Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon

Diễn Đàn của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  GalleryGallery  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Keywords
phải Saigon ngắn chuyen Trung chẳng nhac linh Chung Nguyen chất quang quan Nhung quynh không thuoc truyện trong nguyet ngam hoang bich VNCH quốc sáng
Latest topics
» "Chinh Phụ Ngâm & Vườn hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng"
Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeThu Apr 04, 2024 12:38 am by Admin

» "Chinh Phụ Ngâm & Vườn hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng"
Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeThu Apr 04, 2024 12:09 am by Admin

» "Chinh Phụ Ngâm & Vườn hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng"
Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeThu Apr 04, 2024 12:09 am by Admin

» qua đi thôi bão nổi
Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeSat Mar 11, 2023 3:11 am by Admin

» Cụ Hoang Xuân Hãn
Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeSun May 08, 2022 10:37 pm by Admin

» Giáo dục VNCH - Giáo dục con đường khai phóng
Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeMon Jan 10, 2022 4:06 am by Admin

» Suy tư về kiếp người - Về Cùng Cát Bụi
Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeSun Jan 09, 2022 4:25 am by Admin

» AI ĐÃ HẠ GỤC CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN?
Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeSat Jan 08, 2022 2:41 am by Admin

» NHẠC THIỀN - Cõi Thiền trong Âm Nhạc
Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeThu Jan 06, 2022 4:11 am by Admin

April 2024
MonTueWedThuFriSatSun
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
2930     
CalendarCalendar
Affiliates
free forum

Affiliates
free forum


 

 Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận

Go down 
3 posters
Tác giảThông điệp
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeFri Mar 22, 2013 12:44 am

.
Cánh đồng bất tận

Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư

.
Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Images?q=tbn:ANd9GcRcQyPJ-copyEpJKJ29ugMBosyiXmVYZ77yLvOcLH-gBRInFpzllA

Tôi biết về Phật Giáo không nhiều, vơ được quyển sách nào thì đọc cái ấy.  Cũng có điều hiểu được, học được, làm được, nhưng nhiều điều buộc phải “bó tay”. Ví dụ như mấy lời này: “Khi nào bạn bực tức, giận dữ, hãy bất động! Ngay tại đó! Đừng cử động! Đừng làm gì cả! Đừng nói gì – dù chỉ một lời.  Hãy yên lặng và bất động hoàn toàn. Tuyệt đối không biết gì đến kẻ hoặc sự việc làm cho mình giận dữ” (Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương - Tỳ kheo VISUDDHÀCÀRAZ).  
Trời ơi, mình giận muốn chết, muốn gào thét, muốn cào cấu, muốn đập phá mà không cho mình nhúc nhích, sao có thể hả hê? Đạt được đạo mới khó làm sao...


1.

Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn. Cha tôi tháo cái khung tre chắn dưới sàn ghe, bầy vịt lúc nhúc chen ra, cuống quýt, nháo nhào quẫy ngụp xuống mặt nước váng phèn. Một lớp phèn mới, vàng sẫm quánh lại trên bộ lông của những con vịt đói, nhớp nháp bám trên vai Điền khi nó trầm mình bơi đi cặm cọc, giăng lưới rào bầy vịt lại. Tôi bưng cái cà ràng lên bờ, nhóm củi.

Rồi ngọn lửa hoi hót thở dưới nồi cơm đã lên tim, người đàn bà vẫn còn nằm trên ghe. Ngay cả ý định ngồi dậy cũng xao xác tan mau dưới những tiếng rên dài. Môi chị sưng vểu ra, xanh dờn. Và tay, và chân, và dưới cái áo mà tôi đã đắp cho là một cái áo khác đã bị xé tả tơi phơi những mảng thịt người ta cấu nhéo tím ngắt.

Và những chân tóc trên đầu chị cũng đang tụ máu. Người ta đã lòn tay, ngoay chúng để kéo chị lê lết hết một quãng đường xóm, trước khi dừng chân một chút ở nhà máy chà gạo. Họ giằng ném, họ quăng quật chị trên cái nền vương vãi trấu. Vai nữ chính, một người đàn bà xốc xếch đã lạc giọng, đôi lúc lả đi vì ghen tuông và kiệt sức. Nhưng đám đông rạo rực chung quanh đã vực tinh thần chị ta dậy, họ dùng chân đá vói vào cái thân xác tả tơi kia bằng vẻ hằn học, hả hê, quên phứt vụ lúa thất bát cháy khô trên đồng, quên nỗi lo đói no giữa mùa giáp hạt. Cuộc vui hẳn sẽ dài, nếu như không có một ý tưởng mới nảy ra trong cơn phấn khích. Họ dùng dao phay chạt mái tóc dày kia, dục dặc, hì hục như phạt một nắm cỏ cứng và khô. Khi đuôi tóc dứt lìa, được tự do, chị vùng dậy, lao nhanh xuống ghe chúng tôi như một tiếng thét, lăn qua chân tôi, đến chỗ cha, làm đổ những bao trấu cha vừa mới xếp.

Đám người ngơ ngác mấy giây để chấp nhận việc con mồi bỏ chạy. Tôi mất mấy giây để háo hức thấy mình nghĩa hiệp như Lục Vân Tiên, tôi lồm cồm xô ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng, tôi cầm sào chống thục mạng ra giữa sông, mắt không rời đám người đang tràn ra mé bờ chực lao xuống, nhảy nhót điên cuồng. Rồi tiếng chửi rủa chói lói chìm đi, tiếng bầy vịt tao tác kêu dưới sạp chìm đi, trong tôi chỉ có âm thanh của chiếc máy Koler4 nổ khan, rung bần bật dưới tay Điền, khạc ra những đám khói khét lẹt, đen ngòm. Khói trôi về phía sau chúng tôi, mờ nhoè những bóng người đang tuyệt vọng ngó theo, bàn tay nào đó cầm nắm tóc của chị vẫy lên phơ phất phơ phất…

Cha tôi không đóng vai trò gì trong cuộc tháo chạy ấy, ông im lặng, khi đã đi khá xa, cha ra đằng mũi cầm sào. Tôi bò vào trong ghe, lấy áo đắp lên người chị, sao cho che được đôi vú rách bươm và khoảng đùi rướm máu. Chị cười mếu máo, nói cảm ơn bằng mắt và thiếp đi.

Suốt một quãng đường, chị không hề thay đổi thế nằm, im lìm, lạnh ngắt như người chết. Trong ghe chỉ trôi mênh mang những tiếng rên khi dài, khi ngắn, khi thiu thỉu buồn xo, lúc nghe như tiếng nấc nghẹn ngào…

Nhờ vậy mà chúng tôi biết chị còn sống, để đi với chúng tôi gần hết con sông Bìm Bịp, đến cánh đồng hoang vắng này. Điền hơi lo lắng khi nghe chị vẫn còn rên rỉ, nghĩ là chị đã đói, nó hối tôi nấu cơm mau. Nó thấy tiếc vì trên ghe chỉ còn mấy con khô sặt mặn chát, “tui nuốt còn không vô, nói chi…”

Nhưng chiều hôm đó và cả ngày sau, chị không ăn. Chị từ chối cả uống nước, đợi đôi môi khô đã bắt đầu nứt ra, chị mới chịu hớp một vài ngụm ít ỏi, dường như chỉ đủ ướt môi. Đói và khát, nhưng chị còn sợ đau hơn. Người ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị…
Tôi nói lại với cha và Điền trong bữa cơm. Tôi nghe hai người lặng đi, tiếng đũa tre khua vào miệng chén ngưng bặt. Điền ngó tôi và tôi thì đọc được sự ghê sợ, kinh tởm cồn lên trong mắt cha. Điền chan nước vào chén, lua vội vàng rồi men theo con đường đất dọc mé kinh, nó đi vào trong xóm. Tôi dặn vói theo, ghé tiệm mua giùm ngàn rưỡi đường cát.

Chắc gió đã bạt mất lời tôi, khi quay về, Điền không mang theo gì, nó lẳng lặng xòe tay trước mặt tôi, tay nó dính một lớp gì đó, bóng mượt, trong suốt, và đang khô quánh lại, khiến những ngón tay đơ ra như đá. Điền bảo, “Keo dán sắt…”. Dường như những người sản xuất ra loại keo này cũng không ngờ nó nhiều công dụng đến thế. Hai chị em tôi tỉ mẩn lột lớp keo ra, mảng da non trên bàn tay nó bỏng đỏ nhừ, tươm máu. Chúng tôi cùng ngó về chỗ khoang ghe, nghe tiếng thở thênh thang cùng gió…

2.

Cánh đồng không có tên. Nhưng với tôi và Điền, chẳng có nơi nào là vô danh, chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỷ niệm mà chúng tôi có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ tôi có kỳ kinh nguyệt đầu tiên… Và mai này khi trôi dạt đến một nơi nào khác, nhắc đến cánh đồng này với cái tên của chị, chắc chúng tôi sẽ xốn xang.

Sáng sớm ngày thứ ba, chị ngồi dậy được, ngó quanh, chị hỏi, “Trời đất ơi, chỗ nào mà vắng tanh vậy nè”. Làng xóm xa xa đằng phía những rặng dừa xanh thẩm. Đồng đất trống trơn, trên đôi bờ kinh chơ vơ những cây gòn. Hai đứa nhỏ đầu mướt sương đang hí húi trộn thức ăn cho vịt, nhìn chị ngạc nhiên đến ngây ngất. Giọng nói chị không bị thương tích gì hết, trong vắt và ngọt ngào.

Chị hỏi “Tắm ở đâu, mấy cưng?”. Tôi chỉ xuống kinh. Chị ngó những váng phèn, ngao ngán. Điền nói, đằng kia có một cái ao.

Đó là một hố bom cũ, bình bát mọc quanh, rau muống chằng chịt phủ kín mặt nước, cọng rau ốm nhằng, đỏ au. Chỗ này, hôm qua, Điền đã câu được những con cá thát lát ú mềm. Chị trầm mình dưới đó rất lâu, chẳng kỳ cọ gì, chỉ để nước lạnh chườm dịu lại những chỗ đau. Lúc chị lên bờ, tôi thấy máu lợn cợn theo những giọt nước nhỏ xuống giữa hai đùi, chắc chị đã làm gì với chỗ keo dán ác nghiệt ấy. Rồi cũng lâu lắc, cũng cà nhắc từng bước ngắn như lúc đi, chị với tôi quay lại bờ kinh. Điền hí hửng khi thấy chị chịu mặc chiếc áo sơ-mi thẫm phèn và cái quần cụt quăn queo của nó.

Chỉ có cha lầm lì dọn cỏ quanh chòi. Chỉ có cha là hờ hững với thành quả của hai chị em tôi. Không chấp thái độ lạt lẽo của cha, chị ngó về phía người đàn ông đang vồng lưng trong nắng sớm, chếnh choáng: “Ba mấy cưng đẹp trai dễ sợ…”.

Vì lẽ đó? Có phải vì cha mà chị ở lại với chúng tôi, trên một cánh đồng vắng ngắt. Những vết thương đã lành rất mau. Chị cười, bị đánh hoài riết cũng quen. Tôi hỏi chị làm gì để bị đánh. Chị cười, “Làm đĩ”. Rồi có lẽ chị áy náy vì quá sỗ sàng với chúng tôi, chị vò đầu Điền “chắc mấy cưng không biết đâu…”.

Điền nhìn tôi cười. Chúng tôi đã gặp nhiều, rất nhiều người phụ nữ giống chị. Cứ mỗi mùa gặt, họ lại dập dìu trên đê, lượn lờ quanh lều của những thợ gặt, những người đàn ông giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm ra vẻ trẻ trung, tươi tắn nhưng mặt và cổ đã nhão, nhìn kỹ phát ứa nước mắt. Đêm đến, sau các đụn lúa, họ thả tiếng cười chút chít, tiếng thở mơn man… lên trời, làm nhiều người đàn bà đang cắm cúi nấu cơm, cho con bú trong lều thắt lòng lại. Tối nào mua rượu cho cha, chúng tôi cũng đi ngang qua những đôi người. Chúng tôi nhận ra họ ngay, khi không còn mảnh vải nào trên người họ vẫn điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo thân mình chứ không trơ ra ngượng nghịu, cam chịu như những người phụ nữ quê. Sáng sau, họ xiêu xiêu biến mất, đem theo mớ tiền công ít ỏi suốt một ngày làm việc quần quật của đám đàn ông.

Chị, cũng giống như họ, chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy xuống quê, cất cái quán nhỏ, giả đò buôn bán bánh kẹo lặt vặt, thực chất là làm nghề. Ở đó đàn ông dễ tính và thiệt thà. Chị sống nhờ những món tiền họ cắm câu đêm đêm, bằng tiền bán lúa, dừa khô hay những buồng chuối chín. Cũng có lúc thu hoạch bất ngờ, khi chị mồi chài một người đàn ông vào trò chơi giường chiếu, suốt hai ngày đêm, và chị được một triệu hai. Đó là vốn vay xoá đói giảm nghèo, khi về tới nhà, với tám trăm ngàn còn lại trong túi, hẳn người đàn ông ấy não nề biết bao nhiêu, oán chị biết bao nhiêu khi thấy vợ con nheo nhóc bu quanh nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng chiều.
- Ăn trên mồ hôi nước mắt của người ta nên lâu lâu bị đánh cũng đáng đời, hen mấy cưng?

Chị nói, và ngã nghiêng cười, dường như chị thấy mình trả giá vậy cũng vừa. “Mà hên nghen, nhờ vậy mà gặp được mấy cưng, được ở chung vầy, vui thiệt vui...”.

Cha không vui, vì có thêm một miệng ăn. Bầy vịt cũng không vui, chúng mổ vào chân chị mỗi khi chị bước qua rào, “bà ở đây làm chi để phần ăn của tụi tui bị xén bớt, trong máng độn toàn là trấu ngán thấy ông thấy cha, đã vậy còn bắt tụi tui đẻ trứng để nuôi bà”. Chị nhảy xổm ra, la oai oái, sau lại cười (mà con mắt đung đưa phía cha) “mai mốt mấy con vịt quỷ này sẽ khoái chị, mấy hồi…”.

Nhưng tôi và Điền biết thể nào chị cũng ra đi, trong mỏi mòn. Quãng thời gian chị bên chúng tôi, vì thế cũng mong manh. Nhiều khi lùa vịt ăn mót một đỗi đồng, nghĩ chị bỏ đi, Điền thảng thốt chạy về.
- Mấy cưng thương chị thiệt hả? Tội chưa…!?? ”.

Chị ngạc nhiên, thấy nước mắt ràn rụa trên má thằng Điền (mà chị không biết là nó bị bệnh chảy nước mắt sống từ hồi chín tuổi). Thật cảm động khi đời đánh ta tả tơi bầm dập, vậy mà hai đứa nhỏ này lại trìu mến, quyến luyến lạ lùng. Thêm một lý do nữa để chị ở lại với chúng tôi, trong một mùa hạn nóng bỏng, bất thường.

Mùa đến sớm. Vì vậy mà nắng rất dài. Mới rồi, chúng tôi dừng chân ở một xóm nhỏ bên bờ sông lớn mênh mang. Mỉa mai, người ở đây lại không có nước để dùng (như chúng tôi đi trên đất dằng dặc mà không có cục đất chọi chim). Người họ đầy ghẻ chóc, những đứa trẻ gãi đến bật máu. Họ đi mua nước ngọt bằng xuồng chèo, nín thở để nước khỏi sánh ra ngoài vì đường xa, nước mắc. Buổi chiều đi làm mướn về, họ tụt xuống ao tắm táp thứ nước chua lét vì phèn, rồi xối lại đúng hai gàu. Nước vo cơm dùng để rửa rau, rửa rau xong dành rửa cá. Con nít ba tuổi đã biết quý nước, mắc lắm cũng ráng chạy ra vườn đái vô chậu ớt, chậu hành (báo hại cây rụi lá). Ở đó, có người con trai bảo, “ước làm sao trước lúc má tui chết, bà được tắm một bữa đã đời”. Câu nói này làm tôi thương anh ta quá chừng. Hôm tôi đi, anh tần ngần đứng bên hè, hỏi nhỏ “Không biết em có muốn ở lại với… má tui?!”. Tôi lắc đầu, hai gàu nước ít ỏi của má anh, tôi nỡ nào sẻ nửa?

Tôi giục cha rời khỏi cái xóm tàn tạ đó. Những cánh đồng chúng tôi qua, lúa chết khô khi mới trổ bông. Người ta không thể trồng đậu, trồng dưa vì thiếu nước. Bầy con nít giỡn nhoi trên những con kinh khô trơ lòng.

Chỗ chúng tôi cắm lều cầm vịt, nước đã sắc lại thẫm một màu vàng u ám. Nhưng chúng tôi chẳng có chỗ nào để đi nữa, từ bờ bên kia của sông Bìm Bịp là vùng đệm cho những cánh rừng tràm lớn. Mùa này, người ta lấy nước từ tất cả các dòng sông nhỏ, các con kinh để bơm vào rừng, chống cháy. Chúng tôi cũng không thể ngược sông Bìm Bịp băng qua vùng Kiên Hà, ở đó họ kiểm dịch thú y rất gắt gao. Và dịch cúm gia cầm nghe đâu vẫn còn bùng phát khắp đồng bằng.

Để bầy vịt khỏi bị chôn sống (điều đó đồng nghĩa với việc đứt vốn cho mùa sau), bọn tôi quyết định vẫn cầm chúng ở đây. Chúng được nuôi trong sự mỏi mòn. Ngày ngày, tôi lùa vịt đi ăn mót những bông lúa khô quắt queo trên đồng, không có nước chúng bì bạch, chậm rì và chẳng thể đi xa. Trứng thưa thớt, những quả trứng chúng đẻ ra cũng chai ngắt, dài nhằng, nhẹ tênh, vỏ dày sần sượng. Đòi hỏi gì nữa ở những con vịt đã già, đã đẻ quần quật suốt ba mùa trước, đã vô vọng vì ngày càng khó tìm lúa và cám trong máng thức ăn. Ngay cả nước để chúng tắm táp cũng chua lét vì phèn.

Mà, mùa mưa vẫn còn xa lắm.
Ngày ngày, Điền rủ chị đi giăng lưới, nhắp cá và tát những cái mương cạn. Cá ăn không hết, chị đem vô xóm bán và hãnh diện đưa cho cha vài mươi ngàn thừa sau khi đã sắm ít quần áo. Mắt chị nhìn cha đầy khiêu khích, “Cuộc đeo đuổi vẫn còn dài, cưng à…”.

Chị đổ lì. Chị tìm mọi cách để sà vào cha. Một bữa chị bảo Điền xuống ghe ngủ với tôi, còn chị sẽ lên chòi. Đó là một đêm tối nhờ nhờ, trôi trên trời một mảnh trăng mỏng leo lét. Điền ngọ nguậy, xoay trở liên tục, nó kêu khó ngủ, đòi nghe tôi hát, bài gì cũng được. Nhưng Điền vẫn thao thức, dường như giọng hát tôi không át được tiếng sột soạt rạo rực trong cái chòi nhỏ trên bờ. Điền chê ngủ ghe chòng chành quá chừng. Tôi biết lòng nó đang chao.

Điền có những ngày bối rối. Nó hay hỏi tôi, “người ta thương mẹ ra làm sao?”. Mặt nó dãn ra, khi biết cây kẹp tóc, trái dừa tươi hay con cá thác lác… mà nó dành cho chị cũng giống hệt như người ta vẫn thường cho mẹ. Và niềm nhớ lúc đi xa, nỗi khao khát được nằm gần, được dụi mũi mình vào da thịt người đó… cũng tự nhiên như ý nghĩ bình thường nhất của những đứa con. Nhưng những nghi hoặc vẫn loay hoay trong mắt Điền, và nó quyết định chịu đựng một mình, khám phá một mình. Thí dụ như đêm nay, cái gì khiến tim ta đau nhói, cái gì làm cho ta cảm thấy giận dữ, nặng nề?

Khi tôi thức dậy, Điền đã mệt mỏi thiếp đi, nó nằm co quắp, hai tay kẹp giữa đùi, mặt buồn như phủ một lớp sương giá. Chị bước ra khỏi chòi, khoan khoái vươn vai. Sự ưng ý, mãn nguyện lấp lánh trên khoé mắt. Khuôn mặt chị tràn ngập ánh sánh, như chị vừa mở ra một cánh cửa mặt trời. Có một con đường nào đó trãi dài trước chị.
Chị cười, bảo :
- Hồi hôm sương nhiều ghê, nó nhiểu lên mặt chị hoài, nhột gần chết.

Rồi chị giành nấu cơm. Chị xoắn tay áo lên hì hụi thổi lửa, đầu tóc xấp xãi dính đầy vảy cá. Trông chị như bà vợ tảo tần. Hình ảnh ấy làm tôi ứa nước mắt, nhưng cha tôi chỉ lạt lẽo nhếch cười. Vì cái cười đó mà tôi ứa nước mắt thêm lần nữa.

Cha đưa chị một ít tiền ngay trong bữa cơm, khi nhà đủ mặt, “Tôi trả cho hồi hôm…”. Rồi cha điềm nhiên phủi đít đủng đỉnh đứng lên, sự khinh miệt và đắc thắng no nê trong mắt. Chị nhét tiền vào trong áo ngực, cười, “Trời ơi, ba mấy cưng sộp quá chừng”.

Điền và tôi rủ chị đi câu (Chúng tôi cho là chị buồn, dù chuyện đó khá tức cười, làm điếm được trả tiền mà buồn nỗi gì). Suốt buổi, không dính con cá nào, chị nói, “Mắc cười quá, tới mấy con cá quỷ này còn chê chị”. Câu nói nghe tỉnh bơ, bâng quơ mà tủi vô phương. Điền lặng bắt con cá rô lội xuống mương, lặn sâu, móc cá vô lưỡi câu của chị. Lúc nó trồi đầu lên thì đã thấy chị cười.

Trưa ấy chúng tôi trầm nghịch dưới nước rất lâu. Chị cười nôn khi thấy bùn bám dưới mũi tôi xám xanh như bộ râu củ ấu. Tự dưng nét mặt chị bỗng âu yếm lạ, như đang nựng nịu một đứa bé con và thằng em trai mười bảy tuổi của tôi đứng đực ra, chết lặng trong nỗi ngượng ngùng. Nước cồn cào chỗ bụng nó, tôi biết chị đang táo tợn làm gì đó phía dưới. Rồi phát hiện ra một mất mát lớn lao, chị thảng thốt kêu lên :
- Trời đất ơi, sao vầy nè, cưng?

Chị toàn hỏi những câu hỏi khó. Chỉ nghe thôi đã đau, nói chi trả lời. Thí dụ như có lần chị hỏi “Má mấy cưng đâu?”, “Nhà mấy cưng ở chỗ nào?”, thằng Điền đổ quạu:
- Biết chết liền!

3.

Những chiều ghe chúng tôi đi ngang qua những người đàn bà ngồi giặt giũ dưới bến sông, tôi hay hỏi lòng, có phải tôi vừa ngang qua má đó không. Tôi cố giữ trong lòng hình ảnh má nhưng rồi ngày càng tuyệt vọng khi thấy nó nhạt nhòa dần, cứ nghĩ mai này gặp lại mà không nhận ra nhau, lòng nghe buồn thiệt buồn.

Má tôi hay mang xoong chảo ra bực sông chùi lọ nghẹ, sẵn đón ghe hàng bông mua ít rau cải tươi và bán lại những quày chuối chín bói trong vườn. Dần dần, buổi chiều, đám thương hồ hay lại neo ghe chỗ mấy cây mấm trước nhà. Một người bảo không sao xa được người đàn bà có cái cười làm lấp lánh cả khúc sông. Má tôi nguýt dài :
- Dóc…
Người đàn ông cười hề hề, thề “Tôi nói láo cô Hai cho xe đụng chết ngắc” (Ngay lập tức, Điền thì thầm, “thằng chả ở dưới ghe kiếm đâu ra chiếc xe, nói dóc…”, và bằng cái vẻ ác cảm lạ lùng, thằng Điền biểu tôi nhìn khuôn mặt và tấm lưng trần chi chít những nốt ruồi của ông ta, bảo “Tại hồi đó má ổng mới sanh ổng ra quên lấy lồng bàn đậy, nên ruồi bu tùm lum”).

Cho dù người đàn ông ấy có quá nhiều nốt ruồi, cho dù chẳng cao ráo, đầu ít tóc… nhưng với chiếc ghe chở đầy vải vóc, những người đàn bà lam lũ quê tôi vẫn thường trông ngóng ông ta. Tất cả họ đều trở thành trẻ thơ khi bước chân lên ghe, họ tíu tít, háo hức, họ thèm muốn đến bồn chồn rồi dùng dằng trở lên bờ với tâm trạng tiếc nuối, ngậm ngùi, thấy mình già khi ngang qua bồ lúa vừa hớt bớt một lỏm, thằng cha bán vải lấy mấy giạ mà như khứa một ít tuổi xuân đi. Cả đời, cái bồ lúa luôn làm lòng họ đau đáu, khi nghĩ tới bệnh tật, chuyện cất lại cái nhà, hay dựng vợ gã chồng cho con cái.

Bồ lúa nhà tôi đã cạn từ sau Tết. Điều đó làm má tôi hơi buồn, nhưng người bán vải xăng xái bảo, “Cô Hai cứ coi đi, không mua cũng được – rồi ông ta sửng sốt khi thấy má rạo rực khi ướm thử những khúc vải rực rỡ lên người – Chèn ơi, coi nó bình thường vậy mà khoác lên mình cô Hai lại thấy sang quá trời”. Má bỗng nhiên thắc thỏm :
- Dóc…

Tôi chưa bao giờ thấy cái màu đỏ lạ lùng ấy. Đỏ hơn bông bụp ngoài sân, đỏ hơn máu. Má ngó chúng tôi, hỏi: “Gì mà nhìn trân trân vậy hai đứa?”.  Tôi nói, “Má lạ quá hà, nhìn không ra”.  Má mừng quýnh, “Thiệt hả?”. Tôi muốn khóc quá chừng, má con xa lạ với nhau mà sao lại mừng?

Một bữa tôi chiêm bao, chẳng đầu chẳng cuối gì, chỉ thấy vía má giãy dụa trong tấm vải đỏ lạ lùng kia nhưng nó thít chặt, riết lấy, siết dần cho tới khi má thành một con bướm nhỏ, chấp chới bay về phía mặt trời. Giật mình thức dậy mới hay mình ngủ quên trong kẹt bồ lúa, con chó Phèn ngoài hè nôn nóng cào đất rột rẹt chỗ cái lổ chui (Chắc má tưởng hai chị em tôi đi chơi nên chốt cửa trước cửa sau mất rồi). Mà Điền ngồi ém ngay đó, lì ra, không cục cựa, mình nó mướt mồ hôi, không có vẻ gì là nó đang khóc, nhưng nước mắt chảy ròng ròng. Tôi ôm đầu nó, giấu ánh nhìn của nó vào ngực mình.

Đứa mười tuổi quay lưng lại, đứa chín tuổi úp mặt vô áo chị nó, nhưng cả hai vẫn như thấy rõ ràng, trên chiếc giường tre quen thuộc, má oằn uốn người dưới tấm lưng chơm chởm những nốt ruồi. Họ cấu víu. Vật vã. Rên xiết.

Đó là hình ảnh ấn tượng cuối cùng của má tôi trên nền một cái nhà nhỏ, đằng trước có bộ bàn chữ U, bộ vạc tre, rồi đến một cái bồ lúa nhỏ dựng gần giường ngủ, và gian bếp thấp. Quanh hè, dài theo những lối đi ra vườn, ra bến là những cục đá tảng, những thân dừa chẻ hai, cha tôi đã hì hục lót để suốt một mùa mưa, chân má tôi không bị dính sình bùn.

Suốt nhiều năm sau đó, tôi không dám nhớ má, bởi ngay vừa khi nghĩ đến má, ngay lập tức hình ảnh ấy hiện ra. Theo đó là rực rỡ trên da thịt màu vải má tôi vừa đổi được (không phải bằng tiền, hay lúa). Mà, đáng lẽ phải nhớ tới khúc má nằm võng hát đưa mình ngủ ấy, hay đoạn má ngồi giặt áo bên hè, hay má cúi đầu giữa vầng khói mơ màng, thổi lửa bếp ung…

Má có rất nhiều hình ảnh đẹp, và cả khuôn mặt lo lắng của má khi chiều ấy vẫn còn đẹp, nhìn thấy nước mắt không ngừng tuôn rơi trên mặt thằng Điền, má thảng thốt hỏi: “Mèn ơi, mắt con sao vậy?. Tôi trả lời, day day chậm rãi, “Chắc tại nó nhìn thấy chuyện bậy đó, má. Trưa nay nó ngủ kẹt bồ lúa”. Má chết lặng nhìn tôi, cái nhìn như lịm đi trên khuôn mặt đẹp não nề. Không thể giải thích vì sao tôi lại hể hả.

Và tôi luôn nghĩ rằng chính vì câu nói đó mà má tôi ra đi.
Tôi chạy qua nhà hàng xóm, nói với thím Tư rằng má đi mất tiêu rồi. Cả xóm tưng bừng, kẻ mừng vì vợ mình chưa bỏ theo trai, người vui vì con đàn bà đẹp nhất xóm đã đi rồi, khỏi lo ông chồng suốt ngày thòm thèm dòm ngó, cũng có người buồn, ghe vải chắc chẳng quay lại xóm này.  Mọi người bàn ra tán vào, xôn xao, bắt tôi nhớ lại coi trước lúc đi má tôi có hành động gì đặc biệt mang tính dự báo không?  Chuyện này quan trọng lắm, nó cho người ta tự kiểm tra trình độ trải nghiệm, suy đoán. Thí dụ như nhà nào có người mới mất họ kêu lên, hèn chi đêm trước có nghe chim cú kêu, thê thiết lắm. Thí dụ như nhà nào bị mất trộm, họ bảo nhau, hồi hôm tui nghe tiếng chó sủa thiệt kỳ, là tui nghi rồi… Nhưng chuyện ra đi của má tôi không mấy ly kỳ...

- Hồi chiều má con không nấu cơm…
- Vậy sao?
- Má con nằm trên giường thở dài…
- Vậy hả? Thở ra làm sao?

Tôi hết biết tả. Tiếng thở thườn thượt, nghe buồn mênh mông, chảy từng giọt như nước mắt.  Má tôi thở dài khi ghe cha ghé bến vì biết mai mốt cha lại đi. Má tôi thở dài khi tắm, khi nước trôi dài trên làn da trắng như bông bưởi. Lúc ngồi vá những bộ quần áo cũ. Mỗi lần ghe vải ghé trước bến, má cũng thở dài, tay bối rối nắn vào hai túi áo mỏng kẹp lép. Thở dài cả khi thằng Điền bảo cho con xin tiền mua kẹo, má ơi.

Mọi người không thất vọng, họ cho thời gian lùi lại xa xa, thì ra cũng đã có điềm báo trước mối nhân duyên này tan rã, ngay cái bữa đầu tiên, ngay lần gặp đầu tiên. Má tôi ngồi khóc bên bực con sông Dài, cha tôi chèo ghe đi ngang, đã qua khỏi một quãng nhưng vì mủi lòng, cha quay mũi lại. Cha hỏi, cô về đâu tôi cho quá giang. Má tôi ngước lên, mặt ràn rụa nước, “tôi cũng không biết về đâu”. Cha tôi chở người con gái tội nghiệp này về nhà, và trong thời gian suy nghĩ tính coi mình đi đâu, má yêu cha mất rồi, sau đấy thì đẻ hai chị em tôi. Rõ ràng, quá rõ ràng, thấy chưa, má tôi chỉ quá giang một khúc đời rồi đi, ai cũng linh tính vậy, chỉ cha tôi là không, nên bây giờ mới khóc hận, cười đau.

Tới đây thì hết chuyện nói, hàng xóm ra về. Giống hệt như vừa tan đêm hát, họ xì xào đi vào trong đêm, tiếng chó sủa rộ lên dài theo những con đường xóm. Tôi và Điền nằm nhìn trân tráo lên nóc mùng, nghe gió hui hút trên những ngọn tre già bên hè. Một hồi, thím Tư qua, thím kêu hai chị em tôi qua nhà thím ngủ.

Sáng sau, thím đi chợ, tới bến tàu, cho hay “Vợ Út Vũ bỏ nhà. Theo trai” Ông chủ chiếc đò chạy tuyến Hưng Khánh nói lại với mấy bà bạn hàng, và chiều lại cha tôi mới nhận được lời nhắn ấy khi đang lên đòn dong cho một ngôi nhà gần chợ Hội. Nghe nói cha tôi còn cười, giọng ra vẻ giận, “Bộ hết chuyện giỡn rồi sao, cha nội?”. Có vẻ khó tin, khi một người nghĩ rằng, chỉ cần mình hết lòng yêu thương, gánh hết sự kiếm sống nhọc nhằn thì sẽ được đền đáp xứng đáng. Có vẻ buồn cười… Và cha tuột xuống đất, run rẩy…

Quãng hành trình về nhà có vẻ rất dài và khắc nghiệt, nó vắt kiệt cha tôi. Cha cười cay đắng, khi thấy quần áo má còn treo trong nhà, còn cả cái khăn tắm và đôi dép Lào cũ, như thể má đang chơi bên xóm, chỉ cần thằng Điền kêu má sẽ xấp xãi chạy về, mừng húm hỏi “Đi chuyến này nữa là đủ tiền mua ti vi màu, phải hôn anh?”.
Coi kỹ thì má không đem theo gì. Chi tiết đó làm đau lòng người ở lại, nó cho thấy người đi đã chẳng suy nghĩ, đắn đo, đã không một chút trù trừ, chỉ rũ mình cái rột, sạch trơn, vậy thôi.

Cha đem tất cả đồ đạc của má đem đốt. Khói bay mù mịt trong nhà, mùi vải, mùi nhựa cháy khét lẹt, những cái áo hồng áo tím rúm ró lại, chảy thành những giọt tro. Cha nhìn ngọn lửa, mặt đanh lại, rồi mắt bỗng rực lên, ngây ngất vì một ý nghĩ mới lạ.

Chúng tôi dong ghe đi, quặn lòng ngoái lại căn nhà đang quay quắt dãy dụa trong lửa đỏ. Nghe vẳng theo âm thanh lốp bốp rất giòn của những thanh gỗ cháy, và tiếng xóm giềng í ới gọi nhau. Chắc chắn sẽ có người vỗ đùi cái đét, “Hồi hôm qua, ngó cái mặt u ám của Út Vũ, tui nghi thể nào thằng chả cũng đốt nhà. Nghi đâu có đó, thiệt là y như để vậy, các cha”.

Kể nhiều chuyện như vậy là để trả lời chị, nhà tôi, má tôi, rốt cuộc đã trở thành tro bụi mất rồi. Nên khi hết mùa lúa chín, những người nuôi vịt chạy đồng khác đã trở về nhà còn chúng tôi lại tiếp tục lang thang.

Đàn vịt đưa chúng tôi đi hết cánh đồng này đến cánh đồng khác. Đôi khi không hẳn vì cuộc sống, chúng là cái cớ để chúng tôi sống đời du mục, tới những chỗ vắng người. Ở đó, ít ai phát hiện ra sự khác thường của gia đình tôi, và ít hỏi cái câu, “Má mấy đứa nhỏ đâu?”. Để cha phải buột lòng nói “chết rồi!” và cười lạt khi nghe người nào đó kêu lên: “Mèn ơi, tội hai đứa nhỏ hôn”.

4.

Lần đầu tiên hai chị em tôi lạc giữa đồng. Cơn mưa buổi xế chiều làm tắt rụi ánh mặt trời, và đêm tối nhanh chóng ập xuống. Mưa giăng bốn bề, những rặng vườn trở nên xa vời, mờ mịt, căn lều và chiếc ghe của mình nằm ở phía nào vậy ta, Điền hoang mang hỏi. Chúng tôi lội xom xom xuống một mé vườn và rã rời tuyệt vọng xua bầy vịt quay ra. Cha tôi đã bỏ về ghe từ giữa trưa, có thể cha đã uống rượu say và ngủ mất tiêu. Có thể cha còn thức nhưng cha không đi tìm. Khóc đã đời, một hồi, thấy trời ngày càng tối, chúng tôi quyết định buông trôi, tha thểu đi theo bầy vịt, biết đâu…

May sao, chúng nhớ đường về. Khi nhìn thấy ánh đèn chong leo lét đầu ghe, chúng tôi mừng như chết đi sống lại, Điền nắm tay tôi chạy như điên, nước đồng văng sáng trắng. Bầy vịt tao tác một phen (báo hại đêm đó tụi nó nín đẻ). Cha tôi ngồi chờ bên cạnh cây roi.
Sau này, đã tự học cách định hướng bằng bằng mặt trời, bằng sao đêm, bằng gió, bằng ngọn cây… nghĩ tới lần lạc đồng, thấy cười quá chừng. Mắc cười hơn là Điền, vốn rất sành sỏi đường đi nước bước, lại bị lạc lần nữa, giữa ban ngày. Nó loay hoay ở giữa một gò đất chùm gọng leo dày mịt, không biết vô đó bằng đường nào nhưng chẳng thể quay ra, có người đàn bà bưng rổ bánh quy lại, biểu nó ăn. Đói quá, thằng Điền ngốn gần chục cái. Lúc tôi tìm được nó nhờ tiếng rên ư ử, bụng nó đã lặc lè, và miệng đầy sình đất. Quay đi quay lại không có bóng người, chỉ có cái mả lạng nằm sát đất, rời rợi cỏ xanh.

Những ngày sau này, tôi một mình trở lại gò đất, nhưng chờ hoài không thấy ma hiện ra. Nghe thằng Điền kể, người đàn bà đó thiệt hiền, chỉ đau đáu vuốt tóc nó và ánh nhìn chan chứa thương yêu. Tôi nghe mà khóc muốn chết, sao con ma đó không chịu giấu tôi giùm cái.

Rồi tôi ngồi quẹt tay lau nước mắt đi, kỹ càng, để gương mặt an nhiên, ráo hoảnh. Tôi quyết không để cha thấy mình buồn, quyết không để cha bật ra cái câu “Chịu hết nổi cái cảnh sống này rồi hả? Chừng nào đi?”.

Cha vẫn thường đánh chị em tôi, thường đánh khi vừa ngủ dậy. Đó là khi người ta thấy hoang hoải, chán chường, sau một giấc dài, mở mắt ra, vẫn gió đìu hiu, vẫn nắng võ vàng trên những cánh đồng hoang lạnh. Và tôi tự nhớ lại coi hồi sáng này, hồi trưa này mình đã làm gì giống má, kho cá bỏ quá nhiều tiêu? Hay vì tôi buộc tóc nhong nhỏng? Hay tại tôi ngồi bắt chí cho thằng Điền?

Hay tại tôi càng lớn càng giống má. Có bữa, nửa đêm thằng Điền thức giấc, nhìn thấy tôi day lưng lại lui cui vá áo, nó thảng thốt kêu “Má ơi!”. Tôi cảm thấy mình thất vọng đến rã rời. Những thói quen, những cái gì liên quan đến má tôi phủi gần sạch rồi, nhưng tôi làm sao có thể từ bỏ hình hài này.

Tôi đành để cha đánh để ông bớt đau chút lòng. Sau này chị em tôi không day dứt chi cho mệt, vì hiểu thấu ra, mình bị đòn chỉ vì là con của má, vậy thôi.

Với chúng tôi, quãng thời gian ấy vẫn còn vui lắm, sau này, cha tôi chán không đánh nữa. Cha ơ thờ, lạt lẽo, chuyện gì cần nói thì nói vài câu nhát gừng. Cha giao bầy vịt cho hai đứa tôi, lúc rảnh ngồi gọt đẽo những cán dao, tấm thớt hay lẳng lặng vác cần câu đi câu cá, vừa bán được tiền, vừa khỏi phải nhìn những đứa con của một bà mẹ bạc lòng. Thành ra, cái ghe thấy nhỏ, lại rộng vô cùng tận, loay hoay chỉ ba con người, nhưng nhiều năm trôi qua, hai chị em tôi vẫn cảm thấy xa cách cha. Có lần, khi đi trên sông, thằng Điền giả đò té chìm ngỉm mất tăm, tôi giả đò kêu la chói lói, cha hơi giật mình hoảng hốt, dợm lao xuống nước, nhưng rồi cha điềm nhiên ngồi lại, tiếp tục gọt đẻo, chắc là nhớ ra thằng Điền đã lặn lội nước sông từ năm bốn tuổi, sức mấy mà chết trôi.

Chúng tôi biết là khó đòi hỏi gì hơn nữa, chỉ một chút xao lòng của cha, là mừng lắm rồi. Cha giống như đồ vật bằng gốm vừa qua cơn lửa lớn, vẫn hình dáng ấy nhưng đã rạn nứt, nên chúng tôi chỉ dám đứng xa mà nhìn, mủ mỉ nâng niu, nếu không thì vỡ mất.
Và chiếc ghe, cánh đồng, dòng sông thênh thang mãi…

Tôi và Điền buộc phải tự học lấy cách sống. Nhiều khi dễ đến không ngờ… Nhờ Điền bị rắn hổ đất cắn mà chúng tôi biết được cách phân biệt vết răng của rắn độc. Nó để lại trên cổ chân Điền một cặp vết răng như hai cái lổ nhỏ, sâu hoắm. Tất nhiên, phải nhờ người thợ gặt tốt bụng vác thằng Điền chạy một đỗi đồng để tới ông thầy lấy nọc rắn, nó mới giữ được cái mạng để rút… kinh nghiệm. Sau này, một lần băng qua một đám cỏ dày, đến lượt tôi bị rắn cắn, tôi kêu, Điền ơi, chắc Hai chết trước à. Thằng Điền nhìn vết thương nó cười, nói không sao, số Hai sống lâu lắm, hai hàng răng tươm máu giống hệt nhau như vầy, chắc cú là rắn bông súng cắn chơi thôi. Và nhìn bướm bay, nhìn mây trôi tôi biết ngày nắng hay mưa. Nghe bìm bịp kêu chúng tôi biết nước lên. Dừng ghe ở một tuyến kinh nào, thằng Điền trèo lên ngọn cây cao, ngó bao quát cánh đồng và tính toán xem có thể cầm vịt ở đấy bao lâu thì hết thức ăn, đúng chóc. Hay chúng tôi tự phán đoán ở đâu vụ mùa đến sớm, vùng nào lại trễ tràng để rời cánh đồng này, chúng tôi đến ngay một cánh đồng khác, ngay khi lúa vừa chín tới.

Thành ra, mùa du mục của chúng tôi kéo dài liên tục từ mùa mưa sang nắng, rồi lại mưa. Nhiều lúc tôi hơi nhớ con - người. Họ ở trong cái xóm nhỏ kia, chỉ cách chỗ chúng tôi dựng trại vài ba công đất. Họ lúc nhúc trên thị trấn kia, nơi chúng tôi vẫn thường ghé lại mua gạo, cám, mắm muối… dự trữ cho những chuyến chạy đồng xa. Và họ ở gần ngay đây, họ vừa gặt lúa vừa nói chuyện tục tĩu rồi cười vang bên bầy vịt đang rúc rích tìm thức ăn, nhưng tôi vẫn nhớ...

Có lẽ vì cuộc sống của họ ngày càng xa lạ, với chúng tôi. Họ có nhà để về, chúng tôi thì không. Họ sống giữa chòm xóm đông đúc, chúng tôi thì không. Họ ngủ với những giấc mơ đẹp, chúng tôi thì không. Nằm chèo queo, co rúm, chen chúc nhau trên sạp ghe, chúng tôi đánh mất thói quen chiêm bao. Điều này làm tôi và Điền buồn biết bao nhiêu, vì cách duy nhất để được nhìn lại hình bóng má cũng tan rồi. Mà, thí dụ như những cơn chiêm bao quay trở lại, chúng tôi không biết chắc là hình ảnh ấy của má có xuất hiện hay không.

5.

Mùa khô năm tôi mười ba tuổi, bầy vịt lăn ra chết gió. Để kiếm sống, cha tôi quay lại với nghề thợ mộc. Cha nhận đóng giường, tủ cho một vài nhà trong xóm Bàu Sen, chúng tôi neo ghe lại đó dài ngày.

Cái cảm giác đang ở xóm cũ (có ngôi nhà cũ) vây riết lấy chúng tôi (chữ “chúng tôi” tôi không kể cha vào). Những trưa xế ngồi ngoài hàng ba một nhà trong xóm, tôi tước lá dừa thắt cào cào châu chấu, Điền ngó nắng rưng rưng ngoài sân, nói “sao gió ở đây giống hệt gió nhà mình”. Hai đứa tôi muốn khóc.

Chị chủ nhà ngần ngại nói với cha, “Ngó mặt hai đứa con anh thấy thương quá, thấy… không bình thường”. Cha tôi cười nhẹ, “Vậy hả? Ờ ờ…”.

Đứa con gái chị chủ nhà trạc tuổi thằng Điền, rủ chúng tôi vào nhà chơi. Nhưng nó luôn nhận được những cái lắc đầu. Chúng tôi sợ quá cái bồ lúa trong nhà, hình ảnh nó làm cả hai chị em ngạt thở. Thật lạ làm sao, khi mà chúng tôi đã quen dần với những - hình - ảnh - giống - mình (tức là bị bỏ giữa đời chơi vơi), thí dụ như nhìn một chiếc đũa gãy, cái nắp nồi vỡ, hay bầy gà con lạc mẹ nhao nhác… Nhưng không quên được, cái bồ lúa ngai ngái mùi cứt trâu, giữa nó và vách nhà là một khoảng hơi tối nhưng rất thu hút trẻ con. Chúng hay giả bộ đó là nhà của riêng chúng, để bày biện, nấu nướng, đóng vai chồng vợ, vai má con. Để lúc bị đòn, chúng cũng chui tọt vào đó, khóc một mình, nhiều khi ngủ quên luôn (và người lớn thì hãi hùng, sao không thấy đứa nhỏ đâu, nó bỏ đi về ngoại, nội? hay đã vô ý trợt chân té xuống đìa?. Cái kẹt bồ lúa, cũng đã từng là thiên đường mơ mộng của hai chị em tôi, bẻ trái trứng cá làm cơm, muổng dừa là chén, giả đò “ăn” no, giả đò tối rồi, đi ngủ, một bữa kia chơi chán lăn ra ngủ thiệt, thức dậy bỗng thấy cuộc đời mình thay đổi quá trời đất, như đã sống qua một kiếp rồi. Nhưng chín mười tuổi đã đủ để gọi là một kiếp người chưa?

Chúng tôi chẳng phải những đứa trẻ bình thường, cuối cùng nhỏ con chị chủ nhà cũng nhận ra, nó bỏ mặc. Nó là một đứa trẻ xinh đẹp nhưng hỗn hào, cáu kỉnh, nó chẳng khi nào kêu má ơi má à, khi cần, nó chỉ cộc lốc bảo, tui đói bụng quá bà ơi. Người mẹ phân bua với cha tôi, “Tại ba nó mê theo vợ bé nên không ai dạy…”.

Chị cũng bận rộn, te tái cắp nón đi suốt, tìm ông thầy này, bà cốt kia, để thỉnh bùa chú cho ông chồng quay lại. Và mỗi khi thất bại, chị lại quả quyết là bùa của tình địch mạnh hơn. Nói như vậy dường như để cho tâm bớt đau trước sự thay lòng. Chị có cả một kho tàng về chuyện đồng cốt, những người có khả năng thấu đáo cõi âm, cõi trời và cõi người. Họ biết chữa bệnh (có thể lấy từ bụng ta ra một nùi tóc với cái lưỡi dao cạo, hay dùng hột gà luộc lăn trên da thịt ta, sau đó bẻ cái trứng ra cho ta coi một nhúm lông… chó mực), cũng biết dùng những tấm bùa được vẽ bằng máu… lưỡi để ếm chết người và cuối cùng, họ đem được người ta yêu trở lại. Chỗ này khá mắc cười, bởi tấm bùa có linh nghiệm thiệt thì người quay về cũng không phải của - mình. Những săn sóc nâng niu, những lời nói ngọt ngào… tất cả đều không thật (mình biết tỏng tòng tong là nhờ bùa ngãi chớ thương yêu gì). Và cái cười dịu dàng kia, ánh mắt ấm áp kia, nụ hôn ngọt ngào kia, vòng tay nồng nàn kia… cũng vậy. Đó là chưa kể phải thoi thóp lo âu một ngày bùa thiêng hết tác dụng, thằng đàn ông rùng mình một cái, ngơ ngác hỏi ủa, sao hai đứa mình nằm chung giường vậy, xin lổi nghen, chắc tại hồi hôm tui xỉn quá nên chui ẩu vô mùng bà. Rồi ông ta nhìn vẻ mặt đau đớn của mình, kinh hoàng: “Trời đất ơi, bộ tui đã làm gì bậy bạ sao?”. Tất cả sẽ chấm dứt ở đó, ông nọ phủi sạch những ngày tháng mặn nồng. Với ký ức trống trơn, họ phơi phới ra đi, còn mình thì nhớ hoài, đau hoài…
Nhưng chẳng tin vào bùa thì còn biết làm gì nữa, chị cũng đã lặn lội tới nhà tình địch, đã xé quần áo của cô ta, xởn tóc, lôi xểnh ra biêu riếu giữa chợ rồi, chị kể. Bằng cái giọng rộn rã, giòn tan chỗ cao trào, rồi chị hết sức chậm rãi, tỉ mỉ, tả cái đoạn chị dùng dao rạch mặt cô ta và xát muối ớt vào (những người quê mình vẫn thường làm chuyện đó rất bình thường, sẽ buồn cười khi có ai đó nói làm vậy là vi phạm điều X chương Y luật hình sự, họ cãi ngay, “Ủa, nó cướp chồng tui thì tui phải đánh cho tởn chớ”, với vẻ mặt tự hào ngút ngất, tỉnh bơ.

Sau đận đó, chồng chị bỏ ngay cô nhân tình này và trớ trêu, anh ta chạy theo… cô khác. Ba mùa lúa rồi chị ra đồng một mình. Một mình nuôi con. Một mình nhìn gương, tự ve vuốt và yêu lấy mình…

Cái sàn lãn sau nhà đã ba năm vắng bóng đàn ông. Một chiều chúng tôi đến, xẻ mấy cây đố xong, cha ra đó tắm. Nước chảy re rắt trên khuôn mặt lạnh lùng, nước mỏng tang tràn qua những thớ thịt đỏ au của cha tôi. Chị chợt giật thót người, cài vội chiếc nút áo bung ra vì không chịu nỗi đôi vú căng tức.

Ngay lập tức, tôi có cảm giác câu chuyện về những lá bùa vẽ nhì nhằng chị dấu trong áo gối, ém dưới chiếu, hay kẹt giường… không còn ý nghĩa gì hết. Chị cũng sững sốt khi nhận ra điều đó. Giường đã làm xong, đáng lẽ chúng tôi phải dời đi, nhưng chị chủ nhà muốn đóng thêm hai cái tủ nữa. Chị thuê hàng xóm xuống ao mò lên những thân gỗ đã ngâm lâu và chở tới xưởng cưa. Rõ ràng là chị không chuẩn bị trước, rõ ràng chị muốn giữ cả nhà chúng tôi lại.

Chúng tôi được đối xử rất tử tế, ngoài hai bữa cơm, buổi trưa, chị hay đãi thêm nồi chè, hay khoai luộc. Chị nồng nhiệt bảo chúng tôi lên nhà ngủ, nhà rộng rinh như vầy không cớ gì phải ngủ ghe. Cha tôi trù trừ nhưng rốt cuộc cũng gật đầu (với một thoáng giễu cợt), thật không nỡ chối từ một tấm lòng như thế.

Tôi và Điền ở lại ghe, tôi nói, ngủ ở đây gió mát quen rồi, với lại, tụi tui phải giữ đồ. Nói tới chỗ này tôi mắc cười muốn chết, chiếc ghe tơi tả, đáng giá gì đâu mà giữ. Có mấy ông thống kê gì đó làm chứng, mấy ổng đã ngao ngán như thế nào khi thấy chỗ ở ngang mét hai dài ba mét mốt cho ba nhân khẩu, điều tra thêm thì phương tiện nghe nhìn giải trí chỉ cái radio trị giá mười bốn ngàn, nguồn nước sinh hoạt từ sông, thu nhập ờ thì vài ba triệu một năm, tuỳ vào ông trời, như năm nay, thì trắng tay…

Và ngó lại cái khạp da bò nứt, trong rỗ úp vài cái chén sành, một thùng giấy chứa quần áo cũ… thấy mình lấy cớ giữ đồ hơi vô căn cớ. Nhưng chị chủ nhà không để ý, chị đang ưng bụng, ngây ngất tràn trề trong mắt. Và cha tôi lên đó, một mình.

Tôi ôm quắp thằng Điền nghe những con sóng nhỏ lách tách vỗ vào mũi ghe, nói, Hai nhớ trường học quá à, cưng (Ôi cái trường xiêu dựng trên khu vườn chùa đầy cây thuốc, có ông thầy trẻ tuổi hay vò đầu tôi và xao xuyến hỏi, má khoẻ hôn con ?). Thằng Điền hỏi lại, “Mắc gì mà nhớ? Lãng òm…”. Tôi không biết, tôi đã ngưng nhớ nó từ khi sống cuộc sống trên đồng, nhưng đêm nay, sao tôi lại nghĩ tới, cả chuyện kiếm tiền để chữa mắt cho Điền (tôi vẫn nghĩ, sự xuất hiện của nước mắt chỉ có ý nghĩa khi người ta khóc). Đêm nay, tôi sao thế này? Vì nhìn thấy niềm hy vọng ư?

Và tôi ngủ trong nỗi xốn xang.
Lúc thức dậy thì hy vọng cũng thức theo, sáng hôm đó, tôi thấy cha trút bỏ vẻ lầm lũi thường ngày, mắt ông hay rực lên, nói cười rất lạ, dường như cha bừng tỉnh nhận ra giá trị của mình, tìm thấy con đường sẽ đi. Những suy nghĩ cồn cào làm cho vẻ mặt cha lung linh như bầu trời nhiều mây và gió. Thoắt quang đãng thoắt âm u, thoắt khoái trá, thoắt đau đớn…

Chị chủ nhà cũng thất thường, đang tươi hơn hớn bỗng bần thần khi thấy cha đóng xong một cái tủ nữa rồi. Chiếc tủ chén này, cha mất năm ngày mới hoàn thành, nhưng không sớm hơn được, vì chị chủ nhà lúc thì bưng nước ra, lúc lại kêu nghỉ tay ăn bánh, anh thợ à. Nhiều lúc chơi ngoài hàng ba, nghe tiếng bào trượt trên ván ọt ẹt ngừng lại, buổi trưa im phắc. Và đống dăm bào bị dẫm tạo ra âm thanh lạo xạo lao xao lào xào. Chúng tôi biết chị đang ở ngay chỗ cha.

Không hiểu sao tôi lại nghĩ chị chủ nhà chính là hy vọng để chị em tôi trở về cuộc sống bình thường với một người - cha - bình - thường. Chúng tôi luôn tạo cơ hội, khoảng trống cho chị gần gủi với cha. Cực nhất là phải rủ rê lôi kéo nhỏ con chị chơi với chúng tôi, thằng Điền khó chịu, “đồ con nít…”. Tôi cười, “thôi, kệ nó…” mà lòng nghĩ, biết đâu mai mốt con nhỏ này với mình là một gia đình. Biết đâu đó là một mối tình dài.

Nên tôi thấy hơi lo khi cha sắp hoàn thành chiếc tủ áo cuối cùng. Buổi chiều, cha xin những mảnh cây ván vụn đắp vá lại mui ghe. Nghĩa là chúng tôi sẽ tiếp tục đi. Chị chủ nhà ủ ê, suốt buổi chị giằm đũa vào chén cơm nguội ngắt. Cha nhìn chị, cười nhẹ, rồi hỏi khẽ khàng :
- Cô đi với cha con tôi nghen?

Như chờ đợi chỉ có thế, chị gật đầu, mặt tở mở và rạng rỡ, gần như không suy nghĩ gì (Má tôi cũng đã từng chọn lựa nhanh như thế sao?). Tôi bất giác ứa nước mắt, rồi nhận thấy cha đang nhìn mình, tôi bệu bạo cười, “cắn trúng cái lưỡi đau quá trời”.

Chị chủ nhà bắt đầu sống với những giây phút bồn chồn, chị loay hoay, te tái tới lui. Chị kiếm lủ khủ giỏ xách, những muốn gói ghém thật nhiều đồ đạc nhưng nhận ra chiếc ghe chẳng chứa nổi, nên quăng phẹp một bên. Cuối cùng, chị đưa nhỏ con về chơi bên ngoại, và trong lòng chị em tôi bùi ngùi tiễn nó đi như đưa tiễn một cuộc đời. Mai nó vẫn sống, nhưng mà sống khác. Rồi chị quay lại, ra bực sông, ngồi đắm đuối nhìn ngôi nhà của chúng tôi, “những ngày sắp tới của mình ra làm sao, ta?”.

Dễ hình dung lắm. Như chỗ cái sạp xỉn màu tôi đang giặt vải lau đây sẽ là nơi chị sẽ ngủ, sáng ra chị vẫn không phải rời chỗ ấy, vì chỉ cần ngồi dậy, day mặt ra phía sau là đụng bếp, là có thể nhen lên một lọn khói buồn teo. Mấy đêm đầu có lẽ không quen, vì phải nằm chèo queo, ghe thì chao sóng. Mấy đêm đầu chắc chị hơi ngại ngùng, mắc cỡ vì ở ghe không có vách ngăn, vì thế chị em tôi sẽ cố ngủ thật say, ngáy thật to để át những tiếng thở hổn hển, dìu dặt. Chị cũng sẽ mất khá lâu để thích hợp với nhiều hình ảnh mang tính ước lệ, thí dụ như mấy bụi hành ngò trồng trên cái xô bể (thay vì khu vườn cây cỏ hoa trái mênh mông), hay cái lò cà ràng nhỏ (thay vì cả một gian bếp ấm sực mùi củi lửa)… Và nghe cha tôi than, tôi chán cái nhà này quá rồi, thì cũng nên hiểu là không có cái nhà nào cả. Nhà chúng tôi là cái này, là cánh đồng nào đó, con sông nào đó... Riêng chúng tôi thì không cần chị phải yêu thương, chăm sóc, dạy dỗ gì hết. Chúng tôi không hy vọng điều đó (đến con chị còn không hy vọng gì mà). Ngay lúc này đây, cứ nghĩ, một bữa trưa mai trưa mốt nào đó, có nắng hiu hiu và gió hiu hiu, vì muốn chứng minh tấm lòng của mình với cha, muốn tỏ thái độ hoà hợp với hai đứa trẻ lạ lùng này, chị bắt thằng Điền lại, xối nước kỳ cọ những mảng đất đã dính khắn trên làn da mốc meo của nó, miệng cắm cẳn, cằn nhằn hay biểu tôi ngồi để chị thắt bím tóc cho, chắc tôi thấy khó chịu vì xa lạ và buồn cười.

Nhưng tiếc rằng không có ngày mai, mốt đó. Chị bị cha tôi bỏ lại, khi vừa đi được một đoạn đường. Một đoạn đường đầy khó khăn. Chị buộc mình tin rằng sự chọn lựa này là đúng, tình yêu này xứng đáng được đánh đổi. Xóm làng, ngôi nhà, vườn tược trôi tuột lại phía sau. Và đứa con gái… Rất cố gắng, chị mới thôi thảng thốt. Cha ghé một chợ nhỏ đầu xóm kinh, biểu chị lên mua một ít củ cải muối đem theo. Người vừa khuất trong tiệm tạp hóa, cha cười. Chị em chúng tôi mãi mãi không quên cái cười đó, nó vừa dữ dội, đau đớn, hoang dã, cay đắng, nghiệt ngã. Cái cười thật dài, riết lấy khuôn mặt cha, làm mắt cha hơi lồi ra, ánh lên như có nước. Cha quăng đồ đạc của chị lên bờ vung vãi. Và nổ máy cho ghe đi.
Có ai chờ chúng tôi, trên những cánh đồng khơi?

6.

Trời đất ủ dột nhìn mưa vào mùa. Thằng Điền kiếm được mấy cây ô môi nhỏ, nó rủ tôi trồng. Chúng tôi dầm mưa, lấy mũi dao đào thành mấy lổ con con, rồi đắp đất ém gốc lại. Cái cảm giác mà cha tôi đã từ bỏ là yêu thương, che chở cho một sinh linh (yếu ớt, nhỏ bé) nào đó thật ngọt ngào. Điền biểu tôi chặt sậy cắm quanh, sợ mấy con vịt ăn trụi lá, với lại, bờ đất này rất nhiều người qua lại, không khéo là bị dẫm bẹp. Hai đứa ngồi nhìn công trình của mình, bỗng buồn, không biết mai này còn có dịp quay lại coi tụi cây này lớn lên, để trèo lên hái trái, để giăng cái võng, ngủ một giấc đã đời.

Chị em chúng tôi nảy ra nỗi thèm muốn, khao khát được trồng cây từ khi rời Bàu Sen, vì biết chẳng bao giờ quay lại sống - bình - thường. Dường như chúng tôi nhớ, nhớ cồn cào. Nỗi nhớ bao gồm được chạy chơi trên cái vuông sân mọc đầy vú sữa đất, được tự mình trồng cây gì đó, có trái, và trái ăn được, ăn rất ngon. Nhưng cái mơ ước nhỏ nhoi là nhìn nó lớn lên cũng mong manh, khi mà đến chưa nóng chỗ đã phải dời đi nơi khác. May là lần này chúng tôi ở Cỏ Úa khá lâu, chăm chút bầy vịt (mới gầy lại) “trơn lông bụng”. Thằng Điền một bữa ra coi cây bén rễ, nó bỗng chép miệng, “Ước gì đây là đất-của-mình…”.

Tôi cười, điều đó thật xa xôi. Có lần, đi qua xóm, trong một buổi chiều, chúng tôi gặp những ông già ngồi chơi với cháu, thằng Điền đứng tần ngần bên hàng rào dâm bụt, bảo, “Phải chi ông này là ông nội mình, thương đỡ chơi, hen Hai?”. Nghe câu đó tôi bỗng thấy mình nghèo rơi nghèo rớt, nghèo đến nỗi không có… ông nội để thương, thèm muốn bên đường. Tôi lắc đầu, bảo thôi, thí dụ như mình lỡ mến người ta, mai mốt dời đi, buồn dữ lắm. Mà, đã ngấm, đã xé lòng toang hoang với nỗi đau chia cắt rồi, chưa sợ sao?

Sống đời mục đồng, chúng tôi buộc mình đừng yêu thương, quyến luyến bất cứ ai, để khỏi ngậm ngùi, để lòng dửng dưng khi cuốn lều, nhổ sào đi sang cánh đồng khác, dòng kinh khác. Chúng tôi vô định hơn bất cứ người nuôi vịt chạy đồng nào. Vì những cuộc tình của cha tôi, ngày càng ngắn ngủi.

Cha tôi đã có-vẻ-bình-thường, hay nói cười, hồ hởi trong những lúc có người (chữ “người” này không tính hai chị em tôi). Nhiều lúc tôi không giấu được thảng thốt, cứ nghĩ mình đã gặp lại cha-của-ngày-xưa. Nhiều lúc tôi ngồi trông người trong xóm đi thăm lúa ghé qua chòi, lúc ấy, cha sẽ kêu, “Nương à, nướng mấy con cá khô, cha lai rai với mấy bác…”. Em tôi cũng sướng ran xách chai ra tiệm mua rượu, nó khoái chí nghe cha gọi, “Điền ơi! Điền…”. Vui được chút đó thôi, khi khuất bóng người, chị em tôi đắng đót nhìn cha hao hao người đóng tuồng vừa trút lớp.  Xanh xao, lạnh lẽo đến ngơ ngác và cô đơn.

Không, lúc chỉ một mình, cha tôi đáng sợ hơn thế. Cha giống như con thú trở về tổ sau khi no mồi. Con thú nằm mơ màng nhấm nháp lại hương vị của miếng mồi, và ngẩm ngợi thòm thèm con mồi kế tiếp. Có lúc sự vật lộn làm vết thương cũ của con thú đau, nó liếm láp vết máu, và tôi hãi hùng nhận ra chỗ đau ấy cứ rộng thêm ra. Đôi khi tôi nhớ người đàn bà ở Bàu Sen, nhớ bóng người xấp xãi, ngơ ngác chạy theo chiếc ghe sáng ấy. Chắc chị đã quay lại, đón đứa con gái về, móc quần áo trở vô tủ. Có hề gì, rồi chị sẽ yêu một người khác, nhưng mãi mãi, chị không quên nỗi ê chề bị bỏ lại bên đường (bằng chứng là ba cha con chúng tôi có quên được đâu). Với những đàn bà sau này, cha tôi tính toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng, và bỏ rơi họ đúng lúc. Có người vừa bán xong cái quán nhỏ của mình. Có người vừa nói xong những lời dứt tình với chồng, con. Có người vừa phũ phàng chia xong gia sản, có cô gái sắp về nhà chồng, củi to củi nhỏ chất thành giàn ngoài chái... Hết thảy đều cun cút tin và yêu. Cha mang họ đi một quãng đường vừa đủ để người ở lại nhìn rõ chân dung của sự phản bội, sau đó người đàn bà bị hắt lên bờ.
Con đường quay về bị bịt kín.

Cha không tốn nhiều công sức cho việc chinh phục (Những người đàn ông quê mùa đã tự tay đẩy người đàn bà của mình đến với cha, bằng nhiều cách. Họ thích uống say, họ thích dùng tay chân để tỏ rõ uy quyền. Mệt nhọc làm lụng trên đồng, người đàn ông đã trở nên khô cằn, có khi cả đời, họ không nói với phụ nữ một câu yêu thương tử tế. Họ không biết vuốt ve, âu yếm, khi cần, họ lật cạch người phụ nữ ra và thoả mãn, rồi quay lưng ngủ khò). Sẽ còn bao nhiêu người nữa được cha tôi cho nếm thử niềm đau kia, tôi tự hỏi mình khi nhìn người đàn ông vào tuổi bốn mươi, quyến rũ từ cái cười, từ câu nói, ánh nhìn thăm thẳm, ngọt ngào. Trời ơi, trừ chị em tôi, không ai thấy được đằng sau khuôn mặt chữ điền ngời ngợi đó là một hố sâu đen thẳm, bến bờ mờ mịt, chơi vơi, dễ hụt chân.

Nên mỗi lần cha nhìn đăm đắm và mỉm cười với một người đàn bà mới chúng tôi lại thắt thẻo. Thêm mối tình đau trước cả ngày thứ nhất (mà chị em tôi không cách nào ngăn được). Tôi có cảm giác cha quắp lấy người ấy, vùi mặt vào da vào thịt, ngấu ngiến mà lòng cha lạnh ngắt. Thằng Điền cay đắng, “Cha làm chuyện đó thì cũng giống như mấy con vịt đạp mái…”. Tôi nạt, “Đừng nói bậy…”.

Nhưng tận đáy lòng, tôi cũng nghĩ, cha hơi khác con-người. Nhạt nhẻo hơn cả việc quan hệ theo mùa, theo bản năng, trong cha tôi không còn một chút cảm xúc nào, nét mặt tràn ngập những rắp tâm, chưa gặp mặt đã tính chuyện phụ phàng.

Cha đẩy chúng tôi trượt dài vào nỗi thiếu thốn triền miên. Mỗi lần rời khỏi một nơi nào đó, thật khó để phân biệt, chúng tôi bỏ đi hay chạy trốn. Chúng tôi đánh mất cái quyền được đưa tiễn, được xao xuyến nhìn những cái vẫy tay, được nhận vài món quà quê như buồng chuối và hương hay bó rau ngót cắt trong vườn, cùng lời dặn dò quyến luyến, “Đi mạnh giỏi nghen…”.

Chị em tôi hết sức cố gắng để sự giận dữ, chán chường của mình không bùng cháy. Chúng tôi cho vịt ăn thật xa trên đồng, vạ vật ở đó từ sáng tới chiều. Gió hoang liêu trên đồng không làm lòng hai đứa nguội lại. May ra, gió chỉ thổi khô nước mắt lúc nào cũng ri rỉ trên mặt em tôi.

Tôi không còn muốn chữa mắt cho Điền. Bởi Điền khóc suốt (giống hệt tôi), dù vẻ mặt nó rất bình thản (tôi cũng vậy, khác là nước mắt tôi khô rốc trong lòng). Hai đứa tôi đều kỳ dị, đến mức nhiều khi tự giật mình.

Có lần, hai chúng tôi ngồi trên một bờ đất, xung quanh đấy những người thợ gặt đang ăn cơm. Nắng giữa trưa nóng rát. Tôi nói, chỗ khác có nắng dữ dằn vầy không ha. Thằng Điền nói, mùi cá kho quẹt thơm dễ sợ. Ừ, tôi gật đầu, nhưng cái mùi nghèo quá. Vậy mùi gì giàu, thằng Điền hỏi vặn lại. Tôi cười, thịt kho tàu. Rõ ràng hai đứa tôi có cãi qua cãi lại, vậy mà sau đó một người thợ gặt tỏ vẻ ngạc nhiên, “Hai đứa bây ngồi chù ụ cả buổi trời, không nói câu nào, vậy mà cũng chịu nổi sao?”.

(Còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Truyện: Cánh đồng bất tận    Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeFri Mar 22, 2013 12:55 am

Truyện: Cánh đồng bất tận

(tiếp theo)

Thằng Điền cười, “Ủa, tụi mình hỏng nói tiếng-người!?”. Tôi nhận ra nó không hề máy môi, tôi đọc được những ý nghĩ trong Điền. Ở đó, đang có bão tơi bời, gió quất điên cuồng vào trái tim nhỏ chi chít vết đau. Thằng Điền nổi loạn.

