chẳng một người đàn ông nào dõi mắt theo cô mỗi khi cô đi lại trong nhà hàng, chỉ trừ đôi khi họ sáng mắt lên nhìn đồ ăn cô mang tới vì bụng đói cồn cào. Chẳng ai trêu ghẹo cô để cô vui vẻ nhập vào cuộc trao đổi õng ẹo gồm toàn những lời dí dỏm. Chẳng ai lớn tiếng “cưa” cô mỗi sáng như họ vẫn thường làm với Aileen, bằng cách trách nàng, khi món trứng được bưng đến chậm, rằng đêm qua nàng đi chơi với những anh bồ tốt số nào. Không ai tặng cô chiếc nhẫn ngọc lam hoặc mời cô làm một chuyến đi đến cái nơi “Parsifal” xa xôi, huyền bí bao giờ.
Tildy là một cô phục vụ tốt nết nên cánh đàn ông chịu đựng được cô. Những người ngồi ở bàn cô phục vụ nói năng ngắn gọn với cô bằng những trích dẫn trong thực đơn, rồi sau đó rướn giọng lên những gam ngọt ngào, thi vị để hùng hồn phát ngôn với người đẹp Aileen. Họ ngọ nguậy trên ghế để nhìn ngang nhìn ngửa, bỏ qua cái dáng lù đù của Tildy mà tìm kiếm Aileen, để vẻ đẹp của nàng có thể biến trứng và thịt muối của họ thành cao lương mỹ vị.
Tildy bằng lòng với địa vị lao công không người tỏ tình, miễn sao Aileen nhận được sự tán dương và ái mộ. Cái mũi thô trung thành với cái mũi Hy Lạp xinh xắn. Cô là bạn của Aileen, cô sung sướng được thấy Aileen ngự trị các trái tim và kéo sự chú ý của giới đàn ông khỏi món bánh luộc đang bốc khói hay món bánh kem trứng với chanh. Nhưng ở sâu dưới những nốt tàn hương và bộ tóc màu cỏ khô, những kẻ xấu xí nhất trong chúng ta cũng đều mơ đến một hoàng tử hay một công chúa sẽ đến đón riêng ta, chứ không phải vì một ai khác.

Một buổi sáng, Aileen đi làm với một bên mắt hơi thâm tím, khiến Tildy lo lắng đến mức tưởng như có thể chữa được bất kỳ bệnh mắt nào.
- Một thằng cha du côn, - Aileen giải thích, - đêm qua lúc tớ đang đi về nhà ở góc phố Hai mươi ba và Đại lộ số Sáu, thì hắn ta sán đến rồi giở giọng tán tỉnh. Tớ lạnh lùng cho hắn nghỉ khỏe, đã tưởng hắn lén lút rút lui, ai dè hắn theo tớ đến tận phố Mười tám, rồi lại giở cái giọng ba lăng nhăng ra. Chà! Tớ mới cho hắn một cái tát vào bên mắt. Thế là hắn làm tớ tím bầm chỗ mắt này đây. Nom có khiếp lắm không, hả Tin? Tớ chỉ lo anh Nicholson trông thấy thôi. Quãng mười giờ anh ấy lại đây uống trà và ăn bánh mì rán đấy.
Tildy vừa lắng nghe bạn vừa lặng đi vì mừng rỡ. Chẳng có người đàn ông nào theo đuổi cô bao giờ. Vào bất kỳ giờ nào trên cả hăm bốn tiếng cô cũng an toàn khi đi ngoài phố. Sung sướng cái nỗi gì khi có một người đàn ông bám theo và vì tình yêu mà làm tím bầm một bên mắt thế kia!
Trong số khách hàng của quán Bogle có một thanh niên tên là Seeders, làm ở hiệu giặt là. Anh Seeders mảnh người và có bộ tóc màu sáng, tựa hồ như vừa mới được sấy khô queo và được phết hồ cứng. Anh ta quá nhút nhát, không dám mong đến sự để ý của Aileen, vì thế nên anh ta thường ngồi ở bàn của Tildy và đắm mình vào sự yên lặng cùng món cá luộc.

Một hôm trước khi đến đấy ăn, anh Seeders đã uống bia. Lúc ấy trong tiệm chỉ có hai ba người khách. Khi anh Seeders đã đánh chén xong món cá của mình, anh liền đứng dậy, quàng tay qua eo lưng Tildy, trắng trợn hôn cô một cái rõ to rồi bước ra phố. Anh khinh miệt phẩy tay về phía hiệu giặt và rảo cẳng bước đến khu vực giải trí ở dãy hiên có vòm cuốn, bỏ tiền xu vào các máy tự động để nhập cuộc vui chơi.
Trong giây lát Tildy đờ người ra. Cô sực tỉnh khi Aileen dứ dứ ngón tay vào cô một cách tinh quái và nói:
- Chết nhé, Tildy, thế mà ghê thật! Cô nàng ma mãnh ơi! Chả mấy chốc rồi bà nẫng mất mấy chàng của tôi. Tôi phải để mắt đến bà mới được, lệnh bà ạ.
Một tia sáng lóe lên trong trí óc đang rộn ràng của Tildy. Trong khoảnh khắc, từ một kẻ ái mộ ngoan ngoãn, vô hi vọng, cô đã bước lên hàng chị em với Aileen toàn năng, dòng dõi của Eva. Giờ cô cũng đã là người thu hút đàn ông, là cái bia của thần Ái tình, là cô gái Sabine (1) phải cảnh giác khi người La Mã tiệc tùng chè chén. Đàn ông đã thấy eo lưng của cô đáng ôm và đôi môi của cô đáng hôn. Cái anh chàng Seeders đường đột si tình kia dường như đã thực hiện trên cô một tiết mục màu nhiệm của nghệ thuật giặt là lấy ngay. Gỡ bỏ vẻ ngoài xấu xí như lớp vải bao bố của Tildy, anh ta đã giặt giũ, đã hong khô, đã phết hồ và đã là nó, rồi trả lại cho cô dưới dạng vải thêu mỏng tang phủ lên chính bản thân thần Vệ nữ.
Những nốt tàn hương trên má Tildy chìm vào ráng màu ửng hồng. Cả Circe (2) và Psyche (3) cùng long lanh nhìn bằng đôi mắt sáng của cô. Ngay đến chính Aileen cũng chưa từng được ôm và được hôn công khai như thế trong tiệm.

Tildy không thể giữ được điều bí mật tuyệt vời này được lâu. Lợi dụng lúc vãn khách, cô tiến lại bàn thu tiền của Bogle. Mắt cô sáng lấp lánh, cô cố không để cho lời nói của mình có vẻ kiêu hãnh và huênh hoang. Cô nói:
- Hôm nay một vị khách đã xúc phạm đến em. Ông ấy ôm ghì ngang lưng và hôn em.
- Thế kia à? - Bogle hỏi, vẻ mặt đã lột bỏ lớp vỏ giáp chuyên chú kinh doanh xưa nay. - Từ tuần tới, mỗi tuần cô sẽ được nhận thêm một đôla nữa.
Đến bữa ăn thường lệ sau đó, khi Tildy bước ra trước những khách hàng cô đã quen, cô nói với từng người một cách khiêm tốn, như thể phẩm giá của mình không cần phải phóng đại:
- Hôm nay, một vị khách đã xúc phạm đến em ở tiệm này. Ông ấy đã vòng tay quàng lấy lưng em và hôn em.
Khách ăn đón nhận tin này theo nhiều cách khác nhau: người thì tỏ ra không tin, người thì chúc mừng, người thì lại tới tấp trút lên cô những lời đùa tếu từ trước đến giờ chỉ dành cho một mình Aileen. Trái tim Tildy nở ra sung sướng, vì rốt cuộc cô đã thấy những ngọn tháp của lâu đài tình ái nhô lên nơi chân trời, phía cuối của vùng bình nguyên xám xịt mà lâu nay cô vẫn lang thang.

Hai ngày liền anh Seeders không lại. Trong thời gian ấy Tildy đã xác định bản thân một cách chắc chắn rằng mình là một cô gái đang được tán tỉnh. Cô mua các dải băng, sửa sang lại mái tóc cho giống hệt như của Aileen và thắt eo chật lại hai insơ. Cô mang trong lòng một nỗi lo hồi hộp và dễ chịu rằng biết đâu anh Seeders sẽ ập vào bất thình lình và giương súng lục bắn cô. Chắc là anh yêu cô đến mất trí, mà những người tình cảm mãnh liệt thì hay ghen tuông mù quáng lắm!
Ngay cả Aileen cũng chưa bị bắn bằng súng lục bao giờ. Thế là Tildy mong rằng anh ấy sẽ không bắn cô, vì cô luôn luôn là người bạn chung thủy với Aileen, cô không muốn át thanh danh của bạn mình.

Mãi bốn giờ chiều ngày thứ ba anh Seeders mới tới. Ở các bàn chẳng có khách khứa nào cả. Tít phía cuối tiệm Tildy đang xúc mù tạt vào các lọ, còn Aileen thì đang cắt những chiếc bánh làm tư. Anh Seeders đi đến chỗ họ đang đứng.
Tildy ngẩng lên nhìn thấy anh ta, cô há hốc miệng và áp chặt cái thìa xúc mù tạt vào nơi tim. Chiếc nơ màu đỏ đang ở trên mái tóc cô. Cô đeo trên cổ biểu tượng của thần Vệ nữ trên Đại lộ số Tám: chiếc dây chuyền hạt cườm xanh lơ với hình trái tim bạc lủng lẳng.
Anh Seeders đỏ mặt lúng túng. Một tay anh thọc vào túi quần, tay kia thọc vào cái bánh bí ngô ngon lành.
- Cô Tildy này, - anh ta nói, - tôi muốn xin lỗi cô về việc làm của tôi tối hôm nọ. Thực tình mà nói, tôi đã uống đến mức bí tỉ, chứ không thì ai lại làm như thế. Lúc tỉnh táo, không bao giờ tôi lại có thái độ như vậy với phụ nữ. Cô Tildy ạ, tôi mong rằng cô sẽ tha lỗi cho tôi. Xin cam đoan với cô là tôi không đời nào làm như vậy nếu tôi hiểu được mình đang làm trò gì và không quá say đến như thế.
Bày tỏ một cách lịch sự sự hối hận của mình rồi, anh Seeders lui ra khỏi quán, trong lòng đinh ninh rằng lỗi lầm của mình đã được sửa chữa.

Nhưng đằng sau tấm bình phong tiện lợi, Tildy đã gục mặt xoài ra bàn, giữa những đầu mẩu phó mát và tách cà phê. Cô òa lên nức nở, sụt sùi và trở về với miền bình nguyên xám xịt, nơi những kẻ mũi thô và tóc màu cỏ khô như cô vẫn lang thang. Cô giật tung chiếc nơ màu đỏ quẳng xuống sàn. Cô khinh bỉ thậm tệ Seeders, cô đã lầm tưởng cái hôn của anh ta là cái hôn của chàng hoàng tử khai sơn phá thạch, bắt những chiếc đồng hồ ngủ quên phải chạy, bắt đám tiểu đồng tung tăng rộn rã trên con đường đến chốn thần tiên. Nhưng đấy chỉ là cái hôn say rượu và vô tình, vương quốc mộng mơ không bị đánh thức bởi hiệu lệnh giả: cô mãi mãi vẫn chỉ là Người Đẹp đang ngủ.

Nhưng chưa phải là đã mất tất cả. Cánh tay Aileen đang quàng lên cô, và bàn tay rực đỏ của Tildy quờ quạng giữa đám đầu mẩu phó mát cho đến khi nó tìm được nắm tay ấm áp của bạn cô.
- Thôi đừng buồn Tildy ạ, - không hiểu rõ tâm trạng của cô, Aileen cất tiếng. - Cái đồ mặt củ cải, choắt như cái kẹp quần áo Seeders ấy có đáng gì. Hắn ta không phải bậc nam nhi quân tử, nếu không thì hắn đã chẳng phải vác mặt đi xin lỗi.

*Chú thích:
(1) Tên một bộ tộc ở Ý bị người La Mã chinh phục vào thế kỷ 3 trước Công nguyên.
(2) Circe : trong thần thoại Hy Lạp là nữ phù thủy, chúa tể đảo Ea, có tài biến đàn ông thành lợn.
(3) Psyche : trinh nữ đẹp tuyệt trần trong thần thoại Hy Lạp, được cả thần Ái tình say mê và thần Vệ nữ ghen.

Nguyễn Việt Long dịch
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeSat Aug 11, 2018 8:25 am

.

NHỮNG MẨU BÁNH MÌ KIẾN HIỆU  

Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910)


Cô Marta Michem có một cửa hiệu bán bánh mì nhỏ ở góc phố (ấy chính cái cửa hiệu ấy, bạn biết rồi chứ? Nơi có bậc tam cấp đi xuống và khi bạn mở cửa, chiếc chuông kêu leng keng).
Cô Marta đã ngấp nghé tứ tuần, và trong tài khoản của cô ở ngân hàng có hai nghìn đôla. Cô Marta có hai chiếc răng giả và một trái tim rất đa cảm. Nhiều phụ nữ khi đi lấy chồng thật ra còn ít điều kiện hơn cô Marta kia.

Khoảng hai ba lần trong tuần ở cửa hiệu lại xuất hiện một khách hàng mà cô Marta ít nhiều để ý đến. Đó là một người đàn ông trung niên, đeo kính và có bộ râu quai nón rậm được xén tỉa thành hình cái nậm. Ông ta nói tiếng Anh với giọng Đức rất nặng. Bộ comlê ông ta mặc hơi rộng, đã cũ, không được là cẩn thận, nhiều chỗ đã phải vá. Ấy thế nhưng ông vẫn có vẻ chỉnh tề và cái chính là tác phong của ông rất đứng đắn.
Người khách này bao giờ cũng chỉ chọn hai chiếc bánh mì đã cứng. Bánh mì mới ra lò giá năm xu một chiếc, còn bánh mì đã cứng thì năm xu được những hai cái. Không khi nào ông ta hỏi mua một thứ gì khác.
Có một lần cô Marta nhận thấy những vệt bột màu đỏ và nâu ở ngón tay của ông. Khi đó cô khẳng định ông ta là hoạ sĩ và rất nghèo. Có lẽ ông phải sống ở đâu đó trên gác xép, hàng ngày ăn bánh mì khô cứng và mơ ước đến bao nhiêu thứ ngon lành khác có rất nhiều ở cửa hiệu của cô. Bây giờ, mỗi bận ngồi ăn sáng - một miếng thịt bê, bánh bơ mứt và nước chè - cô Marta thỉnh thoảng lại thở dài và thương xót cho ông hoạ sĩ, một con người tế nhị và có học đến vậy, lẽ ra có thể cùng ngồi ăn uống ngon lành với cô lại phải ngồi nhai những mẩu bánh mì khô cứng trên gác xép lạnh lẽo, bị gió lùa. Trái tim cô Marta, như bạn biết đấy, vốn rất đa cảm.

Sau khi quyết định kiểm tra lại điều phỏng đoán của mình về nghề nghiệp của ông khách, cô Marta đã đem từ phòng trong ra cửa hiệu bức tranh trước kia mua tại nơi bán đấu giá và đặt nó lên giá phía sau quầy hàng. Bức tranh vẽ một cảnh tượng ở Venice ở chỗ dễ thấy nhất, hay nói đúng hơn là chỗ lắm nước nhất nổi lên một toà cung điện đá trắng nguy nga (nếu như tin vào chú thích phía dưới). Khoảng không gian còn lại đầy kín những chiếc thuyền có mui (một mệnh phụ ngồi trên một chiếc thuyền đang thò ngón tay xuống nước), những đám mây, bầu trời và cơ man những mảng tối. Không một hoạ sĩ nào đi ngang qua một bức tranh như vậy mà lại không chú ý đến nó.
Hai ngày sau người khách ấy lại đến cửa hiệu.
- Sin pà hai chiếc bánh mì khô. (1)
Và khi cô Marta gói bánh mì vào giấy, ông nói: - Thưa pà, bức tranh của pà mới đẹp làm sao.
- Thế à? - Cô Marta rất hớn hở vì cái mẹo láu cá của mình. - Tôi yêu nghệ thuật lắm và… (có quá sớm khi nói: … “và cả các hoạ sĩ” không nhỉ?) - Sau khi tìm được từ thay thế cô nói tiếp: - … và hội hoạ. Ông cũng thích bức tranh này à?
- Cung điện này vẽ không đúng, - người khách trả lời, - phối cảnh không chuẩn xác. Thôi, chào pà nhé.
Ông khách cầm gói bánh mì, cúi chào và bước nhanh ra cửa.

Bây giờ thì không còn phải nghi ngờ gì nữa, ông ấy đúng là hoạ sĩ. Cô Marta lại đem bức tranh cất vào phòng trong.
Ánh mắt ông ấy sau cặp kính trông mới dịu dàng nhân hậu làm sao! Vầng trán ông ấy mới cao làm sao! Vừa mới nhìn bức tranh đã nhận xét được ngay về cách phối cảnh - vậy mà phải sống bằng bánh mì khô! Nhưng các thiên tài nhiều khi buộc phải vật lộn để sinh tồn trước khi thế giới công nhận họ đấy chứ.
Nghệ thuật và kỹ thuật phối cảnh sẽ được lợi bao nhiêu nếu như con người tài năng này được sự hỗ trợ của hai nghìn đôla tài khoản ngân hàng, một cửa hiệu bánh mì và một trái tim đa cảm… Nhưng cô Marta ơi, cô lại bắt đầu mơ mộng hão huyền rồi đấy!

Bây giờ mỗi lần đến hiệu bánh mì, người khách hàng thường đứng lại một vài phút ở quầy hàng để nói chuyện với bà chủ. Rõ ràng là sự niềm nở của cô Marta làm ông ưng lòng.
Ông vẫn tiếp tục mua bánh mì khô cứng. Không hề mua gì khác ngoài bánh mì khô, không mua bánh ngọt, không mua bánh rán, cũng chẳng hề mua bánh quy đường ngon tuyệt vời của cô.
Cô Marta có cảm tưởng như gần đây ông gầy đi và trở nên có phần rầu rĩ. Cô rất muốn giúi thêm cái gì đó ngon lành vào cái gói nghèo nàn của ông, nhưng lần nào cô cũng không đủ can đảm làm điều đó. Cô không dám xúc phạm đến ông. Các hoạ sĩ vốn rất kiêu hãnh mà lại.
Cô Marta bắt đầu xuất hiện ở quầy hàng trong chiếc áo lục trắng chấm xanh. Trong phòng phía sau cửa hiệu bánh mì, cô Marta thường điều chế một hợp chất bí ẩn nào đó từ hạt mộc qua và hàn the. Nhiều người hay sử dụng chất này làm cho trắng da.

