Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon

Diễn Đàn của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  GalleryGallery  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Keywords
truyện chuyen hoang sáng phải VNCH quynh quan Nguyen trong linh nguyet không ngam ngắn Trung chất bich nhac Nhung Chung quốc quang Saigon chẳng thuoc
Latest topics
» "Chinh Phụ Ngâm & Vườn hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng"
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeThu Apr 04, 2024 12:38 am by Admin

» "Chinh Phụ Ngâm & Vườn hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng"
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeThu Apr 04, 2024 12:09 am by Admin

» "Chinh Phụ Ngâm & Vườn hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng"
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeThu Apr 04, 2024 12:09 am by Admin

» qua đi thôi bão nổi
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeSat Mar 11, 2023 3:11 am by Admin

» Cụ Hoang Xuân Hãn
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeSun May 08, 2022 10:37 pm by Admin

» Giáo dục VNCH - Giáo dục con đường khai phóng
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeMon Jan 10, 2022 4:06 am by Admin

» Suy tư về kiếp người - Về Cùng Cát Bụi
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeSun Jan 09, 2022 4:25 am by Admin

» AI ĐÃ HẠ GỤC CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN?
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeSat Jan 08, 2022 2:41 am by Admin

» NHẠC THIỀN - Cõi Thiền trong Âm Nhạc
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeThu Jan 06, 2022 4:11 am by Admin

April 2024
MonTueWedThuFriSatSun
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
2930     
CalendarCalendar
Affiliates
free forum

Affiliates
free forum


 

 Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị

Go down 
3 posters
Tác giảThông điệp
P-C
Khách viếng thăm




Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeSat Feb 16, 2013 7:38 pm

.

Truyện Ngắn: Nghiệp chướng
Vugia K7



I-

- Các người nghe cho rõ đây! Ta là Triệu tử Long phò ấu chúa đây. Ta là bậc trung thần ái quốc của muôn đời đây!
Nhướng hàng lông mày để các nếp nhăn lấp đi năm vết mờ mờ như dấu chân người trên trán, vừa gân cổ hét, gã vừa múa may như một diễn viên tuồng thực thụ, thậm chí có người chắc chắn rằng trong cách múa may đó thoáng thấy dăm ba động tác của một miếng võ tuyệt độc bị thất truyền.

Dân làng không lạ gì với cái-cơn-trung-thần-ái-quốc của gã. Trăm lần như một, hễ nhà nào trong xóm có đám kỵ giỗ và sau khi đốt xong áo giấy là gã lại lên cơn, đến khi người nhà mang một mâm cúng đặt xuống bên cạnh gã mới chịu thôi. Chắp hai tay ngang mày, thành kính vái mỗi phương một vái; rồi xem như không có gì xảy ra, gã cảm ơn mọi người chung quanh. Với dáng vẻ ung dung nho nhã, gã đi về hướng sông, bơi sang cồn trồng dâu phía bên kia.
Người ta lại phải mang mâm cúng ấy đặt trước miếu cô hồn.

II-

Cô chị còn thiếu hai mươi mốt ngày thì tròn mười bảy tuổi. Chết vì bị rắn độc cắn. Ông chánh Ngà thưởng cho đám trai làng một con heo, gọi là trả công lùng bắt con rắn hổ chúa dài xấp xỉ cái dang tay của một đứa trẻ con. Họ nói còn một con rắn đực nữa. Ông lệnh cho họ mang xác con rắn cái đem chôn ở cồn trồng dâu bên kia sông trước khi hạ huyệt con gái  mình.

Đúng vào ngày giỗ đầu của người chị gái, cô em lại bị rắn cắn, lên cơn co giật, sùi bọt mép và đau đớn lăn lộn hệt như người chị của mình trước kia. “ Nghiệp chướng! Nghiệp chướng ! Nhỡn tiền! Nhỡn tiền!… ”. Ông chánh tổng lẩm bẩm rồi ngất đi, trong cái hỗn mang mịt mờ bồng bềnh mê tỉnh, ông thấy mình thất thểu theo sau đám dân cày của làng bị chết đói năm nào.
- Ông ơi! Có người đến xin cứu cô Ba!
Hồn ma của đám dân cày biến mất và ông tỉnh lại. Đến cứu con mình à? Đám thầy lang vườn và các vị tự xưng là Hoa Đà đã không còn thấy mặt kể từ khi hay tin con ông bị co giật. Hết phương rồi, chỉ còn chờ vào người cõi trên thôi!. “ Ai vậy ? Mời vào, mời vào…”. 