Dấu hiệu bắt đầu từ một bữa trong xóm đê, tình cờ ngó đôi chó nhảy nhau, thấy các chị đang phơi lúa kêu ó ré lên, tôi rủ Điền giả đò nhắm mắt (trò này cực kỳ trẻ con, vì ai cũng mường tượng mồn một tư thế động tình của hai con chó). Thằng Điền phì cười, nó kêu lớn, “Hai, coi nè…” rồi cầm đoạn cây xông đến quất đôi chó tới tấp. Hai con chó kêu la thống thiết, hoảng loạn, xà quần trong đám bụi đất. Đau đớn cùng cực, chúng rúc vào chân đống rơm, nhưng không chịu rời nhau. Con đực phục đầu sát đất, rên rỉ, nước dãi chảy ròng. Không chạy hả. Bốp. Không chạy nè. Bốp. Thằng Điền gào lên. Cây trúc giập nát. Tôi giữ tay Điền lại bảo, “Ác với tụi nó chi vậy, cưng”, thấy nước mắt bê bết trên mặt em tôi.

Ngay từ lúc ấy, tôi đã muốn chạy về và nói với cha "Thằng Điền bị sao rồi, cha ơi...". Tôi sợ, hoảng loạn khi phải chứng kiến một mình.
Thằng Điền biết là tôi đã nhìn-thấy-cái-gì-đó, nó chua chát cúi đầu. Điền chối bỏ niềm vui được trở thành một người đàn ông thực thụ. Nó tự kìm hảm bản năng trổi dậy mạnh mẽ ở tuổi dậy thì bằng sự tất cả sự miệt thị, giận dữ, căm thù. Nó phản kháng bằng cách trút sạch những gì cha tôi có, cha tôi làm. Giãy dụa đến rã rời, nhiều bữa, nó dầm mình dưới ao đến khi người tái nhợt. Nó chạy như điên trong đêm, trên những bờ ruộng mướt cỏ đến khi mỏi nhừ, gục xuống. Rồi nằm xoãi trên đồng, tả tơi.

Không phải vậy, không phải vậy Điền ơi, tôi muốn kêu lên, tiếc là sự thất học khiến tôi không diễn đạt được bằng lời. Tôi không chắc lắm, nhưng dục tình và xác thịt không xấu xa, không đáng bị khinh bỉ, không phải là nguyên nhân đẩy chị em tôi đến cuộc sống này với những đổ vỡ này…

Điền mười sáu tuổi, nó có thể mãn nguyện nằm bên tôi, dái tai để mặc tôi mân mê. Điền đã lạnh ngắt. Nó dửng dưng nhìn những đứa con gái làm cỏ lúa, quần xoắn cao, đùi non mởn. Đôi lúc bắt gặp những đôi người quấn nhau giữa các chòi ruộng hay lùm cây, nó khinh khỉnh cười khào. Nó điềm nhiên nói cái giọng hơi run rẩy nhưng rất mỏng và dịu dàng, “Hai, thôi đi. Em đâu có sao, buồn làm chi...”.
Tôi cười, nói ờ. Nhưng muốn nghỉ buồn cũng không đơn giản. Phải rất lâu, tôi mới nhìn Điền một cách bình thường, tôi cố quên chuyện của nó, tưởng tượng bây giờ nó mới chín mười tuổi gì đó (cái hồi hai đứa như cây kiểng còi, thẳng đuột như nhau, thằng Điền hay bắt chước đái ngồi).

Và tôi chợt nghĩ, sự bất thường của Điền, chẳng qua nằm trong chuỗi rất dài của sự trừng phạt. Điều đó lý giải cho việc thiên nhiên ngày càng trở nên hung dữ hơn, khắc nghiệt hơn. Bằng những sấm chớp, gầm gừ, dường như trời đất đã nín nhịn nhiều, cuồng nộ bắt đầu rồi đây. Có lần, tôi lấy cao su gói lại mớ mùng chiếu, nhìn mưa thè cái lưỡi ướt nhão nhớt vào lều, khoái trá nếm từng tấc đất, tôi tự hỏi, không biết chỗ khác (chỗ không có chúng tôi) có mưa nhiều như vầy không. Ý nghĩ đó xuất hiện triền miên trong đầu tôi, rằng trời chỉ trút mưa, trút nắng ở nơi chúng tôi dừng chân lại. Nỗi bẽ bàng của những người đàn bà bị cha tôi bỏ rơi (và cộng thêm niềm đau vỡ của những người quây quanh họ) đã thấu qua những tầng mây.

Và dường như cách giao tiếp ngấm ngầm của tôi và Điền cũng trong chuỗi bất thường, nó làm cho mối quan hệ với cha thêm rời rạc. Những bữa ăn nối tiếp nhau trong im lặng. Lúc và cơm, tôi hay bị ảo giác, tưởng mình đang ngồi trên cánh đồng của chín năm trước. Một cánh đồng miên viễn với gió lắt lay những khói nắng héo xèo, một nhúm mây rất mỏng và rời rạc bay tha thểu trên cao. Đường chân trời mờ mờ xa ngái. Một vài gò mả loang lổ dưới chòm trâm bầu. Tiếng chim kêu nhỏ từng giọt thiu thỉu. Mùi rạ mới quyện với bùn tanh tanh. Bầy vịt rúc đầu vào nách, ngủ ơ hờ dưới bóng cây tra treo từng chùm bông vàng tuyệt vọng lay như những chiếc chuông câm. Cảnh không đổi, người cũng không, cứ ngồi ngoáy mãi vết thương cũ, nhỏ nước mắt.

Giống như mấy cái mả ngồi, thằng Điền nhận xét. Vừa may, một bữa trưa nắng rập rờn trên nách rạ, chúng tôi cảm nhận được những tiếng nói lao xao. Thằng Điền thảng thốt, "Tụi mình ba trợn thiệt sao, Hai?" khi nhận ra đó là tiếng của... vịt. Tôi cười, hớn hở. Thế giới của vịt mở ra. Không ghen tuông, hờn giận, chắc tại cái đầu vịt nhỏ quá nên chỉ đủ cho yêu thương. Tôi thôi thắc mắc vì sao cả bầy trăm con chỉ cần mười, mười lăm con vịt trống.

Đắm đuối với loại ngôn ngữ mới, chúng tôi chấp nhận để cho người ta nhìn mình như những kẻ điên (miễn là tạm quên nỗi buồn của cõi - người). Chị em tôi học cách yêu thương đàn vịt (hy vọng sẽ không bị đau như yêu thương một - con - người nào đó). Nhưng nhiều khi nhìn thằng Điền dõng tai coi mấy con vịt nói cái gì, tôi giật mình, nuốt một họng đắng, tự hỏi đã đến nỗi này sao, đến nỗi chơi với người thấy buồn, nên chuyển qua chơi cùng vịt. Đêm nào cũng vậy, cũng rón rén, từ tốn, hai chị em thắp một ngọn đèn giữa chuồng, để lúc bọn tôi ra, chúng nhìn, biết không phải người lạ, không xao động. Vừa nhỏ nhẻ lấy trứng, tôi vừa hát một bài hát bâng quơ, đôi chỗ vì hạ giọng thấp mà hụt hơi. Bầy vịt nhạy cảm khủng khiếp, sau này, tôi cố sửa lại những chỗ hụt hơi ấy, chúng nhận ra ngay, và nhìn tôi với vẻ ngờ vực, "Ủa, phải con - người hôm trước không ta?". Một con vịt đui khịt mũi, cười, "Nó chớ ai, giọng có khác, nhưng rõ ràng là tiếng trái tim nó. Quen lắm. Chập chờn, thút thít, đòng đưa như sắp rụng... "". " Có nổ hôn đó, cha nội?" "Sao không, mấy người thử đui đi rồi biết". Bất giác, tôi nhắm mắt để nghe lại tiếng tim mình.

Nhưng sự trừng phạt tính toán cũng vừa vặn, vừa đủ vui, vừa đủ thương, quấn quýt, nó lại đứng sau lưng và cười nhạo chúng tôi.
Gió chướng trở ngọn, trên những cánh đồng ủ ê tin buồn. Chúng tôi nghe được một cụm từ lạ, dịch cúm gia cầm. Những người nuôi vịt chạy đồng cười khào, “Chậc, mấy con vịt chết gió, mấy ông nhà nước nói cho quá…”. Hôm chính quyền thông báo tiêu huỷ tất cả các bầy đàn, họ xửng vửng kêu lên, “Trời trời, bộ hết chuyện giỡn sao, mấy cha?”

Chẳng ai giỡn cả. Người ta dùng ý tưởng của Tào Tháo thời Tam Quốc, “thà giết lầm còn hơn tha lầm”, dồn tất cả vịt trên cánh đồng lại và đào hố chôn. Thằng Điền mếu máo :
- Mấy ông ơi, vịt tui sân sẩn, có bệnh tật gì đâu…
Một người càu cạu :
- Sao cậu biết?
- Rõ ràng tụi vịt nói với tui.

Mọi người cười ha ha, bữa nay vui quá chừng. Họ bắt đầu trùm kín mình bằng những bộ đồ đi mưa. Họ rải vôi trên những hố chôn lớn bằng mấy khẩu đìa cộng lại. Họ tọng những con vịt còn sống, còn giãy dụa, còn gào thét vào bao tải, buộc miệng và quăng xuống đó.
Đám nuôi vịt chạy đồng tụm lại ở một chỗ, cúi mặt vào lưng nhau. Họ xót của, tiếc tiền, họ cảm nhận được sự kiệt quệ, đói nghèo đang vây bủa. Lần rủi ro này (của cái nghề lắm rủi ro) thật khốc liệt.

Cha tôi ngồi riêng biệt ở một bờ đất và đốt thuốc ngó trời, điệu bộ hơi dửng dưng. Với nỗi đau sâu hoắm sẵn trong lòng, thì những biến cố khác chẳng qua như một vết xước nhỏ ngoài da, nhằm nhò gì.
Hình ảnh đó, nét mặt đó làm cho tôi tuyệt vọng. Mà, lúc đó, tôi đang chết điếng, sao tôi lại nhìn về phía cha? Vì tôi muốn cầu cứu (như những đứa trẻ con gặp chuyện giật mình, hay buột miệng gọi má ơi hoặc cha ơi!)? Vì tôi thấy mình không thể chịu đựng được tiếng gào khóc thê thiết của những con vịt bị vùi sâu dưới lòng đất?
Mất nửa ngày những cái hố mới được lấp đất đầy. Xuyên qua những lớp đất bầy nhầy, tôi nghe vịt - của - tôi vẫn còn thoi thóp, chúng đau đớn vì những cái cổ gãy, rối quặt quẹo, chúng hỏi nhau vì sao tụi - người - ta lại ác. Rồi thinh lặng. Trong cái im ắng đến rợn người, tôi nhận ra tiếng của con vịt mù, có lẽ vì không sợ tối, nên sự sống kéo dài.

Rồi ánh sáng nhập nhoạng cuối ngày loang lổ đổ xuống, tôi và Điền khóc hức, cảm nhận được cái thở hướt ngắn dần, ngắn dần của con vịt sau cùng. Và nín bặt. Và tan hết. Chỉ còn gió cười từng tràng dài... Tôi tiếc thôi là tiếc sinh linh nhỏ bé đã thấu được tim mình.

Sáng sau, người ta tìm được một người chăn vịt nằm sát mép hố, mắt chong chong ngó trời không chớp, miệng sủi ra thứ bọt, trong vắt như bọt cua nhưng hôi nồng nặc. Chai thuốc trừ sâu lăn lóc cạnh đó đã cạn tới giọt cuối cùng. Sống thì khó chứ chết sao mà dễ.
Tôi đứng nhìn, tiếc rẻ, ủa, cái người nằm sóng xoài kia, sao không phải là chúng tôi?
Sự báo ứng dường như đang ở rất gần.

7.
 
Tôi bắt đầu hối hận vì đã cứu chị và mang chị đi cùng. Có cảm giác chúng tôi nắm tay kéo chị lên khỏi một vũng lầy để đẩy chị vào một vũng khác, cũng sâu.

Chị xuất hiện không đúng lúc. Cha tôi có dấu hiệu mệt mỏi. Đàn bà, với cha, càng trải nghiệm càng chán chường. Càng gieo rắc càng đau. Vết thương cũ mở miệng toang hoác, không da thịt nào có thể lấp đầy. Cha không chấp nhận cả những người phụ nữ mà ông kỳ công chiếm đoạt (của người khác), thì sao ông có thể tin tưởng ở sự hiến dâng?

Vậy đó, cuối cùng chị hiểu được tại sao cha tôi lại phớt lờ mình. Tôi và Điền buộc phải kể câu - chuyện - của - chúng - tôi để chị không phải ray rứt gì với thân phận làm đĩ. Những ký ức chắp vá, đứt đoạn được chúng tôi kể khá chậm, một phần vì đã lâu không dùng cách giao tiếp bằng lời, một phần do vài chi tiết khiến chúng tôi phải dừng câu chuyện lại, vì thấy nhói ở đâu đó hay đợi chị thôi khóc. Thí dụ như cái đoạn kể về kỳ kinh nguyệt đầu tiên của tôi. Máu chảy giữa hai đùi không tạnh được, tôi thụp xuống, bụm chỗ ấy lại. Máu từ từ chảy qua kẻ tay, tôi thấy mình rỗng ra, tái nhợt, chết dần. Thằng Điền vói bứt đọt chuối, tọng vào miệng nhai ngốn ngấu, điên dại, để lấy bả rịt lại chỗ máu. Thuốc gò nghe nói cầm máu rất tốt, cũng chẳng ăn thua. Hai đứa nhìn nhau khóc, tôi đã mơ thấy ngôi mộ của mình, như chiếc giường giữa bốn bề đồng nước... Chị mếu máo vít đầu tôi vào lòng, “Trời ơi, tội hôn. Lúc đó cha mấy cưng ở đâu?”. Tôi ngơ ngác, không biết, nhưng dù cha có ở gần ngay đấy thì chúng tôi cũng chẳng thể cầu cứu.

Đã nói là chị em chúng tôi phải tự học đủ thứ rồi mà. Những gì không biết, chúng tôi thử. Những gì không hiểu, chúng tôi chất thành khối trong lòng. Nhiều khi thấu đáo được một điều nào đó, chúng tôi phải trả giá cao.

Có lần chúng tôi thả vịt nghỉ khúc kinh có bóng cây. Bỗng nỗi xấu hổ vì mình là con người xộc lên mũi sặc sụa, khi tôi phát hiện ra chúng chẳng bao giờ cưỡng đoạt và gạt gẫm nhau. Khoảng thời gian trước khi con trống trèo lên con mái rất thật, mềm mại, êm đềm... Tuyệt không có gì là thô tục. Tôi sững sốt. Thằng Điền sững sốt. Trời ơi, khác với những gì chúng tôi biết (qua cha tôi, má tôi), trong sự hoan lạc (của những con vịt) đầy ắp thứ gọi là tình - yêu. Điền chới với, nghi hoặc lan ra như một vòng sóng. Và khi chị xuất hiện, thì trong nó chỉ còn nỗi ân hận giày vò.

Điền yêu chị, nhưng tình yêu đó khiếm khuyết mất rồi. Sau giấc ngủ dài, bản năng nó đã không trở dậy. Trái tim nó chỉ là hòn than nhỏ, không thể hâm nóng lại cơ thể ngã màu tro. Sợi dây xúc cảm như lối đi lâu lắm không người lui tới, cỏ dại mọc bít mất, đường đứt, cầu gãy...

Mà, kiểu yêu tinh thần để nhìn nhau, để nắm tay, vuốt tóc, để nín nhịn và hy sinh chỉ tồn tại trong văn chương. Chị cần nhiều hơn, nhiều hơn, nhiều khủng khiếp, tưởng như chị có thể ngốn ngấu, bào mòn tất cả đàn ông trên thế gian này. Lúc đầu là kiếm sống, nhưng lâu dần, sự chung đụng của thể xác làm chị nghiện. Thằng Điền tuyệt vọng.

Tôi cảm giác sự đổ vỡ khi Điền đuổi theo chị, và chị thì chạy theo cha.
Một cuộc đua rã rượi, chẳng đến đâu. Chúng tôi còn phải dành sức cho cuộc mưu sinh dưới nắng như tát lửa. Cha quyết định bán bầy vịt đi. Ba người, mỗi lần xách vài ba con, chúng tôi chia nhau đi dài xóm để bán lẻ. Nhưng cách ấy chẳng cho kết quả nhiều, nắm con vịt ốm nhằng trong tay, xương ức gò ra bén ngót cũng đã đoán được. Thêm nữa, mùa giáp hạt kéo dài, nhiều nhà chạy gạo còn gay, thịt vịt trở nên xa xỉ. Ti vi thì vẫn đang ra rả về dịch cúm, những người biết chút đỉnh, rụt đầu, “Ăn vịt đặng lây bệnh chết à ?”.
Chúng tôi mang lũ vịt trở về, con đường dẫn lên đồng rập rờn hoa mua tím. Cũng theo lối này, vài hôm sau, ông trưởng ấp dẫn theo một cán bộ xã xồng xộc đến chỗ chúng tôi.

Tôi vừa sợ, vừa biết ơn những người như thế này. Họ làm cho chúng tôi cảm thấy bớt hoang dã, làm chúng tôi hiểu rằng, ngay cả trên những cánh đồng hoang liêu nhất thì chúng tôi vẫn bị ràng buộc bằng hàng vạn luật lệ. Nhưng đồng thời họ luôn mang tai họa đến. Dường như sự trừng phạt đang núp sau hai khuôn mặt bị nướng dưới mặt trời, bóng nhẫy, tươm mỡ. Họ phơ phởn nói bằng thứ ngôn ngữ buồn cười (bọn chăn vịt chúng tôi chẳng khi nào dùng những chữ chỉ thị, loại trừ tận gốc hay giải quyết dứt điểm...). Thật đơn giản, khi nói “các người phải huỷ bầy vịt”. Cha tôi cáu kỉnh gật đầu. Tôi và Điền kêu lên một tiếng buốt, ôi, những bạn - bè của chúng tôi sắp bị chôn sống nữa rồi.

Cái nhìn chị chảy theo nước mắt của thằng Điền, chị khẽ bảo, không sao đâu, mấy cưng. Chị đon đả, chèo kéo hai người đàn ông lạ về phía mình, “Mấy anh thương em với, nỡ nào để cả nhà em chết đói”. Một người càu cạu :
- Ở trên lịnh xuống tụi tui cãi sao được.

Nụ cười đong đưa, tung tẩy trên khoé mắt, thì em có bảo mấy anh cãi ai đâu, mấy anh giả đò không biết, không nhìn thấy bầy vịt của em là được rồi. Dễ ợt... Thằng Điền bệu bạo cắn răng, nó tự kìm nén bằng cách siết vai tôi đau nhừ. Cách đó năm bảy bước, giọng nói của chị vẫn lướt như một dòng gió đầy hơi nước, thấm dịu lại hai khuôn mặt (cố tỏ ra) cứng đơ. Một người nuốt nước miếng, ánh nhìn ham muốn như mũi kim thò ra khỏi bọc, lơ láo. Mắt ông ta lột trần chị, và toan tính một thoáng. Người còn lại có vẻ thú vị, háo hức như sắp được xem một vở cải lương hay. Chị thấu hiểu đàn ông đến nỗi, ngay lập tức chị ngó về phía chúng tôi, ngầm báo, cuộc thương lượng (về một sự đổi chác) đã kết thúc rồi.

- Hai anh cứ về trước, chút nữa, em lựa mấy con vịt tơ đem lại cho các anh lai rai. Nhà anh Năm đây em biết chớ sao không, đi tới đâu, em cũng coi mặt thổ địa trước chớ...

Nụ cười chị chợt mỏi mê mỏi nhừ. Có một chút tàn nhẫn, một chút man rợ trong cuộc thương lượng này. Hai người đàn ông quay vào xóm, không quên vói lại một câu, nửa đe nẹt, nửa xuề xòa, “tụi tôi nể vợ anh...”. Cha tôi cười hết sức độ lượng, ôi những thằng trẻ con...

Chị vò đầu thằng Điền, bảo “chuyện nhỏ thôi mà, đi bắt vịt dùm chị, nhỏ cưng”. Và hướng cái nhìn sâu nhói về phía cha tôi, rất chậm rãi, chị thay áo, lấy nón, xỏ dép... Thời gian dằng dặc. Tôi biết chị chờ, hy vọng. Tôi biết, đi một quãng xa, chị vẫn còn dõng tai đợi một tiếng gọi, “quay lại đi, Sương”. Nhưng chỉ gió ngêu ngao xoi mói vào mảng thịt sau tà áo người phụ nữ đang xiên xiên trên bờ cỏ rập rờn.

Chị về khi trăng rạng rỡ trên đầu (mãi sau này, tôi vẫn còn ghê sợ cái màu trăng ấy). Ống quần quệt vào cỏ ướt đẫm sương. Hơi rượu quyện với mùi thuốc lá làm tôi chạo chực. Nhác thấy hai chị em tôi ngồi thù lù, chị kêu lên, trời đất, hai cưng chờ chị chi vậy. "Chị... làm đĩ quen rồi, mấy chuyện này nhằm bà gì mà mấy cưng buồn?". Rồi khom người nhìn vào chòi, chị chắc lưỡi tấm tắc, “Coi nè... Trời ơi, bữa nay bộ gió mát sao mà người ta ngủ ngon dễ sợ". Chao, tiếng ngáy của cha tôi sao mà đều, sao mà thơ thới. Tôi chực khóc, ngay lúc này đây, dường như chị - đang - chết. Chị lẹ làng lấy tay quệt lên mắt, mảng nước nhoè nhoẹt bên màng tang, bết cả vào mớ tóc mai.

Sáng sau, gặp ở quây vịt, cha tôi cười, hơi giễu cợt, "Sao, hồi tối vui không? Chắc họ tưởng cô là vợ tôi nên hứng thú lắm hả? Cứ để họ nghĩ vậy... ". Chị ngó trân vào cha, rồi day qua tôi, chị để rớt từng lời:
- Má cưng ác một, nhưng người cha này của cưng ác tới mười.

Nói rồi, chị quay đi. Chân vướng dấp dúi vào cỏ. Con đường nhỏ dầm chan trong màu hoa mua tím. Tôi đắng đót thầm trong lòng một cái vẫy tay. Bóng người khuất trong vườn. Thằng Điền xách nước về, nó cuồng lên hỏi chị đâu. Tôi chỉ con đường kinh xao xác hoa cỏ dại. Em tôi chạy hồng hộc về phía đó.
Điền, cũng không trở lại.

Tôi đã chờ nó đến khi mùa mưa đổ xuống cánh đồng Chia Cắt (tôi tạm gọi vậy) một trời sao. Chờ chơi vậy, chứ tôi biết Điền chẳng quay về. Tôi nhớ nó (và nhớ chị) không thôi. Những lần dọn cơm tôi hay lấy chén đũa cho cả bốn người. Cha tôi rất khó chịu, ông ngán ngẩm đứng dậy. Tôi ngồi một mình, chan nước vào chén cơm như chan nỗi trống trãi khủng khiếp. Đi qua những xóm kinh chộn rộn ánh đèn, tôi thường ngóng lên bờ mong có thể gặp được thằng Điền và chị. Không biết em tôi có đuổi kịp chị, hay vẫn tiếp tục kiếm tìm. Không biết nó đã đánh thức được bản năng, đã tìm thấy nhục cảm, đã biết thèm muốn chưa. Không biết tối nay thằng Điền có được mệt nhoài úp lên chị, hay vạ vật ở đâu đó, bên vách buồng (hay một tấm ghi-đô bằng vải), đau vật đau vã nghe hoan lạc chảy thành những dòng rên xiết, kêu thét. Không biết nước mắt của nó đã khô chưa hay vẫn rỉ từng giọt như máu tươi.

Tôi nhớ Điền, bao gồm nhớ một đồng - loại (và tôi là đồng - loại còn lại), nhớ một cách trò chuyện (đọc thấu lòng nhau), nhớ một người nghe được tiếng tim mình (điều này thì con vịt mù làm được, nhưng nó đã chết rồi), và nhớ một người che chở (công việc này, đáng lẽ là của cha, má tôi). Tôi biết ơn Điền, từ một gói băng trắng mà Điền mang về hôm tôi mười bốn tuổi, bảo thứ này dùng khi có kinh nguyệt, nó sẽ ngăn không vấy máu ra quần. Điền đi hỏi ai đó, nó nói, máu không cầm được cho đến khi nào tự nó ngưng chảy. Điền xót xa khi thấy tôi trổ mã con gái, "Đẹp làm chi dữ vậy, Hai? Ở cái xó quê này, có đẹp mai mốt cũng phải lấy chồng, đẻ một bầy con nheo nhóc, cũng ra ruộng ra vườn làm lụng đến hết đời, xẹp lép như xác ve. Đẹp, mắc công giữ...". Điền dặn tôi đừng xoắn quần quá cao, đừng mặc áo quá rộng cổ... Với bọn đám thanh niên lúc nào cũng kiếm cớ lãng vảng, Điền giang tay bọc lấy tôi, nó giễu cợt, "Anh kia, lượm con mắt lên, anh nhìn vậy, chị tôi mòn còn gì". Đám người cụt ngòi, tẻn tò dạt ra. Ngay cả khi Điền bỏ đi cùng chị, nó cũng để lại cho tôi một món quà lớn.

Cha bắt đầu có một chút quan tâm với tôi. Dường như chỗ trống của thằng Điền nhắc cha nên quý những gì còn lại. Bắt đầu từ một đêm, cha đứng đằng xa, bảo, "Nương, ngủ sớm đi!", tôi nghe mắt mình cay, ngợp như ai đó tọng một đám khói vào mặt. Mắc cười, câu nói chẳng ý nghĩa gì lớn lao, những người cha người mẹ nói với con họ hàng ngàn lần, đến phát bực mà tôi lại xốn xang.

Tôi ước gì có thể chếnh choáng thật lâu, nhưng nó mau chóng tắt rụi vì một ý nghĩ kỳ lạ. Dường như không còn kịp nữa, để hàn gắn sự đổ nát, để sắp xếp những mảnh vỡ lạo xạo trong lòng.
Chúng tôi tập nhìn nhau, điều đó khó khăn biết bao. Nhất là với cha, tôi cảm nhận được sự cố gắng lớn. Mỗi lần ngó về phía tôi, ông phải trợn trạo nuốt nghẹn những cảm xúc, vì tôi giống má khủng khiếp.

Không cần gương, tôi thấy hình bóng má trong mắt người đối diện. Trước ánh nhìn của cha, tôi cảm giác mình soi xuống dòng nước đêm. Với những người đàn ông khác, tôi bị rực lên như đứng trước mặt trời. Bằng mắt, họ sờ soạng khắp người tôi. Ánh mắt giống bàn tay của ông xẩm mù mà tôi từng gặp, đụng chỗ nào cũng dừng lại, vuốt vuốt bóp bóp (chắc là cho dễ hình dung), rồi lần dò tới một chỗ khác, rờ nắn mê miết. Và tôi đón nhận một cách hằn học, cục cằn.
Hôm bán bầy vịt, cha tôi sắm một chiếc nhẫn vàng, ông đẩy nó về phía tôi, ngượng ngập như sắp chết giấc, "Để dành khi đi lấy chồng...". Tôi sặc ra một bụm cười, trời ơi, tôi biết lấy ai bây giờ?

Suốt những tháng năm sống tù đọng trên đồng, tôi có biết ai ngoài những người đàn ông quê mùa cũ kỹ. Tôi biết lấy ai trong số đó? Lấy một người cắm mặt xuống đất, mệt nhừ với vườn ruộng để mỗi khi giáp hạt, tôi nghe tiếng cạo cháy của con, tiếng muổng dừa vét gạo dưới đáy thạp mà rát bỏng trong lòng? Hay tôi sẽ chọn một người chăn vịt, mê mỏi với chuyến đi xa, sống cuộc sống hờ hững tạm bợ, thấp thỏm với rủi ro, và đến một lúc nào, tôi ôm con nghe đêm của mùa gặt thật dài với tiếng rúc rích của chồng cùng cô điếm già nua. Tôi lấy ai bây giờ, một người thợ gặt? Một anh chạy đò? Ý nghĩ mình là bản sao của má làm tôi sợ. Tôi không chắc mình có đủ kiên nhẫn sống cuộc sống nghèo túng, nhàm chán ấy suốt đời, hay nửa chừng bỏ dỡ. Và bi kịch chất đống lên những người ở lại.
Cha tôi hơi hoảng. Vậy đó, chỉ cần để ý một chút, là có thể nhận ra, xót xa vì sự quái dị, khác thường của tôi. Cha tôi vừa kịp nhìn thấy điều ấy, bối rối đến mức không biết diễn tả sự đau lòng như thế nào, bằng mặt, hay chỉ âm thầm trong lòng. Mà có đau, dường như cũng trễ...

Cái ý nghĩ đã muộn màng, trễ tràng, không còn kịp nữa như một cái rốn nước sây hoáy, điên cuồng hút tôi vào, cảm thấy mọi nỗ lực của cha trở nên vô nghĩa, tôi nghĩ vậy. Tôi nghĩ đến sự trừng phạt, sự báo ứng bất chấp trời im ắng như đã nguôi quên chuyện cũ rồi. Bây giờ, đang vào mùa đẹp nhất trong năm.
 
8.
 
Bây giờ, gió chướng non xập xoè trên khắp cánh đồng Bất Tận (tên này tôi tự dưng nghĩ ra). Ven các bờ ruộng, bông cỏ mực như những đường viền nhỏ liu riu làm dịu lại mảng rực vàng của lúa. Rất thính nhạy, (như kên kên ngửi được mùi xác chết), đám thợ gặt đánh hơi kéo đến, những người nuôi vịt chạy đồng lục tục ở đằng sau.
Những cánh đồng trở thành đô thị; những cánh đồng ngoa ngoắt thay đổi vị của nước, từ ngọt sang mặn chát; những cánh đồng vắng bóng người, và lúa rày mọc hoang nhớ đau nhớ đớn bàn chân xưa ngẽn trong bùn quánh giờ đang vất vơ kiếm sống ở thị thành. Những cánh đồng đó, đã hất hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối đàn vịt). Đất dưới chân chúng tôi bị thu hẹp dần. Nhưng ngay từ đầu, chúng tôi đã tự làm quẩn chân mình, vì không thể quay lại những cánh đồng cũ (với người quen cũ). Tôi đã từng trở ngược về những nơi đó theo cách của tôi, bằng mường tượng. Tôi gặp nhiều đứa trẻ tên Hận, tên Thù mang khuôn mặt rắp tâm của cha tôi, với đôi mắt sâu và chiếc mũi thẳng. Những đứa trẻ nhàu úa, cộc cằn, cắm cẳn, chỉ tiếng chửi thề là tươi rói, nhảy ra xoi xói ở đầu môi. Và hình ảnh đó thật đến nỗi, tôi bất giác lùi lại vì một đứa đang nhìn trân trối vào mình, ngạo nghễ "Tao không thích học, chừng nào lớn, tao đi chăn vịt. Má tao (hoặc ba tao) dặn, phải đánh chết tụi chăn vịt kia".
Tôi giễu cợt, không biết mày có kịp lớn không. Và nó nhăn nhở cười trước khi tan mất vào vũng đêm.
Tôi không mất nhiều thời gian để hiểu được cái cười ấy.

Đơn giản là ngay bây giờ, trên cánh đồng này, cũng đang lảng vảng những thằng Hận, chúng lớn hơn, cũng thất học, hung hãn. Bọn người này cướp vịt ở các bầy khác (trong đó có của chúng tôi) bằng cách lén phết sơn đen lên đầu những con vịt và phơ phởn đến nhận chúng là của mình, hiển nhiên mang đi. Bắt đầu xảy ra vài cuộc xô xát trên đồng, người ta đem hết những bản năng hoang dã của mình ra để giành lại miếng ăn.

Cha biểu tôi đứng ở đằng xa. Chờ đợi. Rốt cuộc, bầy vịt của chúng tôi vẫn mất ngót một nửa. Chúng tôi ra về. Cha tha thểu đằng trước với một thân xác nhừ bùn sau cuộc đánh nhau. Cố đi tụt lại phía sau, tôi giấu nỗi vui đang thổn thức, cồn cào. Sẽ không ra gì nếu một đứa gái tỏ ra mừng rỡ khi cha nó bị đánh tả tơi, nhưng rõ ràng là cha tôi đang thay đổi, đang sống lại những cảm xúc bình thường nhất. Tôi thích ông như thế này.

Sau này, tôi luôn hối tiếc là tại sao ngay lúc ấy không chạy đến và cùng sóng bước cùng ông, tại sao tôi không nhìn ông và mỉm cười. Để khi đám người kia cắt đồng, tôi đã không còn cơ hội.
Ba người họ ập tới từ phía sau, quây lấy tôi, quần áo vẫn đẫm bùn, mặt mũi sưng sỉa. Những thằng con trai hơi ngỡ ngàng, khi nhìn thẳng vào tôi, một đứa gầy gò trạc thằng Điền lau dãi ròng rãi trên khoé miệng, thảng thốt, "con nhỏ đẹp quá, mày".

Tôi coi đó là lời phán quyết cho mình. Giọng điệu của hắn giống như đang tấm tắc trước một món hàng đã mắt.
Và món hàng bị ghì ngửa trên mặt ruộng bì bỏm nước. Tôi ngạc nhiên thấy bầu trời im sẫm. Mênh mông. Không biết đã tắt nắng hay mặt trời không vói được ánh sáng đến nơi này? Hay những khuôn mặt nghèo đói, dốt nát tăm tối đã che khuất nó? Ngoái nhìn về phía cha và thấy ông lầm lũi đằng xa, tôi mong ông đừng quay mặt lại. Sau đó thử chống cự một lần, rồi thôi, sự vùng vẫy chỉ kích thích lòng ham muốn. Tôi không muốn bị đè nghiến, bị vùi nghẽn trong bùn.
Bọn chúng hơi khó chịu trước một đứa con gái yếu ớt và câm lặng. Sự hưng phấn giảm đi ít nhiều, đến nỗi, chúng tỏ ra đờ đẫn, nghi hoặc khi bóc trần tôi ra. Sao đúng lúc vầy nè, tôi buồn nẫu nê, tôi vừa le lói nhìn thấy con đường dẫn đến cuộc - sống - bình - thường, tôi vừa nghĩ, trên con đường đó, sẽ gặp người con trai nào đó để thương yêu... Nhưng cố không để cảm giác đau tiếc làm mình lịm vào chết, tôi cười cợt, “Chúng mày có lột bỏ có trăm có ngàn, tầng tầng lớp lớp những vỏ bọc, cũng chẳng bao giờ thấu đến tận tao”. Ý nghĩ đó làm tôi bớt nhói cho nông nỗi này.

Vậy thì, cha ơi, quay lại làm gì, tôi than thầm khi nghe tiếng chân ông nôn nả, giận dữ lỏm thỏm trên mặt nước. Cha tôi lao vào, gầm gừ nắm cổ một tên bật ngửa ra đằng sau như một người cố cất cái vó sông nặng nề, đẫm nước. Tôi khóc. Vì thấy ông đã kiệt sức, hoàn toàn. Và tôi buộc miệng thất thanh: “Điền! Điền ơi!” trước khi một tên ghí đầu ông dập xuống bùn.

Tiếng gọi ấy làm cha đau đến sững sờ, ông rướn ngước mặt về phía tôi, miệng há hốc. Tôi chực hiểu, ngay lập tức hối hận tràn đầy, trong ý thức cầu cứu, một bản năng đơn giản nhất, đứa con gái đã quên mất người cha.

Thằng Điền thì ở xa. Cánh đồng vắng ngắt, chấp chới vài cánh cò. Tôi biết rằng, không có cái gì làm cho cuộc chiếm đoạt này dừng lại. Cha không chấp nhận điều đó. Ông liên tục vùng vẫy. Một tên côn đồ ối lên một tiếng, bụm lấy mắt, vừa kêu rên vừa chửi bới ngậu xị. Không đánh trả, nó có cách trừng phạt khác, nó đè nghiến, giữ cho mặt ông hướng về phía tôi. Và bọn chúng thay phiên nhau, giữ cho cha chỉ một tư thế đó.

Mắt cha tôi ầng ậc nước, tôi không rõ là phèn hay máu nhoèn nhoẹt. Thôi nghen, ông trời, như thế này là đủ rồi, đừng thêm nữa. Ước gì cha tôi hiểu, để mà thanh thản, xưa rày, cái gì không biết hai chị em cũng đã thử, đó là một cách tự học để sống. Chỉ có sự giao tiếp giữa thân xác là tôi chưa từng trải qua.

Nhưng lúc này, cảm giác thật đơn điệu. Đầu tiên là sự xé toạc, và từ rách nát, đau đớn như lũ kiến cánh được giải thoát, chúng bò rân khắp thân thể, tôi thấy mình đang chết. Rồi ký ức ùa về kinh hãi, vẻ mặt má tôi cái hôm bị người đàn ông bán vải đo lên người hình như không phải là khoái lạc thăng hoa, nó giống như tôi bây giờ, đau ràn rụa, nhói tận chân tóc. Trời ơi, tại sao tôi không nhận ra điều đó, ngay lúc ấy (để giấu kín nỗi ám ảnh trong lòng, giả đò tươi cười với má, xem như không có chuyện gì, để chiều chiều cùng má ra sông, hỏi nhau, không biết chừng nào thì cha về).

... Mặt trời le lói ánh sáng trở lại khi trên đồng chỉ còn hai thân thể nhàu nhừ. Ai đó vãi từng chùm chim én lên cao, chúng cố chao liệng để khỏi phải rơi như lá. Người cha cởi cái áo trên người để đắp lên đứa con gái. Ông ta bò quanh nó, tìm bất cứ cái gì để có thể che cơ thể nó dưới mặt trời. Dường như đứa con gái đang chết, chỉ đôi mắt là rưng rức chớp mở không thôi. Câu đầu tiên nó hỏi :
- Không biết con bị có con không, hả cha?

Nó hơi sợ hãi. Cảm giác một cái gì, nhỏ xíu nhưng lanh lợi như con loăn quăn đang ngụp lặn trong nó. Đứa con gái thoáng nghĩ, rớt nước mắt, trời ơi, có thể mình sẽ sinh con. Nhưng nó chấp nhận việc ấy, dù phũ phàng (với nó, chấp nhận cũng là một thói quen).

Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường... Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn./.


Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Z
.
Về Đầu Trang Go down
thanhdo
Khách viếng thăm




Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeTue Nov 04, 2014 12:42 am


Phim: Cánh đồng bất tận




Cánh đồng bất tận là một phim điện ảnh của đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình dựa trên tác phẩm cùng tên của nhà văn nữ đang lên ở Việt Nam, Nguyễn Ngọc Tư, các nhà sản xuất cuốn phim đã đổi tên ra tiếng Anh thành The Floating Lives.

Chuyện phim thuật lại cuộc đời của ông Võ, một nông dân cần cù lam lũ, uất hận vì vợ bỏ nhà đi theo một phú thương giàu có, nên đã đốt nhà và dẫn 2 đứa con nhỏ sống cuộc đời bềnh bồng theo sóng nước sông lạch Cà Mau trên một chiếc thuyền nhỏ.

Nhưng định mệnh lại khiến cho cuộc đời của ba cha con không được yên ổn khi họ cứu thoát một cô gái giang hồ thoát cảnh đánh ghen tập thể.

Bốn mãnh đời từ đó như gắn liền nhau qua bao nỗi thăng trầm, tuy đơn giản nhưng vẫn chứa nhiều u uẩn.


Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận 250px-011210_vanhoa_canhdongbattan
Về Đầu Trang Go down
thanhdo
Khách viếng thăm




Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeTue Nov 04, 2014 2:41 pm


Một Mối Tình

Nguyễn Ngọc Tư

Mưa vô mùa, nghĩa là hết một đợt dài lưu diễn, tôi về quê. Má tôi chặt lá, giúc nếp cặm cụi ngồi gói bánh cà bắp, nấu một nồi tám đầy vun bánh. Tôi hỏi má gói chi nhiều vậy, má cười: "Cho cha con thằng Bầu, tội nghiệp tụi nó, nhà không có đàn bà nên cũng có bánh trái gì ăn đâu...".
 
Tôi giành: "Chừng nào bánh chín, để con đem qua bển cho. Mà, má nè, anh Hai có tính bước thêm bước nữa chưa, hả má?". Má tôi cười: "Chưa, má biểu nó hoài, mà, cái con nầy, lần nào về cũng hỏi có mỗi chuyện đó...". Mình à? Mình sao? Lần nào cũng hỏi chuyện đó à? Ủa, hỏi hồi nào sao mình không hay vậy ta?

Tôi ngủ lưng một giấc, bánh chín, một tay tôi bưng rổ bánh, tay kia xách cây dầm xuống bến. Có xa xôi gì đâu, từ nhà tôi bơi dọc theo rạch Ô Môi, ngược lên hướng mặt trời mọc chừng trăm thước là đã tới nhà Trọng rồi, nhà trồng nhiều thiệt nhiều cây ô môi, bông đỏ, lá xanh, trái chín không ai ăn, tụi con nít móc xuống làm gươm đánh nhau chan chát. Hai bên đầu nhà trồng toàn vú sữa, cao lớn lắm, già lắm, cỗi cằn lắm, lâu rày không thấy có trái trăng gì hết. Dưới mé kinh còn nguyên một đám nga cao ngòng. Mà, hết cái xóm kinh nầy có ai có cái nhà vừa cũ, vừa xưa như nhà Trọng đâu.

Ở nhà Trọng, có nhiều thứ mấy chục năm rồi không thay đổị Cảnh cũ giữ nguyên đã đành, tánh tình lớp người sau cũng y chang người trước, như từ một khuôn đúc ra. Như Trọng vậy, mười năm, kể từ ngày chị Ái tôi bỏ Trọng đi, Trọng vẫn giữ nguyên cái khăn choàng tắm treo đầu sào, chiếc nón lá quai nhung đã ngả màu thâm sì, cũ mèm, giữ cây lược sừng đã gãy mất mấy cái răng với cái kiếng soi để ở đầu giường như thể chị Hai tôi vẫn còn ở đâu đây, như thể chút nữa khi tắm xong, chị sẽ bước vào, chải đầu, rồi vừa nghiêng đầu, vừa quạt hong khô tóc bên cái cửa buồng trông ra hàng lơn nước, chỉ cần một cơn gió nhẹ, lá vú sữa khô nằm trên mái nhà sẽ tuôn xuống như mưa. Sao tôi lúc nào cũng thèm ngồi ở đó, ở cái vị trí yên bình đó, nhất là bây giờ, khi tôi vừa lang thang hết một mùa nắng. Nhất là khi nghe Trọng biểu thằng Bầu ở nhà bắc nồi cơm để anh đi nhổ vài cọng bông súng nấu canh với mấy con cá vừa thả câu được hồi hôm. 


Tôi hỏi, đám trái giác ngoài bờ liếp còn không, thằng Bầu nói còn. "Vậy anh Hai hái giùm em một mớ nấu chua ăn, thèm quá chừng", tôi dặn với theo. Rồi Trọng quay lưng đi, không để cho tôi kịp nhìn anh kỹ; nhưng thật thà vậy, Trọng đứng lớ ngớ ở đây một hồi, thể nào không nén lòng tôi cũng ôm chầm lấy anh mà khóc. Trời ơi, cảnh nầy, người nầy, sao y chang như năm ngoái, năm kia, chỉ khác là thằng Bầu đã lớn bộn lên, và mớ tóc bạc trên đầu Trọng là thay đổi, nó trắng thêm, nhiều thêm. Tôi tự hỏi mình lòng đang nghĩ đến cái gì mà lòng đau quá vậy cà.

Chị Ái, tôi với Trọng cùng một đám con trai con gái nữa lớn lên cùng nhau trên cái xóm rạch Ô Môi nầỵ Cỡ mười bảy, mười tám tuổi, thấy Trọng thương quá, tôi nói chơi chơi với chị Ái: "Em xí thằng Trọng". Chị tôi cười ngất, xong trề môi như đưa đò "người ta mà em làm như trái bình bát chín cây vậy, bày đặt xí phần". Ba Trọng mất sớm, má đi lấy chồng ít về, từ nhỏ Trọng sống với ông nội, mười tuổi, ông nội cũng mất, đang ở tuổi con nít chưa hết con nít, người lớn cũng chưa tới người lớn, anh đã gánh vác trọng trách lo hương hoả cho gia đình. Một mình, với hai con chó, một con mèo, học xong, Trọng còn phải quần quật với chín công ruộng, một mảnh vườn đất cằn cỗi, già nua, lâu rày không thu được huê lợi gì, nhưng quý là trên đó chôn cả thảy chín cái mả ông bà, và ngôi nhà gạch đã có 3 đời, cất trên nền cao theo kiểu chữ công, ba gian nhà rộng mênh mông trông ra cái sân gạch trơn rêu, mút sân là cái hàng rào giăng ngang, đứng dưới mé sông nhìn lên, dãy rào che tầm nhìn, chỉ thấy thấp thoáng mái ngói lợp trài màu vừa xanh vừa mốc.

Nhà Trọng có một cái lạ nữa là trên bàn thờ lúc nào cũng chong đèn, ngày tháng nầy qua ngày tháng khác, năm nầy qua năm khác, ngọn đèn truyền thống từ đời cố Trọng, nội rồi tới Trọng, không bao giờ được phép tắt. Chiều nào chị em tôi đi ngang qua cũng thấy Trọng lọ mọ ngồi lau cái bóng đèn hột vịt ám khói, châm dầu bằng cái vẻ mặt thành kính, nâng niụ Lúc đó, tôi ước thầm, phải chi Trọng ngỏ lời thương, tôi sẽ làm hết thảy công việc đó thay Trọng đến suốt đời, đến khi trở thành bà già cóc kiết, tôi giữ lửa thì hay phải biết. Nhưng Trọng thì lại thích chị Ái hơn tôi, Trọng thương thầm chị cũng nhiều như tôi thương thầm anh vậỵ Vậy mà anh không biết, còn cắc cớ biểu tôi làm mai. Nên có bữa, tôi hỏi má cho hai chị em đi coi hát, tới cái đập vô xóm Chẹt, Trọng đã bồn chồn chờ sẵn, tôi trao chị cho anh, giả đò đau chân để tụt lại đằng sau một khoảng xa xạ Tới sân uỷ ban xã, Trọng với chị tôi mua vé vào coi hát, tôi ngồi ngoài đầu cầu, đập muỗị Trọng không quên mua cho tôi một ly đá bào như để cảm ơn lắm lắm. Ngồi buồn, nghe hát văng vẳng trong kia, tuồng thì giễu nhau ong óng như gà kêu đẻ, nhưng nước mắt tôi chảy ròng ròng lúc nào không biết. Vài người trong đoàn hát thấy, họ hỏi, sao khóc mò vậy, tôi cười thưa, tại tuồng cải lương hay quá. Họ cười, sao nhạy nước mắt vậy, đi hát đi, đem nước mắt mình ra để lấy nước mắt người ta.

Tôi thưa má cho lên thị xã xin vô Đoàn Cải lương Bông Tràm, lang thang nguyên một mùa nắng, mùa mưa về thăm má. Cũng có lúc gặp Trọng, kêu anh Hai ơi, anh Hai à, tuồng như anh em một nhà thương nhau lắm (ai mà biết có thương thiệt). Cũng có lúc viện cớ qua nhà thăm nom thằng Bầu, ôm nó lên, nựng nịu, đả đớt, coi nó giống Trọng ở chỗ nào, mà giống chỗ nào tôi cũng ưa.

Cũng có lúc ngồi trân trân ngó chị Ái tôi mặc áo đỏ, chân xỏ guốc cao đi ngúc ngắc trong nhà, thấy không hợp mà cũng không muốn nói rạ. Chị thì lại nhìn tôi, săm soi guốc giày, quần áo tôi rồi tấm tắc, "Em sướng thiệt...". Tôi cười, "Chị cũng sướng thấy mồ, anh Trọng hiền khô, lại thương vợ...". Chị cười nhẹ, "Thương thôi thì được cái gì. Chị không hợp với cảnh nhà nầy, thầy Thành nói vậỵ.". Tôi hỏi, thầy Thành nào, chị cười, thầy mới về dạy ở trường xã mình nè, thầy hay lại nhà chơi, chưa vợ nên hay biểu chị làm mai, tưởng chuyện gì khó, con gái xứ nầy giỏi giang thiếu gì. Có lần, thầy thấy chị ngồi lau ống khói đèn thờ, thầy bảo, xứ nầy không hợp với chị, thầy nói câu nào nghĩ lại cũng trúng. Em gặp thầy một lần coi, thầy Thành nói chuyện hay lắm, thì người ta từ thành phố xuống mà. Nghe kể chuyện trên đó rồi, chị thấy sống ở đây chán thiệt, chán thí mồ đị. Gì mà ngày nào cũng giống y ngày nấy, hổng thấy thay đổi gì hết trơn".

Vậy rồi tôi lại đi, một bữa má tôi lên thăm, mới bước chân tới cửa đã vừa nói vừa khóc: "Con Ái tệ quá, nó bỏ chồng nó theo người ta rồị Biết nó hư thân vậy, má thà sanh cái hột gà, hột vịt còn hơn. Thôi, hết rồi, coi như đời nầy má không coi nó là con má nữa". Rồi má hỉ mũi cái rột: "Con coi kỹ, có phải cái nhà thằng Trọng chỉ có đàn ông là sống được?". Tôi không trả lời, Trọng mà rước tôi về bên ấy, chừng nào tôi bỏ đi.

Trời Ô Môi rộng vô cùng, đất thênh thang vô cùng bởi những khoảng trống mà chị Hai tôi bỏ lạị Má tôi xấu hổ vì con gái một dạ hai lòng, nhà có gì ăn cũng chắt chiu cho cha con Trọng, như bù đắp nỗi đau, nỗi thiệt thòị Tôi cười thầm má tôi hoài, buồng chuối xiêm, trái mướp, nắm rau với mấy cái bánh con con làm sao bù đắp nổi một con người, sao má tôi không đem tôi qua bển để đền, tôi hy sinh liền cho má coị Nhưng từ lúc chị Ái tôi bỏ đi, cứ mỗi lần qua nhà, Trọng lánh đi chỗ khác. Tôi buồn, trách. Thằng Bầu mới sáu tuổi nhưng đã trở thành xướng ngôn viên cho ba nó, nó biểu: "Dì út đừng có giận, ba con nói dì giống má con quá, nhìn dì, ba con chịu hổng nổi".

Mười năm rồi, không biết đã thay đổi gì chưạ Tôi hỏi thằng Bầu lúc rày ba nó làm gì mà đen thui vậỵ Thằng Bầu nói, hết mùa, ba nó chạy xuồng ra bến đò ngoài thị trấn chạy đò dọc. Nhiều công chuyện lắm, ba con nó còn coi sóc cái rẫy khóm ngoài liếp nữạ.



Trọng không nghèo, nhưng cũng chưa đủ giàu để sửa lại ngôi nhà đã bệu rệụ Mối mọt, bù xè thi nhau tấn công vào những cây cột gỗ, bộ ngựa chân quỳ, mấy cái tủ thờ, trường kỷ. Tôi nằm nghe rõ ràng tiếng bù xè nhai cây trèo trẹọ Thằng Bầu nói con mèo mướp càng già càng tệ, mỗi lần bắt được một con chuột là mỗi lần làm ngói rớt xuống, bể tan nát. Thật ra, với tài bươn chải, tháo vát, tằn tiện, lại thêm má tôi giúp đỡ, Trọng có thể cất được một cái nhà khác, gọn gàng, vừa đủ để ở.

Tôi nói gần xa, chê chỗ nầy cây mục, chỗ kia kèo sắt gãỵ Trọng nói anh cũng lo không biết căn nhà có qua nổi mùa mưa năm nay không. Không biết cha con anh có còn giữ gìn được những bức liễn chạm trổ cầu kỳ, những bức tranh vẽ cảnh đồng quê, trời đất, trâu bò, trẻ con hiền hoà, những tờ giấy dán tường vẽ truyện Trầu Cau, truyện Tấm Cám, rồi cái giường, căn buồng, cái ngạch cửa... Bữa nào mưa lớn, hai cha con cũng chạy xất bất xang bang. Tôi hỏi chạy làm gì, thằng Bầu cười: "Chạy đi lấy đồ hứng nước dột đó, dì Út". Tôi cười:
- Anh Hai à, để vầy hoài đâu có được, thôi, cất nhà mới cho rồi, ông bà mình rồi cũng hiểu cho mình chớ chấp nhứt gì.

Trọng chỉ cười nhẹ, ngó ra khoảng sân nắng. Thằng Bầu cười: "Dì Út giống hệt ngoại, biểu y chang. Ba con nói với con hoài, ba con hỏng muốn thay đổi gì hết, để má con nhớ được đường, nhớ được nhà mà về".

Trời ơi, tới bây giờ, Trọng còn mong một ngày như thế, cái ngày mà chị tôi sẽ trở về. Chị sẽ về ư? Sẽ về à? Không biết! Chỉ biết anh giữ nguyên cảnh cũ nhà xưa là để chờ người đang sống. Tự nhiên trong bụng tôi thấy rầụ Bầu lại tròn con mắt: "Để con nấu cơm đãi dì Út một bữa, mà, chút xíu nữa cơm chín rồi, dì ở lại ăn cơm với hai ba con, trừ ngoại ra, lâu lắm nhà con mới mời cơm được một người".

Càng lớn, thằng Bầu càng giống Trọng, tử tế, đàng hoàng lại pha thêm một chút gàn gàn. Bữa giỗ, Trọng uống hơi nhiều, nó ngồi kế bên nhắc: "Ba, ông cố nói, uống rượu có chừng thôi, uống ít còn nhiều, uống nhiều là mất hết đó". Cao hứng cỡ nào Trọng cũng ngưng lại ngay đó, ai cũng lạ khi thấy thằng con nói vậy mà cha cũng nghẹ
Bây giờ, Bầu vừa bước qua tuổi mười lăm, chưa chắc nó nhớ chuyện cũ. Hai dì cháu lụi hụi trong bếp, tôi hỏi, "Bầu, còn nhớ má hôn con?", nó ngần ngừ một lúc, nhìn quanh, rồi nó thầm thì "Con cũng hổng biết, chắc là không. Nhưng nói thiệt, con sợ ba buồn... Hồi má đi, con mới chút tẳn chớ gì...". Nó nói, có má cũng được, mà không có cũng được. Bây giờ quần áo rách, nó tự may được rồi, nhà cửa nó cũng dọn dẹp gọn bân nhưng cũng có lúc nó cần có má, để hỏi vài chuyện... Tôi hỏi chuyện gì, nó cười, bẻn lẻn, dường như những câu chuyện đó người ta chỉ dành để nói với má người tạ Tôi thương nó chút nữa đã ghì đầu nó ôm vào ngực. Chợt nó hỏi:
- Sao dì Út không lấy chồng, dì ở vậy hoài, bà ngoại rầu lắm đó.
- Dì còn phải đi hát.
- Đi hát vui hơn lấy chồng hả dì?

Tôi cười, lấy chồng vui hơn, nhưng phải lấy ngay trân người mình thương kìạ Còn đi hát thì không vui không buồn, mơ hồ lắm, thấy cười ha ha chưa chắc là vui, thấy rặn ra một đống nước mắt vậy mà hổng phải buồn. Có lúc đang ở nhà lại muốn đi, có lúc đang hát trên sân khấu vậy tự nhiên thèm về nhà. Bầu hỏi tôi thường đóng vai gì, tôi kể, nhiều lắm , hiền có, ác có, mà toàn vai phụ không thôi... Tự dưng tôi nghe nỗi buồn chao chát trong lòng, tôi bảo, nhưng có một vai dì thèm mà không ai cho đóng, vai gì hả, vai một người bình thường, có chồng, sống với nhau trong căn nhà xưa, cũ kỹ. Buổi sáng chở mớ rau vườn ra chợ, mua ít thức ăn mang về nấu bữa cơm trưa, chiều phụ chồng mần cỏ rẫy, chạng vạng chờ chồng từ ngoài đìa vác một mớ bông súng bước vô nhà... Và để được nghe con trai mình nói với mình những câu chuyện chỉ để dành nói cho má nó nghe thôị Ừ, dì chỉ ước có vai bình thường vậy...

Trọng đang nằm võng, tôi nghe nhịp đưa vùn vụt rồi cò kẹt dùng dằng chậm lại, tôi biết anh có nghe lời tôi nóị Căn nhà tự nhiên lặng lẽ đến kỳ lạ, nghe tiếng thằng Bầu thở ngỡ ngàng, nghe cả tiếng ơ cá kho sôi tăm tăm trên bếp, tôi ngửi thấy đâu đây mùi bông súng Đà Lạt thơm dịu, ngọt thanh pha cái mùi tanh tanh của bùn dưới đáy aọ Không lẽ im re hoài, tôi nói với Trọng, rằng anh có nhớ chị Hai thì cũng vậy thôi, người vẫn chưa về, thử thương tôi đi, tôi sẽ giúp thằng Bầu nấu cơm, vá áo, giúp anh lau ống khói, châm dầu cái đèn chong nhỏ, giữ cho ngọn lửa suốt đêm ngày le lói đỏ như giữ vạn truyền thống nhà mình đã trăm năm naỵ Sau này, chị Hai có về, tôi sẽ trao anh lại, như ngày xưa vậy, tôi làm cũng được lắm mà, gọn bân chớ gì.

Mà, trời ơi, Trọng ác với tôi chi vậy, sao bắt tôi phải kìm lòng không được để nói ra, nhìn tôi mà không hiểu à?
.
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeSat Dec 13, 2014 1:08 pm

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Images?q=tbn:ANd9GcT5beUzGvjIqRFfSCV_dmO-cNEu4owdk3nBnL-1bk3FzbjAjkN-GA


Cũng đành bứt sợi dây câu…

Nguyễn Ngọc Tư

Đường từ Rạch Giá vào nhà Mai xanh cây cỏ. Những cơn mưa cuối mùa còn đọng thành những cái vũng trên con đường xóm. Những quán tạp hóa nhỏ. Một tiệm thu mua phế liệu, ve chai lông vịt tanh nồng. Người phụ nữ đang đốn trúc bên hông nhà ngẩng lên chỉ đường khi chúng tôi hỏi nhà Huỳnh Mai, “đằng đó, chút xíu nữa là tới rồi”. Mũi dao phay lia về phía có căn nhà lụp xụp, thấp và tối.

Sân cũng thấp, có vẻ ngập nước suốt mùa mưa, thấp thoáng rêu mọc theo giề củi mục ướt sũng. Mặt đất tái nhợt, bủng beo. Người trong nhà xúm xít khi khách đến. Ngoại Mai gầy, khóc quắt queo ngoài hàng ba, với tôi. Kể rằng, “con nhỏ có hiếu lắm, nó nói lấy chồng để kiếm ít tiền mua vài công đất, “chớ cha già rồi đâu có đi đâm ếch kiếm sống được nữa…” (Tôi gạch chân mấy chữ lấy chồng để kiếm ít tiền) Kéo chéo khăn lau nước mắt, bà ngoại lại kể, rối bời. Tôi tự chắp vá không gian và thời gian, “con nhỏ đi mần công nhân được hai năm. Mùa khô đi cắt lúa mướn. Bữa lên máy bay theo chồng ngón tay út còn bó vải do cắt lúa bị đứt…”.

Câu chuyện đứt quãng, trong nhà vọng ra tiếng mẹ Mai, ấm ức, “ai mà ngờ thằng đó ác nhơn vậy, lúc tới đây nó tỏ ra cưng con Mai lắm, hun hít, kéo con nhỏ ngồi trong lòng, ai mà ngờ…”. Giọng mẹ Mai cao quá, át đi tiếng của bà ngoại. Bạn tôi ngồi xem lại album ảnh cưới, vài tấm hình người chồng đã bị cắt lìa, một mình Mai, cánh tay choàng lấy trống rỗng. Một tấm hình Mai chụp chung với các em mình. Nhiều hình ảnh hiện ra trên cái nền âm thanh là giọng nói lúc chì chiết, lúc u uẩn, lúc thê thiết của mẹ Mai. Cùng với tiếng phụ họa của dì, và vài chị nách con từ đằng xóm lại.

Tôi ra đằng sau, em gái Mai đang chụm lửa nồi canh suông khoai rạng. Gian bếp nguệch ngọac vài bó củi, cái tủ chén xiêu xiêu, hai cái cà ràng… Sàn lãn có một rổ ruột ốc bươu vàng. Hỏi, ốc để làm gì, em đáp, dạ cho cá trê lai ăn. Hồi chế em chết, người ta cho tiền, ba em mua cá về nuôi. Mượn đất bà ngoại. Hỏi người ta cho tiền vậy, sao không mua đất? Trả lời, bên kia người ta hứa cất nhà, cho đất, đang chờ… Em trai Mai dúi vào tay tôi ly trà đá đường, tôi hỏi, em còn học không, Tâm cười, em bỏ học lâu rồi. Cắm câu. Cỡ chạng vạng đi cắm, mười giờ đêm chống xuồng đi thăm một lần, sáng nhổ, một đêm bán được cũng hai ba chục ngàn. Cũng có khi đi đâm ếch, bắt chuột. Gì có tiền là làm.

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Images?q=tbn:ANd9GcQ-QAALc8dVx0oi0-BRTJLjKMQNxTyek8KQUc5kEXEd5jMT5pUd

Mẹ Mai đã thôi nói, đang cắm cúi cùng ba Mai viết biên nhận nhận số tiền từ một tổ chức ở Hàn Quốc nhờ chúng tôi mang tới trao tặng. Tôi đang rảo quanh nhà, mắt tôi đậu ở cành mai giả trên bàn, bà ngoại nói, con nhỏ làm trước khi đi, nó nói nó tên Mai, nên làm nhánh mai này để ở nhà nhìn mai mà nhớ nó. Cái rèm kia cũng vậy… Bà ngoại nói chính tay Mai thêu cái rèm đó, có đôi chim én bay lên trên nền những bông mai rơi lả tả.

- Con nhỏ nói vì nó tên Mai nên may mắn có chồng ngoại quốc…

Cô gái, và những người thân của mình không phân biệt được giữa mai và may. Không phân biệt được lấy chồng kiếm tiền và lấy chồng vì yêu. Như không phân biệt được một người để nương tựa và kẻ sát nhân. Cũng lầm lẫn nhiều giữa bản thân và một món hàng.

Ngộ nhận, lẫn lộn nhập nhòa cho đến khi Mai chết. Bàn thờ đơn sơ. Mai mắt xếch như đang cười. Cạnh đó là ti vi và đầu đọc DVD mới. Mẹ Mai nói, “con Mai hồi còn sống ước sắm cho cha mẹ coi cải lương, tụi tui mua để vong con nhỏ vui…”

Cái gì chứng minh một linh hồn biết vui khi thấy nhà mình có những thứ mua được bằng chính cái chết của mình? Chữ của tôi bắt đầu đổ tháo.

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Images612326_t7.bi_kich_lay_chong_han_quoc

Nắng đỏ au báo hiệu sẽ có mưa chiều. Chúng tôi ra về. Bỏ lại sau lưng căn nhà có quá nhiều thứ bất an, hoặc nó không bất an nhưng tự tôi thấy vậy. Của nước mắt thấm trên chéo khăn bà ngoại và sự hí hửng của chị hàng xóm “trời, bao nhiêu tiền đô đó mà đổi được bốn chục triệu lận hả? Chuyến này vô mánh nghen, sắm đồ đã luôn…”. Của ngôi nhà ngó thấu trời sao bọc lấy giàn ti vi, đầu đĩa mới. Của khói hương bay lên từ bàn thờ cô dâu chết trẻ và câu nói của người dì “tại số con Mai, chứ cả xóm này con gái lấy chồng Hàn cũng nhiều, mà ai cũng sung sướng…”.

Vết thương từ một cái chết có vẻ mau liền da bởi đã được chữa trị bằng tiền, nhiều tiền, được rịt bằng bã thuốc cầm máu mang tên trừng phạt, kẻ sát nhân chịu án 12 năm tù, được che đậy bằng thứ thuốc chống đau “cái số phần nó vậy…”. Và năm ba cái chết cũng chẳng ngăn cản được những cuộc đi, cuộc bán mua, cuộc trôi giạt của hàng trăm hàng ngàn cô gái trên xứ sở này. “Cũng đành bứt sợi dây câu. Ra đi để lại một châu thổ buồn”, ông Cao Thoại Châu, hai câu đó ông làm cho mình hay cho những phận đời lưu lạc?!

Biết công lý được thực thi bên kia biên giới, tôi ngồi chép lại những dòng trong sổ tay, tôi đã định chỉ kể và kể, không để tình cảm của chính mình chen vào. Rốt cuộc, tôi đã không làm được.

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận 1389921181-1389919634-co-dau-viet
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeThu Feb 12, 2015 10:42 am




Nhớ sông

Nguyễn Ngọc Tư

Mỗi lần qua sông Cái Lớn, Giang lại nghĩ chắc tới già, tới chết, mình sẽ chẳng bao giờ rời chiếc ghe nhỏ này đâu. Cũng khúc sông nầy, năm Giang mười tuổi, má Giang chết. Hôm đó, trời mưa nhỏ những gió nhiều, gió bạt tay chèo liêu xiêu. Nước từ vàm sông cuồn cuộn đổ ra. Chiếc ghe bạt nước tấp vô sà lan chở cát. Ông Chín, ba Giang, chống đằng mũi; má Giang chống đằng lái. Giang ngồi trong mui ghe, ôm con Thủy vào lòng. Giang thấy rõ ràng lúc cây sào trong tay má đang chỏi vào thành sà lan trượt huớt lên, má ngã xuống, đôi chân còn bíu vào ghe. Rồi má cong lại như chiếc võng, hụp vào sông. Giang khóc điếng, bồng con Thủy lồm cồm bò về đằng sau lái, Giang còn kịp nhìn thấy mái tóc trôi lòa xòa phiêu phiêu trong là nước rồi mất hút.

Giang không hiểu sao mình nhớ hoài, nhớ ràng ràng cái ngày đó. Cho nên qua vàm lần nào Giang đều kéo con Thủy ra, Giang chỉ: má chết chỗ này nè. Con Thủy ừ hử như không, Giang hỏi: không nhớ à? Thủy lắc đầu.
Cũng phải, lúc đó con Thủy còn mềm xèo, nhỏ xíu như con mèo mướp. Hệt như Giang, nó lớn lên trên ghe. Lúc buôn bán, lúc nấu cơm, ông Chín không bồng được, Giang buộc sợi dây dù vô chân nó, đầu kia Giang buộc vô mui ghe. Con Thủy bò chán bò chê rồi nằm ngửa ra, ngó những trái cà, trái khóm, trái bí, bầu ông Chín treo lúc lỉu trên nhánh chà đằng mũi ghe. Có lẽ nó biết thân mình mồ côi mẹ nên dễ chịu, dễ tính.

Gia đình ông Chín sống hẳn trên ghe. Cảnh của ông cũng buồn lắm. Nhà nghèo, ra riêng, gia đình chỉ cho hai công đất. Năm Giang ba tuổi, Giang lên sởi. Ông Chín bán đất cứu con. Số tiền còn dư lại, ông mua chiếc ghe nhỏ đi bán hàng bông. Cả nhà dắt díu nhau linh đinh sông nước. Có lúc vừa ghé lại bờ, chưa kịp buộc dây ghe vô gốc mắm, do quần chân lâu ngày Giang đã chạy lên bờ, chạy cuống chạy cuồng như điên trên đất. Má Giang rớt nước mắt. " Con nó thiệt thòi... ". Ông Chín an ủi:" Vì miếng ăn mà, mình ơi".
Sau này khi vợ chết, không hoàn toàn vì miếng ăn mà cả nhà ông Chín trôi dạt hết dòng sông này đến con kinh kia. Ở đáy con sông nào đó còn là nơi gởi gắm xương thịt của người đàn bà xấu số - má Giang. Những buổi tối, buộc ghe vô gốc tra bông nở vàng cặp mé bờ, ông Chín dạy chị em Giang học. Có được chút vốn học hành nhỏ nhoi, ông dạy bằng hết. Giang lanh lợi hơn con Thủy, học ít mà tính rợ cực kỳ giỏi. Buôn bán lu bù mà mà nó tỉnh như không. Nó tính toán hết, mua rau trái, đường đậu tạp phẩm cho chuyến đi, chở than, chở củi chuyến về. Nhiều chuyến bốc than còn nóng chất dưới sạp ghe, chị em Giang nằm trên đó mà ngủ sáng ra lưng phồng rộp. Ông Chín ứa nước mắt, cắn răng biểu: "Lần sau thôi ghen, con Hai".

Bây giờ hỏi lại Giang nói không có con kinh, con rạch nào mà ghe chưa đi qua, không có đường ngang ngõ tắt nào mà ông Chín không biết. Xuôi dòng, ngược dòng, con nước kém, con nước rong... Không ai nói với ai, nhưng cả nhà ông đều nghĩ chắc là sống như vầy hoài, như vầy mãi mà thôi. Chị em Giang đùa nhau sau nầy lấy chồng, ra riêng, ba cho mỗi đứa một chiếc ghe. Con Thủy nói nó không lấy chồng, nó ở vậy đi bán với ba, nó nói mà giọng hơi buồn. Ông Chín nghe rồi như gió ùa về, lòng tự dưng đau xót. Rồi khi hai đứa con gái ông sinh ra những đứa con, chúng lại phải sống cuộc đời lênh đênh như má chúng, ông nghĩ, vậy đâu có được. Những buổi chiều ghe đi qua thị trấn, qua phố huyện, giờ tan học nhìn đám học trò túa ra cổng trường, đám học trò túa ra cổng trường, đám học trò áo lem mực , tay kẹp nách cái cặp , tay mang bình nước, con Thủy lón lén đắm đuối nhìn lên, mắt ông Chín cháy âm âm một nỗi gì đau đáu.