Vào một ngày đẹp trời, người khách hàng lại ghé vào cửa hiệu bánh mì như thường lệ, đặt đồng năm xu lên quầy hàng và mua hai cái bánh mì khô muôn thuở của mình. Khi cô Marta vừa đưa tay lên giá lấy bánh mì thì ngoài phố vang lên tiếng còi rú, tiếng bánh xe và một chiếc xe cứu hoả phóng vụt qua cửa hiệu bánh mì.
Ông khách hàng lao vọt ra cửa như bất kì một người nào khác ở vào địa vị ông. Trong đầu cô Marta bỗng loé lên một ý nghĩ tuyệt diệu và cô đã lợi dụng ngay được sự việc này.
Trên giá phía sau quầy hàng có một miếng bơ người bán sữa vừa mang đến cho cô mười phút trước đây. Cô lấy dao cắt đôi những chiếc bánh mì khô và đặt vào trong mỗi cái bánh một lát bơ khá lớn, sau đó kẹp chặt hai nửa lại.
Khi ông khách hàng quay vào thì cô Marta đã kịp gói bánh mì vào giấy. Sau vài phút nói chuyện ngắn ngủi nhưng đặc biệt thú vị, ông ta rời cửa hiệu, và cô Marta im lặng mỉm cười, mặc dù lúc đó trái tim cô đang đập bồn chồn.
Có lẽ cô đã tự cho phép mình quá liều chăng? Nếu ông ấy tự ái thì sao? Không, chẳng nhẽ lại như vậy! Đồ ăn uống đâu phải những bông hoa - chúng không có ngôn ngữ của mình. Tặng bơ hoàn toàn không có nghĩa là người phụ nữ có ý xấu hổ.
Hôm đó cô Marta suy nghĩ rất nhiều về điều đó. Cô hình dung thấy ông khách phát hiện ra cái mẹo láu lỉnh vô tội của cô như thế nào.
Này nhé, ông ấy xếp bút vẽ và bảng pha màu lại. Trên giá vẽ là một bức tranh được phối cảnh rất hoàn hảo. Ông chuẩn bị bữa sáng bằng bánh mì khô và nước lã. Ông cắt bánh mì ra và… ái chà! Hai má cô Marta ửng hồng. Ông có nghĩ đến bàn tay người đã cho bơ vào bánh mì không nhỉ. Ông có muốn…

Chuông trên cửa bỗng réo lên giận dữ. Ai đó bước thình thịch vào hiệu bánh mì. Cô Marta vội từ phòng trong chạy ra và nhìn thấy hai người đàn ông đứng ở quầy hàng. Một người trẻ tuổi ngậm chiếc tẩu trên môi - đây là lần đầu tiên cô thấy anh ta, còn người đàn ông thứ hai chính là ông hoạ sĩ của cô.
Mặt ông hoạ sĩ đỏ phừng phừng, chiếc mũ lật ngửa ra phía sau gáy, tóc tai bù xù. Ông ta nắm chặt tay và giận dữ giơ quả đấm trước mặt cô Marta. Giơ ngay trước mặt cô Marta!
- Dummkôp! - ông ta quát lên giận dữ bằng tiếng Đức. Cứ đợi đấy - Tausendonfer! - hay là tiếng gì đó đại loại vậy.
Chàng thanh niên kéo ông hoạ sĩ ra cửa.
- Không, tôi sẽ không ra khỏi nơi đây trước khi nói hết mọi điều với bà ta. - ông hoạ sĩ gào lên tức tối. Những quả đấm của ông làm cho quầy hàng của cô Marta biến thành một chiếc trống Thổ Nhĩ Kỳ.
- Bà đã phá hỏng hết của tôi, - ông quát, đôi mắt xanh long lên giận dữ sau cặp kính. - Tôi, tôi sẽ nói hết tất cả! Bà là đồ mèo già láo lếu!
Cô Marta kiệt sức tựa lưng vào chiếc giá xếp bánh mì, tay nắm chiếc áo lụa trắng chấm xanh của mình.
Anh thanh niên túm lấy cổ áo ông hoạ sĩ.
- Đi thôi! Nói hết thế là được rồi. - Anh kéo ông bạn đang phát khùng ra đường và quay lại nói với cô Marta. - Dù sao thì cũng chẳng nên giấu gì bà, do đâu mà xảy ra việc ầm ĩ này. Đó là ông Blumbergơ, ông ta làm nghề can bản vẽ. Chúng tôi cùng làm việc ở một cơ quan xây dựng. Ba tháng nay ông Blumbergơ gò lưng làm việc không mệt mỏi, thiết kế toà nhà thị chính mới để chuẩn bị mang dự thi. Chiều hôm qua ông đồ lại bản vẽ bằng mực tàu đã xong. Chắc bà biết người ta vẽ bằng bút chì trước tiên, sau đó tẩy những đường chì bằng bánh mì khô, dùng bánh mì khô tốt hơn dùng tẩy. Ông Blumbergơ vẫn thường mua bánh mì ở chỗ bà. Còn hôm nay… bà biết đấy… chỗ bơ của bà… bà cứ tưởng tượng xem… tóm lại là bản vẽ của ông Blumbergơ bây giờ chỉ còn cách đem đi gói bánh mà thôi.

Cô Marta đi vào phòng phía trong cởi chiếc áo lụa chấm xanh và mặc chiếc áo cũ bằng vải mộc nâu vào. Sau đó cô với lọ thuốc rửa da làm từ hạt mộc qua và hàn the, và hắt tuột vào thùng rác sau cửa sổ.  

Chú thích: (1) Ông ta nói pha giọng Đức.
.

Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeThu Aug 16, 2018 8:10 am

.

Trả giá cho sự phô trương
Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910)


Towers Chandler đang là bộ y phục buổi tối trong phòng ngủ của mình. Một chiếc bàn là đang được nung nóng trên cái bếp ga nhỏ; chiếc kia đang được đẩy tới đẩy lui một cách mạnh mẽ để tạo nên nếp gấp đáng ngưỡng mộ mà sau đó chúng ta sẽ nhìn thấy trên một đường thẳng tắp từ đôi giày da cho tới vạt áo gi-lê của ngài Chandler. Rất nhiều điều trong cung cách ăn mặc của anh có thể đem lại sự tin tưởng cho mọi người. Tiếp đến chúng ta sẽ thấy anh bước xuống bậc cầu thang nhà trọ với y phục chỉn chu và với vẻ ngoài điềm tĩnh, tự tin, bảnh trai - phong thái điển hình của một chàng trai trẻ New York giao thiệp rộng thoáng chút buồn chán bắt đầu đi tìm những lạc thú của buổi tối.

Mức lương của Chandler là 18 đô-la một tuần. Anh làm việc cho văn phòng của một kiến trúc sư. Chàng trai hai mươi tuổi này coi kiến trúc là một nghệ thuật đích thực; và anh thành thực tin rằng kiến trúc của tòa nhà Flatiron thua xa nhà thờ lớn tại Milan mặc dù không dám nói ra điều đó ở New York.
Mỗi tuần Chandler để dành ra 1 đô-la từ số tiền kiếm được. Cứ sau mỗi mười tuần, với số tiền dành dụm đó, anh mua một buổi tối phong lưu từ cuộc mặc cả với vị thần thời gian già nua bủn xỉn. Anh khoác trên mình bộ trang phục của những tỉ phú và những vị chủ tịch; anh bước tới khu vực rực rỡ hào nhoáng nhất để ăn một bữa tối ngon miệng và xa hoa. Với mười đô-la, người ta có thể thưởng thức hương vị của sự giàu sang trong vài giờ. Số tiền đó dư thừa cho một bữa ăn ngon, một chai rượu mang nhãn hiệu danh tiếng, khoản tiền boa tương xứng, một điếu thuốc, một chuyến taxi và những khoản lặt vặt thông thường khác.

Buổi tối tuyệt vời lấy ra từ bảy mươi ngày buồn tẻ này đối với Chandler giống như một sự tái sinh vậy. Đối với một thiếu nữ mới bước vào đời thì chỉ có lần đầu tiên đọng lại trong kí ức khi mái tóc cô bạc đi; nhưng đối với Chandler thì cứ mỗi mười tuần lại đem đến niềm vui sướng hồi hộp vẹn nguyên như thuở ban đầu. Được ngồi giữa những con người lịch lãm dưới bóng những cây cọ trong tiếng nhạc dịu êm, được nhìn ngắm những người khách quen của chốn thiên đường này và được họ nhìn lại, làm sao buổi khiêu vũ và chiếc áo ngắn tay đầu tiên của một cô gái có thể sánh được với điều này?
Lên Broadway, Chandler bước đi với bộ đồ ăn diện. Trong buổi tối ngày hôm nay anh là một vật trưng bày và cũng là một kẻ soi mói. Trong 69 ngày tiếp theo anh sẽ lại ăn tối trong bộ đồ len giản dị tại một bàn ăn bình dân nào đó hoặc dùng bánh sandwich với bia trong phòng ngủ của mình. Anh sẵn sàng làm thế bởi anh là đứa con đích thực của thành phố ăn chơi này, và đối với anh một buổi tối huy hoàng đủ bù đắp cho chuỗi ngày đen tối.
Chandler tản bộ cho đến khi những con phố bốn mươi có lẻ bắt đầu giao với con đường hoan lạc vĩ đại và lấp lánh, cho một buổi tối chỉ mới bắt đầu, và khi người ta chỉ được làm bậc thượng lưu một lần trong bảy mươi ngày, người ta chắc chắn muốn kéo dài niềm vui của mình. Những cặp mắt long lanh, nham hiểm, tò mò, thán phục, khiêu khích, quyến rũ hướng về anh bởi cách ăn mặc và phong thái cho thấy anh là tín đồ của sự khuây khỏa và lạc thú.

Đến một góc phố anh bỗng đứng sững lại, tự hỏi mình có nên quay lại nhà hàng hào nhoáng và sang trọng mà anh thường dùng bữa trong những buổi tối đặc biệt của anh. Ngay sau đó, một cô gái đang chạy ở góc phố bị trượt chân trên mặt đường đóng băng và ngã uỵch xuống hè phố.
Chandler đỡ cô dậy với phong thái khẩn trương và ân cần. Cô gái tập tễnh bước đến dựa vào bức tường của tòa nhà bên đường và e dè cảm ơn anh.
“Tôi nghĩ mình bị trật cổ chân”, cô nói, “Nó bị trẹo khi tôi ngã”.
“Cô có đau lắm không?”, Chandler hỏi thăm.
“Chỉ khi tôi đứng thẳng thôi. Tôi nghĩ mình có thể đi lại bình thường trong một hai phút nữa”
“Liệu tôi có thể giúp gì nữa cho cô”, chàng trai trẻ gợi ý, “ví dụ như gọi một chiếc taxi, hay là…”
“Cám ơn anh” , cô gái nói một cách nhỏ nhẹ nhưng chân thành, “Tôi chắc chắn không cần phải phiền anh thêm nữa đâu. Tôi thật vụng về. Và hai gót giày của tôi như thế là chuyện thường, không thể đổ lỗi cho chúng”.
Chandler nhìn cô gái và nhanh chóng bị cuốn hút. Cô đẹp một cách tao nhã và đôi mắt cô vừa tươi tắn lại dịu dàng. Cô vận một bộ váy đen giản dị giống kiểu đồng phục của những cô bán hàng hay mặc. Mái tóc nâu sẫm bóng mượt của cô lộ ra những lọn tóc quăn của nó dưới chiếc mũ rơm rẻ tiền màu đen mà vật trang trí duy nhất chỉ là dải ruy băng và nơ bằng nhung. Cô có thể làm người mẫu chụp hình hoàn hảo nhất trong vai một cô gái làm công ăn lương tự trọng.

Một ý nghĩ bất ngờ nảy đến trong đầu chàng kiến trúc sư trẻ. Anh sẽ mời cô gái này ăn tối cùng anh. Đây là điều mà những bữa tiệc định kì tuyệt vời nhưng cô đơn của anh còn thiếu sót. Thời gian xa hoa ngắn ngủi của anh sẽ được nhân đôi niềm vui nếu anh có thể thêm vào đó một quí cô. Cô gái này là một quí cô, anh chắc chắn như vậy- phong thái và ngôn từ của cô thể hiện điều đó. Và mặc dù trang phục của cô quá đỗi đơn sơ, anh vẫn cảm thấy mình sẽ vui lòng khi được ngồi cùng bàn với cô.
Những ý nghĩ này lướt nhanh qua tâm trí của anh, và anh đã quyết định mời cô. Điều này dĩ nhiên không đúng lắm với phép xã giao, nhưng thường những cô gái làm công ăn lương sẽ gạt sang một bên mọi nghi thức trong những trường hợp thế này. Họ thường bỏ qua việc phán xét những người đàn ông và nghĩ nên hành động một cách thực tế. Mười đô-la của anh nếu được sử dụng một cách khôn ngoan vẫn có thể đem lại cho hai người một bữa ăn tuyệt vời. Bữa tối ấy chắc chắn sẽ là một trải nghiệm khó quên trong cuộc đời tẻ nhạt của một cô gái, và sự biết ơn của cô sẽ tô điểm cho niềm vui và chiến thắng của riêng anh.
Anh bảo cô với một vẻ nghiêm trang chân thành:
“Tôi cho rằng chân của cô cần được nghỉ ngơi lâu hơn là cô nghĩ. Giờ tôi sẽ đề xuất một cách mà cô vừa thực hiện được điều đó lại đồng thời đem đến cho tôi một đặc ân. Tôi đang trên đường đi ăn tối một mình khi cô bị ngã. Cô hãy đi với tôi rồi chúng ta sẽ có một bữa tối thoải mái và một cuộc nói chuyện vui vẻ cùng nhau, và đến lúc đó cổ chân của cô sẽ đưa cô về nhà yên ổn, tôi chắc chắn đấy”.
Cô gái nhìn lướt qua vẻ mặt chân thành dễ chịu của Chandler. Mắt cô sáng lên trong khoảnh khắc và cô nở một nụ cười ngây thơ.
“Nhưng chúng ta chưa hề quen nhau. Như thế không đúng lắm phải không?”, cô nói một cách hoài nghi.
“Không sao đâu”, chàng trai trẻ nói một cách vô tư, “Cho phép tôi tự giới thiệu tôi là Towers Chandler. Sau bữa tối của chúng ta, mà tôi sẽ cố gắng để khiến nó thật vui vẻ, tôi sẽ gửi lời chào tạm biệt hoặc đưa cô về nhà an toàn, tùy ý muốn của cô”.
“Nhưng trong bộ trang phục cũ này!”, cô vừa nói vừa liếc nhìn bộ y phục sang trọng của Chandler.
“Cô đừng quan tâm đến chuyện đó”, Chandler vui vẻ nói, “Tôi đảm bảo trông cô quí phái hơn cả người ăn diện cầu kì nhất mà chúng ta có thể thấy”.
“Cổ chân tôi vẫn đau”, cô gái thú nhận, cố gắng lê những bước tập tễnh. “Tôi nghĩ tôi sẽ nhận lời mời của anh, anh Chandler. Anh có thể gọi tôi là cô Marian”.
“Vậy ta đi nào, cô Marian”, chàng kiến trúc sư trẻ tuổi nói một cách vui vẻ nhưng rất nhã nhặn; “Cô sẽ không phải đi xa đâu. Có một nhà hàng rất được ở khu phố tiếp theo. Cô sẽ phải dựa vào tay tôi và bước từ từ. Sẽ thật buồn nếu phải ăn tối một mình. Phải thú nhận tôi cảm thấy khá vui vì cô đã trượt ngã trên mặt băng”.

Khi hai người đã yên vị tại một bàn có vị trí khá đẹp, với một anh bồi bàn có vẻ chu đáo, Chandler bắt đầu cảm thấy niềm vui thực sự mà những buổi đi chơi thường lệ luôn mang đến cho anh.
Nhà hàng này không hào nhoáng phô trương bằng một nhà hàng xa hơn dưới Broadway mà anh vẫn ưa thích, nhưng nó cũng gần như thế. Những bàn ăn được lấp đầy bởi những thực khách trông khá giả, có một dàn nhạc tốt chơi những bản nhạc đủ êm ái để đem lại hứng thú cho cuộc nói chuyện, còn đồ ăn và cách phục vụ đều không thể chê được. Mặc dù mang trên mình chiếc váy và mũ ít tiền, người bạn đồng hành của anh vẫn thể hiện phong thái đem đến nét đặc biệt cho vẻ đẹp tự nhiên trên khuôn mặt và dáng người của cô. Và chắc chắn cô đã nhìn Chandler, với cung cách đầy sức sống nhưng vẫn điềm đạm và với đôi mắt xanh sôi nổi và bộc trực của anh, với một thứ gì đó gần giống như sự ngưỡng mộ trên khuôn mặt khả ái của cô.
Sau đó, sự phô trương và khoe mẽ bỗng chiếm lấy Towers Chandlers. Anh đã ở Broadway, xung quanh là vẻ tráng lệ và nghệ thuật, và có những ánh mắt ngắm nhìn anh. Trên sân khấu của vở kịch đó, anh đóng vai một con người phù hoa đam mê thời trang và một kẻ nhàn rỗi giàu sang từng trải. Anh được phục trang cho vai diễn này và tất cả những thiên thần của anh cũng không đủ sức để ngăn anh diễn vai này.
Vậy là anh bắt đầu huyên thuyên với cô Marian về những câu lạc bộ, những buổi tiệc trà, môn đánh golf, cưỡi ngựa, những điệu nhảy cô-ti-công, những chuyến du lịch nước ngoài và còn tán phét về một chiếc du thuyền đang đậu ở Larchmont. Anh có thể thấy cô cực kì ấn tượng với cuộc nói chuyện mơ hồ này, bởi vậy để thêm phần thuyết phục cho những lời khoe khoang của mình anh nói những lời ám chỉ về một tài sản lớn, và nhắc đến một vài cái tên quen thuộc được những người bình dân ngưỡng mộ. Chandler chỉ có một buổi tối ngắn ngủi, và anh phải tận hưởng nó nhiều nhất có thể. Và một hai lần anh đã nhìn thấy ánh vàng kim thuần khiết của cô chiếu rọi qua màn sương do tính tự phụ của anh dựng nên. Cô nói:
“Cách sống này của anh có vẻ hơi phù phiếm và không mục đích. Còn những công việc nào khác trên thế giới này có thể làm anh hứng thú hơn không?”
“Cô Marian thân mến của tôi ơi”, anh kêu lên, “công việc ư! Nghĩ đến việc ăn mặc thế nào cho bữa tối, gọi nửa tá cuộc điện thoại vào buổi chiều- với một cảnh sát ở mỗi ngã tư sẵn sàng nhảy bổ vào chiếc ô tô của cô và đưa cô về đồn, nếu cô phóng xe nhanh hơn một chút so với một cỗ xe lừa. Chúng tôi những người không làm gì cả lại là những công nhân làm việc nhiều nhất trên thế giới này”.

Khi bữa tối chấm dứt và người bồi bàn đã được boa một cách hào phóng, hai người dạo bước đến góc phố nơi họ đã gặp. Cô Marian giờ đây đã bước đi gần như bình thường, chỉ hơi chút tập tễnh mà khó ai có thể nhận thấy.
“Cảm ơn anh”, cô nói một cách chân thành. “Tôi phải chạy về nhà bây giờ. Bữa ăn rất tuyệt, anh Chandler ạ”
Anh bắt tay cô, mỉm cười thân ái và nói gì đó về cuộc chơi bài bridge tại câu lạc bộ của mình. Anh quan sát cô trong thoáng chốc, bước đi nhanh hơn về hướng đông, và rồi kiếm được một chiếc taxi đưa anh về nhà.
“Đó là một cô gái thật tuyệt vời”, anh tự nhủ, “Cô ấy thật hoàn hảo, mình có thể thề như vậy, ngay cả nếu cô ấy phải lao động. Có lẽ nếu mình nói cho cô ấy sự thật thay vì tất cả những thứ phù phiếm kia thì mình và cô ấy có thể… nhưng, chết tiệt thật! Mình phải đóng vai phù hợp với bộ quần áo của mình”.