Anh ta bước vào. Với phong thái đỉnh đạc đường hoàng, tiến thẳng về phía ông chánh tổng, khuỳnh  tay thưa :
“ Tôi cứu được cô gái này, xin mọi người lui ra, chỉ một mình ngài ở lại thôi ”. Giọng nói của người miền ngoài, có vẻ cương quyết hơn là nhẹ nhàng. Anh ta liếc nhìn mọi người chung quanh và họ hiểu ý đồng loạt kéo nhau đi.

Không chờ sự đồng ý của chủ nhà, anh ta quỳ xuống trước xác cô gái, vén ống quần trái của cô ta đến tận đầu gối một cách tự nhiên tựa hồ như đã biết được vết rắn cắn ở chổ nào. Trên bắp chân cô gái hiện ra sáu vết rỉ máu như người ta đóng đinh vào rồi rút ra trên thân cây chuối non. Hai vết sâu hoắm, bốn vết kia nhỏ hơn.
Kính cẩn lấy ra từ tay nải một bọc vải, anh ta trịnh trọng trải tấm vải bọc rách nát ấy lên đất, trên mặt vải hiện ra những chữ viết loằng ngoằng và các hình vẻ có hình sông núi, từ tốn đặt chiếc hộp gỗ mun đen bóng lên trên và nhắm mắt quay đầu về hướng Bắc thầm thì khấn vái. Thành kính lấy ra từ chiếc hộp một vật màu xám bằng sừng có hình dáng như một ngón tay, sau khi lau sạch anh ta rà nhẹ vật ấy lên vết thương của cô gái. Máu từ các vết rắn cắn bổng rỉ máu tươi. Không ngại ngần, anh ta cúi xuống dùng miệng hút nhiều lần cho đến khi máu không còn tươm ra nữa. Một khắc sau, cô gái khẽ cựa mình.
- Không ngờ có người cãi lại được mệnh Trời . Ông chánh tổng thốt lên. Anh ta đáp: Xin  Ngài đừng nói cho ai biết việc này, nếu khôngTrời phạt cả tôi lẫn Ngài đấy”.

***

Anh ta khai mình tên là Trọng Tắc và từ đó dân làng gọi là thầy Trọng.
Sau khi cứu cô thoát chết, không cần tìm hiểu lai lịch và không phải đắn đo suy nghĩ, ông chánh gợi ý muốn gã con gái cho anh ta. Cô gái bình phục hoàn toàn nhưng lại thỉnh thoảng đăm chiêu nhìn mông lung về hướng đông và khóc. Cô thường thẩn thờ đi dọc theo bờ sông, rắc những cánh hoa dại trắng trên đường đi. Ông chánh cho người theo sau, nhưng như chơi trò trốn tìm, cô thường biến mất trước mắt họ, đến khi lần theo dấu vết các cánh hoa họ mới tìm thấy cô đang ngồi khóc ở triền sông.
Thầy Trọng khéo léo từ chối lời gợi ý nhiệt thành của ông chánh tổng, nói rằng mình chưa có công danh sự nghiệp gì, không muốn làm đũa mốc mà đèo mâm son. Sau một lúc suy nghĩ, ông chánh nói:
-  Thôi được, chuyện ấy để sau tính tiếp. Trước mắt, tôi tặng thầy  gian nhà trước chợ để thầy làm thuốc và chữa bệnh. Ơn thầy không gì sánh bằng, mong thầy đồng ý cho.
Anh ta nhìn thẳng vào mắt ông, cái nhìn hàm ơn chỉ thấy ở loài mèo:
-   Cảm ơn ngài, nói thật, xóm làng này tôi cảm thấy rất quen thuộc khi mới vừa đặt chân đến. Nếu Ngài thương thì cho xin tôi một mãnh đất nhỏ ở cồn dâu phía bên kia sông để làm nơi trú ngụ thì đã là quý hóa lắm rồi ạ.
- Được, anh đã có cả hai.

***

Căn nhà nhỏ được dựng lên ở cồn dâu là một bí ẩn của dân làng. Chưa ai dám đặt chân đến và anh ta cũng không cho ai đến gần, kể cả ông chánh. Trong lần chữa bệnh đầu tiên, anh ta không nhận thù lao mà chỉ xin hai con chó. Không hiểu anh ta nuôi như thế nào mà hai con chó biến thành hai con hổ thực sự khi làm nhiệm vụ canh giữ nhà.
Gian nhà trống trước chợ biến thành nơi chữa bệnh và bốc thuốc của thầy Trọng, người ra kẻ vào tấp nập. Tiếng lành đồn xa. Các thầy lang vườn và các vị tự xưng là Hoa Đà tái thế của làng không còn thân chủ, kể từ lúc ấy họ trở thành bạn bè.