Giang gặp hoài đôi mắt đó, Giang thương ông quá đi thôi. Giang lấy chồng. Chồng Giang tên Thuấn ở Đập Sậy. Những lần đậu ghe lại buôn bán, Thuấn đều mời ông Chín lên nhà uống rượu. Nhà Thuấn không giàu nhưng cũng đủ mặc đủ ăn, có đất làm ruộng, gần trường xã. Ông Chín chọn Thuấn trước, ông hỏi Giang có ưng không. Giang ngồi chải tóc, chải tới rát da đầu, vuốt ra từ cây lược mớ tóc rối (như lòng mình rối). Giang gật. Giang lấy chồng hôm mười chín tháng hai, khi dọc triền sông, trên những đám chùm gọng, những rặng ráng... loại chùm gửi tơ hồng phủ lên một màu vàng óng, rồi chi chít những bông hoa trắng con con như hột tấm mẳn. Mấy chiếc ghe bạn kè lại thành bè, đậu phía ngoài đập. Đám đàn bà con gái bê những cái cà ràng nhóm củi nấu ăn lên bờ. Hiện - bên ghe bạn - cũng bày đặt đi đốn lá dừa về bẻ vòng nguyệt trên mũi ghe nhà Giang. Ngày vui của Giang mà Hiện lầm lì, có cười cười cũng héo xèo. Nửa đêm nhóm họ, rượu uống sương sương. Hiện ca Tình anh bán chiếu mà nước mắt ròng ròng. Hiện lấy mu bàn tay quệt nước mắt, trợn trạo biểu: "Rượu xứ này cay dễ sợ". Rồi dòm trong ghe thấy Giang ngồi xếp quần áo với con Thủy, Hiện kêu: "Chắc sau này mình hổng gặp được nữa, cô Hai hen". Giang ngước lên cười buồn. Con Thủy thày lay: "Ảnh thương chế đó". Giang vỗ đầu em: "Thương khỉ khô gì mà không chịu nói, hả?". Con Thủy cười: "Chế hỏi cái bộ như em là ảnh vậy". Sáng sau, Giang mặc áo dài từ ghe bước lên, ông thợ chụp ảnh chụp được một pô đẹp ơi là đẹp, đẹp nhất là Giang giang mớ bông tra vàng rụng tơi bời lừng lững như hàng trăm cái chuông.

Giang ở lại nhà chồng rồi, con Thủy nó buồn lắm. Nó thay Giang buôn bán cho ông Chín nghỉ ngơi sau bao ngày lèo lái. Nó lanh lợi, mau mắn không bằng Giang nhưng được nước siêng. Ngày nào nó cũng lật lịch coi, tới con nước ba mươi đi bán vùng xóm rẫy về, ghe ghé Đập Sậy thăm chị nó. Có bữa dọn cơm nó vô thức dọn thừa đôi đũa, cái chén. Ông Chín rầy: "Mai mốt bây lớn bây cũng lấy chồng, chị bây đâu ở được với bây hoài". Nói vậy mà sao lòng ông cũng cồn cào nhớ.
Ghé Đập Sậy, Giang đòi ông Chín ở lại một đêm, cho Giang xuống ghe ngủ với con Thủy. Giang than nức nở: "Trời ơi, con nhớ ghe quá trời đất đi". Xuống ghe, Giang đưa tay rờ rẫm từng món hàng, từng miếng sạp. Trên nhà, ông Chín ngồi uống rượu với Thuấn, Thuấn uống dữ, anh toàn tợp nguyên ly. Uống xong rồi lè nhè than: "Con nuôi con Giang như nuôi con sáo, hổng biết giờ nào nó xổ lồng nó bay. Con Giang là vợ con, nó ở đây mà lòng dạ nó ở đâu á...". Ông Chín lặng người.

Thường thì cơm nước, quét dọn xong hễ ra giờ nào Giang lấy xuồng chèo đi giờ ấy. Trời đất, nó đi đâu? Thuấn cười chua chát: "Hổng biết, nó chèo khơi khơi vậy đó ba à, con cũng nghi bậy trong bụng, có bữa con rình đi theo, vợ con chèo đã đời rồi nó buông chèo lụi vô đám lá, lấy tay vịn, ngồi ở đó. Rồi chèo về, vậy à". Ông Chín thở dài.

Đêm đó, Giang nằm dưới ghe. Giang hỏi con Thủy: vậy chớ ghe mình bán có đắt không, bây giờ ghe mình thường về đậu ở bến nào, ba còn buồn, còn uống rượu ban đêm không... Thủy trả lời muốn mệt. Con Thủy nói :
- Anh Hiện gởi lời thăm chế. Ảnh hỏi em hoài hà, hỏi vậy chớ chế lúc này hông? Em nói em hổng biết. Sao mà em thấy ảnh tội nghiệp thiệt. Phải chi... - Con Thủy lúng búng dừng lại rồi thẹn thò nói tiếp - Phải chi có cái gì thường được, mình thường cho ảnh.

Mắc mớ gì mà phải bồi thường - Giang cười rồi giật mình. Con Thủy năm nay mười tám tuổi, nó lớn thiệt, nó lớn mau quá. Giang nhớ cái ngày con Thủy có kỳ kinh nguyệt đầu tiên, nó lụi đầu giấu vô mớ cốm gạo treo lủng lẳng khóc mướt. Giang bảo không sao đâu, không sao đâu, mà chực rơi nước mắt. Giang nghĩ phải chi còn má. Thủy còn có chị nó, chớ ngày đó của Giang, Giang cũng khóc mà không thể hỏi ai. Ông Chín tinh ý biết, ông lặng lẽ qua bên ghe nhà Hiện, nhờ má Hiện. Ngồi hút thuốc như ống khói tàu, lần đầu tiên ông thấy mình bất lực vô dụng và bối rối trước đứa con gái đáng thương.

Nhớ lại nhiều chuyện quá, Giang không ngủ được. Con Thủy bày ra chuyện lắc ghe, lắc như là ghe đang bị sóng vậy, nó biểu "chắc là chế quen ngủ vậy rồi, êm êm hổng chịu". Giang thiếp đi, thấy mình đang ở trong một cơn mơ mà giấc mơ cũng tròng trành.
Khi ra về, nhìn bóng Giang xơ rơ đứng tiễn bên hàng me, ông Chín dặn lòng, thôi, sau này có nhớ thì lâu lắm mình mới ghé thăm. Rồi nó sẽ quen, sẽ quên đi. Nó phải biết cách sống với đất để nghĩ về tương lai những đứa con nó.

Nhưng chưa đầy con trăng đã thấy Giang khăn gói về bến Xã Xiêu. Giang lần theo mấy chiếc ghe bạn hỏi thăm rồi quá giang họ về. Ông Chín thấy Giang lòng đau lắm. Ông gằn gằn hỏi: "Con Hai! Bây đi đâu?" Giang cúi mặt: "Con nhớ ghe quá hà, con nước rồi ba không thèm ghé thăm con". Giang nói thêm, nói Thuấn cho Giang đi, chừng nào muốn về thì về, "ảnh dễ ghê vậy đó, ba à". Ông Chín đâm sầm ra ngồi đằng lái, vấn thuốc rồi bập bập trên môi mà không buồn đốt. Con Thủy sợ ông giận Giang, nó men ra nói khơi: "lâu lâu có con gái về thăm, sướng thấy mồ, ba đừng giận ba ha". Ông không trả lời, lúc đó ông đang nghĩ về một người đã khuất, lòng ông chua chát: "Tui biết tính sao bây giờ, bà ơi. Tui tính lầm một lần này rồi".
Nghe con Thủy cười với Giang rộn rã: "Chế ngủ trên nhà riết rồi cũng quen mà, ngủ ghe vừa chật vừa cực thí mồ" - Con Thủy nói hoài, nó thích có đất có vườn như bên chồng Giang - Có đất để làm gì hả? Để trồng cây, ừ trồng cây ăn trái, trồng mít và trồng rau, thiệt nhiều rau". Giang nhắc: "Ờ phải em ham đất lắm, hồi nhỏ ghe đậu bến nào chế cũng coi em bắt mệt, cứ xoay lưng đi là em chổng mông cạp đất ăn ngon lành. Ăn đất hoài bụng ỏng bụng eo luôn, nhớ chưa?"

Ông Chín lần vào trong, vẹt mớ bánh kẹo, giở hũ gạo ra, moi dưới đáy một chiếc hộp sắt sơn đen. Ông gọi chị em Giang lại, ông mở hộp ra, trong hộp một túi vải dây gút miệng. Ông ngồi xếp bằng, trịnh trọng, trang nghiêm như thể ông sắp đánh đổi cái gì thiêng liêng nhất trong cuộc đời. Ông từ tốn lấy trong túi ra từng chiếc khâu vàng óng ánh, nói: "Ngày mai ba đưa con Hai về, thằng chồng bay chắc đang trông...". Giang ngước nhìn trân ông rồi cụp mắt, cúi đầu. Dốc ngược cái túi, ông Chín bảo:
- Dành dụm cả đời ba chỉ có bao nhiêu đây thôi. Ba sẽ bán chiếc ghe này, về quê nội mua một miếng đất, rồi ba với con Thủy cuốc đất trồng rau, có gì ăn nấy. Ba đi cả đời, ba cũng mệt...

Con Thủy ngỡ ngàng nhìn vào mớ vàng rồi nó lặng lẽ bò ra ngoài mũi ghe. Nó sợ còn ngồi trong đó, chút nữa thôi nó sẽ bật khóc vì thương mình, thương ba. Con Thủy biết khi bỏ lại sau lưng hơn nửa đời sông nước, ông Chín hẳn sẽ buồn lắm, đau lòng lắm. Trong này ông Chín biểu Giang: "Ngủ đi, rồi ngày mai...". Ông chờ Giang quây đi rồi mới đốt nén nhang cắm lên cái trang thờ treo trên vách: "Còn bà, bà đã thành nước thành đất, thành cỏ thành cây, cha con tui ở đâu, xin bà theo đó. Đám cháu chắt chít của mình rồi sẽ chẳng phải chịu lênh đênh".

Giang ngồi ở đầu vòm mui nhìn ra đằng trước. Con Thủy không biết mình đang vui hay đang buồn, nó thẫn thờ buông chân xuống nước, khỏa bì bỏm, mắt hướng về chiếc ghe của Hiện đang đậu sát bờ lá. Hiện biết Giang về nên Hiện nằm ca sang sảng.
Con Thủy lầm bầm, "Chắc là sau này em không gặp được anh đâu".
Đêm nay cũng có gió nhiều, cà bắp trong đám lá dậy hương, cái mùi cà dân dã không chịu được. Gió làm sóng chao ghe mà sao khó ngủ quá vậy nè.

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận 2013-NOV-25-CROP-300-ch%E1%BB%A3-n%E1%BB%95i

Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeFri May 22, 2015 8:08 am

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận EmkYsP45


Gió Mùa Thao Thức


Nguyễn Ngọc Tư

Những ngọn gió tháng mười ráo khan đã thổi về xóm Rạch Mồ Côi. Không ngủ được, má dậy sớm nấu ấm trà mang ra chòi vuông cho ba. Má biết cữ này ba cũng đang thao thức. Thức, vì đêm nay kỷ niệm chợt theo gió về kinh hãi.

Nghe gió tưởng bên ngoài cửa chòi lũ cá rô đang đớp móng dưới trăng giật mình quẫy chủm. Nghe như tiếng những cây dao yếm mần cá chặt đều trên mặt thớt mù u. Nghe phảng phất mùi tanh tanh của khạp cá muối chưa chao nước mắm...

Tháng này năm ngoái, Rạch Mồ Côi vào mùa đìa, mùa thu hoạch cá đồng lớn nhất trong năm. Ừ, năm ngoái cũng gió này, nước trên đồng cạn dần, cá nhà ta giã từ hết mùa mưa rày đây mai đó, giã từ những bữa ăn ngon trên chân ruộng, chân rừng, buồn tình rút xuống mương đìa ca "la la la, ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục cũng ao nhà...".

Thấy cá ục sôi dưới đìa, mắc nôn nao trong ruột. Hai ông bà không ngủ được, nghe cá lóc táp phập trên mặt nước, tiếng gọn hơ như dừa rụng; ba nói: con này cả ký lô nghen bà. Má cãi: hỏng tới đâu đó ông ơi, chừng nửa ký là cùng, cá lóc táp nghe hờm vậy chứ.

Ba cười, già đầu rồi hổng lẽ tui cãi qua cãi lại với bà như con nít. Rồi má châm một bình trà đậm, bưng lại chỗ cửa sau rủ ba ra ngồi. Vừa tráng nước nóng mấy cái ly má vừa hỏi năm nay ông tính cữ nào thì xuống lưới? Thấy đằng xóm làm đìa, má nôn nên hỏi vậy chớ má biết năm nào cũng chờ cận tết, chờ đám con cháu về đủ. Chúng nó bôn ba thành thị, chen chúc nhọc nhằn ở đó cả năm rồi, chừng về phải đãi cho tụi nó mấy bữa cá đã đời.

Ba má làm nông dân cả đời, nghèo lắm, chỉ có chút này làm niềm vui lớn cho con. Ở thành phố đám con cũng đủ đầy, nhưng chẳng bao giờ được sống đầm ấm như vầy, được đứng ngồi quây quần, rối rít với nhau ngoài bờ chuối, bờ dừa mát rượi, khói tỏa quanh nồng nàn, khung cảnh vẫn như ngày chúng lên tám lên mười.

Coi cái cách ăn của con, ba má mừng chúng vẫn chưa thay đổi, tánh ý hồi nhỏ sao giờ vậy. Thằng Hai với con Năm mê cá lóc, khoái thấu trời món cá nướng rơm chấm muối ớt kèm rau húng lủi, bắp chuối non. Hai đứa nói với nhau: trời ơi mùi khói này nó thơm, ngọt làm sao đâu á, nghe như đang ở giữa đồng lúa quê mình, như hồi còn đi dận cù bắt chuột hén anh.

Thằng Ba ngồi ở một góc khác lặng lẽ, chắt lưỡi hít hà với mấy con cá trê vàng nướng, nó ngồi trở cá, mắt lom lom vô con cá bóng nhẫy, mỡ nhỏ xèo xèo trên bếp lửa, tô nước mắm gừng để tum hum trong lòng.

Con Tư chê cá rô, cá trê, ghét cá lóc (hồi năm tuổi, nó nhào vô cái lu đang rộng cá nên bị cá lóc phóng trúng, con mắt sưng như trái ổi, xanh dờn), nó lăng xăng làm cá sặc nấu cơm mẻ, nó nói cái tạng nó nghèo khó, nhăn nhó nên chỉ hợp với cá sặc thôi. Anh chị nó cười ha ha ha, ui cha, ba má ơi, nó nói vậy chớ ở thành phố bây giờ ăn cá sặc là sành điệu lắm, nhiều bữa muốn ăn cá sặc kho sả ớt mà kiếm không ra, thèm muốn rớt nước mắt luôn vậy đó.

Má ngồi nhìn con cháu đang cười đùa ăn uống, nhớ thằng Út vừa vào bộ đội, cữ này ở đơn vị nó có biết gió về không, có thèm không một nồi canh chua cá rô đồng bông so đũa?

Má khum tay che cho khỏi chói, ngước lên nhìn bông so đũa nở trắng xóa trên đầu. Những thứ bông rau đồng cũng như có hẹn với mùa đìa. Đám con má chỉ cần vói một chút là hái được những đọt chùm ruột trên đầu, những đọt sung hơi chát nhưng cặp với cá lóc nướng rơm thì ngon không biết tả vào đâu. Rồi mớ rau đắng đất ngoài bãi lá vào thời non lẩy bẩy, gừng thì đang già, đang vào độ nồng nàn, trái dác treo từng chùm xanh xanh trên lùm lức. Đất quê nhà cũng thương những đứa con xa như tình thương của ba má vậy.

Nhưng năm nay bông so đũa đã nở trắng bờ rạch, bờ mương, mùa cá cũ thôi không còn nữa. Ba nhìn ra cánh đồng sâu hút, tối mênh mông, gió mênh mông nghe lạnh lòng quá mới nhắc: năm ngoái cữ này mình nhậu mệt nghỉ bà hén. Má cười, ờ ờ.

Má nhớ bữa làm đìa nhà Tư Nổ, má với mấy "ní", mấy chị sui xỉn quá trời đất. Nghĩ, đàn bà con gái xứ này thiệt hết biết, uống rượu còn hơn đàn ông, nhậu xình xang còn bày đặt nhảy nhót cà dựng (chớ có biết rumba, chachacha... gì đâu). Nhắc lại còn nghe mắc cỡ quá chừng. Hôm đó mặt mày má đỏ gay, đầu tóc đầy vảy cá, già thở không ra hơi mà ca vọng cổ ngời ngợi. Ra về ba còn chọc, tui thấy bữa nay bà đẹp hơn mọi bữa à đa. Má cười, ông già quỉ...

Nhắc lại, ba nói mùa đìa năm ngoái là mùa vui nhất mà cũng buồn nhất vì đó là mùa đìa cuối cùng. Bà con bàn ran chuyện năm tới Rạch Mồ Côi chuyển qua nuôi tôm, nghe nói người ta bên Năm Căn, Ngọc Hiển nuôi tôm ai cũng cất nhà tường. Xóm Rạch mình còn nghèo quá, chỉ hai vụ lúa với một mùa đìa, ai có vườn rộng trồng cải trồng bầu được thêm chút tiền huê lợi nhưng đâu vô đó hết, sống đắp đổi không dư, bây giờ Nhà nước cho nuôi tôm thì mừng chứ.

Hôm đó chỉ có ba má là bần thần, hồi nào giờ cây lúa cũng chung thủy với mình, bây giờ quay mặt với nó, không lẽ tệ vậy. Má nói vậy rồi năm tới mình có tụ lại vui như vầy không. Được chớ, Tư Nổ cười khà khà khà, nghe nói nuôi tôm một năm bằng chục năm làm ruộng đó, năm tới tui xây nhà lầu, bà con kéo nhau lên sân thượng nhậu tép luộc mát trời. Mà hỏng chừng tui còn sắm tivi màu, đầu máy video, sắm điện thoại di động - Tư Nổ ngẩn ra, nước miếng chảy xuống chỗ môi chẻ thâm sì - tướng tui mà cầm điện thoại di động coi sang lắm nghen.

Ba nhớ lời của Tư Nổ hoài, vì anh đã vẽ bức tranh tôm mù mịt thành những điều rất thật, thật như đang rờ đụng vậy. Vậy mà... đêm hôm qua ba rượt Tư Nổ qua mấy cái bờ mới túm được anh, cả hai loi ngoi ướt, ngồi trên bờ. Tay vẫn còn nắm cái áo rách te tua của anh Tư, ba nhắc câu nói xưa của anh, không sai một chữ. Anh bật khóc, khóc vì cùng đường đi đổ lúa trộm tôm vuông ba bị ba rình bắt, hay khóc vì thương tiếc mùa xưa.

Rồi vợ Tư Nổ chạy lại, chỉ biết lí nhí xin tha cho chồng, chị nói hồi này tôm tép không có, tụi con khổ quá, bần cùng quá chú thím ơi... Má ngậm ngùi, người phụ nữ này năm trước một tay câu eo ếch má còn tay kia cầm cây chổi nhảy cà tưng, sao giờ tới nông nỗi vầy...

Bốn người ngồi với nhau lặng lẽ, hồi lâu, day qua chị Tư Nổ má nói thôi coi như là lá lành đùm lá rách, rách ít đùm rách nhiều, rách nhiều đùm rách nát, bây biết mà tao cũng nghèo. Rồi má trút mớ cá phi rộng trong xô ra giỏ, giúi vào tay chị biểu chị đưa chồng về, kiếm đồ khô mà thay để vầy cảm lạnh chết.

Lúc vô nhà thấy cửa mở toang hoang, cái lư hương không cánh mà bay mất. Ba má tỉnh rụi, không phải hô hoán lên làm chi, hôm rồi mất ông Tà ngoài miễu, hôm trước nữa thì mất cái lon cặm nhang trên bàn thông thiên. Ba cười buồn, mai là tụi nó trả lại, tụi nó mượn để cầu số chớ đâu. Tôm chết hoài cũng buồn, nên rủ nhau đánh số đề chơi, may ra...

Nhưng may thì ra rủi lại vào, xóm Rạch Mồ Côi vừa tiễn đưa một gia đình ly xứ. Chú thím Chín bên kia rạch thua sạch nhà cửa đất vườn, xuống ghe bắt đầu một cuộc nổi trôi; hôm ra bến chú mếu máo nắm tay ba: biết chừng nào vợ chồng tui mới gặp lại anh chị sui để tụi mình nhậu với nhau tối trời đất.

Phải hôm đó có mưa là cảnh mủi lòng y hệt trong phim. Bây giờ ba vẫn thường đứng nhìn phía nền nhà của bạn, cái nền phèn váng trắng, xốp như nước đá bào, bên phải vẫn còn nguyên chỗ cầu ao, nước mặn ngấm vào, nước trong thấy đáy, chẳng có bông súng nào mọc ở đó, chỉ thấy rong nhớt xanh dờn trôi lình phình.

Xóm Rạch bây giờ buồn, chẳng có cái gì để vui chung với nhau như hết mùa lúa, như xong hội đìa, như năm cũ. Người trúng tôm thì lẳng lặng không dám khoe (vì sợ trộm), người không có trao tráo khấn vái trời. Hễ mười vuông thì thất bát hết bảy vuông, vì không ai hiểu rành con tôm hết, không ai biết con tôm nó đỏng đảnh cỡ nào, vậy mới khổ. Nước mặn thấm vào vườn tược trụi lơ, xơ xác hệt như vừa qua bão, cây trái teo héo, chặt năm trái dừa mới được một ca nước, cọng cải lá rau, trái ớt, trái bầu... cũng phải mua.

Nửa đêm nằm nghe người nào đó ca văng vẳng ở mấy chòi trên, giọng sao buồn rượi vậy. Quê xứ như cô con gái trót lỡ "khôn ba năm, dại một giờ", bắt đầu nhớ tiếc vì mình đã đứng núi này trông núi nọ. Ba nhìn má qua ánh đèn chong leo lét, chợt giật mình: đôi gò má của người vợ hiền năm ngoái còn hồng vì rượu, nay đã seo sắt quắt queo vì trơ trọi dưới nắng và gió trời. Hồi lâu ba nói: tiền bán tôm mót hổm rày được bao nhiêu bà, sớm mai này bà ra chợ huyện lựa mua một ít cá rô mề, mốt là thằng Út về phép, nấu cho con nó nồi canh chua cá rô bông so đũa, tội nó...

Má gật đầu, khẽ hớp một ngụm trà, thương đắng đót đám con xa nhà; tết này, ừ tết này con của má về, mà má ba chẳng có gì cho tụi nó.

Sớm nay, trà vẫn pha nửa vốc tay như mọi bữa mà sao nghe đắng quá vậy nè?

Nguyễn Ngọc Tư

.
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeWed Aug 19, 2015 8:00 am

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận 9k=

Tiều tụy vòng quanh

Nguyễn Ngọc Tư

Nhiều năm trước, ở ngay chỗ tôi nhìn người đàn ông cất vó sông, chính ông cất vó khi ấy vẫn trẻ ranh hôi nắng, cũng đang ngó cha mình cất lên một lưới đầm đìa nước.

Đó là một thằng nhỏ háo hức. Không ngóc ngách nào của làng cổ mà nó không thò mắt mó tay vào. Nghe gà gáy, nó biết trúng phóc gà nhà ai, nhìn sợi mưa nó đoán nước sông Châu ngập đến mức nào ở chân cầu, và có bao nhiêu tường vách thâm sì của những ngôi nhà trong làng cổ được rêu lợp kín. “Phải cuối tháng chín rêu mới trổ bông”, đôi khi du khách gặp một thằng nhỏ móc chân treo ngược trên nhánh cây bảo vậy. Rêu thơm dậy động chỉ ít ngày là hết, cậu khoe thêm, thơm tới nỗi ông Út Gù mất ngủ, cả đêm cứ lội bộ lang thang, tru từng chập hệt chó rừng.

Vài cái tên người làng thường xuất hiện ơ hờ trong câu chuyện của thằng nhỏ, như những cái bẫy vô hại. Khách tò mò, lỡ miệng hỏi ai là Út Gù, tức thì thằng nhỏ sẽ làm màn ảo thuật để ông già bên xóm hiện ra. Nó kể vanh vách từ đời bà cố lũy người đàn ông tật nguyền ấy, tên những con chuột ông nuôi bằng thịt mèo, và ý nghĩa của những chữ khắc trên thềm đá trước nhà ông, món cá hũn hĩn kho quéo ưa thích. Như thằng nhỏ đã nuốt trộng cái làng cổ này, giờ ai hỏi tới đâu nó thuộc làu tới đó.

Nhưng với một đứa háo hức tràn ra mắt, không bao giờ nó ngừng thòm thèm, thôi cảm thấy đói ngấu những thứ mới mẻ của cuộc đời. Khi những mảnh ngói trong làng không còn gợi cái ý nghĩ dưới đó giấu một lá bùa, dưới ngói chỉ là một viên ngói khác, hay miệng giếng này không dẫn đến kho báu mà đến những bó xương gà, thằng nhỏ chạy theo du khách để háo hức trong đó đừng chết đói. Một hướng dẫn viên tận tụy, chẳng bao giờ xòe tay đòi tiền, bù lại, thằng nhỏ biết nước dừa ở Maidives ngọt y như xứ nó, ở Yukon đá bào chất đống ngoài đường, và người da đen máu cũng đỏ như thường. Họ có dình dàng bằng ba người làng bó lại, mắt nâu hay xanh, khi xước da họ cũng nhăn mặt, rớm nước mắt. Và họ luôn luôn vô tình làm thằng nhỏ đau.
- Ở chỗ tao, có cái tháp cao gấp hai chục lần cái gác chuông này.

Giỡn hoài, cái tháp chuông này cao nhứt hạng rồi, thằng nhỏ phải mất nửa tiếng mới trèo lên tới đỉnh tháp. Ở đó có thể nhìn thấy từ đầu đến cuối làng, vượt mắt qua những khu vườn ra tận giữa sông Châu, nơi có vài cù lao hoang tháng chạp bông lau lợp trắng. Nhưng khách chứng minh cái tháp chuông mà thằng nhỏ tôn thờ chỉ là muỗi, khi khoe tấm hình ngọn tháp xứ họ lên đèn ngay bên cạnh trăng sao.

Thằng nhỏ không làm sao hình dung nổi cái thứ cao hơn gấp hai chục lần tháp chuông làng mình. Nằm ngửa, tâm tưởng cậu lấy tháp này chồng lên tháp nọ, nhưng luôn bị mất mối nối giữa chừng. Nó rã rời trong cái ước muốn tận mắt nhìn ngọn tháp ngạo mạn chọc ngoáy vào những bó chớp, như những lần tuyệt vọng muốn sống trong một đêm Bắc Âu trời vẫn sáng trưng, hay nếm thử thứ trà khiến người ta luôn mơ thấy mình bay.

Những lúc đó, thằng nhỏ ra chỗ chân cầu ngồi nhìn cha mình cất vó. Cái bộ điệu lơ tơ mơ khi người đàn ông vươn vai kéo gọng vó lên làm phiền nó hết sức, cả cách ông lơ đãng chẳng thèm dòm ngó đám tôm cá quýnh lên trong lưới. “Phải mình là mình coi có con cá lạ nào lạc vô không”, nhiều lần nó nghĩ vậy. Nhưng cha nó không thèm những tặng vật của dòng sông, mỗi tháng ông nhận được khoản tiền lương cho công việc này, vậy là đủ. Cứ mười lăm phút ông cất vó một lần cho du khách đứng coi, chụp hình. Rồi rít một hơi thuốc, ông già buông cái vó cho ngập miệng vào sông, kệ tụi tôm cá trong lưới thong dong đi mất. Thằng nhỏ ngờ là cái tính háo hức của mình chắc là di truyền từ bà mẹ xưa giờ chưa từng thấy mặt. “Nhưng phải có ai đó đẻ mình ra chớ”, nó nghĩ vậy, và bà mẹ tồn tại trong nó bằng cách ấy. Hỏi cha thì ông nói, “đất nẻ đẻ mày”, rồi bỏ ra chòi vó.

Một ngày làm việc của ông kết thúc, khi chuông nhà thờ đổ, và làng mở những bản hòa tấu quen thuộc, thứ nhạc cả chục năm nay không đổi, phảng phất tựa khói nhang. Cất vó, khép cửa chòi, trên đường về nhà ghé tiệm mua xị rượu, và lấy rượu chườm ướp cho men Xiêm ngấm vô chiêm bao. Thằng nhỏ sinh ra đã thấy nhịp sống tẻ nhạt của cha mình, đến la rầy con cũng chẳng câu nào mới, mười bốn năm trời chỉ ba chữ “đồ con hoang” mà trên miệng ông đã mất dần cái âm sắc nhọn và độ rền của sự giận dữ.

Cậu nhỏ cảm thấy phiền, bởi người cha diễn trò cất vó ngoài sông, bởi dì The hát ầu ơ cho tụi búp bê nằm võng vang cả phố trưa, cũng là diễn cho du khách khúc ca để họ chạnh lòng quay lại chơi ở cái làng nửa thế kỷ trôi qua vẫn cổ. Thằng nhỏ cũng chịu hết xiết người làng cả ngày lơ đãng, kệ khách lại qua trước tiệm lụa nhà mình, nếu không có cái quạt ve vẫy trên tay thì chẳng khác nào tượng đá. Ngay những đứa cùng trang lứa với nó như con Hương cũng tự buộc tuổi mười bốn vào khung dệt chiếu, chắp trân đố có mắc lỗi nào. Những trưa đi theo cái bóng của chính mình dọc theo đường chính của làng, không khí êm đềm đến nỗi thằng nhỏ thở không ra hơi. Nó cảm thấy mình sắp chết tới nơi.

Một bữa, thằng nhỏ nhảy chuyến tàu sớm rời làng. Nó biết chị Cẩm sẽ đứng bên đường ray vẫy tay, như hai chục năm nay sáng nào nghe còi tàu đằng xa chị cũng bổ nhào ra chào người cha đã bỏ đi hồi chị còn ẵm ngửa. Dưới những tia nắng non chiếu xiên, những nhánh tay khô khằng của chị chói lên trong cái chào mà thằng nhỏ tự vơ vào cho mình.

Rồi một xế trưa của mười bốn năm sau, cũng chị Cẩm vẫy đón thằng nhỏ trở về. Chị không già đi mấy, nhưng thằng nhỏ háo hức ngày xưa giờ trở thành một gã đàn ông sạm nắng, áo sứt nút, tóc phủ vành tai, ẳm theo đứa nhỏ nói chưa sõi. Gã không kể mình đã đi đâu làm gì, kể từ biến mất trong toa tàu sáng ấy. May thì lúc say, trong bữa giỗ hay cuộc nhậu xình xang, khi nghe ai đó nhắc tới một thị trấn vùng biên mịt mù, gã buột miệng “chỗ đó thiếu chút nữa là tôi đâm chết con Phấn”. Mọi người đoán Phấn chắc là vợ gã. Nhìn hai trái chanh chai sần trên bàn tay, nghĩ mười mấy năm qua chắc thằng nhỏ chạy xe ôm hay xe tải, xe đò, mấy công việc rày đó mai đây. Thấy sẹo vết chằng chịt khắp người nghĩ gã chắc va chạm nhiều để kiếm miếng ăn. Ngó thằng người thừ lừ ngồi ngoài thềm, ruồi bu không đuổi, mắt đổ ghèn không dụi, biết lòng đã hết háo hức rồi. Giờ trộn gã với người phố cổ, sẽ không dễ nhận ra bởi cái thờ ơ ăn lan trên gương mặt, ánh mắt.

Sáng thứ hai từ buổi đặt chân về làng cổ, gã đi tới nhà chị Cẩm dúi con vô lòng chị, biểu “từ giờ giữ con cho tui”. Chị nói “mười tám phút nữa tàu qua”. Gã dặn “thằng nhỏ ăn gì cũng được, cho húp nước cơm vẫn sống như thường”. Cẩm vuốt mái tóc đứa nhỏ khét nắng, lại nói “cha có nhìn thấy mình không ta?”. Năm ngoái, có anh lái tàu mủi lòng trước những cái vẫy tay, đã tìm tới và rủ Cẩm đi, nhưng chị nói tàu sắp qua, chị phải vẫy chào cha, đi thì sợ chạy về không kịp.

Tay lái tàu ấy sáng nay chắc vỡ mộng khi thấy chị Cẩm bồng trẻ nít đứng chào bên đường ray. Hình dung đó làm cho cha của đứa nhỏ hài lòng.

Thằng người lừ đừ ra chòi vó, chậm rãi đái một phát như chó đánh dấu lãnh thổ, và nói với ông già, từ giờ chỗ này của tui. Đồ con hoang, ông già chửi, rồi xách chai đong rượu về. Thằng con hút xong điếu thuốc, búng tàn lại sau lưng, hững hờ cất vó, không đếm xỉa coi có gì ngoài rác nằm trong lưới. Sông Châu giờ cũng chảy bâng quơ cho có, nhìn nước bằng mắt thường khó biết được nước xuôi phía nào.

Bóng in mặt sông, gã đốt điếu thuốc mới, nhả ra mớ khói lờ đờ như hút thuốc cũng là một phần của hợp đồng công việc. Từ giờ gã bắt đầu đi vào những khung hình, trở thành nhân vật chính trong những bức ảnh mang tên “yên ả”, “thanh bình” hay “cất vó” (mặc dù trong ảnh cũng rành rành là cất vó).

Và tôi, đứa con trai được ba mình mang về từ chân trời, được má Cẩm gói giấc ngủ vô cánh tay xương xẩu, tuổi mười ba rún đã bắt đầu thốn đau bởi tiếng còi tàu, nhìn nước ròng ròng chảy xuống lưới vó, nghĩ, rốt cuộc cái làng này còn cầm tù mình bao lâu nữa?

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận 9k=

Khách


Có vài cuộc gọi về nhà kết thúc sớm hơn, mẹ có khách. Tụi nhỏ không phiền vì ngưng chuyện giữa chừng, lại mừng. Nghĩ khách tới chơi nghĩa là đời sống của mẹ ở quê không đến nỗi quạnh hiu, vắng con nhưng mẹ vẫn có nhiều niềm vui khác. Ý nghĩ đó làm cho những đứa nhỏ xa nhà thấy nhẹ lòng, giờ này mình thì tiệc tùng vầy, còn mẹ chỉ mình ên.

Hồi tụi nó còn ở nhà, mẹ cũng nhiều khách tới thăm. Một mình gánh ba con, nhưng người đàn bà góa chồng chẳng cách nào làm cho duyên đừng sóng sánh trong đi đứng, nói cười. Khí chất đã vậy, mặt nám tay chai cũng không ngăn nỗi đàn ông theo đuổi. Có ông thầy giáo hay ghé nhà, nhẹ tựa mưa. Tròng trành ngồi bên thềm ướt, nói chuyện ba khơi kiểu như Sáu ơi, ngoài vườn măng chắc sắp mọc rồi, mà không hiểu sao nước sông mấy bữa nay đục quá. Lại có ông thợ rèn, tóc tai bốc khói như đá trời vừa ngùn ngụt đi qua khí quyển trái đất. Không nói, chỉ nhìn, cái nhìn như hóa lỏng người đàn bà mà ông thầm yêu. Một ông khác thì xộc vào tận bếp, thay bóng đèn, đóng lại bản lề cánh cửa. Ông này thẳng đuột, bảo Sáu ưng tôi đi, còn trẻ ở không chi cho phí. Lại có ông chống nạnh đứng ngoài sân, nói tụi mình bạn bè từ hồi ở truồng tắm mưa, tánh nết đã thuộc lòng, Sáu mà đi thêm bước nữa thì lấy tui cho đỡ mất công tìm hiểu.

Mẹ được nhiều người mê, tụi nhỏ cũng hưởng lợi. Khách hay mang bánh kẹo, không thì cũng mấy trái mận, trái xoài. Ăn của người ta mà không giúp cũng kỳ, nhưng tụi nhỏ cứ khen ông nào hay thì mẹ cũng gạt đi, mùa này xơ ri chín rộ phải hái cho kịp, mương vườn cạn phơi đáy phải đào, đậu rồng đâm ngọn phải làm giàn cho chúng, nói chung là lu bu lắm, đâu rảnh. Lần hồi, cho đến bữa đứa con nhỏ nhất đón xe đò khăn gói xa nhà, mẹ vẫn một mình. Nhìn vào kiếng chiếu hậu, là mẹ đứng sau đám bụi, chấm áo tím trên nền xanh gờn gợn.

May mà mẹ vẫn có khách tới chơi, tụi nhỏ hài lòng. Những người sớt bớt nỗi cô độc của mẹ, chắc là mấy thím bên xóm hay để lại dấu răng trên những câu chuyện dông dài ai đó chửa hoang ai đó bỏ vợ theo trai, ai đó vừa sinh bảy. Họ hàng từ xa xôi cũng đổ lại, ngồi kiểm đếm coi chế ba chú bảy ai mất ai còn. Mà biết đâu, mẹ vẫn còn nhiều ông mê lắm.

Một bữa tụi nhỏ về, chứng kiến mẹ dưng không ới lên rồi te te đi mở cỗng. Khách của mẹ là ba con vịt xiêm, bộ điệu khệnh khạng xem chừng ghé chơi thường lắm. Ăn xong mớ đầu tép mẹ dành cho, bọn nó lại hể hả ngoáy đuôi ra về.

Khách của mẹ còn có con mèo mướp, thường xuất hiện bất ngờ với cái bụng chửa, rồi một bữa biến mất chẳng rõ đi đâu. Lá khô thì táo bạo hơn, xộc vào đến tận góc buồng ngủ, chỗ mấy con dế thường đến gáy. Và mưa đêm, luôn để lại những dấu chân trong suốt ngoài thềm.

Những người bạn láng giềng của mẹ lớp bán nhà dời đi chỗ khác, lớp nằm đau. Xóm ngoại ô chóng mặt với những hàng quán mọc lên, những giọng nói vùng miền xa lạ khác. Người thì đông hơn, nhưng không hẳn vui hơn. Tiếng cỗng đóng rền rĩ vào mỗi sáng. Nhà mẹ vắng dần tiếng người và mặt cười.

Hỏi sao không thấy mấy ông mê mẹ, bà nhẩm đếm hao hụt hơn một nữa rồi. Ông thì đột quỵ, ông thì ôm trong bụng khối u (phải ôm một khối tình, cũng đỡ). Còn mỗi ông thợ rèn mạnh giỏi, vừa rồi có ghé nhà, vẫn bốc khói như rớt xuống từ trời. Gặp mẹ, ông hỏi cô Sáu có nhà không, nói một hồi mới tin người muốn tìm đang ở trước mặt. Từ bữa tới giờ không thấy quay lại nữa, chắc đang tiếc đôi cánh đã cháy rụi trong lúc bay đi gặp người xưa. Cánh không còn để trở về trời, mà chỉ gặp mỗi một bà già teo héo.

Vừa kể mẹ vừa đi rửa mấy cái ly đầy bụi, rót nước râu bắp bưng cho tụi nhỏ. Phổi của những đứa con như cứng lại, thấy khó thở với cái cách mẹ đặt ly xuống bàn, xua tụi nó uống đi nước mát lắm, cách mẹ vừa lau mặt bàn vừa phân trần như một thói quen, có một mình nên nhà cửa cứ tèm lem, bỏ qua nghen.

Tụi nó, giờ làm khách của mẹ mình.

Nguyễn Ngọc Tư
(từ: sầu riêng)
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeThu Nov 19, 2015 12:02 am

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Images?q=tbn:ANd9GcQ0MRhqG9GerJSUABBewPCV8fgRGAQfWyy83AI0lbVDE2-w6uVwiA

Chuồn Chuồn Đạp Nước

Nguyễn Ngọc Tư

Nhỏ con tham gia một gameshow, cha là người trợ giúp. Câu hỏi như sau: người ta hay nói chuồn chuồn đạp nước, vậy câu ấy mô tả trạng thái nào của chuồn chuồn?

a. đẻ trứng
b. tìm kiếm bạn tình
c. đói
d. sắp chết

Ba mươi giây bắt đầu. Cha nói, b là trúng phóc. Nhỏ con hỏi vặn vẹo, chắc hôn nghen. Cha hơi tự ái, chắc chắn trăm phần trăm. Cha biết đoạn trò chuyện này sẽ được phát trên truyền hình toàn quốc, nếu không dằn mặt nó thêm vài câu nữa. Nhỏ con trên trường quay ngần ngừ, nó chọn thêm một quyền trợ giúp nữa, lần này họ lọc lại chỉ còn hai phương án, nhỏ con hú vía, b và d bị xóa trắng. Nhỏ con chọn a, nó lý luận với ông dẫn chương trình, chắc lúc đói chuồn chuồn không còn sức để đi đạp nước đâu. Nhờ kiểu suy luận cùn đó mà những câu hỏi sau nữa nó tự tin vượt qua, cầm tấm séc mười lăm triệu mừng quýnh vẫy tay chào khán giả.

Đó là một ngày tháng chín gió giành ngọn dữ dội. Nam chưa đi mà chướng đã tới thổi cheo heo. Hai cha con rời trường quay, ở bãi đậu xe, nhỏ con nói, phải con nghe lời cha là tiêu tùng rồi. Cha ậm ừ chống chế, lúc đó quýnh quá mà. Trên đường về nhà gặp lúc triều cường, cha phải chạy vòng qua ngã khác để tránh con đường bị ngập nước, nhưng ở vòng xuyến cha lại quẹo phải, nên lạc đi xa. Nhỏ con muốn mau về nhà để cùng mừng tưng bừng với mẹ nên kêu lên, cha đi đường này chi cho xa vậy? Cha thắng nhủi đầu xe, dục dặc, lâu nay chạy lộn đường hoài, bộ không biết sao mà còn hỏi tới hỏi lui!

Nhỏ con chưng hửng không hiểu vì sao cha quạu bất tử. Nhưng nó đang ngây ngất với món tiền thưởng nên không để bụng buồn lâu. Cha nghe nhỏ con im re đằng sau, cũng cụt hứng, lặng lẽ chạy miết. Hồi lâu nghe nhỏ con lại khều khều bên hông, cha mới hay mình đã chạy qua khỏi nhà chừng hai ba mét. Tẽn tò quay lại, nhìn hai mẹ con họ nhảy cà tưng dưới cánh cổng chấp chới những bông huỳnh anh, cha hoàn hồn, nếu khi nãy chiếc xe bị ngập bugi tắt máy giữa chừng, không biết mình có xô ngang bỏ lại bên đường sau khi đá vô chiếc xe mấy cái.

Bữa cơm tối đó cha ăn một cách ngượng ngập. Gắp cho nhỏ con cái đùi gà chiên nước mắm, mẹ nói mẹ phải đi mấy cái chợ mới mua được gà thả vườn, cha mới nhận ra trên mâm có thịt gà. Một cơn khó chịu nào đó đầy ứ trong cổ họng cha, vợ không gắp cái đùi gà còn lại cho mình, chuyện này chắc có liên quan tới vụ chuồn chuồn đạp nước mà nhỏ con kể lúc chiều. Khi đó vợ đã cười ngặt nghẽo, vậy mà ba mầy toàn viết văn dạy đời thiên hạ. Cha chép miệng, con người là con... người, cũng có lúc lẫn lộn, em cũng mang dép lộn hoài đó.

Nhưng cha biết mang dép lộn không thể xếp chung với chuyện chuồn chuồn đạp nước. Cha nghi ngờ đáp án của chương trình, nói gì chứ, trong khoảnh khắc ở trường quay và ngay khi nằm trên ghế bố trong phòng, cha thấy hình ảnh con chuồn chuồn đang vào độ tuổi yêu, khao khát bạn tình, cô đơn soi bóng mình trên sóng nước là quá chừng có lý. Cha vùng dậy, chui xuống gầm sàn lục tìm cuốn sách Từ điển tranh về các con vật mà tháng trước dọn dẹp cơ quan cha quẳng về nhà. Cuốn sách mất tăm. Chỉ có một đống rác, cha cằn nhằn, nhà có hai người phụ nữ mà dơ dáy như vầy, thiệt hết chịu nổi.

Cha mặc quần áo xách xe đi, mẹ cầm cây chổi nhìn theo cái lưng dài thượt của cha tự hỏi tại sao bữa nay mình bị nhằn bởi vài tấm giấy báo. Đi nửa chừng, cha vẫn không biết mình đang đi đâu. Rút điện thoại gọi cho ông bạn, rủ ra quán văn nghệ, câu đầu tiên khi bạn kéo ghế ngồi là:

- Chuồn chuồn đạp nước là nó đẻ hả mậy?

Ông bạn gật đầu cái rụp, không mảy may suy nghĩ như đó là chuyện đương nhiên mặt trời mọc ở đằng Đông.

- Ừ, bộ mầy chưa biết hả?

Cha muốn hất ly bia đang uống vô mặt bạn. Ông này làm thơ, dân làm thơ ngu ngơ trên trời với mây gió, vậy mà ông biết chuyện sinh đẻ của chuồn chuồn. Còn cha thì không. Cái ý nghĩ đó làm cha nẫu nê, bia ngon bao đời nay bỗng dưng đắng đót. Ông bạn nghe kể lại chuyện ở trường quay, ông cố làm ra vẻ mặt nghiêm túc để nén cười, để nói một câu nghiêm túc:

- Thôi bỏ qua mầy ơi, đâu phải cái gì người ta cũng biết hết.

- Ừ, nhưng không biết vụ này thì mất mặt quá, mậy.

Ông bạn nhà thơ cười ha ha:

- Quan trọng là người ta trong mắt mình như thế nào. Tao thấy mầy cứ mệt mỏi vì chuyện mình như thế nào trong mắt người ta.

Nhưng đây không phải là người ta, đây là vợ và con mình, cha nghĩ vậy nhưng không còn hơi sức để cãi. Cha về nhà và ngủ một giấc với hi vọng, khi thức dậy sẽ quên cơn ác mộng mang tên con chuồn chuồn này, thức dậy với một bình minh khác.

Và đó thật sự là một bình minh khác. Lúc cha bước ra khỏi phòng với cái đầu đau như hôm qua đập vào đá thì con gái cũng dắt xe đạp tới trường, con gái mặc cái áo dây mới mua bằng tiền thưởng, cha ứa gan với cái khoảng vai trần nhỏ nhắn của đứa con gái mười chín tuổi.

Cha định cằn nhằn thì những con chuồn chuồn bỗng chao liệng, khiến cha nghẹn ứ. Cha hình dung nhỏ con sẽ trả lời như vầy, áo kiểu này bây giờ là mốt đó, con thấy cha không biết gì hết, chuồn chuồn đạp nước còn không biết thì biết gì. Hoặc giả con nhỏ sẽ không nói, nhưng ánh mắt nó nói trong lúc quay lại thay áo khác. Cha sợ điều đó, cha đứng trong phòng tắm và ngậm bàn chải rất lâu, đờ đẫn đến nỗi nuốt hết mớ bọt kem đánh răng trong miệng. Mẹ nói vói vào, Duyên Anh tính mua dàn vi tính mới cho anh, chớ máy cũ chập chờn có ngày bản thảo mất hết. Cha ỉu xìu, thôi, xài máy đó quen rồi, có cái gì lạ mất hứng viết. Mẹ gạn hỏi, giọng gì nghe như chết rồi vậy, anh có bị sao không?

Không, cha không bị sao hết, không có vết xước nào dù tối qua trong trạng thái mụ mị trở về nhà. Bữa nhậu thằng bạn trả tiền. Cha không mất gì nhưng thấy mất gì đó. Cha tới cơ quan và bỗng cảm thấy hụt chân như những bậc thang biến đâu rồi. Anh tài xế bước vượt lên, cười hỏi, bữa qua nhậu dữ lắm sao mà sáng nay thấy anh khờ ịt vậy? Cha lượng sượng ờ ờ. Một tháng sau, khi cái gameshow có nhỏ con thi được phát sóng trên truyền hình, anh lái xe sẽ kín đáo cười với cô thủ quĩ ế chồng khi thoáng bóng cha qua cửa, thấy tướng vậy mà cũng dở òm. Hàng chục triệu dân trên đất nước này sẽ biết người viết ra những trang văn đầy góc cạnh nóng bỏng, thấu đáo mọi sự được mất, triết lý sâu xa, là một người mất căn bản trầm trọng về... chuồn chuồn.

Buổi chiều lại, cha không vào cơ quan, cha chạy xe về quê. Cha ngồi trong khoảng vườn đượm nắng chiều, nơi cha vẫn thường về khi mệt mỏi hay căng thẳng, tuyệt vọng, nhìn chuồn chuồn đậu trên đám chà trong ao, cào cào búng trên những bụi cỏ ống, mấy con ong ve vãn bông đậu bắp. Bây giờ thì cha nhìn đăm đắm nấm mộ của bà nội, cha rầu rĩ, phải má không chết sớm thì chắc mình đã biết vụ chuồn chuồn đạp nước rồi. Thành ngữ được lưu truyền trên môi những bà già quê mà.

Cha ở với đám chuồn chuồn, cào cào, ong mật suốt cả cơn nắng tắt, nghĩ mông lung, tụi chuồn chuồn cắn rún mình không biết bao nhiêu lần sao không đẻ cho mình thấy, hay là mình đã từng thấy nhưng cuộc sống thành thị khiến mình quên đi, tại sao không quên chuyện gì khác mà quên chuyện chuồn chuồn đạp nước?

Có quá nhiều chuyện nhân tình thế thái mà cha không quên, có nhiều thằng cha xỏ lá cà khịa đâm sau lưng cha, đáng lẽ nên quên để cười trọn nụ, để đời nhẹ nhõm mà cha không quên, thì sao lại quên vụ này? Cha thẫn thờ trở vô nhà đúng lúc chú Út cà xình cà xang từ đằng xóm về, chú say. Cha đã viết cả một tiểu thuyết dài về đứa em này, một điển hình của sự thoái hóa ở nông thôn. Những sòng nhậu đông đúc, những người nông dân bị mất cảm giác về đất, những bạo hành trong cơn say. Cuốn sách đó cha có đem về nhưng chú không đọc, mà nếu đọc thì chú cũng chẳng hiểu cha đang viết cái gì.

Cuộc đời cha là một sự cao quí xa vời đối với chú Út. Nên thấy mặt cha, chú lấm lét, cố vịn vách để đứng cho vững, để chứng tỏ mình chỉ uống chút xíu thôi. Bình thường, cha luôn ở trước mặt em mình với tư thế đĩnh đạc, miệng thì gầm gừ, mầy hư kiểu này ba má dưới chín suối làm sao yên được. Bình thường thì thím đứng tựa bếp nhìn cái cảnh anh em rầy rà, thím thấy thỏa thuê, sung sướng. Thím hay bồng con ra chợ xã gọi điện thoại méc cha vụ này vụ nọ, thím nói bây giờ thì chú chỉ nghe mỗi mình cha thôi.

Nhưng cha hoàn toàn câm lặng, chiều nay. Cha nín thinh ngó chú đang trùng trình bên vách, rồi lủi thủi dẫn xe qua cây cầu tre cọt kẹt. Thím nguýt chồng, “đọ, sáng mắt chưa, nhậu nhẹt tới mức anh Hai giận bỏ về rồi kia”. Cha ngoái lại, tự hỏi, sau khi biết vụ chuồn chuồn đạp nước, không biết cô em dâu của mình có còn gọi điện nữa không?

Cha đã đi qua ba bảy hai mốt bình minh, luôn thức dậy với nỗi tuyệt vọng mình còn nhớ. Ông bạn nhà thơ thấy cha gầy sọp, la lên, “Trời đất, không chừng vợ con mầy đã đi khỏi cái trường quay đó rồi, sao mầy còn ở lại hoài chi cho khổ vậy?”.

Cha cũng muốn đi. Cha muốn quên nó đi, chuyện nhỏ như con thỏ mà. Cha nói thầm, ừ, quên thì quên, mình có phải thần thánh đâu mà chuyện gì cũng biết. Sai lầm chỉ một chút giữa a và b thôi mà. Cha về nhà, huýt sáo bài hát yêu thích để cho mình phấn chấn trở lại, ngồi viết một truyện ngắn về quan trường, “để trả lời câu hỏi của con, đấy có phải vũng bùn không mà ai cũng lấm lem khi bước vào”. Cha đọc lại câu dẫn nhập và nghĩ, từ bây giờ chắc mình không thể viết về nông thôn nữa. Cha thấy thấp thoáng những cánh chuồn chao liệng trên mặt ao bèo. Sợ phải nhớ chuyện mình đã cố quên, cha coi lại cái phim chân dung đài tỉnh làm về mình. Nhưng tới cái cảnh cha đang đọc bản thảo còn mẹ với nhỏ con thì ngồi gần đó, lắng nghe mê say, ánh mắt của hai người họ đắm chìm trong ngưỡng mộ, cha bỗng hoang mang. Bầy chuồn chuồn chấp chới trong lòng.

Cha nhớ có lần mình đốt con cúi lấy tổ ong vò vẽ trên cây khế, nhỏ con đã nhìn cha như một anh hùng.

Cha nhớ có lần dầm mưa sửa lại cái máng xối, mẹ đã nịnh nọt, “Nhà văn mà làm được mấy chuyện này không phải dễ kiếm à nghen”.

Cha nhớ hàng trăm chuyện vụn vặt như vậy. Nhưng bây giờ, cha có hái mặt trăng xuống thì cũng không chắc hai người phụ nữ đó có nhìn mình được như xưa, sau sự cố chuồn chuồn.

Cha bắt đầu vùi đầu vào sách. Cha đọc nhiều tới mức lên mâm cơm là nói vanh vách những hiện tượng thiên nhiên, lịch sử những kỳ quan thế giới, kết cấu của tầng địa chất, sự diệt vong của khủng long ăn thịt và voi mamut, nguy cơ của loài chim cánh cụt khi Bắc cực tan băng. Đặc biệt là chuồn chuồn và những gì có liên quan tới chuồn chuồn, thí dụ như “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm” (đám bạn của cha lúc nhậu sương sương ba mớ thì nhại vầy “Chuồn chuồn bay thấp thì cao, bay cao thì thấp, bay vừa thì thôi”). Cái đó thông dụng không tính, nhưng một bữa nhỏ con không có nhà, mẹ về hỏi Duyên Anh đâu, cha nhấm nhẳng, “lúc này chắc có người yêu hay sao, như tổ con chuồn chuồn”. Mẹ chưng hửng:

- Là sao? Hổng hiểu?

Cha cười mủm mỉm, ủa, hỏng biết thiệt hả, nghĩa là bí ẩn đó, có đời nào người ta biết hay người ta thấy cái tổ con chuồn chuồn làm sao đâu. Mẹ hứ một tiếng, trong mắt không hiện ra nể trọng gì, chỉ ánh lên mấy chữ, ông chồng ngớ ngẩn, ăn nói không giống ai.

Cha thấy tuyệt vọng với mớ kiến thức của mình. Buồn quá, lại gọi ông bạn nhà thơ ra quán quen. Đang nghe bạn đọc bài thơ mới làm, cha bỗng chột dạ, giờ này, trên kênh Khám phá đang có chương trình sự sinh sản của gấu trúc. Mình không thể bỏ lỡ, biết đâu nhỏ con lại cần mình trong một câu hỏi cắc cớ của chương trình cắc cớ nào đó, và trong lúc con bối rối, mình sẽ giúp nó đem về mười lăm, hai chục triệu gọn hơ.

Cha bỏ bài thơ giữa chừng. Về nhà đúng lúc tivi chiếu lại giây phút huy hoàng của nhỏ con khi nhận tấm séc. Cha chỉ tháo một chiếc giày rồi khập khựng nửa muốn vào nửa không. Nhỏ con càu nhàu, nói không thèm lên truyền hình nữa, nó không ăn ảnh lắm, mặt lại nhiều mụn, dòm không đẹp như ngoài đời.

Cha ra ngồi dưới giàn huỳnh anh, run rẩy châm thuốc hút, tàn đóm rụng xuống chiếc giày còn lại.Trời tối mịt, mà chuồn chuồn vẫn bay rợp lòng. Hay vì chuồn chuồn nhiều quá nên khiến trời tối mịt? Cha cũng không biết nữa.

Nguyễn Ngọc Tư
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeTue Nov 24, 2015 7:20 pm

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Images?q=tbn:ANd9GcR4HFbrJv9z_ShBijtg9xBITZiHl92X3BQOlCD6oSEWtrL6nsSa

Giữa Người Với Người

Nguyễn Ngọc Tư

Cuộc tình của em mẻ một miếng sau bữa bồ khoe ca trực tối qua có thằng trộm trâu bị đánh suýt chết, ngay lúc cấp cứu bồ kịp lấy điện thoại chụp cái ảnh thằng nhò nằm rúm ró tải ngay lên mạng xã hội, thiên hạ ào vô thích quá trời. Nhỏ em nghĩ bồ quên vai trò mình là y sĩ còn thằng nhỏ là bệnh nhân, nhưng sao có thể quên kẻ đang chịu đau đớn kia là một con người?

Chuyện đã cũ rồi, tình cũng thành tình cũ, nhưng em nói không bao giờ ghé lại ngôi nhà trên mạng của bồ, giờ cũng là một địa chỉ đông khách thăm. Em sợ lại gặp trên ấy gương mặt biến dạng của người phụ nữ bị chổng thiêu, bàn tay rụng đốt của một em bé bị bạo hành. Những con người buộc phải đến khoa cấp cứu trong tình trạng bên bờ sống chết, chỉ với điện thoại thông minh buộc vào mạng xã hội là thành một cần câu, anh y sĩ ung dung biến ca trực cùa mình thành buổi câu tín nóng hổi. “Và bằng mồi người”, em nói, không cười.


Hai chữ mồi người thịnh hành khá lâu, lúc những trang báo lá cải bắt đầu câu người đọc bằng những tình duyên, đường cong, rãnh sâu của diễn viên người mẫu. Lần hồi cũng lạt miệng, mồi câu không còn móc vào giới phù hoa. Đầu năm những người bán bắp luộc chết giấc với tin nồi nước luộc có pin đèn, cuối năm giới hủ tiếu gõ sập tiệm với tin nước dùng chuột cống. Mẹ em nấu chè dừa non bán, hổm rày lo rầu sợ mỏ báo thấy đăng tin chè bưởi có thuốc rầy, chẳng hạn. Tai bay vạ gió, biết đâu chỉ vì một người bán chè nào đó ở cổng trường thấy một cậu học trò chửi thề ghê quá, bảo ban nó mấy câu, ai ngờ nó để bụng về tung lên mạng cái câu ăn chè bưởi ngộ độc thuốc trừ sâu. Những trang báo đói ngấu chộp lấy, năm giây sau cả nước biết tin, tẩy chay món chè của bà già.

Em hỏi chị bạ gì cũng đọc, có chuyện nào truyền thuyết nào về cái sự người không ngó thấy người, kiểu như truyền thuyết Babel giải thích rằng bởi vì chúa trời trừng phạt nên chúng ta không nghe và hiểu nhau. Đâu phải tự dưng mà lịch sử thế giới triền miên những cuộc chiến vì tôn giáo, sắc tộc, màu da, nhìn nhau chi để nhận diện giặc hay ta. Điện thoại thương hiệu Mỹ, Hàn, hoàn toàn không mắc mớ gì tới chén cơm cúa mình đâu mà vẫn tung tóe những lời nhiếc mắng trên diễn đàn công nghệ. Một vụ cướp tiền giữa ban ngày, người ta chỉ thấy giấy bạc bay mà không thấy nạn nhân. Hôi bia cũng vì chỉ thấy bia lăn lóc ra đường.

“Tụi mình cứ như bị lời nguyền”, em nói. Biết đâu những bộ tộc trong rừng rậm châu Phi, họ đang lưu truyền một vài lời nguyền rằng người ta luôn bị che mất tầm nhìn bởi những bức tường vô hình, chọn bầy đàn này, nghĩa là chống lại bầy đàn khác, chọn tôn giáo này buộc phải miệt khinh người của tôn giáo khác. Đến và đi cùng lúc, trong cái cách người ta gần lại có ấn chứa sự xa nhau.

Ngay cả mạng xã hội, thứ dùng để chia sẻ, cũng đi bên lằn ranh chia rẽ. Nó giúp em tìm lại rất nhiều bạn học cũ, tham gia những chuyến từ thiện, quen và yêu anh y sĩ đẹp trai. Nhưng mạng xã hội cũng góp tay cho đường ai nấy bước. Mẹ em tiếc thằng rể hụt, nói tao thấy nó hiền queo, có gì để chê đâu. Em cười cười. Thí dụ một người thấy cô gái trèo thành cầu để nhảy sông tự vẫn, anh ta đắn đo không biết nên giữ cô lại, hay cứ để cổ nhảy và ta chụp ảnh đem lên mạng hái hàng trăm cái tặc lưỡi xuýt xoa. Cái đắn đo ấy, dù là trong khoảnh khắc, cũng đáng sợ.

Đến đồ chơi mà cũng điều chỉnh được hành vi con người, làm cho tình người xao lãng, động vật cấp cao coi vậy mà dễ tổn thương.


Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Images?q=tbn:ANd9GcSoTlLIFZ4ug7WOYlzWklgPxZrO4lVIK8V7jcNQl0loZ7HkMhFY

Có Còn Người Không

Nguyễn Ngọc Tư

Câu hỏi đó thằng nhỏ hỏi mỗi ngày mỗi ngày mỗi ngày, khi đói khát, khi bị đánh đập cấu nhéo, khi phơi trần ra dưới nắng mưa. Khi nó nằm trên mặt đường và kêu khóc khản giọng. Nó hỏi vào đám đông lướt qua nó, hỏi ai đó dừng chân cho nó (chính xác là cho những kẻ chăn dắt nó) chút tiền lẻ. Nó hỏi những kẻ bắt nó nằm lăn lóc kêu khóc trên đường để kiếm tiền, để nhởn nhơ ăn mòn tấm thân bé nhỏ non nớt của nó.

Nhưng tôi tưởng tượng thôi, trong lúc ngồi uống một ly cà phê mặn chát. Dường như cả quán hôm đó cũng có cùng cảm giác, sau khi giở tờ báo sáng, và nhìn thấy hình ảnh của thằng bé ăn xin. Nó nhỏ đến mức chỉ biết khóc. Ở truồng và khóc. Ướt và khóc. Bị đánh đau và khóc. Chấp chới giữa dòng người ngược xuôi đông đúc như con vịt con ngơ ngác mà người ta dùng để câu nhắp cá lóc. Em bé – con mồi sống không nói gì hết, mà tôi tưởng như nó hỏi, người ơi, người ở đâu?


Tôi đã nhận được câu hỏi đó bao nhiêu lần trong đời? Không đếm được. Có đứa thậm chí còn không khóc. Nó ngủ mềm oặt, xanh rớt trên tay người đàn ông ngồi ở một góc đường. Một kiểu ngủ mụ mị vì tác dụng của thuốc. Buổi tối tôi đi qua chỗ đó và em lại hỏi bằng vẻ câm lặng im lìm. Như cái chết. Có còn người không?

Đám đông không lên tiếng. Không Lục Vân Tiên nào, đại diện công quyền nào đưa cả hai con người rách rưới về, gạn hỏi coi có thật là cha con như gã đàn ông phân trần, hay chỉ là kẻ chăn dắt với con mồi. Em bé ngủ vì thuốc ngủ hay vì sốt cao? Em cần một mái ấm hay một bệnh viện cho qua cơn đau? Bàn tay mỏng đó không quá khó để người đời nắm lấy. Nhưng dòng người lũ lượt không ai dừng lại. Chính xác là cũng có người bước tới cho vào cái ca nhựa bạc màu chút tiền lẻ, nghĩ sau đó mình sẽ nhẹ lòng. Tôi cũng vậy, tự lừa mình. Và cái góc đường trước Trung tâm văn hóa thông tin ám ảnh tôi dai dẳng dù em bé chỉ ở lại hai đêm rồi biến mất. Cuộc ra đi gây bất an hơn cả khi xuất hiện, bởi linh cảm em lại vạ vật ở một góc đường khác, bị nhấn chìm trong giấc ngủ khác. Ngủ là một cách hỏi, người đâu mất rồi?

Cũng như những em bé ăn xin mà bất cứ ai cũng có thể gặp một đôi lần trên đất nước này, chúng gọi con người bằng nhiều cách, bằng ánh mắt thất thần, bằng vẻ ngoài trần trụi và lem luốc, bằng tiếng khóc, tiếng hát, bằng bàn tay bẩn thỉu xòe ngửa, bằng những vết thương bầm tím trên da thịt… Ai đó nghe thấy tiếng gọi đó nhưng họ bận rộn, sợ hãi, bất lực, cũng có kẻ không nghe, không cảm nhận gì hết…

Và những đứa trẻ đường phố vẫn tồn tại, như một phép thử.

Thử coi người ta bất lực, rụt rè, ngại khó bao nhiêu? Bao nhiêu người đã từng đi qua, chứng kiến những thân phận nhỏ bé khốn khổ. Dù ngoái lại, dù áy náy, dù thấy thương và bất an… nhưng chậc, mình lại phải đi rồi… Họ không làm gì mà kêu mấy ông nhà nước làm gì đi chớ…


Thử coi người ta đã tha hóa, độc ác và nhẫn tâm tới mức nào khi phơ phởn kiếm tiền bằng cách giày vò, đọa đày kẻ khác?

Thử coi nhà chức trách đã làm gì để bảo vệ luật pháp, quyền con người, quyền được sống được vui chơi? Trẻ con họ không che chở được, thì họ hô hào khẩu hiệu, tính làm chuyện lớn lao chi hả trời?

Một phép thử đau. Nhưng thử thách bao nhiêu lâu rồi, nhân tình thế thái đã bày ra đó rồi, chuyện muốn biết thì đã biết, đám trẻ vẫn chưa ngưng gọi con người. Vẫn chờ đợi ai đó đáp lời, chìa ra một bàn tay, một vòng tay ấm. Có điều, khi đó không biết chúng còn đủ sức để nắm lấy không?

.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeFri Jan 22, 2016 4:15 pm

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Images?q=tbn:ANd9GcSrR7tXopuzn0u4UAQgfQ-P7hNHze6gNiunndbuE1W9yYqMMtZZ 

Ngàn năm thắp lửa bên lề


Nguyễn Ngọc Tư

Ngay từ đầu tiệm đã không có bảng hiệu gì, sáu mươi bốn năm sau cũng không một chữ, nhưng người ta vẫn tìm được bánh mì cô Vẹn ở góc ngã ba Cây Bàng, vì khách xúm đông. Lại có một cách định vị khác, “thấy tiệm nào có bà già tóc trắng như đội bông bắc cái ghế ngồi đằng trước, cứ ghé là ngay chóc”. Nghe có vẻ đó là một tượng đá dính cứng vào vỉa hè.

Nhưng bà già đâu ngồi nín thinh như đá. Tay lúc nào cũng nhúc nhắc cây quạt, ở cái tuổi tám mươi ba, ánh mắt vẫn nhảy múa khi cười. Lá bàng chưa rơi tới đất bà đã chực sẵn để lượm rồi, khách vừa trờ tới, bà kêu luôn, “hai ổ xíu mại không bì nhiều ớt”, rồi day qua hỏi anh chàng vừa tắt máy xe, “má bây còn đắp thuốc đầu gối không ?”. Hai bên cũng không phải họ hàng gì, chỉ là mua bánh mì tiệm bà miết rồi quen, thuộc cả nết ăn, gia cảnh.  

Những người đứng coi tiệm thay cho bà già cảm thấy việc giao lưu với thực khách mới khó, nhất là khi làm không kịp thở, hơi đâu mà đưa chuyện. Những thứ thuộc về “kỹ thuật” như ướp tỏi qua đêm cho thịt ngon, khìa nước dừa cứng cạy cho màu đẹp, nướng bánh mì sao cho đừng quá lửa, làm dưa chua giòn mà không cậy phụ gia độc hại cũng đâu phức tạp mấy. Nhưng bà già bảo, coi khách như người nhà cũng là một thứ hương vị đặc biệt mà không phải tiệm bánh mì nào cũng có. Nói vậy thì nghe vậy, ai dám cãi với người gần sáu mươi năm bán bánh mì kẹp thịt, tiếng ngon đồn xa đến tận quận Mười Ba.

Mà mấy chữ “coi khách như người nhà”, bao gồm cả việc làm sao cho món ăn sạch sẽ, bổ khỏe, thơm ngon. “Đâu phải họ ít tiền thì phải ăn những thứ mạt hạng”, bà già thường nói (và làm) vậy. Giữ tiệm mấy chục năm không điều tiếng, thực khách phần đông là học trò, dân lao động, buôn gánh bán bưng. Họ là người dưng, vẫn được trao cho ổ bánh thơm hệt như ổ dành cho con cháu trong nhà.

Vách nhà vẫn còn treo hình cô Vẹn hồi năm hai mươi sáu tuổi, tay nách một đứa con, một đứa khác đứng bên chân, tay níu ống quần mẹ. Ba má con mặt hơi căng thẳng, chụp cho có để gửi vô khám cho anh chồng lông bông coi. Nhập băng rải truyền đơn, chọi gạch quân cảnh cho vui, chồng xộ khám nửa năm, nhìn hình vợ con có chút bồi hồi. Ngoài ổ bánh mì gởi kèm theo tấm hình, còn có lá thơ, vợ biên rằng, “Tôi mở tiệm bánh mì được chừng chục bữa nay. Bán đồ ăn được cái là lỡ ế thì nhai trừ cơm, không sợ đói. Mình ở trong đó khỏi lo”. Thật ra, anh chồng cũng đâu có lo, bởi anh ham chơi ít để ý chuyện trong nhà. Ngồi tù chỉ nghĩ coi làm gì cho vui, khi hết hạn. Anh càng yên chí hơn khi ngốn hết ổ bánh mì kẹp thịt vợ gởi vô, lạnh nguội rồi mà vẫn ngon lành, lúc còn nóng chắc hớp hồn người ta phải biết.

Lúc chồng được thả, đến ông xe kéo chở anh về cũng biết tiệm cô Vẹn, dứt khoát không lấy tiền bởi “bà nhà anh đã từng cho tôi ăn thiếu hai cái bánh mì, giờ coi như huề”.  Anh chồng về hỏi vợ, cô Vẹn hơi lơ mơ chẳng nhớ, chừng như từng cho nợ rất nhiều người, họ trả cũng được, không thì chẳng sao.