Về phần cô gái, sau khi chia tay chàng trai, cô đi nhanh qua các khu phố cho đến khi tới trước một biệt thự xinh đẹp và tĩnh mịch. Tại đây cô vội vã bước vào và lên căn phòng nơi một cô gái trẻ xinh đẹp trong bộ y phục mặc ở nhà sang trọng đang lo lắng nhìn ra ngoài cửa sổ.
“Ôi cái con bé liều lĩnh này!”, cô gái lớn hơn kêu lên khi cô gái kia bước vào. “Đến bao giờ em mới thôi làm cho mọi người lo sợ như thế này? Em đi ra ngoài đã hai tiếng đồng hồ trong chiếc váy cũ và cái mũ của Marie. Mẹ đã rất lo lắng. Bà đã sai Louis lái ô tô đi tìm em. Em thật là hư, con mèo vô tâm ạ”.
Cô chị bấm nút và một người hầu sau đó lập tức bước vào.
“Marie, hãy bảo bà là cô Marian đã về”.
“Đừng mắng em chị ơi. Em chỉ chạy đến hiệu may của bà Theo để bảo bà ấy dùng viền màu tím thay vì màu hồng. Bộ đồ đó và chiếc mũ của Marie là tất cả những gì em cần. Em chắc mọi người đều nghĩ em là một cô gái bán hàng”.
“Mọi người đã ăn xong bữa tối rồi cưng ạ, em về muộn quá”.
“Em biết. Em trượt chân ngã trên hè đường và bị trặc cổ chân. Em không thể đi được nên đã lê bước đến một nhà hàng và ngồi đó cho đến khi hết đau. Bởi thế nên em mới về muộn như vậy”.

Hai cô gái ngồi bên cửa sổ, nhìn những ánh đèn và dòng xe cộ hối hả trên đại lộ. Cô em gái thu mình tựa đầu vào vai chị.
“Rồi một ngày nào đó chúng ta sẽ lấy chồng…”, cô mơ màng nói, “…Cả hai chúng ta. Chúng ta có quá nhiều tiền nên không được phép làm mọi người thất vọng. Chị có muốn em kể cho nghe mẫu người đàn ông mà em có thể yêu không?”
“Cứ nói đi, cô bé vô tâm”, cô chị mỉm cười.
“Em có thể yêu một người đàn ông với đôi mắt xanh dịu dàng, một người nhã nhặn và tôn trọng những cô gái nghèo, một người đẹp trai tốt tính và không có thói tán tỉnh. Nhưng em chỉ có thể yêu anh ấy nếu anh ấy có một hoài bão, một mục tiêu, một việc gì đó để làm trên thế giới này. Em sẽ không quan tâm anh ấy nghèo thế nào bởi em có thể giúp anh ấy gây dựng sự nghiệp. Nhưng chị yêu dấu ơi, loại người mà chúng ta thường xuyên gặp, người sống một cuộc đời nhàn rỗi giữa xã hội và những câu lạc bộ của anh ta, em không thể yêu một người đàn ông như thế, kể cả nếu mắt anh ta màu xanh và anh ta đã từng tốt bụng với những cô gái nghèo mà mình gặp trên phố”.

.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeSun Sep 23, 2018 8:25 am

.

CÂU CHUYỆN TỈNH LẺ  

Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910)


Lúc tôi xuống tàu ở thị trấn Nashville thuộc bang Tennessee thì trời đang mưa, một màn mưa màu xám kéo dài lê thê. Vì mệt nên tôi đi thẳng về khach sạn. Trong hành lang khách sạn, một người đàn ông to lớn nặng nề cứ đi đi lại lại. Có một cái gì đó trong cách đi của con người này làm tôi nghĩ đến con chó đói đang đánh hơi tìm khúc xương. Hắn có bộ mặt phì nộn, đỏ gay với cặp mắt thiếu ngủ. Hắn tự giới thiệu là Wendwood Caswell, thiếu tá Wendwood Caswell, xuất thân từ một gia đình danh giá ở miền Nam. Caswell kéo tôi vào phòng khách lớn của khách sạn, la lối gọi người bồi bàn. Hắn gọi rượu cho cả hắn và tôi. Vừa uống hắn vừa không ngớt lời giới thiệu về hắn, về gia đình hắn và về gia đình vợ. Hắn nói vợ hắn giàu lắm. Hắn thọc tay vào túi áo khoác lấy một nắm những đồng tiền ra khoe với tôi. Đến lúc ấy thì tôi đã chán hắn đến tận cổ. Tôi chào hắn rồi về phòng.
Từ cửa sổ khách sạn nhìn ra ngoài tôi thấy đường phố chìm trong im lặng, mặc dù lúc ấy mới là 10 giờ. "Thật là một nơi yên tĩnh". Tôi tự nói với mình khi đã chuẩn bị lên giường nằm. "Đúng là một thị trấn buồn tẻ tầm thường của miền Nam". Tôi cũng là người miền Nam nhưng bây giờ tôi ở miền Bắc, làm phóng viên cho một tạp chí lớn. Ông chủ bút phái tôi đi Nashiville vì tạp chí có nhận được mấy tập truyện và thơ của một tác giả ở Nashiville tên là Asilea Adea. Người biên tập rất thích những tác phẩm của bà nên người ta yêu cầu tôi ký với bà một hợp đồng, theo đó bà sẽ chỉ viết riêng cho tạp chí của chúng tôi thôi.

Sáng hôm sau đúng 9 giờ sáng, tôi ra khỏi khách sạn để đi tìm bà Adea. Lúc đó trời vẫn còn mưa. Tôi vừa bước chân ra ngoài thì đã gặp ngay bác đánh xe Seezer. Bác là một người đàn ông da đen dã có tuổi, thân hình to lớn, mái tóc màu xám kiểu cách. Bác Seezer khoác một chiếc áo kỳ quái, tôi chưa từng thấy bao giờ. Chiếc áo này rất dài, lúc còn mới hẳn phải là màu xám và trước đây chắc phải là áo của một viên sĩ quan. Bây giờ thì mưa, nắng và thời gian đã làm cho nó mang đủ các thứ màu vẫn thấy trên cầu vồng. Chiếc áo chỉ còn có mỗi một khuy. Cái khuy màu vàng và to vừa bằng đồng 50 xu. Bác Seezer đứng cạnh cỗ xe ngựa , bác mở cửa xe và nói rất nhã nhặn :
- Mời Ngài lên xe, tôi sẽ đưa Ngài đến bất cứ đâu trong thị trấn này.
- Tôi muốn đến nhà số 8 - 61 phố Hoa Nhài. Tôi nói và định bước lên xe. Người đánh xe giữ tôi lại:
- Sao Ngài lại đến chỗ ấy?
- Đến chỗ ấy thì việc gì tới anh? Tôi bực mình nói.
Bác Seezer đấu dịu, mỉm cười:
- Thưa không . Nhưng chỗ ấy là một nơi hẻo lánh của thị trấn này. Tôi chỉ đưa Ngài đến đó rồi xin đi ngay thôi. Số 8 - 61 phố Hoa Nhài đã từng là một ngôi nhà đẹp. Còn bây giờ thì nó trở thành cổ lỗ và đang chết dần chết mòn.
Tôi xuống xe.
- Xin Ngài cho 2 đô la. Bác Seezer nói.
Tôi trả bác hai tờ giấy bạc 1 đô la. Lúc đưa tiền cho bác, tôi để ý thấy một tờ bị rách ở giữa và được dán lại bằng miếng giấy màu xanh. Tờ bạc còn bị mất một góc ở phía trên, bên phải.

Asilea tự mở cửa cho tôi. Bà trạc 50 tuổi. Mái tóc trắng chải ngược ra phía sau làm nổi rõ khuôn mặt nhẹ nhàng nhưng mệt mỏi. Bà mặc một bộ đồ màu vàng nhạt. Bộ đồ đã cũ nhưng rất sạch. Asilea dẫn tôi vào phòng khách. ở giữa phòng kê một chiếc bàn đã mọt, ba cái ghế tựa và một chiếc tủ sôpha cũ màu đỏ. Bà mời tôi ngồi vào bàn và chúng tôi bắt đầu câu chuyện. Tôi nói với bà về đề nghị của tạp chí, còn bà tự giới thiệu mình. Bà xuất thân từ một gia đình danh giá ở miền Nam, cha bà làm nghề hội thẩm. Asilea Adea kể với tôi rằng bà chưa bao giờ cắp sách đến trường. Các cụ thân sinh đã thuê thầy tư về dạy cho bà học tại nhà.

Kết thúc câu chuyện, tôi hẹn hôm sau sẽ mang hợp đồng đến ký rồi đứng dậy cáo từ. Đúng lúc ấy có tiéng gõ nhẹ vào cánh cửa phía sau. Asilea Adea khẽ xin lỗi rồi đi vào mở cửa. Chỉ một lát sau bà đã quay ra. Trông bà trẻ lại tới 10 tuổi, đôi mắt long lanh, hai gò má ửng hồng.
- Anh phải uống với tôi một chén trà rồi hãy đi. Bà nói rồi cầm chiếc chuông nhỏ để trên bàn khẽ lắc. Một bé gái da đen chừng 12 tuổi chạy ra. Asilea Adea mở chiếc vĩ nhỏ và cũ lấy ra một tờ giấy bạc 1 đô la. Tờ giấy bạc được dán lại bằng một miếng giấy xanh và bị mất góc trên bên phải. Đó chính là tờ giấy bạc tôi đã trả cho bác Seezer.
- Intes, sang cửa hàng ông Baker mua cho bác 25 xu chè và 10 xu đường, nhanh lên nhé. Đứa bé gái chạy ra khỏi phòng theo lối cửa sau. Chúng tôi nghe thấy tiếng cánh cửa khép lại. Tiếp theo đó là tiếng kêu của đứa bé. Tiếng nói của nó chìm trong sự giận dữ của một người đàn ông. Asilea đứng dậy. Bà đi ra ngoài, mặt không hề đổi sắc. Tôi nghe thấy tiếng đàn ông cục cằn lẫn với tiếng nói nhỏ nhẹ của bà. Rồi tiếng cánh cửa đạp mạnh và bà quay trở lại:
- Xin anh thứ lỗi, cuối cùng thì ngay cả đến chén trà tôi cũng không mời anh được. Bà nói. Hình như ông Baker cũng hết chè bán rồi. Chắc nó sẽ mua được chè cho cuộc gặp ngày mai.
Chúng tôi chào nhau rồi tôi quay vê khách sạn.

Trước bữa ăn cơm chiều, thiếu tá Wendwood Caswell tìm tôi. Tôi không làm sao tránh được hắn. Hắn cứ nài tôi uống rượu bằng được. Hắn móc ở trong túi ra hai tờ giấy bạc 1 đô la. Lại một lần nữa tôi nhìn thấy tờ giấy bạc 1 đô la rách được dán một miếng giấy màu xanh và bị mất một góc. Đó cũng chính là tờ giấy bạc tôi đã trả cho bác Seezer. Thằng cha này lạ thật! Tôi cứ phân vân mãi không hiểu bằng cách nào mà Caswell lại có được tờ giấy bạc này.
Sáng hôm sau, bác Seezer đợi sẵn tôi ở bên ngoài khách sạn. Bác đưa tôi đến nhà bà Adea và đống ý chờ cho đến khi chúng tôi làm việc xong. Bà Adea trông không được khỏe. Tôi giải thích cho bà nghe về bản hợp đồng rồi bà ký ngay. Lúc định đứng dậy, nét mặt bà bỗng biến sắc, bà xỉu đi rồi ngã vật xuống sàn nhà. Tôi vội đỡ bà dậy rồi dìu bà lên nằm trên chiếc ghế sôpha cũ màu đỏ.
Tôi chạy ra cổng gọi bác Seezer vào giúp. Bác chạy vội xuống phố và 5 phút sau quay lại cùng với bác sỹ. Ông bác sỹ khám cho bà Adea rồi quay sang nói với bác đánh xe người da đen.
- Bác Seezer, ông nói, bác chạy sang bảo nhà tôi đưa cho một ít sữa và mấy quả trứng nhanh lên.
Rồi ông quay sang tôi:
- Bà ấy thiếu ăn, ông nói, bà ấy còn nhiều bạn bè và họ đều muốn giúp đỡ bà ấy. Nhưng bà Caswell rất giữ ý và chỉ chịu nhờ vả có mỗi mình ông già da đen đó thôi. Ông ấy từng là nô lệ của gia đình bà.
- Bà Caswell? Tôi nói giọng đầy ngạc nhiên. Tôi tưởng bà ấy là Asilea Adea chứ?
- Trước khi lấy Wendwood Caswell, ông bác sỹ nói. Cách đây 20 năm bà ấy đã từng là Asilea Adea. Chồng bà ây là một con sâu rượu hoàn toàn vô dụng. Lão ta cướp của vợ đến đồng xu mà bác Seezer san sẻ cho bà.
Lúc ông bác sỹ đi rồi, tôi lại nghe thấy tiếng của bác Seezer ở phòng bên cạnh:
- Hắn lại cướp tất cả số tiền hôm qua con đưa cho bà rồi à?
- Ừ, tôi nghe thấy tiếng của Asilea trả lời rất khẽ, lão lấy cả hai tờ.
 
Tôi liền đi vào đưa cho Asilea Adea 50 đô la. Tôi nói đó là tiền của tạp chí gửi. Rồi bác Seezer đưa tôi trở lại khách sạn. Khoảng vài giờ đồng hồ sau, trước bữa cơm chiều, tôi ra ngoài đi tản bộ một lúc.
Đến trước một cửa hàng, tôi thấy có đám đông đang bàn tán chuyện gì đó rất ồn ào. Tôi bèn rẽ vào cửa hàng. Thiếu tá Caswell đang nằm sóng sượt trên sàn. Hắn đã chết.
Người ta tìm thấy hắn nằm bất tỉnh ở ngoài phố. Hắn bị giết trong một cuộc ẩu đả. Đúng là tay hắn vẫn còn nắm rất chặt. Khi tôi bước lại gần cái xác thì bàn tay phải của Caswell bỗng duỗi ra. Có cái gì đó rơi xuống và lăn đến cạnh chân tôi. Tôi giẫm một bàn chân lên. Sau đó, tôi cúi xuống nhặt cái vật ấy bỏ vào túi áo.
Người ta nói một tên ăn cắp đã giết Caswell. Họ bảo Caswell khoe với mọi người là hắn có 50 đô la. Nhưng khi tìm thấy cái xác thì trên người hắn chẳng còn xu nào.

Sáng hôm sau, tôi rời Nashville. Lúc tàu chạy ngang qua sông, tôi lấy trong túi áo ra cái vật hôm qua rơi khỏi bàn tay đã chết của Caswell. Tôi ném nó xuống dòng sông đang chảy lững lờ phía dưới. Đó là một chiếc khuy áo. Chiếc khuy màu vàng. Chiếc khuy cuối cùng trên áo khoác của bác Seezer.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeSun Oct 21, 2018 12:06 am

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  9k=

Cây xương rồng

Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910)


Điều quý nhất của thời gian là nó chỉ thuần tương đối. Theo sự nhất trí chung, phần lớn những hồi tưởng được dành cho người đang bị thì thụp rơi xuống nước và ta không nói quá là con người có thể duyệt lại toàn bộ cuộc tình chỉ trong thời gian ngắn ngủi khi họ cởi đôi găng tay.
Đấy là việc Trysdale đang làm, khi anh đứng bên chiếc bàn trong căn phòng độc thân anh thuê. Trên mặt bàn là một cây xanh trồng trong một cái lọ bằng đất nung đỏ. Cây này là một loài xương rồng, với những chiếc lá dài thõng, liên tục đong đưa theo ngọn gió nhẹ nhất trong cử chỉ lạ lùng dường như ra dấu hiệu gì đấy.

Anh bạn của Trysdale, anh trai của cô dâu, đứng kế bên cái tủ bát đĩa, đang phàn nàn vì phải uống rượu một mình. Cả hai đang mặc bộ quần áo dự lễ.
Trong khi Trysdale đang chậm rãi cởi những cúc găng tay, đầu óc anh nhanh chóng và đau xót hồi tưởng lại những giờ vừa trôi qua. Dường như khứu giác của anh vẫn còn đượm mùi hương từ những lẵng hoa xếp dầy đặc trong nhà thờ và trong tai anh vẫn còn vang tiếng rầm rì của hàng nghìn giọng hát, tiếng xào xạc của trang phục giòn cứng và dai dẳng một cách cố chấp nhất, những lời ê a của vị mục sư đang buộc đời cô vào người khác mà không ai gỡ ra được.
Như thể do thói quen của đầu óc anh ta, từ khía nhìn chung cục vô vọng này, anh vẫn cố gắng hết mức để đi đến lời lý giải tại sao và làm thế nào anh đã mất cô. Bị một thực tế không thể dung hoà giáng cho anh một cú thô bạo, anh bất ngờ thấy mình đối diện với cái mà từ xưa đến giờ anh chưa bao giờ giáp mặt - cái bản ngã sâu thẳm, nguyên sơ và giản đơn của anh. Anh đã thấy mọi lớp nhung y của trò giả vờ và kiêu kỳ mà anh đã mặc giờ biến thành giẻ rách của tính ngông cuồng. Anh rùng mình với ý nghĩ rằng, từ trước đến giờ, trong con mắt của thiên hạ, trang phục của anh hẳn có vẻ nghèo nàn và tả tơi. Tính phù phiếm và tật hay dối gạt! Đây là những điểm yếu của anh. Và riêng cô thì không bao giờ như thế! Nhưng tại sao…

Khi cô đi chậm rãi giữa hai hàng ghế dẫn đến bục làm lễ, anh cảm thấy một nỗi đắc thắng thấp hèn, chán ngán vốn vẫn thường nâng đỡ anh. Anh đã tự nhủ là vẻ nhợt nhạt của cô là do ý nghĩ cô dành cho một người nào khác chứ không phải cho người cô sẽ trao cuộc đời. Nhưng ngay điều an ủi tệ hại này cũng không giữ được lâu. Vì lẽ, khi anh thấy cô thoáng ngước lên nhìn, một tia nhìn trong sáng cô dành cho người đoạt được cô, tự anh biết rằng anh đã bị quên lãng. Có một lần, cô đã gửi lên anh cùng tia nhìn này. Thực ra, sự lừa dối của anh đã vỡ vụn, mọi chống đỡ đều không còn. Thế thì tại sao cuộc tình lại chấm dứt? Không có bất hoà giữa hai người, không có gì cả.
Cả nghìn lần anh đã duyệt lại trong tâm trí anh sự việc xảy ra trong những ngày cuối cùng trước khi mọi chuyện đều bị đảo lộn.
Cô luôn khăng khăng muốn tung anh lên mây xanh và anh đã chấp nhận việc này với vẻ huy hoàng. Hương hoa cô dâng lên thật ngọt ngào, thật khiêm tốn (anh tự nhủ như thế), đầy tính trẻ con và đầy vẻ tôn thờ và (có lần anh đoán chắc như thế) thật thành khẩn. Cô đã gán ghép cho anh, đến mức gần như siêu nhiên, mọi đức tính và mọi xuất chúng và mọi tài năng, rồi anh đã hấp thụ việc hiến dâng như thể cây cối sa mạc thu lấy những giọt mưa mà không chắc sẽ nở hoa hay kết trái.