Chạng vạng tối hôm nọ trên đường về cồn dâu, thầy Trọng bị ba người đàn ông có hung khí bất ngờ tấn công. Sau một hồi quần thảo, ba người kia bỏ chạy. Sáng hôm sau cùng một lúc có ba người đàn bà đến xin mua thuốc nhức đầu cho chồng, thầy Trọng nhẹ nhàng:
-  Không cần thuốc, các chị về bảo các anh ấy hướng về hướng Bắc lạy ba lạy, vỗ vào trán ba lần, vết thâm trên trán sẽ hết và tức khắc bệnh sẽ khỏi.
Trưa hôm ấy, có ba người đàn ông đến xin lỗi và cảm ơn thầy Trọng.
Cái cách nhận thù lao của thầy Trọng cũng khiến người ta ngạc nhiên. Các thang thuốc nhiều lúc được biếu không hoặc thầy nhận rất ít tiền. Những lần chữa chạy các bệnh thuộc loại tứ nan y hoặc thập tử nhất sinh thầy đều không lấy tiền, chỉ ngỏ ý muốn mua lại của người hết bệnh một khoảnh đất nào đó mà họ có. Hầu như không ai chịu nhượng bán đất cho thầy mà tự nguyện biếu không với vài hào bạc tượng trưng. Những người không có đất thì kín đáo tế nhị trả ơn thầy bằng các loại tài sản khác.
Ba năm sau thầy mang lễ vật xin cưới con gái ông chánh tổng.

***

Ông chánh hoan hỉ đồng ý với điều kiện thầy Trọng phải ở rể vì chỉ còn đứa con duy nhất. Anh ta xin một gian để lập bàn thờ riêng của giòng họ, ông chánh miễn cưỡng vui vẻ chấp thuận.
Đêm tân hôn, thầy Trọng nói với vợ:
-  Mình tuyệt đối nhớ cho tôi hai điều – tôi chỉ nói một lần và không bao giờ nhắc lại – một là không bao giờ được xen vào hoặc theo dõi tôi làm những gì; hai là không được bước vào gian đặt bàn thờ của gia đình tôi, dù chỉ là nửa bước. Nếu phạm một trong hai điều ấy ắt có bất hạnh. À, còn một điều này nữa, vợ chồng mình chỉ được gần nhau vào những ngày trăng sáng, tối nay là ngày nước ròng, tôi ra ngoài ngủ, mình nhớ rồi chứ?
Cô vợ hụt hẫng: Dạ, em nhớ.

III-

Mười một tháng mười ngày sau khi mang thai, người vợ đẻ ra một bọc, trong đó có hai thai nhi đều là con trai, một đã chết. Đứa bé chết trong bào thai có năm vết mờ mờ ở giữa trán và được chôn bên cồn dâu. Đứa bé kia được đặt tên là Trọng Quyền. Cùng lúc, người ta báo tin ông chánh qua đời.
Tám ngày sau, thầy Trọng dời bàn thờ từ cồn dâu về đặt tại gian thờ riêng của mình ở nhà ông chánh. Người ta thấy xác hai con chó bập bềnh trên mặt sông.

***

Đúng vào ngày sinh nhật lần thứ mười bảy của cậu cả Trọng Quyền, thầy Trọng gọi riêng vợ nói:
-  Tôi và thằng cả phải làm lễ cúng tổ tiên bên nội ba ngày ba đêm trong gian thờ, bà nói với mọi người rằng tôi và con về thăm quê.
Tắm rửa xong, hai cha con cùng vào gian thờ và khép cửa lại.
Qua hai ngày nôn nóng chờ chồng con, đến trưa ngày thứ ba người vợ không còn kiên nhẫn được nữa. Sợ chồng con có chuyện chẳng lành, bà đẩy cửa gian thờ bước vào. Bà thấy hai cha con quỳ sấp mặt đối diện nhau, giữa họ là chiếc hộp gỗ mun, trong đó bà thấy một vật bằng ngà có hình dáng ngón tay người, phía trước hộp là đống giấy trích lục đất đai cao khoảng một gang tay. Ngước nhìn lên bàn thờ, bà rùng mình, bổng thấy ớn lạnh và một cơn đau khủng khiếp ập đến phát khởi từ đỉnh đầu rồi chạy dọc xuống sống lưng.
Chiều hôm đó, lần theo vết các mãnh áo tang bị xé vụn, người ta tìm thấy bà trần truồng nằm chết trên bãi cát ven sông, mặt úp xuống đất, đầu hướng về phía mộ ông chánh tổng.