Không biết có phải vì bà chủ rộng lòng, mà tiệm bánh mì cô Vẹn đứng vững bao nhiêu mùa bàng thay lá, bao biến cố ngoài đời lẫn trong nhà, con trai đi du học mọc rễ bên Tây, con gái thất tình tự tử may sao không chết, cả khi ông chồng lén vét tiền vàng đi vượt biên cùng nhân tình, biệt tích. Tiệm bánh đi qua bao chính biến, chứng kiến cuộc đổi cờ tốn xương máu, bên thất trận quăng súng ống bỏ đi, bên thắng hớn hở tràn vào phố. Chính thể thay đổi không làm bánh mì cô Vẹn mất ngon.

Tháng Hai năm rồi, có ông già đeo túi bao tử sệ hông tìm tới tiệm bánh mì, hỏi cô Vẹn còn nhớ đây không, hồi bảy lăm đây từ Phước Long chạy về, cởi đồ lính mà không có gì thay, đó ngoắc vô cho đây bộ đồ tây, còn dúi thêm ổ bánh mì qua cơn đói”. Cô Vẹn tám mươi ba vén tóc vành tai nói, “ờ, tình cảnh tới nông nỗi vậy mà còn khen tui đẹp, chồng không thương uổng quá”. Ông già cười rung hàng răng giả, thấy cuộc đời không đến nỗi tệ với mình. Vượt biển tha hương mấy chục năm, về như kẻ lạ, chỉ có bà chủ tiệm bánh mì vẫn quen thuộc như thường, như mới hôm qua, vẫn lấy tiền ổ bánh kẹp thịt đúng giá, tuyệt không nhận thêm đồng nào, dù năn nỉ mấy, “coi như trả tiền bộ đồ hồi ấy”.

Ông chủ tiệm sách cũ kế bên thấy vậy, nói vói qua, “Thôi nài ép chi, cô Vẹn chảnh nào giờ”. Sẵn vui miệng kể luôn, đận bảy lăm ông đội tai bèo về tiếp quản Sài Gòn, ghé qua lộn hết mấy túi vét tiền kêu dồn nửa ký thịt khìa vô ổ bánh mì, ăn cho đã cơn thèm. Cười ngất, cô Vẹn chiều ý anh lính vàng da vì sốt rét, trao cái bánh mì đầy vun nhưng chỉ lấy đúng hai xu, như ổ thường năm bảy lát thịt. Hỏi cô chủ buổi loạn lạc vầy không sợ cướp bóc sao mà buôn bán tỉnh trân, cô cười, “bánh mì mà bị cướp cũng là để no bụng người ta, chớ mất đi đâu”.

Nhiều người vẫn nhớ ăn tuổi lớn của mình trùng với thời kỳ đất nước khó khăn. Sáng lót lòng không khoai luộc ở nhà thì chỉ có chút tiền còm mua ổ bánh mì chan nước sốt, xịt thêm ít xì dầu. Món ăn đơn giản, nhưng bánh ở tiệm cô Vẹn vẫn ngon hơn chỗ khác. Sau này mới biết cô cho vào nước sốt ít thịt băm nhỏ, nghĩa là thêm chút dinh dưỡng cho lũ học trò nghèo. 

Nhưng chưa bao giờ cô Vẹn nói mình làm phước cho ai, con cháu cũng được dặn hoài, “tiệm mình sống được là nhờ ơn khách”. Nên nước sốt cà phải làm từ cà chua, chứ không phải pha bột với phẩm màu. Bì tự làm ở nhà, không phải lấy bì chợ không nguồn gốc. Anh cháu ngoại cô Vẹn, có lần mua thịt chợ chiều cho rẻ, bị rầy nhức xương.

Anh chàng từng làm công chức ngành văn hóa bốn năm rưỡi, một bữa kêu nghỉ, về quản lý tiệm bánh mì. Hỏi lý do thì chỉ cười, “về nói tiếng mình”. Đi làm nhà nước thì phải nói tiếng chim chắc, người nhà thắc mắc. Chỉ bà ngoại anh, tức cô Vẹn lẫy lừng, nói gọn mỗi câu “mai thức sớm coi ngoại nấu xíu mại”.

Tiệm cô Vẹn truyền cho đời thứ ba. Anh chàng bỏ đời công chức chưa lâu, còn hăng, hay sôi nước miếng bàn chuyện chính sự với cánh xe ôm chờ khách quanh đó, nào là nước mình sắp vỡ nợ đến nơi rồi, tới đây ông nào lên, ông nào xuống. Bà già ngừng quạt hỏi “nhà còn gạo không ?”, rồi không chắc thằng cháu nhận ra mình cà khịa, bà già nói thêm, “chuyện xuống lên của mấy ổng có làm hương vị bánh mì nhà mình ngon hơn ?”.

Với bà già, hay thím bán hủ tiếu gõ bên kia đường, con nhỏ bán nước mía, mấy ông xe ôm, những người luôn bị (hay được) gọi là dân đen, chuyện cờ hoa vô cùng xa lạ, chẳng ăn nhập gì với đời mình. Vị trí bên lề, chưa chắc là do bị gạt ra, mà biết đâu do chính người ta lựa chọn. Một thế đứng bình thản, không ngã theo gió nào, không bị rủ rê lôi kéo. Kiếm tiền bằng công việc lương thiện, chỉ cần vậy thôi, là đủ. Như cô Vẹn từng nói khi con trai muốn đón bà qua Tây ở cùng với nó, “Ở đây còn nhiều người ưng bánh mì má làm, má ở lại”.

.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeTue Mar 08, 2016 7:46 pm

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Re1bbabng-tc3a0m-cc3a0-mau

Duyên Phận So Le

Nguyễn Ngọc Tư

Một bữa gió dầm dề, khách vắng teo, 13 nhân viên khu du lịch văn hóa So Le tổ chức nhậu nhẹt, xong rồi thi coi ai có cuộc đời buồn nhất. Mới biết, dì Chín nấu bếp hồi nào giờ chưa từng biết yêu ai, con Mỵ nghèo, toàn mặc đồ cũ của chị Hai, 18 tuổi mới vung vinh được bộ quần áo của chính mình.

Hường thì yêu thầm nhớ trộm ông thầy dạy toán... Xuyến kể sau cùng, bằng cái giọng hết sức điềm nhiên, cô nói 17 tuổi có yêu một người, yêu đến nỗi bỏ cha mẹ theo tình. 18 tuổi thằng nọ phụ phàng, bỏ cù bơ cù bất giữa chợ. Lúc ấy đã không còn đường về nhà nữa...

Mọi người rưng rưng bảo thôi, khỏi kể thêm khúc sau mày cũng xứng đáng là người có cuộc đời buồn nhất ở So Le này rồi. Rồi cả bọn lặng lẽ ngồi nghe gió thốc qua lòng, rúm ró nỗi cô đơn. Trời ơi, thêm một mùa gió đông nữa mà chưa người nào lấy được chồng. Tuyệt vọng như dì Chín nấu bếp đã đành, còn Mỵ, còn Lam, còn Hường... và cả Xuyến kia nữa, cô sắp qua khỏi thời con gái mất rồi.

Mà ngộ, chỉ Xuyến là không xao động gì hết, lúc gió về. Kể chuyện mình xong, cô đứng dậy, đóng hết các cửa sổ, lau sàn nhà, trải khăn lên bàn, xếp ghế cho ngay ngắn. Ngang qua phòng anh Năm, Xuyến vào coi có quần áo dơ không rồi gom ra sàn nước ngồi giặt, cằn nhằn anh sao để cổ áo thâm kim. Dửng dưng, bởi không còn gì để trông đợi, bởi Khởi đã thật sự không quay lại nữa rồi?

Hay bởi những mùa gió chẳng còn gì để lạ, Xuyến tới đây lúc khu du lịch mới hình thành, giám đốc Thụy hay bảo, Xuyến là bậc “khai quốc công thần” của So Le. Chân bước lên bờ, thấy vợ Thụy đang ẵm con ngơ ngác trước mênh mông hoang vắng, không sợ đã đành, đằng này, Xuyến mừng húm. Cụm nhà nghỉ lọt thỏm cuối bìa rừng. Biển đằng trước. Và gió lộng lồng trên đầu. Ở đây là cuối đất, xóm làng gần nhất cũng cách hai vạt rừng, sau lưng So Le chừng nửa giờ đồng hồ là trung tâm xã, thêm ba giờ để đến huyện, ra tỉnh mất nửa ngày. Tàu đò thường quăng lên khu du lịch những người khách xốc xếch, lử lả đường xa, họ cuống quýt ngắm rừng xanh ngời ngợi trên đầu, luýnh quýnh ngó những con thuyền dập dềnh thăm thẳm đằng phía biển. Nôn nả chạy ra mốc tọa độ chụp hình, hối nhà hàng dọn cơm ra. Vừa ăn vừa coi đồng hồ, tính xem thêm chén nữa thì có kịp chuyến đò trưa không. Vội vậy, nhưng vẻ thỏa mãn hiện lên trên nét mặt, vì chụp được cái hình ngay chỗ panô vẽ chữ mũi So Le tổ bố để về khoe với bạn bè, vì được móc cục đất khóc ồ ồ, ôi giời ơi, đất thiêng của ta ơi, đất thương đất nhớ ơi, sau đấy thì làm thơ.

Bọn Xuyến cố nín cười, thấy lòng vui, dù biết với những du khách này, chẳng thu lợi nhuận gì nhiều. Nhưng có họ cũng đỡ thèm ngươi, đỡ thấy mình giống khỉ. Rồi khu du lịch được vực dậy, bắt đầu từ một nhà hàng thủy tạ ngoài bãi bồi, cụm panô tiểu cảnh, những con đường xi măng giả gỗ ngoằn ngoèo luồn sâu vào rừng... Mũi So Le ngỡ ngàng giụi mắt đón những du khách cười nói bạo liệt, đạp mũi canô lên bến. Họ ở lại lâu, ca hát tưng bừng...

Nhưng đời đám nhân viên phục vụ bỗng buồn thiu. Khách đến, khách say, tán tỉnh, hôn hít họ rồi về (thì ca hay, phục vụ chu đáo, nên khách thưởng chơi vậy mà). Người ở lại chua chát nghĩ, điệu này rồi sẽ khó lấy chồng, đáng ra đôi má này đôi tay này phải để cho người mình thương yêu ấp. Có ai yêu mình, tin mình, chịu cưới mình khi suốt ngày mình đưa mặt cho người ta hôn hít (và cả đáp lại người ta, nếu có yêu cầu). Bà con ở đây cười cợt, dè bỉu đã đành, tệ như mấy anh chàng thợ xây nhà thủy tạ ốm tong teo, đen nhẻm, vậy mà không thèm chọc ghẹo một lời. Không biết đã đành, thấu hiểu, yêu thương như Khởi một bữa còn đập đàn bỏ Xuyến mà đi.

Chuyện đó cũng đã lâu, nhắc lại, Xuyến cười, quên mất tiêu rồi (giọng như quên cái nón, cái khăn, cây bàn chải đánh răng...). Chiều chiều, nó hay ra cái bến trước quán cà phê nhỏ của vợ chồng giám đốc Thụy, ngó xa theo con rạch loằn ngoằn, vắng ngắt. Như chờ đợi, như mong ngóng, như hy vọng... Nhưng có chờ đến tối chỉ chiếc đò máy chở bé Bi, con gái Thụy, tan trường về ghé lại. Xuyến lên nhà chơi với Bi (hú vía, may mà có con bé nhỏ teo xinh xẻo này). Xuyến nướng tôm cho Bi ăn, thắt mớ tóc xoăn mềm mại của Bi thành bím, Xuyến hỏi con bé bữa nay cô giáo dạy bài gì, rồi lớn nhỏ hai người vỗ tay hát nghêu ngao. Ai, nhìn thấy cảnh ấy cũng thương, Xuyến leo lẻo nói cười, thấy vậy mà không phải vậy.

Mọi người bảo nhau, lòng con nhỏ Xuyến vẫn còn đau. Một bữa thấy Xuyến vào phòng Khởi, thụp xuống vùi mặt vào chiếc áo anh bỏ lại. Một bữa nhìn trời mây nước mênh mông mà đôi mắt ráo hoảnh, trống trơ, nhìn mà không thấy gì hết. Một bữa thấy Xuyến tết tóc cho bé Bi, Xuyến rơi nước mắt.

Một bữa Xuyến bảo anh Năm Già đừng hát cái bài “Lòng dạ đàn bà”, “hồi đó anh Khởi hát hoài, em nghe mắc chán rồi”. Anh Năm vậy a, vậy à, mà trách mình vô ý dữ. 39 tuổi, sớm lấm láp bụi đời nên mặt anh Năm khằn, đen đúa, lưng hơi khom. Hôm tới đây anh vẫn còn là nhân viên hậu đài của đoàn ca múa nhạc. Hết mùa lưu diễn, bữa đó cả đoàn được thưởng một bữa nhậu tại mũi So Le. Ai cũng vui nên say quá chừng, say vùi dẫn cho đến khi một nhân viên của nhà hàng đập cây đàn vào bức tường trước mặt. Những sợi dây đứt bặt buốt nhức giữa tiếng gãy giòn, và trong những sững sờ, cồn cào một tiếng thở thảng thốt. Mắt mở trợn trạo, mặt đỏ bừng, Khởi lia tay vào bàn tiệc (như đang đếm gà, vịt), gằn giọng: “Cô nắm níu ở đây là vì thèm khát thứ người này sao, Xuyến?", xong quay lưng đi một nước.

Xuyến tuyệt vọng ngó theo, rồi cô run rẩy mỉm cười, lẩy bẩy rót rượu cho khách, bảo uống đi mấy anh, không có chuyện gì đâu...
 
Nhưng cuộc vui tới đó đã tàn mất. Khách xuống tàu, anh Năm Già còn đứng trên bến, anh bảo sau này chắc nhà hàng mình thiếu người, tôi ở lại để đàn cho cô hát nghen, cô Hai. Xuyến lắc đầu cười thê thiết: “Anh tính đền cho tôi à... có phải tại anh đâu mà..." nhưng anh Năm đã quả quyết xô mũi tàu ra.

Anh ở lại mũi So Le, làm con khỉ thứ 13, những con khỉ khác cứ hỏi nhau sao chuyện đi ở thằng cha này coi nhẹ hều vậy cà. Anh được phân cho một căn phòng ngó ra hành lang phía sau có nhiều dây phơi, một bữa đang lui cui dọn giường nghe Xuyến mừng rỡ, ngỡ ngàng kêu “Anh Khởi”. Anh quay lại, Xuyến thất vọng bưng mớ quần áo quay đi. Năm "Già" xin được chuyển phòng.

Mỗi chiều Xuyến ra bến chơi, anh cũng xách dao dọn cỏ, tỉa cây gần đó, anh nói láp giáp đủ chuyện dưới đất trên trời (như thể mình mà im lặng Xuyến sẽ khóc mất). Anh nhằn gió trên trời, thổi chi cho tội, nhằn ai phơi khô cá thòi lòi không đặng nắng để bốc mùi thúi ủm. Nhằn cả chuyện độ rày gạo cá lên giá quá chừng... (ủa, chuyện này mắc mớ gì đàn ông lo).

Có khi Xuyến hụ hợ vài câu, có khi cô chỉ mỉm cười. Ngoài chỗ nói nhiều ra (mà toàn nói chuyện khơi khơi), sao mà anh Năm “Già” giống Khởi kỳ lạ. Giống cả cái yêu lặng lẽ, lầm lì (như ông trời trả lại y chang). Đóng cái móc áo trong phòng Xuyến, thay bóng đèn, sửa chốt cửa, nấu tô cháo nóng để đầu giương lúc Xuyến say. Ngày ngày, anh Năm bắc một cái ghế ngoài bàn tiệc, phục vụ việc hát hò cho khách, uống đỡ giùm Xuyến vài ly rượu khi khách mời. Anh còn lấy xuồng chở Xuyến với bé Bi chơi dài trong rạch, hái trái ô rô. Nhiễu khi Bi ngọng nghịu nói cười, thấy thương không chịu được, Xuyến ôm ghì nó, bảo sao mà em mê con nít quá chừng à, anh Năm. Anh cười hỏi sao Xuyến không đi làm cô nuôi trẻ. Xuyến lặng người đi, vì vết thương cũ trong lòng nghe rịn máu.

Khởi cũng có lần hỏi Xuyến câu ấy. Đâu chỉ vậy, nhiều bữa nhìn Xuyến quằn quại vì bị mời rượu say mèm, anh lẳng lặng ra thị xã xin sẵn một chỗ làm rồi hỏi Xuyến có đi với anh không, Xuyến cười, trời đất, đi đâu anh. Khởi bảo, đi làm cô nuôi trẻ, bỏ mũi So Le. Xuyến bần thần một thoáng (nhìn đứa trẻ ấy có một mụn thịt trong vành tay, có một nốt ruồi son đỏ sau gáy, có cái rốn to nhăn nhúm buồn cười như cái mặt người, cái rốn 21 ngày mới rụng... như Bi không?). Tần ngần, Xuyến bảo: “Mai mốt nghen anh, bây giờ công chuyện đang rối... Mấy đứa Nga, Hường mới vô làm, công việc chưa rành, khờ ịt, chỗ mình còn xây dựng tùm lum, chẳng ai coi sóc... Đó, bé Bi con anh Thụy bệnh đang nằm ngoài trạm xá hỏng biết chừng nào về...".

Nhớ lại, nhiều lúc Xuyến cười, mấy lý do đó trớt quớt, chẳng ăn nhập gì với mình, hèn chi Khởi cười gằn, bỏ đi. Đáng lẽ phải nói như vầy, em thấy yêu mến, gắn bó mảnh đất này quá đi, anh à (nói theo kiểu thanh niên tình nguyện trả lời phỏng vấn trên truyền hình). Ở đây 3 năm rồi, bây giờ bỏ rừng, bỏ biển, bỏ cả những cơn gió đông cồn cào mắc dịch này thiệt không đành... Còn nữa nghen, bạn bè ở đây ai nấy đều tốt, vợ chồng giám đốc Thụy cũng thấy thương quá chừng, tóc sắp bạc màu mới kiếm được đứa con, chắc là hiếm muộn, chắc là chờ đợi, chắc là chữa trị rất tốn tiền. Em biết họ từ hồi họ còn ở chợ, trước nhà có một hàng điệp đỏ, mùa nắng lá rụng tả tơi, lá xếp dày, nằm lên đấy không sợ bụi đất...

Những lời hay ho đó, Xuyến học thuộc lòng, định nói vào cái ngày anh Năm mở lời biểu Xuyến theo anh. Một bữa hai người chơi thả tàu giấy dưới bãi với Bi, anh Năm nhìn Xuyến thật lâu, trìu mến nhìn chị em vung vinh thách nhau thuyền nào đi trước, cắn môi mấy cái; nhìn trước nhìn sau (như sắp truyền tin cho nhau giống trong phim), anh bảo: "Cô Xuyến mê con nít vậy, sinh cho tôi một đứa nghen". Hôm đó trời đứng gió, Xuyến nghe con ong o e trên ngọn đước, nghe mình rỗng không, nghe tim nín thít (và bần thần tự hỏi, đứa trẻ mình sẽ sinh với anh có cái ngón chân út quẹo đơ, có những sợi lông măng dày mịt che cả bớt đen sau cổ như con bé Bi xinh xẻo này không). Xuyến cười lạt nhách, lấy tay phát nước đẩy chiếc tàu giấy đi, Xuyến bảo, em chưa tính tới anh à. Anh Năm cũng cười, nhìn con tàu trắng trôi xa, từ từ mù mịt, bẽ bàng nghĩ, dường như Xuyến không quên được một người.

Sáng sau, anh Năm từ giã mũi So Le. Mọi người kêu trời, sao cha nội này đi ở đơn giản vậy kìa. Tiễn anh vòng vèo qua những con đường nhỏ trong rừng, ai cũng nghe tiếc, nghe đau, nói gièm với nhau (cốt để anh Năm nghe thấy), khu du lịch mình bộ khai trương ngay ngày xấu, hồi đó tới giờ không tổ chức được một đám cưới nào. Xuyến đi sau cuối, chân bời rời bước, anh Năm tần ngần hỏi: “Cô Xuyến có chuyện gì nói với tôi không?". Xuyến ngơ ngác một lát rồi cười, dạ, anh đi mạnh giỏi.

Và tàu mang người đi, thăm thẳm như thể nó đã nuốt chửng anh rồi. Mọi người hỏi Xuyến có sao không, Xuyến bảo, mai mốt cũng quên (như quên đôi dép, đôi giày... Và như quên Khởi). Rồi Xuyến đi gom khăn trải bàn, cuốn tất cả các bức màn, đem giặt. Nhưng vừa rảnh tay, Xuyến đã nghe buồn anh cõng buồn em đi lê thê trong dạ, cô dựa lưng vào tường, những vuông vải phơi trên đầu cồn cào, oằn oại, tơi tả gió. Xuyến ngồi ở đó, ngó nắng, bỗng thèm có con bé Bi ở cạnh, để khóc với nó chơi, để đi qua niềm đau đang như bão bời.

Để thấy đời có buồn thêm chút đỉnh, cũng không sao. Như thế này thì nhằm nhò gì cái hồi Xuyến xin làm bồi bàn cho một quán ăn trong thị xã, để được đi lại (chầm chậm) trên khúc đường gần đó, nhìn Bi bò lúm cúm trong nhà. Bi biết đi, mẹ dắt ra sân, Xuyến giả đò lại gần khen, em bé dễ thương quá hen, mà không dám xiết chặt Bi vào lòng, áp mặt mình lên đôi má phúng phính lông tơ, vì sợ mình sẽ khóc. Bữa kia mới buồn ác, thấy Bi lon ton chơi mình ngoài sân, bỗng không kềm được, Xuyến xốc Bi lên chạy một đoạn rồi thất thần dừng sững lại, kêu lên hai tiếng trời ơi, mình làm khổ nó rồi, mình nghèo như vầy... Xuyến đưa Bi quay l
i. Nhưng khuya, ngủ không được, Xuyến lọ mọ lại khoảng sân đầy lá trước nhà Bi, rờ rẫm chỗ đất cạnh góc điệp già (chỗ đó, có một sáng đôi vợ chồng nọ mở cửa ra, thấy một đứa bé đang nằm say ngủ).

Mấy chuyện này may mà Xuyến giấu chặt trong lòng, phải kể ra chắc là buồn vô địch cấp huyện chứ sá gì cái mũi So Le nhỏ nhoi này.


Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Images?q=tbn:ANd9GcQnin59u8qBLUUGmrfei2MXXsSeMpQJy2mGArTkizqCBrZZS8Ca-g

Ai Vui Bên Cuộc Tầm Phào

Nguyễn Ngọc Tư

Có những buổi sáng chật đến bung vách.

Phải mượn thêm mười ngón chân, cộng với hai bàn tay mới đếm hết những tin tức nóng sốt khiến ta phải quan tâm coi vụ đó bữa nay tới đâu rồi. Cô chân dài kia rốt cuộc có cặp bồ với đại gia có vợ không, chị chép thơ kia có chịu xin lỗi thêm lần nữa sau cái đận bị cho là thiếu chân thành không, anh ca sỹ kia có mặc quần áo sao y ca sỹ bên Hàn không, đã bắt được hung thủ giết tình cũ trong nhà nghỉ chưa, ai mới là chủ nhân mớ tiền trong giỏ rác.

Quá nhiều chuyện khiến ta bận tâm, mà không cần tháng sau năm sau, chỉ ngay ngày hôm sau đã nhận ra mớ lùm xùm ấy thiệt là tầm phào. Tốn thời gian, mà không liên quan đến hủ gạo, nồi cơm nhà mình, lại càng không ăn nhập tới không khí mình đang thở. Nhưng sáng lại, như một con nghiện, ta lại lao vào mạng dõi theo những tào lao đầy cám dỗ, những chứng cứ mới giả thuyết mới, những chiêu thức mới, huyền ảo khác nào khói thuốc. Giống như ta hay dừng xe ngóng cổ lên hóng chuyện một cuộc va chạm giữa đường, ông kia rõ ràng đã xỉn rồi còn cãi bướng, đụng người ta không chịu xin lỗi cho qua. Sử dụng não bộ tối đa, phát huy hết khả năng luật sư kiêm thám tử kiêm quan tòa của mình ra, để phán xét cho rốt ráo một người dưng mà đến cái tên thật ta còn không biết.

Sau đó, đầy tự hào, ta nghĩ ta đúng là khẳng khái quá đi, thấy chuyện bất bình không tha. Ý nghĩ đó làm ta sung sướng cả ngày.

Chỉ là lâu lâu sực nghĩ, có gì đó không phải. Những tức giận dồn nén từ kẹt xe, nước ngập, điện lên giá, bình trà đá miễn phí bị tịch thu, biển đảo bị người ngoài la liếm, đâu có thể gom lại để trút xả vô cô hoa hậu quên rửa chân được. Giận cá chém cá, chơi gì mà đè thớt ra băm vằm. Nỗi giận dữ đang bị lạc hướng, đến sai chỗ.

Giống như cả xóm mở toang cửa, rượt theo thằng nhỏ trộm gà, mà không biết những siêu trộm lão luyện và tham lam đang ung dung ngồi ngay cổng nhà mình. Bắt được kẻ trôm vặt, vậy là ta hể hả nghĩ ông trời công bằng hết sức, mà không hay bao nhiêu thứ quý giá không cánh mà bay. Và tên trộm nhỏ bị ăn đòn bầm dập không phải vì tội đã chôm con gái hay trái mít, mà vì bao nhiêu châu báu thiên hạ đã mất đi, họ không biết hoặc không dám đòi, nên đành trút giận lên người nó.

Nên mấy anh chị chân dài tóc đỏ bị bêu tên trên truyền thông với một mật độ đậm đặc, hãy chịu khó, hứng gạch đá là khó tránh khỏi. Bởi vì ta không thể giận ông trời, vốn xa và trừu tượng, cho việc cõng con lội nước đến trường. Ta cũng chỉ có thể chửi đổng thôi, khi hay cả họ nhà kia rủ nhau làm quan trong huyện. Không phải ta chẳng biết mình phải trút giận dữ vào ai, nhưng bọn họ thì xa, ban bệ, hệ thống trong khi cô chân dài có tên tuổi đàng hoàng, thì nhởn nhơ ngay trước mắt. Cho tới chừng nào ta nhận ra trong lúc giẫm đạp những tên trộm ổi trộm gà, ta gửi cả vào đó sự tránh né và bất lực, thì ta mới bớt xúm vào tham gia những cuộc cãi vã không đâu.

Chỉ một anh chảy máu cam ngửa mặt lên trời cũng lôi kéo một đám đông tò mò, rốt cuộc có gì trên cái cây kia mà ổng nhìn lâu dữ vậy.

Đằng sau những cuộc cãi vã loạn xì ngầu, về những chủ đề tào lao không ảnh hưởng đến kinh tế èo uột, ô nhiễm mịt mù, nợ nần chồng chất, sẽ có nhiều ai đó xoa tay khoái trá.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeSun Mar 20, 2016 1:06 pm


Nước Chảy Mây Trôi


Nguyễn Ngọc Tư

Hôm trước ngày đi Đất Mới khai giảng niên học mới, Diệp chở mẹ đi nhổ răng. Trên đường về, bỗng dưng Diệp nghe nước mắt mẹ rớt trên lưng mình. Mẹ than buồn, vì miệng còn ngậm bông gòn nên giọng mẹ bệu bạo (hay tại khóc?), mẹ nói, không biết thầy Nhiên có chê mẹ già không. Diệp biết mẹ nói không thật, mẹ khóc vì mai này mẹ đã xa Diệp mất rồi, chứ hai mẹ con Diệp hiểu thấu tới đáy lòng, thầy Nhiên không phải là người coi trọng mấy chuyện lặt vặt đó.

Mẹ Diệp lớn hơn thầy Nhiên đến tám tuổi, hồi họ quen nhau, thầy Nhiên mới ba mươi ba. Nhà may của mẹ cách trường cấp ba Hưng Hải chừng mươi thước, nổi tiếng khắp thị xã về may áo dài. Gặp lần đầu ở buổi họp phụ huynh, thấy thầy vai áo rách, về nhà mẹ Diệp mua vải may tặng thầy một chiếc sơ mi mới, để lấy lòng thầy cho con nó nhờ. Sau này, thầy hay lại nhà nhờ mẹ Diệp may áo. Có lần mẹ hỏi vợ thầy đâu mà để áo rách vầy, thầy cười, còn gửi ở nhà người. Diệp đi học về, mẹ hỏi, thầy Nhiên ba mươi mấy tuổi đầu chưa lấy vợ, chắc thầy khó tính lắm hả con. Diệp lắc đầu, không, thầy thấy thương lắm.

Diệp nói thật lòng. Từ ngày thầy Nhiên chủ nhiệm lớp, buổi sinh hoạt nào lớp cũng vui tươi, tràn ngập tiếng hát, tiếng cười, có đứa còn đi học đàn về gảy tửng từng tưng. Thầy dạy môn Văn và biến những tiết học khó khăn này thành một thiên đường của cảm xúc. Giọng thầy ấm áp, sôi nổi, truyền cảm, mắt hay nheo, coi bộ hóm hỉnh, vui tính. Thầy bảo, mắt thầy bị tật hồi còn ở lính, không nheo thì bắn không... trúng, nheo riết thành quen. Bọn Diệp cười, tướng thầy mà bộ đội gì, thầy cũng cười, giỡn hoài, đơn vị còn không định cho ra quân nhưng thầy nhất quyết xin ra, đi dạy học. Đám học trò khen thầy dạy Văn giỏi nhất trường. Nhà trường thì không nghĩ vậy, dạy cháy giáo án hoài mà giỏi gì.

Sau này, khi xem bộ phim võ hiệp "Tiếu ngạo giang hồ", Diệp phát hiện ra thầy Nhiên giống hệt Lệnh Hồ Xung, cuộc đời anh chàng không thể hoạch định trước, làm gì cũng theo cảm xúc, cả chiêu thức võ công anh ta dùng cũng "nước chảy mây trôi" theo ý mình. Dù vậy, Diệp cũng thảng thốt, bất ngờ rất nhiều khi hay thầy với mẹ thương nhau. Mối tình đó không thể giải thích được vì sao, không thể nói rành rọt bằng lời những cảm xúc dịu dàng mà bỏng cháy trong lòng mỗi người. Bắt đầu từ đâu? Từ miếng băng keo thầy mang đến khi thấy tay mẹ đứt, từ việc mời nhau mấy củ khoai mì nóng thầy mua của chiếc xe đẩy trên đường, hay từ những bữa họp phụ huynh, thầy nhìn thấy mẹ Diệp ngồi trong một góc nào đó, đẹp đẽ, sang trọng mà buồn buồn, vơ vất, như lạc ở một vì sao nào? Mẹ chỉ biết nói lời xin lỗi Diệp. Nó khó khăn lắm mới bảo, không sao, nếu con là mẹ, con cũng yêu thầy, thầy dễ thương quá trời đất mà.

Ba Diệp thì không thể tha thứ. Chẳng thèm chửi bới đánh đấm nhau, là người trí thức, ông bác sĩ xử sự rất mềm mỏng. Ông đến trường, níu bất cứ đứa học trò nào ông nhìn thấy, phẫn trí van vỉ (như một người yêu vợ hết lòng), "Cháu làm ơn nói với thầy Nhiên trả vợ lại cho chú, làm ơn, cháu ơi !". Chuyện này gây tiếng vang đến phòng giáo dục, rồi đến Sở. Thầy Vẹn, hiệu trưởng trường vốn là đồng đội cũ với thầy Nhiên, thương bạn lắm nhưng đành buộc thầy thôi việc.


Rồi thì mẹ Diệp cũng ra đi. Qua cửa, mẹ chỉ có một chiếc va li nhẹ bỗng, trống không. Lẽ ra mẹ có thể mang đi nhiều hơn, nhưng chỉ với hai bàn tay trắng, mẹ mới rửa oan cho thầy trước lời mai mỉa của người đời, rằng thầy chỉ yêu túi tiền của mẹ thôi. Diệp thầm thắc mắc, yêu là phải hy sinh nhiều thứ, vậy sao người lớn đâm đầu đi yêu hoài làm chi cho khổ?

Tổ ấm đó cách nhà Diệp một cây cầu, nhiều con đường ngoắt ngoéo. Diệp có đến chơi, đến mà nghe quen thuộc, ấm áp như nhà mình. Hồi trước, Diệp tới nhà thầy chơi hoài chớ gì, nó thuộc lòng từng cuốn sách trên giá, rành rẽ từng chỗ thủng của cái màn cửa. Nhà thầy bừa bộn, đầy màu sắc. Màu của giấy dán tường, của những đường viền tự tay thầy cắt, của những tờ lịch đầy núi, thác nước và mây. Tất cả những cái đó đầy sự sống. Nó khác với nhà Diệp, bốn bức tường đều trắng, Diệp đem hình diễn viên, ca sĩ về dán trong phòng, ba khó chịu. Ở nhà, mọi người phải xem những bộ phim, nghe những loại nhạc bác học mà ba thích. Bữa cơm nào ba cũng tự tay rửa rau, dù mẹ rửa rồi ông cũng phải rửa lại. (Diệp ngờ rằng, tình yêu của mẹ đã mất mát từ chuyện ấy, đến rửa rau mà cũng không tin nhau). Ba không ăn ở quán ăn vỉa hè, cự tuyệt những món chuối nướng, khoai nướng bên đường, ba nói ăn vậy là không vệ sinh. Ba bảo mẹ một tuần nấu canh bí đỏ sáu lần, thực đơn này giúp cho Diệp thông minh, học giỏi, giúp Diệp mai sau trở thành một bác sĩ danh tiếng như ông.

Nhưng Diệp chỉ thích làm cô giáo. Một cô giáo sẽ không vì đám học trò ngỗ nghịch mà nguôi đi lòng thương yêu, không vì danh hiệu thi đua này nọ mà nguôi đi tâm huyết của mình. Giống như thầy Nhiên vậy.


Một bữa lại nhà mẹ chơi, Diệp chỉ tay vào góc lâu nay thầy vẫn để sách và đàn, nó nói, "Thầy ơi ! Em chỉ cần chỗ này là đủ, ban đêm em ngủ, ban ngày em sẽ ngồi học ở đây". Thầy Nhiên với mẹ nhìn Diệp mừng rưng rưng nước mắt. Nhưng cũng phải đợi đến bữa ba dẫn bạn gái về, Diệp mới ra đi. Ba không ngăn lại, chỉ cười khan, lạnh, đầy cay đắng, hằn học. Diệp thấy mình hơi giống mấy tên phản bội trong phim.

Bây giờ chuyện cũ cũng đã nguôi rồi, người ta thôi không trầm trồ nữa. Mẹ gầy dựng lại một tiệm may mới, với những khách hàng cũ. Thầy Nhiên quyến luyến đám học trò nên thuê quầy bán sách báo ở trước cổng trường. Ba Diệp đã lấy vợ, có con. Tốt nghiệp đại học xong, Diệp có ghé nhà, thấy ba ngồi giặt tã cho em. Lúc ra về, tổng kết lại thì ba chỉ hỏi Diệp đúng một câu, "Ra trường rồi tính làm ở đâu?" Diệp nói không biết nữa, nếu chờ được phân công, có thể sẽ về dạy ở một huyện, thị trấn nào đó, có thể ở đó nghèo và buồn.

Mẹ nói sẽ tìm cách xin cho Diệp ở lại thị xã, thầy Nhiên có nhiều người quen làm trong ngành giáo dục, thí dụ như thầy Vẹn đang làm Phó giám đốc Sở. Diệp chần chừ không biết lắc hay gật đầu. Mẹ thở dài, nửa đêm than với thầy Nhiên, "Chắc mình mau già lắm, Nhiên ơi. Con gái mình thấy rầu quá".

Rầu chớ, công việc đang lừng khừng, chuyện yêu đương Diệp cũng chẳng tới đâu. Đứa con trai cuối cùng đã thôi lui tới nhà chừng nửa tháng nay, sân trước chưa thấy xe của người mới nào đậu. Mẹ nhắc lại nào Tuấn nào Huy, rồi Phát, Sang, mấy đứa đó thấy thương quá mà sao kỳ vậy không biết. Diệp cười, "Trời đất, tụi nó hả, con đâu có yêu". Mẹ tức quá vặc lại, "Vậy chớ con yêu ai?". Mẹ hỏi Diệp trong một đêm gió rất nhiều. Diệp tự vấn mình câu đó, khi có được câu trả lời, chợt nghe gió thổi tơi bời vào lòng, nghe như gió cấp mười, mười hai trong ấy.

Hôm sau, Diệp gọi thầy Nhiên bằng ba (nó bẻ miệng đến toát mồ hôi ra). Mẹ với thầy nghe lạ, phì cười. Diệp tá hỏa, tiếng gọi ấy với nó không có ý nghĩa gì hết, kêu tiếng ba thiêng liêng mà lòng vẫn yêu thầy, yêu thầm lặng tự hồi nào không biết. Hèn chi đi xa nhớ quá chừng (tưởng chỉ nhớ nhà thôi), hèn chi mấy thằng bạn trai hay bị đem ra so sánh với thầy (tưởng vì quý trọng quá đó thôi)... Bây giờ không biết làm sao quên được đây, để vầy nguy hiểm quá, người ta nói yêu với say rượu khó che mắt được người đời.

Diệp ngầm chuẩn bị cho mình một chuyến đi xa. Mẹ không biết, nên mẹ đi chợ, mua hai ký lô khô cá sặc rằn, dịu dàng bảo thầy Nhiên, "Nhiên chở con tới nhà anh Vẹn chơi, sẵn tiện nhờ ảnh giúp cho nó một chỗ làm. Có chút quà này...". Rồi mẹ Diệp tiễn hai người họ ra tới ngoài sân. Lên xe chạy một đoạn, ngó lại thấy mẹ vẫn còn đứng tần ngần, giống như sợ thầy trò Nhiên đi lộn đường hay sẽ lén quay trở lại nhà.

Nó ngồi sau lưng thầy (như nhiều lần ngồi sau thầy đi mua keo, nút áo, chỉ may cho mẹ), mà lòng nghe dịu ngọt lạ thường, chợt nghe thèm đến rớt nước mắt được nép mặt vào lưng, được choàng tay ôm eo thầy. Chiếc xe chạy lòng vòng qua hết mấy con đường, cứ gặp đèn đỏ là thầy lại quẹo phải, Diệp khúc khích cười, nghĩ, nhà thầy Vẹn đâu có xa dữ vậy. Chiếc xe máy hiểu ý chủ nên nó cũng cà xịch cà lụi, lâu lâu lại phun ra một bụm khói đen xì. Thầy bảo, "Chết cha, chắc là nước vô bình xăng". Mà, chiếc xe vẫn không chịu chết máy hẳn, vậy mới kỳ. May nhờ đến trước cổng nhà thầy Vẹn thì trời đổ mưa, cả thầy Nhiên và Diệp đều mừng húm, kêu lên, "Mưa ! Mưa rồi !" rồi chạy vào quán cà phê ngang đó cho khỏi ướt.

Diệp vừa phủi nước trên áo, trên tóc mình vừa cười, nhớ lại trên đời này chắc không ai mắc mưa mà phấn khởi như vậy. Thầy trò Diệp kêu hai ly trà đá, bắc ghế ngồi ngó mưa rơi, ngó qua cái tường rào im sẫm đằng trước nhà thầy Vẹn, nghe trong lòng ngại ngần quá trời đất.

Chỗ này chỉ cách bên đó một con đường, coi vậy mà qua đó cũng nghiêm trọng như Kinh Kha qua sông Dịch. Thật ra, nghỉ dạy ở trường cấp ba Hưng Hải rồi, thầy vẫn thường lại chơi nhà thầy Vẹn. Người đang có chức vị, ngồi cao lại hay ước sống như ông bán lẻ sách báo ở cổng trường (mà càng bán càng lỗ vốn, cứ thấy cuốn sách nào hay là dúi tặng cho học sinh). Thầy Vẹn bảo, "Đâu phải ai cũng làm được chuyện động trời như ông vậy. Nhớ kỹ coi, đang học ngon lành, ông tình nguyện đi biên giới, ở lính được cưng chiều ông không chịu, đòi ra lính dạy học, đang dạy học, lại đòi yêu mà lại đi yêu ngang trái mới chết". Thầy Nhiên cười, "Cũng trả giá dữ lắm, đừng tưởng giỡn". Vợ thầy Vẹn cũng quý bạn chồng, chị nói, "Ông xã em mê anh lắm, ảnh nói bây giờ có một chút chức quyền mới biết cực khi chơi với bạn, cứ phải cảnh giác nhìn nhau không biết người ta sắp nhờ cậy gì mình. Chỉ có anh Nhiên là không tính toán gì hết". Vì chị đã nói vậy nên bây giờ mới khó mở lời...

Diệp biết thầy Nhiên đang nghĩ lung lắm, nhưng nó không nói gì, nó chỉ lẳng lặng ngồi nhìn mớ tóc cứng như rễ tre đã chớm bạc trên đầu thầy. Hồi trước, mỗi khi thấy tóc thầy dài, Diệp vẫn hay nhắc, biểu đi cắt, để tóc vậy coi già thấy mồ. Hồi đó, thầy cười cười, "Đâu nè, vầy là vừa chớ". Sau rồi Diệp biết, thầy cố tỏ ra luộm thuộm để đuổi cho kịp mẹ, để mẹ khỏi buồn, khỏi mặc cảm chuyện vợ già chồng trẻ. Thầy tinh tế cả chuyện ăn mặc, chuyện xưng hô. Ở nhà Diệp, ai tới cũng bảo ngộ, nhất là mấy anh chàng đang đeo đuổi Diệp, họ bảo, "Nhà Diệp không có tôn ti trật tự gì hết, thấy lộn tùng phèo". Thí dụ như chuyện xưng hô, rõ ràng nghe thầy Nhiên với mẹ kêu nhau Nhiên Nhiên Thúy Thúy giống bạn bè hơn là chồng vợ, còn Diệp gọi thầy thì tùy hứng, có lúc kêu cậu, có lúc gọi "đại sư ca".

Nhớ tới đâu lòng Diệp đau tới đó, nhà giống như thiên đường vậy, mà mình lại phải đi xa. Ngoài trời vẫn còn mưa, nước chảy ròng ròng vào miệng cống. Thầy bảo mưa dai quá hen. Diệp cười, dạ, mưa dai thiệt. Thầy hỏi, hay là hai cậu cháu mình chạy qua gặp thầy Vẹn một chút. Diệp lắc đầu, thôi cậu!

Diệp không đành lòng cùng thầy cầm gói cá khô bước qua cửa nhà thầy Vẹn. Muốn hay không, khi quay trở lại, thầy trong lòng Diệp sẽ không tròn vẹn như bây giờ. Mất mát đó có thể rất mỏng manh, nhẹ như hơi thở, có thể chỉ là cảm giác vậy thôi. Thầy trông sẽ hèn hèn đi một chút, ngượng ngập một chút, vẩn đục một chút. Diệp muốn giữ vẹn trong lòng mình một hình ảnh đẹp, một người đàn ông lúc nào cũng nồng ấm, đĩnh đạc, thư thái, đầy khí phách và thành thật với con tim. Lỡ mai mốt đây gặp hoàn cảnh khó khăn nào, Diệp còn có thầy Nhiên mà vịn vào, đứng lên, đi tiếp. Nếu phải đi xa để những điều tốt đẹp còn nguyên lành mãi thì cũng đáng lắm chớ.

Lúc về trời vẫn còn mưa, Diệp có dịp giấu mặt vào lưng thầy, khóc chơi. Trời ơi, nép sau một cái lưng rộng và ấm áp như vầy để khóc đã thiệt. Mẹ hạnh phúc biết bao nhiêu.

Lúc về Diệp ôm vai mẹ, Diệp bảo mớ khô cá sặc rằn này hôm nào làm liên hoan tiễn con đi, mẹ nướng rồi xé trộn xoài sống, con thích món này lắm. Chỗ con tới có thể buồn và nghèo, có thể cách trở xa xôi, có thể đám học trò của con lấm lem sình đất, nhưng con không ngại, để con hát cho mẹ nghe bài này, rằng "Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng. Gian khổ sẽ dành phần ai". Mẹ nghe xong, rớt nước mắt, day qua thầy Nhiên, không rõ khen hay than mà giọng buồn hết biết: "Nhiên coi, không phải máu mủ của Nhiên mà con mình nó giống y chang Nhiên vậy. Muốn là làm".

Đâu nè, đâu phải muốn là làm, cũng phải suy nghĩ đắn đo dữ lắm. Coi lại, làm gì có chuyện con người được sống hồn nhiên như nước chảy mây trôi? Phải chọn lựa và trả giá chớ...

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Nuoc_chay_may_troi__nguyen_ngoc_tu

Chỉ Là Một Trưa Vô Tình

Nguyễn Ngọc Tư

Chị ào qua cửa. Và từ cái buổi trưa nắng đỏ, trong cái xóm nghèo Năm Căn đó, tôi biết đến một bà mẹ khác với hình dung quen thuộc khi nghĩ đến mẹ, những gầy, những hiền lành, những dịu dàng, những đau khổ...

Chị mập ù, ngồi oằn cả một góc ván. Chân mày mỏng. Đứa bé bốn tháng tuổi trên tay gầy và xanh. Chị vừa cho nó bú vừa hút thuốc. Khói thuốc phì ra mũi lúc chị cười, trong cái bảng lảng, cứ như khói cũng tuôn từ mắt chị. Đứa bé điềm nhiên miết vào vú mẹ, dường như nếu chỉ có mùi sữa, mùi mồ hôi, mà thiếu mùi thuốc lá thì nó cũng chẳng nhận ra mẹ. Chắc đã nhận được quá nhiều lời cằn nhằn lẫn ái ngại cho việc phì phèo khói thuốc của mình, chị dụi tắt thuốc, cười khà khà phân bua, “ghiền hồi nhỏ rồi chế ơi, bỏ không được…”.

Nụ cười hồn nhiên, bầu vú cũng hồn nhiên khoe sự đầy đặn của mình. Áo vén cao không lấp lửng, khách khí. Tôi nhìn hai đứa con lớn nheo nhóc đứng cạnh, tôi nhìn bà mẹ nhỏ tuổi hơn mình, có cái gì đó xót xa đến mức lời lẽ cứ lạc đi đâu.

Tôi cứ tưởng sẽ gặp nhiều nước mắt, gặp nhiều vật vã, bởi đứa bé kia, núm ruột của chị, khi năm mươi ngày tuổi đã bị ông hàng xóm xâm hại tình dục. Chị kể lại chuyện đó với một vẻ tự nhiên, như một bà mẹ nói về vụ trớ sữa của con mình. Hoặc chị đã phải kể nhiều lần, vắt nước mắt nhiều lần rồi, ngay sau khi bi kịch xảy ra. Buổi sáng gửi con đi chợ mua cá, lúc về thấy nó tím tái, xốc nó thì máu từ miệng trào ra theo cái bao tay người ta đã dùng chẹn cứng cổ họng nó cho khỏi gào khóc. Lúc về thì cơn bão sẽ ở lại mãi mãi trong căn nhà thuê tồi tàn và ọp ẹp của chị.

Nhắc đến kẻ bất nhân, chị chửi thề giòn tan, giọng giòn tan, ông già sáu mươi chín tuổi đó chắc là ma quỷ nhập, chớ con chị mềm như cục bông gòn, vui sướng gì mà nỡ lòng… Chị cũng giống tôi, không tin con người lại làm vậy. Chị đòng đưa đứa bé gái bất hạnh trong tay, nựng nịu nó cưng ơi cưng à rồi nói chơi chơi, “mấy bà xóm tui chọc, tại con mầy đẹp quá, nên có… rể sớm… Thằng rể lớn tuổi hơn ông ngoại vợ”. Tôi muốn cười với chị, thật lòng, nhưng vo hoài cũng không thành.

Tôi bệu bạo hỏi tên ông hàng xóm vô đạo, chị ngơ ngác day qua hỏi chồng, “tên gì, ông?”, thấy khách tròn mắt ngạc nhiên, chị cười, “cứ kêu chú bảy chú bảy mà không để ý ổng họ gì…”. Hai bữa trước tòa án gọi chị lên, hỏi, chị có đòi bồi thường gì không, chị chưng hửng, thằng chả nghèo còn hơn tui nữa mà lấy gì bồi thường. Thôi, khỏi. Chị đốt lại điếu thuốc hút dở khi nảy, bàn tay vung lên lượn một vòng khói, “có đòi năm chục ngàn chưa chắc có, cùng là dân ở nhà mướn, biết nhau quá…”.

Tôi tắt máy ảnh, tôi đã bật nó với hy vọng được ghi lại những giọt nước mắt lăn trên mặt chị, như tai tôi cũng mong chờ được nghe những lời than thở buồn rầu. Những biểu hiện mà tôi nghĩ, một người mẹ phải như thế như thế. Nhưng tôi không đợi nữa, vì dù không một chút nào tỏ ra đau đớn bi lụy, chị vẫn là một bà mẹ đúng nghĩa, đẹp và gây xao động như tất cả những bà mẹ trên đời.

Suốt buổi nắng, bà mẹ chỉ thắc thỏm chuyện con gái mình xanh xao quá, “lúc sanh nó được hơn bốn ký lô đó chế, giờ ốm tong vầy…”, rồi mẹ khùynh tay ngó lại mình, đượm buồn, “còn tui thì ú ì. Ai cũng nói tui ăn hết phần của con…”. Nghe như lời tự trách, làm mẹ to khỏe mà cũng không bảo vệ được con mình. Và suốt buổi nắng, bà mẹ không hề tỏ ra lo lắng chuyện trinh tiết, phẩm giá, chuyện con gái mình mai kia sẽ lớn lên với một vết thương…

Tôi không ngạc nhiên, hôm nay là đám giỗ mẹ chị, một bà mẹ nghiện rượu và chết vì ngộ độc rượu. Chị còn thằng em trai suy dinh dưởng, tuổi mười ba héo hắt như trái mướp khô. Tôi không ngạc nhiên, khi ở cái xóm lao động nghèo này, vét nồi bữa sáng đã lo gạo cho bữa chiều. Những người nghèo và không được học hành như chị cứ bị cuốn trong những bi kịch nối tiếp bi kịch, họ buộc phải học cách đau có hơi khác thường, nhưng cần thiết để giữ sống.

Tôi chỉ thấy lạ chính mình, sao mà mình nhớ chị lâu vậy, nhớ giọng nói giòn tan, điệu bộ vung tay khẳng khái, bầu vú cứ hồn hậu áp vào mặt đứa con mặc đèn flash máy ảnh lóe lên.

Bà mẹ chỉ quan tâm, con mình cần bú, và nó thì quá gầy gò sau một biến cố không ngờ. Cũng có vài chuyện cần thiết nữa, đứa con gái lớn đã tới tuổi vào lớp 1, thằng con trai kế với dị tật trên mắt không biết có chữa được không. Những điều cần cho tâm hồn, lúc bụng no mới nghĩ tới được...


.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeSat May 07, 2016 11:48 am


Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận 728229jpg1432599393



Tình Lơ

Nguyễn Ngọc Tư

1
Lâu rồi, má tôi có đi coi phim Công lý báo thù người ta chiếu đằng sân Xã ủy. Dượng Bảy (lúc chưa phải là dượng Bảy) bữa đó cũng coi chung, ngồi kế bên má, gần cái phông vải lớn. Coi hát thì chỗ này là ngon lành nhất, nhìn đào kép rõ, mụt ruồi giả của họ bị rớt, hoặc áo vua rách mình cũng thấy, nhưng đây là chiếu bóng, cái phim từ đầu tới cuối chỉ ca hát với đánh nhau. Cứ mỗi lần nhân vật ra đòn là má tôi né, thấy máu má tôi che mắt kêu trời, tới cảnh mấy con trăn rắn lớn bò tới thì khán giả đều sụt lùi ngã rạp sắp lớp lên nhau la ó ré. Má tôi sợ tới quên trời đất, dúi mặt vô lưng người thanh niên lạ hoắc bên cạnh, tức dượng Bảy. Khi phim gần hết, nam nữ chính múa hát ứ ư thì dượng Bảy đã chính thức chạm vào ngón tay út của má.

Hết phim má tôi để lại một cái lông ngỗng, em là cháu ông xã Nghiệp, rồi chìm mất vào dòng người. Năm bữa sau dượng Bảy (lúc đó sắp là dượng Bảy) nhờ một người bạn của ông ngoại tới nhà. Bữa đó má tôi chở mía đi lò đường để ép, dì Bảy ở nhà nấu cơm. Bạn già của ông ngoại khều dượng Bảy hỏi, “mầy thương đứa đó hả?”. Dượng ngó cái người thấp thoáng trong bếp, thấy cái eo thon, đuôi tóc dài, gương mặt nhỏ nhắn xinh xẻo, trên môi lúc nào cũng nhoẻn cười, dượng tưởng người quen liền gật đầu. Tới đám ăn trầu uống rượu mới hay dì Bảy có người chị sinh đôi, tức là má tôi. Hai người giống nhau đến mức khó mà phân biệt được, nên đã nhiều người há hốc, “Ủa, mới thấy con Bảy xách giỏ đi chợ cái độp giờ sao nó làm cỏ ở nhà rồi?” Dượng Bảy cũng cầm khay rượu há hốc ra, hết nhìn cô chị rồi tới cô em. Bẽ bàng. Lỡ làng.

2
- Cô không phải người tôi thương.

Dượng Bảy phũ phàng nói thẳng trong một tối say mèm, say đến nỗi thay vì chỉ thẳng dì Bảy thì dượng dứ dứ vô cái gối. Dì Bảy mắc cười quá, khẽ khều sườn chồng, nhỏ nhẻ, em bên này nè anh. “Tôi nhớ em từ bữa đi coi chiếu bóng tới giờ…”, dượng nói sau khi day lại ôm dì, sau khi cầm ngón út nhỏ nhắn của dì nắn mãi. Dì kệ, để tay mình ở đó, mặt héo lòng hon bỡi bàng hoàng, phải như bình thường dì đã thanh minh giòn giã, “Đây Bảy à nghen, con Bảy, không phải Sáu…” Nhưng dì biết nói gì cũng muộn, người nhầm lẫn là chồng dì, tối đó đúng tối tân hôn.

Bữa sau ra vườn đắp mấy họng đìa, hồn vía để đâu mà dượng xắn lưỡi dá vô chân, máu chảy đầm đìa. Dì Bảy bứt lá chuối non nhai nghiến ngấu đắp lên vết thương của dượng, máu trôi bả chuối này dì đắp lên bã chuối khác, miệng không hay chát. Dượng lắc đầu nói, cô không phải người tôi thương, người ta kia thấy máu trên phim còn không dám nhìn…

Hôm gặt, dì đẩy xuồng lúa bó trên mương ruộng cạn, mồ hôi này chưa khô mồ hôi kia lại tươm bê bết, lúc ăn cơm dượng ngồi gần nhăn mặt, cô không phải người tôi thương, đàn bà gì đâu mà chua lè, người ta kia thơm phức như múi mít…

Năm sau vợ chồng cãi nhau, bữa đó chồng có rượu nói ngang, tức quá vợ đá vô ống quyển của dượng rồi té chạy. Chồng rượt sát đằng sau. Lọt qua cây quao che khuất tầm nhìn, vợ liền xõa tóc đủng đỉnh đi ngược lại, hỏi lớn, “dượng Bảy, cầm chổi chà chạy đâu gấp vậy?”. Chồng tưởng chị vợ tới chơi, khựng lại sượng trân, “à, tôi.. tôi đuổi mấy con gà…” rồi mời vợ vô nhà, rót nước cho vợ uống, hỏi vợ đói bụng không để chồng nấu cơm. Vợ nằm chờ cơm đòng đưa trên võng, ngó dượng chổng mông thổi lửa, mắc cười nhưng buồn quá, không cười được. Tối đó chồng chắc lưỡi hít hà xoa dầu gió vô chỗ chân bầm tím, chồng nói cô không phải người tôi thương, người ta kia thấy đánh nhau trong phim còn sợ...

Năm sau dì sinh con gái đầu lòng, tóc rụng xơ xác, dượng Bảy ngó lom lom vào đỉnh đầu trống trãi nói, cô không phải người tôi thương, người ta kia tóc nắm môt vốc, mướt rượt…

Cô không phải là người tôi thương, sau này dượng còn nhắc đi nhắc lại câu này, mỗi khi say. Mà nghề thợ mộc cất nhà của dượng thiếu gì dịp say. Dỡ gỗ, nhậu. Lên đòn dông, nhậu. Lợp nhà, nhậu. Nhưng say nhất là về đám giỗ bên vợ, phải ngượng ngập gặp chị vợ lúc này cũng đã có chồng, phải nhớ lại mùi tóc, làn da, ngón tay nhỏ xíu nóng rẫy năm xưa. Nhưng đáp lại cái câu tạt mặt phũ phàng vô duyên vô dùng là một cái nhoẻn cười, cũng đôi khi dì Bảy hỏi lại, “chắc không à?”, mà dượng có lần dõng dạc nói chắc, dì vặn ngay, ‘vậy sao hồi hôm ôm tui?”. Dượng Bảy không biết trả lời sao, đành ngoẹo đầu ngáy o o.

Có lần dượng đi đám giỗ ba bữa chưa về, dì lấy tờ giấy vẽ bản đồ nhà mình, vẽ sông Cái Tàu cong cong ẹo ẹo qua rạch Giồng Ông, vẽ chòm cây trâm bầu dưới bến, vẽ cái nhà có bàn ông Thiên đằng trước, ghi chú rõ ràng “Nhà Hai Hiệp”. Trâm bầu thì dì viết chữ “trâm bầu”, không thôi người ta nói đó là so đũa sao. Xong dì sai con đem tờ giấy cho dượng. Đi te te về, dượng nạt, ý cô nói tui đi nhậu không biết đường về nhà hả? Cô sâu cay hết biết. Thiệt là… cô không phải người tôi thương, người ta kia mủ mỉ thật thà…

3
Ba mươi năm sau, dượng Bảy đột quỵ. Chân yếu, miệng méo, xãi lai nằm một chỗ, mỗi khi dì dìu đỡ vào nhà tắm, giặt khăn với nước ấm lau khắp người, thay quần áo cho, dượng mắc cỡ quá nói câu gì đó, dì Bảy phiên dịch là, “cô đâu phải người tôi thương. Người ta kia kín đáo, ý tứ tới cái tên còn không dám nói thẳng ra…”. Dượng nghe chảy nước mắt. Dì hết hồn, hớt hãi nhắn xuống xóm Rẫy kêu má tôi qua, để an ủi tinh thần dượng.

Buổi đó nhá nhem, đèn đỏ ối, dượng Bảy nhìn má tôi rồi ngơ ngác ngó quanh tìm dì, rướn cái cổ lên dượng nói từng chữ lục cà lục cục, “chị không phải người tôi thương…”

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Hqdefault

Ba Đồng Một Mớ Mộng Mơ

Nguyễn Ngọc Tư

Khi bước qua cái cửa xiêu của căn nhà xiêu, khi mắt chị còn chưa quen với cái không gian tối tăm bên trong nhà, cái mà chị nhìn rõ nhất là ánh mắt sáng quắc của thằng bé. Nó nằm cong queo trên giường, héo như một đứa trẻ lên năm. Xương nó nhô ra mẩu nào cũng bén ngót. Miệng liên tục đớp không khí, nước dãi ri rỉ chảy ra bên khóe môi sần sùi, thằng bé nối một sợi nhìn bền dai vào chị, hút chị đến ngồi với nó. Và từ đó, nó không buông tay chị ra nữa. Cứ níu lấy, cứ ghì chặt, mắt ầng ậc nước, cổ họng phát ra những âm thanh gru gru vô nghĩa… thằng bé tỏ ra quyến luyến không rời.

Bà mẹ xoắn quần ống cao ống thấp, chân rơi ra những mảng bùn khô, nói thằng nhỏ đã hai mươi mấy tuổi rồi, bà không nhớ rõ vì có nghĩa gì đâu, nó bao nhiêu tuổi thì mãi mãi như đứa trẻ như vầy thôi. Chị bỗng có cảm giác cách nắm tay này, cách nhìn da diết này là của một chàng trai. Máu mơ mộng trỗi dậy.

Nên chị nán thêm chút nữa trong khi những tình nguyện viên khác trong nhóm công tác xã hội đã lên xe ngồi chờ. Chị muốn biết thằng bé sẽ nói gì với chị. Cái sự chị sắp đi khiến nó kích động dữ dội, cơ thể co giật, mặt méo xệch, miệng há to và nước dãi chảy ra ròng ròng. Nó đang cố nói. Chị cố đợi một âm thanh khác với những tiếng gru gru tuyệt vọng. Chị ghé tai vào gần, rồi gần hơn nữa, đến nỗi tai chị gần như chạm môi nó.

Và nó nói bật thành tiếng. Bằng tất cả tinh lực.

Chị ra xe, quệt nước mắt chị gượng đùa, trời đất, tưởng đâu nó mê mình. Đùa, vì chị không mơ mộng đến vậy, chị mong nó nói “Ở chơi!”, nhưng suốt buổi ngồi với thằng bé, thấy nó nhìn mình khi dịu dàng khi rát bỏng, làm những cử chỉ khi trìu mến khi riết róng, chị không bao giờ tưởng tượng là nó nói “TIỀN!”.

Có người nghe chuyện nói đáng đời, ai biểu lãng mạn chi.

Nhớ hồi mới lấy chồng, chị mua tặng mẹ chồng ở quê cái nồi cơm điện. Mẹ đem cất vì “nấu cái này không có cơm cháy với nước cơm cho tụi nhỏ chan…”. Tặng mẹ mấy bộ đồ bà cũng khổ sở phân trần, “màu sáng quá má ra vườn sợ dính mủ chuối…”. Chị mua truyện tranh đem về cho bầy em, tụi nó háo hức cầm lên rồi hỏi bằng giọng háo hức hơn nữa, “chị hai có mua bánh mì không?”. Cứ trớt quớt vậy. Mỗi lần nhìn bình hoa vải chị mang về mẹ lấy túi ni lông bọc lại cho khỏi bụi, cho nó đỡ chói lên đơn độc giữa căn nhà vách lá, chị có chút mắc cỡ. Giờ thì chị chỉ mua đường, nước mắm… và chắc chắn chúng được hồ hởi đón nhận. Đôi lần chị thấy hơi cay đắng, đời người sao chỉ quẩn quanh với những thứ tầm thường bột ngọt, xà bông…

Trước hôm mẹ chồng qua đời, bà viết cái thư. Chị vừa đọc vừa khóc. Thư chỉ dặn chuyện tiền nong, đất đai. Lời cuối cùng, như chị vẫn thường quen đọc ở đâu đó, rằng “mẹ để lại muôn vàn tình yêu thương cho các con”, thì mẹ chồng chị viết “bỏ lỗi cho má, vì má mót được có nhiêu đó, chia cho tụi con hơi khó…”. Chị biết là mẹ thương con theo kiểu của mẹ, biết đâu còn nhiều hơn những bà mẹ kia, nhưng vẫn hơi bẽ bàng.

Biết là đời giờ ô trọc, nhưng chị thích mua vé đi tàu mơ mộng, không hay giờ tàu đó cũng chở vịt, gà… mất rồi. Lảo đảo xuống tàu mới biết tại mình hay tưởng mà ra nông nỗi. Có lần chồng chị dúi tiền vào túi kêu vợ đi mua kem dưỡng da tay. Chị sướng suốt buổi chiều, miệng tủm tỉm cười bâng quơ không đừng được. Sau đó anh còn khiến chị ràn rụa nước mắt khi bảo “nhìn cái tay nhăn nheo đi nhào trộn thức ăn là thấy hết ham, thấy mất ngon rồi…”

Chị ngồi ngắm mãi bàn tay, nghĩ, người ta nói yêu nó một câu thì có mất gì đâu. “Tôi xin người cứ gian dối, cho tôi tưởng người cũng yêu tôi…”, câu hát đã có thời chị ghét, sao giờ thấy đúng ý mình.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeWed Feb 01, 2017 11:15 pm

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận 2Q==

Chuyện Sủ Nhi

- Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư

Sủ Nhi đi làm ở Viện chữ Nhà nước chưa được nửa năm đã nhận 69 bằng khen, nghe nói còn sắp được cất nhắc lên làm viện phó trong vòng 3 tháng tới, nhằm vào kỷ lục viện phó trẻ tuổi nhứt châu Á - Thái Bình Dương.

Chuyện thăng tiến nhanh tuyệt đối chẳng phải vì Sủ Nhi là cháu ruột của viện trưởng, con trai của tỉnh trưởng, em vợ của phó bộ trưởng, mà hoàn toàn bởi tài năng xuất chúng của nó. Má nó, quá tự hào về thằng con đã phải đi thẩm mỹ viện nhiều lần, để thu gom cánh mũi lại, vì mũi phồng quá mức, bởi sự nở không ngừng.

Cả nhà Sủ Nhi hạnh phúc thì đương nhiên rồi, nhưng nhiều khi tự vả vô mặt mình, bởi tưởng đang mơ.

Ai mà dè được thằng nhỏ đã từng nhấn nước chết mèo, vặt trụi lông đuôi chó, cho gà nuốt dây thun, nhái tướng đi của bà Bốn Cụt bán vé số, chạy xe tạt nước cống vào người đi đường, cái thằng mà thiên hạ xúm nói “Cái đồ vô cảm đó chừng lớn lên chỉ có nước đi phá làng phá xóm...”, giờ lên tivi nhận giải công chức ưu tú trong lãnh vực cứu thua.

Chính Sủ Nhi cũng không thể tin được, bởi lưu ban suốt hồi phổ thông, và mảnh bằng đại học cũng do mua chợ đen mà có. Ngay hồi đầu năm thôi, nó mần thử phó giám đốc một bệnh viện, đã bị người ta vây đánh khi ưu tiên xếp lịch mổ bướu thịt cho một yếu nhơn, trong khi chục ca bịnh nặng ngàn cân treo chỉ đang chờ, với lý do “làm đúng qui trình”.

Vụ đó báo chí làm rùm beng teng xeng lên, khui luôn chuyện có lần nó bút phê vô bệnh án “Chết vì tắt thở”. May nhờ ba má nó dàn xếp kịp, nhưng nhờ vậy mà ông bác ở Viện chữ Nhà nước phát hiện ra nhân tài ngay trong nhà mình.

Sủ Nhi chính thức bước vô tòa lầu bự chà bá lửa, gia nhập vào đội quân gần một trăm viện sĩ, những người gần như cả đời gom não để sáng tạo ra những cụm từ, những câu chữ mang tính Nhà nước cao.

Thằng Sủ Nhi từng thắc mắc tính Nhà nước là tính gì, thì ông bác nói khó mà định nghĩa được. Sủ Nhi càng thấy khoái tỉ, bởi những thứ không có định nghĩa thì mông lung, nó làm sai bét cũng chẳng ai bắt bẻ. Nó linh cảm mình mà mần viện sĩ viện đó thì như xe cọp xoáy nòng, Ferrari đổ đầy xăng.

Vào buổi sáng đầu tiên nhận việc, Sủ Nhi nhận được đơn đặt hàng bên Sở Bảo Vệ, nhân viên của họ tung cước một tiếp viên trên máy bay, gái đó nằm vạ đòi xin lỗi. Và Sủ Nhi phán luôn khỏi cần nghĩ chi lâu: “Cứ nói mình duỗi cẳng cho máu chảy đều, là êm ru bà rù hết!”.

Nhưng Sủ Nhi khẳng định tên tuổi phải từ vụ gỡ bàn thua trông thấy cho Sở Cầu đường bởi cây cầu mới xây đã sập, nó phán: “Do biến động bất ngờ của dòng chảy cùng với độ lún khó lường của lòng sông”. Không học một ngày nào, nhưng thằng nhỏ nắm bắt nghề rất nhanh, bí quyết ở chỗ chữ phải có độ mông lung cao, và phải vô cùng linh hoạt.

Như khẩu quyết thần thánh của ông bác viện trưởng truyền lại, chữ của viện này phải như nước chảy không ai bẻ được, chữ phải như bóng không ai bắt được. Một viện sĩ giỏi thì biết thay chữ “tụt hậu” bằng “phát triển chậm nhưng mà chắc”, cái đó Sủ Nhi phần năng khiếu từ trong máu, phần được ông bác viện trưởng truyền chiêu, nên nó cũng sáng tạo hơn người.

Sở Đi Lại để xảy ra bộn tai nạn xe cộ, Sủ Nhi cho mấy chữ: “Số lượng tai nạn trong khuôn khổ cho phép”. Chỉ nhiêu đó thôi mà phần thưởng của Sở không bị cắt xíu nào. Cũng vậy, Sở Sức Khỏe tai qua nạn khỏi sau 1 năm bệnh dịch tràn lan, chỉ bởi một câu của Sủ Nhi tháo cũi sổ lồng: “Tuy dịch bệnh xảy ra nhưng vẫn trong tầm kiểm soát”.

Tiếng tăm Sủ Nhi lên cao, Viện chữ Nhà nước càng được trọng vọng. Hôm kỷ niệm 80 năm lập viện, người ta khẳng định lần nữa sự đóng góp vô cùng bự của từng viện sĩ, giúp cho thiên hạ tránh được đại loạn, bởi mỗi tế bào não ưu việt của họ đã sản sinh ra bao cụm chữ lay động lòng người, xoa dịu vết thương, hàn gắn nỗi đau, như: “Lỗi do cơ chế”, “Sai sót trong thiện chí”, “Khuyết điểm mang tính khách quan cao”.

Viện trưởng, người góp phần sáng tạo ra những cụm từ mang tính mỹ cảm ngút trời ấy, vốn đau đáu lo lớp hậu sinh chưa có ai xứng đáng để giao viện lại, may phát hiện ra thằng cháu mình, cảm thấy ưng bụng vô cùng. Nhưng không phải là không chạnh lòng, khi mỗi lễ Tết về, khách nườm nượp đổ về phòng thằng cháu, nhằm bày tỏ lòng biết ơn, nhờ nó mà ghế ai cũng vững như bàn.

Ngoi lên cao, kẻ ghen ăn tức ở cũng nhiều. Có lần thằng Sủ Nhi bị họ bắt quả tang đang chơi xếp hình với chục ngoài mỹ nữ, ai cũng nghĩ phen này nó chết chắc, nhưng thế nào mà lỗi cuối cùng là do “Chưa được chừng mực trong công tác gần gũi quần chúng”.