Trysdale hồi tưởng lại rõ ràng một kỷ niệm đỉnh cao về tính tự kiêu của anh - đầy ngu xuẩn nhưng hối tiếc thì đã muộn.
Đấy là vào một buổi tối khi anh mời cô lên mây xanh và chia sẻ sự vĩ đại của mình. Giờ thì anh quá đau đớn nên không muốn nhớ lại nhiều về vẻ đẹp đầy thuyết phục của cô tối hôm ấy - mái tóc lượn sóng buông thả, mãnh lực lôi cuốn dịu dàng và trinh nguyên của những tia nhìn và lời nói của cô. Trong khi chuyện trò với nhau, cô nói:
- Và Thuyền trưởng Carruthers đã cho em biết là anh nói tiếng Tây Ban Nha như người bản xứ. Tại sao anh giấu em một tài năng như thế? Có việc gì mà anh không biết không?
- Thực ra, Carruthers là một anh dốt. Chắc chắn là anh (Trysdale) đã mang tội (đôi lúc anh như thế) thốt lên trong câu lạc bộ của anh một câu châm ngôn nào đấy bằng tiếng Tây Ban Nha mà anh đã moi ra từ mấy thứ hổ lốn trên bìa sau các quyển từ điển. Carruthers, vốn là một trong những người ngưỡng mộ anh hết mình, chính là người đã phóng đại việc phô trương cho một óc thông thái đáng nghi ngờ.
Nhưng hỡi ôi! Hương hoa từ lòng ngưỡng mộ của cô đã trở nên quá ngọt và quá bốc! Anh để cho lời gán ghép lan truyền ra mà không đính chính. Không phản đối gì cả, anh đã cho phép cô choàng quanh vầng trán anh cái vòng miện giả hiệu về nền uyên bác Tây Ban Nha. Anh đã để cái vòng miện xoắn xít mềm dịu tô điểm cho cái đầu thích chinh phục của anh, mà không cảm thấy có những gai nhọn đang châm chích và sau này sẽ xuyên thủng cả anh.

Cô thật là vui tươi, thẹn thùng và dè dặt làm sao ấy! Cô đã vùng vẫy như con chim bị đánh bẫy khi anh đã đem mọi thứ trọng đại của anh ra đặt dưới chân cô! Anh đã có thể đoán chắc, và giờ anh vẫn đoán chắc mà không nhầm lẫn, là cô đã chấp nhận anh. Chỉ có điều cô không thể trả lời trực tiếp cho anh, vì cô còn e thẹn. Cô bảo: “Ngày mai em sẽ gửi anh câu trả lời” và anh, kẻ chiến thắng buông thả tự tin, đã mỉm cười ban cho cô quyền được trễ hạn.
Ngày kế, anh nóng nảy trông chờ câu trả lời của cô. Đến trưa, anh nài ngựa của cô đến gõ cửa phòng anh, rồi để lại cây xương rồng lạ lùng trong cái bình đất nung đỏ. Không hề có tờ thư hay lời hay lời nhắn, chỉ có chiếc thẻ cột vào cây xương rồng mang một danh từ ngoại ngữ man di hoặc là một tên thực vật. Anh đã chờ cho đến tối, nhưng vẫn không nhận được câu trả lời của cô. Tự ái to phồng và tính phù phiếm bị thương tổn khiến anh không muốn đến tìm cô. Hai ngày sau, họ gặp lại nhau trong một bữa ăn tối. Họ chào hỏi nhau theo cách bình thường, nhưng cô nhìn anh, ngừng thở, băn khoăn, giận dữ. Anh lịch sự khăng khăng chờ nghe cô giải thích. Với tính nhạy cảm của phụ nữ, cô đoán ra ý anh, rồi trở nên lạnh lùng như băng tuyết. Từ ngày ấy, họ rời xa nhau dần. Anh đã có lỗi chỗ nào? Lỗi thuộc về ai? Giờ trở nên khiêm tốn, anh tìm kiếm câu trả lời giữa những hoang tàn của việc tự thổi phồng.

Tiếng nói của người thanh niên kia tọc mạch chen vào luồng hồi tưởng:
- Này, Trysdale, có chuyện gì vậy? Cậu có vẻ đau khổ cứ như chính cậu là chú rể thay vì chỉ đóng vai phù rể! Nhìn tớ đây này, một món phụ tùng khác, đã đi hai nghìn dặm suốt từ Nam Mỹ trên một chiếc tàu đầy tỏi và gián để nhắm mắt làm ngơ sự hy sinh - hãy nhìn xem tội lỗi tớ chất nhẹ như thế nào trên hai vai! Tớ chỉ có một đứa em gái và giờ nó đã đi. Này, uống tí gì đi để xoa dịu lương tâm của cậu.
- Tớ không muốn uống gì trong lúc này, cảm ơn.
Anh bạn đi đến gần anh, tiếp tục:
- Rượu cô-nhắc của cậu tồi quá. Ngày nào đấy chạy xuống Punta Redonda để gặp tớ và thử mấy thứ ông già Garcia mang lậu vào. Chuyến đi đáng công lắm. A này! Gặp lại cố nhân ở đây! Cậu đào đâu ra cây xương rồng này thế, Trysdale?
- Món quà từ một người bạn. Có biết loài cây này không?
- Biết rõ lắm chứ! Nó thuộc miền nhiệt đới. Có hàng trăm cây mọc quanh Punta. Tên nó ghi trên cái thẻ đây này. Có biết một chữ Tây Ban Nha nào không, Trysdale?
Trysdale đáp, với bóng ma cay đắng của một nụ cười:
- Không. Đấy là tên Tây Ban Nha à?
- Đúng thế. Dân bản xứ mường tưởng là những chiếc lá của nó vươn dài để ra hiệu cho ta. Họ gọi nó bởi tên này - Ventomarme. Tên có nghĩa là "Hãy đến mang tôi đi".
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeMon Dec 03, 2018 8:05 pm

.

Chuyện một tờ báo
Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910)


    8 giờ sáng, nó còn chưa ráo mực in đã nằm trên quầy bán báo của Giuxeppi. Với tính ranh ma của hạng người như hắn, Giuxeppi đi tán gái ở góc phố đối diện để mặc khách tự lấy báo, chắc hẳn là hắn dựa vào cái thuyết có liên quan tới giả định về cái nồi được chú ý quá nhiều. (1)
    Theo tục lệ và ý đồ của nó, tờ báo đặc biệt này vừa là một nhà giáo dục, một người hướng dẫn, một người khuyên răn, lại là một chiến sĩ, một cố vấn đại gia và một vade mecum (2).
    Trong nhiều cái đặc sắc của nó có thể chọn ra ba vài xã thuyết. Một bài, lời lẽ giản dị mộc mạc nhưng ngời sáng, nhằm vào các bậc cha mẹ và những nhà giáo, chê trách việc đánh đập để trừng phạt trẻ con.
    Bài thứ hai là một bài cảnh cáo có tính chất lên án, nhiều ý nghĩa gửi cho một tay thủ lĩnh nghiệp đoàn nổi tiếng đang sắp sửa xúi giục những người theo mình gây ra một cuộc bãi công rắc rối.
    Bài thứ ba là một lời kêu gọi hùng hồn đòi phải ủng hộ và giúp đỡ lực lượng cảnh sát về mọi mặt ngõ hầu tăng cường lực lượng của nó với tính cách là những người bảo vệ và phục vụ công chúng.

    Ngoài những bài trách cứ và yêu sách quan trọng này đối với cái kho tinh thần công dân tốt, còn có một phương thuốc nhiệm màu hoặc một thứ biện pháp khôn ngoan của biên tập viên phụ trách mục “tâm tình” trình bày về một trường hợp đặc biệt về một thanh niên phàn nàn về lòng sắt đá không chuyên của một cô gái mà anh ta yêu, dạy anh ta làm cách nào để chinh phục được cô gái.
    Trên trang sắc đẹp, lại có lời giải đáp đầy đủ cho một thiếu nữ muốn được khuyên nhủ để có được mắt sáng, má hồng và vẻ mặt xinh đẹp.
    Một tin khác đòi hỏi phải có một sự hiểu biết đặc biệt, là một “việc riêng” vắn tắt, được viết như sau:
    “Giắc thân yêu, tha lỗi cho em. Hẹn anh đúng 8h 30 sáng nay gặp em ở góc phố Mêđixơn và phố thứ…Ta ra đi vào đúng ngọ.
    Người hối lỗi”

    Lúc 8h, một thanh niên nét mặt phờ phạc, mắt hừng hực như sốt vì lo lắng, đi ngang qua quầy bán báo của Giuxeppi quẳng 1 xu nhặt lấy tờ báo trên cùng. Một đêm không ngủ đã khiến anh trở thành kẻ dậy muộn. 9h đã phải đến sở làm việc mà trong khoảng thời gian từ giờ đến đó còn phải cạo râu, còn phải uống chớp nhoáng một tách cà phê nữa.

    Anh ghé vào hiệu cắt tóc rồi lại hấp tấp ra đi. Anh đút tờ báo vào túi, thầm nghĩ đến giờ ăn trưa sẽ đọc. Tới góc phố gần đó, tờ báo rơi khỏi túi anh, lôi theo cả đôi găng tay mới. Đi được ba dãy nhà, không thấy đôi găng đâu anh bực tức lộn trở lại.
    Đúng tám rưỡi, anh tới góc phố chỗ đôi găng và tờ báo nằm lăn lóc trên mặt đất. Nhưng thật lạ lùng, anh bỗng quên phắt đi cái mà anh trở lại tìm kiếm. Anh đang nắm lấy hai bàn tay nhỏ nhắn, chưa bao giờ anh nắm chặt đến thế và nhìn vào đôi mắt hối hận màu nâu, niềm vui sướng rộn lên trong lòng anh.
    -Giắc thân yêu – cô gái nói – em biết là anh sẽ đến đây đúng giờ mà.
    “Chẳng hiểu cô ấy định nói gì – anh thầm nghĩ – nhưng không sao, không sao hết”.

    Một cơn gió mạnh từ phía tây xô tới, hất tờ báo khỏi vỉa hè, mở tung nó ra và bốc nó lên bay lộn trên không sang phố bên. Ngược đường phố ấy, anh thanh niên đã viết thư cho biên tập viên của mục “tâm tình” hỏi xin một công thức để chinh phục cô gái mà anh mê say đang dong cương một con ngựa hồng bất kham, kéo một chiếc xe độc mã hai bánh.
    Cơn gió đùa nhả bùng lên ập tờ báo đang bay vào mặt chú ngựa hồng bất kham. Con ngựa lồng lên biến thành một vệt màu hồng pha lẫn màu đỏ của bánh xe đang quay tít, kéo dài qua bốn dãy nhà. Rồi cái vòi nước máy đóng vai trò của nó trong công cuộc sáng thê và chiếc xe độc mã biến thành dóm diêm như thể đã được an bài từ trước, còn anh chàng xà ích thì nằm chết lặng trên đường nhựa trước một toà nhà giàu có nào đó
    Người ta vội chạy ra khiêng anh ta ngày lập tức vào trong nhà. Một người phụ nữ tự làm gối cho anh ta kê đầu và bất chấp những ánh mắt tò mò, cô ta cúi xuống nói: “Ôi, đúng là anh rồi Bôby; bao giờ cũng chỉ có anh thôi. Anh không thấy thế sao? Nếu em có mệnh hệ nào thì em không sống được và…”
    Nhưng đang cơn gió to thế này, chúng ta phải mau mau theo sát tờ báo của chúng ta.

    Viên cảnh sát Ô Brai bắt lấy tờ báo như là một nhân vật nguy hiểm cho giao thông. Những ngón tay chuối mắn của hắn chậm chạp vuốt thẳng lại những tờ báo tơi tả. Hắn đang đứng cách cổng sau của quán ăn Xenđơn Ben vài bước. Hắn khó nhọc đánh vần đề bài báo “Báo chí đứng hàng đầu trong cuộc vận động ủng hộ cảnh sát”.
    Nhưng, suỵt! Tiếng tên phụ trách quầy rượu Đany lọt qua khe cửa: “Này Maikơ, một cốc nhỏ phần ông bạn già đây.”
    Sau những cột báo thân tình mở rộng, viên cảnh sát Ô Brai nhanh nhẹn nhận lấy cốc rượu“thứ thiệt”. Rồi hắn hùng dũng, tỉnh táo và khoẻ khoắn bước đi làm nhiệm vụ. Ước gì ông chủ bút có thể tự hào nhìn thấy cái kết quả tinh thần, cái kết quả theo đúng nghĩa của chữ đã ban phước cho công sức của ông ta.
    Viên cảnh sát Ô Brai gấp tờ báo lại, vui vẻ giúi nó vào nách một chú bé đi ngang qua. Chú bé tên là Giôny và chú mang tờ báo về nhà. Chị chú bé là Glađi, chính cô ta viết thư cho biên tập viên trang “sắc đẹp” để hỏi về phương thuốc nhiệm màu để có thể thực hiện được về sắc đẹp. Chuyện ấy đã từ mấy tuần trước rồi và cô đã thôi không tìm câu trả lời nữa. Cô đang mặc áo để đi lên phố để mua ít dải viền. Bên trong váy cô đính hai mảnh giấy báo của Giôny mang về. Khi cô đi tiếng sột soạt nghe y như tiếng sột soạt của đồ thật.

    Ra đến ngoài phố cô gặp nhà Brao ở tầng dưới và dừng lại nói chuyện. Cô gái nhà Brao tái mặt. Chỉ có thứ lụa năm đô một thước mới tạo được thứ âm thanh cô ta nghe thấy khi Glađi cất bước. Cô gái nhà Brao héo hon cả người vì ghen tị, nói vài tiếng hằn học rồi bỏ đi, môi mím chặt.
    Glađi tiếp tục đi về phía đại lộ. Giờ đây, mắt cô ta sáng long lanh như nước nguồn. Sắc hồng tươi phớt trên đôi má cô, một nụ cười thoả mãn, tế nhị và đầy sinh khí biến đổi bộ mặt của cô. Cô đẹp hẳn lên. Giá mà khi ấy bà biên tập viên trang sắc đẹp nhìn thấy cô lúc ấy. Hình như lời giải đáp của bà ta trên báo có nói đến việc trau dồi tình cảm đối với mọi người để làm cho nét mặt thô xấu trở thành hấp dẫn.

    Tay cầm đầu nghiệp đoàn – mà lời huấn thị trịnh trọng và đanh thép của bài xã thuyết trên báo nhằm vào là bố của Glađi và Giôny. Ông ta nhặt những mảnh báo còn lại của tờ báo mà Glađi đã tước mất để làm ra cái thứ thuốc để làm ra tiếng sột soạt của lụa. Mắt ông ta không trông thấy bài xã thuyết mà lại bắt gặp một trò đố khéo léo, có bề ngoài lừa dối vẫn thường làm say mê cả kẻ ngây ngô lẫn người khôn ngoan.
    Ông vội xé lấy nửa trang báo, chiếm lấy cái bàn, cây bút chì và tờ giấy rồi miệt mài với trò chơi ấy.
    Ba giờ sau, sau khi đợi ông ta uổng công tại một điểm đã định, các thủ lĩnh khác, bảo thủ hơn tuyên bố và quyết định tán thành hoà giải, như thế là tránh được cuộc đình công với những hậu quả nguy hiểm của nó. Những số báo sau đó, với giọng của kèn đồng đã nhắc đến bằng chữ in màu, tố cáo thắng lợi của tờ báo đối với những mưu đồ đã dự tính của tay cầm đầu nghiệp đoàn.

    Những mảnh còn lại của tờ báo thiết thực cũng kiên trì chứng tỏ hiệu lực của nó.
    Khi Giôny đi học về, chú đã tìm một chỗ khuất để bỏ những cột báo đã xé rời ra khỏi bên trong quần áo, nơi chúng được phân bố khéo léo để bảo vệ một cách có kết quả những khu vực thường bị trừng phạt ở nhà trường tiến công vào. Giôny học ở trường tư và đã có chuyện lôi thôi với thầy giáo, như đã nói, trong số báo sáng hôm đó, có một bài xã thuyết xuất sắc chống lại việc đánh đập để trừng phạt và không còn nghi ngờ gì nữa, nó đã phát huy tác dụng.
    Sau chuyện này, còn ai dám hoài nghi sức mạnh của báo chí?

    Chú thích:
    (1) Theo ngạn ngữ, ”watched pot never boils” (theo nghĩa đen: để ý đến nồi thì nồi không sôi) có nghĩa là càng mong thì càng lâu đến.
    (2) Sổ tay, sách tóm tắt vật luôn mang theo mình (tiếng latinh).   
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeTue Feb 26, 2019 10:46 am

.


Qua Cơn Mê
Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910)

   
    Tôi không thể hiểu nổi làm thế nào Tom Hopkins lại có thể nhầm lẫn tai hại đến thế, vì lẽ anh đã học nguyên một kỳ tại trường đại học y khoa – trước khi anh thừa hưởng gia tài của bà cô để lại – và lại được xem là giỏi về khoa trị liệu.
    Chúng tôi đến thăm nhau buổi tối hôm ấy, rồi Tom lên phòng tôi để nhậu nhẹt và tán gẫu trước khi anh trở về căn hộ sang trọng anh đang thuê. Tôi vừa lẻn vào phòng bên thì nghe Tom hát ra:
    - Billy này, mình muốn uống một chút kí-nin, nếu cậu không thấy phiền hà – Mình cảm thấy ngần ngật ớn lạnh. Có lẽ mình đang bị cảm.
    Tôi đáp lại:
    - Được. Chai thuốc ở trên ngăn kệ thứ hai. Uống một thìa dầu khuynh diệp ấy đi. Nó trừ khử hết mọi đau nhức.
    Sau khi tôi trở lại, chúng tôi ngồi bên nhau gần lò sưởi rồi rút thuốc ra hút với nhau. Khoảng tám phút sau, Tom ngả người ra, dần dần khuỵu xuống. Tôi chạy ngay vào để xem xét cái tủ thuốc. Tôi gầm lên:
    - Cái thằng cả đẫn hết mức! Thử xem tiền bạc giúp gì được cho cái đầu của mày!
    Trong tủ thuốc là chai đựng nha phiến với cái nắp đã bật ra sau khi Tom mở nó. Tôi lùng ra được một anh bác sĩ y khoa trẻ ngụ ở tầng trên, rồi nhờ anh đi mời ông bác sĩ già Gales, ngụ cách đấy hai khu phố. Tom Hopkins quá giàu nên không thể để một mình bác sĩ trẻ tài năng còn đang lên chăm sóc cho anh được.
   