***

Thầy Trọng dùng tiền của vận động làm chánh tổng và mua cho cậu cả Trọng một chức danh nhỏ của triều đình. Từ đấy dân làng gọi cậu cả Trọng là ông Hương Quyền. Ông Hương Quyền tướng mạo khôi ngô, có dáng của một quan võ kể từ ngày nhận sắc phong. Giọng nói oang oang khiến người nghe phải kính nể, nhưng không hề biết chữ nhất bẻ đôi là chữ gì. Cụ đồ già trong làng kể lại rằng những ngày dạy cậu học là những ngày nhục nhã nhất trong đời của cụ, bởi rằng sách vở thánh hiền luôn bị cậu ta dùng vào việc bài tiết hàng ngày, cho đến khi đống sách vở thừa cao đến bằng chiều cao của cậu thì cụ nói “Tôi bất tài“ rồi xin nghỉ dạy.
Hương Quyền nỗi tiếng là tham lam và sát gái. Hắn ta thường gạ gẫm các cô gái làng, sau khi thỏa mãn thú tính, hắn tặng cho vài bạt tai và đuổi về. Phần lớn các cô gái tự nguyện trao thân cho hắn mặc dù biết chắc hậu quả mình phải hứng lấy. Có đến mười một cô phải ôm mo cau bỏ xứ ra đi. Cả những bà vợ của các vị thân hào nhân sĩ trong làng cũng không cưỡng lại cái cơn cám dỗ quỉ ám đó, đến khi các ông phát hiện của cải và số trích lục trong nhà không cánh mà bay thì các bà vội vã biến thành những cái xác trôi bập bềnh trên sông. Và họ kiện lên quan.

***

Quan huyện là người có học và được triều đình chính danh bổ nhiệm. Vị quan này nỗi tiếng thanh liêm và cương trực. Sau khi điều tra, ông sai bắt Hương Quyền nọc giữa chợ, tự tay đánh đòn cảnh cáo và cho về.
Ngay ngày hôm sau, hai cha con thầy Trọng lễ mễ mang quà cáp đến dinh quan huyện xin lỗi và nhận tội. Nể mặt, quan huyện miễn cưỡng nhận chút quà gọi là lòng thành của vị chánh tổng. (Món quà mà cô con gái quan huyện thích nhất là chiếc kẹp tóc nạm ngọc. Vốn được trời ban cho một mái tóc dài mượt mà óng ả làm xao xuyến bao nhiêu trái tim các bậc chính nhân quân tử, lại được cài thêm chiếc kẹp tóc quý giá kia thì quả trên đời này không có mái tóc nào đẹp bằng).  Qua lại nhiều lần, họ trở nên thân thiết.
Các cô gái làng xinh đẹp thở dài tiếc nuối khi nghe tin Hương Quyền đi hỏi vợ. Người được chọn là con gái nhà ngài quan huyện. Ngày rước dâu, nhà trai cho rắc những bông huệ trắng dọc hai bên đường nơi kiệu của cô dâu đi qua. Cô dâu cười rạng rỡ trong chiếc áo cưới dài màu đỏ với mái tóc tuyệt đẹp khiến dân làng phải trầm trồ. Chàng rễ nhìn lên trời mỉm cười kỳ lạ dưới cái mũ đội đầu lạ kỳ mà dân làng được thấy lần đầu tiên.

Vợ Hương Quyền mang thai đến tháng thứ chín thì cải cách ruộng đất. Ruộng đất của các quan lại và địa chủ về-tay-nhân-dân. Thầy Trọng tiếc của thổ huyết chết ngay trong gian thờ, máu thấm vào các bản trích lục, rồi theo các rãnh thoát nước chảy ra ngoài, đầu của các dòng chảy ngóc lên như đầu con rắn hổ.
Vợ chồng Hương Quyền được chính quyền mới cho tá túc tạm và mang bàn thờ về ở mái nhà rách nát bên cồn dâu. Hai tháng sau người vợ sinh ngược. Trên trán bé trai có năm vết mờ mờ như năm dấu chân người.

IV-

Vợ chồng Trọng Quyền đặt tên cho con là Trọng Hải. Nhưng dân làng chẳng mấy khi gọi đúng tên. Họ thường gọi là thằng-triệu-tử-long khi lên đồng hoặc thằng-lên-cơn lúc bình thường.
Theo cha mẹ chèo đò, đánh cá trên sông nhưng Trọng Hải có dáng dấp của một thư sinh nho nhã. Không được học hành nhưng Trọng Hải lại thuộc làu các tuồng tích tàu hệt như diễn viên của các phường tuồng.
- Hôm nay là sinh nhật thứ mười bảy của con mình.  
Vợ ông Trọng Quyền nhắc chồng. Dù không yêu thương gì vợ, nhưng Trọng Quyền vẫn khen thầm là vợ mình đẹp. Bà vẫn còn dáng dấp của con nhà khuê các, nhất là mái tóc. Thời gian và nhọc nhằn càng làm mái tóc có sức sống và sự lôi cuốn riêng. (Trong làng có lắm người trở thành thi sĩ hoặc phải lấy vợ sớm vì mái tóc của bà).
- Biết rồi, bà ra sông đi, trưa nay không được về nhà.
Bà lửng thửng ra sông rồi một mình chèo đò về hướng chợ, định bụng mua cho con trai bộ quần áo mới và ít thức ăn cho các ngày sắp tới, nhưng sau khi buộc đò bước vào chợ bà mới biết mình không mang theo tiền.
Sau khi vợ ra khỏi nhà, ông Trọng Quyền bảo Trọng Hải:
- Con tắm rửa sạch sẽ rồi lên nhà trên ba có chuyện muốn nói.
Vén tấm màn của gian thờ, mở khóa rồi trao chìa cho Trọng Hải, ông nói: “Từ hôm nay con gánh vác trách nhiệm với Tổ tiên ta “. Chưa một ai được phép bước vào chốn cấm kỵ này, kể cả người vợ.
Trọng Hải đưa mắt nhìn lên bàn thờ, rùng mình hoảng hốt định chạy ra ngoài nhưng bị người cha giữ lại:

“Chớ sợ!“. Ngoài nồi hương và cặp chân đèn bằng đồng, giữa bàn thờ một có khung ảnh bọc bằng vải điều và được quấn quanh ba lần bằng thân một con rắn hổ, đầu rắn tựa vào cạnh trên của chiếc khung, phía trước là chiếc hộp gỗ mun lên nước đen bóng.
Trọng Quyền đứng trước bàn thờ, tay trái đặt lên vai, tay kia nắm lại vung cao thốt lên:
- Phaicươchobangđươđatnuvienam!
Rồi hai tay chắp trước ngực:
- Phaicươchobangđươđatnuvienam!
Và quỳ xuống:
- Phaicươchobangđươđatnuvienam!
Sau khi vái xong, ông đứng lên, bảo Trọng Hải lập lại các động tác mà mình vừa làm. Thật kỳ lạ, hắn vung tay, chấp tay, quỳ bái một cách thành thạo và đọc câu chú bí hiểm kia một cách mạch lạc tựa như hắn đã từng làm công việc này từ tiền kiếp.
Con rắn hổ cựa mình, đưa đuôi lên cao quấn vào thanh tre của mái nhà rồi giương cái đầu khủng khiếp về phía trước. Tấm vải điều của khung ảnh dần tuột xuống, một khuôn mặt đàn bà hiện ra. Bà ta có đôi lưỡng quyền nhô cao, cặp mắt nhỏ và dài, cái cằm nhọn đưa về phía trước, hai má tóp lại cùng những nếp nhăn ăn sâu vào như bị ai cào cấu.

Trọng Quyền mang hộp gỗ mun đặt trên chiếc chiếu trước bàn thờ, hai cha con quỳ xổm đối diện nhau trước chiếc hộp. Sau khi cả hai đồng thanh đọc câu Phaicươchobangđươđatnuvienam, người cha nhìn thẳng vào mắt người con rồi bắt đầu:
- Khi Trọng Thủy sang làm rể ở đất nước này theo lệnh của cha là Triệu Đà có mang theo một số người hầu. Sau khi thực hiện thành công nhiệm vụ cao cả, trên đường đi tìm Mỵ Châu về, ông bị thuộc hạ của Tướng Cao Lỗ giết và vứt xác xuống giếng. Vào đêm trăng sáng nọ, một trong các nguời hầu gái tò mò nhìn xuống giếng và bắt gặp khuôn mặt của ông Trọng Thủy ẩn hiện trên mặt nước, từ đó bà mang thai và mười một tháng mười ngày sau bà sinh một đôi nam nhưng chỉ sống được có một người. Đó là bà Tổ của ta. Triệu Đà hay tin bèn ban thưởng cho bà một vật quý.
Đôi mắt của ông tự hào hướng về bàn thờ rồi tiếp:
-  Ta chính là giòng dõi của người con trai đó. Còn đây là di vật linh thiêng nhất được chính tay bà truyền lại cho muôn đời con cháu về sau.
Kính cẩn mở nắp hộp, ông đưa cho Trọng Hải nhìn cái vật bằng sừng có hình dáng như ngón tay người, giọng thầm thì:
- Còn đây là chiếc móng rùa mà ông Triệu Đà ban thưởng cho bà tổ chúng ta. Chiếc móng này chữa được bách bệnh, cải tử hoàn sinh cho người gặp nạn; con không được dùng bừa bãi, chỉ được dùng khi công việc yêu cầu.
Công việc, nhiệm vụ cao cả linh thiêng của chúng ta là làm thế nào để cho Ông Triệu Đà mỉm cười nơi chín suối và cái kết quả công sức hy sinh của ông tổ Trọng Thủy được trường tồn.
Cha ông chúng ta đã thất bại nhiều lần nhưng ba tin có ngày sẽ được như ý.