Cũng năm đó, Sủ Nhi say rượu lái xe vô đường ngược chiều bị chụp hình đăng báo, trong bản kiểm điểm đầy nước mắt, nó kêu mình “Xác định phương hướng chưa được sâu sắc”.

Chỉ duy nhất một lần Sủ Nhi phải chịu thua, khi có một em ngắn ngủn tới nhà mang theo một que hai vạch bắt đền nó.

Dù chữ nó có ảo diệu cỡ nào, kiểu như “Rút chậm một nhịp so với thời đại”, thì cuối cùng nó cũng bị em Ngắn nhốt vô tờ hôn thú, chỉ bằng một câu trần trụi hơn: “Tía tui là vụ trưởng, cưng tính sao thì tính!”. Sủ Nhi còn biết tính gì, đầu hàng vô điều kiện.

Ông Trời như thấu hiểu nỗi đau của nó khi có cô vợ ngắn quá cỡ, nên đền bù xứng đáng. Năm sau, Sủ Nhi một bước lên viện trưởng, bởi ai cũng thấy không cất nhắc nó sớm, là có tội với non sông!

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận 9k=

Một trái tim khô...

- Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
 
Năm Hậu ba mươi chín tuổi, Hậu gặp một chuyện ly kỳ, chạng vạng trên đường về nhà, qua cua Bún Bò, Hậu bị đâm. Thằng cha này giết người mà nhát hít, nhắm mắt đâm hai nhát nhưng chỉ ngoáy trúng bả vai. Thấy Hậu đổ gục, người này còn sám hối một câu, xong quăng dao xuống mương cống chạy mất. Sau câu nói ấy Hậu mới thấy mình chết ngắc.

Vết thương lành nhưng Hậu mắc chứng trầm uất, hoang tưởng, rối loạn tâm thần. Hẳn cái cú sốc chết đi sống lại ấy khủng khiếp lắm. Hậu đã khóc suốt tháng đầu nằm viện, uống thuốc vào thì ngủ thiếp, thức dậy đã thấy nước mắt chảy thành hàng (như thể Hậu đã khóc sẵn trong mơ). Tháng thứ hai Hậu vật vờ, nín thinh nín thít, nằm không muốn dậy (mà đã dậy thì chẳng muốn nằm), đang ăn rớt đũa Hậu thà lấy tay bốc chứ không thèm lượm lên. Rồi bỗng một ngày Hậu tỉnh queo, xin bác sĩ cho xuống bếp bệnh viện nấu cháo từ thiện với chị em, "Chớ rảnh quá biết làm gì bây giờ". Giỏi giắn, tươi tắn, đến nỗi không ai tin Hậu còn bệnh (bác sĩ nhiều khi còn không dám tin), nhưng mãi Hậu vẫn không nhận ra chồng. Thường nhiều lần lại thăm, Hậu ngó lơ, Thường nắm tay, Hậu quạu quọ, mặt nhăn như khỉ ăn gừng, bảo, tui có chồng rồi nghen, cha nội. Chồng tui tử tế đàng hoàng chứ đâu có cà chớn như ông. Thường buồn quá, tha thểu ra về.

Hôm mới giải phẫu xong, cảnh đời mới buồn ác liệt. Khi tỉnh dậy, Hậu chỉ biết tê tái hỏi một câu, " Sao anh đành đoạn giết em?" (trời đất ơi, chắc là hết chuyện nói rồi). Ba đêm Thường thức trắng, con mắt trỏm lơ, người căng như sợi dây đàn, lặng người theo mỗi tiếng Hậu rên, hớt hải khi Hậu trở mình, nhưng đến khi Hậu hỏi câu ấy, Thường mới quỵ xuống, rối rít gọi em ơi, em à, em sao vậy, thấy đau ở chỗ nào. Anh đây mà, chồng em đây, không nhận ra anh sao...

Hậu chỉ nhếch một nụ cười tê dại, thấy mình quên thật rồi, điên thật rồi. Cái người đàn ông đang đứng trước mặt mình đây, là chồng, vậy mà bây giờ nhìn mặt thấy xa lạ, ghê tởm, thấy mình nẫu lòng ra, muốn chết quách đi cho rồi. May, sau này Thường không đến nữa, vì bận túi bụi thay Hậu tiếp nhận chức Tổng giám đốc công ty Mặt Trời, nghiễm nhiên là Chủ tịch Hiệp hội đồ chơi (những gì Hậu để lại nặng nề hết sức). Thường than với nhỏ Thỏ, "Gặp mẹ con lòng ba đau quá". Mà, không đau sao được, kỷ niệm tươi rói như mới hôm qua, hai người cùng nhau nấu bữa cơm chiều, cùng nhau sơn lại đôi cánh cửa, sửa hàng rào, cụm nụm trồng hành quanh chậu ớt. Buổi sớm chung xe đến công ty, vào đấy thì mỗi người một phòng nhưng ngang qua lần nào cũng búng vô cửa kính chóc chóc, để ngẩng lên ngó nhau cười. Hậu đi kiểm tra công việc ở chi nhánh miền Tây, Thường gọi điện thoại theo, ngập ngừng hỏi chỗ ấy mưa nhiều không?

Lúc đó, Hậu đang căng thẳng vì phát hiện ra một vụ bê bối tài chính động trời nên trả lời nhát gừng, lạnh ngắt. Phải biết đấy là cuộc trò chuyện cuối cùng, thể nào Hậu cũng nói thêm vài câu em nhớ anh em yêu anh lắm, thể nào cũng nhắc chuyện tình xưa xanh mướt màu rau muống luộc chấm tương kho, chuyện Thường đạp xe chở Hậu đi dưới pháo hoa những giao thừa... Mối tình đẹp nhưng cũng nhiều trắc trở, mấy bận Thường tránh đi vì dư luận đồn đãi Thường lợi dụng con gái nhà giàu, là mấy lần Hậu tất tả giữ người yêu lại, " Người ta nói gì kệ họ, em tin anh".

Vậy mà bây giờ lạnh lẽo, tan hoang như đồng sau bão, đến nỗi hay tin Thường lấy vợ, Hậu dửng dừng dưng, tỉnh bơ ba khía. Lòng chỉ se đau khi thấy nhỏ Thỏ mặt xìu co, tủi buồn ngồi thút thít, nó chờ Hậu khóc quá trời, chỉ có nước mắt rơi là hy vọng một trí nhớ, một tình yêu, một mái ấm về lại... Hậu biết nó nghĩ gì nên ôm lấy đôi vai nhỏ, bảo "Chừng con lấy chồng, mẹ khóc cho con coi ". Thỏ mếu máo cười, ai mà thèm... Rồi mẹ với con nhìn buổi sáng đã lên cao, nghe mùi gió chướng ngọt ngào, thấy chỗ u ám như  bệnh viện mà trời xanh, trời đẹp như vầy, chắc ở ngoài kia nắng nhuộm đời tươi rực rỡ. Hậu bảo con, sẵn bữa nay mẹ xuất viện cho rồi. Thỏ phì cười.

Tưởng nói chơi, nhưng Hậu ra viện cũng đơn giản như  trả phòng khách sạn. Đã mướn sẵn một căn nhà nhỏ như hộp diêm quẹt nằm trong con đường cũng nhỏ, Hậu dọn ngay vào đó. Hàng xóm gầy gò ra xe đỡ ít đồ đạc còm nhom. Buổi chiều, Thỏ chở sách vở, quần áo, búp bê... lại, kêu Hậu ngồi nó chải tóc cho, bảo thiếu con mẹ bê bối cho coi. Mà, mẹ ơi, con nghỉ chơi với ba rồi...

Hậu trở lại bệnh viện, xin việc. Người ta dành cho Hậu một chỗ làm ở khoa ngoại thần kinh. Công việc đơn giản chỉ quét dọn và săn sóc bệnh, nhưng những người trước bỏ việc vì sợ. Hậu thì thấy chỗ này dễ thương. Đi qua căn phòng cũ, nắng vẫn chênh vênh đeo ngoài cửa sổ, nghĩ tức cười, sao mình có thể ở đây từng ấy tháng trời vậy cà. Để kết bạn với đám người buồn cười, một cậu nhóc múa may vèo vèo, kêu Chỉ Nhược nàng ui, nhoẻn miệng cười khi Hậu gọi lại bằng Vô Kỵ. Một phụ nữ trạc ba mươi, chín năm trời giắt hoa lá trên đầu thi hoa hậu, rớt ngay phần ứng xử : Trước hết, em xin cảm ơn các đấng sinh thành, sau đó cảm tạ cha mẹ đã đẻ ra em... Một anh chàng làm thơ không hiểu nổi, nhiều lúc giảng thơ cho Hoa Hậu nghe, tự mình ngất ngư cười, câu này tui hổng biết viết về cái gì. Một ông đẹp người, hiền hậu, lên cơn thương nhớ vợ mới xé áo quần. Có lần ông lẻn ra ngoài, trèo lên lan can tầng bốn ngó xuống sân gọi vợ hời hời, Hậu dịu dàng kêu: " Xuống đây với em, mình ơi", ông trở xuống, ở truồng tồng ngồng, ôm Hậu vào lòng, ông khóc. Hậu cũng khóc, trong vòng tay ấm mà nghe mình lạnh ngắt, khóc cho một trái tim đã chết ngoẻo cù nèo.

Chết ngay ở cua Bún Bò, ngay sau khi thằng cha giết mướn run rẩy bảo, "Đừng oán tôi nghen, có oán hận thì oán chồng bà". Trong một thoáng Hậu xâu chuỗi các sự kiện lại. Chồng mình. Khoản tiền thất thoát. Cô kế toán trưởng chi nhánh miền Tây. Những lời đồn đại (mà trước giờ Hậu chẳng tin)... Hậu nghe tim mình vỡ bục ra, giãy đành đạch rồi nín luôn. Sau coi phim thấy cảnh hiếp đáp éo le cũng không thương khóc nữa (hoàn cảnh ấy thì sức mấy mà đau bằng mình). Có lần đi chợ gặp Thường, Hậu ung dung chào, hỏi. Xong đứng nấn ná ở đấy trông tim nó lồm cồm ngồi dậy nhói chơi, nhưng không ăn thua, nó lặng như tờ.

Trái tim đã mắc chứng vậy nên tội mấy ông đi qua đi lại tán tỉnh tòm tem, nói thương em quá chừng. Hậu cười, thương thiệt hông à, lúc trước tui bị điên đó nghen. Ai nghe nói cũng sửng sốt, chạy dài, dù có tiếc hùi hụi, chắc lưỡi, than, " Đẹp vậy mà điên, uổng thiệt". Nhưng tưởng tượng thử coi, hai người đang ngủ bỗng dưng vợ bật dậy lấy dao kề cổ ta, cười khà khà khà, quá ớn.

Chỉ Nhâm còn lại, Nhâm cười, ai cũng một thời điên, vì quá sung sướng, quá khổ đau, vì danh vọng... Nói tới đây, Nhâm thảng thốt cúi đầu, tôi đã có lần điên vì tiền, lúc đó, con gái tôi đau nặng lắm... Hậu gật đầu miệng ờ ờ (như đã chứng kiến cảnh ấy rồi, đã biết tỏng rồi), nhưng chưa thôi dọa thêm, "Nhâm không sợ thiệt sao? Tôi điên là quên chồng tuốt luốt". Nhâm cười, "Tôi sẽ làm cho cô Hậu nhớ tôi hoài". Mà có vẻ như Nhâm chẳng làm gì thì Hậu cũng nhớ, cũng hay nghiêng ngó người ta. Nhâm ở kế bên, hai nhà chung vách, mới đầu Hậu không thấy mặt, chỉ nghe tiếng cơm sôi, tiếng đập muỗi. Và những cái thở dài xao xác như lá rụng hoa rơi. Thằng cha nào mà coi bộ đời cũng buồn, Hậu nghĩ, đến nỗi không nghe tiếng con nít cười, tiếng đàn bà càu nhàu chạy gạo. Một bữa Hậu mở cửa ra, đá nhằm Nhâm nhậu say nằm ngủ đại dưới thềm. Kỳ cục thiệt, không hiểu sao Hậu thảng thốt, nghe tim nhót lên một cái, chết cha, mình với thằng cha này có duyên gì mà gặp ở đây.

Nhâm thì tin là có duyên phận, bởi nhìn Hậu, Nhâm thấy thương như gặp ở kiếp nào, hồi nào... Mỗi chiều về, thấy mẹ con Hậu ngồi trước cửa nhổ tóc sâu, Nhâm thấy lòng êm đềm như cỏ. Cứ muốn ngồi gần đấy cho đủ một chòm hạnh phúc, để bình yên nhả khói thuốc lên trời. Nhâm thương cả nhỏ Thỏ, một lần nó bước qua khi Nhâm mới vừa ngủ dậy, thảng thốt, bàng hoàng, Nhâm kêu lên hai tiếng con ơi. Để rồi bẽ bàng nhìn nhỏ Thỏ cười.

Nụ cười đó, con gái Nhâm không bao giờ có. Thương Nhâm, nó chỉ thiu thỉu gượng nhếch môi mỗi khi chuẩn bị vào phẫu thuật. Rồi tới một ngày nó thôi không cười được nữa, dù là một cái cười thiêm thiếp, xanh leo lét, như mộng mị, chiêm bao...

Nó đi rồi, Nhâm nhậu suốt tháng sau, định là sẽ nhậu hết nửa đời còn lại. Đỡ hết biết, một ngày kia mẹ con Hậu đến, chui vào cái hộp kế bên, cười giòn, họ còn kéo ra sàn nước, chỗ tắm giặt chung, con xối nước cho mẹ gội đầu. Hình ảnh ngọt ngào vô phương.
Nhâm phụ hồ ngoài công trường, mong ngày qua mau, chạy về nhà, có khi chỉ để coi Hậu ngồi giặt áo. Nhỏ Thỏ cười, kéo Hậu lại thông báo tin... buồn, ông đó mê mẹ quá trời. Ờ, mà ổng coi bộ hiền hén, tại đời cũng buồn quá. Hậu gật gù. Đẹp trai. Mũi cao. Nhưng để râu tóc quá dài, dọn lên sẽ đỡ hì hợm. Hơi bê bối, Thỏ nói, bằng chứng là bạ đâu ngủ đó. Con người có vẻ phức tạp, vì chơi với mấy người cũng có vẻ... phức tạp. Cái thẹo dưới cằm quá ấn tượng, gặp một lần chắc là khó quên, Hậu nói với vẻ như đã biết rành, nhưng cái tâm lương thiện. Con thấy sao? Mẹ thấy sao? Hai mẹ con bình luận như đang đứng trước máy giặt sắp mua về.

Sau đó là một mùa mưa dài, chuyện của Nhâm với Hậu không có biến động gì lớn. Cũng đi qua đi lại, cũng bịn rịn trong lòng, cũng giả đò kiếm chuyện nói chơi, nhưng thay vì trong bối cảnh nắng ngột cả người bây giờ hai người nhìn mưa rơi. Nhìn nước bò lên ngập đám cỏ đằng trước, mấy con cá nhỏ đủng đỉnh lội tới lội lui, thò lỏ nhướng con mắt coi lũ người ta chẳng ra gì. Nước tràn vô nhà ngập nửa ống chân, bèo hoa dâu trôi bồng bềnh chân giường, đi làm về Nhâm qua nhà, hì hụi tát. Bữa sau nước lại chảy vào, không thấy Nhâm than, biểu Hậu cứ ngồi trên giường, bôi thuốc lên mấy chỗ nước ăn. Có đám trẻ lội bủm xủm đi qua hát rằng "Ước gì mình đừng ngăn cách, ước gì nhà mình chung vách, anh... khoét tường... hú hí với em". Hậu lắc đầu, "Con nít nhà ai mới tí tuổi đầu mà quỷ quái", Nhâm cười, sẵn nói luôn, "Tôi tháo vách thiệt à, cô Hậu".

Câu này, Hậu coi như là lời tỏ tình, thì đã là lần thứ năm. Tính luôn một bữa đòi góp gạo nấu cơm, một bữa đòi trả tiếp tiền nhà, một bữa nhỏ Thỏ bị đứt chân mà mắc cỡ không cho Nhâm cõng, Nhâm gắt, thì cháu cứ coi tôi như cha, một bữa gió buồn thiệt buồn, Nhâm nói phải chúng ta ở chung nhà chắc là vui lắm...

Vui gì, chuyện tình này chắc bỏ lửng lơ như vậy thôi. Hậu vẫn nói cái câu, "Nhâm đâu có hiểu nhiều về tôi..." để thay lời từ chối. Bởi Hậu gật đầu, hẳn nhiên hai người sẽ lấy nhau. Sau bữa tiệc nho nhỏ sẽ là đêm động phòng (chớ còn gì nữa), Nhâm sẽ phát hiện Hậu có một cái thẹo lớn trên vai. Thể nào Nhâm cũng hỏi tại sao, mà Hậu không nghĩ ra được câu chuyện gì để nói. Kể sự thật rằng một bữa đi qua cua Bún Bò, Hậu bị đâm, sợ Nhâm sẽ đau. Tuần trăng mật chưa bắt đầu đã lịm buồn, dở cười dở mếu...

Nhiều khi không thể tin được, làm gì có chuyện trùng hợp lạ lùng vầy. Nghĩ đời thiệt mắc cười, sao biết nhau ở đây, để thương nhau đến mức này, để rồi nhận ra lúc trước đã gặp gỡ một lần, ở cua Bún Bò, trong một tối đèn thì u ám vàng vọt mà cái vệt sắc lạnh của con dao lại lóe lên...

Nguyễn Ngọc Tư
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeSun Mar 05, 2017 9:32 am

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Images?q=tbn:ANd9GcTPCrs4ChlOikkS9Ww4KAaffFTGH2FjOImMrCSu-km4ML3FhYLn_Q
 
Ván Cờ

Anh ngụ cư ở xóm này đã bốn năm. Cũng chừng ấy năm anh hầu cờ cùng ông già. Anh không mê cờ, nhưng mê cô cháu gái ông, ngay lần gặp đầu tiên, anh nhìn thấy cô đang buộc tóc. Tay cô thon dài, muốt túm mớ tóc nhỏng tên, để lộ cái gáy cũng thon, nà nuột chập chờn dưới những sợi tóc con. Thích đến nao lòng, nhưng chỉ là thương yêu thầm lén, anh lấy cớ qua chơi cờ với ông già, để tranh thủ ngó mong.

Ông già biết tỏng bụng dạ của thằng bạn cờ. Ông thấy đối thủ có những nước đi lãng nhách, hớ hênh mỗi khi vẳng từ sau bếp tiếng cười giòn của cô cháu gái. Có lần bị vây đánh quá, ông ấm ức, nên kêu cháu ngoại đem ra bình trà nóng, nhìn con cờ xớ rớ, run rẩy trong tay thằng nhỏ, ông cười thầm, ai biểu dại gái, cho mầy chết nè con. Nhưng ông cũng nổi tiếng là khó tánh, thủ cựu nên ngay lập tức, ông đằng hắng e hèm khi thấy ánh mắt thằng nhỏ cứ soi vào cái gáy trắng trẻo kia. Gặp người khác, ông đã đuổi thẳng. Anh may mắn, vì những ngày sống lang thang, làm bạn với ông Từ cao cờ giữ miếu Bà Chúa Xứ, cũng học được ít nhiều. Và cái lối chơi biến hóa, lúc thâm trầm, lúc táo bạo, khi phóng khoáng khi lại nghiêm cẩn, chặt chẽ của anh làm ông già ngây ngất. Một đối thủ giỏi.

Nên ông già vừa giữ vừa buông, nhử như bắt vịt con câu nhấp cá mẹ rồng rồng, cắn răng (nói cho văn vẻ vậy chứ ông già còn cái răng nào đâu mà cắn) cho anh nghiêng ngó. Nửa năm, anh đã kịp quen mùi tóc, kịp nhớ bước chân, kịp thương đuôi mày. Một dịp tình cờ anh nghe phớt qua ông già nói với cô cháu ngoại “cái thằng đó tánh cũng được nhưng gốc gác không có, lại nghèo quá…”. Lẫn trong câu nói là tiếng gậy gõ lọc cọc trên nền bê tông, ông già thường làm vậy mỗi khi tỏ thái độ cương quyết. Anh biết ông già nói tới mình, anh về căn nhà trọ nằm gác tay lên trán, bàn tay phụ hồ chai sạn này sao xứng để cầm bàn tay non nhuốt kia? Nhưng vẫn dè dặt, hy vọng. Cho đến một ngày hay tin cô gái sắp lấy chồng. Trời sập cái rầm, vụn vỡ, nát bét hết những giấc mơ.

Buồn đến dại đi, đến xiêu cả đôi chân, trắng dờ con mắt, nghe câu hát “tình yêu như vết cháy trên da thịt người” mà buột miệng, sao nói trúng dữ vậy trời. Nhưng buổi chiều từ công trường về, anh lại qua nhà ông già, bày ra cuộc cờ mới. Những con cờ trong tay anh táo bạo hơn, liều lĩnh hơn, ngạo mạn hơn, nhưng cũng có lúc dại đi, ngập ngừng. Ông già có chút ngẩn ngơ, những nước cờ cho thấy lòng thằng nhỏ này đang đau, đáng lẽ nó phải giận mình, không thèm dòm mặt mình cỡ nửa năm chớ.

Những ván cờ chiều vẫn tiếp tục bày ra, bất chấp nắng mưa, bất chấp những nỗi lo cơm áo, bất chấp lòng đau, bất chấp cô gái đã theo chồng từ tháng Giêng gió bấc. Ông già lủi thủi đi vào đi ra trong căn nhà vắng, buồn hiu, trông cho mau hết ngày, cho mau đến chiều, ông bắc ấm nước, châm bình trà, ngồi ngó ra đường, xao xuyến ngóng bóng người quen bước qua cổng. Đấu thủ giỏi ông già không thiếu, nhưng chẳng ai có lối chơi giống anh, ngẫu hứng và hoang dã như ngọn gió. Có bữa, anh từ công trường về muộn, ông già thắt thẻo ra đón tận đầu đường, nhác thấy anh, ông thiệt thà kêu lên, tao ghiền mầy quá trời, nhỏ.

Anh chỉ cần có vậy, chỉ chờ có vậy. Anh đã thắng một ván cờ lớn. Anh đã làm cho ông già không thể sống thiếu anh. Có được chiến thắng này, anh không bỏ sót một chiều nào, để ngồi chơi cờ với ông. Anh đưa ông già vào một thói quen bất di bất dịch. Nhiều khi từ công trường về, mệt rã rời, có bữa nhậu nhẹt say mềm, anh vẫn ráng ngồi chơi vài ván. Nhưng khó nhất, là anh phải che giấu mối hận trong lòng mình, bởi những người chơi cờ giỏi luôn đọc được ý nghĩ của đối thủ. Anh không biết mình lấp liếm bằng cách nào mà ông già không hay biết, thằng nhỏ này đang căm hận, bởi câu nói nghe lóm được một hôm nào, thằng nhỏ này nghĩ, cô gái đó hẳn cũng thương mình, có tình ý với mình, nếu không thì cô đâu có rón rén thò đầu ra khỏi cửa buồng cười với anh, nếu không thì cô đâu có kiếm cớ quét sân mỗi chiều để tiện cho anh nhìn, nếu không thì cô đâu có đỏ mặt khi vô tình anh chạm vào tay… Chỉ tại ông già cản ngăn, ép uổng.

Và anh cũng không biết tại sao mình lại kiên trì cho một kế hoạch trả thù đến vậy. Có lẽ, cuộc tình tan vỡ đã để lại trong lòng anh một khoảng hẫng, khoảng rỗng không, và mối hận với ông già là điều duy nhất anh có thể níu lấy, tựa vào mà sống tiếp. Những lúc nghĩ tới cái ngày anh từ tốn buông từng con cờ lăn long lóc trên đất, và rất chậm rãi, ngạo mạn, anh lạnh lùng mỉa mai, “tôi không thể chơi cờ cùng ông được, bởi vì tôi nghèo, tôi không gốc gác, tôi thân sơ thất sở, tôi thấy không xứng…”, anh tưởng tượng mặt ông đã tái dại đi. Và mỗi chiều phai, ngồi nhìn về phía dãy nhà người ta cất cho thuê, ông già mỏi mòn, hoang vắng, tuyệt vọng. Còn anh, không cần ăn gì cũng thấy sướng, thấy no nê.

Anh định kết thúc ván cờ vào một ngày gần, nhưng ông già đã bỏ cuộc. Ông ra đi vì một cơn đột quỵ. Anh ngơ ngác. Những buổi chiều từ công trường về, anh để nguyên bộ đồ lấm lem bùn đất, xi măng, đứng dán rất lâu vào cánh cổng đã đóng chặt. Anh nhớ ông già khủng khiếp, nhớ từng sợi tóc, từng nếp nhăn, từng mảnh da khô bong lên lùi xùi trên mặt. Nhớ ông già luôn kẹp con cờ vào giữa ngón trỏ và ngón giữa, dịu dàng, hờ hững, nhớ ông dù cao hứng cỡ nào thì con cờ cũng được đặt rất khẽ khàng, nhớ ánh mắt ngậm ngùi nhìn theo con tốt bị ngựa của anh loại ra khỏi cuộc chơi, nhớ cái vẻ sướng rơn mà cố che giấu, kìm nén, nên chỉ hơi ve vẩy hàm râu mỗi khi ông lật ngược được thế cờ. Anh nhớ mùi dầu cù là Con Hổ trộn lẫn mùi băng phiến nơi cổ áo quăn queo.

Anh không còn nhớ câu nói nào xa xưa nữa. Một mình bày ra một ván cờ hoang vắng, trong anh tràn ngập nỗi buồn.


Nguyễn Ngọc Tư
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeFri Mar 10, 2017 4:25 pm

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận 120214afamilyTS44_9f009

Tình Thầm

Quán nhỏ. Trang trí cũng không đặc biệt, chỉ mấy chiếc đèn lồng đỏ đã méo mó, ám bụi treo giăng giăng trên cái trần ố vàng. Tấm nhựa phủ trên bàn nước hoa văn âm u như loại mà người ta thường trải trên bàn thờ. Một mảng tường dày đặc những mẫu quảng cáo nước giải khát, vất vả lắm, cô người mẫu mặc áo tắm nằm xoãi trên bãi biển mới chen được một chỗ trống khoe cái rốn có xỏ khoen. Chân tường loang vết cà phê.

Cũ kỹ. Nhàu nhĩ. Mụ mị. Hai cô chủ quán chắc bị ngâm lâu trong cái ủ ê nên cũng ơ hờ khi khách bước vào. Hoặc họ chỉ thờ ơ với anh thôi. Cứ mỗi lần đưa anh đến cái quán tuềnh toàng này, nhìn ánh mắt tai tái của hai đứa con gái, cô lái xe thấy sướng lắm. Anh rất đáng được chào đón như vậy.

Mà, có vẻ anh cũng thích cái kiểu đối xử lạnh lẻo đó. Những lần đến, ngồi uống ly cà phê sánh đặc nhưng lạt nhách vì pha nhiều bột bắp, đến nỗi cây muỗng rớt vào tưởng như không chìm được xuống đáy, nhưng anh lại hưng phấn lạ thường. Cả trong niềm tuyệt vọng khi Tóc Tém, cô gái đẹp nhất, thà ngồi tỉa chân mày, thắt bím cho bạn chứ chẳng thèm ngó ngàng đến anh, đến chiếc Lexus đắt tiền bóng lộn đậu trước quán.

Ánh nhìn dửng dưng cho thấy, đấy chỉ như xe đạp trị giá ba trăm ngàn. Và sự lịch lãm, sang trọng, hào hoa của anh thì cũng ngang bằng đám thanh niên bên xưởng tiện nhếch nhác dầu nhớt ngồi ở góc quán mỗi trưa. Ngày đầu tiên bước vào cái quán này anh giống như một người tầm thường, tay trắng. Tệ hơn, trong ánh mắt của Tóc Tém, dường như không mấy cảm tình. Mỗi lần thấy nàng bực dọc đá ghế khi anh bước vào, cô lái xe biết mình sẽ còn đưa anh quay trở lại Dốc Mây nhiều lần nữa, cuộc theo đuổi, chinh phục sẽ rất dài.

Cô thay cha làm công việc lái xe cho anh là một sự kiện lớn đối với đám em nhỏ, chúng tin rằng sẽ có xảy ra chuyện tình giữa Lọ Lem và hoàng tử, căn cứ vào những bộ phim Hàn Quốc, phim Đài Loan mà ngày nào tụi nó cũng coi. Sẽ có cổ tích, chị hai dữ dằn, mạnh mẽ, giỏi giang của chúng sẽ lấy được tấm chồng giàu, chúng tin vậy. Cô chỉ cười khào khi bắt gặp ánh nhìn lem nhem nước của người cha vừa ngã bệnh, rồi lớn tiếng rầy, mấy đứa, đừng nói bậy.

Câu đó còn có nghĩa, con không có hy vọng gì, vốn chẳng nên hy vọng gì, ba à. Gương mặt méo mó của ông già giãn ra, nhẹ nhỏm. Cô biết rõ người đàn ông mà từ mai mình sẽ phục vụ đưa đón dù ba cô chẳng mở miệng kể gì, “kín miệng, như người cha nói với con gái khi tôi xin việc ở hãng taxi, là đòi hỏi đầu tiên của người lái xe”. Nhưng ông già không thể giấu giếm việc trở về nhà vào những khuya xa, cơ thể mỏi nhừ vì ngủ trên xe, và cả người vẫn còn vương vất mùi nước hoa đắt tiền.

Lúc ấy, cô không tưởng tượng ra được đó là hình ảnh của mình, sau này. Cũng đậu xe dưới khuôn viên khách sạn nào đó thiếp đi vì chờ đợi mỏi mòn, cũng chứng kiến ông chủ thay áo cho bạn gái và thay bạn gái như… áo, cũng phải dìu anh ta lên thềm nhà ướt đẫm sương, cũng bị anh ôm chầm lấy và gọi một cái tên xa lạ, sau đó gục đầu lên vai mình. Về nhà, đứa em kế khẽ dịch một khoảng giường cho chị, thì thầm, chị Hai thơm quá. Cô hơi quạu, mùi hương này khiến cô trằn trọc rất lâu.

Nhưng sáng sau, dù hai mi mắt giữ rịt lấy nhau, cô cũng đến đón anh đúng giờ, như một cây kim đồng hồ khô dầu rọt rẹt vẫn mẫn cán chạy đều. Cô sẽ đưa anh dạo một vòng cà phê, công ty, quán trưa, từ xế chiều trở đi là sân tennis và những cuộc hẹn hò tình tự trên rừng, dưới biển. Thời gian ba cô lái xe cho anh lâu tới mức, đôi khi anh gọi cô, “dừng đây đi, bác Năm” rồi tự phì cười. Cô không cười, cô có quá nhiều lý do để không cười, mưu sinh vất vả để nuôi mấy đứa em và người cha bệnh tật, bản tính lầm lũi, và việc mình ở ngay trước mắt người khác mà lại bị quên lãng làm cô thấy khó chịu.

Nhưng khó chịu hơn là khi anh quan tâm cô, trong cơn cao hứng bâng quơ nào đó. Nên trong lúc chọn giày cho bạn gái, anh cũng tặng cô một đôi, tất nhiên, chẳng vừa chân lắm. Hay có lần anh đặt vào tay cô bộ váy áo, mà cô không biết phải làm gì với chúng. Lam lũ, bụi bặm, phóng khoáng cô đã quen. Cô thấy vui vẻ trong sự quên lãng mình là phụ nữ, nhưng bằng cách nào đó anh nhắc. Bực mình lắm.

Cô rã rời về nhà than, sao muốn nghỉ việc quá đi. Đứa em ranh mãnh nhận xét, “chị Hai yêu rồi”. Cô dựng lên, nạt nộ, “nói bậy riết rồi quen…”. Làm sao yêu được cái người mà ngày ngày cô chứng kiến anh ta loay hoay vào những cuộc hẹn hò với ai, ai và ai. Trên chiếc ô tô sang trọng, mỗi lúc cô nghe ông chủ ngọt ngào với cô gái khác, “Anh thấy trống rỗng và cô đơn. Không hiểu sao khi gặp em, anh chỉ muốn nói với em thôi”, cô ghét đến nỗi chỉ muốn vọt miệng, “xạo đó, ổng nói câu này với mấy chục người rồi”. Nhưng cô không thể thốt ra lời, chỉ biết nhìn những người phụ nữ xiêu đổ dần dần vào vòng tay anh.

Có quá nhiều bí mật phải cất giữ làm cô căng ra, mỏi nhừ. Lòng cứ ứ đầy, ấm ức. Nhiều nàng tình nhân hay dúi vào tay cô ít tiền, chỉ mong tìm kiếm chút thông tin, anh là người như thế nào, anh thích gì, anh đã từng yêu ai… Nếu cô nhận, món tiền gọi là “bán thông tin” gần bằng khoản lương hàng tháng. Cô thì chỉ cần kể một câu chuyện, có lần dừng xe trước đèn đỏ chỗ ngã tư, rẽ trái một tí là tới công ty, nơi nhân viên các phòng ban đang chờ anh tới. Bỗng dưng anh thấy một nàng chạy xe máy đậu bên cạnh. Tóc nàng uốn hơi xoăn, thả dài xuống cái lưng áo đỏ rực. Đèn xanh bật, nàng chạy thẳng, anh biểu cô lái xe đuổi theo, nàng vào quán cafê, anh kéo ghế lại gần, “xin lỗi, tôi thấy em rất giống một người quen cũ…”. Chuyện tình xảy ra. Và câu chuyện trả lời cho mọi câu hỏi.

Nhưng cô chỉ cười nhẹ, đẩy món tiền trở lại cho chủ. Cô chẳng thích nàng nào, vì họ ngã vào anh mau quá, ngay khi anh vừa bước ra khỏi xe, ngay khi anh vuốt mái tóc, mỉm cười, trao tấm danh thiếp… Cuộc chinh phục dài nhất của anh cũng chỉ bảy tháng, với một cô giáo dạy tiếng Anh cao ngạo. Lần đó anh suýt làm cô lạc tay lái khi hỏi bỗng dưng, “San có thích đám cưới không?”, cô lặng đi một thoáng rồi thập thò hỏi, “là… sao!?”. Anh cười xòa, nói không có gì, rồi điện thoại hẹn hò cô giáo. Cô lái xe thở hắt ra, “hú hồn, không phải mình…”. Một ý nghĩ ướt và lạnh ào tới, làm chênh chao con đường trước mặt, dường như anh đang yêu nghiêm túc, dường như đây là một cuộc tình dài, sâu.

Chiều lại, cô đưa anh tới chỗ hẹn. Hơi trịnh trọng và căng thẳng, anh hỏi, “tôi mặc cái áo này trông ổn không?”, cô cố nhếch cười, gật đầu. Anh vào rồi, cô vòng xe vào bãi đậu, tự kêu mình, “thôi, ngủ”. Nhưng cái đèn gỗ chỗ anh ngồi cứ hắt xuống mặt làm cô không chợp mắt được. Ngó tới ngó lui một hồi cũng hướng lên gác, thấy anh đặt cái hộp có chiếc nhẫn lên bàn. Cô giáo ngó chừng rất ngạc nhiên và cảm động, ngay lập tức đồng ý. Cô lái xe ở dưới này buột miệng khẽ kêu “Đừng!” nhưng quá trễ. Cuộc hẹn kết thúc sớm, anh nhắm mắt xoãi người ở băng ghế sau, bất động như đang trôi đi, chìm trong sự thất vọng. Cô giáo đáng lẽ phải từ chối vài ba lượt, để anh tin rằng nàng yêu anh thật lòng, không phải vì sự lấp lánh của viên kim cương. Đáng lẽ nàng cầm chiếc nhẫn buông chủm xuống hồ cá bên dưới, thản nhiên phủi tay, hay cho phứ cô bồi bàn gần đó.

Đó là lần đầu tiên cô lái xe thấy đời ông chủ mình thật buồn. Bóc những lớp vỏ còn trơ lại nỗi cô đơn, chẳng ai có thể chạm tới. Cô lặng lẽ cho xe chạy mãi trên những con đường ngoại ô, dưới ánh đèn thiếu ngủ đỏ ngầu. Anh bật dậy khi cô đánh xe vòng vào thành phố, chỉ cái quán bên đường, anh bảo, “ghé đây uống chút gì đi”. Và đó là Dốc Mây.

Quán khuya chỉ còn loe hoe vài người khách. Gọi cafe đá nhưng Tóc Tém bảo hết nước đá rồi. Hỏi trà Lipton nóng, Tóc Mây dặn chờ một chút, lụi hụi đi nấu nước. Hai nàng đều hay hay, họ toát lên vẻ buồn bã, kìm nén nào đó không giải thích được. Anh bỗng tươi tỉnh, rạng rỡ, cô lái xe bắc cái ghế ngồi đằng trước, giả bộ ngó bâng quơ mấy con thằn lằn chạy rột rẹt trên trần, cười thầm, “Thấy gái như là chết đi sống lại…”, rồi giật mình, ủa, người ta vui mắc mớ gì mà mình cũng vui.

Cái cảm giác đó làm cô lái xe thấy hoang mang. Cô cố gắng hào hứng khi đưa anh tới Dốc Mây mỗi tuần vài ba lượt, đôi khi thấy anh ghé bên đường mua quà cho Tóc Tém, cô huýt sáo vống lên che giấu một nỗi buồn ngấu trong gan ruột. Cô dặn mình phải cảm tình cái quán đó, hai đứa con gái đó. Cô không muốn đứa em lém lỉnh nói cô ghen. Mắc gì mà ghen, cô thích họ, nhất là nàng Tóc Tém, bao lâu rồi mà vẫn giữ được vẻ ngạo nghễ, khinh khỉnh trước anh.

Mùa mưa đi, rồi mùa trở lại, cái mái che trước Dốc Mây được lợp lại, quán sửa sang đôi chút, nhưng chẳng có dấu hiệu gì là Tóc Tém ngã lòng. Anh chuyển qua đeo đuổi Tóc Mây. Người này có khuôn mặt với những đường nét nhợt nhạt, xanh xao, bộ vó yếu đuối não nùng. Anh bảo nàng kéo ghế ngồi với mình, nàng lướt thướt lại, lặng lẽ nhìn mưa, chép miệng nói một câu lạt lẽo đến nỗi nêm thêm ký đường, hai ký muối:
- Nước ở đâu mà ông trời cứ mưa hoài.

Tóc Tém hơi bồn chồn, cứ rảo quanh, đau đáu nhìn, hình như nàng đã bắt đầu thích anh. Cô lái xe nhìn cảnh đó qua cửa kính, cảm giác như đang xem lại một vở kịch câm, nhân vật diễn những động tác quen thuộc, chậm chạp, lười nhác. Nam chính âu ếm nhìn người nào, ngay lập tức người ấy thành nữ chính. Và nữ phụ thì lượn lờ tìm cớ ngang qua, thấy khăn vớ khăn lại lau bàn, thấy chổi vớ chổi quét qua quýt, chỉ để nam nữ chính không thấy thoải mái bên nhau. Khán giả không hiểu sao thắt ruột.

Một bữa vở kịch có thêm nhân vật phụ, bà già. Tình cờ anh cũng ở đó, Tóc Tém làm ra vẻ hững hờ, giới thiệu, “đây là mẹ em”. Câu nói chẳng hề có biểu cảm gì mà khiến anh với bà già mừng rơn. Bà già cứ nắm lấy tay anh, hỏi han ân cần, làm nghề gì, nhà ở đâu, ông bà song thân còn hay mất. Bà hấp háy đôi mắt đục, hướng về con gái, cằn nhằn, “từng tuổi này con nhỏ còn kén chọn, thiệt rầu hết sức…”. Anh cười, nháy mắt với cô lái xe đang ngồi riêng một góc. Nhưng cô đang mãi miết nhìn trăng trôi, không quay lại.

Và đó là ngày cuối cùng cô đi cùng anh. Hôm sau, đứa em gái cô chuyển đến công ty lá đơn xin nghỉ việc. Anh chưng hửng, cứ hỏi tại sao. Nhỏ em lí lắc cười, “anh gọi điện thoại mà hỏi chị em”. Cô bắt máy với cái giọng lạnh tanh, “tôi không thích công việc này nữa”.
- Nhưng tôi có thể sắp xếp cho San việc khác, thí dụ như làm ở văn phòng.
- Tôi thấy không tiện.
- Nhưng từ chiều nay tôi phải đi đứng làm sao, khi mà San không đến?
- Trong công ty nhiều người biết lái xe, anh nhờ họ.
- San à, tôi…

Nhưng cô tắt điện thoại rồi, cô sợ chỉ một câu nói của anh nữa thôi, cô sẽ chạy tới, vò lá đơn quẳng vào sọt rác. Rồi lại cùng anh đi trên những con đường lúc nhúc, nghẻn cứng người mà cô thì hầu như không cầm nổi tay lái vì một bí mật vừa rơi vào làm tràn ly nước, vì buồn.

Hôm qua, trong lúc có mặt bà già, Tóc Tém đã để anh cầm tay rất lâu. Tóc Mây hết đứng lại ngồi, một hồi kéo bạn ra phía sau nhà, họ âm thầm cãi nhau, và trong khoảnh khắc giận dỗi ngoay ngoắt, Tóc Tém ôm ghì bạn lại, cả hai lả đi với nụ hôn sâu.

Cô lái xe đứng lặng ngoài rào, như bị trăng đông thành pho tượng. Cô không biết làm gì với niềm tin vào tình yêu đang phụt phù nhóm lửa trong anh.

Nguyễn Ngọc Tư
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeFri Mar 24, 2017 7:40 pm

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận 201408131538410003006_tro_choi_quen_nho___bia_web


Trò Chơi Quên Nhớ

Lam đã đóng vai người đang yêu trong hai năm, dài, dài lắm. Nhiều khi Lam nghĩ, không biết đám cưới xong thì đời dằng dặc đến chừng nào. Hay đến một lúc, Lam đã diễn quen, đến không thể sống thật, không thể trút lớp... ”.

Trước bữa đi công viên để chụp hình đám cưới, Lam gặp tai nạn do lái xe chạy quá nhanh khi qua cua. Lồm cồm ngồi dậy, thấy có mấy vết trầy xước nhẹ ở khuỷu tay, phía đầu gối hơi rát, Lam dựng xe lên, chạy một quãng bỗng nghe máu rịn qua chân mày, chảy xuống mắt. Quệt vệt máu, Lam chợt nghĩ ra một trò thiệt vui. Lam giả đò mất trí nhớ.

Hồi nhỏ, Lam hay nghĩ ra nhiều trò chơi lạ. Có lần, Lam trốn dưới gầm giường cả ngày, ngoại hoảng lên nhờ hàng xóm nhảy xuống ao mò táo tác. Không thấy, ngoại mếu máo nhắn đò kêu mẹ Lam về. Khi tàu từ phía chợ gầm gừ ghé bến, Lam không chịu được, nó chạy tung ra mừng "Mẹ, mẹ ơi! ". Đang nẫu nuộc, bồn chồn, mẹ Lam bỗng ráo hoảnh, mẹ giận dữ tát mấy cái vào mặt vào vai vào mông Lam. Nó nghe đau rát nhưng chỉ cười nhe ra mấy cái răng sún, Lam thèm được nhìn thấy mẹ biết bao. Sau này, mỗi lần nhớ mẹ, Lam đều chơi lại trò đó, ngoại luôn tìm ra nó dù ở xó xỉnh nào, kẹt lu hay trong nhà củi. Lớn lên, Lam thấy mình dại. Bởi ngoại có nhắn, thì mẹ cũng biết tỏng là mánh khóe của Lam, mẹ cũng không về. Mẹ Lam bận. Mẹ muốn giàu có, thành đạt. "Con nghèo như vậy quá đủ rồi", những lúc ngoại Lam càm ràm này nọ, mẹ hay nói vậy, và cắn môi ngó qua sông. Bên đó, có người lên thành phố, không về, yên phận đời phò mã cho một công chúa nào đó.
Mười hai tuổi, ngoại mất, mẹ rước Lam về chợ. Tối nào mẹ có khách đàn ông là Lam lại lui cui kiếm chuột bắt chơi. Nó hì hụi quanh phòng khách, thọc đầu ngó nghiêng chỗ này, xó nọ, miệng mắng mỏ, con quỷ sứ, mầy trốn đâu rồi, tao đập đầu cho chết cha. Lâu lâu lại chép miệng:
- Trời, mới đây mà khuya lơ khuya lắc rồi.
(Vậy mà thằng cha mày không chịu về phứt cho rồi). Mẹ nhìn Lam thom lom, mắt quắc lên. Sau, hễ chạng vạng, mẹ Lam lại ăn mặc thơm phức, xách xe đi. Chuột bò nhộn nhạo Lam cũng kệ. Một bữa, Lam xin mấy lọ thuốc không về quăng vung vãi quanh mình rồi nằm im lìm như người chết. Khuya xa xắc mẹ mới về, ngang qua Lam, mẹ càm ràm, "bữa nay bày đặt làm trò gì nữa đây...! " rồi đi thẳng lên lầu. Lam thấy nếu mình chết thật thì uổng quá. Thôi.

Cái trò mất trí nhớ nầy cũng không phải là sáng tạo gì mới, trên phim thiếu gì, ai coi cũng cảm động muốn chết. Lam nghĩ Son Ye Lin diễn đâu phải hay mà vẫn lấy nước mắt của người ta, mình cũng làm được tuốt. Lam bất thần chao đảo rồi dừng lại giữa đường, thụp xuống ôm đầu. Xe cộ ùn lại một cục, có người hỏi cô bị làm sao vậy, Lam ngẩng lên, ngơ ngác, lắc đầu. Hỏi nhà ở đâu, Lam lắc đầu, ngơ ngác. Vết máu trên trán vẫn chưa khô.
Lam được người ta đưa về nhà. Lam bắt đầu sống với những người xa lạ (theo đúng kịch bản). Mẹ nghe báo tin hớt hải chạy về. Lam thấy mẹ nắn tay nắn chân mình bèn rụt rè hỏi, "Chị ơi! Chị là ai...! " bằng vẻ mặt ngây thơ hết biết. Mẹ thảng thốt kêu lên:
- Trời ơi, sao vậy Lam, tuần tới là đám cưới rồi đó.
Lam cười, đờ đẫn nhìn quanh, đám cưới, mà đám cưới ai... Lam thấy trong mắt mẹ sự sụp đổ, tuyệt vọng.

Cuộc chạy chữa bắt đầu, mẹ đưa Lam tới những bệnh viện nổi tiếng nhất, những bác sĩ giỏi nhất. Cuối cùng, người ta đoán, có thể sự va chạm mạnh vào đầu làm xóa đi vùng ký ức, nhưng hiện tượng này chỉ tạm thời thôi. Sẽ phục hồi nhanh nếu những người thân thuộc khơi gợi lại những kỷ niệm sâu sắc, càng nhiều càng tốt.
Đưa Lam về nhà, mẹ nhìn đống thiệp thơm phức thở dài, ủ ê. Ngày cưới sắp tới mà cô dâu không nhận ra chú rể, đúng là thảm kịch. Suốt thời gian đó, Thái chỉ biết nắm tay Lam, đau đáu:
- Anh nè, anh là Thái nè, em nhớ chưa...
Lam khổ sở lặp lại như cái máy, "Dạ, Thái... " nhưng không có vẻ nhớ ra cái người chỉ vài hôm nữa sẽ làm chồng mình. Chiến dịch khơi nguồn ký ức đã bị Thái mở màn thảm bại, Lam mở con mắt ra bộ kinh ngạc khi nghe Thái nhắc hai đứa quen nhau trong bữa tiệc sinh nhật nhỏ bạn, hôm đó Thái hát xong, Lam vỗ tay khen hay, nhớ không... Nhớ không, quán cà - phê "Thiên Đường", chỗ hai đứa thường hò hẹn... Nhớ không, lần Thái dắt Lam về nhà ra mắt cha mẹ, Lam đã làm đổ chén chè lên áo... Noel mới đây, hai đứa bị kẹt xe gần hết đêm, nhớ không... Lòng Lam quặn lại, khi nhận ra những thứ mà Thái gọi là kỷ niệm, chúng ráo hoảnh, tươm tất kỳ cục. Những chi tiết đơn điệu đã làm nên một mối tình đơn điệu, giá mà có thể chỉnh sửa để kỷ niệm sâu sắc hơn, thí dụ như cùng nhau đi tung tăng dưới trời mưa, trên con đường chiều vắng ngắt, ướt ngoi ngóp, tối đó còn kèm thêm một trận sốt nhớ đời. Hay còng lưng chạy xe đạp chở nhau ra ngoại ô, chỉ để đứng trên cầu ngắm mặt trăng biếc ngần mắc vào lưới vó dưới dòng kinh...

Lam cố tỉnh bơ không để ý nghĩ hiện ra mặt. Lạt lẽo tiễn Thái về, còn một mình, Lam vùi đầu trong mền cười ha ha ha, tự khen mình diễn hay tới không ngờ. Có thể cái trò chơi đóng vai không lạ lẫm nữa. Từ sau bữa tiệc sinh nhật hôm đó, Thái đưa Lam về, mẹ cũng vừa trờ tới, thấy Thái, mẹ kêu lên, giọng trách móc nhưng cực kỳ dịu dàng:
- Trời đất, Lam, sao con không mời bạn vô nhà chơi...
Sau, biết Thái đang làm việc ở Sở Tài chính, lại là con trai của phó chủ tịch tỉnh, Lam không ngơ ngác nữa. Lam thấy mình có bổn phận phải yêu người này, như một cách đỡ đần cho công việc kinh doanh của mẹ, dù Lam nói về sông, về đồng, về những sa mưa cá rô lóc trên sân, hay về một người bán vé số mù hôm qua chết dưới dạ cầu, Thái không biết gì hết. Chẳng sao cả, Lam sẽ yêu. Những ngày tháng đó đối với Lam như một giấc mơ. Mẹ nhắc chừng Lam từng chén cơm. Lam đi chơi, mẹ chọn áo, tiễn Lam ra cửa, âu yếm dặn dò:
- Chơi vui nghen, hai đứa.

Lam nũng nịu ôm eo Thái cho đến khi mẹ quay đi, nếu phải sống giả để nhận sự quan tâm, trìu mến của mẹ, cũng đành.
Và Lam đã đóng vai người đang yêu trong hai năm, dài, dài lắm. Nhiều khi Lam nghĩ, không biết đám cưới xong thì đời dằng dặc đến chừng nào. Hay đến một lúc, Lam đã diễn quen, đến không thể sống thật, không thể trút lớp...
Chơi trò quên nhớ này thì vui hơn giả bộ yêu nhiều. Không phải đắm đuối, ngọt ngào nữa, bây giờ chỉ việc đưa cái mặt ngơ ngáo, đờ đẫn ra với đời. Và cứ vậy, vui từ sáng sớm, khi chị bạn cùng cơ quan hối hả chạy lại thăm. Ngồi với nhau, chị cứ chắc lưỡi xuýt xoa (mà không giấu được vẻ hồ hởi):
- Lam quên thiệt sao... Chị Huê nè, hổng nhớ cái gì hết hả...
Lam ngượng nghịu lắc đầu, mắt trong veo. Nhìn vào cái vẻ hớn hở không chịu được của chị bạn, Lam muốn sặc vì buồn cười, chắc chị nghĩ Lam quên tuốt món nợ bốn triệu mượn tay rồi, nên mới mừng húm như vậy, ra về mà cứ tủm tỉm cười hoài.
Cả anh bảo vệ cũng tới nhà, cũng tỏ mặt đau thương (nhưng trong bụng thì mừng rơn). Cái nhìn xa lạ của Lam đã giúp anh yên tâm hơn, vụ anh dỡ nắp cống và cắt hàng rào gai đi bán chỉ mình Lam biết, chắc chắn được xóa sạch trong vùng ký ức.
Lam thấy mình ứa nước mắt ra. Cười mà như khóc.

Trong nỗ lực tuyệt vọng nhằm cứu vãn ký ức của con gái, mẹ Lam đã cầu cứu gần hết đám bạn bè, đồng nghiệp của Lam. Cả bà cụ bán đậu đỏ bánh lọt ở bến đò mà Lam hay lui tới. Những kỷ niệm lạt nhách lạt nhiểu được xướng lên. Lam vẫn trơ trơ, vẫn xa vời và ngơ ngác.
Thảm họa là mẹ Lam cũng chẳng có kỷ niệm nào hằn sâu thành vết để cùng Lam ôn lại, khơi gợi. Những chuyện Lam nhớ ghê gớm thì mẹ Lam không nhắc. Có thể nhắc làm mẹ đau. Có thể mẹ Lam không biết, hay đã quên mất rồi. Ví như bữa mẹ ném Lam lại cho ngoại, rồi đi, mẹ xuống đò không ngoái lại làm sao biết con - Lam - năm - tuổi đứng trên bến giãy khóc đến tím người. Hôm Lam nhận giấy báo vào Đại học, mẹ bận đi công vụ ở Nhật làm sao biết Lam cuồng lên vì vui.
Lam nghe đau như tim có một vết dằm. Cái ngày (đáng lẽ có đám cưới) đã nặng nhọc trôi qua. Mẹ Lam thôi rầu rĩ, hay ủ ê cũng chán rồi. Mà, dù chưa chính thức làm thông gia với phó chủ tịch thì thâm tình cũng đã sánh như mật, công ty của mẹ Lam cũng kiếm được nhiều hợp đồng lớn nhờ mối quan hệ này.
Lam bắt đầu nghĩ tới việc kết thúc trò chơi, bởi nó không còn gì để chờ đợi, để bất ngờ. Một bữa, vừa mở cửa, con nhỏ bán vé số thò đầu vào thầm thì, "Có ông nào đứng dòm nhà chị hoài, lạ lắm, chị ơi".

Lam ngó ra, người nọ quay đi. Chỉ thấy áo jean đã bạc, chiếc nón sùm sụp trên đầu, cũng bạc.
Hôm sau, nép sau rèm cửa, Lam lại thấy người đàn ông chần chừ trước cổng nhà mình. Chẳng làm gì hết, chỉ nhìn vậy thôi. Đôi mắt đau đáu, mênh mông. Rồi lại đi, chậm chạp như đang đeo mang một cái gì đó nặng trĩu.
Ngày thứ ba, Lam ào ra níu tay ông ta lại khi ông định quay người bỏ chạy. Lam hỏi:
- Chú quen ai trong nhà nầy...
Ông không trả lời, nhìn Lam thảng thốt, nước sóng sánh trong mắt.
- Lam hả con... Trời ơi, con lớn bộn vầy sao...
Rồi đọc trong mắt Lam một tia nhìn kinh ngạc, ông thất thần lùi lại, miệng lẩm bẩm, "Phải rồi, con không nhớ... đâu". Lam nghe lẫn lộn trong câu nói đó có tiếng "ba". Và cảm giác trò chơi quên nhớ của mình sắp vào đỉnh điểm.

Mãi sau nầy, Lam vẫn không quên được ngày mình gặp lại ba (thì ông ta xưng vậy). Vì Lam không nhớ gì (y theo kịch bản) nên không thể vồ vập mừng nhau, cả hai bối rối vì không khí ngượng ngập đặc quánh. Ba Lam ngồi nắn mãi vành nón, chỉ đôi mắt là nhìn Lam chan chứa thương yêu.
- Hồi nhỏ, con bị cái thẹo trên trán. May thiệt, nó gần tan mất rồi...
Lam bất giác đưa tay lên sờ chỗ bị trầy hôm trước. Bỗng thấy thắt ruột, một tuổi thơ Lam chưa hề biết mở ra từng trang, từng trang, từng trang. Hôm ấy nắng nhiều, ba bắt Lam tập lội. Lúc hai ba con nhảy từ cầu ao xuống, đụng phải cọc ngầm, trán Lam loang máu. Sợ với vết sẹo làm con lớn lên xấu xí, ba đi đào củ nghệ, giã ra, rồi đắp lên. Lần khác, ba dẫn Lam đi công viên xem voi.
- Voi hả ba...
- Ừ, ba Lam cười, con voi đó có ghẻ, tội nghiệp lắm.
Lam bỗng có cảm giác mình từng đi công viên thật, và xót xa đứng nhìn con voi bị xiềng xích đang nhai mía, cái đuôi nó liên tục đuổi bầy ruồi lì lợm đang bu xèo xèo. Lam muốn tin (trọn vẹn) rằng, có lần, ba xin vải vụn may áo cho búp bê cưng bằng nhựa của Lam. Có lần, ba với Lam cùng thả diều trên cánh đồng chiều, ba nắn cho Lam con trâu đất đang ngẳn cổ ngắm mây bay ngời ngợi trên trời. Và ngày đầu tiên đến trường, ba trùm áo mưa, cõng Lam trên con đường trơn tuột...
Như thể mình đã trải qua rồi, cảm giác ấy làm mũi Lam nóng ấm hệt máu cam đang rịn xuống. Như thể Lam chưa từng cun cút đi qua thời thơ ấu, chơi trong nhà củi, nhà xuồng của ngoại, bạn bè chỉ những con ong bầu bay tới bay lui.

Ba đi rồi, Lam lại chui đầu vào mền, cười ha ha ha. Cười cho cái trò chơi oái oăm của mình.
Nhưng sáng sau, khi mẹ Lam ra khỏi nhà, ngó mấy con thằn lằn chạy lăn quoăn trên trần nhà, Lam bỗng thèm người. Lam ngờ ngợ thấy dường như mình thích vai diễn mới, vai đứa con được thương yêu. Lam chạy ra cửa thì thấy người đàn ông hôm qua đứng ở đó, mỉm cười. Lam bảo:
- Mẹ mới vừa đi.
Ông chua xót:
- Ừ, ba thấy... nhưng không thể gặp... Ba có lỗi nhiều lắm...
Dường như không có thứ gì xứng đáng để trả công cho sự nghẹn ngào kia, Lam tự nhủ. Cũng chẳng thứ chi có thể đổi được những ký ức mới mà người đàn ông nầy mang lại cho mình.
Nên một chiếc xe máy và vài triệu đồng trong tủ thì chẳng là bao, ngay khi tỉnh sau cơn mê dài, Lam đã nghĩ vậy. Mà, thằng cha đó giỏi thiệt, biết cả chuyện mình thích ăn kem, loại kem múc nước cốt dừa được kẹp giữa hai cái bánh tráng nhỏ.
Chỉ mẹ Lam thì không được thanh thản như vậy. Mẹ ôm Lam, sững sờ nhận ra Lam tin một kẻ lừa đảo xa lạ hơn mình. Chỉ vì hắn ta mua cho Lam kem...


Đại ca Gấu hay ngồi nhìn sông, uể oải, rã rời. Mấy đứa nhỏ trong băng lừa đảo sống dưới dạ cầu Bơ thấy cảnh đó, hỏi nhau, không biết đại ca Gấu gặp chuyện gì... Chuyện gì là chuyện gì... Chắc tại lừa con nhỏ đó dễ quá nên đại ca mất hứng. Gấu nghe, cười khào, không nói. Rồi những khi Gấu nằm một mình trên băng đá, Gấu rất nhớ một nạn nhân, một đứa con gái hồn hậu, chẳng hề e dè nhận cái kem từ tay Gấu. Và trước khi nó thiu thiu ngủ, nó mỉm cười, nhìn Gấu giễu cợt:
- Tôi biết trong kem có - gì - đó... Nhưng sao lần nào tôi cũng phải trả giá, để được yêu thương...



Mỗi khi nhớ lại, đại ca Gấu lại nghe sống lưng mình lạnh buốt, như thể ánh mắt ấy đau nhói, đắng đót quanh đây. Đại ca buột miệng chửi thề khi phát hiện ra, trình độ lừa đảo của mình còn tệ quá. Đến nỗi không gạt gẫm được người mà còn rước phiền phức vô mình...

Nguyễn Ngọc Tư

Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeMon Apr 03, 2017 12:02 am




Những Mùa Trăng Ướt


Sanh cùng tuổi Nhêm, xuống tóc thọ giới cùng một ngày, lúc loay hoay vận y cà sa, Sanh bất ngờ thò tay vào sờ soạng giữa hai đùi Nhêm rồi cười tí tởn, “Nhỏ xíu. Vậy tui làm anh nghen”.

Nhêm đỏ mặt, gật đầu, vì Sanh khôn ngoan, dữ dằn và già dặn hơn. Những đứa trẻ như Sanh luôn già trước tuổi. Cha hứng nước thốt nốt rơi từ ngọn cây xuống đất gãy cổ, mẹ nó đi cõng hàng lậu thuê qua biên giới, chết đuối giữa dòng nước lũ, chỉ một năm sau. Sanh tựa cửa nhìn những người thân mình bước đi vào sớm mai và cũng trong những buổi sớm mai ứa nắng trên đồng, họ về bằng chiếc cáng với hơi thở đã tắt. Sanh sống với chú. Nhà chú cũng nghèo, thím chia thức ăn cho con mình trước, tới Sanh chỉ còn miếng cơm cháy với chút nước cá kho. Sanh vào chùa để “kiếm ăn”, như lời nó nói, là chọn lựa giữa đói triền miên và đói nửa buổi.
Tui còn cha mẹ đâu mà tu báo hiếu, Sanh nói thẳng. Vào những buổi chiều đói rã rời, long đầu óc, đã có lúc Nhêm rủ Sanh lén lút ăn cái gì đó, Sanh lắc đầu, tui phải giữ giới để trả ơn buổi sáng và trưa Phật cho tui ăn no. Và Sanh để mặc Nhêm lăn lộn với cái bụng trống rỗng cồn cào, nó ngáy pho pho. Đói cũng là một thói quen của Sanh, từ tuổi lên mười.

Nhêm thì nghĩ mình không bao giờ có thể quen được những cơn đói buổi chiều tà. Khi nhà hàng bên kia đường bắt đầu có khách. Gió từ mé biển cứ đòng đưa mùi thức ăn trên đầu, làm nó nghẹt thở như thể đó là dây thòng lọng. Cái vòng rào loang lổ nước sơn và cánh cổng rơi vài mảng gạch không thể chặn lại mùi dầu cháy tỏi trong chảo. Sanh nhìn Nhêm suốt buổi tối cứ thều thào nhỏ dãi, nó giễu cợt, “Nhắm có ở chùa được tới năm sau không, ê?”.
Nhưng Nhêm đã ở chùa ba năm. Thời gian đủ để nó bình tâm, thôi quay quắt trước những ngọn gió trần tục ban chiều. Ba năm cũng đủ cho những nhà hàng, quán ăn phục vụ khách du lịch kịp quây kín, như bóp nghẹt ngôi chùa. Hành trình khất thực có chút thay đổi, Sanh và Nhêm không còn đi trên lộ nhựa, dọc bờ cát ven biển, dưới những hàng cây thốt nốt im lìm. Phum sóc đã dạt xa lên đồng, co cụm gần chân núi Cóc. Và những thức ăn mà bà con dâng thường không có những mùi thơm của những quán xá bên đường.

Nên thỉnh thoảng, khất thực xong, bọn Sanh vòng về con đường bắt đầu ướp nắng để thưởng thức sự vương vất của những món ăn xa lạ. Các cô gái với những bộ trang phục buông tuồng trễ nải tụm lại ngó hai nhà sư trẻ cười cợt, “Lục ơi, tu chi cho khổ vậy, về nhà ôm em sướng hơn nhiều…”. Nhêm cúi đầu bước đi, chân líu ríu. Sanh ung dung đằng sau, mắt lại đầy giễu cợt, “Thấy chịu không nổi thì về nhà đi, Nhêm”.
Lần về thăm nhà gần nhất, mẹ Nhêm cũng nói vậy, sau khi chắp tay vái nó ngoài sân, “sư về nhà luôn đi, ba năm rồi còn gì…”. Giọng bà mỏng, ríu dần lại khi cha nó bước ra, cha muốn nó tu đạt tới tỳ kheo, muốn nó được cả sóc kính nể và trọng vọng, điều mà cho dù có nhiều đất ruộng và trâu, cha Nhêm cũng không có được. Ông đành đặt hy vọng vào Nhêm.
- Na Thi vẫn chưa về đâu - Cha nói.

Cha biết cách để Nhêm tự nguyện ở lại chùa, học kinh kệ. Na Thi chưa về. Cô nhận lời phụ bán quần áo cho thím A Phò khi Nhêm vào chùa được hơn năm. Trưa cuối gặp nhau bên hè, đá chân vào đám cỏ mần trầu, cô bần thần vuốt mãi mớ tóc xoăn tít, Nhêm đi rồi em ở lại đây buồn lắm, ngang qua nhà Nhêm em nhớ quá. Em đi vài năm em về, lúc đó Nhêm cũng hoàn tục rồi. Ngoéo tay, ngón tay cũng run, nóng bỏng. Rồi Nhêm lại khăn gói tới chùa xa, không gặp Na Thi lần nào, về nhà thấy mẹ Na Thi buông nón chắp tay lạy đằng xa, bà nói ngay, Na Thi có về, nó hỏi thăm sư có khỏe.
Trong lúc Nhêm trông Na Thi về thì biết đâu Na Thi cũng chờ đợi nó, ý nghĩ đó làm những câu kinh Phạn cứ vuột khỏi môi, trôi tuột. Lục Cả hơi buồn. Vài đệ tử nhập thế, chùa chỉ còn Lục Cả, Nhêm và Sanh. Hai sa di cứ loay hoay với những bài tụng sơ đẳng nhất, nên Lục Cả cô đơn với những kiến thức Phật pháp sâu sắc, bao la, cô đơn với những pho kinh thư đồ sộ. Ông hầu như không kỳ vọng vào đám trẻ, một vô thần, níu Phật để trốn chạy cái đói, cái ghẻ lạnh, một ngóng mãi phía cổng chùa.

Khuôn viên chùa rộng mênh mông, người ít, mà lá cây rụng vô kể, cỏ cũng nhiều. Suốt ba tháng nhập hạ, sư trẻ dường như chỉ tụng niệm và làm cỏ. Cỏ lớn nhanh, mãnh liệt đến nỗi họ phạt cỏ đằng trước thì sau lưng đã lún phún mầm xanh. Tưởng tượng, chỉ một tháng họ không cầm dao làm lụng, cỏ sẽ vươn tận thềm chính điện, lút đầu người. Vậy nên lúc cắm đầu thổi lửa vào đống cỏ khô, Sanh nhằn, sao mà tui ghét trời mưa quá.
Nhêm cũng ghét. Giữa lễ nhập hạ cho tới xuất hạ, chỉ là những cơn mưa dài, lướt thướt. Hai đứa quẩn quanh trong chùa, cắm mặt vô những trang kinh, mắc chán. Sanh học lóm được nghề làm tranh kiếng, nên xin Lục Cả ít tiền mua vật liệu, mày mò làm. Những lúc ấy Nhêm thật sự cô đơn, Sanh bỏ quên Nhêm để cắm mặt vẽ bức chân dung cha mẹ nó. Vài lần Sanh đã ném cọ đi khi phác thảo hình ảnh cha mẹ mình ngồi thảnh thơi, an nhàn trong căn nhà gạch khang trang. Nó dằn vặt vì đấy không phải là chân dung của những người thân, không giống họ chút nào, cả căn nhà, cả nếp áo phẳng phiu, tươi rói. Rốt cuộc bức tranh thờ dang dở, vì trong ký ức Sanh đã không còn lưu giữ những khuôn mặt cũ. Điều đó làm nó tuyệt vọng. Sanh hay rủ Nhêm xách cuốc chim đi làm cỏ ở gần rào sau, từ đó nhìn lên cánh đồng dưới chân núi là những phum nhỏ nằm quẩn dưới chòm cây xanh rì, khói bếp len qua những tầng lá thành những sợi lam mỏng vờn, phai mãi vào nền trời. Thốt nốt dọc theo các con đường nhỏ ngoằn ngoèo vẽ vào cánh đồng những nét cô đơn, vết mực đậm và đầy đặn ở phía này và bắt đầu mỏng vút cuối tầm nhìn. Dưới trăng chiều, vài con trâu quay tít cái đuôi xua những con ruồi xanh lè, to bằng đầu ngón tay cứ chực xông vào. Thấy Sanh níu vào rào, Nhêm hỏi, “Nhớ nhà hả?”. Dứt mắt khỏi sóc Tà Cóc đang im lìm dưới làn mưa mỏng, quay vào sala, giọng Sanh quạu quọ, “Có nhà đâu mà nhớ”.
Nhêm sợ Sanh, nó có thể rất hiền lành, tử tế, nhưng Nhêm nói điều gì đó nhắc nhớ tuổi thơ buồn bã, và Sanh nổi khùng lên. Nhưng làm sao Nhêm biết chuyện nào buồn, chuyện nào không? Bởi vậy, hai đứa hay hục hặc nhau vì những chuyện không đâu, thí dụ Nhêm buồn tình lấy hơpâm gõ bài “chim sáo”, hai gáo dừa mới lộp cộp đã bị Sanh đá văng lông lốc, ai mà biết lúc người ta khiêng cha Sanh từ ngoài đồng về, ông chủ lò nấu đường vẫn dửng dưng ngồi gõ hơpâm cho hết bài, rồi mới thủng thẳng phủi đít đứng lên, “Chết rồi hả? Thôi, tiền còn nợ tao coi như xóa bỏ”. Những chiều Sanh ngồi trước sala, lặng lẽ nhìn bồ đề rụng lá, Lục Cả thở dài, có lẽ ông thất vọng vì nhà chùa không làm lành được những khối tổn thương trong lòng Sanh, cũng như bất lực trước một xã hội tổn thương, những giá trị luân lý đục ngầu bên ngoài cánh cổng.