    Khi ông Gales đến, chúng tôi chạy chữa cho Tom theo đủ phương án đắt tiền đến mức mọi phương tiện y khoa cho phép. Sau khi đã cho anh uống các loại thuốc mạnh, chúng tôi cho anh dùng liên tục mấy liều ci-trát caffeine, rồi cho anh uống cà phê, rồi hai đứa hai bên xốc anh đi qua đi lại. Ông già Gales ngắt véo anh, tát vào mặt anh, làm việc tận lực để xứng đáng với tấm ngân phiếu to lớn mà ông thấy không xa. Anh bác sĩ trẻ tống cho Tom một đá nên thân, rồi bào chữa với tôi:
    - Không đừng được. Trong đời tôi chưa bao giờ được đá một nhà triệu phú. Tôi có thể không có cơ hội nào khác.
    Sau một hai giờ, bác sĩ Gales bảo tôi:
    - Anh ấy sẽ khỏi. Nhưng phải giữ anh ấy tỉnh trong vòng một giờ. Anh có thể chuyện trò với anh ấy, thỉnh thoảng lay người anh. Khi mạch và nhịp thở của anh ấy trở lại bình thường thì có thể cho anh ngủ. Giờ tôi để anh ấy cho anh chăm sóc.
    Thế là còn lại có mình tôi với Tom, được để nằm trên ghế bành. Anh nằm không một chút động cựa, mắt nửa nhắm nửa mở. Tôi bắt đầu công việc giữ cho anh thức. Tôi nói:
    - Này bạn già, bạn vừa qua một cơn hú hồn. Có giáo sư y khoa nào đã từng xởi lởi nhận xét là chữ n-h-a-p-h-i-ế-n không thể nào đánh vần như k-í-n-i-n không, nhất là với liều lượng nguyên một viên? Mình không muốn giũa bạn nhiều khi bạn chưa đứng dậy được. Nhưng đáng lẽ bạn nên làm dược sĩ, Tom à, bạn có đủ tiêu chuẩn tuyệt vời để ra toa bán thuốc.
    Tom nhìn tôi với nụ cười mỉm dại khờ. Anh thì thầm:
    - B’ly, mình cảm thấy như con chim sâu bay vòng quanh vô số bông hồng rực rỡ. Đừng quấy rầy. Muốn ngủ đây.
    Rồi trong vòng hai giây đồng hồ anh thiếp ngủ. Tôi lắc vai anh, nghiêm khắc:
    - Này, Tom, không ngủ được đâu! Bác sĩ bảo bạn phải thức trong ít nhất một giờ. Mở mắt ra! Bạn chưa hoàn toàn thoát khỏi nguy hiểm, bạn hiểu chứ? Thức dậy!
    Tom Hopkins nặng gần chín chục kí lô. Anh nở thêm một nụ cười sật sừ, rồi lại chìm vào giấc ngủ say hơn trước. Đáng lẽ tôi phải dìu anh đi qua đi lại, nhưng làm như thế đối với tôi không khác nào sai khiến cây kim của nữ hoàng Cleopatra nhảy điệu luân vũ quanh phòng với mình. Hơi thở của Tom đã trở thành tiếng ngáy, trong ca ngộ độc nha phiến đấy là triệu chứng nguy hiểm.
   
    Rồi tôi bắt đầu suy nghĩ. Tôi không thể dựng thân hình nặng nề của anh ta dậy được, tôi phải cố làm đầu óc anh được phấn khích để tỉnh ngủ. “Làm cho anh ta tức giận” là một ý trong hướng ấy. Tôi nghĩ: “Ý tưởng hay, nhưng làm cách nào?”. Cả bộ chiến bào của Tom không hề có một kẽ hở nào để tôi có thể tấn công vào. Thằng bạn của tôi thật đáng quý! Anh ta thật hiền hòa, lại còn là một trang thanh niên đối xử với thiên hạ đẹp hết mức, tế nhị, chân tình, trong sạch như ánh mặt trời. Anh ta đến từ nơi nào đấy ở miền Nam, vùng mà dân cư vẫn còn lý tưởng và biết cách xử thế. Thành phố New York đầy quyến rũ thế mà không làm anh hư hỏng. Anh ta vẫn còn bản chất tôn thờ phụ nữ theo kiểu cổ lỗ sĩ, việc ấy…
Eureka! – tôi nghĩ ra rồi! Trong một hai phút tôi chuẩn bị dàn xếp việc này trong óc tưởng tượng của tôi. Tôi cười khúc khích một mình khi nghĩ đến chơi cái trò này với tên bạn già Tom Hopkins. Rồi tôi nắm lấy vai anh mà lắc thật mạnh đến khi cả hai tai anh cũng lắc lư. Tôi giả vờ chửi bới khinh miệt, chĩa ngón tay chỉ vào mũi anh ta chỉ cách mấy phân. Tôi sắc lẻm gằn từng tiếng một:
    - Nghe tao đây này, Hopkins. Mày và tao đã từng là bạn thân thiết với nhau, nhưng tao cho mày biết từ nay về sau tao không muốn tiếp cái thằng nào đốn mạt như mày.
    Tom không có vẻ gì chú ý cho lắm. Hắn tỉnh queo:
    - Chuyện gì vậy, Billy? Quần áo của bạn mặc không vừa à?
    Tôi tiếp tục:
    - Nếu tao ở trong hoàn cảnh như mày, mà cảm ơn trời phật tao không như mày, tao nghĩ tao không còn dám nhắm mắt mà ngủ. Cô gái mà mày bắt chờ đợi võ vàng ở dưới miền Nam ấy – cô gái mà mày đã quên kể từ khi mày có tiền rủng rỉnh trong túi, giờ ra sao rồi? Mày biết tao muốn nói gì. Trong khi mày còn là tên sinh viên y khoa kiết xác thì cô ấy còn xứng với mày. Nhưng bây giờ, mày đã là triệu phú, tình đời đổi thay! Tao không biết cô nghĩ sao về hạng người mà cô vẫn tôn thờ - mấy trang thanh niên miền Nam ấy. Hopkins, tao lấy làm tiếc phải nói ra mấy việc này, nhưng mày đã che đậy kỹ quá và đóng trò tài quá đến nỗi tao không dám tin là mày lại có thủ đoạn hèn hạ như thế.
    Tội nghiệp cho Tom! Tôi cố gắng lắm mới nhịn được cười khi thấy anh cố vùng vẫy khỏi ảnh hưởng của nha phiến. Anh ta đang phẫn nộ rõ ràng, và tôi không trách anh. Tom có tính nóng nảy của dân miền Nam. Hai mắt anh giờ đã mở ra, sòng sọc một hai tia lửa. Nhưng nha phiến vẫn còn làm lú lẫn trí óc anh và cột lưỡi anh lại. Anh lắp bắp:
    - L-l-lộn xộn… Tao s-sẽ băm thây mày…
    Anh cố nhấc người lên khỏi chiếc ghế bành. Với trọng lượng thân hình của mình, bây giờ anh ta yếu ớt lắm. Tôi lấy một tay đẩy anh ngã vật xuống ghế. Anh ta nằm đấy, trợn trừng như con báo trong một cái bẫy.

    Tôi thì thầm với chính mình: “Thế là giữ hắn tỉnh được một chút, cái thằng khờ già!” Tôi đứng dậy, đốt cái ống điếu, vì tôi cảm thấy cần hút thuốc. Tôi đi vòng quanh một chút, tự khen ngợi mình về ý tưởng tuyệt diệu kia.
    Tôi nghe tiếng ngáy. Tôi nhìn lại. Tom lại ngủ tiếp. Tôi tiến đến, nện một quả đấm vào cằm anh ta. Anh nhìn tôi, hiền lành và vô tư như một anh ngốc. Tôi nhai cái ống điếu của mình để tiếp tục nặng lời với anh ta. Tôi lăng mạ:
    - Tao muốn mày khỏi bệnh để cút khỏi đây càng sớm càng tốt. Tao đã nói cho mày biết tao nghĩ về mày như thế nào. Nếu mày còn chút liêm sỉ, mày nên suy nghĩ cho kỹ trước khi mày còn muốn thử giao du lần nữa với lớp người thanh lịch.
    Tôi khịt mũi:
    - Cô ấy là một người con gái nghèo, phải không? Có phần quá vô vị, quá quê mùa đối với bọn mình kể từ khi mình có tiền phải không? Mày cảm thấy xấu hổ đi với cô ấy trên Đại lộ Số Năm phải không? Hopkins, mày là thằng đốn mạt gấp bốn mươi lần cái thằng đốn mạt. Ai màng đến tiền bạc của mày chứ? Tao không màng. Tao biết chắc cô ấy không màng. Có lẽ nếu mày không có tiền, mày sẽ là một con người khá hơn. Với tiền bạc, mày là tên khốn khiếp, và – tôi nghĩ câu này mới là đòn đau – mày đã ruồng rẫy một con tim chung thủy. (Ai đời anh bạn cố tri Tom Hopkins lại ruồng rẫy một con tim chung thủy!) Tao muốn tống khứ mày ra khỏi đây càng sớm càng tốt.
    Tôi quay lưng lại Tom, nháy mắt với tấm gương soi. Tôi nghe tiếng anh ta cử động, và tôi quay lại thật nhanh. Tôi không muốn cả thân hình gần chín mươi kí lô nhào lên tôi từ sau lưng. Nhưng Tom chỉ xoay người một ít, đưa một tay lên che mặt. Anh ta nói ít tiếng, rõ ràng hơn lúc trước:
    - Tao không thể… nói với mày… theo cách ấy… Billy, ngay cả nếu tao nghe thiên hạ đặt… đặt điều về mày… Nhưng khi tao có thể… đứng dậy… tao sẽ bẻ cổ mày… đừng quên…
    Tôi cảm thấy một chút xấu hổ lúc ấy. Nhưng làm thế là để cứu Tom. Sáng ngày hôm sau, khi tôi giải thích, hai chúng tôi sẽ cười xòa với nhau về chuyện này.
    Trong khoảng hai mươi phút, Tom chìm xuống trong cơn ngủ mê mệt, êm đềm. Tôi bắt mạch anh, nghe ngóng nhịp hô hấp của anh, rồi để yên cho anh ngủ. Mọi việc đều trở lại bình thường, và Tom đã qua cơn hiểm nguy. Tôi đi vào phòng bên và ngã vật xuống giường.

    Khi tôi tỉnh dậy sáng hôm sau, tôi thấy Tom đã thức dậy trước tôi, ăn mặc chỉnh tề. Anh ta trở lại hoàn toàn là con người của chính mình trừ các dây thần kinh có phần run rẩy và cái lưỡi còn cứng đờ.
    Tom suy tư:
    - Mình thật là ngu quá. Mình còn nhớ khi mình uống thuốc, mình nghĩ cái chai kí-nin ấy coi kỳ cục làm sao ấy. Bạn phải cực khổ lắm để cứu mình phải không?
    Tôi bảo với anh ta là không. Trí nhớ anh ta dường như quá yếu với mọi sự việc. Tôi kết luận là anh không còn nhớ gì đến các nỗ lực của tôi nhằm giữ cho anh được tỉnh táo, nên quyết định không cần giải thích. Tôi nghĩ vào lúc nào khác, khi anh đã khỏi hẳn, hai chúng tôi có thể đùa cợt với nhau về việc này.
   
    Khi Tom chuẩn bị ra đi, anh dừng lại ở cánh cửa đang mở, bắt tay tôi:
    - Cảm ơn nhiều lắm, ông bạn tâm giao, đã cực nhọc nhiều vì mình, và cảm ơn về mấy điều bạn nói. Bây giờ mình đi xuống phố để đánh điện cho cô bé.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeSat Mar 23, 2019 5:56 pm

.
Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Ecd44203d

MỘT NGHÌN ĐÔ LA
Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910)


O. Henry (1862-1910) tên thật là Wil­liam Sydney Porter, là nhà văn nổi tiếng người Mỹ. Truyện ngắn của O.Henry nổi tiếng dí dỏm, dễ hiểu, giàu tình cảm và luôn có những cái kết bất ngờ khéo léo. Các tác phẩm chính của ông: Sau hai mươi năm, Hoàng tử đồng xanh, Ngôi giáo đường với cối xay nước, Căn phòng đủ tiện nghi, Phán quyết của Georgia, Món quà của các nhà thông thái, Tiền chuộc tù trưởng da đỏ, Cánh cửa màu lục, Chiếc lá cuối cùng, Một cuộc đổi đời, Giấc mộng… Truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng đã được đưa vào chương trình văn học nhà trường.

Luật sư Tolman lặp lại một cách nghiêm trang:
– Một nghìn đô la, và đây là món tiền.
Anh trai trẻ Gillian cười lạ lẫm khi các ngón tay của anh lần theo xấp giấy bạc năm mươi đô la mới. Anh giải thích lịch sự, tử tế với vị luật sư:
– Đấy là do số tiền ở mức khó xử đến rối trí. Nếu là mười nghìn đô, một người có thể tạo nhiều ánh sáng và tiếng vang. Ngay cả năm mươi đô cũng sẽ ít gây phiền toái hơn.
Luật sư Tolman tiếp tục trong cách nói nhà nghề khô khan:
– Anh đã nghe chúng tôi đọc di chúc của ông chú anh. Tôi không rõ anh có chú ý nghe các chi tiết hay không. Tôi xin nhắc lại một điểm. Sau khi tiêu hết số tiền này, anh phải báo cáo cho chúng tôi mọi khoản chi tiêu. Di chúc yêu cầu anh như thế. Tôi tin là anh sẽ tuân thủ ước muốn của ông Gillian quá cố.
Anh trai trẻ lễ độ:
– Ông có thể tin vào việc này, mặc dù tôi phải tốn kém thêm. Tôi có thể phải thuê một thư ký. Tôi không bao giờ giỏi về việc làm kế toán các mục chi tiêu.
Gillian nhét xấp tiền vào túi áo choàng, đi đến câu lạc bộ của anh. Anh đi lùng người mà anh gọi là Già Bryson.

Già Bryson là người trầm tĩnh, bốn mươi, lẻ loi. Ông đang ngồi ở một góc đọc sách, và khi thấy Gillian tiến đến, ông thở dài, đặt quyển sách xuống, gỡ đôi mắt kính ra.
Gillian nói:
– Già Bryson, thức dậy đi. Tôi có một chuyện đùa muốn kể cho ông nghe.
– Tôi mong anh kể cho ai đấy ở phòng bi-da. Anh phải biết là tôi ghét mấy chuyện anh kể.
Gillian nói, tay quấn một điếu thuốc:
– Đây là câu chuyện hay hơn bình thường. Nó quá buồn và khôi hài nên không thể kể bên cái bàn bi-da kêu lốc cốc. Tôi vừa đến viếng văn phòng luật sư của ông chú quá cố của tôi. Ông để lại cho tôi một nghìn đô la. Bây giờ, một người có thể làm gì với một nghìn đô la?”
Già Bryson nói với vẻ chú tâm như là con ong để ý đến lọ giấm:
– Tôi nghĩ ông Septimus Gillian quá cố có cả nửa triệu đô la.
Gillian phụ họa vui vẻ:
– Đúng thế. Và đấy là lý do trở thành trò đùa. Ông đã để lại cả kho báu của ông cho một con vi trùng. Ý tôi muốn nói là một phần kho báu để lại cho người đã khám phá ra một con vi trùng mới, phần còn lại cho một bệnh viện để diệt con vi trùng này. Chỉ có một hoặc hai người thừa kế phù phiếm. Anh hầu và ông quản gia mỗi người nhận một chiếc nhẫn khắc dấu hiệu và mười đô. Đứa cháu của ông nhận 1000 đô.
Già Bryson nhận xét:
– Anh lúc nào cũng có nhiều tiền để tiêu.
– Hàng tấn. Về việc cấp tiền túi để tiêu vặt thì ông chú tôi là một bà tiên hiền từ.
– Còn những người thừa kế khác thì sao?”
Gillian nhíu mày với điếu thuốc lá và đá tấm nệm da của chiếc ghế bành: – Không có ai cả. Có cô Hayden, người chăm sóc ông chú tôi, sống trong căn nhà của ông. Cô là mẫu người im lặng – như tiếng nhạc – con gái của ai đấy đã vô phúc mà trở thành bạn ông ta. Tôi quên nói là cô cũng có phần trong trò đùa với cái nhẫn khắc dấu hiệu và mười đô. Tôi ước tôi cũng nằm trong trò đùa này. Lúc ấy tôi sẽ gọi hai chai thật đậm, boa cho anh bồi với chiếc nhẫn, thế là mọi việc xong xuôi. Già Bryson, đừng làm ra vẻ cao cả và lăng nhục – hãy cho tôi biết một người có thể làm gì với một nghìn đô la.

Già Bryson chùi cặp kính của ông và mỉm cười. Và khi Già Bryson mỉm cười, Gillian biết là lời nói ông trở nên chướng tai hơn bình thường:
– Một nghìn đô la có thể là quá nhiều hoặc quá ít. Người ta có thể mua một mái ấm hạnh phúc rồi chế giễu dòng họ dầu hỏa Rockefeller. Người khác có thể gửi bà vợ đi miền Nam với số tiền này và cứu cuộc đời bà ta. Một nghìn đô la có thể mua sữa cho một trăm em bé dùng trong tháng Sáu, Bảy và Tám và cứu sống được năm mươi em. Với nó, anh có thể có nửa giờ tiêu khiển may rủi với canh bạc trong một phòng tranh nghệ thuật được gia cố bảo vệ. Một nghìn đô la có thể giúp việc giáo dục cho một cậu bé có cao vọng. Tôi có nghe là một bức chính gốc của của họa sĩ người Pháp Corot được bán với giá như thế trong buổi bán đấu giá hôm qua. Với cùng món tiền, anh có thể dời đến New Hampshire và sống hai năm ở đấy một cách thoải mái. Anh có thể thuê Quảng Trường Madison Square Garden trong một buổi tối và thuyết giảng với cử tọa, nếu anh có cử tọa, về cái nghề thiếu ổn định làm thừa kế bất đắc dĩ.
Gillian nói, lúc nào cũng trầm tĩnh:
– Người ta có thể mến ông, Già Bryson ạ, nếu ông đừng giảng đạo đức. Tôi hỏi ông tôi có thể làm gì với một nghìn đô la.
Bryson cười nhẹ:
– Anh hở? Sao cơ, Bobby Gillian, chỉ có một việc đúng lý. Anh có thể dùng món tiền này đi mua cho cô Lotta Lauriere một mặt dây chuyền đính kim cương, rồi anh đi đến Idaho và tự hành hạ mình ở một trang trại. Tôi khuyến cáo trại nuôi cừu, vì tôi đặc biệt ác cảm với mấy con cừu. Gillian đứng dậy:
– Cảm ơn nhiều. Tôi đã nghĩ tôi có thể trông cậy nơi ông, Già Bryson ạ. Ông đã nói đúng. Tôi đã định tiêu béng một lần cho xong, vì tôi phải báo cáo việc chi tiêu, và tôi ghét phải liệt kê từng hạng mục.

Cô Lotta Lauriere đang hỗ trợ thiên nhiên với cái dồi phấn, gần như sẵn sàng để được gọi ra trong một buổi trình diễn đông đúc, khi anh phục trang thông báo về cái tên Gillian.
Cô Lauriere nói:
– Cho anh ấy vào. Có chuyện gì thế, Bobby? Tôi phải ra diễn trong hai phút nữa.
Gillian yêu cầu cô, với giọng trách cứ: – Xin cô vểnh cái tai bên phải một chút. Thế là được. Tôi không cần đến hai phút. Cô có ý kiến như thế nào về một cái mặt dây chuyền? Tôi có thể chấp nhận ba con số trong cái giá của nó. Cô Lauriere cất tiếng hát: – À, đúng như anh nói. Adams, đưa cho tôi cái găng tay phải. Này, Bobby, anh có thấy sợi dây chuyền Dell Stacey đeo đêm ấy không? Giá của nó ở cửa hàng Tiffiany’s là hai nghìn hai trăm đô đấy. Nhưng, dĩ nhiên… kéo cái khăn chéo một chút về bên trái, Adams.
Giọng một cậu bé bên ngoài kêu vào:
– Cô Lauriere ra mở đầu ban đồng ca hợp xướng! Gillian quày quả ra ngoài nơi chiếc xe taxi đang đợi anh.
Anh hỏi anh lái xe:
– Anh sẽ làm gì nếu anh có một nghìn đô la?
Anh lái xe trả lời ngay:
– Mở một quán rượu. Tôi biết có một chỗ tôi có thể vơ tiền với cả hai tay. Đấy là trong tòa nhà gạch bốn tầng ở góc phố. Tôi đã mường tượng ra. Tầng hai – món ăn Tầu; tầng ba – làm móng tay; tầng tư phòng bi-da. Nếu anh muốn có thêm…
– À không. Tôi chỉ tò mò hỏi thế thôi. Tôi nhờ anh lái xe cho tôi tính theo giờ. Lái đi đến khi tôi bảo anh dừng.