Bất chợt có tiếng động lạ phía ngoài nhà. Con rắn hổ vung người bay ra. Tiếng hét kinh hoàng của người đàn bà làm tiếng ve râm ran trên cồn dâu ngưng bặt.
-  Sự việc phải xảy ra như vậy. Con đừng quan tâm, nghe ba nói tiếp. Trước đây trong lễ cúng, ông nội con đã dâng lên bà Tổ các văn tự, trích lục đất đai của xứ này cao đến một gang tay. Nhưng đó chỉ là vật phẩm tượng trưng cần thiết thôi. Bởi thời thế thay đổi nên hôm nay cha con mình đành phải mắc tội với tổ tiên.
Giọng ông trở nên sôi nổi:
- Từ xưa đến nay giòng họ ta mỗi đời chỉ sinh được một người con trai. Nhưng sự nghiệp của ta lại là sự nghiệp lâu dài, không phải ngày một ngày hai mà thành được. Con hãy lưu ý đến hiện tượng này: Nếu trong giai đoạn nào đó có người sinh được trên dưới mười người con, hoặc sinh đôi mà cả hai còn sống thì đấy là dấu hiệu tốt của chúng ta.

***

Ngay chiều hôm đó, ông Trọng Quyền lần theo và gom nhặt các mớ tóc vương vãi dọc theo bờ sông về hướng phía thượng nguồn, mang xác vợ mình về cồn dâu an táng.
Ba ngày sau ông tự tử, khó khăn lắm người ta mới mang được xác ông lên từ giếng bộng ở cuối làng. Kể từ đó, gã-lên-cơn bắt đầu lên đồng.
Trước giờ nhập quan ông Trọng Quyền, cùng lúc có tới mười một chiếc ôtô con cùng về làng. Mười một chàng trai xuống xe, họ tỏ ra ngạc nhiên vì đã quen biết nhau từ trước. Tất cả đều hoạt động kinh doanh và quản lý trong lĩnh vực đất đai, trồng rừng. Họ càng ngỡ ngàng hơn khi được biết bọn họ về làng đều cùng chung một mục đích.  Mười một bà đứng tuổi khoan thai bước xuống nhưng không ai dám nhìn thẳng vào ai. Sau một hồi tò mò quan sát, dân làng nhận ra họ chính là các cô gái đã ôm mo cau bỏ làng từ dạo nào.

***

Tuần vừa rồi nhân ngày cúp điện, tôi về thăm quê. Mau về quê kẻo có ngày hết quê mà. Hỏi thăm thì mới biết cái gã-lên-cơn-triệu-tử-long được một trong số mười một ông anh mang ra thành phố và bố trí làm bảo vệ ở một ban quản lý đền bù. Nghe nói về sau hắn được một đại gia có cỡ ở Hà Nội gã con gái cho vì đã có công cứu sống đứa con gái độc nhất của ông bị rắn độc cắn khi đi du lịch ở một khu sinh thái nào đó.

Chiều hôm qua đi dạo dọc theo bãi biển, tôi bắt gặp hai thằng cu nhỏ giống hệt nhau đang nghịch cát, chung quanh có vài ba gã khoanh tay canh chừng, chắc họ là người bảo vệ cho hai cậu sinh đôi kia. Rồi tôi nghe giọng Hà Nội dịu dàng của một cô gái:” Này, Trọng Trường, Trọng Hoàng, ta về thôi nhé, bố đang chờ đấy!”.
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeThu Sep 27, 2018 9:25 pm


Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Trahoamai

Những Cánh Mai Trong Tách Trà

Trần Mộng Tú

Hà có cái thú thích tìm vào những tiệm bán đồ cũ. Đi tới một thành phố lạ, bao giờ Hà cũng liếc nhìn bên đường xem có tiệm nào kẻ cái bảng Antiques Store là nàng phải tìm thời giờ ghé vào.
Nàng thích chạm tay vào những cái chén trà, cái nón vải, cái áo len, cái dây đeo cổ, cái khung hình hay bất cứ một cái gì trong tiệm bán đồ cũ. Đối với Hà mỗi vật thể đó nó cất giấu cả một linh hồn thiêng liêng và bí mật.
Đôi khi cái mùi quần áo đã chạm vào da thịt lâu năm treo trong tiệm, làm nàng bị dị ứng, nhưng Hà cố bỏ nó sang một bên để chỉ nghĩ và tưởng tượng đến những hình hài đã khoác nó lên người. Cũng may, phần đông những tiệm đồ cổ của tư nhân ở những thành phố nhỏ nơi Hà đi du lịch qua họ ít bán quần áo, chỉ những tiệm có tính cách gây quỹ cho một charity nào đó mới có thôi.