Ở đó cũng có đám người đang ghét cay ghét đắng mưa rơi. Khách du lịch thưa thớt. Gió biển ướt rượt thổi qua dãy nhà hàng, khách sạn vắng người, những cô gái không lượn lờ ngoài sân nữa mà co cụm trong nhà, hết giũa móng tay tới sơn móng chân, hết tỉa chân mày đến se lông mặt. Rồi sự lười nhác trễ nãi biến mất, họ tản đi khi người đàn bà cho vay tiền góp, lăn cái thân nặng chịch vì mang cả ký lô son phấn trên mặt đứng trước nhà hàng tru tréo gọi Lan Huệ, Sầu, Ai ơi. Mấy chục chiếc vòng chất gần đến cổ tay kêu leng keng mỗi khi bà chuyển động.
Nhờ âm thanh đó, cùng với dáng người thấp lé đé các con nợ luôn phát hiện bà từ xa, và họ biến mất. Cô cũng tạt vào chùa vào một bữa âm thanh những chiếc vòng xủng xẻng đã quá gần. Te tái vào ngồi ở thềm sala, cô dáo dác nói, cho ngồi chút chơi nghen. Nhưng mặt cô không có vẻ là chơi, căng ra khi bóng người qua cổng. Sanh mỉa mai, có trốn nợ thì trốn chỗ khác, ở đây là chỗ tu hành. Cô độp ngay, giọng cố kìm lại nên nhỏ mà rắn đanh.
- Ủa, đây là chỗ từ bi mà, mắc gì tôi không được vô. Ừ, trốn nợ đó. Hay là Lục…cho tiền đi, trả nợ xong tôi không ghé đây nữa.
Nói rồi cô phủi đít dợm đứng lên, nhưng mớ âm thanh leng keng vẫn còn quanh quẩn ngoài kia. Cô trùng trình ngó Sanh, “chùa này đâu phải của Lục, mắc gì tôi sợ”. Cô ngồi lại, điệu bộ lỳ ra, vẻ thách thức.

Những ngày sau, cô lại tới. Cô nhận ra một chỗ nương náu an toàn, nơi mà mọi lời mắng chửi rủa sả không vọng đến, hoặc hoặc vói theo một cách yếu ớt. Chùa không hẳn là thiêng liêng với họ nhưng là sức mạnh tinh thần của tộc người. Ai cũng biết điều đó. Họ đã chứng kiến những cái sroc nghèo xơ xác, những ngôi nhà cột cặm trống trước trống sau nhưng ngôi chùa thì luôn luôn rực rỡ. Đó là lý do Nhêm ở đây, cha muốn nó là một con người rực rỡ. Đó là lý do Sanh ở đây, nó không bao giờ đói dưới sự rực rỡ này. Đó là lý do cô ở đây, cộng đồng người trong sroc kia sẵn sàng thấm máu vào áo mình để giữ cái rực rỡ tồn tại trong thế giới đức tin của họ.
Cũng không tìm được lý do khác cho việc cô gái lui tới chùa. Cô chẳng hề yêu thích ai ở đây, cái cách nói chuyện khinh khỉnh, sấn sổ, ngạo ngược của cô nói lên điều đó. Nhưng Lục Cả luôn bất an, ông luôn sai sư trẻ làm lụng mỗi khi cô nhẩn nha lại. Và ba tháng hạ của năm mười bảy tuổi, họ đã làm rất nhiều việc, lợp lại mái sala, sơn một số chi tiết trong chính điện, cuốc đất mảnh vườn sau để gieo cải, quét lá khuôn viên chùa. Cô luôn lẻo đẻo đi theo, hỏi những câu ngớ ngẩn, thí dụ, sao không đốn bỏ cây bồ đề luôn để khỏi quét lá cho mắc công? Sao bức tranh này không sơn màu xanh mà là màu vàng? Sao nền chính điện cao dữ vậy? Lục Cả nhiều lúc cũng buồn cười, ông nói, tụi tôi làm không mệt bằng nghe cô hỏi. Cô rụt cổ cười. Nhêm cảm giác, nếu bóc mảng son phấn ra, mặt cô sẽ lành và trong như em gái nó.
Chắc cô cũng bằng tuổi ấy, mười sáu, hoặc nhỏ hơn. Sanh hỏi tuổi, cô vặt vẹo, “Lục rảnh quá thì đi tụng kinh, xoi mói chuyện của tôi làm gì?”. Sanh xúi Nhêm hỏi thăm tên, quê quán cô gái này, Sanh nói “con nhỏ đó ghét sư, tại hôm trước sư đuổi…”.
Nhưng Nhêm cũng không khá hơn, hỏi, cô chỉ vào khoảng sân, châm chọc:
- Cỏ.

Người nhà chùa xem đó là tên của cô. Cỏ bằng tuổi Na Thi, mười bảy. Đương nhiên là từ nơi khác đến. Lục Cả nói, những đứa con gái làm nghề này chỉ đổi chỗ cho nhau. Con gái ở đây thì bôn ba xứ người mua vui cho thiên hạ bằng đuôi mắt cuối mày, và ngược lại. Chúng làm nên một cuộc nổi trôi buồn bã. Nhêm bỗng liên tưởng tới Na Thi mỗi khi nhìn Cỏ cố che mảng da thịt bằng cách kéo cái áo ngắn ngủn nằm vắt vẻo nửa lưng trên.
Nỗi nhớ Na Thi đã lạt đi rất nhiều, Nhêm áy náy lắm. Sau lễ xuất hạ, trời vẫn còn nhập nhòa mưa. Nhưng bọn Nhêm không bỏ bất cứ buổi khất thực nào, dù là đi dưới mưa. Không hẳn vì những thức ăn cúng dường hai sư có được sau một buổi vòng tay ôm bát, mà vì nỗi nhớ những nẻo đường, hàng cây, bờ đá… Ba tháng quẩn chân vườn chùa, bỗng dưng thấy mọi thứ đều thay đổi, lạ lẫm, và trò đùa của các cô tiếp viên rảnh rổi ngày càng tai quái hơn, có lần qua quán “Duyên Quê”, một cô môi đỏ trút vào bát họ ít thức ăn. Quay lưng đi một quãng, Cỏ lao theo giằng lấy bát, hắt xuống đất. Mớ thịt đã bị băm nát nằm vãi trên sân. Cỏ hằn học hỏi:
- Thịt rắn đó. Muốn phá giới sao?
Các cô khác đấm vào lưng nhau cười ngặt nghẽo. Sanh ngó sững cô, cái nhìn ánh lên chút dịu dàng, hàm ơn. Về tới cổng chùa rồi Nhêm vẫn còn ngơ ngác. Nó sợ. Những người không có đức tin sẵn sàng báng bổ đức tin. Nhưng Sanh vẫn thích đi trên con đường đang còng lưng gánh những quán bia, nhà hàng, nên ngày nào nó cũng kéo Nhêm vòng lại. Ngày nào cũng thấy Cỏ ngồi chán chường ở quầy bar trong quán, nét mặt, khóe môi, bàn tay… tất cả chi tiết trên người cô buông lơi, trễ nãi, cảm giác mọi thứ đang rời nhau và trôi đi. Cả nụ cười mỉm khi nhìn thấy người nhà chùa cũng là nụ cười đang trôi vô định. Nhưng hành trình đột ngột thay đổi, Sanh không đi qua đó thêm một lần nào, vì một buổi trưa ngang qua cuộc tiễn đưa, thấy Cỏ đang chèo kéo quấn vào đám đàn ông sắp lên xe, trong cái khói nắng mùa hạ. Mắt còn đậu lại trong khi chân vẫn liên tục bước, sư trẻ thấy Cỏ ngó theo, thoáng chênh chao.

Cô không ghé chùa nữa, vì mùa khô bắt đầu quay lại, khách lác đác đến tắm biển, uống bia. Buổi chiều, sư trẻ đi nhổ những dây mướp đã chết khô trên bờ rào, dáo dác ngó về phía cổng, ai bước vào hai đứa cũng thất vọng thở hắt ra.
Ngày cuối cùng của mùa hạ, người trong sroc mượn sân chùa làm lễ cúng trăng. Cỏ ghé chơi lúc sắp khuya rồi. Khỏi nói Nhêm mừng như thế nào, đến nỗi, nó tự hỏi, gặp Na Thi, nó có mừng được bằng cỡ đó không. Sanh không tỏ thái độ gì, dửng dưng ngậm ngọn cỏ vung vinh trên môi, “ủa, tối nay không ở nhà chơi với tụi nhà giàu?”, Cỏ cười, “mắc mớ gì tới Lục?” rồi lảng đi, lại gần Nhêm, coi người ta bắt mấy đứa nhỏ ăn cốm dẹp, theo thông tục. Hồi nhỏ, Nhêm cũng được đút cốm dẹp, khi người ta vuốt lưng, hỏi, năm nay muốn gì, nó gần như òa khóc, “mắc tiểu quá, con muốn đi tiểu”. Năm đó nắng dai, lúa bị khô háp trên đồng, hành không đặng củ, cả sroc cứ đổ thừa tại Nhêm.
Giờ thì mấy đứa nhỏ cũng trợn trạo ngốn cốm dẹp và nói thích lúa, thích gạo. Điều đó làm Nhêm buồn cười, trẻ con không thích đồ chơi đẹp, quần áo đẹp thì thôi, lúa gạo mà làm gì. Chắc là cha mẹ chúng đã dạy trước, Nhêm cũng từng buộc phải học thuộc lòng. Chỉ là tụi nó bây giờ khôn ngoan hơn, và không bị mắc tiểu giữa chừng, như Nhêm. Đang kể chuyện vẩn vơ thì sương trên đuôi lá bồ đề rụng xuống trán, Nhêm giật mình.
Không thấy Cỏ ngồi bên cạnh nữa. Sanh đã kín đáo lôi xểnh cô ra phía sau sala, chỗ những dây bìm bìm leo xum xuê trên mái chuồng gà bỏ hoang. Nỗi nhớ, sự ghen hờn, xót xa, niềm kiêu hãnh giày bừa trong lòng Sanh làm nó như mê đi. Cỏ chỉ cười nhẹ, xấp xãi bước theo, vẻ mặt không ngạc nhiên chút nào. Hoặc cô đã chờ đợi điều này lâu, nên chỉ thở cồn cào như một con sóng nhỏ khi tay và môi Sanh bắt đầu uống ngấu lấy cô. Thằng con trai đó đi qua những cơn đói nhưng chưa bao giờ ngưng sống, như cỏ của những mùa trăng ướt.
Nhêm tìm thấy Sanh đang đứng đối mặt với khoảng tường, y cà sa căng tròn, bọc lấy thân thể Cỏ. Cô chỉ còn đôi chân, và khuôn mặt, phần còn lại của cơ thể đã tan biến. Bóng trăng lấp ló chồm vào đôi người lấp ló. Nhêm chết sững và nỗi tức giận nào đó ứa ra bưng mắt, buốt những đầu ngón tay, nó hồng hộc chạy về phía chánh điện, chỗ Lục Cả đang tụng khúc cầu an.
Sanh rời khỏi chùa vào chiều hôm sau, hoàn toàn không có một nghi lễ hoàn tục nào đưa tiễn. Ngang qua quán rượu, Sanh dừng lại chờ rất lâu mới thấy Cỏ ơ hờ bước ra, Sanh chụp níu lấy tay:
- … Đi với tôi nghen?!
- Đi với Lục thì lấy gì ăn? - Cỏ hắt tay Sanh, lạnh lùng hỏi lại.

Không biết, ngay việc bây giờ đi về đâu Sanh còn không biết. Có thể đi làm thuê, làm mướn ở một nơi xa xôi nào đó, đào đất, trèo thốt nốt lấy nước, làm cửu vạn hay vác những bộ tranh kiếng bán dạo khắp nẻo đường. Sanh nuốt thất vọng quay đi. Đám con gái trong quán thò đầu ra cửa sổ, nhìn theo cái lưng gù gù như cõng đá, tru lên thảm thiết, trời ơi, Lục đừng đi, Lục mà đi thì tụi tui phải chung tiền cho con quỷ sứ này, phải biết Lục dễ dụ dỗ vậy, tụi này không đánh cuộc… Sanh khựng lại một vài giây, rồi nó gần như bỏ chạy, nó cảm thấy mình tắt thở rồi. Chết trước khi những cơn đói ập đến trừng phạt nó, vì sự bội tín, vô ơn với Đức Thích Ca.

Những ngọn gió cuối mùa Nam còn sót lại đưa tin thắng cuộc của cô tiếp viên đi nhanh. Người đàn bà cho bạc góp hể hả đòi được món nợ cũ, ghé chùa nói với Lục Cả, “Riết rồi không thấy người nữa, chỉ thấy mấy thứ giống người...”, rồi day mắt về phía sư trẻ đang quét lá giữa sân chùa vắng, “may nhờ lục Nhêm tu tập tử tế…”

Nhêm nghe được, cười khan, nỗi buồn cào cấu rát lòng, sao người ra đi lại là Sanh mà không phải nó, sao cô gái đó chọn Sanh? Hỏi hỏi và hỏi. Trời thì cao và xanh xao.

Nguyễn Ngọc Tư
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeSun Apr 09, 2017 11:44 am




Bởi Yêu Thương


Bao giờ qua cửa Sáu Tâm cũng cằn nhằn. Bao giờ qua cửa anh cũng thấy Điệp đang lúi húi dọn dẹp, nấu nướng gì đó, “mấy chuyện lặt vặt, để tôi làm, sao không chịu nằm nghỉ”. Bữa nay thì tới lượt chị nhằn, Sáu Tâm về nhà với một đôi đầu gối bê bết máu.
- Tâm lại té à. Đi đường phải cẩn thận chớ.
- Không – anh bảo – hôm nay dạy San nó đi gối.
- Tuồng gì?
- Phàn Lê Huê.

Chị bắt anh ngồi xuống giường, khẽ khàng vén ống quần lên, tháo cái chân giả ra, băng bó lại đầu gối cụt chỏng cho vẫn còn tươm máu. Sáu Tâm nghe một giọt nước mặn nhỏ xuống làm rát bỏng chỗ vết thương, anh càm ràm (như tía chị): “Khóc cái gì. Chút xíu vậy cũng khóc”.

Hồi trưa này, San cũng ôm gối anh mà khóc.
San là học trò của anh, nó làm tiếp viên ở quán Mây Lang Thang. Trưa nào, anh kéo cái bội khăn đi ngang cũng thấy nó ngồi băng đá đằng trước sân ngó cuộc đời. Son tô, phấn trát đậm như mấy người lên đồng. Có bữa anh dừng lại ở góc bàng, đứng rao: “Mười lăm ngàn cái khăn. Khăn Mỹ… Tho có ho như thầy Minh cũng không rách. Mua khăn cô nhỏ. Khăn mới lau tủ cũ, cũ lau xe…”, anh thấy nó cười. Một bữa nó hỏi, có phải ngày xưa Sáu Tâm từng làm kép hát không?
Sáu Tâm tự trào, tôi mặt rổ như “ga-mo-qua-xa-ky” (gà-mổ-quá-xá-kỹ), đầu tóc bù xù, xi cà que, mình mẩy lúc nào cũng hôi mồ hôi mà là kép chánh sao? Nói chơi hoài.

Nhưng San tin. Hồi đó, đoàn Mây Mùa Thu về hát ở đình Tân Thuận. Hôm ấy, đoàn hát vở “Đời Cô Lựu” thiệt khuya. Ông bán khăn này còn trẻ lắm, ông đóng vai Luân, mặc bộ đồ bà ba vá chằng vá đụp, quần thì xăn ống thấp ống cao. Lúc xả giàn là tới đoạn Luân quỳ xuống ngang gối, ôm cô Lựu ngẩng mặt lên, kêu mẹ. Trời ơi, San bưng rổ khoai ế đứng nhìn mà rưng rưng nước mắt, sao mà cô Lựu ôm Luân lại gọn gàng trìu mến đến như vậy, sao Luân hạnh phúc và sung sướng đến như vậy.
Đó là lúc San ước mơ sau này lớn lên sẽ trở thành đào hát. Ừ, trở thành đào hát, không cần phải đóng vai chính, nổi tiếng làm gì, hát phụ cũng được, đóng vai ác, vai hầu gái, cung nữ, bà già cũng được… Nhưng San mê vai có má nhất. Dù người mẹ nghèo bị hắt hủi cỡ nào, người mẹ giàu có tàn nhẫn đến cỡ nào để chia cắt duyên con (như mấy tuồng cải lương bây giờ hay hát), nhưng có làm gì thì hết thảy đều vì quá thương con mình.
San hai mươi bốn tuổi, hai mươi bốn năm má mất. Bà chết vì sinh khó. Cha San thường say rượu, lúc say phà cái mùi hèm khăm khẳm vô mặt San “Tại cái con vô dụng này nên tao mới khổ sở như vầy, vợ cũng chết, tiền cũng hết”.

San cố sống để khỏi phải là đứa vô dụng. Áo cha rách, San khâu. Cha kêu buồn ói, San chạy lấy thau lại hứng, dấp khăn nóng cho người. Sáu tuổi nó đã è ạch nách cái rổ khoai luộc, xách cái thùng mía lạnh rảo chân khắp làng trên xóm dưới. Mười hai tuổi nó xin chạy bàn, rửa chén ở quán “Mây Lang Thang”, mười tám tuổi nó lấy chồng. Phải lấy chồng mới có tiền lễ để cha nó đổi chiếc xích lô lấy cái honđa mà, đời kỳ thiệt, San lấy ngay cái thằng hồi nhỏ nó ghét cay ghét đắng. Nó nhớ như in những lần na cái thùng mía lạnh ngang qua nhà, thằng chồng nó lúc đó chừng mười, mười hai tuổi chuyên chặn nó lại, giật mía mà ăn. Có bữa San cự, thằng nọ vạch quần ra đái tỏn tỏn vô thùng mía, vừa đái vừa cười ha hả. Hôm đó, San về nhà mà trong tay không có tiền. Dì nắm tóc nó mà đánh, San có nói gì thì dì cũng không tin. Bây giờ lại lấy nhau, mỗi lần thấy chồng tụt quần, lòng San dậy lên một nỗi căm thù. Được hai tuần, San thôi, lại bỏ về quán Mây Lang Thang, nhưng không còn rửa chén mà ngồi trong mấy cái buồng vuông vuông nhỏ nhỏ để tiếp khách.

Ước mơ xưa chưa bao giờ trở thành hiện thực. Những khi quán vắng, San cố ngủ cho nhiều, ngủ là khỏi thấy lòng buồn, má hy sanh cho cái phận bèo bọt này chi không biết. Ngủ để coi có mơ thấy mình trở thành đào hát không. Ngủ vì không thích tụm lại với chị em để đánh bài, bàn số đề, giũa móng tay, nặn mụn hay đi sắm áo dây, váy ngắn.
Mất gần một tháng Sáu Tâm mới nghe hết câu chuyện đời của nó. Mỗi bữa ngồi đụt nắng dưới gốc cây còng trước quán, San kể anh nghe một đoạn. Nhưng anh kép cũ không nhắc gì đến vầng hào quang cũ, chỉ San ngồi nhắc hoài, nó kêu anh dạy nghề. Sáu Tâm bảo, “Nghề hát bạc lắm”. San bảo, nghề của em còn bạc hơn, bạc tại chỗ, những thằng mằn nắn mình, kêu mình bà xã ơi, cưng ơi, toàn là tụi coi khinh mình như rác. Dứt khoát, em phải trở thành đào hát như đào Điệp ở đoàn chú vậy.

San nhớ, cô đào thiệt hiền, dân dã, tan buổi diễn để nguyên bộ áo dài nâu, cái đầu tóc bới ngồi ăn cháo vịt. Thấy San cứ tần ngần nhìn, cô hỏi San đói không. San gật đầu, không đói nhưng vẫn gật đầu. Cô gọi thêm một tô cháo, biểu San ăn đi, ngồi kế cô mà ăn. San ngồi trước tô cháo nhưng cứ nhìn cô, chỉ mong được nép vô lòng kêu tiếng má. Đào Điệp hỏi, con bán khoai hả, sao tan hát rồi mà không về? Khoai còn hết? Cô mua cho. Ăn xong, con mau về đi, tan hát rồi, đường tối lắm.
San nhớ hoài cái khuôn mặt dịu dàng đó, bao giờ nó cũng nghĩ, má mình còn sống dứt khoát giống như cô ấy. Nó kết luận, chỉ gặp một lần thôi mà em thương cổ suốt đời.
Câu chuyện làm cho Sáu Tâm xúc động, gương mặt đen đúa trầm lặng như tượng gỗ bỗng mềm lại. Anh bảo anh sẽ dạy. Ở đâu ư? Tại cái sân xi măng dưới gốc cây bàng này. Sân chật đầy lá rụng có bữa bỗng dưng biến thành sân triều. Sáu Tâm gọi “Cung nữ!”, San dạ, te te đi ra tay dâng chén rượu ngang mày. Người đời qua lại, có cười.

Đám khách nhậu trong quán biết Sáu Tâm là anh kép hết thời, cứ đòi nghe cho được. Mấy lần bà chủ quán ra biểu anh “hát vài câu đi rồi có tiền” (như bà mẹ biểu đứa con nít ăn cơm đi rồi cho kẹo), lần nào Sáu Tâm cũng lắc đầu. Bà ta phật lòng, nghèo còn sĩ diện, nghèo mà không biết nghe lời người có tiền. San hỏi, anh bảo:
- Có làm gì, đi đâu, chưa bao giờ tôi quên mình là nghệ sĩ, nghệ sĩ là người của công chúng, người ta yêu mình bởi họ thấy mình cao quí hơn họ, tôi không thể vì tiền mà sống hèn được. Cô nhỏ, có trở thành đào hát, cô nhớ lời tôi nghe.
Mỗi ngày, Sáu Tâm ghé chỗ San chừng mười, mười lăm phút. Thời gian còn lại, anh kéo cái bội đan bằng nan tre có gắn mấy cái bánh xe đi bán khăn, áo dạo. Anh cần tiền, nhiều tiền. Nhưng anh cũng muốn về nhà. Nên lúc nào trong lòng cũng như lửa đốt.

Nhà Sáu Tâm ở xóm Gò Mả. Xóm nhỏ tụm lại trên nền nghĩa địa cũ. Những ngôi nhà cửa trước luôn mở về phía nội ô như bị người ta lấn tới nên giật lùi đến đây. Nhà anh cất kề chòm mã lạng, anh không sợ, ma cũng như người, mình tử tế với họ thì họ cũng tử tế với mình. Chỉ ngại, những lúc anh không ở nhà, chị thế nào cũng mở cửa ra, nhìn những chòm cỏ xa xanh kia, và nghĩ về cái chết.
Điệp càng ngày càng yếu. Chị ốm, mỏng như hột cốm dẹp. Tóc đã rụng đến nỗi ở xa chừng mười bước có thể đếm được từng sợi, từng sợi còn sót lại. Chị thôi xót xa rồi. Thôi từ cái bữa Sáu Tâm đã làm vỡ gương, chị nhắc hoài anh chưa mua lại. Thôi từ cái bữa mơ màng thấy anh nhặt tóc chị rụng trên giường đem đi dấu ở cái thùng đạn hồi trước đựng đồ nghề vá xe. Chị níu lấy anh, vùi nước mắt vô ngực anh mà ướt:
- Tâm ơi! Tâm khổ vì tôi chi vậy?

Đâu mà biết nà. Tại duyên nợ. Điệp lớn hơn Sáu Tâm tròn con giáp. Lúc anh mới vô đoàn hát, anh gọi Điệp bằng chị, xưng em. Điệp toàn hát vai má anh, ráng lắm thì cũng vai em trai, loại em chuyên đi đưa thơ cho người yêu chị gái mình. Vậy mà yêu, yêu tréo cẳng ngỗng, cũng không biết để lòng thương lúc nào, ghê lắm cái lối thương thầm, thấy đầm đầm vậy chứ rứt không ra. Lúc đầu thì Điệp thấy buồn cười lắm, chị cứ theo chọc anh hoài, thí dụ tụi mình làm vợ chồng, phải gọi làm sao, Tâm ha?
Cho tới cái bữa về hát Vàm Lẽo, nửa đêm trải chiếu nằm ngủ dưới khán đài, sàn diễn đổ sập xuống, Sáu Tâm đẩy Điệp ra, chỉ anh là còn kẹt lại trong đám đổ nát. Xương ống quyển bị dập. Đau lắm, nằm một chỗ, không xoay mình được. Ông bầu cũng nghèo, tiếc tiền, cứ bảo trặt chân chút đỉnh rồi sai người đi hái thuốc về bó, đắp thuốc tới khúc chân bị hoại, lầy lụa, người ta mới đưa anh đến bệnh viện. Tháo khớp. Nỗi đau không nói được bằng lời, lìa khúc chân là mãi mãi đứt lìa sân khấu.

Đó là những năm sân khấu cải lương lâm vào cảnh khó khăn. Đoàn hát phải biểu diễn khắp cùng quê xó, phải trưng dụng những dụng cụ phụ diễn đã bị nắng mưa làm mục nát. “Mưa Mùa Thu” rã gánh, ông bầu bảo, còn ai hát hò gì nữa, tới Hồng Điệp cũng bỏ nghề rồi, trông mong gì.
Điệp cùng Sáu Tâm dìu dắt nhau đến cái xóm Gò Mả này. Chị không hối tiếc, cuộc đời người ta ngoài ăn với ngủ, thời gian còn lại là đi tìm một nửa của chính mình. Chị thì có anh. Hai người, hai đôi tay hồi nào chỉ quen múa gươm, lẫy roi sảy ngựa với ba cái chân để kiếm sống. Cực khổ nhọc nhằn nhưng không nguôi thương nhớ nghề xưa. Điệp xin từ ông bầu rất nhiều món đồ diễn, đem về cất kỹ, thỉnh thoảng chị mặc áo đính Kim Sa hát Mạnh Lệ Quân với anh. Lúc đó Điệp vẫn chưa phát bệnh.

Bây giờ chị không còn sống bao lâu nữa. Khối u ở cổ đã đi vào não. Gương mặt xinh đẹp của chị biến đổi, nhiều bữa ngủ thức dậy, đôi mắt sưng húp, mũi chảy máu ròng ròng. Tai bắt đầu ù ù nghe không rõ. Nếu không phải trang trải tiền thuốc cho chị, Sáu Tâm đã không lang thang ngoài đường. Anh muốn được ở nhà, ở bên chị, nắm nuối từng giây, từng phút, để lúc chị đau anh giúp cho ly nước, vốc thuốc, cái khăn ướt lau mặt, để ôm ghì chị vào lòng mỗi khi lên cơn vật vã. Nhiều bữa mưa dầm đụt ở mái hiên nhà nào đó, Sáu Tâm thèm được khóc. Anh nhìn mãi đôi tay mình. Đôi tay từng làm mướn, đi bốc mả, vá xe, đôi tay từng bưng bê ở nhà hàng này, quán nhậu nọ sao lại bất lực không thể níu giữ được người mình thương.
Nhưng bao giờ anh cũng về nhà với khuôn mặt tươi cười. Cười không phải vì vui. Anh nghĩ, may mình là nghệ sĩ, nếu không, sao có thể cười ròn khi đang tan nát lòng đau. Nhiều khi, về tới đầu xóm, Sáu Tâm phải dừng lại, đốt điếu thuốc để lắng cảm xúc mình lại.
Anh sợ cả lúc bước vô nhà thấy chị đang nằm ngủ, Điệp biết hết. Nên mệt mỏi thế nào chị cũng làm một cái gì đó để đợi anh về. Chị thương anh quá.
May mà có San. Câu chuyện của nó làm cho cả hai người nhận ra họ đã sống một đời nghệ sĩ đầy ý nghĩa. Như San, họ chưa thay đổi được cuộc đời bất hạnh của nó, nhưng đã an ủi nó nhiều. Điệp bảo:
- Em không tiếc gì đâu. Tâm đừng buồn cho em nữa, nghen.
Chị dặn, đừng nói cho San biết chị sống với anh, lại bịnh hoạn như vầy, “Nó đã giữ trong lòng một hình ảnh đẹp để ước mơ, mình đừng phá hư đi”. Nhưng rồi một đêm chị không ngủ mà nằm nghe trái tim anh đập từng nhịp gấp rãi, anh đang sống, chị nói với lòng, cái cơ thể này đang sống, mình nỡ nào để anh tạnh nguội theo mình. Vô tình, chị nghĩ tới San.

Bất ngờ, một buổi trưa, San tới. Hôm đó, Sáu Tâm không đi bán mà ở nhà lợp lại cái mái che đằng trước, lúc này trời trở gió, mưa cứ tạt vô hoài. Anh còn kịp chạy lại lấy cái khăn vắt lên đầu giường đội lên đầu cho chị như vẫn thường làm khi khách đến nhà. San hơi khựng lại, nhưng nó nhận ra cô đào Điệp năm nào. Vẫn còn đó một đôi mắt hiền, hơi ướt, dịu dàng:
- San phải không?
Và còn đó một giọng nói mềm như lá lụa non.

Đó là một ngày trời oi nắng, mây đứng trân trên trời. Đó là ngày San nhận ra, trước người đàn bà đau ốm này đây, mình vô tình gây nên tội, tội đẹp. Và tim nó thắt lại một cái đau nhói, vậy ra, người đàn ông bán khăn áo dạo không ở một mình. Không biết làm gì, San lại mở cửa sổ ra, nhìn ra những chòm cỏ xa xanh, nó kêu lên, “Trời ơi, ở đây bảnh thiệt, em thích một căn nhà như vầy lắm”, lòng vừa đau vừa thẹn thùa cười cái cọc đi kiếm con trâu.

Sau này, mỗi khi rảnh, dù Sáu Tâm còn kéo cái bội áo khăn đi lang thang trên đường phố, San cũng lại nhà. Căn nhà mà hồi mới thấy xa xa, nó tưởng là nhà của mình. Bây giờ, lại đó, San quét nhà, nấu cơm, đợi Điệp ngủ San kéo mền tới cằm cho chị rồi lượm những sợi tóc buồn xơ xác như những chiếc lá lìa cành đem dấu đi. Bữa trưa đầy gió, chị biểu San đem lược lại chị chải tóc cho. Nó có mái tóc hệt chị ngày còn trẻ. “Tụi mình có nhiều cái giống nhau nghen. Chị cũng không có má, lớn lên trong trại mồ côi. Chị đến với sân khấu để vay mượn những thâm tình mà mình chưa hề có. Hồi nhỏ chị cũng cực lắm, nhưng không đến nỗi sa chân như San. Chị em mình còn một chuyện giống nhau nữa, đố San biết, tụi mình cùng thương anh Sáu, thương lắm, phải không?” San ngơ ngác hết mấy giây rồi lắc đầu. Chị bảo đừng giấu chị. “Ừ nếu không chê Tâm tàn tật thì bao giờ chị đi cho chị gởi lại. Em làm lại cuộc đời đi, Tâm rộng lòng lắm, không chấp nhứt chuyện này nọ đâu. Tâm dễ tánh. Mặc gì cũng được, ăn gì cũng xong. Con người đàng hoàng, nghệ sĩ mà đàng hoàng, không phù phiếm, buông thả. Kiếm người tin được không phải dễ đâu, San”.
San không trả lời, không thể nói dối rằng “Thôi!” nhưng cũng không thể gật đầu cái rụp. Có phải là trao trái chanh trái bưởi cho nhau đâu mà một người đàn bà trao người mình yêu thương nhứt cho một người đàn bà.
Sáu Tâm không biết chuyện này. Tối lại nằm gối đầu lên tay anh, chị bảo, “San nó thương anh lắm”. Anh cười, “Tôi bây giờ đã thành ông già, còn cô nhỏ đó…” chị cũng cười, “Có sao, như Tâm với em”. Sáu Tâm biểu, “ngủ à nghe”. Nhưng chị biết anh vẫn thức bởi những ý nghĩ mới mẻ trong lòng. Chị thì ngủ, giấc cuối cùng, sâu thiệt là sâu. Đắp cỏ muôn đời.

… San bỏ quán Mây Lang Thang, chiều chiều ngồi bán chuối, khoai lang nướng mỡ hành bán ngoài cổng nhà văn hóa. Hỏi về giấc mơ trở thành đào hát, nó cười đã bỏ lâu rồi. Đi hát lỡ nổi tiếng, thí dụ thôi nghe, người ta biết lúc trước tôi từng làm tiếp viên quán bia thì nhơ danh cả một giới nghệ sĩ, làm người ta mất cảm tình với cải lương, vậy khác nào hại cả nền sân khấu nước nhà.
Cũng giống như phim tình cảm, đôi khi người ta vì yêu mà rứt ruột lìa xa người mình yêu. Biết làm sao, hoàn cảnh vậy mà.

Nguyễn Ngọc Tư
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeWed Aug 30, 2017 6:46 pm

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Images?q=tbn:ANd9GcQZWZqJABi4YtKyio_4-WWAJxJFLGO0rgdh2_TtKoEaO1ATglmB8w

Bạn nhậu cũ 

Nguyễn Ngọc Tư


Hắn chịu thiệt là mình mê chơi, ham vui, và vì thích chơi vui nên khoái nhậu. Còn gì buồn bằng việc phải về nhà sớm vào những buổi chiều cuối tuần dìu dịu nắng, gió nhẹ hiu hiu, phải ngồi một mình trong những buổi trưa trời mưa rả rích. Có gì vui bằng được ngồi trong một cái quán nào đó, hơi ồn ả, phức tạp một chút. Ở đó, mỗi người mang tới một màu sắc mùi vị, một tính cách khác nhau, đa dạng như cuộc đời tươi đẹp này. Họ có thể không có lý do gì rõ ràng hết, cũng có thể vì gặp người bạn cũ lưu lạc lâu rồi, một hợp đồng kinh tế mới ký, buồn do thất tình, vui vì mới cưới vợ xong... và niềm tự hào duy nhất của hắn khi ngoái nhìn lại nửa đời bia bọt là có lúc hắn đi quán chỉ vì nhớ cha, nhớ quá trời.

Ngày xưa, cứ năm ba bữa hắn lại chở cha đi nhậu. Đó là những bữa hắn bỏ rơi đám bạn bè mà không đứa nào dám giận, có đứa còn ngồi tấm tắc, ước gì tao còn ông già, đứa khác nghe lòng thẹn thùa, lâu rồi mình không về thăm, ăn một bữa cơm với ba, chỉ đoàn tụ đuợc mấy bữa giỗ nhưng hôm đó, ông già khề khà chung mâm của ông già, con ngồi cụng ly với đám bạn cùng cơ quan, nhậu nhẹt vốn là chuyện ít câu nệ nhất, xuề xòa, hòa đồng nhất mà hai ba con còn không thể sánh vai ngồi, nói chi... Nên hắn được bạn thương lắm, nể nhiều, tụi nó tò mò theo hỏi: "Nhậu với ông già, vui hôn mậy?"

Hắn nói vui, vui lắm, ít ai kiếm được một ông bạn nhậu quý như vậy. Khi đi hắn chở cha, lúc về, cha sợ hắn say, nên cha giành chở. Ngồi lâu nhưng uống không nhiều. Cha hắn thường bảo, uống ít còn nhiều, còn bạn bè, còn tự chủ, còn nhân cách, còn là mình, uống nhiều mất hết. Rượu bia là thứ để thưởng thức chứ không phải nốc vô tội vạ để khoe tài. Cái thức uống này là để rạng rỡ lòng chứ không phải tiêu sầu. Nên hắn vô chừng hai ly là có thể nói chuyện cởi mở với cha như một người bạn đồng niên. Có bữa, hắn ngà ngà say nên nổi hứng đọc bài thơ con cóc, cha cười, "vậy là cha biết làm sao con thích la cà quán nhậu rồi, để hứa hẹn như đinh đóng cột với mọi người cái chuyện mình không bao giờ làm được, gõ cái chén ca bằng cái giọng tệ... không chịu được, nói cho hả hê những ấm ức trong lòng... tất cả những chuyện đó, lúc tỉnh, con không bao giờ làm". Hắn cũng cười, "Nhậu cũng khổ lắm cha ơi, đầu tháng có tiền, nhậu toàn món sang. Cuối tháng, còn chừng mười ngàn trong túi đành ngồi nhậu với đậu phộng luộc, cá khoai khô. Lúc nầy kể ra thì xấu hổ đây, đi ngang quán quen chạy thiệt chậm coi có thằng bạn nào ngoắc lại không, ngoắc nhẹ mình tự ái chạy luôn, ngoắc mạnh mình ghé lại, tình bạn nhiệt thành vậy, con phụ sao đành". Cha cười ha ha, cái thằng...

Hắn giống cha, giống nhất là nhiều râu. Râu cha xồm xoàm, cứng tua tủa, ngả màu bạc, râu con cạo sạch nhưng vẫn xanh rì dưới làn da. Hắn càng uống càng đỏ mặt, cha càng uống càng xanh. Hắn nói với cha về những khó khăn trong công việc, về con bạn hắn thương sắp lấy chồng (đặc biệt chuyện này lúc tỉnh dễ gì hắn mở miệng), cha ờ ờ, hồi trẻ, cha cũng bị thất tình hoài. Hắn ngạc nhiên, "cha nói chơi, "cứng" như cha, từng vào sinh ra tử với quân thù, cũng biết cảm giác nẫu ruột khi mất người yêu như đám thanh niên bây giờ sao?" Tự nhiên hắn thấy giữa mình và cha hình như không còn khoảng cách nào hết, vì có thể nói và nghe nhau. Có lần, hắn còn kêu cha lấy vợ đi, lấy cô giáo già thương cha hoài, chờ cha hoài đó. Cha cười, "cha già rồi". Hắn gạt ngang, "Già đâu mà già, cha còn "ngon" lắm, lần nào cha con mình nhậu con cũng say trước...". Cha hắn bật cười, cái thằng uống rượu như xe bồn mà dám giả đò say. Nhưng có điều chắc cha chưa biết, hắn làm vậy để được cha che chở, dìu dắt như ngày còn bé. Đàn ông lớn xác vậy nhưng đôi lúc vẫn thèm, đời ngoài kia trần trụi và khốc liệt quá mà...

Rồi một ngày, hắn đến quán một mình, ngồi chỗ cũ, gần song cửa đóng bằng thẻ tre bù xè đã ăn thủng lỗ chỗ, phấn rắc lấm tấm mặt bàn. Hắn đòi hai cái ly, một dĩa đậu phộng rang, run rẩy rót rượu tràn ra bàn rồi đau đáu nhìn về chiếc ghế trống trước mặt. Cha hắn đi rồi, đi xa lắm, cô phục vụ xinh đẹp rụt rè ngồi xuống chỗ cha thường ngồi, cô bảo:
- Hôm rồi xe tang đi qua, em thấy giống bác, em đã ngờ ngợ... Hỏng ngờ...
Hắn không nói gì hết, sợ mở miệng ra sẽ bật khóc. Đàn ông đàn ang ai khóc trước mặt con gái, kỳ.
Sau này gặp lại, cô phục vụ cười:
- Chừng nào em lấy chồng, em sẽ chọn một người y hệt anh, một người có thể chở cha mình đi nhậu. Bây giờ, ít người làm vậy lắm - Rồi cô nghẹn ngào - Sao thấy anh, em nhớ bác quá, anh à.
Người tri kỷ xưa vừa đi, người tri kỷ khác lại đến.

Cha mất hai năm, cô phục vụ nọ thành vợ hắn, người vợ duy nhất không cằn nhằn khi chồng đi nhậu, vì cô biết, có lúc chồng mình cũng bỏ mặc đám bạn bè để một mình đến quán cũ, ngồi nhớ thương người bạn nhậu cũ. Nói cho cùng, la cà ở quán nhậu cũng hỏng phải là chuyện xấu lắm...
   
***

Quán nhớ

   
Trong đám bạn nhỏ cùng xóm, lớn lên tản mác, chỉ nó là người đi xa nhất, cách núi sông đã đành, mà còn cách biển, bên này bên đó không thể cùng lúc ngắm mặt trời lên. Lâu lắm nó mới về, nó bảo, bây giờ xứ mình cái gì cũng khác, nhờ có tình bạn tụi mày mà tao còn biết đường về, nhờ một thứ nữa là cái tiệm tạp hóa của dì Hai, may, cứ nhìn tiệm đó mà tao không lạc.

Lối sống văn minh không làm nó quên tiếng tiệm ngày xưa, ngày mà cả nó và tôi còn nhỏ xíu, ngày nào má nó cũng kêu thằng Út ơi, thằng Út à, chạy lại đằng tiệm mua giùm má ít đồ. Bữa sáng chạy ra mua tương mua củi về nấu bữa cơm sớm cho má nó lót lòng đi làm phụ hồ, ba đi đạp xích lô, trưa cả hai người về, cho đỡ mệt. Chiều xách chai mua dầu về thắp đen, bữa nào ba nó vui, muốn nhâm nhi với mấy ông bạn, nó đong thêm xị rượu. Nó biết đi tiệm mua đồ từ lúc còn chưa biết mặt của mấy tờ giấy bạc, ở nhà đưa tiền, nó chạy lại xòe tay ra mấy tờ bạc bèo nhèo đưa dì Hai, “má con dặn mua hết bi nhiêu đồng muối”. Dặn mua ít món còn nhớ, dặn nhiều nó phải vừa đi vừa nhẩm, gặp cái chạc cây, vấp ngã, quên mất, lại phải mếu máo chạy về hỏi lại. Ở nhà sai biểu cái gì còn mê chơi, dùng dằng chứ bảo đi tiệm là nó te tái đi ngay, mua món đồ còn dư một vài trăm, thể nào dì Hai cũng thối lại bằng mấy cục kẹo chanh, kẹo dừa xanh xanh đỏ đỏ, ngọt dai dẳng cả một tuổi thơ của đám con nhà nghèo.

Tiệm tạp hóa của dì Hai cất dửa mé sông, nhà nhỏ, hàng hóa chất đầy ra lối đi, treo lùm đum líu đíu không thấy được đầu người. Nhỏ vậy, chật chội vậy mà dường như hỏi món gì cũng có, gạo củi mắm muối thì nói gì, tiệm có cả những thứ năm thì mười họa mới bán được một lần. Chen chúc nhau những kệ cao kệ thấp, thùng nhỏ, thùng to, hủ sành, hủ mủ… không có cái thứ tự nào cho món lớn nhất như sịa nia thúng mủng, nhỏ nhất như cục đá lửa, cái dao lam… Bạn tôi nói với tôi rằng, mười mấy năm qua, mỗi lần bước vào những siêu thị hàng hóa bày bán hào nhoáng, nó vẫn thường nhớ tới tiệm của dì Hai, nó nói có một cái gì đó đầy sự sống, ấm áp trong cái quán bề bộn, hỗn độn của dì. Nên nhớ nhiều lắm. Nhớ đùm cốm gạo treo trên vách, mấy cái keo đựng bánh kẹp, bánh men, cái diệm đựng củ cải muối để kế bên rổ hột vịt, ở góc nhà là thạp đường mía vàng ong óng, một lần nó lén lấy tay múc thử, dì Hai rầy, “cái thằng sao ở dơ ở dáy vậy con, sao không nói để dì lấy dao xắn cho”. Nó còn nhớ nắp đậy trên cái lon đựng tiền lẻ của dì lúc nào cũng dính dâm dấp bột gạo, bột củ năng. Qua bao nhiêu năm rồi, nó vẫn thắc mắc, tự hỏi, làm sao dì nhớ rành vị trí từng thứ hàng hóa trong tiệm của mình, để người ta hỏi cái gì, dì lẹ làng, phăm phăm lôi ra ngay thứ ấy, mà từ cái chỗ đôi khi ta không ngờ tới. Tôi cười, với dì, cái tiệm đó có một trật tự riêng, tụi mình không biết được đâu.

Bởi dì đã mở tiệm hàng này từ lúc chúng tôi chưa được sinh ra. Có vài ba cái tiệm như thế cho xóm lao động nghèo nhưng không có cái nào lâu đời như tiệm của dì. Mỗi gia đinh trong xóm nhỏ nầy, ai đi ai đến dì rành hết thảy. Buôn bán lâu năm, dì còn thuộc nết ăn, xài từng nhà. Như cậu Ba chỉ thích ăn bí hầm dừa với đường mía, vừa ngọt vừa thanh, dì Chín mê món cháo trắng ăn với cải xá bấu, sáng nào cũng nấu, nhà mợ Bảy thích xài xà bông bột hơn loại kem… Với cư dân trong xóm, khi đã vượt qua được đận cơm ngày hai bữa thiếu trước hụt sau, ai cũng tự hỏi, hồi đó sống sao được nếu vắng những tiệm buôn bán lẻ trong xóm mình ha. Làm ngày nào đủ chi ngày ấy, đủ hai ký gạo, hai trăm đồng muối, năm trăm đồng đường, với bột ngọt, tương, chao… lắt nhắt, vụn vặt, không người bán biết mua ở đâu. Rồi mấy đứa con gái đểnh đoảng như tôi vất vả biết chừng nào, đôi khi không lấy được chồng chứ hỏng phải chuyện chơi, vì lâu lâu vô bếp một lần, đang nấu canh, kho cá, tá hỏa lên trong nhà hết đường hết muối, sai đứa con nít chạy lẹ ra tiệm mua về nêm vẫn kịp, thiệt hú hồn, may quá. Lớn lên, xa nhà, đi rày đây mai đó, nhớ về xóm cũ, từng cái cây ngọn cỏ, con đường dường như mỗi thứ đã trở thành một phần đời… Cả cái tiệm tạp hóa bình dị, mộc mạc của người đàn bà góa chồng hiền hậu mà cả đời chẳng đứa nào quên tên gọi: dì Hai.

Nó lại thăm, dì Hai than lúc nầy già cả rồi, con mắt ngó không thấy đường, đêm nào cũng nghe đau nhức mình mẩy. Dì nắn bóp tay nó (cái bàn tay chuyên môn lén quẹt đường mía ăn), khen lúc nầy con lớn quá, mập ra. Nó cười, thì mười mấy năm rồi còn gì, xóm xưa trở thành phố thị, hàng quán tíu tít mọc lên. Mọi thứ đã đổi rồi, sao dì với tiệm của dì không thay đổi gì hết vậy? Dì Hai cười, nếu cái gì cũng đổi hết thì bây biết đường đâu mà về.

Tôi thấy chút xíu nữa nó đã rớt nước mắt. Nó nén lòng, mếu máo cười, bảo, “Lâu quá, hỏng ăn kẹo của tiệm dì Hai, dì bán cho con năm trăm kẹo đi, dì!”. Dì cười, “Cái thằng, buôn bán gì, lâu lâu con mới về, dì đãi”, rồi dì lụm cụm lấy cho nó một vốc kẹo dừa.

Hồi xưa nó cũng chỉ mê mỗi món kẹo dừa, mê tới mức cả hàm răng sún hết trọi.

Nguyễn Ngọc Tư
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeThu Nov 23, 2017 5:19 pm

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Th?id=OIP.gui5q3TDeGVnn4eQ6MJe0QEsDf&pid=15

Biển Người Mênh Mông


Nguyễn Ngọc Tư


Chỗ sân ấy hồi hè tụi con nít còn cò cò, u hơi, vậy mà mới vài ba trận mưa mùa đã mênh mông nước. Rồi bèo lấm tấm xanh, rau ngổ, rau muống mọc đầy, vươn những cái ngọn non nhuốt, trắng phau phau. Từ ngoài đường vào khu nhà thuê chỉ còn một lối nhỏ lát gạch Tàu rêu trơn tuột. Dặn hoài, nhưng đêm qua, ông già Sáu Đèo lại trợt chân.

Ông còn ngồi loay quay ngoi ngóp dưới sân bèo thì vừa lúc Phi về, anh hỏi, trời đất, làm gì ngồi đây. Ông Sáu cười, hàm răng rống trơ, móm mém, "Qua chờ chú em về". Phi nắm tay đỡ ông dậy, xốc ông lên vai như xốc một đứa bé lên mười. Ông già dụi cái mặt già nua vào tóc anh, biểu:
- Chú em, tóc dài rồi, sao không chịu đi cắt đi, thanh niên để vậy coi bầy hầy lắm.

Phi không nói gì hết, lòng anh lặng đi, nghe nhói ran cả ngực mà không biết niềm nhớ nó đang cựa quậy chỗ nào. Lâu lắm rồi mới có người nhắc anh chuyện tóc tai.

Hồi ngoại Phi còn sống, thấy tóc anh ra hơi liếm ót bà đã cằn nhằn: "Cái thằng, tóc tai gì mà xấp xãi, hệt du côn". Phi cười, "Con làm nghệ sỹ, tóc phải dài chút đỉnh chớ, ngoại". Ngoại anh nạt, "Người ta nhìn nghệ sỹ là nhìn tài, nhìn tánh chứ nhìn mái tóc sao?". Phi không cãi nữa, cầm mấy ngàn chạy đi, lát sau đem cái đầu tóc mới về.
Nói cho cùng, anh không nghe lời ngoại thì nghe ai bây giờ.

Phi sinh ra đã không có ba, năm tuổi rưỡi, má Phi cũng theo chồng ra chợ sống. Phi ở với bà ngoại, chiu chít quanh quẩn bên chân bà như gà mẹ gà con. Thấy Phi suốt ngày tha thủi một mình, ngoại biểu đi hàng xóm chơi, Phi lắc đầu, "Đi đâu ai người ta cũng bảo giống ông Hiểu nào, trưởng đồn Vàm Mấm nào á. Con với ổng nước lã, người dưng mà, ngoại?" Ngoại không nói gì, lặng lẽ ngồi đương thúng, dường như trong mình có chỗ nào đó đau lắm, nhói lắm.

Phi mười, mười lăm tuổi đã biết rất nhiều chuyện. Thì ra, đã không còn cách nào khác, má mới bỏ Phi lại. Sau giải phóng, ba Phi về, xa nhau biền biệt chín năm trời, về nhà thấy vợ mình có đứa con trai chưa đầy sáu tuổi, ông chết lặng. Cũng như nhiều người ở Rạch Vàm Mấm này, ông ngờ rằng má Phi chắc không phải bị tên đồn trưởng ấy làm nhục, hắn lui tới ve vãn hoài, lâu ngày phải có tình ý gì với nhau, nếu không thì giữ cái thai ấy làm gì, sinh ra thằng Phi làm gì. Ngoại Phi bảo, "Tụi bây còn thương thì mai mốt ra tỉnh nhận công tác, rủ nhau mà đi, để thằng Phi lại cho má".

Sau này ngoại hỏi Phi, ngày xưa ngoại tính vậy con có buồn không, Phi cười, làm gì mà buồn, ngoại. Nếu chuyện con ở lại làm cho hết thảy mọi người đều đề huề vui vẻ thì con cũng vui chớ.

Má cũng hay về thăm Phi, thường là về một mình. Tất bật, vội vã, không làm gì cũng vội vã. Lần nào cũng hối hả kéo Phi vào lòng hỏi còn tiền xài không, lúc rày học hành thế nào, có tiếp ngoại vót nan không, sao mà ốm nhom vậy? Rồi từ từ má chỉ hỏi anh chuyện tiền xài thôi.

Hết cấp hai, Phi lên thị xã mướn nhà trọ học, một năm mấy lần lại nhờ má đi họp phụ huynh. Gặp bữa mưa thì trèo lên mái nhà thông máng xối, khi thì tiếp má khiêng mấy tấm dan lót sân sau, thấy gì làm nấy như ở nhà mình. Ba Phi thì hội họp, công tác liên miên, Phi ít gặp. Ông thay đổi nhiều, tướng tá, diện mạo, tác phong nhưng gặp Phi, cái nhìn vẫn như xưa, lạnh lẽo, chua chát, lại như giễu cợt, đắng cay. Mà, ba thì dứt khoát không nhìn con như vậy. Ông hay chê Phi với má, "Cái thằng, lừ đừ lừ đừ không biết giống ai" (còn có thể giống ai?). Hết lớp mười, Phi vừa học vừa tìm việc làm thêm. Má anh rầy, "Bộ má nuôi không nổi sao?" Phi cười, "Má còn cho mấy đứa em, phải lo cho tụi nó học cao hơn nữa. Tự mình con sống cũng được, má à. Hồi con mới vài ba tháng tuổi, lúc biết lật, có khi quăng cái đít không qua, không phải ngoại đã biểu má đừng đỡ tiếp để sau này làm việc gì con cũng tự làm được đó sao". Rồi Phi thôi học đi theo đoàn hát, má anh giận tím ruột bầm gan, "Ai đời ba mầy làm tới chức phó chủ tịch, không lẽ không lo cho mầy một chỗ làm tử tế, sao lại vác cây đờn đi hò hát lông bông. Làm vậy khác nào làm ổng mất mặt".
 
Chỉ ngoại Phi là không rầy, ngoại anh hỏi, "Bộ làm nghề đó vui lắm hả con? Thoải mái chớ gì? Phải rồi, hồi xưa má con đẻ rớt con trên bờ mẫu, mở mắt ra đã thấy mênh mông trời đất rồi, bây giờ bị bó buộc con đâu có chịu". Phi chỉ cười cười mà không nói. Hồi còn ở đoàn cải lương Bông Tràm thì vui, đóng vai quân sỹ cũng vui, rồi đoàn giải thể, phía bên ca múa nhạc nhận Phi về, mùa nắng thì đi nông thôn, mưa ở lại thị xã, bạn đồng nghiệp rủ Phi đi hát rong ở mấy quán nhậu, nhà hàng, chạy show đám tang, đám cưới... Chỉ thiếu điều ôm cái thùng kẹo kéo ra ngoài đầu chợ vừa hát vừa rao thôi. Mà, ban đầu thấy ê chề, tủi cực lắm. Bây giờ thì không bỏ được, vì được sống tự do tự tại, được hát để vợi nỗi lòng chứ không hẳn vì đôi ba chục ngàn bồi dưỡng mỗi đêm. Nếu không có hợp đồng đi hát xa thì ba giờ chiều Phi vác cây đờn ra quán đến tận hai ba giờ khuya mới về, lúc về đã say. Thì khách người ta mời mỗi bàn mấy ly nào bia, nào rượu trộn lẫn lại làm gì mà không say. Say rồi hát nghêu ngao trên đường về. Nhờ vậy, mà người ở xóm lao động nghèo nầy biết thằng Phi "nghệ sỹ" vẫn còn ở đây, trong căn nhà cửa trước lúc nào cũng khép im ỉm. ở trong cái tổ bê bối của mình, Phi ngủ vùi đến trưa hôm sau. Ngoại biểu anh cưới vợ hoài, nhưng Phi nghĩ mãi, có ai chịu đựng được anh chồng lang thang say xỉn như mình, hồi còn là một hòn máu thoi thót anh đã làm khổ bao nhiêu người rồi, bây giờ lấy vợ không phải lại làm khổ thêm một người nữa sao?

Rồi ngoại Phi nằm xuống dưới ba tấc đất, đôi bông tai bằng cẩm thạch ngoại để dành cho cháu dâu vẫn còn nằm im trong hộc tủ thờ. Còn một mình, anh đâm ra lôi thôi, ba mươi ba tuổi rồi mà sống lôi thôi, ba mươi ba tuổi rồi mà còn nghèo hoài. Nhiều bữa trời mưa thức dậy thì không thấy đôi dép đâu, cái thau nhựa bể vành dành để giặt đồ đủng đỉnh trôi lại. Bèo theo nước mơn man mấy cái chân giường. Ngó cảnh nhà, Phi tự hỏi, mình sống bê bối từ hồi nào vậy cà. Từ hồi nào thì phong trần, bụi bặm, khắc khổ, ăn bận lôi thôi, quần Jean bạc lổ chổ, lai rách te tua, áo phông dài quá mông, râu ria rậm rạp, móng tay dài, tóc dài. Từ hồi nào muốn soi kiếng phải lấy tay vẹt mớ râu tóc ra như người ta vẹt bụi ô rô.

Không biết, có ai la rầy, có ai để ý đâu mà biết. Má anh lâu lâu lại, hỏi anh đủ tiền xài không, bà có nhìn anh nhưng không quan tâm lắm chuyện ăn mặc, tóc tai. Ngoài ngoại ra, chỉ có ông già Sáu Đèo nhắc anh chuyện đó.

Ông già Sáu mới dọn lại thuê một căn chung vách với nhà Phi. Ông cũng nghèo, lúc chuyển đến đồ đạc chỉ gói gọn bốn cái thùng các tông, dọc đường rớt đâu mất một thùng đựng mùng mền quần áo nên chỉ còn bộ đồ duy nhất dính da. Ai cũng ái ngại, ông Sáu phủi tay cười, "Thôi, của đi thay người, ba thứ đó mà nhằm gì, mất con quỷ này mới tiếc". Ông chỉ tay vô cái lồng trùm vải xanh. Giở ra nhìn thấy một con bìm bịp chỗ nào cũng đen trủi, trừ đôi cánh màu xám. Đám trẻ xúm lại, bảo nhau "Ngộ quá ha. Nó hót làm sao?". "Bậy, bìm bịp đâu có hót, nó kêu, tiếng của nó phát ra từ trong cổ họng nầy nè. Giọng nó ấm lắm, tiếng kêu phát ra từ tấm lòng mà. Mấy con chim há mỏ ra hót lách chách thấy vậy chớ không chân tình đâu, rồi ông già dừng lại, nuốt nước miếng, hạ giọng, con người ta cũng vậy thôi hà". Đám trẻ nấn ná chờ hoài, mãi con bìm bịp mới cất tiếng kêu, tụi nó tiu nghỉu, "Kêu gì buồn thấu trời". Ông già cười hỉ hả, "Buồn hả, buồn chớ sao không. Trời sanh ra cho nó con mắt đỏ như khóc vầy không buồn sao được".

Lúc đó, Phi vừa ngủ dậy, đứng lặng, lắng nghe tiếng bìm bịp buồn buồn xa vời vợi trong ánh nắng chiều, Phi nhớ triền dừa nước xanh miết ở trước nhà ngoại mình, nhớ đứt ruột. Lúc đó, ông già đang mặc độc cái quần tà lỏn đã xoăn cón ngồi giặt bộ đồ kaki màu cứt ngựa, thân hình nhỏ quắt quằn quặt, chép miệng, "Con trời vật nầy lại kêu bậy, giờ nầy con nước đang chuẩn bị ròng sát đáy. Qua rành con nước tháng ba nầy quá mà. Nó bỏ sông lâu quá rồi. Chú em mầy nhớ quê hả?". Phi gật đầu. Ông già rủ, "Vậy chút nữa qua nhà qua nhâm nhi mấy ly chơi". Phi không ngần ngại, nhận lời. Người ta buồn nhất, cô đơn nhất là khi ngủ dậy. Và khi ngoài trời đang nắng ráo mà không biết phải đi đâu, về đâu.

Nhà ông Sáu có sẵn rượu, nhưng ông bảo không phải ông ghiền, sẵn rượu để gặp tri âm nhâm nhi chút chơi, "Qua thích chú em qua mới mời". Đi lại vài ly, ông già hỏi:
- Chú em đang đau ở trong tâm phải hôn? Chỉ có người đau mới uống từng chút như vầy.

Phi cười, anh vốn ít lời, lại không thích kể lể chuyện mình. Ông già lại không ép, ông nói nỗi buồn như cái ao, càng đào càng sâu, ai ác làm gì. Mà, cái ông già nầy chắc cũng đang đau, cũng uống từng chút một đó chớ. Và uống tới chừng nào đó, ông già còn gõ chén ca "Chớ bìm bịp kêu nước lớn chớ em ơi. Buôn bán không lời... chớ buôn bán không lời... chèo chống mỏi mê...". Giọng ông già nghẹt mũi tựa như khóc. Rồi ngoảnh ra sân vắng, ông già chắc lưỡi, cha, tới sáng mai không biết đồ có khô kịp không đây. Phi về lục lọi cho ông vài ba cái quần tây với áo lẻ, lúc trở qua đã thấy ông già, treo bộ đồ trước mặt, vừa uống vừa quạt, dáng điệu vừa trịnh trọng vừa nhẹ nhàng, nâng niu như đang quạt cho người yêu mình.

Sáng sau, lúc Phi còn đang ngủ thì ông già Sáu vỗ vách, "Qua đi đây, chú em nhớ dòm chừng con quỷ sứ dùm qua nghen". Phi chợt tỉnh, bàng hoàng, đó là lúc anh đang mơ màng nghe tiếng mưa long tong trên mái nhà, Phi đang thèm ai đó gọi mình thức dậy. Đợi qua cơn xúc động thì ông già đã đi xa rồi.

Ông Sáu Đèo làm nghề bán vé số, có tối ông gặp Phi ở ngoài quán. Lúc thì cho hay, sao phơi giày mà để mưa ướt mem vậy. Sao đồ ăn không chịu đậy kỹ, để mèo vô ăn hết cá chiên rồi, nó còn tha cái đầu qua nhà qua. Nhưng lần nào ông cũng đứng nghe anh hát, hết bản, vỗ tay xong, ông cũng "boa", không phải cái kiểu kẹp tờ giấy bạc giữa hai ngón tay rồi phe phẩy trước mặt anh, ông từ tốn rút trong túi ra tờ giấy bạc hai ngàn, nhét vào túi Phi rồi cài nắp túi cẩn thận. Trân trọng như trân trọng người nghệ sỹ.

Trời trở chướng, ông Sáu than đau nhức mình. Phi qua nhà cạo gió cho ông. Lần theo những chiếc xương gồ ra trên thân mình nhỏ thó, ốm teo, Phi buột miệng "Bác Sáu ốm quá". Ông già Sáu cười, "Tính chết mấy lần rồi, nhưng còn mắc nợ đời. Nợ thì phải trả chớ bỏ đi đâu. Thứ nhất là nợ con quỷ sứ nầy nè, tội nghiệp". Ông kể, có lần định đem con bìm bịp cho người ta. Cậu đó cũng tử tế lắm, bữa đó nhậu cườm cườm, qua với nó mới bàn về rượu. Qua nói chuối hột mà ngâm rượu uống say lúc nào không biết, nó cãi, bìm bịp ngâm rượu mới thiệt là ngon. Qua thôi. Sau nầy có ông cán bộ giàu lắm, mua vé số của qua hoài, nghe kể có con bìm bịp, ổng xin, qua đem lại, nhưng cả tuần nó không kêu tiếng nào, thấy qua lại thăm, nó nhìn đứt ruột lắm. Qua xin lại, đem về, những thứ quê mùa như nó, ở nhà lầu thì không cất tiếng được". Ông biểu, "Sống một mình thì buồn lắm, chú em nên nuôi con gì đó, con... vợ thì tốt nhất, nếu chưa tính chuyện đó được thì nuôi chó, mèo, chim chóc. Đừng nuôi sáo, nuôi sáo kết cục rồi cũng chia ly hà, nó hay sổ lồng, chết yểu. Kiếm thứ dân dã mà nuôi, để nhớ quê, nhớ gốc rễ mình, để đi đâu cũng muốn về nhà. Như qua, nhiều lúc phò con bìm bịp nầy như phò bà già vợ vậy mà vui". Đi bán ở đâu, lâu lâu ông cũng tạt về nhà, quăng mấy con cá ươn cho "con quỷ sứ", xong rồi từ giã, "Tía đi nghen". Trời mưa dầm, ông già đội áo đi kiếm cóc, rắn mối cho nó ăn. Vui buồn gì cũng tía tía con con. Có đêm con bìm bịp kêu suốt, những tiếng bịp bịp ngắn ngủn buồn thiu thỉu, ông bảo với Phi, nó nhớ sông đó. Lúc nào qua thấy nhớ sông nó đều kêu như vậy.

Ông kể, hồi trẻ, ông toàn sống trên sông, ông có chiếc ghe, hai vợ chồng lang thang xứ nầy xứ nọ. Gặp mùa lúa thì gặt mướn, gặp vịt bầy đổi đồng thì chở thuê gặp rẫy bí, rẫy khóm thì mua về bán lại chợ nổi Cà Mau, nước ngược cắm sào đậu lại thổi cơm, bìm bịp kêu, nước bò lên bãi, ông cho ghe ra bến. Cuộc sống nghèo vậy mà vui lắm. Phi hỏi, "Vậy bác Sáu gái đâu rồi ?" Ông già rên khẽ, "Chú mầy cạo mạnh tay làm qua đau quá". Ông quay lại, gương mặt ràn rụa nước mắt, Phi giật mình, hỏi quýnh quáng, "Con làm bác đau thật à, chỗ nào vậy bác?". ừ, cái chỗ nầy, chú mầy không làm qua hết đau được đâu. Ông già Sáu mếu máo chỉ về phía tim. "Cổ đi rồi. Sống khổ quá nên cổ bỏ qua. Cổ lên bờ, không từ giã gì hết, bữa đó đúng là qua bậy, qua nhậu xỉn quá trời, rồi cũng có cự cãi mấy câu, cảnh nhà không con nên sanh buồn bực trong lòng, qua có hơi nặng lời, cổ khóc. Lúc thức dậy thì cổ đã đi rồi. Qua đã tìm gần bốn mươi năm, dời nhà cả thảy ba mươi ba bận, lội gần rã cặp giò rồi mà chưa thấy. Kiếm để làm gì hả? Để xin lỗi chớ làm gì bây giờ. Mà, kiếm hoài không gặp, qua sợ mình mắt dở rồi nên nhìn không ra cổ, tới chết không biết có gặp được không". Ông Sáu ngừng lại, lấy tay quệt nước mắt, "Cái con bìm bịp quỷ nầy nó cũng bỏ qua mấy lần nhưng ngủ một đêm trên đọt dừa nó lại quay về. Sao cổ không quay lại?". Phi không biết. Không biết.

Vì không biết nên ông già phải đi tìm để hỏi cho ra. Rồi một bữa, ông bày ra bữa rượu để từ giã Phi, ông bảo đã ở đây một năm hai tháng mười chín ngày rồi, ngõ nào cũng đi hẻm nào cũng tới mà người thương đâu chưa thấy. Phi hỏi ông sẽ đi đâu mà cảm giác giọng mình đang run rẩy. Ông Sáu cười, "Cha, để coi, chỗ nào chưa đi thì đi, còn sống thì còn tìm. Qua nhờ chú em một chuyện, chú em nuôi dùm qua con quỷ sứ nầy. Qua yếu rồi, sợ có lúc giữa đường lăn ra chết, để con "trời vật" nầy lại không ai lo. Qua tin tưởng chú em nhiều, đừng phụ lòng qua nghen". Phi dạ. Ông dặn đi dặn lại, con bìm bịp nầy ăn tạp lắm, nó khoái ăn cá ươn, cá chết, chú em mầy đừng có sợ nó hư bụng, nó sành ăn tổ cha. Cũng đừng chấp nê mấy thứ hư thúi đó, cho dù ăn gì thì nó cũng kêu hay, như con người ta vậy, nhìn nhau phải nhìn mặt tốt của nhau. Mai mốt nó đẻ trứng, chú em lấy giấu đi, để nó thấy mấy cái trứng mồ côi nó tủi. Hai người ngồi ở sân sau, dưới một đêm trăng sáng, trăng đầy. Có lần ông bảo, sướng nhất là được uống rượu dưới trăng.

- Chú mầy uống đi, buồn gì, hai đứa mình có duyên gặp đây, có phải là vui biết bao nhiêu không? Nhưng qua có lời dặn lại, chú em đừng bao giờ uống say quá, chỉ những người sầu muộn mới uống say thôi.

Ông đi rồi, chỉ còn lại Phi và con bìm bịp, thấy nó cứ thắc thỏm mổ cái mỏ vào mấy nan tre, tưởng nó đói, Phi đi bắt rắn mối cho nó ăn. Nhưng nó không ăn, cả đêm kêu thê thiết, những tiếng bíp bíp nhỏ xuống cái xóm Rạch Chùa từng giọt như giọt máu. Phi giở cửa lồng, con bìm bịp đập cánh xao xác, đứng niễng đầu nhìn anh buồn lắm, sao anh ngồi đây mà tía tôi đâu? Phi cười buồn bã, ước gì tao biết được bây giờ tía đang ở đâu. Tía thấy tao buồn nên để mầy ở lại,nhưng rồi lúc ông già bé nhỏ ấy buồn, ai kêu nước lớn cho ông nghe.

Từ đấy, ông già Sáu Đèo chưa một lần trở lại. Từ đấy, giữa biển người mênh mông, Phi gặp biết bao nhiêu gương mặt, cùng cười đùa với họ, hát cho họ nghe, cùng chạm ly uống đến say... Nhưng không ai nhắc Phi cắt tóc đi, đàn ông đàn ang ai để tóc dài.

Biển người thì mênh mông vậy...
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeMon May 07, 2018 9:35 pm

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Th?id=OIP.JfsnpIGuOxiuQn4qobFocgHaG1&pid=15

Bà già đi bụi
Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư


Ngồi ở ngoài hiên có thể ngửi được mùi biển cả. Hoa cúc dại mọc liếm lên thềm. Ngôi nhà của tụi mình không cần rộng, chỉ cần kê vừa một cái giường và gian bếp. Ở đó có ông già hơi lãng đãng, đôi khi lấy điện thoại di động khuấy cà phê, hay ngồi nhìn mây những khi ti vi hết chương trình thế giới động vật. Ở đó có bà già hí húi cọ nồi, lâu lâu vói tay ra sau tự đấm lưng. Radio mở rọt rẹt chương trình ca cải lương cuối chiều, miệng bà cằn nhằn tối qua không ngủ được vì ông già ngáy dữ quá. Đêm nay tôi sẽ thủ cục muối hột, cứ hả họng ra ngáy là tôi thả vô miệng cho mặn thấy mồ tổ. Mặt ông già tê mê, khoái chí nói bà cằn nhằn cũng có duyên, y như hồi xưa vậy, thiệt chẳng bõ công tôi bỏ xứ theo bà.

Bức tranh đó hai mươi năm trước ngoại và bồ cùng tô vẽ, mỗi khi hẹn hò. Viễn tượng đào được hủ vàng cũng không gây say ngây bằng nằm cạnh nhau thêu dệt một tổ ấm cuối đời. Ngoại hồi ấy mới bốn mươi, cứ tủm tỉm cười hình dung mùi dầu gió trên bâu áo bồ những ngày trở lạnh. Bồ nói bao giờ già sẽ về sống với ngoại (lúc ấy cũng già), ở đâu cũng được, nhà là nơi có người thương. Gần biển thì thích hơn vì khí trời ở đó tốt cho lá phổi rệu rã của thằng từng nghiện thuốc lá. Ngoại sẽ nấu những món ăn bồ thích, sáng bắc nước pha trà chiều pha vào chậu cho bồ tắm. Thỉnh thoảng bồ hé cửa nhà tắm ngoắc tay, bảo ê bà kỳ lưng giùm tôi coi. Vài lúc bồ quên gội đầu, ngoại sẽ rầy rà đàn ông gì mà hôi rình. Dĩ nhiên đàn bà tuổi đó sẽ cằn nhằn rỉ rả suốt ngày. Cằn nhằn gió, cằn nhằn gạo lên giá và nhất là cằn nhằn ông bồ lơ ngơ, vô tâm.