Tám dãy phố dưới khu Broadway, anh dùng cây gậy khỏ lên trần xe và chui ra. Một người đàn ông mù đứng bán viết chì trên một chiếc ghế trên hè đường.
Gillian đến  đứng trước mặt ông.
– Xin lỗi ông, ông có thể cho tôi biết ông sẽ làm gì nếu ông có một nghìn đô la?
– Ông vừa đi đến trên chiếc xe ấy, phải không?
– Đúng thế.
Ông bán viết chì nói:
– Tôi nghĩ ông là người đàng hoàng, đi xe taxi giữa ban ngày. Ông hãy nhìn đây. Ông rút ra một cuốn sổ nhỏ trong túi áo choàng đưa cho anh. Gillian mở ra xem, thấy đây là một sổ trương mục tiết kiệm ngân hàng, với số tiền 1.785 đô la.

Gillian trả lại cuốn sổ trương mục, chui vào chiếc xe taxi.
– Tôi quên một việc. Xin anh đi đến văn phòng luật của Tolman & Sharp tại số…, Phố  Broadway.
Luật sư Tolman nhìn anh một cách kém thân thiện, dò hỏi qua đôi tròng kính gọng vàng.
Gillian vui vẻ:
– Xin lỗi ông, tôi muốn hỏi một việc. Tôi chắc không phải là vô can với tôi. Cô Hayden có được ông chú tôi để lại gì nữa không ngoài chiếc nhẫn và mười đô la?
– Không có gì nữa cả.
– Cảm ơn ông rất nhiều.

Gillian đi trở ra chiếc taxi. Anh cho anh lái xe địa chỉ nhà ông chú quá cố.
Cô Hayden đang viết mấy bức thư trong phòng sách. Cô nhỏ nhắn, mảnh mai, ăn mặc màu đen. Nhưng bạn có thể để ý đến đôi mắt cô. Gillian lướt vào với dáng vẻ như xem thế giới không là gì cả.
Anh giải thích:
– Tôi vừa từ văn phòng ông già Tolman đến đây. Họ đang xem qua các hồ sơ. Họ đã tìm thấy một – Gillian cố moi óc để tìm một từ ngữ pháp lý – họ tìm thấy một điều khoản bổ sung hoặc là một phụ lục hoặc là đại loại như thế của tờ di chúc. Dường như là ông già có phần dễ tính hơn khi nghĩ lại nên đã để cho cô một nghìn đô la. Tôi đang trên đường đến đây nên Tolman nhờ tôi mang số tiền đến cho cô. Đây này. Cô đếm xem có đúng không.
Gillian để món tiền bên cạnh bàn tay cô trên mặt bàn.
Mặt cô Hayden trở nên nhợt nhạt. Cô nói “Ôi giời!” và lần nữa “Ôi giời!” Gillian quay đi nửa người và nhìn qua cửa sổ.
Anh nhỏ nhẹ:
– Tôi nghĩ là, mà đúng như thế, cô biết là tôi yêu cô.
Cô Hayden cầm lấy món tiền, nói:
– Tôi lấy làm tiếc.
Gillian hỏi, gần như là hờ hững:
– Không có ích gì à?
Cô lặp lại: – Tôi lấy làm tiếc.
Gillian hỏi, với một nụ cười: – Tôi có thể viết ít chữ được không?
Anh đến ngồi tại cái bàn phòng đọc sách. Cô mang đến cho anh giấy bút, rồi trở lại với công việc của cô.
Gillian viết bản báo cáo việc anh chi tiêu một nghìn đô la như sau: ”1000 đô la, do đứa con không nên thân của gia đình chi trả, vì lý do hạnh phúc vĩnh cửu của Thiên đường, cho một người con gái tuyệt vời nhất và được yêu quý nhất trên thế gian.”
Gillian gấp bản báo cáo vào một phong bì, cúi đầu chào và đi ra.

Chiếc taxi chạy trở lại đến văn phòng của Tolman & Sharp.
Anh vui vẻ nói với Tolman:
– Tôi đã tiêu pha xong một nghìn đô la, và giờ tôi đến để báo cáo việc chi tiêu, như tôi đã đồng ý. Có cảm tưởng như mùa hè ấm cúng trong không khí. Ông có nghĩ thế không, ông Tolman?
Anh ném cái phong bì lên mặt bàn ông luật sư:
– Ông sẽ thấy trong đấy là báo cáo về số tiền.
Không động đến cái phong bì, ông Tolman bước vào một cánh cửa và gọi đồng nghiệp, ông Sharp. Họ cùng nhau lùng sục cái tủ sắt bao la, rồi kéo ra một phong bì to niêm phong bằng sáp. Họ mở lớp niêm phong, rồi chụm đầu vào nhau đọc. Rồi Tolman trở thành phát ngôn viên. Ông nghiêm trang:
– Anh Gillian, có một phụ lục trong di chúc của ông chú anh. Ông ấy đã chỉ thị riêng cho chúng tôi là chỉ được mở xem phụ lục này sau khi anh đã báo cáo đầy đủ về việc anh sử dụng số tiền 1000 mà di chúc để lại. Vì anh đã thỏa mãn điều kiện này, hai chúng tôi đã đọc phần phụ lục. Tôi không muốn anh bận tâm với ngôn ngữ pháp luật, nên chỉ xin trình bày nội dung chính
“Phụ lục viết là nếu cách thức anh sử dụng số tiền 1000 đô la chứng tỏ là anh có đức tính gì đấy đáng được tưởng thưởng, thì anh sẽ được nhận thêm. Ông Sharp và tôi được chỉ định là người phán xử, và tôi xin đảm bảo với anh là chúng tôi sẽ thi hành nhiệm vụ sát theo công lý – với ít rộng rãi. Chúng tôi không hề có thành kiến gì bất lợi cho anh, anh Gillian ạ. Nhưng để chúng tôi trở lại với phụ lục.
“Nếu anh chi tiêu món tiền này theo cách chín chắn, khôn ngoan, không ích kỷ, chúng tôi được ủy nhiệm trao cho anh số trái phiếu trị giá 50.000 đô la mà chúng tôi đang giữ cho mục đích ấy. Nhưng nếu – theo cách thân chủ của chúng tôi, ông Gillian quá cố quy định rõ ràng – anh dùng món tiền này theo như cách anh dùng tiền trong quá khứ - tôi xin trích lời ông Gillian quá cố – phung phí đáng trách trong những giới không hay, số trái phiếu 50.000 đô la sẽ được lập tức trả cho cô Miriam Hayden, người chăm sóc ông Gillian quá cố. Bây giờ, anh Gillian ạ, ông Sharp và tôi sẽ xem qua báo cáo của anh về việc chi tiêu số tiền 1000 đô la. Xin anh hãy tin tưởng nơi cách chúng tôi quyết định. Ông Tolman đưa tay với lấy chiếc phong bì.
Nhưng Gillian đã nhanh tay hơn. Anh xé  chiếc phong bì thành từng dải nhỏ, nhét tất cả vào túi. Anh tươi cười:
– Được rồi. Không cần phải làm các ông bận lòng gì cả. Dù sao, tôi không nghĩ các ông  hiểu được mấy trò cá cược này. Tôi đã nướng cả một nghìn đô la vào việc cá ngựa. Xin chào hai ông.

Tolman và Sharp buồn rầu lắc đầu nhìn nhau khi Gillian đi ra, vì họ nghe anh huýt sáo vui vẻ trong hành lang khi anh đang đứng đợi thang máy.
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeWed Apr 03, 2019 12:07 am

.
Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Th?id=OIP

Những người khách trọ ở chốn thiên đường

- O. Henry 
(1862-1910)

Có một khách sạn ở Broadway đã thoát được cảnh bị những người tổ chức các chuyến nghỉ hè phát hiện ra. Khách sạn sâu, rộng và mát mẻ. Những phòng nghỉ của nó được trang hoàng bằng gỗ sồi tối màu ở nhiệt độ thấp. Những cơn gió thoảng và bụi cây xanh đậm đem lại cho nó cái khoái cảm của Adirondacks mà không kèm theo những bất tiện. Một người có thể trèo lên những bậc thang rộng hoặc lướt lên như mơ trong chiếc thang máy nhẹ như không, được phục vụ bởi người hướng dẫn có những chiếc cúc áo bằng đồng, với niềm vui nhẹ nhàng mà những người leo núi An-pơ chưa bao giờ có được. Người bếp trưởng của khách sạn sẽ chuẩn bị cho bạn món cá hồi suối tuyệt hơn cả ở White Mountains, những món hải sản sẽ khiến Old Point Comfort phải ghen tị, và món thịt thú rừng vùng Maine sẽ làm tan chảy trái tim công quyền của một người bảo vệ khu cấm săn bắn.

Một vài người đã tìm thấy ốc đảo này trong sa mạc tháng bảy của Manhattan. Trong tháng đó, bạn sẽ thấy những vị khách đã thưa đi của khách sạn tản mác một cách xa hoa trong buổi chạng vạng mát mẻ của phòng ăn lộng lẫy, nhìn nhau qua khoảng không của những bàn trống mà thầm chúc mừng nhau.
Những người phục vụ bàn thừa thãi, chu đáo, nhiệt tình quanh quẩn gần đó, đáp ứng mọi ý muốn trước khi nó được biểu lộ ra. Nhiệt độ luôn luôn như ở tháng Tư. Trần được vẽ bằng màu nước giả một bầu trời mùa hè với những đám mây mềm mại trôi ngang và không bao giờ biến mất như trong thiên nhiên để khiến ta nuối tiếc.
Tiếng ồn dễ chịu, xa xôi của Broadway trong trí tưởng tượng của những vị khách vui vẻ biến thành tiếng thác nước tràn ngập khu rừng bằng âm thanh thư giãn của nó.Với mỗi bước chân lạ những vị khách đều dỏng tai nghe, lo sợ bị phát hiện và xâm phạm bởi những kẻ đi tìm khoái lạc không ngừng nghỉ, những người mãi mãi săn tìm thiên nhiên tới tận những hang ổ sâu nhất của nó.  
Bởi thế trong đoàn người đã thưa đi, một số nhỏ những người sành sỏi tận hưởng đến cùng khung cảnh núi non và bãi biển nơi hội tụ cả nghệ thuật và kĩ năng để phục vụ họ. 

Trong tháng bảy này, khách sạn đón một người khách mà tấm card của cô gửi cho người tiếp tân ghi hàng chữ “Madame Heloise D’Arcy Beaumont”.
Madame Beaumont là một người được khách sạn Lotus yêu mến. Cô sở hữu dáng vẻ quí tộc, cáu kỉnh và ngọt ngào theo một cách thanh lịch khiến tất cả nhân viên khách sạn thành nô lệ của cô. Cậu trực tầng phải tranh giành để có được vinh dự trả lời điện thoại của cô; người thư kí có thể sẽ dâng cả khách sạn cho cô nếu cô muốn; những vị khách khác coi cô như người cuối cùng còn giữ được vẻ nữ tính và sắc đẹp khiến cho mọi thứ xung quanh trở nên hoàn hảo.
Vị khách siêu phàm này hiếm khi rời khỏi khách sạn. Thói quen của cô hòa hợp với truyền thống của những vị khách nghỉ tại khách sạn Lotus. Để tận hưởng nơi trú chân thú vị này, người ta phải bỏ lại thành phố ở phía sau như thể nó cách đây cả trăm dặm. Vào ban đêm, người ta có thể đi chệch hướng sang những mái nhà bên cạnh; nhưng suốt ban ngày oi bức họ ở lì trong thành trì râm mát của khách sạn Lotus như một chú cá hồi lượn lờ trong làn nước trong veo ở cái hồ nó ưa thích.

Mặc dù ở một mình trong khách sạn Lotus, Madame Beaumont vẫn duy trì tình trạng của một nữ hoàng với nỗi cô đơn chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Cô ăn sáng lúc mười giờ với phong thái dễ chịu, ngọt ngào, ung dung và tinh tế. Cô tỏa những tia sáng dịu dàng trong bóng tối như một bông hoa nhài trong buổi hoàng hôn.
Nhưng bữa tối mới là lúc thiên đường của cô vươn đến đỉnh cao. Cô mặc một chiếc áo dài lộng lẫy và mờ ảo như làn sương tỏa ra từ một thác nước lớn mà chưa ai nhìn thấy trong một hẻm núi. Thuật ngữ để chỉ chiếc áo dài này vượt quá tầm suy đoán của các học giả. Luôn là những đóa hoa hồng thắm tựa vào viền đăng-ten phía trước. Đó là một chiếc áo dài mà người bồi bàn trưởng phải nhìn với ánh mắt ngưỡng mộ. Khi nhìn thấy nó bạn sẽ nghĩ đến Paris, rồi có thể cả những vị nữ bá tước bí ẩn, và dĩ nhiên là Versailles, những thanh kiếm, bà Fiske và lối chơi bài “đỏ và đen”. Có một lời đồn không rõ xuất xứ ở khách sạn Lotus rằng Madame là người đi chu du khắp thế giới, và rằng với đôi tay trắng muốt thon thả của mình cô đã đứng sau giật dây ở nhiều quốc gia theo hướng có lợi cho nước Nga. Đã quá quen với những con đường êm ái nhất trên thế giới, không có gì lạ khi cô nhanh chóng nhận ra khách sạn Lotus là nơi tuyệt vời nhất ở nước Mĩ để lưu lại nghỉ ngơi trong mùa hè nóng nực.

Trong ngày thứ ba của Madame Beaumont ở khách sạn, một chàng trai trẻ tới đây và đăng kí với tư cách một vị khách. Trang phục của anh đơn giản, phong thái tử tế và đúng mực, và lối ăn nói của một người đàn ông tự tin và từng trải. Anh nói với người lễ tân rằng mình sẽ lưu lại ba bốn ngày, hỏi thăm lịch xuất hành của những chuyến tàu tới châu Âu, và chìm vào khoảng không hạnh phúc của khách sạn độc nhất vô nhị với sự hài lòng của một người du khách trong quán trọ ưa thích của mình.
Chàng trai trẻ tên là Harold Farrington. Anh trôi vào dòng đời êm ả trong khách sạn Lotus khéo léo và âm thầm đến mức không một vết gợn báo hiệu những người bạn đồng hành của anh sau kì nghỉ. Anh ăn trong khách sạn và tận hưởng sự yên bình hạnh phúc với những thủy thủ may mắn khác. Một ngày anh kiếm được bàn ăn của mình, người bồi bàn của mình và nỗi lo sợ những kẻ náo động sau giấc ngủ ở Broadway có thể sẽ đâm bổ tới và hủy hoại chốn này.

Sau bữa tối của ngày thứ hai Harold Farrington lưu lại, Madame Beaumont đánh rơi chiếc khăn tay khi đi ngang qua. Ngài Farrington nhặt lên và trả lại mà không lộ vẻ háo hức muốn làm quen.
Có thể có một mối đồng cảm bí ẩn giữa những vị khách sáng suốt của khách sạn Lotus. Có thể họ dễ thu hút nhau bởi cùng có được cái may mắn khám phá ra đỉnh cao của những khu nghỉ dưỡng mùa hè trong một khách sạn Broadway. Họ nói với nhau những lời xã giao nhã nhặn và ngập ngừng đưa câu chuyện trở nên thoải mái hơn. Và trong không khí thích hợp của một khu nghỉ dưỡng mùa hè đích thực, một mối quan hệ đã nảy mầm, đơm hoa và kết trái như thể có bàn tay của một pháp sư trong đó. Trong một lúc, họ đứng cùng nhau ở ban công cuối hành lang và buông lời chuyện trò vu vơ.

- Người ta đã chán ngấy những khu nghỉ dưỡng cũ rồi,- Madame Beaumont nói, với một nụ cười nhẹ nhưng ngọt ngào.- Có ích gì khi đi đến những ngọn núi hay những bãi biển để trốn khỏi ồn ào và bụi bặm trong khi những người tạo ra cả hai thứ ấy lại theo chúng ta đến đó?
- Kể cả trên đại dương,- Farrington buồn bã nhận xét,- những kẻ thô tục cũng bám theo ta. Những con tàu đặc biệt nhất giờ cũng chẳng hơn những chiếc phà là bao. Thật may khi những người đi nghỉ hè thấy rằng Lotus ở xa Broadway hơn là Thousand Islands hay Mackinac.
- Tôi hi vọng bí mật của chúng ta sẽ được an toàn trong một tuần, dẫu sao…, - Madame nói với một cái thở dài và một nụ cười, - Tôi không biết mình sẽ đi đâu nếu họ tới Lotus thân yêu này. Tôi chỉ biết một chỗ khác cũng rất thú vị vào mùa hè, và đó là lâu đài của bá tước Polinski ở trong dãy núi Ural.
- Tôi nghe nói Baden-Baden và Cannes cũng khá vắng vẻ vào mùa này, - Farrington nói, - Mỗi năm những khu nghỉ dưỡng cũ lại kém tiếng tăm đi. Có thể nhiều người khác giống như chúng ta cũng đang đi tìm những nơi vắng vẻ yên tĩnh mà phần đông mọi người bỏ qua.
- Tôi tự hứa với bản thân sẽ ở đây nghỉ ngơi thư giãn thêm ba ngày nữa,- Madame Beaumont nói.- Đến thứ hai, tàu Cedric sẽ xuất hành.
Đôi mắt Harold Farrington bày tỏ sự nuối tiếc.
- Tôi cũng phải rời khỏi đây vào thứ Hai, - anh nói, - nhưng tôi không ra nước ngoài.
Madame Beaumont nhún vai với một tác phong ngoại quốc.
- Người ta không thể náu mình ở đây mãi được dù cho nó có quyến rũ thế nào chăng nữa. Tòa lâu đài đã chuẩn bị đón tôi hơn cả tháng rồi. Những buổi tiệc tùng mà ta phải tham dự đó thật là phiền toái! Nhưng tôi sẽ không bao giờ quên một tuần ở khách sạn Lotus này.
- Tôi cũng thế, - Farrington nói với giọng trầm, - và tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho Cedric.