Hôm nay đã cận tết lắm rồi, chỉ còn năm hôm nữa tết đến mà hai vợ chồng Hà còn lang thang ngao du ở Coeur d’alene, Idaho cách nhà bảy, tám tiếng lái xe. Hai vợ chồng chắc là phải thay nhau lái một mạch về nhà, dừng lại ăn đường, đổ xăng, thư giãn tay chân thôi, chứ không ngủ qua đêm nữa. Còn về nhà lo dọn dẹp bàn thờ, nhà cửa cho năm mới đang đến.
Hà nói với chồng:
Em vừa nhìn thấy cái bảng hiệu bán đồ cũ ở góc đường gần tiệm ăn, anh cho em ghé vào xem một chút rồi hãy ra xa lộ.
Đoàn biết ý vợ, cười dễ dãi:
Em thích thì vào, nhưng xe của mình không có chỗ cho em khênh cái gì to tướng về nhà đâu đấy nhé.
Tuy nói thế nhưng anh dư biết Hà chỉ thích đặt tay lên mấy cái vật cũ kỹ nhỏ bé, cầm lên để xuống, đứng tần ngần một lúc, rồi thôi. Nàng hay mua tách trà nhất, nàng đã có tới gần ba mươi cái tách khác nhau mua ở các tiệm đồ cũ rồi. Cái tủ chén ở nhà đã hết chỗ cho nàng chất thêm. Hà đã hứa nhiều lần sẽ không mua nữa, nhưng vào xem thì nhất định nàng phải vào mới hài lòng.
Hà dặn chồng ngồi ngoài xe đọc sách, “Em vào mười lăm phút, ra ngay.” Đoàn vui vẻ, ngả cái ghế thấp ra sau một chút mang mấy cuốn tạp chí ra đọc, đợi vợ.

Cái tiệm Antique này không lớn lắm, nhưng chất khá nhiều hàng. Hà cầm lên bỏ xuống ngắm nghía đủ mọi thứ. Mỗi thứ đẩy trí tưởng tượng nàng đi thật xa hiện tại. Sợi dây đeo cổ này chắc phải thuộc về một phụ nữ giầu có nào từ vài chục năm về trước. Những hạt đá đỏ thẫm lấp lánh được gắn vào sợi dây vàng rất mỹ thuật, tuy cái móc đã mất mà giá khá cao trong một của tiệm như thế này. Hà tưởng tượng ra nó được đeo vào một chiếc cổ mịn màng nõn nà như cổ con thiên nga. Người phụ nữ đó bây giờ ở đâu, nàng còn sống, da mồi, tóc bạc, cổ nhăn nheo và đang ở trong một khu nhà già hay nàng đã nằm ngủ vùi trong lòng đất? Cái khăn quàng cổ bằng nhung lam đã bạc màu, nhưng đường ren gắn ở hai đầu khăn thì không hề mất một sợi chỉ nào. Ai choàng chiếc khăn này trong một buổi dạ vũ nhỉ; đôi giầy bạc kia nữa, chắc nó đi vào một bộ với nhau nên người ta mới bày cạnh nhau. Hà nhìn thấy ngay hình ảnh của người con gái mới lớn, má đỏ môi hồng, đang ngã vào vòng tay người đàn ông nàng yêu trong một vòng luân vũ. Ô, còn những khung hình này nữa, có cái hình đã tháo đi chỉ còn lại khung, cũ kỹ và trầy trụa, có cái còn nguyên hình của một cặp vợ chồng mặc quần áo của thế kỷ có Nã Phá Luân; rồi cái này, hình em bé gái độ lên 10, với chú thích chụp năm 1911. Cả trăm năm rồi cơ à? Sao cái hình lại lưu lạc tới đây. Con cháu không giữ à?
Hà lan man bước len lỏi giữa những kệ hàng, cầm lên, bỏ xuống, thứ này thứ nọ, ngắm nghía và tưỏng tượng. Cuối cùng nàng cũng tới kệ bát đĩa. Chẳng cái nào đủ bộ cả. Bát lớn, bát nhỏ, đĩa và chén, ly thủy tinh nữa, chủ tiệm cứ xếp đầy lên kệ chẳng theo một thứ tự nào cả. Có những cái mới tinh, chẳng có dấu vết gì là đồ cổ. Nhưng có những cái trông lạ lắm.