- Ui trời, giao việc cho người ta nhiều vậy. Ngộp thở. Lúc đó anh sẽ làm gì?
- Làm gì nữa?! Anh ho.
Ngoại nhét sổ tiết kiệm vào ngăn trong túi xách, hơi thắt ngực khi nhớ lại mình đã dùng chân khóa chặt bồ như thế nào, lúc bồ nói chỉ việc ho thôi là đã cực thân lắm rồi. Cái ý nghĩ hồi đó mình mạnh thiệt làm ngoại có chút bùi ngùi. Lần gần nhất quắp bồ ngoại nghe như mấy cái khớp xương mình long ra.

Ngó nghiêng lại hành lý lần nữa, ngoại nghĩ chắc là không bỏ sót gì. Dầu gió, thuốc huyết áp, áo ấm, mấy cuốn sách… vẫn còn nguyên trong giỏ xách từ chuyến đi bụi không thành lần trước. Hôm đó ngoại ra khỏi nhà từ mờ sáng, xe chạy ba chục cây số mới sực nhớ bỏ quên giấy tờ tùy thân, ngoại quay lại lấy thì chồng con Hai đã dậy ra tưới cây. Thằng rể nói vói qua rào, vợ con đau bụng từ khuya giờ, chút má nấu cháo cho nó ăn với. Con đi đám tang ông già thằng bạn dưới quê, chiều má chạy lại nhà trẻ đón bé Chút Chít luôn nghen. Ngoại mở cửa vào vo nắm gạo bắc nồi cháo lên bếp, lúc đem cất túi xách vào ngăn tủ, thấy hơi tan nát. Nhắn cho bồ hay, bồ nói tôi cũng đang không biết nói sao với em. Tụi nhỏ biết ba nó sắp đi chơi, nên cũng giấu biệt chòm răng giả rồi, sao dám đi ra đường đây. Giọng nói của bồ, không biết có phải vì mất mấy cái răng giả hay không, có chút mếu máo. Ngoại nói, thôi, lần sau, em hứa.

- Nghi lắm! Bồ nói, nhấn trọng âm “lắm” cho ra vẻ hài hước, sao nghe như một tiếng thở dài.
Chính ngoại cũng hồ nghi lời hẹn của mình, bởi cái tính chất bất định của nó. Lần sau là bao lâu? Những chuyến đi không thành dạy ngoại chẳng nên cược vào nhiều hy vọng. Có lần ngoại gọi cho bồ bảo chậm lắm là chiều mai em sẽ nấu cơm cho anh. Chiều mai tụi mình sẽ thuê một căn nhà ở Đậu Phố, bắt đầu sống như một gia đình mới ra riêng. Bồ nói em sắm chén bát ít thôi, vài tháng là chúng ta trả nhà đi lang thang chỗ khác. Bữa đó ngoại chưa đi qua khỏi cây cầu ranh giới giữa Sầu Đâu và tỉnh bạn thì phải quay về. Gái Út gọi điện thoại hớt hãi nói má ơi thằng Bi bị đứt tay. Ngoại hít thở một hơi dài nói vậy con băng bó cho nó đi, má đi xóm rồi. Nó kêu trời, hỏi bông băng để ở đâu. Ngoại lại nuốt nước bọt, cố nhớ coi chỗ mình cất thuốc nhưng không sao nhớ được bởi đầu dây bên kia là tiếng thằng nhỏ Bi kêu gào thảm thiết, gọi ngoại ơi ngoại à, đau quá.

Xe đò dừng ở bên đường trả khách. Bà ngoại về tới nhà thì thằng Bi cũng nín khóc, ngón trỏ quấn chặt vào vạt áo, tay kia cầm que kem mút ngon lành. Út thấy hành lý ngoại phồng lên, kêu chói lói má tính đi đâu vậy, lỡ con trực đêm thì thằng Bi ngủ với ai?
Con em méc con chị, ba đứa con gái phát hiện ra âm mưu bỏ nhà đi bụi của bà già. Tụi nó thay nhau canh giữ bà mẹ bằng cách dúi cho bà mấy đứa trẻ, nhờ bà đan áo len cho mùa đông tới. Tấm muốn đi chơi hội thì phải xong việc đã, cũng may tụi nhỏ không đến nỗi trộn lẫn đậu xanh và đậu đỏ để bắt mình nhặt ra đậu… xanh, ngoại nói với bồ, cố cười giòn trong điện thoại, mà cay mắt.

Mấy đứa con gái siêng nịnh nọt hơn, thường xoa bóp vai ngoại mơn trớn, “không có má tụi con không biết sống sao”. Gái Lớn biết ngoại có mối tình ở đâu đó rất xa, vài tháng lại hẹn hò một lần, và những chiều nắng đẹp ngoại hay đờ đẫn. Con nhỏ giả bộ như không biết. Giống như Gái Giữa vẫn nhớ má đã từng nói muốn dành những năm tháng cuối đời để sống cho mình, nhưng nó lơ luôn khi nghĩ tới sau mỗi chuyến công tác dài ngày nhà cửa sẽ mọc lông. Có ngoại thì đi bao lâu nhà nó vẫn ngăn nắp như mới, chiếu gối được giặt thơm tho. Và mỗi lần ngoại đi sưu tầm thêm túi xách du lịch vô ngăn tủ đã lủ khủ túi xách, hay bỗng lặng người nghe tiếng máy bay qua, Gái Út biết mộng giang hồ của bà già đang trỗi dậy. Nó cắt cúc áo đem qua nói má ơi khâu lại giùm con, cuối tháng này con đi tập huấn tới cuối tháng sau, má nấu cơm cho cha con cu Bi ăn với.

Ngoại lại có bộ sưu tập mới: bản đồ. Mỗi năm họ cập nhật một lần, ngoại dò ra mỗi năm xuất hiện một vài con đường mới, riêng con đường mình thèm cất bước sao cứ khép dần. Trải bản đồ ra coi trong lúc canh chừng mấy đứa cháu ngoại chạy quanh, ngoại di ngón tay tìm lại những nơi quen thuộc. Đây đèo Gió, bồ bảo chúng ta sẽ đến đây mượn một căn nhà sàn của người Nùng, tụi mình làm nương tỉa bắp. Chừng bẻ đợt bắp đầu tiên mình đốt lửa nướng ăn một bữa no nê, rồi gói gém hành lý ra đi. Mình trồng nhãn, mít ở những nơi mình đến mà không chờ hái trái. Mình đi sâu vào đồng bãi ghi lại những câu hát hồi xưa, nếm thử những món ăn quê xứ người. Cũng có thể mình nhận chăn thả một bầy dê chừng chục ngoài con, hoặc đi chăn vịt chạy đồng. Ta bà đây đó, làm lụng cho vui, cho cơ thể vận động thôi, vì sẽ sống bằng tiền dành dụm từ bây giờ.

- Ừ, nghe mà thèm quá đi. Biết tới chừng nào, hén?
- Chờ tụi nhỏ lớn. Bồ nói, chắc như đinh đóng cột.
Hồi ấy cả ngoại và bồ đều ngây thơ. Cái khái niệm lớn của những đứa con thật ra không dừng lại ở tuổi mười tám, hay ở cái ngày tụi nó dựng vợ gã chồng. Con cái mãi mãi không lớn. Ngoại dạy cho Gái Lớn cách mặc tã cho con nó thì Gái Út chết hụt vì thất tình. Bồ ở chỗ cách Sầu Đâu một ngàn ba trăm cây số cũng không khá hơn, con gái yêu nhằm thằng nghiện, con trai du học cần rất nhiều tiền. Gặp nhau vội vàng được vài ba bữa, lại gối đầu lên đùi mơ ngôi nhà tranh vách đất có ông già khó tính sống với bà già càm ràm.

Ngoại nhìn quanh nhà mình lần nữa, nghĩ phải đi thôi, đến lúc dứt rồi. Lúc khóa cổng ngoại đặt chìa khóa dưới chậu lan đất. Tụi nhỏ sẽ biết chỗ lấy để vào nhà đốt nhang ba chúng, mỗi chạng vạng. Đi đến cây cầu cửa ngõ thành phố ngoại sực nhớ chưa tắt điện thoại, cũng may chưa có đứa con nào gọi để hỏi thuốc nhức răng đâu, má ơi.

Cơn mưa lúc gần sáng làm con đường loang ướt. Nắng lên, ánh sáng nhuộm nó thành một dòng sông sáng lóa. Rực rỡ, kiêu bạc mà hết sức dịu dàng. Ngoại nghĩ đường đến thiên đàng không biết có giống vầy không. Ngoại ngây ngất uống lấy dòng sông vàng chảy tràn trước mặt, biết rằng khoảnh khắc này sẽ không gặp lại lần nữa, trong đời.

Bạn đường hỏi dì đi chừng nào về. Ngoại bảo chưa biết nữa, đi bụi mà, tới đâu hay tới đó. Nhưng chắc chắn có ghé biển. Bồ đã chờ sẵn. Hải lưu chắc đưa tro của bồ đi khắp góc biển chân trời.

Sực nhớ cuốn sách viết về chợ Việt đã để quên ở nhà. Ngoại muốn tra coi chợ Ngâu họp phiên vào ngày nào sau Tết. Hình như mùng bốn, phiên ấy người dương sẽ gặp người âm. Không biết bồ có nhớ chỗ đó không, có đến kịp không. Nghi lắm!
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeMon May 21, 2018 10:18 pm

.

Láng Giềng Một Thuở...
Nguyễn Ngọc Tư


Sớm mai cầm chổi ra quét sân, thấy cửa nhà hàng xóm mở toang, đằng trước sạch bong, chị lấy làm lạ. Bên ấy thường chỉ hé cửa lúc sắp trưa, và cái cửa chỉ mở đủ cho một người lách qua là dấu hiệu duy nhất cho biết cả nhà họ đã thức dậy. Đấy là hình ảnh duy nhất, còn âm thanh duy nhất là tiếng nhạc lúc chói lói, lúc rền rền. Ít nghe người nói cười. Họ sống im lìm, mờ nhạt và khép kín.

Nên có gì đó thật khác thường, bỗng dưng bên căn nhà chung vách giòn tan, rầm rập tiếng trẻ con chạy giỡn. Cầm chổi ngó nghiêng, gặp một người phụ nữ lạ hoắc, chị ta nhoẻn cười, xởi lởi, “dì Sáu em đi Mỹ chơi rồi, vợ chồng em ở trong quê ra giữ nhà dùm. Chế thứ mấy? Em kêu cho tiện…”. Vậy là quen nhau, chị bồi hồi khi nghe người phụ nữ gọi “chế Ba à, chế Ba ơi…”, bồi hồi vì mình có thể nhanh chóng thân thiện với người mới gặp. Như thể nghi kỵ, dè dặt chưa từng là thói quen. Chị hớn hở vào bảo với chồng, nhà kế bên tạm đổi chủ, mắc cười lắm, dân nhà quê.

Nhà quê chính hiệu. Điều đó mà chị thấy yêu họ, thấy thú vị, vui vui. Dù đôi lúc cũng bực mình. Chị ghét cảnh những buổi chiều gặp chị vợ cùng hai đứa trẻ ra đằng trước ngóng trông, hỏi chờ gì, chị ta ngỏn ngoẻn cười, “em đợi ảnh về ăn cơm”. Chị cau mày, bỏ vô nhà, lòng nghĩ, đói thì cứ ăn, chờ đợi chi phiền phức, cầu kỳ. Rồi cho thằng con ăn xong, nó cặm mặt vô ti vi, một mình ngồi trước bữa cơm, nghe bên vách chén đũa khua trong tiếng nói cười rôm rả, cả tiếng cạo cơm cháy cũng vui, chị thẩn thờ nhớ chồng giờ nầy chắc đang lu bù với khách.

Có láng giềng mới, chị phát hiện ra bức vách ngăn giữa hai nhà quá mỏng. Nên họ nói cười, cãi cọ… cứ sôi lên như đang ở nhà chị. Họ mở cải lương suốt ngày, toàn những vở hương xa trước và hồi đầu giải phóng, ca từ trong vắt, mùi mẫn. Chị nghe cả tiếng anh chồng vỗ đùi khi Minh Cảnh xuống mùi, còn chị vợ thì ấm ức đòi vặn cổ một nhân vật nào đó ngăn trở mối tình lâm ly của Minh Vương - Lệ Thủy. Cao hứng, chồng còn ca vống lên, làn hơi ấm và mộc mạc như đất. Những trưa, vợ cũng hay dỗ con ngủ bằng những khúc vọng cổ không đầu cuối, nhớ tới đâu hát tới đó, giọng hơi khàn, thỉnh thoảng đứt quãng, nhưng rất ngọt ngào.

Có láng giềng mới, chị phát hiện ra mình hay bị… ngạc nhiên. Toàn vì những chuyện đâu đâu. Hàng xóm làm chị thẩn thờ, cười trừ khi hỏi nhà ở cuối đường ai vừa chết?! Vợ hàng xóm trố mắt, “Chung xóm mà không biết, ngộ vậy?”. Sáng sau, khi vẹt cửa chào nhau ngoài sân, chị đã có đầy đủ thông tin về người quá cố. Vợ hàng xóm còn thắc thỏm, “lát nữa, cơm nước cho mấy đứa nhỏ xong, em đi giùm đám. Tội nghiệp, nhà họ ít con cháu nên bếp núc không ai lo…”.

Chị ngẩn ngơ. Và ngẩn ngơ là cách duy nhất chị có thể làm khi hàng xóm bưng cho tô bí hầm dừa “ăn lấy thảo”, khi mùi tóp mỡ kho quẹt dậy động sang, khi chị qua nhà họ chơi, ngó mớ rau luộc chấm tương kho trên mâm cơm ban chiều. Khi nhìn con châu châu thắt bằng lá dừa đã khô quắt mà đám trẻ nhà họ cho thằng con chị, khi thấy chúng chơi trò trốn tìm cùng nhau, chị vui muốn khóc, ngó con mình xa được cái ti vi, nhễ nhãi mồ hôi, hăm hở, “Năm, mười, mười lăm, hai mươi…”. Lẫn trong giọng trẻ con là tiếng chim cu gáy gù gù, chị vợ bảo, “Ảnh đem con cu cườm này ra cho đỡ nhớ nhà…”.

Gặp nhau trên vuông sân những buổi mai, mỗi ngày hỏi vài câu, chị biết vợ chồng nọ cũng nghèo. Nhà lá, nền đất, ruộng ít, vườn hẹp. Ở chợ nhưng nhìn mưa rơi hay thắc thỏm, “kiểu này chắc chìm đìa…”. Anh chồng thường phải đi đi về về để trông nom nhà cửa. Và khi bọn trẻ đem cho trái dừa khô đã gọt láng o, mớ mồng tơi non mởn, hay mấy củ khoai mì, khoai lang, củ chuối đã luộc sẵn, chị biết bên ấy có người vừa từ quê ra. Biết nhau chỉ đôi ba tháng mà như đã một thuở là láng giềng gần.

Hàng xóm cũ vẫn chưa về. Căn nhà ấy vẫn mở rộng lòng, nhưng mỗi lần nhìn sang, chị thấy thót ruột vì nghĩ tới cái ngày người chủ cũ quay lại.

Khi ấy, nắng đã vắt qua nửa mùa. Chị cầm chổi ra sân quét lá, nhìn nhà bên cửa đóng then gài im ỉm, nghe thương nhớ ngùi ngùi…
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeSun Jun 10, 2018 1:12 am

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận The-gian-thenh-thang-nguyen-ngoc-tu

Một Thế Gian Thênh Thang
Nguyễn Ngọc Tư


Cái hộp thư tôi đang xài có một kiểu gửi thư rất buồn cười: gởi cho chính mình. Những gì cho là quan trọng, tôi đính kèm vào thư, gởi đến… tôi. Lúc nào cần, dù đang ở bất cứ đâu, vào mạng internet được là lấy tư liệu xuống được. Bởi có quá nhiều thứ có thể trao thân gởi phận theo kiểu đó nên tôi cũng siêng viết thư cho tôi.

Cũng có khi thư không kèm theo tệp tin nào, nội dung gọn lỏn chỉ vài chữ, “Cố lên, đừng chán”, “Buồn làm chi tui ơi…”, “mùa mưa đi ngang qua cửa sổ…”, “người thấy vậy mà xa…”. Chúng thảng hoặc vu vơ, bất chợt, ngớ ngẩn, như thể không có ý nghĩa gì.

Nhiều bữa kiểm tra hộp thư chỉ thấy chỏn lỏn thư mình, chữ cười trong “buồn cười” rơi đi mất. Việc đọc của chính mình có chút nào xốn xang có chút nào cay đắng, nhất là những thư không kèm theo tư liệu. Nó nói lên một sự thật là ta đã mất niềm tin và khả năng chia sẻ vui buồn với người khác. Sống rúc vào chính mình, tựa vào chính mình để đứng dậy, vịn những lời nhắn ngẩn ngơ của mình để đi qua miền ưu phiền.

Nghĩ, cái anh lập trình ra cái vụ thư gởi cho mình này hoặc quá chu đáo, hiểu đến tơ tóc nhu cầu của người dùng hoặc đã từng cô đơn, thấu đến tơ tóc của cô đơn. Nên anh ta biết được vào những lúc nhân gian vắng rợn, có người ngồi chờ không thấy ai viết thơ cho mình, mà mình thì cũng không biết viết cho ai, bởi có những chuyện không tìm được người, không tin được người, không chờ được người để san sẻ, cô ta bèn viết gởi chính mình.

Như có người mua hoa bằng tay này rồi tặng tay kia.
Như có người đứng giữa núi kêu lên để nghe tiếng mình vọng lại.
Như có người lang thang ngoài vườn vắng để thủ thỉ những bí mật, những nỗi đau mà ôm kín trong lòng họ sẽ vỡ tung ra mất.

Dù là kiểu cổ điển như đào hố chui xuống tâm tình với đất hay hiện đại như cái hộp thư điện tử tôi đang xài thì cũng giống nhau, rằng những bờ vai, những bàn tay, những ánh mắt cảm thông trìu mến đôi khi không có giá trị. Và càng ngày càng mất giá trị. Không cần thiết. Con người đã thừa mạnh mẽ (hay thừa u uất?) để sống mà không tha thiết bầy đàn.

Chỉ là một bữa nào đó, khi tự điền tên tôi vào chỗ “người nhận”, thấy mình như đang uống một ly chua xót đầy, ủa, sống sao mà tới nông nổi này, thế gian thênh thang vậy mà không có ai tri âm hết? Nói theo kiểu dân gian là kiếm không ra một người bạn để… làm thuốc.

Quá tệ!

Nguyễn Ngọc Tư
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeTue Jun 19, 2018 7:16 am

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận PEXxqSBTw7CvAJgMbOiXOpqJbwoAc5RAamruQJppD5fxfvrNMhBWyGS6i6SQJzXurqPZj7WNaZzNf5rE_o3893ZycHZFGj0ZvF3Y95QCxtGPc990jB4mdBluyse66RLrIWGGzD9YfU-b=s0-d

Cái Nhìn Khắc Khoải
Nguyễn Ngọc Tư

Khoa điện thoại cho tôi từ phòng lab:
- Hình xong rồi, đã lắm. Mày kiếm đâu ra ông già ngon vậy?
Tôi cười, gác máy rồi xách xe chạy lại chỗ Khoa. Những tấm ảnh đen trắng treo trên dây còn đọng nước, giọt rất tròn và trĩu. Khoa nghiêng đầu ngắm:
- Mày coi, hình như, trong mắt ông già này có nước.
- Mày cận bao nhiêu độ rồi?
Khoa mắc cở tháo cặp kính ra, đôi mắt đờ đẫn.
- Hôm trước ba rưỡi, bây giờ chắc ba tám rồi.
- Mắt mày cũng còn ngon lắm.
Khoa lại hỏi tôi cái câu ban nãy, "Mày kiếm ông này ở đâu mà thần thái vậy?". Tôi không trả lời, ngước mắt nhìn về những bức ảnh của tôi. Trong mảng tối sáng trong vắt, khuôn mặt một người đàn ông hiện lên, trầm lặng mà sâu sắc.

Và tôi lại thấy mình ở trong một căn chòi chăn vịt cất dựa mé kinh Chiếc. Căn chòi đầy khói. Cái mẻ un ám khói chất đầy giỏ dừa khô. Khói ngùn ngụt khói. Ngồi trên cái sạp ghe đóng thưa bằng tre chẻ thẻ, một người đàn ông ngồi nhìn ra cửa. Cô độc. Gió vụt vụt vô chòi. Ông làm nghề nuôi vịt đẻ chạy đồng. Hôm nay ở đồng Rạch Mũi, ngày mai ở Nhà Phấn Ngọn, xa nữa lại dạt đến Cái Bát không chừng. Ông đậu ghe, dựng lều, lùa vịt lên những cánh đồng vừa mới gặt xong, ngó chừng chừng sang những cánh đồng lúa vừa mới chín tới và suy nghĩ về một vạt đồng khác lúa vừa no đòng đòng. Đời của ông là một cuộc đời lang bạt. Một cuộc sống trên đồng khơi. Chòi cặm ở đâu cũng được, miễn có chỗ khô ráo cho ông nằm. Buổi sáng, ông lùa bầy vịt ra đồng, tay cầm cây trúc không róc đọt, bù xù. Bầy vịt ngàn hai trăm con, ngoi quẫy, vẫy vùng, rúc vào những nùi rạ mới, nhặt từng hột lúa. Con vịt xiêm tên Cộc cũng ào ra cùng bọn chúng, những lúc đó, không phải vì bụng đói, mà vì mùi rạ thơm quá, ngọt quá, ngụp mỏ vào thấy sướng người. Ông ngồi bệt trên bờ mẫu, khăn sọc cũ quấn đầu, nón vải nâu lốm đốm mủ chuối. Ông ngó lũ vịt và vấn điếu thuốc châm lửa, phà khói lên trời. Và trời rất xa xanh, trong. Ông kêu :
- Cộc, biểu!
Con Cộc chạy lại, vẫy nước và cọ đầu vào bắp đùi đen bóng của ông.
Buổi tối buồn lắm. Đêm nào cũng như đêm nấy, lùa vịt vô chuồng, tắm táp qua loa, ông khom lưng thổi phù phù vô cái bếp un cho căn chòi đầy khói rồi nằm đưa võng. Gió vụt vụt vô chòi. Con Cộc lò mò ra đống rơm dập dềnh dưới mé kinh, vùi mình vào đó ngủ một giấc. Nó tưởng lâu vậy, dài vậy mà lúc ngó lên vẫn thấy chao chát ngọn đèn đỏ lòm. Ông kêu:
- Cộc, giận gì mà xuống đó vậy mậy?
Cộc lạch bạch đi lên. Nó ghé ngang cái lưới bao rào vịt, thò mỏ vào mổ một con vịt ta khác. Gây chuyện chơi cho vui. Nó là con vịt chúa gây chuyện. Ngoài những lúc này, nó khá cộc cằn, tư lự. Mấy người bạn lang bạt của ông chụm lại nhậu lần nào cũng nhằn: "Cha nội sống như vầy rầu thấy mẹ, mai mốt con vịt xiêm đó chết rồi, cha sống với ai". Ông cười, "còn thằng con tao". Nó ở chợ. Lâu lắm mới về thăm ông một lần, về tới, ngoài việc kêu ông bán bầy vịt ra ngoải sống với nó, còn chuyện ông cưới vợ, nó nói, nó con trai, biết cô đơn là cái gì rồi, khổ lắm, buồn lắm. Nó giục ông từ năm nó mười hai tuổi. Ông ngạc nhiên lắm. Nhưng rồi ông biết rằng, nó đã học được ông cái tánh rộng lòng đồng khơi, như trời cao. Ông vò đầu nói với nó, cũng khó khăn thiệt, nhưng ông quen rồi. Nghề nuôi vịt mà, nghèo, lang thang, đeo mang người nữa, không đành.

Tháng Tám. Ông trở về kinh Mười Hai, quê ruột của ông. Chèo gần tới nhà ông thấy một người phụ nữ ngồi dưới bực cỏ đợi tàu. Chiều rồi, tàu cuối chạy lúc ba giờ rưỡi đi qua đã lâu lắm. Dưới ghe ngó lên, mặt người phụ nữ buồn so, buồn như sắp đâm đầu xuống sông mà chết. Ông chèo lựng khựng cho ghe đi tới. Qua khỏi đám lá, ông quạt chèo trở lại. Ông hỏi chị nọ đi đâu, chị khóc như mưa bấc, "Tôi cũng không biết mình đi đâu". Lãng xẹt vậy đó. Ông ngại ngần ngó những tia nắng đỏ cuối cùng đậu phía dưới đám dừa nước:
- Cô có sao không?
Người phụ nữ lắc đầu. Ông biểu chị xuống ghe cho quá giang. Chị vẫn khóc.
- Tôi biết đi đâu mà quá giang bây giờ. Hay... làm ơn cho tôi theo anh đêm nay nghen.
Ông suy nghĩ rất lâu và trả lời một câu nhỏ xíu trong khi tụi vịt đạp đầu chen nhau dưới sạp ghe bằng tre đóng thưa thớt rộ lên lạc cạc inh ỏi. Đôi chân đàn bà dè dặt bỏ xuống đầu ghe, con Cộc cuối đầu không nói không rằng lùi lụi lại tính mổ một cái vô chân chị mừng chơi nhưng ông la: "Cộc! Bị đòn nghe mậy". Nó dừng lại, đủng đỉnh qua đi. Chị khịt mũi cái sột, lau nước mắt kêu: "Trời, vịt gì mà khôn quá vậy?". Con vịt ngoắc ngoắc cái đầu lại, ý nói, Vịt Xiêm chứ vịt gì, thiệt tình.

Qua thêm ba đám lá dày nữa là về tới nhà ông. Nhà vắng, vườn hoang, lúc chạng vạng buồn hiu hắt. Ông đi năm ba tháng về một lần, về đúng vạt đồng sau vừa chín. Hồi đi, con tắc kè ễnh bụng kêu è è, hồi về đã thấy đeo trên cột nhà mấy con tắc kè con, da chưa bông chưa hoa, mốc cời, đầu chờ vờ như cá lóc gặp nước mặn. Ông đẩy cửa bước vô trước, tay quơ mớ váng nhện lùng nhùng, đốt cái đèn, thổi lù lù mớ củi ướt. Chị ôm cặp đồ ngồi gá nhẹ mép ván, ngó quanh. Ông lượng xượng, "Nhà bỏ lâu, bê bối quá chừng". Rồi khói bay lên, ấm áp.
Ở căn nhà lá cũ mèm này, ông có nhiều kỷ niệm. Mỗi khi trở về nó lại chảy thành dòng dịu ngọt trong ông, nó chảy khẽ giửa những mạch máu. Những ngày thơ ông có ba má, những ngày trẻ ông có người chăn gối cùng. Có cây lụa bên hè làm chứng, mỗi lần nhà đổ bánh xèo, vợ ông ra hái đọt lụa, đứng tần ngần, "phải ảnh có nhà để ăn". Chiến tranh, ông đi biền biệt. Ngày về, chỉ còn đứa con trai. Nó khóc, kể, "Bửa đó cúng đình, có cải lương, má rũ con đi. Tuồng Thoại Khanh Châu Tuấn đó ba. Hát chưa xong khúc Thoại Khanh ngồi đờn cho công chúa Châu Tuấn nghe, thì pháo đằng đồn Chẹt bắn lại, má con chết luôn". Mùa đó lụa ra lá từng chùm trắng xanh, non nhuốt. Ông bắt thèm ứa nước mắt. Cũng thằng con ông, sau này nó nhằn: "Chuyện buồn mà ba nhớ làm chi cho tới già vậy không biết. Ông bảo ông có nhớ gì đâu. Thiệt đó, thằng nhóc, có nhớ gì đâu. Thằng con chép miệng, "Khổ quá!"

Người phụ nữ ông lượm chiều đó còn khổ hơn. Chị quê Cây Khô, lỡ thời, thương thằng (xin lỗi!) thợ gặt miệt Bình An đổ xuống. Không biết gốc gác, cội nguồn người ta mà thương gì ác nhơn vậy không biết. Làm vợ thợ gặt, sống đời thợ gặt. Chị ngồi vấn vạt áo: "Ai cũng nói em ngu, cực cỡ nào em cũng chịu, miễn là mình thương người ta". Vậy mà thằng đó (xin lỗi!) tệ thiệt, làm ít, nhậu nhiều. Tới đây, nhậu nhẹt, nợ nần, chị ra gánh trả. Nợ nhiều quá, mấy cái quán tạp hóa đòi lấy xuồng, nửa đêm chồng chị trốn đi, bỏ chị lại. Không biết quê chồng, không về được quê mình, chị ra bờ sông ngồi khóc.
- Cô Út không ngại, cứ ở lại đây, chừng nào có hướng đi đâu, mần ăn gì thì đi, nghen.
Nghe xong câu chuyện của chị, ông bập một hơi thuốc lá, nói một câu, bập hơi nữa thì hết điếu.

Chị chịu ở lại. Buổi sáng, chị thức dậy bắc ấm nước lên bếp cho ông uống trà, xong lùa vịt ra đồng. Thả vịt ruộng gần, chị đem cơm ra tới chỗ, dọn trên bờ mẫu, ngồi nhìn trời, nhìn đất, nhìn vịt, chờ ông ăn xong mới đi vô. Ruộng xa, chị thức dậy từ ba giờ sáng nấu cơm dỡ cho ông xách theo. Thuốc gò, giấy quyến mới vơi một ít, chị bỏ lại cho đầy để ông bỏ túi, "Nửa chừng mà hết thuốc chịu không thấu anh Hai à, giửa đồng mông quạnh, buồn chết, hồi đó ảnh ...", chị bỏ câu nói nửa chừng. Mờ mờ trời, chị lụi hụi vô chuồng lấy hột vịt, rồi chở ra chợ xã bán, chị tính:
- Chịu khó ra ngoài đó một chút, bán giá cao hơn anh Hai à. Sẵn hái ít đọt lụa bán luôn, thứ này người ta khoái lắm.
- Nhưng phiền cô quá....
- Có gì đâu.
Chị làm cỏ ngoài sân, trồng lên dấp cá với húng lủi. Chị súc lu đợi trời mưa hứng nước. Chị giặt mùng mền phơi cho thơm nắng. Ông cằn nhằn:
- Cô làm gi như người ở đợ cho tôi vậy?
- Có gì đâu, anh Hai, được ở lại đây là em mừng rồi.
Ông ngoái lại, nói:
- Thiệt tình, cô ở lại để chờ người ta phải hôn cô?
Chị không trả lời, chị c
úi đầu đi thẳng. Chị không đẹp lắm, nhưng lúc thổi lửa có duyên. Chị không có duyên lắm nhưng lúc bậm môi bửa củi thấy đẹp. Ông chắc không để ý chuyện này, ông bận đốn so đũa cặm cột, dùng lá dừa nước làm cái nhà tắm cho chị. Ông vừa mài cây búa vừa nói nhỏ nhỏ với con Cộc:
- Mình đàn ông gì cũng được, giờ có thêm người... Ông ngừng lại, vuốt cánh con vịt - vậy hen Cộc?
Cộc không trả lời, kêu cóc cóc, há mỏ đớp vô mắt cá chân ông. Thì vậy chứ còn sao nữa, ý nó muốn nói vậy. Rồi nó đủng đỉnh đi chơi, dạo dạo bậy bạ kiếm trùn đất ăn. Ông nghĩ trong bụng hoài, "Làm vịt như mầy coi bộ sướng. Cộc à, làm người, hỏng làm thì thôi, làm phải cho ngon, thiệt khó.

Thằng con ông đi công tác qua nhà thấy có người lạ nó ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng xong thì mừng. Nó nói: "Ba lúc này ngon rồi nghen". Ông gạt phăng phăng, "Mày chỉ giỏi bậy bạ". Ông không nói với nó vẫn thường thấy chị ôm cái áo người cũ ngồi khóc, chị thường hay kho cá bỏ me, ông vốn không thích. Hễ hổng đi chợ thì thôi, đi về y như rằng mua chai rượu, ông có uống gì nhiều đâu. Thằng con không biết. Thằng con đi dài dài xóm, ai cũng xầm xì chuyện của ba nó với người đàn bà gặt mướn. Cô Ba nó nói: "Tao thấy con mẻ không xứng với ba mày đâu, bỏ nhà theo trai, bị trai bỏ, giờ mới bám víu vô đàn vịt của ổng, đàn bà đàng hoàng, ai ở lại dễ dãi vậy". Thằng con cười, "Sao cũng được, cô Ba à, trước là trước, bây giờ là bây giờ, tốt xấu gì ba con biết, miễn sao ba vui là được rồi". Cô Ba chẩng hẩng.
Nhưng thằng con hơi thất vọng. Hễ chạng vạng, nhốt vịt, tắm rửa xong, ông kêu con Cộc đi dài xóm chơi. Con vịt thì chạy xà quần rượt cắn đám con nít, ông chơi lai rai với bè bạn, họ hàng. Chờ khi khuya mới về. Về ngủ nhà xuồng cặp mé kinh. Nhà mục rồi, đêm nằm nghe mối ăn trẹo trẹo, sợ chị ngại, ông nói: "tánh tôi ở đồng quen rồi, ngủ có gió mới ngon". Không lẽ nói trắng ra, nằm trong nhà, bên này nằm nghe bên kia thở nghe sao được. Những lúc nửa đêm, con Cộc cắm đầu cắm cổ chạy, ông cũng cuốn mùng chạy. Chị mở cửa năn nỉ ông vô nhà, để lạnh chết. Cực chẳng đã ông mới vô, ngồi chí mí ván, chong chong nhìn ra cửa chờ tạnh hột. Chị cảm động ứa nước mắt.
Chị vẫn thuờng đón ghe hàng bông hỏi thăm tin tức cánh thợ gặt An Bình. Tin tức ngày càng xa. Ở đây, trăm ngả sông nuớc, làm sao mà kiếm. Tin tức ngày càng vắng. Lúc rày, mua nắng thất thuờng. Nắng một hơi năm bảy ngày, mưa một hơi năm bảy ngày, bà con nông dân gặt ng
ày mưa, phơi lúa không được rầu muốn chết. Chị đi chuyên nuớc vô lu, đôi dép Lào cu mỏng dính, trợt một cái trật gân. Tội nghiệp quá chừng. Ông về nạt nộ một hơi, đã nói mà, cô có chịu nghe tôi đâu. Nói vậy thôi, ông di chợ huyện mua thuốc cho chị, sẵn mua đôi dép mới làm chị ngại trong lòng lắm. Ông bảo:
- Đôi dép cô mỏng thiếu điều cạo râu đuợc rồi, tiếc làm chi, để té nữa thì khổ.

Những chiều, lùa bầy vịt no căng luờn từ ngoài ruộng về, ông xúc tô c
ơm, ngồi ngoài gốc cây vú sữa đã bị cưa thành cái đôn, vừa ăn vừa nhìn cây chanh núm bắt đầu ra trái. Dưới cầu ao, chị đang lật đít xoong chùi lọ nghẹ, cảnh chiều êm đềm. Cô Ba đi qua, tròn con mắt.
Một bữa, mưa nhiều, lúc ông đội áo đi, chị dặn:
- Mưa lúc này gầm dữ quá, sét nhiều, anh Hai nhớ vô sớm nghen.
Ông gật đầu, day qua dặn lại:
- Cô Út thôi đừng hứng nước mưa nữa, hỏng chừng mai mốt tôi đi, ai mà uống.
Chị chưng hửng hỏi ông đi dâu, ông trả lời giọng rất buồn:
- Thì cho vịt ăn hết đồng này phải lùa đi chổ khác chớ cô. Vịt đang đẻ rất quạo, nhốt một hai ngày là mất sức. Tôi ở nhà cả tháng rồi, cũng buồn.

Nói vậy rồi ông quay lưng đi. Chị vịn tay vào cửa, nhìn theo.
Buổi chiều, ông về sớm, chị giũ áo mưa của ông phơi lên vách, miệng quở ông trời mưa dai thấy sợ. Chị xúc chén lúa đổ cho con Cộc, miệng hỏi lãng như không: "Cộc, mưa lạnh hôn con?". Cộc không trả lời, nó nghinh lên, ý nói vịt mà lạnh gì, ổng lạnh sao không hỏi, thiệt tình. Ăn cơm xong, chị dọn ra xị rượu nướng mấy con khô cá chạch:
- Anh Hai lai rai cho ấm bụng, mưa quá, nhâm nhi đỡ buồn.
Chị ngồi lắc võng, may hai cái bìa khăn mới mua cho ông, vừa may vừa nói:
- Bây giờ người ta làm khăn mỏng dính, hỏng may xổ chỉ ra nùi nùi hết trơn.
Ông không nói gì, đi xúc chén lúa lại đổ cho đầy mẻ, biểu "Cộc, lại ăn nè". Con vịt không chạy lại cái mẻ mà lạch bạch đi tới chỗ bộ ván ngựa sần sùi nó chui xuống gầm. Cái thau nhôm hôm nắng ông lấy nấu chai trét chiếc ghe giờ được làm mẻ un đang phì phì khói. Ông ngồi trước chai đế trầm ngâm. Chị dè dặt lên tiếng:
- Anh Hai tính chừng nào đi?
- Hai ba bữa nữa. Đi chuyến này qua tới miệt Khánh Hà, chắc đi lâu mới về.
Người đàn bà cuối xuống cắn chỉ, che cái thở dài.
- Cô Út à, tôi... có chuyện muốn nói với cô.
Chị làm rối chỉ:
- Gì vậy anh Hai?
- Sáng nay tôi gặp thằng bạn, nó mới chạy bầy vịt từ nông trường qua. Tôi hỏi, nghe nói có thợ gặt An Bình ở đó.
- Anh Hai!
Ông bước xuống đẩy mớ vỏ dừa vô mẻ un. Xơ dừa mịn, cháy rực, rồi tắt ngắm.
- Ảnh tên Sinh phải hôn cô Út? Ờ, Sinh, ảnh... cũng đang gặt bên đó, cô Út à.
- Anh Hai!
Chị buông cái khăn xuống kêu bàng hoàng.
- Tàu từ chạy nông trường lúc năm giờ, ngang đây, chắc cỡ sáu giờ rưỡi. Cô ráng đón chuyến đó. Để lỡ tới bữa sau, sợ mấy ảnh lại chuyển đồng, kiếm cực lắm. Tính vậy nghen cô Út.

Con Cộc lại hì hụi đi ra, ngỏng cổ lên nhìn ông. Khuôn mặt ông mờ mờ sau làn khói. Khói mắc dịch, làm cay con mắt muốn chết. Cái võng chị ngồi sau lưng ông, chị khom xuống cắn mớ chỉ rối mà buồn. Ông rót ly rượu uống mà buồn.
- Anh Hai à, sao anh tính vậy?
- Tôi biết cô còn nặng lòng cùng ảnh. Qua bển hỏi đầu đuôi gốc ngọn ra làm sao. Nói có tình, mình ở lại, biết đâu người ta có nỗi khổ gì...
Chị bật khóc. Con Cộc điềm đạm lại cái mẻ lúa, nó ăn chậm rãi. Ý nói làm sao mà tôi tội nghiệp hai người quá đi, làm người mà khổ vậy, làm vịt còn sướng hơn. Đêm đó, ngoài nhà xuồng, nó nghe ông thở nhẹ mà rất dài. Ai biểu...
Sáng sau ông lùa vịt ra đồng khi trời còn tối mịt tối mò. Ông đuổi vịt đi xa thiệt xa nhưng vẫn nghe tàu bè ghé bến nào rất gần. Ông ngồi bệt bên bờ mẫu, khăn cũ, nón cũ, kêu: "Cộc, biểu!" mà không thèm để ý nó có lại hay không. Kêu chơi vậy thôi. Nhưng Cộc là con vịt có nguyên tắc. Nó vẫn chạy lại, gác đầu lên đùi ông, cọ cọ an ủi. Rồi bất ngờ, ông lùa vịt cắt vạt đồng hối hả trở vô. Ông bỏ quên bịch thuốc trong nhà, thèm quá. Tới liếp tràm bông vàng trong vườn, ông ngồi lại, lũ vịt tràn xuống ao rau muống tắm táp. Ở đây, bỏ ba liếp chuối nữa là tới nhà. Ở nhà, không biết có còn ai...? Ngồi đây thôi, bước vô đó lỡ không còn ai... Hồi lâu, ông nói như chỉ nói với mình:
- Mai mốt mình đi nữa hen Cộc?
Con vịt cạp mắt cá ông, đi thì đi chớ gì.
- Mày đi hoài, mầy mệt không?
Nó há mỏm đóm đen cạp ngón cái chân ông, thì mệt chớ.
- Tao đốn tràm, làm nhà lại, ở luôn nghen.

Con Cộc mổ vô ống quyển ông, rồi nhóng cần cổ dòm ông lom lom, có phải ông chờ bà đó quay lại không? Ông nhìn lên ngọn tràm và thấy mấy cái bông vàng như mấy con sâu rọm đang dịu dàng rơi xuống. Có phải chỉ cần nhìn lại một chút, ông sẽ thấy ngọn khói bay lên không? Gió lùa lá chuối khô giống hệt bước chân ai vậy. Ông mắc ngoái nhìn. Và tôi đã chụp được chân dung ông trong ngoái nhìn khắc khoải đó.
Tôi bảo Khoa:
- Những người như ông già này có rất nhiều ở xứ mình, Khoa à, tao đâu có kiếm gì đâu.
Khoa nhìn tôi và nhìn lại những tấm ảnh, nó ngờ ngợ, "Mầy đang kể về ba mầy, phải không?".
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeFri Jul 27, 2018 9:02 am



Bùa Yêu Và Con Nhỏ Thất Tình...
Nguyễn Ngọc Tư


Cuối cùng thì thiệp cưới cũng đã đến tay, thằng bạn mà mấy lâu con nhỏ thương thầm sắp lấy một cô giáo nông thôn lạ hoắc. Con nhỏ buồn muốn chết. Buổi sáng nó còn tỉnh táo ăn cơm với cả nhà, nở mấy nụ cười méo xệch, chứ hiu hiu chiều là chực khóc. Trời ơi, sao mà nhớ, mà thương cái thằng đó quá chừng. Thấy cây cúp móng con nhỏ nhớ bạn mình có tật thích để móng tay dài. Nhìn tóc cũng nhớ tóc bạn dài. Nhớ chằng nhớ chịt. Đến nỗi coi sư tử Châu Phi trong ti vi cũng thương tiếc cồn cào, thì lần trước có dịp ngồi với nhau xem chương trình “thế giới động vật”, thằng nọ bảo trong nhóm bạn mình, con gái đứa nào cũng dữ như sư tử, chỉ có con nhỏ là hiền, hiền thấy mà thương (vậy mà không chịu cưới người ta dùm cái).

Má thấy xót con quá, chạy đi than thở hàng xóm. Hàng xóm mách nước có ông thầy bùa Chà trong hẻm Tèm Lem hay lắm. Ổng cho một tấm bùa, kéo thằng kia quay lại, mấy hồi.

Con nhỏ nghe má nói lại, con nhỏ cười, “Thí dụ như bùa linh nghiệm thì ảnh sống bên con cũng đâu phải của con”. Ừ ha. Nói phải à. Sẽ khổ sở rất dài khi mắt ta thấy những cử chỉ thương yêu, tai ta nghe những lời nói ngọt ngào mà trong bụng ta biết tỏng tòng tong tất cả đều không thật. Lúc đó ta sẽ chết dần mòn vì đau tủi, chắc còn vất vả hơn giai đoạn thất tình bây giờ, khi cứ canh cánh trong lòng: thằng cha này tình tứ với mình là nhờ… tấm bùa chứ chẳng xuất phát từ tình yêu gì đâu. Và cái cười dịu dàng kia, ánh mắt ấm áp kia, nụ hôn ngọt ngào kia, vòng tay nồng nàn kia… thấy vậy mà không phải vậy. Ta nhìn cuộc đời thấy lệnh lạc, mất mát ít nhiều. Đó là chưa kể phải thoi thóp lo âu, sợ tự dưng một ngày bùa thiêng hết tác dụng, thằng bạn rùng mình một cái, ngơ ngác hỏi ủa, sao hai đứa mình nằm chung giường vậy, xin lổi nghen, chắc tại hồi hôm tui xỉn quá nên chui ẩu vô mùng bà. Rồi thằng bạn nhìn vẻ mặt đau đớn của ta, kinh hoàng: “Trời đất ơi, bộ tui đã làm gì bậy bạ sao?”. Tất cả sẽ chấm dứt ở đó, thằng nọ phủi sạch những ngày tháng mặn nồng cái rột, bỏ lại ta một mình chìm dưới đống kỷ niệm thương yêu. Với ký ức trống trơn, thằng nọ phơi phới ra đi, còn ta thì nhớ hoài, đau hoài…

Rốt cuộc, con nhỏ thất tình kết luận, “má ơi, vụ bùa yêu con thấy không bền, Tình cảm xuất phát từ tấm lòng mới quý. Níu kéo làm chi những cái không phải của mình…”.

Ui chao. Giật mình. Hết hồn hết vía. Những chức tước, bổng lộc… mà người ta đang chạy rần rần để tranh giành, chiếm đoạt, để xin… một tí coi kỹ thấy giống bùa yêu lắm nghen. Nó sẽ làm cho tâm hồn người ta không yên ổn, mất mát và nơm nớp dai dẳng.

Con nhỏ thất tình quyết định không chơi bùa. Nhưng sẽ còn nhiều, nhiều người sẽ hỏi đường vô hẻm Tèm Lem để kiếm ông thầy. Nghĩ mà hồi hộp quá trời…
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeTue Jul 31, 2018 9:52 am



Chỉ Còn Lại Là Mây Mù
Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư


Ngủ trưa dậy rồi mà chiêm bao vẫn chưa dứt. Tôi ngồi trên bậu cửa sổ ở tầng áp mái. Mây bắt đầu trùm phủ lên tôi, cứ vài ba phút đậm đặc mù mịt, rồi gió thổi xiết, lướt qua mặt chỉ còn một lớp mây mỏng tang, gờn gợn. Thị trấn như cô gái đang nghịch ở phòng thử quần áo, thoắt xuất hiện với vẻ kín kẻ trầm mặc thoắt sau lại tung tăng trong bộ áo choàng mỏng manh gợi cảm, vài vạt nắng nắng lấp ló quanh chân váy. Tam Đảo hụp xuống một dòng sữa trắng đục rồi rồi trở lại bằng những chóp nhọn, những mái nhà ngói đỏ, sau đó là ô cửa sổ còn muộn màng một ngọn đèn, rồi thì những giàn su su xanh ngắt cũng hiện ra, với vài cái lưng áo đang cúi lom khom.

Hai anh bạn đang chụp ảnh ở cửa sổ bên cạnh ngây ngất trước cuộc trình diễn của mây mù. Một món quà trước khi chúng tôi xuống núi. Cuối cùng thì Tam Đảo đã giữ tròn lời hứa, tặng cho người chang chang đồng bãi Tây Nam Bộ một ít mộng mị, đa cảm của mình. Ở bậu cửa sổ, thật khẽ khàng thì tay sẽ giữ được một vốc mây trong vài giây. Nhìn đoàn vận động viên đua xe đạp đang lao vút qua các triền dốc, màu áo, nón cứ chấp chới trong mây, nghĩ, chẳng biết cái chị áo xanh sáng qua đứng bên đường khóc một mình, hôm nay đã hết buồn chưa.

Ba ngày đi rong thị trấn, cô gái đứng khóc bên chiếc xe đạp dưới cái bờ đá đòng đưa vài bông bí vàng rực rỡ là hình ảnh duy nhất làm tôi nhớ. Cảm giác còn lại là chờ đợi, tìm kiếm, hy vọng… vào một cái gì đó không rõ ràng. Và rồi mây mù đến, làm dịu lại cái ngột ngạt những ngày qua, vì chờ đợi hơn nửa giờ để được phục vụ ly cafe lạt có giá từ mười lăm đến hai mươi ngàn, vì những quầy chuối vàng rực anh họa sỹ hí hửng mang về có vị… chua loét (sau này nghe nói người ta tẩm một loại hóa chất gì đó cho chuối được vàng óng, nên chuối non vẫn cứ vàng óng), vì những ngôi đền, miếu cửa luôn treo ổ khóa gỉ sét với mấy dòng bên cạnh, “quý khách muốn vào viếng đền thì liên hệ với XYZ…”, vì những anh chị bán hàng cáu kỉnh, quạu quọ, xua khách như… ruồi, “muốn mua hàng miền Nam thì về miền Nam mà mua, ở đây đếch có”…

Bỗng thấy thiên nhiên thật nhọc nhằn, đẹp để xoa dịu, bù đắp cho những vết xước do con người gây ra cho con người. Hoa dại tím ngằn ngặt. Một tán cây bỗng rực đỏ giữa biển màu xanh bên dưới vực. Rêu óng mượt trên mảng tường biệt thự bỏ hoang. Nắng trong trẻo dịu dàng, không gợn chút khói. Và mây mù nữa, chảy ròng ròng suốt một buổi chiều và cả những hôm sau. Nhưng tôi vẫn còn cảm giác thiếu vắng khi đi lang thang trên những con đường dốc. Mây thôi, với tôi chưa đủ.

Tôi thèm được thấy người. Ở đây thiếu vắng những nụ cười. Trên những con đường chi chít hoa dại hiếm hoi mới thấy vài trẻ con chơi, kẹo buồn xo trong túi vì không vơi đi mấy. Có lúc đứng nhìn ong bay trên giàn su su cứ thèm có cô gái nào đó ló đầu ra thẹn thùa cười, thèm thấy bà mẹ nựng nịu đứa con nhỏ của mình ngoài hiên, thèm đi qua dãy phố rộn rã tiếng xoong chảo khua, tiếng cười đùa. Qua con dốc nhỏ, gặp một cụ già kèm nhèm ngồi nướng bánh đa, bỗng mừng quá sức, vì sập tối thì đừng mong gặp được những chậu than nhỏ ở ngoài đường như vầy. Thị trấn sạch sẽ, phẳng phiu đến đơn điệu, vô cảm, phố chỉ rặt khách sạn và quán ăn, chợ lum khum nhỏ xíu với vài quầy hàng lưu niệm với những món hàng quen thuộc có thể gặp ở bất cứ đâu trên đất nước này.

Bên kia những cái cỗng rào cũng có thể nhận được một nụ cười, nhưng ngay sau đó là lời mời chào, “vào nhà hàng em ăn cơm...”. Tôi nhìn những khách sạn im ắng và thưa thớt bóng người, tự hỏi khi mùa đông trở lại, khi mây mù vây bủa dày đặc, nhà này không còn nhìn thấy nhà kia, thị trấn này sẽ trùm chăn nằm ngủ? Khách du lịch thưa thớt. Ông chủ của những nhà hàng khách sạn về Vĩnh Yên, Hà Nội… sau khi cắt đặt một vài người ở lại trông nom. Đây là nơi họ kinh doanh, không phải nơi họ sống.


Ông già bán một quầy nước nhỏ đìu hiu ven bậc thang xuống thác Bạc, bằng câu chuyện đời mình, lại giải thích được tại sao thị trấn có vẻ không có sức sống, dù thơ mộng bên sườn núi. Những người dân lao động đã được (hay bị ?!) chuyển xuống khu dân cư dưới chân núi. Theo hướng ngón tay quăn queo, vượt qua những ngọn cây xa xa, là xóm ông, nơi mỗi ngày ông già bảy mươi tuổi cắp thùng nước đá đi về gần mười cây số để kiếm sống.


Tôi nhìn về phía nhà ông, nghĩ, ở đó, tôi mới nhìn thấy khói le lói từ những bếp than tổ ong sắp bắt lửa, mới nhìn thấy một ngày thường, thấy mồ hôi trên những khuôn mặt lam lũ, nhọc nhằn, nhưng gần gủi, thân thiện. Ở đó, tôi mới ghi được những bức ảnh trẻ con mắt trong veo níu nhau ríu rít cười phô răng sún.

Chứ không phải chỉ có mây mù...
.

Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeTue Aug 07, 2018 7:06 am

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Images686767_cantho_1375667378_500x0

Dòng Nhớ
Nguyễn Ngọc Tư


Sáng nay, má tôi lại ra đứng tần ngần ở chợ Ba Bảy Chín, nghiêng nghiêng ngó ngó một hồi, biểu con nhỏ chèo đò chèo dài dài chợ nổi. Chợ rao bán rau trái dậy động cả một khúc sông, má tôi thấy ghe nào cũng lần xuồng lại, dòm mặt chủ rồi đi. Con nhỏ chèo đò chắc là chèo mối, nó biết bà già định đi đâu, định làm cái gì nên nó biểu:
- Hỏng hỏi thăm thì vô phương kiếm ra, ngoại ơi.

Má tôi ngẩn ngơ. Hỏi chớ, chú ơi, thím ơi, tôi muốn hỏi thăm một người quen. Tên gì? Ghe bán gì? Hai Giang. Ghe bán hàng bông. Trời đất, ở xứ này có tỷ tỷ ghe bán hàng bông, cũng có biết bao nhiêu người tên Giang, vậy tướng tá người đó ra làm sao? Bây giờ đâu có biết ra làm sao, gặp được một lần mười sáu năm trước, nhớ sao tả vậy nghen. Ðàn bà, chừng sáu mươi, trạc tuổi tôi, tóc dài, da ngăm ngăm, không đẹp không xấu. Mới đầu đi với chồng, sau chồng bỏ lên bờ vì cơ cực quá trời, hồi trẻ có đứa con gái đầu lòng chừng bảy tháng tuổi thì rớt xuống sông chết.
- Vậy thì đông lắm, người sống trên chợ này hễ mười thì có năm người y chang hoàn cảnh vậy, dân Ba Bảy Chín mà, "ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh", chị hỏng nghe sao?
Má tôi chẩng hẩng:
- Vậy?
- Ừ, người đó quen sao mà tìm coi bộ cực dữ?
- Quen. Chà, hỏng biết nói sao bây giờ, dài dòng lắm, vợ của chồng tôi.
Nếu vậy thì dài dòng thiệt, chuyện tình tay ba mà phim dính vô chuyện nầy cũng năm bảy tập trở lên, còn cải lương lâm ly không biết bao nhiêu là nước mắt.

Má tôi cũng khóc nhiều rồi.
Má tôi nói hoài, ba mươi tám năm bà về làm dâu nhà chồng, cực có, sướng có, chưa bao giờ nội tôi khắt khe, nhỏ nhặt, khó chịu với dâu, nhưng má tôi vẫn hận nội tới chết mới thôi. Hỏi sao kỳ vậy, má tôi kéo chéo khăn lên chậm chậm vô đôi mắt, "Bộ hết người rồi sao mà nội bây cưới tao cho ổng, đó - bà chỉ tay ra bến - gần hết đời rồi tao có được vui đâu".
Ðó là lúc "ổng", tức ba tôi chống cây gậy khật khừng lang thang xuống bến. Ông dừng lại chỗ mấy cây tra, lấy tay rờ rẫm, săm soi từng cái lá, cái bông như tay bắt mặt mừng thằng bạn lâu năm mới gặp. Rồi ông lần ra tới đầu bến, đứng dưới hàng mấm già ngày xưa ông trồng để giữ đất cho khỏi lở, để mặc cho mấy cái hoa nắng vàng xơ rơ đậu xuống cái đầu húi cua, bạc trắng của mình, ông già tha thiết nhìn ra sông. Chỉ vậy thôi rồi khật khừng quay lên, cái chân trái yếu ớt như tựa hẳn vô cây gậy, cứ mỗi lần chân bước, đầu gậy lại xoáy sâu vô đất một lỗ tròn tròn.
Cảnh thì quen lắm, thì ngày nào, buổi nào ba tôi chẳng làm vậy nhưng cứ tụm cả nhà lại, rồi ngồi lặng lẽ dòm, ai cũng nghe đau đau xót xót như ai lấy cật tre cứa tới cứa lui trong lòng. Bởi cái lúc này là lúc sum họp đây, vậy mà sao vẫn thấy thiếu một người, mà thiếu đúng cái người đang lững thững đi dưới nắng kia mới chết.

Sau đợt tai biến mạch máu não lần thứ nhất, nửa người bên trái ba tôi yếu hẳn đi, tưởng chỉ vậy thôi, đến lần thứ hai bỗng dưng tâm trí ông già nhớ quên, ít nói, lẩn tha lẩn thẩn. Nhưng còn sống, còn tự mình đi đứng được là may lắm rồi, ai cũng nói vậy. Lúc đó cả nhà đang ở chợ, ba tôi càng lúc càng buồn, hay chống gậy đi, mấy lần cả nhà bỏ tiệm may đi kiếm ông. Sau này chỉ cần một mình tôi, vắng ông, tôi chạy xe dọc theo con đường về vườn cũ là gặp. Thấy tôi, ông già khựng lại, không nói gì, nhưng cặp mắt khẩn cầu, da diết, tôi làm như không biết, cầm gậy, đỡ ông lên xe chở về, có lần ba tôi khóc, ông khóc rưng rức, nước mắt nước mũi nhễu nhão, lòng thòng.
Sau lần ấy, cả nhà quyết định đưa ông về sống trong vườn nhà nội. Vườn bỏ lâu nay, nhưng nhờ cô dượng Ba ở kế bên nhà trồng trọt, trông coi nên chỉ cần dựng căn nhà lên là ở được. Chuyện cắt cử người ở lại với ba tôi thì khỏi phải bàn bởi chừng nào mà má tôi bỏ ông được, "làm gì má cũng phải giữ ba", tôi đùa. Má tôi xua tay:
- Ổng còn nguyên đó chớ có đi đâu, trước không mất giờ còn sợ mất mát gì nữa, giọng má chợt cay đắng, hồi đó giờ ổng có phải của tao đâu mà giữ.

Nói rồi má tôi trùm cái khăn lên đầu bước xuống xuồng, đưa tôi qua sông, tới bờ bên kia, ngó lại, ba tôi đứng chênh vênh trên bến, đôi mắt như đang nhìn da diết mà không biết nhìn ai, chỉ thấy mông mênh vậy thôi. Chơ vơ, cô độc. Má biểu tôi đi đường cẩn thận rồi bơi xuồng trở về, còn nói với theo:
- Sao má lo quá, má sợ ba mầy, ổng mà chết ổng cũng xuống sông để chết.
Lo cũng phải, không phải ba tôi nhớ vườn xưa mà chống gậy về, ông nhớ sông, một ngày ba bốn lượt lủi thủi chống gậy ra bến, cặp mắt như ngó mong, như hờn giận. Ba tôi vốn là người của sông mà. Ông đang ở đây nhưng tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nước tự lâu rồi.

Và cũng y như má tôi, ba cũng không sống được mấy ngày vui, vui thật, vui đúng nghĩa. Hồi tôi còn nhỏ, còn sống chung với bà nội, đêm đêm cả nhà đi ngủ, ba tôi ngồi hút thuốc trên bộ vạc kê trước nhà, chống rèm lên, ngó ra sông. Kiểu ngồi một chân xếp bằng, chân kia dựng lên, rồi tì cái tay cầm điếu thuốc lên cái đầu gối, đêm này qua đêm khác, kiểu ngồi không đổi. Nửa đêm, má tôi đi ém mùng lại, tôi thức giấc, ngó ra chỉ thấy đốm lửa lập lòe, lúc đỏ rực, lúc lại tắt thiu tiu. Má tôi ngồi trong mùng lặng lẽ nhìn ba, còn ba thì nhìn ra sông. Sông cách nhà một cái bến dài chẻ ngang đám dừa nước, đám ô rô mọc lởm chởm chồm từ mé lá lên. Những đêm trăng sáng, nếu không vướng mấy bụi ráng, bụi lức dại có thể thấy một dòng chảy líu ríu, sáng loáng, lồng lộng. Ban đêm, con sông trước nhà tôi không ngủ, nó thức theo những chiếc tàu rầm rì chảy qua, theo tiếng mái chèo quẫy chách bụp rất đều. Dài từ ngã ba Vàm đến đây, nước chảy êm, khuất gió, những chiếc ghe đi đêm hay đậu lại, nghỉ ngơi. Lâu lâu, có chiếc ghe hàng bông lặng lẽ neo lại ngoài bến nhà tôi, treo ngọn đèn chong lên cây đước chơm chởm những cái nhánh con, mỗi nhánh lủng lẳng trái khóm, trái bầu dầm nắng mưa đã teo héo. Không thấy bóng người, chỉ nghe tiếng gàu tát nước cọ vô xuồng xao xác. Hừng đông chạy xuống bến thì ghe đã đi rồi. Những đêm đó, ba tôi hút thuốc dữ, cứ nhìn chong chong ra ngọn đèn đỏ ối, nhỏ nhoi, buồn hiu ngoài kia. Ba tôi thở dài. Má tôi thở dài, chạy qua buồng bên khóc với bà nội tôi, không biết nói cái gì, chỉ nghe lõm bõm, tiếng nội làu bàu: "Vậy ra má đã làm sai cái gì?" và má tôi tuyệt vọng: "Kiểu này biết chừng nào ảnh mới quên chuyện xưa hả má?".

Ngày xưa ba tôi cũng yêu thương một ngườị Nội tôi dứt khoát không chịu (nội có tỷ tỷ lý do để không chịu), ba tôi mới dắt díu người ta bỏ nhà đi, sống kiếp thương hồ. Hai người trải qua biết bao nhiêu cơ cực, nào là gặt mướn, làm cỏ lúa, đắp bờ... mới có được một ít vốn, ba tôi sắm cái máy Koler xuống rẫy bán hàng bông. Họ sống nghèo lắm. Mỗi lần đi ghe đi ngang qua nhà, ba tôi khắc khoải ngó lên, vừa nhớ, vừa đau vì cãi nội. Rồi hai người có với nhau đứa con, nhưng chị bạc mệnh chết đuối, tận cùng đau khổ, ba tôi bỏ về nhà, được về, ba tôi cũng phải đáp ứng vài điều kiện của nội, vậy là ba tôi bỏ người ta giữa dòng bơ vơ. Tôi biết được có bao nhiêu đó thôi, kể ra cũng mấy dòng vậy thôi. Mà, cũng phải đợi tới năm mười lăm tuổi, cả nhà mới cho tôi biết. Tôi bật ngửa, chuyện xảy ra lâu rồi, nhưng người ta vẫn còn nhớ, vẫn còn cắm sào trước bến nhớ ba tôi, vậy mà biểu ba tôi quên cái rụp thì làm sao quên được.

Mà, cũng vì ba tôi quên không được má tôi mới thương ông nhiều, sau nầy, lớn lên, biết yêu thương rồi, tôi mới ngộ ra. Con người ta, nhất là đàn ông thương ai mà vì nỗi gì đó quay lưng lại quên mất tiêu thì đúng là không tử tế, không đáng tin chút nào. Với tôi, ba tôi thì quên hay không cũng được, ba đã sống tốt với cả nhà tôi lắm rồi. Ông sống tử tế đến vô cùng, đến thừa, dường như ông gởi gắm tình thương yêu đến cả người vắng mặt.
Ở cái xóm quê, mười người đàn ông thì nhậu nhẹt hết chín, trong chín người hết năm nhậu về chửi vợ, đánh vợ như đánh bịch muối, ba tôi là người duy nhất còn lại. Ông ít nói, hiền lành, từ tốn với má tôi, những lần má tôi bệnh, ba chèo một hơi mười mấy cây số vừa đi vừa về đưa má tôi ra trạm xá, không than mệt, không thở ra, tận tụy. Lúc nào cũng mình mình tôi tôi, mấy bà hàng xóm nghe tủi cho mình mà khóc, má tôi cũng òa khóc theo, cảnh mỗi người tự người đó biết, người ta hay đứng núi này trông núi nọ vậy mà.

Mơ hồ dường như mình mắc nợ ai đó, cả nhà tôi lúc nào cũng cảm thấy không vui, dù hạnh phúc (hai thứ này sao lại không thể đi chung). Không thấy ai đòi nhưng nợ vẫn cứ là nợ, nó rờn rờn quanh quất trong chái bếp ngày ngày khói tỏa, trong mấy chiếc giường ngủ con con, trong hai bữa ăn mỗi ngày. Ngồi quây quần như vầy trong bụng cứ nghĩ, có một người nào đó cô độc, bơ vơ. Mà tội nhất là nội tôi, vốn mê cải lương, nhưng bữa nào ti-vi chiếu mấy tuồng có bà mẹ chồng ác nghiệt chia rẽ duyên của con, dâu là thấy nội tôi rầu. Cho tới lúc cuối đời, chắc nội tôi vẫn băn khoăn trong lòng câu hỏi: "Vậy ra, mình giống mấy bà già trong đó thiệt sao?".
Má tôi thấy nội bứt rứt cũng không tỏ ra phiền muộn nữa, cốt để an ủi nội tôi lúc cuối đời. Khi nội tôi vừa khuất, má quyết định gặp đối thủ một lần, chỉ định nhìn vậy thôi, chưa biết làm gì mà cũng không biết làm gì người ta, nhưng chắc chắn phải biểu người ta buông tha ba tôi ra, còn gì nữa đâu mà neo ghe trước nhà ngó mong hoài.

Chờ đợi, rình rập hụp hửi mấy lần, chiếc ghe nhỏ với ngọn đèn đo đỏ lại về đậu trước bến nhà tôi, như mong đợi của má. Bữa đó, má nói với ba tôi chèo xuồng về chơi bên ngoại một đêm. Gà gáy chập đầu, bà trở lại, trên xuồng chất đầy mấy thứ rau đồng, bà giả đò làm người đi chợ sớm.
Ngang qua, má tôi tấp xuồng lại kế bên chiếc ghe, than:
- Tính đi chợ cho sớm mà gió quá, chèo không lên, bậy thiệt.
Má tôi tin rằng, người đàn bà kia, cũng như ba tôi, những đêm như vầy không bao giờ ngủ. Mà thật, dì đang chong đèn ngồi thêu áo gối, nghe tiếng má tôi, dì quay lại, dường như sững sờ, bất ngờ một chút dì cười:
- Dà, đêm nay nhiều gió thiệt - Dì vẹt mớ quần áo, kim chỉ trên cái sạp tre - Chị vô mui ngồi cho ấm, chờ bớt gió rồi đi, ngồi ngoài đó cảm sương chết.

Má tôi không từ chối, bà buộc dây xuồng lại, bước qua ghe. Bà cao người nên ngồi trong cái mui lợp bằng lá chầm đóp phải khom một chút. Họ ngồi đối mặt với nhau. Má tôi thấy lòng mình bình lặng lạ lùng, hồi ngồi dựng cái cảnh gặp mặt nầy, cứ tưởng là phải làm một cái gì ghê gớm lắm. Có thể vì người đàn bà của ba tôi hiện lên rất hiền, dì mặc chiếc áo cộc tay mầu cau khô ở trong, khoác thêm chiếc áo bà ba ở ngoài, mỏng te, nhiều mụn vá. Tóc đã bạc nhiều, lơ thơ vài cọng rủ xuống mặt. Sương gió đã làm cho khuôn mặt dì đen sạm, nhăn nheo. Má tôi nghĩ thầm trong bụng: "Xấu hơn mình nhiều". Má tôi sợ cứ nhìn chằm chằm người ta hoài cũng không phải nên má ngó lơ chỗ khác. Ðồ vật trên ghe món nào cũng nhỏ nhắn, tuềnh toàng. Ngay sau lưng chỗ má tôi ngồi, bỏ khoang tát nước có một cây ớt hiểm, một cây sống đời đang trổ bông trồng chung trên miệng cái khạp bể. Dì lúi húi dẹp miếng vải đang thêu dở, với lấy bình thủy, châm nước vô cái bình trà sứt vòi, ho khúc khắc. Má tôi chép miệng: "Cha có trà uống thì còn gì bằng, mà chị bịnh hả, mấy lá sống đời nầy ngậm với muối cũng đỡ ho lắm". Dì ngước lên cười: "Dà, lúc nầy trở gió, cũng nhờ nó...". Má tôi hỏi:
- Chị đi ghe một mình à, một mình cũng được sao?
- Dà, cũng được, chị.
- Ủa, chồng chị đâu ?
- Dà, dì bối rối, ảnh... đi xa lắm.
- Còn chồng tôi thì theo vợ bé mất rồi, má tôi nói luôn.

Dì nhìn sững má, dường như để xem xem nỗi đau mất chồng của má với dì có giống nhau. Hồi lâu, dì chợt cúi mặt:
- Uống trà, chị, hoàn cảnh của chị cũng buồn thiệt. Nhưng thể nào rồi ảnh cũng quay về. Thiệt đó chị, đa số đàn ông đều tốt.
Tốt sao? Người ta bỏ cô để cưới tôi mà là tốt à, má tôi ngồi lặng, tự hỏi, mà không biết nói gì nữa, cái câu quan trọng nhất chắc không phải nói lúc nầy. Má tôi ngồi ngó quanh, một ánh đèn nhỏ nhoi thôi cũng đủ hắt sáng vài xâu cốm gạo treo trên vách, mấy hũ kẹo, bánh ngọt, tiêu tỏi để bên này, trái cây như khóm, bí rợ, khoai lang thì chất thành hàng bên kia. Sát bên hông dì, dưới tấm vải trắng thêu dở là hai xấp quần áo cũ, người lớn có, trẻ con có được xấp ngay ngắn, nhưng hết thảy đều cũ kỹ, bạc mầu. Má tôi vọt miệng:
- Ủa, chị có cháu nhỏ à?