Vào buổi tối chủ nhật, tức là ba ngày sau đó, hai người ngồi tại một bàn nhỏ vẫn ở cái ban công ấy. Một người bồi bàn ý tứ mang đến những viên đá và những li rượu vang đỏ.
Madame Beaumont vẫn mặc chiếc áo dài tuyệt đẹp mà cô luôn mặc khi dùng bữa tối. Cô dường như trầm tư hơn. Gần bàn tay của cô trên bàn là một chiếc ví nhỏ. Sau khi đã ăn mẩu nước đá của mình, cô liền mở ví và lấy ra một tờ giấy bạc một đô-la.
- Ngài Farrington, - cô nói với nụ cười đã chinh phục cả khách sạn Lotus, - Tôi muốn nói với ông điều này. Tôi sẽ rời đi trước bữa sáng bởi vì tôi phải trở lại làm việc. Tôi làm ở quầy hàng dệt kim tại Cửa hàng Casey’s Mammoth và kì nghỉ của tôi sẽ kết thúc vào tám giờ sáng mai. Tờ đô-la này là đồng xu cuối cùng của tôi cho đến khi tôi được lĩnh tám đô-la tiền lương vào tối thứ bảy tới. Ông là một quí ông đích thực, ông đã rất tốt đối với tôi, và tôi muốn kể cho ông sự thực trước khi ra đi.

Tôi đã dành dụm một năm chỉ để có được chuyến nghỉ hè này. Tôi muốn sống một tuần như một quí bà nếu không thể có lần nào khác. Tôi muốn thức dậy khi mình thích thay vì phải bò khỏi giường vào bảy giờ mỗi sáng; và tôi muốn được sống xa hoa, được chờ đợi, được rung chuông để gọi đồ giống như những người giàu. Giờ tôi đã thực hiện được điều đó, và tôi đã có khoảng thời gian hạnh phúc nhất mà tôi vẫn mong đợi trong đời. Tôi sẽ trở lại công việc và ở căn phòng ngủ nhỏ bé của mình thêm một năm nữa. Tôi muốn nói với ông điều đó, ngài Farrington, bởi vì tôi… tôi nghĩ rằng dường như ông thích tôi, và tôi… tôi cũng thích ông. Nhưng, ôi, tôi không thể lừa dối ông thêm nữa, mọi thứ đã diễn ra giống như một câu chuyện cổ tích đối với tôi. Bởi vậy tôi đã nói về châu Âu và những điều tôi đã đọc về những quốc gia khác, và khiến ông nghĩ rằng tôi là một quí bà tuyệt vời.
Chiếc áo tôi vẫn mặc đây là chiếc duy nhất mà tôi có. Tôi đã mua nó từ O’Dowd & Levinsky bằng cách trả góp. Giá là bảy mươi lăm đô la và tôi đã đặt mua nó. Tôi trả ngay mười đô-la và họ thu một đô-la mỗi tuần cho đến khi trả hết. Đó là tất cả những gì tôi phải nói, Ngài Farrington ạ, ngoại trừ việc tên tôi là Mamie Siviter chứ không phải Madame Beaumont, và tôi cảm ơn ông vì đã lắng nghe. Tờ đô-la này là để trả góp cho chiếc váy vào ngày mai. Tôi xin phép về phòng bây giờ.

Harold Farrington lắng nghe câu chuyện của vị khách đáng yêu nhất Lotus với một vẻ mặt bình thản. Khi cô kết thúc anh rút ra một cuốn sách nhỏ giống như một tập chi phiếu từ túi áo choàng. Anh viết vào một khoảng trống trong tập giấy với một mẩu bút chì, dứt một mảnh ra, ném cho cô và lấy tờ đô-la.
- Tôi cũng phải trở lại làm việc vào sáng mai,- anh nói, - và tôi cũng có thể bắt đầu ngay từ bây giờ. Đó là tờ biên nhận cho một đô-la trả góp. Tôi đã làm nhân viên thu tiền cho O’Dowd & Levinsky được ba năm. Thật hài hước phải không, khi cả tôi và cô đều có chung ý tưởng cho kì nghỉ của mình? Tôi đã luôn muốn đi nghỉ ở một khách sạn hạng nhất, và tôi đã dành dụm từ số tiền lương hai mươi đô-la. Này, Mame, cô nghĩ thế nào về một chuyến đi thuyền tới Coney tối thứ bảy tới?
Khuôn mặt của Madame Heloise D’Arcy Beaumont giả hiệu trở nên rạng rỡ.
- Ồ, chắc chắn tôi sẽ đi, ngài Farrington ạ. Cửa hàng đóng cửa lúc mười hai giờ vào thứ bảy. Tôi nghĩ Coney cũng tốt kể cả khi chúng ta đã ở một tuần với những người giàu sang nhất.

Dưới ban công, thành phố oi ả đang rì rầm trong một đêm tháng Bảy. Bên trong khách sạn Lotus, những bóng râm mát dịu vẫn ngự trị và người bồi bàn chu đáo đứng bên những cửa sổ sẵn sàng phục vụ Madame và người đàn ông của cô.
Tại cánh cửa thang máy, Farrington nói lời giã từ và Madame Beaumont chuẩn bị đi lên lần cuối cùng. Nhưng trước khi họ tới chiếc lồng sắt yên tĩnh, anh nói:
- Hãy quên cái tên “Harold Farington” đi nhé! Tên tôi là McManus, James McManus. Hãy gọi tôi là Jimmy.
- Chúc ngủ ngon, Jimmy,- Madame nói.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeThu Dec 05, 2019 8:45 am

.
Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Mon_qua_giang_sinh__truyen_ngan

O. Henry (1862-1910) là một trong những người viết truyện ngắn nổi tiếng của Hoa Kỳ và cũng là nhà văn lừng danh thế giới.
Tại Việt Nam truyện ngắn “The Gift of the Magi” (Món quà Giáng Sinh) và “The Last Leaf” (Chiếc lá cuối cùng) đã được đưa vào chương trình quốc văn trước năm 1975.

Truyện xảy ra một ngày trước lễ Giáng Sinh và cũng như bao nhiêu người khác, James và Della phải tính đến việc mua quà tặng cho nhau. Có điều cặp vợ chồng này rất nghèo nên phải chắt chiu từng đồng để mua những món quà mà đối với họ có ý nghĩa nhất.
“Món quà Giáng Sinh” được O. Henry viết và in lần đầu tiên ngày 10/4/1906. O. Henry dẫn người đọc truyện đến những tình tiết éo le, đầy bất ngờ vào đêm Giáng Sinh khi James về nhà.



Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Images?q=tbn:ANd9GcRlpjnFoGokz34JSlxcVO2l_doW80Ow-IKqxx-eKYeWgi1-cR1J&s 

Món Quà Giáng Sinh
- O. Henry (1862-1910)


Một đồng tám mươi bảy xu, đúng như vậy. Hàng ngày, cô cố gắng tiêu thật ít tiền khi đi chợ. Cô đi loanh quanh tìm mua thứ thịt và rau rẻ nhất cho bữa ăn hàng ngày, ngay cả lúc cảm thấy hết sức mệt mỏi cô vẫn cố tìm kiếm. Tiết kiệm được đồng nào hay đồng đó.
 
Della đếm lại số tiền ít ỏi một lần nữa. Không hề có sự nhằm lẫn, chỉ có một đồng tám mươi bảy xu, và ngày mai sẽ là lễ Giáng Sinh.
Cô sẽ không thể làm gì hơn, chỉ còn cách ngồi xuống và khóc mà thôi. Ở đó, trong một căn phòng nhỏ, tồi tàn, cô đang nức nở.
Della sống trong căn phòng nhỏ nghèo nàn này với chồng của cô, James Dillingham Young, ở thành phố New York.
Họ có một phòng ngủ, một phòng tắm và một nhà bếp. James Dillingham Young may mắn hơn cô vì anh ấy có việc làm. Tuy vậy đó không phải là một công việc kiếm được nhiều tiền. Tiền thuê căn phòng này chiếm gần hết lương của anh ấy. Della đã cố gắng rất nhiều để tìm một công việc nhưng vận may đã không mỉm cười với cô. Tuy nhiên, cô rất hạnh phúc khi ôm 'Jim', James Dillingham Young, trong tay mỗi khi anh trở về.
Della đã ngừng khóc. Cô lau khô mặt rồi đứng nhìn một chú mèo xám trên bức tường đồng màu với nó bên cạnh con đường tối ngoài cửa sổ.
Ngày mai là Noel và cô chỉ còn một đồng tám mươi bảy xu để mua cho Jim, Jim của cô, một món quà. Cô muốn mua một món quà thật sự có ý nghĩa, một thứ có thể biểu hiện được tất cả tình yêu cô dành cho anh.
Della chợt xoay người chạy đến bên chiếc gương treo trên tường. Mắt cô sáng lên.

Cho đến bây giờ, gia đình James Dillingham Young chỉ có hai vật quí giá nhất. Một thứ là chiếc đồng hồ vàng của Jim. Chiếc đồng hồ này trước đây thuộc sở hữu của cha anh ta và trước nữa là ông nội anh ta. Thứ còn lại là mái tóc của Della.
Della thả nhanh mái tóc dài óng mượt xuống lưng. Thật tuyệt đẹp, không khác nào như một chiếc áo khoác đang choàng qua người cô. Della cuộn tóc lên lại. Cô đứng lặng đi rồi thút thít một lát.
Della buớc chậm rãi qua các cửa hàng dọc hai bên đường rồi dừng lại trước bảng hiệu 'Madame Eloise'. Tiếp cô là một phụ nữ mập mạp, bà ta chẳng có một chút vẻ 'Eloise' nào cả.
Della cất tiếng hỏi: 'Bà mua tóc tôi không?'
'Tôi chuyên mua tóc mà', bà ta đáp và bảo: 'hãy bỏ nón ra cho tôi xem tóc của cô đi'
Suối tóc nâu đẹp tuyệt vời buông xuống.
'Hai mươi đồng' bà ta định giá, bàn tay nâng niu mái tóc óng ả.
'Hãy cắt nhanh đi! và đưa tiền cho tôi' Della nói.

Hai giờ tiếp theo trôi qua nhanh chóng. Cô tìm mua quà cho Jim trong các cửa hiệu trong niềm vui khôn tả. Cuối cùng cô cũng chọn được một thứ. Đó là môt sợi dây đồng hồ bằng vàng. Jim rất quí chiếc đồng hồ của mình nhưng rất tiếc là nó không có dây. Khi Della trông thấy sợi dây này cô biết rằng nó phải là của anh và cô phải mua nó.
Cô trả hai mươi mốt đồng để mua và vội vã trở về nhà với tám mươi bảy xu còn lại.
Đến nhà, Della ngắm mái tóc cực ngắn của mình trong gương và nghĩ thầm: 'Mình có thể làm gì với nó đây?'. Nửa giờ tiếp theo cô nhanh chóng chuẩn bị mọi thứ. Xong Della lại ngắm nghía mình trong gương lần nữa. Tóc của cô bây giờ toàn những sợi quăn quăn khắp đầu. 'Chúa ơi, mình trông như một con bé nữ sinh ấy!'. Cô tự nhủ : 'Jim sẽ nói gì khi thấy mình như thế này?'

Bảy giờ tối, bữa ăn đuợc chuẩn bị gần xong. Della hồi hộp chờ đợi, hy vọng rằng mình vẫn còn xinh đẹp trong mắt Jim.
Thế rồi cửa mở, Jim bước vào. Anh ấy trông rất gầy và cần có một cái áo khoác mới. Jim nhìn chằm chằm vào Della. Cô không thể hiểu được anh đang nghĩ gì, cô sợ. Anh ta không giận dữ, cũng chẳng ngạc nhiên. Anh đứng đó, nhìn cô với ánh mắt kỳ lạ. Della chạy đến bên Jim òa khóc:
"Đừng nhìn em như thế, anh yêu. Em bán tóc chỉ để mua cho anh một món quà. Tóc sẽ dài ra mà. Em phải bán nó thôi, Jim à. Hãy nói 'Giáng Sinh Vui Vẻ', em có một món quà rất hay cho anh này!"
'Em đã cắt mất tóc rồi à?' Jim hỏi.
'Đúng thế, em đã cắt và bán rồi, vì vậy mà anh không còn yêu em nữa ư? em vẫn là em mà!' Della nói.
Jim nhìn quanh rồi hỏi lại như một kẻ ngớ ngẩn:
"Em nói là em đã bán tóc à?"
'Đúng, em đã nói vậy, vì em yêu anh! Chúng ta có thể ăn tối được chưa, Jim?'
Chợt Jim vòng tay ôm lấy Della và rút từ túi áo ra một vật gì đấy đặt lên bàn. Anh nói: 'Anh yêu em, Della, dù cho tóc em ngắn hay dài. Hãy mở cái này ra em, sẽ hiểu tại sao khi nãy anh sững sờ đến vậy.'

Della xé bỏ lớp giấy bọc ngoài và kêu lên sung sướng, liền sau đó những giọt nước mắt hạnh phúc rơi xuống. Trong đó là một bộ kẹp tóc, những chiếc kẹp dành cho mái tóc óng ả của Della. Cô đã mơ ước có đuợc nó khi trông thấy lần đầu tiên qua cửa kính một gian hàng. Những cái kẹp rất đẹp và rất đắt tiền. Bây giờ chúng đã thuộc về cô nhưng tóc cô thì không còn đủ dài để kẹp nữa!
Della nâng niu món quà, mắt tràn đầy hạnh phúc. 'Tóc em sẽ chóng dài ra thôi Jim', nói xong cô chợt nhớ đến dây đồng hồ vàng định tặng cho Jim và chạy đi lấy.
'Đẹp không anh? em đã tìm kiếm khắp nơi đấy, giờ thì anh sẽ phải thích thú nhìn ngắm nó hàng trăm lần mỗi ngày thôi. Nhanh lên, đưa nó cho em, Jim, hãy nhìn nó với sợi dây mới này'.
Nhưng Jim không làm theo lời Della. Anh ngồi xuống vòng tay ra sau đầu mỉm cười nói: 'Della, hãy cất những món quà này đi. Chúng thật đáng yêu. Em biết không, anh đã bán chiếc đồng hồ để mua kẹp cho em. Giờ thì chúng ta có thể bắt đầu bữa tối được rồi em yêu'.

... Đó là một câu chuyện cảm động về tình yêu của hai bạn trẻ đã hết lòng yêu nhau. Luôn nghĩ về nhau.

O'Henry (American writer, William S. Porter)
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeTue Dec 17, 2019 9:42 am

.

Chuyện một tờ báo​
- O. Henry (1862-1910)


8 giờ sáng, nó còn chưa ráo mực in đã nằm trên quầy bán báo của Giuxeppi. Với tính ranh ma của hạng người như hắn, Giuxeppi đi tán gái ở góc phố đối diện để mặc khách tự lấy báo, chắc hẳn là hắn dựa vào cái thuyết có liên quan tới giả định về cái nồi được chú ý quá nhiều.(1)
Theo tục lệ và ý đồ của nó, tờ báo đặc biệt này vừa là một nhà giáo dục, một người hướng dẫn, một người khuyên răn, lại là một chiến sĩ, một cố vấn đại gia và một vade mecum (2).

Trong nhiều cái đặc sắc của nó có thể chọn ra ba vài xã thuyết. Một bài, lời lẽ giản dị mộc mạc nhưng ngời sáng, nhằm vào các bậc cha mẹ và những nhà giáo, chê trách việc đánh đập để trừng phạt trẻ con.
Bài thứ hai là một bài cảnh cáo có tính chất lên án, nhiều ý nghĩa gửi cho một tay thủ lĩnh nghiệp đoàn nổi tiếng đang sắp sửa xúi giục những người theo mình gây ra một cuộc bãi công rắc rối.
Bài thứ ba là một lời kêu gọi hùng hồn đòi phải ủng hộ và giúp đỡ lực lượng cảnh sát về mọi mặt ngõ hầu tăng cường lực lượng của nó với tính cách là những người bảo vệ và phục vụ công chúng.
Ngoài những bài trách cứ và yêu sách quan trọng này đối với cái kho tinh thần công dân tốt, còn có một phương thuốc nhiệm màu hoặc một thứ biện pháp khôn ngoan của biên tập viên phụ trách mục “tâm tình” trình bày về một trường hợp đặc biệt về một thanh niên phàn nàn về lòng sắt đá không chuyên của một cô gái mà anh ta yêu, dạy anh ta làm cách nào để chinh phục được cô gái.
Trên trang sắc đẹp, lại có lời giải đáp đầy đủ cho một thiếu nữ muốn được khuyên nhủ để có được mắt sáng, má hồng và vẻ mặt xinh đẹp.
Một tin khác đòi hỏi phải có một sự hiểu biết đặc biệt, là một “việc riêng” vắn tắt, được viết như sau:
“Giắc thân yêu, tha lỗi cho em. Hẹn anh đúng 8h 30 sáng nay gặp em ở góc phố Mêđixơn và phố thứ…Ta ra đi vào đúng ngọ.
Người hối lỗi”

Lúc 8h, một thanh niên nét mặt phờ phạc, mắt hừng hực như sốt vì lo lắng, đi ngang qua quầy bán báo của Giuxeppi quẳng 1 xu nhặt lấy tờ báo trên cùng. Một đêm không ngủ đã khiến anh trở thành kẻ dậy muộn. 9h đã phải đến sở làm việc mà trong khoảng thời gian từ giờ đến đó còn phải cạo râu, còn phải uống chớp nhoáng một tách cà phê nữa.
Anh ghé vào hiệu cắt tóc rồi lại hấp tấp ra đi. Anh đút tờ báo vào túi, thầm nghĩ đến giờ ăn trưa sẽ đọc. Tới góc phố gần đó, tờ báo rơi khỏi túi anh, lôi theo cả đống găng tay mới. Đi được ba dãy nhà, không thấy đôi găng đâu anh bực tức lộn trở lại.
Đúng tám rưỡi, anh tới góc phố chỗ đôi găng và tờ báo nằm lăn lóc trên mặt đất. Nhưng thật lạ lùng, anh bỗng quên phắt đi cái mà anh trở lại tìm kiếm. Anh đang nắm lấy hai bàn tay nhỏ nhắn, chưa bao giờ anh nắm chặt đến thế và nhìn vào đôi mắt hối hận màu nâu, niềm vui sướng rộn lên trong lòng anh.
-Giắc thân yêu – cô gái nói – em biết là anh sẽ đến đây đúng giờ mà.
“Chẳng hiểu cô ấy định nói gì – anh thầm nghĩ – nhưng không sao, không sao hết”

Một cơn gió mạnh từ phía tây xô tới, hất tờ báo khỏi vỉa hè, mở tung nó ra và bốc nó lên bay lộn trên không sang phố bên. Ngược đường phố ấy, anh thanh niên đã viết thư cho biên tập viên của mục “tâm tình” hỏi xin một công thức để chinh phục cô gái mà anh mê say đang dong cương một con ngựa hồng bất kham, kéo một chiếc xe độc mã hai bánh.
Cơn gió đùa nhả bùng lên ập tờ báo đang bay vào mặt chú ngựa hồng bất kham. Con ngựa lồng lên biến thành một vệt màu hồng pha lẫn màu đỏ của bánh xe đang quay tít, kéo dài qua bốn dãy nhà. Rồi cái vòi nước máy đóng vai trò của nó trong công cuộc sáng thê và chiếc xe độc mã biến thành dóm diêm như thể đã được an bài từ trước, còn anh chàng xà ích thì nằm chết lặng trên đường nhựa trước một toà nhà giàu có nào đó
Người ta vội chạy ra khiêng anh ta ngày lập tức vào trong nhà. Một người phụ nữ tự làm gối cho anh ta kê đầu và bất chấp những ánh mắt tò mò, cô ta cúi xuống nói: “Ôi, đúng là anh rồi Bôby; bao giờ cũng chỉ có anh thôi. Anh không thấy thế sao? Nếu em có mệnh hệ nào thì em không sống được và…”

Nhưng đang cơn gió to thế này, chúng ta phải mau mau theo sát tờ báo của chúng ta.
Viên cảnh sát Ô Brai bắt lấy tờ báo như là một nhân vật nguy hiểm cho giao thông. Những ngón tay chuối mắn của hắn chậm chạp vuốt thẳng lại những tờ báo tơi tả. Hắn đang đứng cách cổng sau của quán ăn Xenđơn Ben vài bước. Hắn khó nhọc đánh vần đề bài báo “Báo chí đứng hàng đầu trong cuộc vận động ủng hộ cảnh sát”.
Nhưng, suỵt! Tiếng tên phụ trách quầy rượu Đany lọt qua khe cửa: “Này Maikơ, một cốc nhỏ phần ông bạn già đây.”
Sau những cột báo thân tình mở rộng, viên cảnh sát Ô Brai nhanh nhẹn nhận lấy cốc rượu “thứ thiệt”. Rồi hắn hùng dũng, tỉnh táo và khoẻ khoắn bước đi làm nhiệm vụ. Ước gì ông chủ bút có thể tự hào nhìn thấy cái kết quả tinh thần, cái kết quả theo đúng nghĩa của chữ đã ban phước cho công sức của ông ta.
Viên cảnh sát Ô Brai gấp tờ báo lại, vui vẻ giúi nó vào nách một chú bé đi ngang qua. Chú bé tên là Giôny và chú mang tờ báo về nhà. Chị chú bé là Glađi, chính cô ta viết thư cho biên tập viên trang “sắc đẹp” để hỏi về phương thuốc nhiệm màu để có thể thực hiện được về sắc đẹp. Chuyện ấy đã từ mấy tuần trước rồi và cô đã thôi không tìm câu trả lời nữa. Cô đang mặc áo để đi lên phố để mua ít dải viền. Bên trong váy cô đính hai mảnh giấy báo của Giôny mang về. Khi cô đi tiếng sột soạt nghe y như tiếng sột soạt của đồ thật.

Ra đến ngoài phố cô gặp nhà Brao ở tầng dưới và dừng lại nói chuyện. Cô gái nhà Brao tái mặt. Chỉ có thứ lụa năm đô một thước mới tạo được thứ âm thanh cô ta nghe thấy khi Glađi cất bước. Cô gái nhà Brao héo hon cả người vì ghen tị, nói vài tiếng hằn học rồi bỏ đi, môi mím chặt.
Glađi tiếp tục đi về phía đại lộ. Giờ đây, mắt cô ta sáng long lanh như nước nguồn. Sắc hồng tươi phớt trên đôi má cô, một nụ cười thoả mãn, tế nhị và đầy sinh khí biến đổi bộ mặt của cô. Cô đẹp hẳn lên. Giá mà khi ấy bà biên tập viên trang sắc đẹp nhìn thấy cô lúc ấy. Hình như lời giải đáp của bà ta trên báo có nói đến việc trau dồi tình cảm đối với mọi người để làm cho nét mặt thô xấu trở thành hấp dẫn.
Tay cầm đầu nghiệp đoàn – mà lời huấn thị trịnh trọng và đanh thép của bài xã thuyết trên báo nhằm vào là bố của Glađi và Giôny. Ông ta nhặt những mảnh báo còn lại của tờ báo mà Glađi đã tước mất để làm ra cái thứ thuốc để làm ra tiếng sột soạt của lụa. Mắt ông ta không trông thấy bài xã thuyết mà lại bắt gặp một trò đố khéo léo, có bề ngoài lừa dối vẫn thường làm say mê cả kẻ ngây ngô lẫn người khôn ngoan.
Ông vội xé lấy nửa trang báo, chiếm lấy cái bàn, cây bút chì và tờ giấy rồi miệt mài với trò chơi ấy.
Ba giờ sau, sau khi đợi ông ta uổng công tại một điểm đã định, các thủ lĩnh khác, bảo thủ hơn tuyên bố và quyết định tán thành hoà giải, như thế là tránh được cuộc đình công với những hậu quả nguy hiểm của nó. Những số báo sau đó, với giọng của kèn đồng đã nhắc đến bằng chữ in màu, tố cáo thắng lợi của tờ báo đối với những mưu đồ đã dự tính của tay cầm đầu nghiệp đoàn.

Những mảnh còn lại của tờ báo thiết thực cũng kiên trì chứng tỏ hiệu lực của nó.
Khi Giôny đi học về, chú đã tìm một chỗ khuất để bỏ những cột báo đã xé rời ra khỏi bên trong quần áo, nơi chúng được phân bố khéo léo để bảo vệ một cách có kết quả những khu vực thường bị trừng phạt ở nhà trường tiến công vào. Giôny học ở trường tư và đã có chuyện lôi thôi với thầy giáo, như đã nói, trong số báo sáng hôm đó, có một bài xã thuyết xuất sắc chống lại việc đánh đập để trừng phạt và không còn nghi ngờ gì nữa, nó đã phát huy tác dụng.
Sau chuyện này, còn ai dám hoài nghi sức mạnh của báo chí?

Chú thích:
(1) Theo ngạn ngữ,” watched pot never boils” (theo nghĩa đen: để ý đến nồi thì nồi không sôi) có nghĩa là càng mong thì càng lâu đến.
(2) Sổ tay, sách tóm tắt vật luôn mang theo mình (tiếng latinh)
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitimeTue Jan 28, 2020 9:45 pm

.
Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Images?q=tbn:ANd9GcTM47Ufhke8ACb7Dr10h46NUV4XV1vCLKXq8fJHr-rDQlNTTXq6&s
 
Thăng trầm của cuộc đời
– O. Henry (1862-1910)


Vị thẩm phán hòa giải Tòa sơ thẩm Benaja Widdup đang ngồi ở cửa phòng làm việc rít tẩu thuốc. Dãy núi Cumberland bang Tennessee hiện lên một màu xám xanh trên nền trời chiều. Tiếng con chim hòa lẫn tiếng con gà mái hoa mơ tung tăng dưới con phố chính tạo âm thanh xuẩn ngốc. Trên đường vang lên tiếng kẽo kẹt của bánh xe, tiếp sau đám bụi từ từ bốc lên. Cỗ xe bò do ông Ransie Bilbro điều khiển chở bà vợ ngồi bên trong dừng tại cửa Tòa sơ thẩm. Hai người nhanh chóng leo ra. Vị thẩm phán xỏ hai chân vào đôi giày, bước ra gọi họ vào. Vừa vào đến nơi, người đàn bà nhanh nhẹn cất giọng vi vu như cơn gió thổi qua hàng thông:
- Cả hai chúng tôi đều muốn ly hôn.
Nói xong, bà liếc sang ông chồng Ransie xem ý. Ông Ransie lặp lại lời nói của bà vợ bằng cái lắc đầu đầy tang thương:
- Ly hôn. Cả hai chúng tôi không có cách nào để sống chung với nhau được nữa. Một người đàn ông và một người đàn bà yêu thương nhau mà sống ở trong núi rừng thì đủ cô độc rồi, chứ đừng nói đến chuyện khi người đàn bà ấy bỗng trở thành con sư tử thì người đàn ông không cần phải sống chung với bà ta nữa!
Vị thẩm phán bắt đầu mở quyển sách luật ra, lau lau đôi kính, rồi phán:
- Luật không nói về chủ đề ly hôn chừng nào mà tòa quan tâm. Nhưng nếu một vị thẩm phán hòa giải có thể kết hợp cho hai người, thì rõ ràng ông ta cũng có thể giải quyết cho họ ly hôn. Tòa án này sẽ ban hành một bản án cho phép thuận tình ly hôn và giữ đúng nội dung bản án ấy trừ phi tòa tối cao phán quyết khác!

Nghe thế, ông Ransie Bilbro lôi cái túi nhỏ trong chiếc quần dài, lắc lắc trên mặt bàn đến khi rơi ra một tờ giấy bạc năm đô la. Ông nói:
- Đây là tiền bán bộ da gấu và hai bộ da cáo, là toàn bộ số tiền chúng tôi có được.
Vị thẩm phán nói:
- Án phí sơ thẩm của một vụ ly dị ở tòa án này là năm đô la.
Nói xong ông cầm tờ giấy bạc kia đút vào túi chiếc áo choàng với vẻ như tiền là điều nhỏ bé, không đáng quan tâm. Rồi bằng nhiều nỗ lực, ông chậm rãi viết bản án cho phép ly hôn trên một nửa mặt tờ giấy, sao thêm thành những bản khác. Cuối cùng ông đọc lớn:
“Như mọi người đều biết, ông Ransie Bilbro và vợ ông ta là bà Ariela Bilbro hôm nay trong tình trạng trí óc lành mạnh, thân thể tráng kiện đích thân đứng trước mặt tôi và cam đoan rằng sau đây họ sẽ không còn yêu nhau, quý trọng nhau và vâng lời nhau bất chấp hậu quả ra sao.
Và, Tòa sơ thẩm hòa giải và thuận tình của bang phán quyết chấp nhận bản án cho phép ly hôn này. Vấn đề này không sai. Xin thề. Ký tên Benaja Widdup, thẩm phán hòa giải Tòa sơ thẩm hạt Piedmont, bang Tennessee”.

Khi vị thẩm phán sắp sửa đưa một bản sao bản án ly hôn này cho ông Ransie thì bà Ariela cất tiếng:
- Thưa quan tòa, xin đừng vội đưa cho ông ta cái bản án đó. Sao lại thế được, bản án đó chưa giải quyết được tất cả. Phải giải quyết quyền lợi cho tôi trước tiên chứ!  Tôi phải nhận được tiền cấp dưỡng. Không có chuyện một người đàn ông ly dị vợ mà không chia tài sản cho vợ cũ. Tôi có ý định sau khi ly hôn sẽ đến ở nhờ nhà ông anh Ed trên núi Hogback. Tôi cũng phải có một đôi giày và một số vật dụng khác nữa. Nếu ông Ransie có đủ tiền để ly hôn, thì hãy ra lệnh ông ta trả tiền cấp dưỡng cho tôi!
Người đàn bà hiện đứng đây bằng đôi chân trần, còn con đường mòn dẫn đến núi Hogback thì vị thẩm phán biết rõ thật sự là gồ ghề, lởm chởm. Ông hỏi:
- Bà Ariela Bilbro, bà hãy thành thật trả lời trước tòa rằng bà mong được nhận đủ số tiền cấp dưỡng trong trường hợp này là bao nhiêu?
Bà Ariela vội vàng đáp:
- Thưa quý tòa, tôi cho rằng việc mua đôi giày và tất cả những việc khác chừng năm đô la. Số tiền đó tuy không nhiều, nhưng tôi nghĩ bằng số tiền ấy tôi sẽ xoay xở được khi đến ở nhờ nhà ông anh Ed.
Vị thẩm phán nói:
- Tổng số tiền ấy là không quá đáng. Ông Ransie Bilbro, tòa phán quyết ông phải trả số tiền năm đô la cho bà Ariela trước khi bản án cho phép được ly hôn ban hành.
Ông Ransie thở gấp gáp, nói:
- Tôi không còn tiền nữa. Tôi đã nộp cho quý tòa tất cả những gì tôi có!
Vị thẩm phán trừng mắt qua đôi kính, thét lên:
- Nếu không thì ông bị buộc tội không chấp hành bản án của tòa!
Ông Ransie vội vàng biện hộ:
- Tôi nghĩ là nếu quan tòa cho phép đến ngày mai, tôi sẽ có thể cóp nhặt đủ số tiền ấy ở đâu đó. Tôi không bao giờ toan tính sẽ không thanh toán tiền cấp dưỡng đâu… 
Vị thẩm phán nới lỏng đôi giày, phán:
- Được, tòa đây cho phép ông đến ngày mai!
Ông Ransie quả quyết nói với bà vợ Ariela:
- Chúng ta cũng có thể xuống nơi ở của ông chú Ziah và nghỉ đêm ở đó.
Nói xong, cả hai vội vã chào vị thẩm phán rồi nhanh chóng bước ra cỗ xe. Ông leo lên  ngồi vào một bên, còn bà Ariela leo lên sau ngồi ở phía bên kia. Con bò từ từ kéo cỗ xe đi xuống hết con đường.

Sau khi họ đi khỏi, thẩm phán Benaja Widdup ngồi một mình vừa rít tẩu thuốc vừa đọc tờ tuần báo cho đến khi trăng lên.
Rồi cũng đến lúc phải về nhà dùng bữa tối. Nhà ông là một túp lều đôi bằng gỗ nằm cạnh núi, đường dẫn đến nhà phải băng qua một lối mòn. Bây giờ hàng cây trong bóng đêm đã che khuất đường đi. Trong lúc ông dọ dẫm từng bước chân về nhà, đột nhiên có một gã đàn ông trong lùm cây, chiếc mũ kéo thấp xuống che hầu hết khuôn mặt bước ra dí súng vào ông, thét lên:
- Đừng nói lời nào. Tiền của ông đâu, đưa đây ngay. Ngón tay tôi đang trên cò súng đây!
Vị thẩm phán bối rối đáp:
- Tôi chỉ có năm đô la.
Gã đàn ông ra lệnh:
- Cuộn lại, cài vào cuối nòng súng này, xong ông có thể đi!
Không thể làm gì khác, vị thẩm phán đã răm rắp làm theo lệnh của gã đàn ông kia.

Hôm sau, cỗ xe một lần nữa dừng tại cửa phòng làm việc của vị thẩm phán. Vào bên trong, ông Ransie Bilbro đưa cho bà vợ tờ giấy bạc năm đô la. Vị thẩm phán đưa ánh mắt sắc sảo nhìn tờ giấy bạc xoắn lại có vẻ như nó bị cuộn và gắn vào cuối nòng súng, nhưng không nói gì. Ông đưa cho mỗi người một bản án cho phép ly hôn. Cả ông Ransie và bà Ariela đứng im có vẻ bứt rứt. Rồi cuối cùng bà Ariela cất tiếng:
- Tôi đoán là ông sẽ trở về chiếc lều cùng với cỗ xe. Có chiếc bánh mì trong cái hộp thiếc đặt trên chiếc kệ. Tôi bỏ thịt lợn muối xông khói trong nồi để giấu bầy chó săn đánh hơi được. Tối nay ông đừng quên lên giây chiếc đồng hồ.
Ông Ransie hỏi:
- Bà sắp sửa tới nhà ông anh Ed phải không?
- Tôi mong lên được nơi đó trước khi trời tối. Tôi không nói là chính họ sẽ băn khoăn nhiều khi đón tôi, nhưng tôi không biết nơi nào nữa để đi. Đây là một quãng đường dài và tốt hơn là nên đi sớm. Tôi sẽ nói lời chào tạm biệt ông nếu ông thật sự muốn như thế!
Ông Ransie nói:
- Tôi không biết ai có thể là con chó săn không muốn nói lời tạm biệt như vậy nếu bà quá vội ra đi mà không muốn tôi nói lời chào tạm biệt.

Bà Ariela yên lặng, cẩn thận gấp tờ bạc năm đô la và bản án cho phép ly hôn bỏ vào túi trong chiếc váy. Vị thẩm phán Benaja Widdup đưa mắt buồn bã nhìn tờ giấy bạc biến mất. Nhận xét tiếp theo có lẽ là thể hiện sự cảm thông sâu sắc, hoặc điều gì khác nữa trong tâm trí ông.
Ông hỏi:
- Phần nào cảm thấy cô độc trong chiếc lều cũ tối nay phải không ông Ransie?
Ông Ransie đáp:
- Có lẽ là cô độc, nhưng khi người thân thuộc trở nên điên rồ muốn ly hôn, thì không thể níu kéo người ta ở lại.
Bà Ariela bỗng chen lời:
-  Trừ những người thật sự muốn ly hôn, còn lại không ai không muốn không còn ai ở lại.
- Không bao giờ không ai nói họ không muốn.
- Không bao giờ không ai nói họ muốn. Tôi đoán tốt hơn là bây giờ tôi nên bắt đầu đi tới nhà ông anh Ed.
- Ai có thể lên giây chiếc đồng hồ cũ đó?
- Ông muốn tôi đi về cùng ông trên cỗ xe, rồi lên giây chiếc đồng hồ đó cho ông, phải không ông Ransie?
Ông Ransie không thể hiện xúc động, nhưng ông đưa bàn tay to lớn của mình cầm lấy bàn tay gầy guộc của bà Ariela. Ông nói:
- Tôi cho là tôi tầm thường và đáng khinh. Bà hãy lên giây chiếc đồng hồ đó đi, bà Ariela!
Bà Ariela thanh thản nói:
- Trái tim tôi ở túp lều đó với ông, ông Ransie ạ. Tôi không còn điên nữa. Chúng ta hãy bắt đầu lại đi ông Ransie, như thế chúng ta có thể về nhà kịp lúc mặt trời lặn.
Thẩm phán Widdup cắt lời họ:
- Nhân danh bang Tennessee, tôi ra lệnh ông bà không được chống lại luật pháp. Tòa án này rất vui mừng phán quyết cho hai người còn thương nhau được sum hợp trở lại, nhưng nhiệm vụ của tòa là bảo vệ luật lệ của bang. Tòa nhắc nhở ông bà rằng ông bà không còn là vợ chồng nữa. Ông bà được xử cho phép thuận tình ly hôn theo bản án thông thường. Như thế có nghĩa là ông bà không được phép hưởng quyền lợi của hôn nhân.

Bà Ariela nắm lấy tay ông Ransie. Liệu có phải những lời nói đó có nghĩa là bà phải mất ông ngay từ bây giờ khi họ vừa học được bài học đắt giá của cuộc đời chăng?
Vị thẩm phán chậm rãi nói:
- Tuy nhiên, tòa án này cũng sẵn sàng hủy bỏ bản án ly hôn vừa phán quyết. Tòa đồng ý cho tổ chức lễ cưới. Chi phí cho việc tổ chức lễ cưới trong trường hợp sẽ là năm đô la!
Bà Ariela mỉm cười, nhanh chóng đưa tay vào chiếc áo đầm lấy tờ giấy bạc năm đô la. Bà tay trong tay với ông Ransie đứng nghe phán quyết cho phép sum họp lại của vị thẩm phán. Rồi ngay lập tức bà cùng ông Ransie rời khỏi tòa về lại căn nhà họ ở trên dãy núi.    

Vị thẩm phán Tòa hòa giải Benaja Widdup trở lại chỗ ô cửa, cởi đôi giày, khoan khoái rít tẩu thuốc. Thêm một lần nữa ông âu yếm sờ tờ giấy bạc năm đô la trong túi chiếc áo choàng. Lại một lần nữa con gà mái đang tung tăng dưới con phố chính kêu tanh tách vang lên âm thanh ngốc nghếch kia.

Trần Phi Tơ (dịch)
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu    Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu  Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Tập Truyện Ngắn O. Henry (1862-1910): Khi người ta yêu
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Một Nửa Người Đàn Ông
» Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian
» Tập Truyện Ngắn Phạm Tín An Ninh: Người Góa Phụ Giờ Thứ 25
» Tập Truyện Ngắn nhà văn Nhật: Danh dự của người võ sĩ
» Truyện ngắn: Vợ hay Mẹ? Mẹ hay Vợ?

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon  :: ĐỀ TÀI :: Văn Hóa, Nghệ Thuật :: Văn-
Chuyển đến