Sau nầy, má tôi nói, đó là cái câu tàn độc nhất mà má lỡ miệng đánh ngay vào nỗi đau của dì. Dì nhìn trân trân vào ngọn đèn, cái nhìn đau nặng. "Con bé Phước nhà tôi vô phước lắm chị à, tại tôi không cẩn thận nên cháu vừa mới biết bò đã té sông, trôi mất. Cũng mười mấy năm rồi, bây giờ nó còn sống, chắc tôi thêu gối cưới cho nó cũng vừa. Tôi... tôi chiêm bao thấy cháu nó hoài, chiêm bao lãng nhách hà, tự nhiên tôi thấy con tôi biết nói, nó biểu má đừng bỏ con, trời ơi, tiếng nó thấy cưng lắm kìa, vía tôi trả lời, mẹ sẽ sống trên sông hoài với con, vía tôi thấy nó cười...". Dì nói một hơi dài, giọng dì hơi nghẹn lại: "Trời ơi, chị có chuyện buồn lòng mà tôi lại kể chuyện buồn lòng nữa, chắc chị phiền tôi lắm. Mớ đồ nầy tôi cất lâu rồi, sợ mốc, cứ mấy tháng là tôi đem ra giặt lại, của con bé con tôi có, của chồng tôi có. Chồng tôi... tôi chỉ còn giữ lại bao nhiêu đây thôi. Chị coi, tôi khùng hôn, không giặt thì không được mà giặt hoài, tới hơi chồng cũng bay, tôi cũng quên mất rồi...".
Dì cười quay quắt. Má tôi chút nữa đã bật khóc, bà cố nén nghẹn ngào:
- Ðàn bà mình sao khổ vậy?

Tiếng gà gáy xa xa, con nước đêm nay mau lớn quá, mới đây thôi đã ngập nửa cây sào neo ghe rồi. Lúc nầy, nước lớn không nghe bìm bịp kêu, mà nhờ không có, chứ nghe bìm bịp kêu càng buồn nữa. Má tôi ngồi bình tâm lại, vậy thì mình nhỏ nhen gì mà giành với người ta chút nầy nữa. Năm nầy qua năm khác mình được sống chung với ảnh, ban ngày ngoài ruộng, ban đêm chung giường. Ngó mặt nhau ăn cơm, ngủ cũng đấu mặt lại ngủ... Còn người ta, nhớ thương đứt ruột, có thể chạy ào lại để gặp nhau nhưng vì lương tâm không làm được, đành ngồi đây ngó lên, ngồi ở trên ngó xuống. Ðau lắm chớ. Má tôi nhìn ra ngoài trời, vẫn còn khuya lắm, nhưng đã thấy mấy chiếc xuồng đi chợ sớm lướt qua, tiếng mái chèo quẫy chũm trên mặt sông ngọt, nhẹ, cứ tưởng từng lát nước xếp lên nhau như những lát đất cày. Dường như trời bớt gió nhiều rồi. Dì nghiêng đầu ra ngó trời, chừng như nuối tiếc, thảng thốt:
- Trời đất, đêm qua lẹ thiệt. Chắc tôi phải đi bây giờ.
- Sớm vậy sao?
- Dạ, tôi thường đi... trước lúc người ta thức...
- Tại tôi nhiều chuyện làm chị thêu không xong...
- Không, người đàn bà cười, nét mặt thốt nhiên buồn bã, tôi thêu cho hết đêm, xong rồi lại tháo chỉ ra thôi, tôi sợ, nếu không làm gì, tôi... tôi sẽ nhớ chồng con tôi rồi mắc... khóc, cầm lòng không được. Mà, đàn ông chịu cực khổ nhiều lắm rồi, lấy nước mắt trói buộc họ nữa, tội họ lắm, chị à.
Vậy rồi hai người chia nhau đi. Ghe nổ máy rồi, khói xịt tơi bời, dì còn dặn lại: "Nếu ảnh có quay về, chị đừng giận ảnh nghen. Người ta có đi đâu làm gì thì cũng thương mình chị thôi". Má tôi không nói, quay đi và khóc.

Tháng sau, má tôi quyết định gom mớ của cải cả nhà có được ra chợ, mua cái nhà. Ba tôi biết chút ít nghề mộc nên nhận đóng tủ, bàn ghế ở nhà, má tôi chiên đậu hũ bỏ mối, chị tôi mở tiệm may, tôi vào đại học. Mọi thứ được sắp đặt lại, mới mẻ, gọn ghẽ. Má tôi bắt ba phải xa sông, nhưng chính bà cũng biết, những dòng nhớ vẫn tiếp tục chảy mãi trong hồn ông. Má tôi cũng không kể với ba cái đêm gặp "tình địch" ấy, nhưng mãi mãi, mỗi khi cả nhà ngồi ăn cơm, tim má lại hiện lên hình ảnh cái rổ úp chén đan bằng nan tre đã xỉn mầu, trên đó có cái dĩa, cái tô và ba cái chén, ba đôi đũa như thuở người đàn bà trên ghe còn nguyên một gia đình.

... Bây giờ má tôi muốn gặp dì, nhưng lâu quá, chờ hoài không thấy dì ghé lại đậu ngoài bến như ngày xưa, đã mười mấy năm rồi, không biết có biến cố gì không. Chỉ tội má tôi tảo tần kiếm cho kỳ được. Tôi hỏi má tìm làm gì, má tôi nói để cho hai người gặp lại, coi thần trí ba mầy có đỡ hơn không. Rồi thì ba tôi cũng mỏi mòn nằm xuống trên mảnh vườn của nội tôi, bình yên. Má tôi vẫn không ngừng tìm kiếm dì, hỏi để làm gì, má tôi nói để cho dì hay và nói với dì, nếu sống mà không gần được chừng nào chết, mời dì lên nằm trên đất vườn tôi.

Ðó là nỗ lực cuối cùng má tôi làm để chấm dứt cái cảnh ba nằm bên má mà hồn vẫn hướng về những dòng sông miên man chảy.
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeSat Aug 11, 2018 11:50 am



Gió không thèm nói
Truyện ngắn Ngyễn Ngọc Tư


Chớp lại lóe lên, chân trời phía tây thêm một lần rách. Dưới chùm chớp hằn học, Tây nghĩ, thêm mưa nữa là mình đủ bộ thê lương. 

Nó đang ngồi bó gối trên một cái gờ che cửa sổ ở tầng bốn một chung cư cũ, nơi gần trời hơn đất. Ít nhất ngó trời không chóng mặt, như nhìn xuống một khoảng sân sau chằng chịt dây phơi. Đỡ lấy Tây là tấm bê tông đâm ra khỏi vách rộng chừng ba tấc, chiều dài hơn nửa thước, người thiết kế ra chi tiết này chắc không ngờ, ngoài tác dụng che nắng xiên mưa tạt vào cửa, còn có thể giấu nhân tình.

Chị Hằng đã tống Tây lên đây qua đường cửa sổ, lúc nó vẫn chưa kịp mặc gì, “Ở yên trên đó”. Chị hốt gọn mớ quần áo vãi trên sàn nhà ấn vào tay nó, rồi đóng sập đôi cánh cửa. Tiếng xe anh Hùm đã tắt, cầu thang vang tiếng huýt sáo. Nghĩa là chỉ còn không đầy một phút nữa, chị Hằng phải xong việc vuốt phẳng vải trải giường, chỉnh trang phục, buộc tóc, rửa mặt bằng nước lạnh cho má bớt hồng, mắt dịu lửa. Âm thanh chùm chìa khóa quay trên ngón tay anh Hùm mỗi lúc một khoa trương. Lẫn trong những chiếc chìa khóa đủ hình dạng, là con dao bấm. “Lạnh lắm, toàn sát khí”, một lần chị Hằng kể, và cười. Đôi hàng răng ngắn làm nụ cười hơi ma mãnh. 

Có vẻ như chẳng ai dọa được chị, chẳng gì khiến chị bớt ung dung, kể cả anh chồng giang hồ khét tiếng, người vẫn thường phì phèo điếu thuốc trong lúc chém thiên hạ và (đôi khi) bị thiên hạ chém, cai quản khu vực cảng cá và bến tàu. Dân thị xã vẫn dạt vào lề đường mỗi khi nghe tiếng xe phân khối lớn rùng rùng, điều khiển bởi một anh sọc rằn từ đầu tới đuôi, cổ đeo nanh hổ, trên người khảm khắc đầy sẹo vết. “Ờ, coi bậm trợn vậy, nhưng giữa hai ngón cái không bằng trái ớt”, chị Hằng nói, hơi thở gây mê gáy thằng nhỏ xe ôm. 

Lúc đó Tây chưa thân với cái bớt son trên sườn trái người đàn bà sống nhiều hơn nó mười bảy năm, chưa biết da chị có thể hắt sáng cả khi đèn trong phòng tắt ngóm. Nhưng Tây cảm nhận được một cơ thể mát rượi từ mảng mỡ bụng chị luôn sà xuống, chòng chành cuối lưng nó. Gợi trong đầu thằng con trai thứ chất lỏng trong suốt, hơi sóng sánh, có thể khỏa ngập lên nó, giấu lấp nó, nếu chìm vào. Nên Tây thích chị khách quen, không hoàn toàn vì chị hay cho thêm tiền xe.  

Chẳng phải lúc nào chị Hằng cũng kêu Tây chở một vòng thu tiền góp, dù ưng nó nhất, khen nó ra dáng đàn ông nhất, “phát thèm”. Chị đi với nhiều xe ôm khác, anh Hùm khỏi ngờ vực lôi thôi. Nhưng chỉ Tây là được chị rủ lên nhà uống nước, xem thử cái giường có kêu không. 

Rùng mình trên người chị Hằng một lần, Tây không cách nào từ chối lên nhà chị thử giường vài bận nữa, để thả lỏng mình vào thân thể bao dung. Thời khắc quên trời đất, rất đáng giá. “Cùng lắm là chết chớ gì”, nó bảo vậy, khi chị lấy ngón trỏ ngoáy cái cúc cu khá ngầu, hỏi có sợ anh Hùm không. Nhưng đến khi tiếng xe anh rung cả chung cư, Tây đứng đờ ra, nghĩ về cái cửa sau không bao giờ có. Chị Hằng, thuần thục như mọi khi, túm Tây nhét qua cửa sổ, bảo tránh ra ngoài ấy.

Khi những mạch đập đã dịu cơn sôi, nhớ lại diễn biến vụ kẹt ở lưng chừng, trong Tây có chút tức giận, với thằng Tây hèn nhát. Bị đâm vài dao thì có sao, mình đáng vậy. Có thế nào thì cũng giống những chuyện Tây đã từng gặp phải như đụng xe, té giàn giáo, gãy ngón tay, và nó chưa từng nghĩ ông trời bất công với mình.

Nhưng chị Hằng, người đàn bà vừa mới đây đã kịp rúc rích với chồng, giọng không chút gượng, cũng làm Tây tổn thương chút đỉnh. Nó thấy mình như mảnh rác, bị dọn dẹp bởi một tay chuyên nghiệp, chớp mắt đã bị đổ đi. Cái gờ che cửa sổ này, rốt cuộc có bao nhiêu người lấy làm chỗ trốn? Tây săm soi, thấy mảng vách chỗ nó tựa lưng vào không chút rêu.

Đổi thế ngồi, hòng cứu vãn đôi chân tê rần sắp mất cảm giác, Tây hơi thất vọng, thân hình dài thượt của nó xếp kiểu gì cũng thừa ra. Nghĩ, bối cảnh này chắc không diễn viên nào ưa, nhân vật bó mình chết trân giữa trời, không thoại, không trai gái. Thứ chuyển động duy nhất là nước đái nó thải ra, vừa chảy vừa bốc khói trên tường. Dĩ nhiên thòng chân đòng đưa thì quá sướng, nhưng sao biết được chồng chị Hằng có bất thần tung cửa sổ và tóm lấy nó không. Vách mỏng, cửa gỗ không ngăn được những tiếng động sỗ sàng, đôi lúc Tây hết hồn tưởng đâu mình bị phát hiện.

Đường ống nước ở ngoài tay với, anh Hùm chẳng tỏ vẻ gì sắp ra khỏi nhà, gờ che cửa sổ của tầng bốn lại xa và quá nhỏ để đỡ lấy nó nếu nhảy xuống. Tình cảnh không thể tệ hơn, cái quần ka ki rách lai của Tây, trong lúc quýnh lên nó đã làm rơi, vắt lên sợi cáp truyền hình. 

Nghĩa là hết phương về. 

Mọi thứ đang chống lại Tây, kể cả con nhỏ thừa nhiễm sắc thể đang chơi ở sân chung một dãy nhà cho mướn trọ, ngay bên dưới. Cái chổi lông gà trong tay, con nhỏ đang múa kiếm, đâm kẻ thù tưởng tượng hết sức dứt khoát, vẻ mặt nghiêm túc hứa hẹn nó sẽ hét ra trò nếu tình cờ ngó thấy Tây ngồi trên gờ cửa sổ, không mặc quần. 

Rồi con nhỏ bỗng dưng biến mất, sự vắng vẻ của mảnh sân bên dưới cứ đầy lên, dâng ngợp chỗ Tây ngồi. Giữa hai đùi gió lùa rười rượi, có chút xấu hổ khi nhìn thấy nửa dưới cơ thể mình phơi sáng. Không hiểu bởi cái quần đang phơ phất dưới kia, hay do những tiếng động ấm cúng lẫn vào tiếng cười chị Hằng lùa qua vách, mà Tây cảm giác, nó bị bỏ rơi. 

Cảm giác giống hệt như khi Tây nhìn người ta khép chặt mẹ trong bốn tấm ván, đem vùi xuống đất. Lúc đó Tây mười bốn tuổi, cảm thấy không ổn chút nào, những lần vô thức hỏi mẹ ơi đồng phục con đâu, mà không tiếng ai vọng lại. Không ổn khi cúng mở cửa mả, mặt mũi cha Tây tươi rói, ôm ghì điện thoại. Giỗ đầu mẹ Tây xong, cha nó treo bảng bán nhà, dọn về sống chung với một người đàn bà xưng  “má” với anh em Tây, mà tướng mạo không chút gì giống người mẹ bắt đầu bị mối mọt liếm láp. 

Em gái Tây, rất nhanh, sà vào lòng má, hòa nhập ngay với đám trẻ khu Gò Mây, bình thản nói “mẹ con té lầu chết queo rồi” mỗi khi có người hỏi thăm. Chỉ Tây không thể bỏ rơi mẹ thêm lần nữa. Nó đã bỏ rơi mẹ khi chìm lún trong một chiếc ghế ở tiệm trò chơi điện tử, kệ bà mẹ trèo lên nóc nhà quét dọn lá mục ứ trên máng xối, mấy trận mưa rồi nước ngấm sàn, nhỏ giọt lên giấc ngủ nửa đêm. Cú rơi sau đó, mọi người đoán mẹ Tây chắc vì bất cẩn trật chân, lại rủi té nhằm cái xác lu vỡ, mới chấn thương chí mạng. Giả thuyết ấy mạnh đến nỗi có thể thổi bay vạt rừng, nhưng không yên ủi được Tây. “Biết đâu mẹ tự nhảy xuống”, ý nghĩ đó gặm nhấm nó. 

Có lần ý nghĩ vụt thành lời, lúc Tây gom quần áo bỏ nhà đi. Nó có thể thấy cha mình giãy giụa thế nào để phủi bỏ cái câu vừa nghe được, “ai dám chắc mẹ té là vì sơ sẩy ?”. Chẳng ích gì, ý nghĩ ấy đã bám riết lấy ông như một ký sinh đói khát, lây lan nhanh sang người đàn bà rùng mình bên máy giặt, và còn làm phiền họ dài dài.

Chỗ Tây kẹt lại bây giờ, cao hơn một chút so với mái nhà nó ngày xưa. Nhìn quanh không thấy khói, không thấy người, chỉ có những tiếng động. Ngay bên vách, nghe tiếng rau cháy xèo trong chảo mỡ, Tây không biết ai là người đứng bếp, mà giọng chị Hằng vẫn giòn chuyện một con nợ dây dưa, “mai anh xách mã tấu dằn mặt vợ chồng nó cho em”. Dưới kia một ông say lè nhè hát bậy gì mà mưa thấm ướt cây dù mưa giá buốt con cu, hai đứa nhỏ ẩu đả giành võng, bà già nào đó ho như bứng cổ họng đi, tiếng rít thuốc lào, bình luận viên bóng đá hét lạc giọng vào không không vào. 

Chắc là có nhiều âm thanh cuộc đời vẳng lại lúc mẹ đứng trên máng xối, nhưng dưới mái nhà của mẹ thì im phắc như nhà hoang. Phải có Tây và em gái, chỉ cần réo lên mẹ ơi giày thể thao đâu rồi, mẹ ơi anh Hai giật tóc con, chắc gì mẹ đã rơi.    

Tây nghĩ vậy, thấy người nặng dần. Cảm giác như gờ che cửa sổ Tây đang ngồi sắp không đỡ nổi nó. Tây từng làm phụ hồ nên nó biết, người ta hay phẩy tay bỏ qua việc dùng vỉ sắt khi đúc bê tông tấm che. Họ còn không thèm hồ cho láng, vô phước ngồi lên, mông in sâu những vết hằn.

Như Tây bây giờ. Cũng may cái áo dài quá nửa mông, nên lần vải cũng đỡ đần cho da thịt nó. 

Nó đổi tư thế nằm ngửa, lấy lưng làm điểm tựa cho đầu và chân, người oặt ngược, cúc cu bệ rạc ngỏng lên trời. Ở thế nhìn ngược, nó ngó những mái nhà lô xô chẳng có chút trật tự nào, giấu che những cuộc đời tầm thường, những vui buồn nhỏ mọn, những bi hài kịch. Như chị Hằng vừa ngồi trong lòng Tây vừa cắt đậu bắp nấu súp lươn cho chồng. Như mẹ Tây lần đầu lôi thằng con từ tiệm chơi điện tử về, bà khóc rống lên sau mỗi nhát roi quất vào mông nó. Lúc đó cha Tây ở đâu, nó không nhớ nổi. Có thể cha nó đi làm, ngồi nhà hàng tiếp khách, hoặc công tác xa, hoặc có ở nhà cũng sẽ dắt xe đi, răng nghiến sít cái câu quen thuộc, “tôi ớn cái thứ người hở tí là nước mắt, thiệt, chán hết muốn về”.

Thường thì mỗi khi hồi tưởng có nguy cơ thành lũ lụt trong đầu. Tây thường đánh lạc hướng chúng bằng cách kiếm bạn xe ôm rủ nhậu, gọi cho vài cô gái quen qua sóng phát thanh những chương trình kiểu như Nối vòng tay lớn, cũng có khi nó cứ tạt bừa vào quán nước, coi nghệ sỹ tấu hài trên màn hình được phóng chiếu cực lớn. Nhưng kẹt ở một độ cao gần ba mươi mét so với mặt đất, không biết chừng nào có thể thoát được, Tây không cách nào chống đỡ được những ý nghĩ sôi trào. 

Mẹ bất cẩn rơi, hay đã vươn vai sảng khoái trước khi thả mình, đôi chân như cuống lá vừa khô? 

Dưới sân, con nhỏ thừa nhiễm sắc thể xuất hiện một lần nữa, nó cứ quay tròn cho chóng mặt rồi xỉu dần. Một lúc thì thấm mệt, nó dạng tay dạng chân nằm phơi ra. Khoảng cách giữa Tây và đứa nhỏ quá xa, nhưng Tây đoán nền trời nhiều mây đang in vào cặp mắt hơi xếch, mí lộn lên. 

Tiếng động trong nhà chị Hằng nhỏ dần, mùi thức ăn cũng tan mất. Sau tiếng cười ré, người đàn bà thổn thức đầy nhạc tính, dường như vợ chồng họ đã trườn lên giường. Giây phút ấy nó cảm giác chị Hằng, những nóc nhà bên dưới, tiếng người, tổ chim treo tòn teng trên cây gòn chết khô đằng ngã tư, mọi thứ đang ở rất xa mình. Giờ phút này, Tây thuộc về một đám mây sũng nước lừ lừ di chuyển tới, và sự tò mò ngộp thở, không biết cảm giác mẹ sao suốt dọc đường rơi?

Chới với trong nỗi sợ, hay nhắm hờ mắt nghe gió mỏng dần?
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeThu Aug 16, 2018 1:20 pm

.

Trong sông trong mắt
Nguyễn Ngọc Tư


Hồi bà nội còn sống, quãng cuối tháng mười một bà kêu mở tất cả cửa lùa của cái nhà sàn bỏ trống dưới mé sông, “nay mai gì ghe Ba Trầu xuống tới”. Căn nhà đó trước là vựa gạo, từ bà nội thôi buôn bán, trở thành chỗ treo võng ngủ trưa, mà khi mở toang ra, nó trở thành cánh cổng lộng gió đón ghe kiểng người quen từ An Bình xuống.

Lần đầu chiếc ghe kiểng neo trước nhà, trên mui ghe quây cái mê bồ, nhốt thằng nhỏ chừng sáu tuổi để nó khỏi té sông những lúc bà mẹ nấu cơm, giặt giũ. Hỏi ba nó đâu, cô chủ ghe nhổ cốt trầu, gạt mồ hôi nói, nói tới ngã bảy ổng tấp vô bờ hú hí với vợ bé rồi. Giọng tỉnh rụi như chuyện xảy ra không chỉ một lần. Bà nội kêu trời bước xuống ghe bưng thằng nhỏ lên nhà cho nó đỡ tù chân, bảo, “từ giờ cứ neo ghe đây, lo buôn bán, con cái để thím lo”.

Sau này, muốn nhớ ra đã bao nhiêu năm cứ đến chạp là ghe kiểng buộc dây ở trước nhà nội, thì lấy tuổi anh Thà, tức thằng nhỏ ở truồng bị nhốt trong mê bồ hồi đó, cộng thêm sáu, ra một con số ít nhiều gây kinh hãi. Quỷ thần ơi, mấy chục năm mà như mới đây thôi, cảnh anh Thà ngồi khoanh trong lòng bà già người dưng, mút đường mía dính tay, làm lơ má ruột của mình sau một ngày kéo xe kiểng đi bán dạo. Lúc đó thấy dong ghe ra bến chợ buôn bán không ăn thua, bà nội bày cô Ba thuê chiếc xe kéo chất kiểng lên, đem bán ngách này ngõ nọ. Chịu cực một chút, mà mớ kiểng vơi nhanh.

Đó là lúc gió chướng thổi ráo tạnh những cơn mưa, hong khô những khoảng sân bùn nhão, những rêu mốc trên tường rào, người ta bắt đầu nghĩ tới chuyện dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa, chuẩn bị cho lễ hội lớn nhất năm : tết. Gì thì cũng có chậu cây, chậu bông đằng trước nhà. Diện cho nhà cũng quan trọng như diện cho người. Cũng là bông giấy, nở tháng năm nhìn không đẹp bằng bung cánh vào cuối Chạp, nhưng chờ hoài chưa thấy nụ nào. Vừa may, những ghe kiểng miệt trên như ghe cô Ba Trầu, cũng xuôi ngược theo sông mà tới.

Đất này giàu tôm cá, nhưng không giỏi trồng cây đẹp bông thơm, phải nhờ miệt trên chở xuống. Cả những loại cây trồng cho trái sai, trái ngọt, cũng mua giống từ những vườn ươm của Chợ Lách, Cái Mơn, Sa Đéc. Cô Ba Trầu không chỉ chở theo mớ bông, kiểng mình trồng trong vườn nhà, mà còn thu gom dài xóm. Chướng thổi là ngứa ngáy, muốn xuôi dòng. Nhổ sào đi chưa biết thắng thua, nhưng cứ đi, như tới cơn ghiền thì phải ăn trầu cái đã, chuyện khác tính sau.

Lúc cô Ba chống mũi ghe ra khỏi bến bắt đầu chuyến đi buôn dài ngày, cách đó ba trăm cây số, bà nội nhìn ra sân, nói mấy cây kiểng còi này mà vô tay con Ba, chỉ một tuần là mướt lại. Chúng đã sống lay lắt từ sau Tết, dù cô Ba đã căn dặn, cây nào phải tưới ít nước, xài loại phân bón gì, cây nào chịu nắng, ưa gió, nhưng nhà nội chẳng ai nhớ nổi. Hết Tết là kiểng còi, bông héo, lại ngóng cô Ba, dù chiếc ghe vừa tháo dây đi khỏi mới được chừng nửa tháng, mang theo một đống nước mắt của mấy đứa con nít, tụi trên bờ tiễn kẻ dưới ghe. Mặt còn đầy lọ nồi do đánh bài thua, anh Thà mếu máo xuống ghe về Sa Đéc, như hồi nào khóc thét khi cô Ba vác lên vai. Đám nhỏ trên bờ cũng hao hụt mất một người chơi, đứng ngó theo thằng bạn lủi thủi mũi ghe, chung quanh chỉ là sông với nước, nghĩ nó lênh đênh gần chục tiếng đồng hồ mới tới nhà, mà thương.

Nhưng trở thành người lớn rồi, cũng đâu phải không ngậm ngùi, khi nhổ sào đi khỏi cái nơi cả tháng trời neo ghe, cùng ăn cùng ở với dân bản xứ, mà coi nhau như ruột thịt trong nhà. Những chiếc ghe kiểng xứ xa đậu ở đâu cũng được đùm bọc. Rất dễ dàng xin nước ngọt tưới cây, xin dăm bào ở các trại xuồng về nấu nướng, nhờ một vài chỗ đậu ở bến đò để tiện bán mua.

Những bữa cơm tạm bợ của má con cô Ba Trầu lúc nào cũng được bà nội sẻ thêm chút cá kho, rau luộc. Ngó cảnh đàn bà chèo chống một mình đã thương, mà nết ăn ở của cô Ba cũng được lòng người. Không biết có phải do ăn trầu, mà miệng cô lúc nào cũng tươi. Những nhà từng mua kiểng của mình, năm nào cô cũng ghé qua “thăm coi tụi nhỏ ra sao”, sẵn tiện săn sóc, cắt tỉa lại không công. Tối lại cô dạy mấy chị bên xóm cách gói bánh tét chữ, hay bánh tét cầu vồng nhân trứng muối, sao cho khoanh bánh cắt ra sặc sỡ tím lá cẩm, xanh lá dứa, vàng đậu xanh. Cũng từng ấy nguyên liệu, nhưng người xứ cô Ba gói cầu kỳ khiến đàn bà Cà Mau nể phục.

Bà nội nói con buôn có năm bảy loại, nhưng những người biết cúi xuống nâng niu một cái cây, một nhánh bông, không phải người chỉ biết có tiền. Ngó anh Thà càng lớn càng giống mẹ, thấy cây sứ trong sân bị úng nước ra sức cứu cho bằng được, bà nội nghĩ tới thằng con trai út của mình, suốt ngày ôm gà nòi đi cáp độ. Hai người trạc tuổi nhau, hồi nhỏ xúm chơi cùng, nhưng lớn lên mỗi người một kiểu sống. Chú Út Cưng suốt ngày bị so với anh Thà, bụng không vui.

Sau này, lúc bà nội mất rồi, lần nào gặp lại chú Út Cưng cũng hể hả nói, “hồi đó bà già mở miệng ra là khen thằng Thà, giờ coi ai ngon hơn. Mở quán ngồi không cũng có ăn, đâu phải dang nắng lượm bạc cắc”. Đó là lúc tháng Chạp quay trở lại, anh Thà kéo xe kiểng ngang qua, ghé lại đốt cây nhang cho bà nội. Áo bạc màu, da sạm nắng, chỉ cái cười nắng toả, nhẹ nhõm, không nhuốm muộn phiền. Kiểu người ngồi không sẽ nhăn rúm, nhưng chỉ cần chạm tay vào một nhánh cây, sức sống lại tràn đầy. Nên nhìn quán nhậu nhễ nhại bọt bia của chú Út Cưng, anh chẳng có vẻ gì thèm muốn.

Ghe anh cũng lâu rồi không đậu ở khúc sông này, vì con đường mới mở làm cả xóm ríu rít quay mặt theo nó, để sông lại đằng lưng. Dưới sông nhìn lên chỉ thấy những tường vách cao, những cửa sau ít khi nào mở. Nhưng có neo ghe ở đâu, xa cỡ nào, anh Thà cũng kéo xe kiểng qua nhà, để lại cặp cúc đẹp nhất, nói “má gửi cúng nội”.

Giao ghe cho thằng con, cô Ba phải ở nhà nấu thuốc cho ông chồng cũ, đang nằm đau sau bao bận giang hồ. Hỏi sao còn đối xử tốt với con người tệ bạc ấy chi, cô Ba cười, thấy cây kiểng còi mình còn săn sóc, ổng nông nỗi vậy bỏ luôn sao đành.

Chắc vì nhà cô hướng ra sông, nên lòng người cũng rộng.
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeSun Aug 19, 2018 10:26 pm

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận 8-gaiquemananhviet7jpg1397199189-1397202427901

Ơi Hỡi Diêu Bông…


Ông già hay bưng bình trà ra bộ vạc đặt ở chái sau, ở đó nhiều khi đến nửa ngày. Dáng ngồi như tượng, nếu không có tiếng nước trà rót lỏn xỏn vào cái tách sứt sẹo, thì chỉ có gió hui hút thổi qua mấy cự củi làm bạt đi âm thanh lũ mọt đang nghiến trong cây.

Ở đó, ông già đăm đăm ngó về phía nhà xưa, đất cũ. Ở đó, tầm nhìn quang đãng tới mức lổn nhổn bày biện ra trước mắt ông một khu công nghiệp với hệ thống nhà máy giăng giăng khói phía chân trời.
Không có rặng cây nào đủ bao bọc lấy vài ảo tưởng, từ khu định cư nắng chang chói này ông già buộc phải chấp nhận một sự thật, chỗ đất ông từng chôn khúc rốn khô của thằng con trai út, giờ đã thành chốt gác tạm vào nhà máy phân đạm đang thi công.
Thằng Út mỗi ngày vài ba lượt lủi thủi mệt mỏi đi ngang qua đó. Nó chưa bao giờ xao động vì cái cuống rốn đã hóa thành đất của mình, nhưng lúc qua cỗng nó thường hoang mang, không biết ngày mai có còn quay trở lại đây, không biết ngày mai mình có bị sa thải, bị thay thế bởi những công nhân đến từ bên kia biên giới xa xôi.
Ông già lớn tiếng nói không lo, người ta đã hứa rồi, sẽ kiếm công ăn chuyện làm cho tụi trẻ bây giờ.
Người ta làm lớn nên nói đâu chắc đó. Mình đã bứng nhà cửa, bứng mồ mả ông bà đi cho người ta làm công nghiệp thì cũng được đền đáp xứng đáng chớ. Ông oang oang, cố lớn tiếng cũng là để trấn an chính mình.
Mỗi khi thấy mới xế trưa mà thấy thằng Út về, ông cũng thót tim, cứ lo nó bị đuổi việc.
Nghe kể lại, hồi thôi nôi thằng Út, nó hí hửng chụp lấy cục đất lúc vợ ông đặt trước mặt nó cái rổ đựng lỉnh kỉnh viết, kéo, lược, gương…

Phải nghe kể lại, vì hôm đó ông vẫn phải đi gặt mớ lúa bị gió giông giật sập chìm ngoi ngóp trong nước.
Lúc đó, ông đã tuyệt vọng nghĩ, những đứa con mình rồi cũng suốt đời quần quật đồng áng như mình.
Đời tụi nó phải được thay đổi. Cái ý nghĩ đó lúc nào ám ảnh sôi réo trong đầu ông. Nên ông già bồi hồi biết bao nhiêu khi nghe tin về khu công nghiệp sắp được xây trên vùng đồng rừng heo hút quê mình. Họp dân lần nào ông cũng hỏi, có công ăn chuyện làm cho bầy trẻ không?
Lời hứa chắc nụi của người ta làm ông chấp nhận rời đi mà không lưỡng lự.

Hôm dọn nhà về chỗ định cư mới, ông gần như khóc, thằng con lớn hỏi tại làm sao, ông cố gượng nói bị kiến nẻ nẻ đau quá để mấy đứa con không phải cảm thấy mắc nợ ông chút nước mắt này.
Để con đừng vì thương ông mà do dự trước cơ hội đổi đời. Lúc đó, ông nghĩ vậy, nên dù có luyến tiếc đất đai vườn tược, dù nước mắt đong vài chén nữa, ông vẫn cắn răng nhổ cái bàn thông thiên mang về cặm ở nhà mới nằm trong xóm mới.
Buổi tối mang nhang ra thắp giữa trời, ông hình dung cảnh như vầy : mấy đứa con về nhà vào buổi chiều, trong bộ đồ công nhân lấm lem dầu mỡ, tụi nó kêu, ba ơi, con mới lãnh lương, mấy ba con mình bắt con gà nấu cháo nhậu chơi.
Ông suýt cười thành tiếng, trong tưởng tượng thôi mà mấy chữ “lãnh lương” nghe lạ lùng và xao động lắm rồi.
Một nông dân sống sắp hết đời chưa bao giờ được nghe.

Ông sắm xe cho thằng con lớn chạy như cả xóm chạy xe ôm. Con gái đi bưng bê cho quán cơm gần nhà máy.
Thằng Út xin được một chân phụ hồ trong chuỗi nhà máy đang xây dựng. Mừng còn ấm thì đã bị lo âu hắt vào mặt, khi ở công trường, trong quán nước hay trên đường ngày càng có nhiều người mới đến.
Họ không hơn đám thanh niên bản xứ này cái tay cái chân con mắt nào, cũng gân guốc, chai sạn, chỉ khác ở thứ ngôn ngữ dị biệt.

Nghe không hiểu, nhưng khi họ cất tiếng lao xao, thằng Út thấy như cứa, như cắt, xót xa trong ruột.
Cô gái làng thằng Út thương đã chắt nụ cười sang cho một người khác, chỉ vì anh ta đến từ đất nước của Tiểu Yến Tử, của vua Càn Long, của Võ Mỵ Nương… sớm chiều phát trên truyền hình.
Thằng Út về nhà buồn tênh nằm võng nghêu ngao hát, “thương em tôi tìm được lá diêu bông, sao em nỡ vội lấy chồng…”
Không phải tự nhiên mà bài thơ, bài hát về thứ lá sắc sắc không không đó làm người ta yêu thích.
Đời người dường như ai cũng có một lần thương yêu ngu ngơ, cũng tin yêu trong veo, cũng gặp những thề hẹn mơ hồ, cũng nhận những lời hứa ỡm ờ, lơ đãng, cũng gặp những phũ phàng…

Ông già, ngồi trong cái chái chất củi được cất từ cây lá nhà xưa, vẫn đượm mùi khói xưa, nghe bài hát bỗng buồn không kể xiết, cầm như cha con ông đã bị phản bội rồi.

Nguyễn Ngọc Tư
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeWed Aug 22, 2018 8:38 am

.

Làm thinh chơi kịch
Nguyễn Ngọc Tư


Hồi ấy Bầu mười tuổi.

Mẹ đang phơi bột trên sân xưởng Út Dương thì có người đằng trường chạy lại, hộc lên, “thằng con chị nằm chết cả buổi rồi, kêu sao cũng không chịu dậy”. Chữ “chết” kéo lết mẹ ra đường, nhắm hướng trường học của thằng con mà bươn tới. Thầy trẻ đạp xe phì khói lỗ tai mới đuổi kịp mẹ, cố gắng chỉnh sửa những lời gây hiểu lầm của mình, bằng một câu tối nghĩa khác, “thằng nhỏ chết nhưng không phải chết, chị đừng khóc”.

Bầu đang nằm trên sàn gạch, nghe mẹ tới hơi dao động, tròng mắt đảo lia dưới lần mí mỏng dày mạch máu, nhưng khoảnh khắc ấy qua nhanh, nó lì lợm diễn tiếp. Mọi người đứng ngồi xụi lơ, coi bộ nản, lấy hết sức nhao lên khi thấy mẹ. Họ nói họ chịu thua Bầu rồi, nói sao nó cũng nằm ngay đơ cán cuốc. Cô giáo của Bầu mếu, “kịch lớp em mới tập màn đầu, bởi Bầu phá đám phải bỏ ngang”.

Bữa trước mẹ nghe Bầu khoe, nó được phân công đóng một vai trong kịch “Anh hùng thiếu niên xóm Lá”. Vai nhỏ, xuất hiện chưa đầy một phút, mới mở miệng hô “xung phong” thì chết queo. “Nhưng vai con đóng là bên mình, không xui như thằng Thu cô bắt đóng vai bên nó”, Bầu khoái chí nói thêm, lúc gặm dĩa bánh chuối hấp mẹ làm, trước giờ đi tập kịch. Nghe cô giáo kể không khí tập vui, Bầu diễn hăng, cho đến sau tiếng súng giả đò, nó không thèm đứng dậy mặc kệ cho màn hạ.

Một trò đùa, nói sao cũng không hợp với con nít.

Gọi, Bầu không ừ hử, bạn véo tai, chọt lét. Hồi đầu, Bầu bị đau nên giãy chút đỉnh. Nhưng càng lay Bầu càng tỏ ra nghiêm túc với vai của mình, một người chết. Thân kia coi như bỏ. Nhẫn nại vô hạn trước những trò nhào nặn của bạn, Bầu trải thân ra sàn nhà cô giáo, ở dãy tập thể sau trường, vốn được trưng dụng làm chỗ tập kịch. Bất chấp bạn đem kẹo ra dỗ, cô giáo nghiến răng đòi đuổi học, thầy hiệu phó bảo sẽ mời phụ huynh. Ai đó giả bộ mở nút quần Bầu, dọa cởi truồng nó luôn coi xấu hổ không cho biết, nhưng sự im lặng của thằng học trò lớp ba chứng minh rằng với người chết mọi  thưởng phạt đều vô nghĩa.

Nghĩ Bầu khoái được chú ý nên làm già, thầy hiệu phó biểu mọi người tản đi. Đám đông cũng hết hứng thú, ngó mãi một xác chết (đóng giả) đã chẳng vui mà còn hơi sợ, xuất hiện cảm giác dãi thân xác kia thật đẹp. Vẻ đẹp của sự làm thinh. Lát sau thằng Thu được cử quay lại rình, qua khe cửa thấy bạn chẳng động cựa gì ngoài mớ tóc gió thổi dựng cờ. Cô giáo giật mình chạy về sờ vào mạch cổ thằng nhỏ đang ngủ bình thản giữa lông chó và giấy vụn, để thấy mình tổn thương quá cỡ khi vô thức cuốn vào trò chơi quái gở của đứa trẻ lên mười. Một ý nghĩ nảy trong đầu cô, mình sẽ bịt chặt mũi miệng thằng nhỏ này coi nó chịu được bao lâu, nhưng nghĩ tới đó cô chóng mặt, nếu nó vẫn không chịu thua, cứ vậy tím lịm dần dưới tay mình?

Sự xuất hiện của mẹ giải thoát cho cô giáo khỏi những ý nghĩ dần ngã màu tà ác. Cái xác thân phiền toái giờ giao lại cho người khác. Tụi nhỏ bị đuổi về, nhưng vẫn thụt ló ngoài cửa để coi, chừng nào bạn chúng chịu sống lại.

Ngó Bầu chơi chữ làm thinh, mẹ biết không thể dỗ ngọt, càng chẳng nên roi vọt. Bên cù lao, nhà thờ đổ chuông linh láng mé sông. Chút nữa chồng cô giáo tan sở về, bước vô nhà sẽ thấy một thằng nhỏ nằm chết chình ình, coi sao được. Nghĩ vậy, mượn cái xe đẩy cát đằng cửa hàng vật liệu xây dựng, mẹ chở Bầu về.

Dọc đường chiều nắng nhợt như thiu, cả xóm ngó mẹ con Bầu, hỏi nhau chuyện gì nữa đây. Cái cảnh người đàn bà nặng nhọc kéo theo một thân thể nhũn ra, không phải nhìn thấy lần đầu. Cả đám bạn Bầu phụ đẩy xe, cũng nhớ mình làm chuyện này rồi, hồi nào đó.

Mẹ đặt Bầu - vẫn chết hết sức đăm chiêu - lên bộ vạc cạnh cửa sổ, bỏ ra sau nhà nấu cơm. Đi ngang chỗ ba Bầu, mẹ nguýt, thằng nhỏ bắt chước ông kìa, lớn đầu mà không nên thân. Ba Bầu cười, cái cười vô nghĩa đậu trên mặt suốt bốn năm nay, đôi lúc làm mẹ đổ quạu, “có người hỏi cưới tôi kìa, ở đó mà cười”. Nhưng ba Bầu, lâu rồi không còn nổi khùng khi bị khiêu khích.

Đi tới cửa sau, sực nhớ trong nhà không có thứ chi để nấu. Chợ chiều thì tan rồi. Mẹ lại đằng xưởng bột hỏi trong tủ lạnh họ có thứ gì có thể mượn được. Út Dương nói Chờ ơi cứ đem về cho con nó, chỗ tôi với em vay mượn khỉ khô gì. Nhưng sáng mai mẹ sẽ mua đùi gà tỏi, và nửa cái bắp cải đem trả lại cho chủ xưởng, dù chủ nhiều lần nói, chỉ cần gật đầu, cái xưởng này là của Chờ, kể chi.

Mẹ soạn bữa cơm tử tế hiếm có, chỉ đám giỗ mới đủ ba món kiểu vầy. Thường thì mẹ chỉ làm những món bánh chiên hoặc hấp từ bột gạo vụn được mang đằng xưởng về, ăn cùng Bầu. Lúc nào thèm cơm thì tấp bên đường, mua hộp cơm sườn, hay xôi lạp xưởng, cũng qua bữa. Đứng xưởng cả ngày, hơi sức đâu tỉa tót miếng ăn.

Sau này, chuyện nhập vai của Bầu được ông nhà văn bên xóm viết truyện, gửi tới cuộc thi về đề tài hậu chiến, nhận giải cao. Trong truyện Dư chấn ấy, chỉ thay chi tiết nhân thân ba thằng nhỏ, đúng ra đi trộm chó làm mồi nhậu bị đánh chết, ông nhà văn đổi thành anh lính hy sinh ở chiến trường. Chết cũng năm bảy loại, vinh nhục khác nhau.

Phần còn lại, ông viết đúng như chuyện bên xóm, bà mẹ cũng chơi đóng kịch với con, bưng mâm cơm ra, nói ba hồn chín vía thằng Bầu, về đây ăn đùi gà rô ti. Thằng nhỏ cười cái khì, lồm cồm dậy. Nó chơi lâu nên đói. Ăn xong nó nói “chết buồn quá má, sao ba chơi hoài?”, rồi quẹt mỏ chạy ra sân cùng đám bạn đang reo, thằng Bầu sống lại kìa.

Mẹ, lúc này mới đổ oặt xuống. Như thể mẹ không còn chút sức lực nào, từ nghe nhắc một người giỡn dai mãi mãi không trở dậy.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeSun Sep 02, 2018 9:00 am

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận 2303_duoi_nuoc-15_21_23_156

Tắm Sông
Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư


Vậy là má không cho tôi tắm sông nữa. Má nói, má coi truyền hình, người ta biểu, nước sông bây giờ ô nhiễm lắm, trẻ nít tắm hư mắt. Tôi hỏi ô nhiễm là gì, má tôi nói dơ.
"Một chút thôi mà - tôi cố nài nỉ - có chút xíu thôi". Má tôi dứt khoát, không là không.
Tôi chê lý do của má đưa ra lãng xẹt, chỉ vậy mà bắt hỏng cho tắm sông nữa. Buồn muốn chết.

Những chiều ra đông chạy rong chạy ruổi thả diều về, nực thôi là nực, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, xách cái gàu ra ngoài cầu ao xối sàn sạt mà không thấy mát tí nào, thèm nhảy ùm cái xuống sông, sải tay sải chân vẫy vùng cho sướng người.
Tôi biết lội hồi sáu tuổi. Hôm đầu tiên xuống nước, tôi ở truồng ngủng ngẳng cái cu bằng trái ớt. Ba ôm tôi xuống bến, ông đặt bàn tay to bè lên cái bụng tròn ủm của tôi sướng wá, tay chân luýnh quýnh đạp lia lịa làm nước văng sáng tran mặt ba tôi (nước mát thì thôi dị chớ). Má tôi ngồi trên bờ hái đọt choại vừa nhó xuống, kêu:
- Anh khéo, ngộp con nó...
Ba cười to:
- Em đừng lo. Mai mốt thằng nầy lặn ngụp phải biết.

Chỉ năm hôm sau, khi ba tôi lặng lẽ bỏ bàn tay ra, tôi đã lủm bủm lội được một tí đường. cái đầu tôi ngoi lên còn cái mông chìm lỉm, ba cười, chê: "Cái thằng bơi y hệt con chó phèn".
Nhưng đám bạn cùng lứa của tôi đang ngồi so bì, "Sao tao ôm dừa khô tập hoài mà hông biết lội".
Tôi tài khôn, "Mầy bắt chuồn chuồn cho nó cắn rún á, biết lội liền hà". Nó tưởng thiệt, đi bắt chuồn chuồn về cho cắn muốn tiêu cái rúng luôn.
Vậy mà tôi cố đổ thừa:
"Tại mầy hỏng bắt chuồn chuồn đỏ, chuồn chuồn đỏ cắn rún mới biết lội được".

Sau nầy nhớ lại, tôi nghĩ nhất định mình bơi giỏi là nhờ bàn tay ấm nóng của ba đã truyền cho tôi lòng dũng cảm và sức mánh. Ba nói, con nít ở vùng sông nước mà không biết bơi thì tội nghiệp, xuống bến trợt chân, qua cầu gãy ván... Bất trắc không biết chừng.
Ai chớ tôi thì ba tôi khỏi lo. Đi học về, vừa cất cái cặp đã nhảy um xuống sông. Tụi bạn phục lăn cái tài lặn dài hơi.

Còn về khoản lội đua, mỗi con Én là dám so kè với tôi, trời đất ơi, con gái gì mà lội thoi thót như con ếch, lẹ ghê. Mà cũng tại nó cao, chân dài, tay dài, nó sải một nhịp, tôi đã lọt lại phía sau.
Vừa rồi, tôi với nó bơi thi, hỏng hiểu sao tôi lúm súm thế nào mà để nó qua bờ bên kia trước, nó bắt tôi kêu nó bằng chị hai, thấy tức chết. Thằng Tèo bênh vực tôi, nó an ủi, "Mai mốt trả thù, hén mậy?"
Tội nghiệp, nó thần tượng tôi từ cái năm sáu tuổi tới giờ.
Tôi hứa, mai môt' trả thù. Nhưng từ má tôi cấm ngặt, coi như không còn cơ hội nữa.
Sông với tôi có biết bao nhiêu là chuyện với nhau, bây giờ biểu không tắm nũa, buồn ơi là buồn vậy.

Ngày xưa đúng là sông không như bây giờ. Nước sông không như bây giờ. Nước sông mát.
Nước không trong như trong sách người ta hay tả mà cợn phù sa. Xứ tôi là xứ phù sa mà. Sông có mùi thơm hơi ngòn ngọt của bẹ dừa nước mọc chồm chồm ra ngoài bãi.
Nước lớn, cá kìm kìm lội thành đàn nhộn nhịp. Nước ròng sát bãi, tụi tôi chạy rượt với đám ca thồi lồi.
Hồi đó, đất sình dưới đáy sông chúng tôi chọi nhau cũng thơm, nên mặt mũi tèm lem bùn mà không thèm để ý, có đứa bị chọi nguyên một cục sình vô miệng, trợn trừng không nói được tiếng nào.

Từ từ, sông ngầu đục hẳn đi.
Cứ nước lớn, mặt sông đầy rác. Mới đầu, tụi tôi thích lắm, tụi tôi vớt được bao nhiêu là chai lọ, tha hồ nuôi cá lia thia.
Con Én coi tay chân quều quào vậy chớ siêng, nó vớt được bao nhiêu là đồ chơi cúng cuội.
Rồi tụi tôi cũng chán trò chai lọ, mặc kệ chúng, dưới sông trôi đày kia kìa. Tôi hỏi ba tôi rác đâu mà nhiều vậy, ba nói là do người ở chợ hay đổ rác xuống sông. Tôi gật gù, ờ phải, ở chợ người ta đông lắm.
Trong đám bạn, tôi biết chợ nhiều nhất. Nhà tôi có cái quán cóc nhỏ bán bánh kẹo, đồ chơi con nít.

Mỗi lần đi chợ đổ hàng, má đều chở tôi theo. Ra ngoài đó, má lên chợ, tôi dom chừng chiếc xuồng. Sau nầy tôi thêm một nhiệm vụ nữa là gỡ rác quấn chân vịt máy. Rác nhiều quá, cứ đi được một chút nghe cái máy chạy rị mọ, biết thế nào chân vịt cũng bị quấn rác rồi.
Một ngày nọ, tự nhiên tôi nghĩ, mình gỡ ra rồi quăng xuống, thế nào nó cũng vướng v
ô mấy chiếc xuồng khác, tội nghiệp người ta ghê lắm.
Tôi lẳng lặng giở cái sạp xuồng lên, bỏ mớ rác vào đó. Má tôi rầy, "rác rưởi mà để vô xuồng chi con, dơ hết".
Tôi nghĩ sao thưa vậy.
Má tôi cười, không nói gì nhưng vẻ mặt rất hài lòng. Hôm đó, về tới nhà, được hai thúng rác đầy vun.
Tôi bưng lên nhà, ba như không giận nó đã quăng con mèo chết xuống.
Tụi tôi tự nhủ, bữa nay tắm lần này nữa thôi, tụi tôi chờ cho tới chừng nào sông sạch, trong trở lại.

Tôi lén nhìn con Én, lặng sải tay bơi một mạch qua bờ bên kia, "Mai mốt thể nào cũng trả thù chớ con trai mà để thua con gái, kỳ lắm".

Nguyễn Ngọc Tư
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeWed Oct 24, 2018 12:35 pm

.

Ngày Mai Của Những Ngày Mai...
Truyện Ngắn: Nguyễn Ngọc Tư


Phải có đến hàng trăm lần, tôi nghe và nói cái câu nào đó tương tự như “hẹn mai mốt gặp”. Như một thói quen, như một câu chào, người ta tự nhiên nói mà không quan tâm điều đó có xảy ra hay không. Và cái câu hẹn mai mốt gặp trong tôi luôn mang ý nghĩa, chào nghen, tôi về.

Và cái buổi nắng lên trong vườn dừa hôm ấy, tôi cũng nghe lại câu này, “hẹn mai mốt gặp, mình nói chuyện nghề chơi”. Người “hẹn hò” tôi là một ông già gầy gò, kham khổ. Tôi không trả lời được, tôi thoáng nghẹn đi, vì cái cảm giác tiếc nuối do chia tay vội buốt ở đầu mắt, thì cuối mắt ông nhấp nhánh ánh lên sự hy vọng hồn nhiên. Mai mốt gặp.

Lưng bỗng đau khi day lại phía ông già. Chân bước đi cũng đau. Gáy tôi nhìn thấy cái tuổi tám mươi tư của ông già đứng im sững bên chái nhà, nơi đặt bộ bàn tiếp khách. Gáy tôi lạnh. Trời ơi, sao ở cái tuổi ấy người vẫn còn có thể thanh thản hẹn với một ngày mai?

Hơn ai hết, ông già biết ngày mai đó rất xa xôi. Bởi ông không còn sức để đi chỗ này, chỗ khác, không thích những chỗ xô bồ xô bộn, họp hội xinh xang. Chủ nhân (dù muốn hay không) của câu nói nổi tiếng ngang tàng ngạo nghễ, “đi chỗ khác chơi” đã chọn chơi với mảnh vườn yên tĩnh của mình. Con mương vườn rụng đầy những trái dừa chuột cắn, mấy cây bưởi ngoài sân trước. Hơn ai hết, ông biết đôi chân mình đã mỏi, lời đã mỏi nụ cười đã mỏi, chỉ ánh nhìn là vẫn lấp lánh sự tinh quái, làm tôi thót tim lại, hôm đầu gặp ông.

Cái nhìn soi thấu vào gan ruột người ta. Trong những cơ may gặp gỡ mà tôi có được, chỉ vài ba người làm tôi sợ, vì cái sự-đọc-được-người-khác của họ. Ông già cũng làm tôi sợ, ông thấu được một tôi nông cạn, hời hợt, dại dột. Cũng chẳng có gì nghiêm trọng, chỉ là cảm giác mất tự do, mình sống thế nào, mình che đậy thế nào, mình xoay bề nào ông già cũng ngoáy cái ánh mắt tinh quái, cái cười hóm hỉnh vào, chọc chọc. Đối mặt nhau qua cái bàn trà cũ kỹ, nhưng mỗi lần nghe ông già dùng trí nhớ mẫn tiệp của mình dẫn lại mấy câu văn dài ngoằng của Lỗ Tấn, một đoạn truyện cũng dài thườn thượt của Ernest Hemingway, tôi lại cảm giác ông già ở trên cao, và mình trong cái thế phải ngước lên, ông thầy giỏi mà kẻ học thì lơ ngơ, như vói hái trái ở một cành cây quá đầu, mỏi chân, mỏi cổ quá trời.

Nhưng tôi biết, cái cội cây già ấy sâu thẳm tự đáy lòng muốn trao trái cho đám trẻ như tôi. Cái cây vẫn còn quá nhiều trái trên cành mà thân đã dần cạn nhựa, cây không muốn trái cũng chết khô giữa trời. Trái kia, phải được hái khẽ khàng, để một hôm nào đó, sau mưa, hạt lại ươm mầm trên những mảnh đất mới và đầy sức sống.

Thiệt tình, đó là tất cả những gì tôi muốn khi bước chân qua cánh cổng xiêu xiêu kia. Học. Tôi chỉ cần có vậy, học tất cả những gì ông già có, nhân cách sống, sự lịch lãm, ngạo đời, vốn kiến thức văn học giàu có, cái nhìn nghề khe khắt… Nhưng học ông già này hơi bị… khó, nên bước chân ra về lại rấm rức, sao mình không thể ở lâu hơn, mà tôi đoán phía bên kia cũng… ấm ức giống tôi. Đã nói gì được nhiều đâu, đã cho và nhận kịp đâu, nhìn thẳng ông già tôi còn không dám, nói gì tôi đã chạm được ông. Mà, tôi muốn chạm vào ông, muốn đọc chút xíu ông, muốn tự mình dệt nên một câu chuyện tếu táo gì đó về ông, lâu nay tôi toàn nghe giai thoại của người khác. Vậy nên cả hai không thỏa, vậy nên ông già ngó tôi mà rằng, “mai mốt mình gặp nói chuyện nghề chơi”.

Và tôi ngẩn ngơ. Tôi muốn gặp ông già lần nữa, lần nữa, gặp hoài nhưng tôi không bao giờ cất lời hẹn lần sau. Hơn ai hết, tôi biết mình lâu lắm mới sẽ trở lại nơi này, lâu lắm tôi mới lại qua sông Tiền, vì tôi ở xa, vì tôi là đứa ru rú xó nhà ít lang thang đây đó. Tôi tầm thường đến nỗi lên xe rồi, cứ nghĩ tới chuyện nhà không ai quét, con trai không ai nấu cơm cho ăn, và nghĩ tới cái gối ôm có hình mấy con thỏ thả bong bóng bay là tôi muốn quay lại cho rồi. Nhưng nếu muộn hơn, bạn bè tôi còn, những vườn dừa còn, nhưng ông già Nam Bộ ngạo đời ấy tôi không còn cơ hội gặp nữa, ý nghĩ đó đã đưa tôi đi, vượt lên những lười nhác. Gặp lần đầu, tôi vẫn không tin mình sẽ gặp ông lần hai, và gặp lần hai, tôi làm sao biết được có còn lần nữa.

Bởi những cuộc hẹn sẽ có ít nhiều đổ vỡ, bất trắc. Trên con đường đi đến đó, có khi tôi đau bụng nên quay lại, có khi tôi gặp bạn bè và say mèm ở dọc đường, có khi chiếc xe trở chứng xịch lụi chết máy. Tôi đến nơi thì người cũng vừa đi khuất. Mà bất trắc thì quá nhiều nhân dạng. Vượt qua khoảng cách địa lý, vượt qua những rào cản lặt vặt như… cái gối ôm để thực hiện cuộc gặp, nhiều khi lãng trân. Tôi không là tôi cũ, người không còn là người cũ, gặp nhau cũng như không. Ông già thì vững trân một nếp, nhưng tôi? Chưa chắc… Tôi đã có lần gặp bạn mừng chưa hết, thì nói câu gì đó đau lòng rồi cuộc hẹn tan mau.

Nhưng có một dạng bất trắc hơn cả mọi bất trắc mà tôi không bao giờ kịp quen. Đi đám giỗ, gặp nhỏ em họ cùng tuổi, hẹn nhau đám giỗ sau, nhưng nó đã bỏ đời đi sau một cơn buồn. Có người hôm trước gặp nhau còn cười hỏi, “ê khoẻ hôn, lâu quá không nhậu nghen, mai mốt rảnh rỗi, anh gọi”, hôm sau thấy anh cười trên ti vi, nụ cười đã bất động, không thể tin, người cười đẹp vậy sao có thể thản nhiên ra đi giữa khuya vì đau tim được hả trời. Và bất trắc thì đôi khi không chờ giữa hai lần đám giỗ, không chờ qua một ngày, bất trắc chỉ trong tích tắc, một cô gái ngún nguẩy đuôi tóc, tung tăng bước qua đường vẫn trong tầm nhìn tôi, tôi vẫn chưa chớp mắt thì chiếc xe điên cuồng nào đó đã huỷ hoại cuộc sống của cô rồi, chỉ một phần trăm của giây. Trong những câu chuyện thường ngày quanh ly rượu, chén trà, sau tiếng thở dài, người ta chép miệng, “mới hôm qua…”, “mới cái độp đây mà…”. Bất trắc nhanh đến nỗi khiến người ở lại phải hoang mang giữa tuyệt vọng và hy vọng, giữa có nghĩa và vô nghĩa, bởi rõ ràng thân xác đã nguội rồi, rồi, nhưng cảm giác về người cũng còn nguyên vẹn. Trong veo. Rực rỡ. Tôi sợ…

Ông già thì đã tám mươi tư…
Nhưng ông già đã hẹn tôi, ông không thèm nhìn cái tuổi tám mươi tư của ông, mà sao tôi cứ nhìn mãi, thấy mãi. Xe tôi khuất qua những thôn xóm, qua trùng trùng muôn muôn những vườn cây trái, những dòng sông, hàng trăm cây số, về đến nhà, đóng chặt cửa, nhắm mắt lại tôi vẫn nhìn thấy mái tóc ông bạc, lưa thưa, giọng nói đã hơi run khi vượt thoát khỏi đôi môi, và gầy đến chiếc áo của ông cũng ngẩn ngơ như nó đã đánh mất da thịt của ông rồi.

Nhưng ông già đã hẹn tôi. Ông không thấy cái tuổi tám mươi tư của mình, bởi vì ông không có tuổi, chẳng bất trắc nào đánh gục được ông, ông sống hàng trăm tuổi ấy, với những gì ông để lại. Một nhân cách hơi kỳ lạ, cô đơn sâu nhói, đeo đuổi sự tự trọng đến cuối đời. Những trang văn đau, sâu sắc, tinh tế, mà sang trọng, lịch lãm. Ông “đi chỗ khác chơi”, không “bẹo hình bẹo dạng” nữa, nhưng nhiều người vẫn gặp ông khi qua căn gác cũ, con đường cũ, quán cũ, trang sách cũ… Bao giờ còn những khoảnh khắc mà các hạt bụi như tôi bỗng nhớ đến non-ông, nhớ cái cây cổ thụ già ấy thì ông vẫn còn nguyên trân đó, dù cái áo xưa đã xếp lại, hết chỗ cho nó phất phơ rồi.

Hóa ra, cái hình ảnh tám mươi tư tuổi của ông già chỉ là tôi mượn để nói tránh về một tôi già nua, chỉ tôi là nhìn thấy tuổi, nhìn người, nhớ người, hẹn người bằng tuổi. Tuổi không phải là biểu tượng của đời đâu, nhỏ ơi. Ông già chắc không biết là câu nói hẹn gặp lại bị tôi suy diễn xa dữ vậy.

Đơn giản, chỉ là ông kêu có dịp thì gặp nhau, nói chuyện văn chương vô tận chơi thôi. Đơn giản là tuổi già của ông bị cô đơn ăn hiếp quá, dồn đuổi quá, lâu lâu có đứa nhỏ buồn mà cà chớn như tôi đến chơi thì vui chớ sao. Thì muốn còn tập tiếp theo chớ sao. Dù ngày mai, mốt đó là của những ngày mai, mốt khác. Nó xa, nhưng mà gần, cứ kêu lên, ngày mai, chẳng phải qua đêm nay là tới sao? Những hẹn hò có khi mãi mãi là hẹn hò, nhưng nhờ nó, người ta mới chịu khó ngồi nuôi dưỡng niềm tin. Tôi mới chịu khó sống và viết, tôi mà tệ quá, ông già không chịu tiếp, thì chết.

Tôi vẫn còn muốn hái thật nhiều trái chín của cái cây cổ thụ tuyệt đẹp có sức sống mãnh liệt đó. Tôi tham quá trời đi.

Mai mốt gặp, dạ, mai mốt gặp.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitimeWed Aug 21, 2019 10:24 pm

.
Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận 65737-20170727150910-20170728134821

Biết sống
- Nguyễn Ngọc Tư


Chị kể hồi ở Sài Gòn hay tới một quán cháo vịt ngon muốn xỉu, nhưng tới hơi trễ chút là phải chịu bụng đói ra về. Bởi quán chỉ bán đúng sáu con vịt, không thêm không bớt. Khách có kì kèo hay đòi nằm vạ cũng chỉ nhận được nụ cười, “chịu khó mai quay lại”. Hỏi khách quá chừng đông sao không bán thêm, chú chủ quán cười, nhiêu đây là đủ. Nhưng đủ cho cái gì, chú không nói thêm.

Ngồi quán đó, chị nhớ quán bán bánh canh cua của má nổi tiếng xóm hẻm hồi xưa. Mỗi ngày nấu đúng bảy chục tô, hỏi mua tô thứ bảy mươi mốt về làm thuốc cũng hên xui. Sáng dọn chưa ấm chỗ, vèo cái hết nồi bánh, bà dành cả thời gian còn lại của ngày để nằm võng nghe Thái Thanh, hoặc dẫn con Chó đi chơi dài xóm. Chó, là tên của con vịt xiêm cồ.
“Sống như má mình không phí cuộc đời. Đâu phải giàu mới vui”, nhắc tới đó chị bùi ngùi. Người ra thiên cổ lâu rồi, nhưng ký ức động đậy như người vẫn đi lại quanh đây.
Chị nói người sống ung dung kiểu vậy giờ ngày mỗi hiếm, nhưng không phải không có. Họ đang ở đâu đó, chừng như vô nhiễm với cơn khát tiền. Ở Hội An chị biết một quán nước nhỏ nằm dưới giàn cát đằng, cà phê ngon, trà gừng hết xẩy mà đúng bong mười giờ là đóng cửa. Sau bữa trưa, anh chị chủ dành thời gian đọc sách, nghe nhạc, chơi với mấy đứa cháu nhỏ. Nhiều sáng khách đông, hết chỗ ngồi, nhưng sân vẫn để trống không chẳng kê thêm bàn. Sân là khoảng thở của ngôi nhà, không phải chỗ để chen chúc bán mua lấy được.

Nhắc mấy chuyện đó, không phải nói khơi khơi, mà chị đang nhắn thằng em thời cào hốt này vẫn còn những người “biết sống”. Vì tuần sau là giỗ má. Vì thằng em vừa chặt cây khế, cơi thêm một tầng lầu, chồm lan can ra che gần hết lộ hẻm. Nó nói không lấn được phần đất, thì lấn trời. Tiền xây nhà nó kiếm được từ quán bánh canh má để lại, mở bán từ sáng sớm tới khuya. Nó thuộc kiểu được mười ba đồng, thì phải kiếm thêm bảy đồng cho chẵn hai chục. Giàu cái đã, chuyện khác tính sau.
Cũng là con má nhưng tánh thằng em ngược một trời một vực. Tại sao bà chỉ bán bảy chục tô bánh canh, bà giải thích rồi, nhiêu đó đã đủ lời để xoay xở trong nhà, lại còn dư chút đỉnh để dành khi bất trắc. Mấy chục năm, bà hài lòng với việc giữ gia cảnh mình gói gọn trong hai chữ “đủ ăn”.
“Nhưng làm nhà giàu sướng hơn chớ, má?”
“Giàu nghèo gì phải vui mới được”.

Chữ vui đó cũng minh mông, với mỗi người nó có nghĩa khác nhau. Với bà chủ tiệm tạp hóa Linh Thông là buôn bán luôn tay, mặc dĩa cơm tấm khô queo và ly cà phê đá tan trắng nhợt tự hồi nào. Vui của ông chủ chuỗi cửa hàng điện máy là mở thêm vài chi nhánh mới. Của quán nhậu Tăng Ba là khách nào ra khỏi đó cũng xùng xình say. Hay với vợ chồng thằng em, không vui nào bằng nghe tiếng những tờ giấy bạc sột soạt lúc nửa đêm. Nhưng có những người như má, vui bởi được nằm thong thả nghe Thái Thanh hát “bể sầu không nhiều nhưng cũng đủ yêu”, vui vì nhà có cây khế chua cho trái gần như quanh năm. Chua tới con nít bụi đời không thèm hái. Nhưng khế chua được cái trái lớn, mọng nước, dài cánh khía sâu. Má hái mớ trái chín vàng chất lên cái rổ tre cạn lòng, là đẹp bừng lên bàn ăn trong bếp.

Đó là ngôi nhà rất đẹp, trong ký ức con cháu. Không có hoa tươi (như bà nói hoa chỉ đẹp khi còn nguyên cành nguyên gốc), nhưng nhà vẫn được chưng diện bằng những thứ ít ai ngờ. Cái rổ tre lúc nào cũng đựng gì đó, khi thì những trái muồng khô, lúc khác, trái bàng. Không phải loại trái cây ăn được, chúng rụng đầy công viên, chỉ cần cúi lượm một chút là đầy rổ. Nhìn thấy cái đẹp trong thứ tưởng chừng vô dụng, trăm phần trăm chẳng phải người sống gấp sống nhanh.
Mấy thứ trái tức cười trong rổ tre của má, cũng là thứ mà chị nhớ, vào buổi chiều nào đó ghé thăm ngôi nhà xiêu xiêu gần cửa Gió. Xóm chài, buổi trưa vắng người. Trên bộ vạc sau nhà có một nắm trái so đũa nằm trên mo cau. Hỏi thứ này ăn được sao, một thằng nhỏ cười, hông đâu cô, con để vậy cho đẹp. Trưng ở sau nhà, nên chắc chắn không vì khách, đẹp này cho mình.
Mớ trái gà chê dê nguýt nọ không phải được mang về bởi một phụ nữ nào, mà từ thằng nhỏ cháy nắng đen thui. Nghe thằng nhỏ nói, chị đoán sau này nó sẽ vác cây đờn đi ca tài tử, sau một ngày đánh bắt mệt lả. Nửa đêm về nó đứng ngoài hè một lúc lâu, vợ hỏi sao không vô, nó nói trời nhiều sao quá, nhìn thêm chút nữa. Thằng nhỏ cũng có thể trở thành một anh giám đốc thiệt ngầu, nhưng mỗi cuối tuần anh tắt điện thoại, chở con ra đồng thả diều, ngắm bèo trôi sông.

Đó là một người sẽ tận hưởng được nhiều vẻ đẹp trên đời, bất kể giàu nghèo. Như má. Một người đàn bà mà khi nhắc tên ai cũng buột miệng kèm theo mấy chữ, “sao mà biết sống quá xá”. Cái khái niệm biết sống này cũng vô chừng, mỗi người mỗi kiểu, nhưng nhìn một lượt, chừng như người biết sống là biết đủ. Khi đó tham vọng thôi sôi réo, họ trọn lòng lắng nghe những tiếng thì thầm ở quanh mình.
Nhưng đó không phải là kiểu sống mà vợ chồng thằng em chọn. Nó nói ai cũng tà tà vậy thì sao nước mạnh được. Mạnh, là phải có tiền, nhiều tiền, rất nhiều tiền. Có tiền mua gì cũng được. Mua vũ khí. Mua bằng hữu. Không thiếu nợ, và khỏi phải lấy đất đai ra trừ cấn nợ. Chị hiểu nó muốn ám chỉ chính sự gì đây, cười, “nói thì hay, bữa rồi có vài trăm ngàn tiền thuế mà kì kèo trả giá”. Người giàu nhiều, mà đất nước vẫn nghèo, là vậy. Tới cái nắp cống ngoài đường cũng bị lấy cắp. Ai cũng vơ vét cho mình, sẵn sàng ôm tiền bỏ chạy.

Hồi buổi chụp giựt bắt đầu, ngó tiền lẻ nhét đầy tượng Phật, chị không nghĩ thời thế kéo dài như vậy. Lâu đến mức không tin là mình chờ được ngày kết thúc. Sóng trước sóng sau cứ hớt hãi. Nhỏ cháu chị mua sách dạy làm giàu về gối đầu giường, dù ba nó nói cần gì đọc, chỉ cần chui vào cơ quan nhà nước, lên cao, thì đường nào cũng giàu. Ngó mớ tựa rất kêu kiểu như “làm giàu không khó”, “Hai mươi bảy cách trở thành tỉ phú”, chị biết trong đó không có câu nào khuyên người ta biết thả lỏng tắm mình trong mùi hoa ban đỏ trong đêm. Mùi hoa nhẹ lắm, hít thở nhanh không cảm nhận được. Chị nhắc con nhỏ cũng có những cuốn sách chỉ cách người ta sống chậm, cách kháng cự lại lòng tham lúc nào cũng đói khát của chính mình. Ở hai bên con đường một chiều đi tới miền khuất mặt, nhiều thứ đẹp lắm, chạy nhanh thở gấp thì không thấy được đâu.

.
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận   Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Tập Truyện Ngắn Nguyễn Ngọc Tư : Cánh đồng bất tận
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Yêu Không Hối Hận - Truyện Ngắn: Nguyễn Thế Duyên
» HOA XƯƠNG RỒNG NỞ MUỘN - Truyện ngắn: Trương Vân Ngọc
» Bia Ôm - Truyện ngắn: P. Nguyên
» Truyện Ngắn Nguyễn Thị Thụy Vũ: Đêm Tối Bao La
» Tập Truyện Ngắn Nguyên Nhung

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon  :: ĐỀ TÀI :: Văn Hóa, Nghệ Thuật :: Văn-
Chuyển đến