Hà cầm lên một cái tách trà nhỏ, có cả đĩa bên dưới. Hà ngắm nghía, lật trước, lật sau, ngẫm nghĩ: “Tách trà này chắc của Trung Quốc hay Việt Nam”, vì Hà tự nhiên thấy nó thân thuộc quá, cả hai đều có men xanh thật nhạt và vẽ một cành mai vàng rất mỹ thuật. Trên tách trà, phía ngoài vẽ nguyên một cành mai thếp vàng, phía trong lòng tách vẽ hai bông mai rơi trong tách, không có lá, nét vẽ tinh xảo trông như hai bông mai đang nổi trên mặt nước. Ở chiếc đĩa nhỏ kèm theo một bông mai lớn trên một cạnh đĩa, đầy đủ năm cánh với những đường gân của cánh hoa. Hà tự nhiên thấy rùng mình vì cái tinh xảo của những cánh mai.
Bỗng một giọng đàn ông cất lên sau lưng làm nàng giật mình, tuy giọng nói đó nhẹ nhàng.
Bà nên mua cái tách này, nó đợi bà đến mang nó về đấy.
Hà quay hẳn người lại. Trước mặt nàng là một người đàn ông Á Châu, mặc dù cách phát âm tiếng Anh của ông khá giống như người bản xứ. Ông trạc ngoài sáu mươi, tóc bạc, hơi gầy, trông khá tươm tất, nhưng buồn buồn ở hai con mắt.
Hà chưa kịp nói gì thì ông ta đã nói tiếp:
Cái tách này ở trong một bộ sáu cái, hai cái lớn, bốn cái nhỏ, có ấm nữa. Nhưng do chiến tranh, cái thì mất, cái thì vỡ, cái ấm thì phải bán lúc cần tiền mua thuốc cho con. Khi hết chiến tranh, hết tù đầy, trở về, chỉ sót lại được có một cái nhỏ, may còn cả đĩa. Chủ nhân quý nó lắm, nhưng khi ông ta mất đi, con cái mang vật dụng của ông đem cho, nó cũng bị vứt chung trong đó. May mà không bị sứt mẻ gì.
Hà lơ đãng không để ý lắm đến lời ông kể lể, nàng còn mải chú ý nhìn giá tiền ghi, thấy hai mươi đồng. Nàng nghĩ thầm, mọi khi mình mua những cái tách lẻ ở tiệm đồ cũ như thế này, thì giá cao lắm cũng chỉ khoảng mười lăm đồng thôi.
Như đoán được ý nghĩ của Hà, người đàn ông nói:
Tôi biết là giá cao, nhưng tôi cứ để như thế cố ý không muốn ai mua, để chờ bà. Tôi sẽ hạ xuống mười lăm đồng thôi. Bà cứ lấy đi.
Hà vẫn cầm cái tách cái đĩa bằng cả hai tay. Nàng thấy nó đẹp quá, nếu ông chủ tiệm muốn bán hai mươi đồng thì nàng vẫn mua.
Nàng nói: Cám ơn ông, chắc chắn là tôi mua rồi. Tôi thích sưu tầm tách trà lạ và đẹp. Cái tách trà này tôi nghĩ là đẹp nhất trong số tách tôi có ở nhà.
Người đàn ông mỉm cười, nói xã giao mà như thật: Tôi biết hôm nay bà sẽ ghé qua đây, tôi đợi suốt từ sáng đến giờ để trao nó cho bà, vì bà biết nhìn ra cái giá trị của nó. Trao được nó cho bà tôi rất yên tâm. Người đàn ông nói xong, rút cái bút trên túi áo ra, sửa lại giá tiền của cái chén, rồi lại nói: Chắc ông nhà đang chờ bà ngoài xe. Chúc bà về nhà bình an. Bà còn về lo sửa soạn đón năm mới. Năm nay bà có cái tách mai vàng cho chén trà đầu năm, sẽ may mắn nguyên năm.
Vâng, cám ơn ông, chắc ông cũng ăn Tết phải không? Ông là người Hoa hay người Việt. Người đàn ông chỉ mỉm cười, không trả lời câu hỏi của Hà, đưa tay chỉ nàng ra chỗ quầy tính tiền.
Hà có cảm tưởng ông chủ tiệm này như một người mà nàng đã biết từ lâu lắm rồi. Nàng cố tìm trong trí nhớ xem ông ta có phải là bạn của cha mẹ mình không? Chắc là không? Vì cha mẹ Hà đã mất trên hai mươi năm rồi và khi mất cũng bằng trạc tuổi ông này bây giờ, thì làm sao mà họ là bạn với nhau được. Còn nữa, ông này chắc gì là người Việt. Cách phát âm tiếng Anh của ông ấy cho Hà biết ông ấy không phải đồng trang lứa với cha mẹ nàng.

Hà đặt chiếc tách trà lên quầy tính tiền, cô thâu ngân tóc vàng nhìn giá tiền trên cái tách trà, hơi cau mày lại.
Cô nói trống không: Lạ nhỉ, cái tách trà này, ông chủ tôi đề giá là mười lăm đồng, nhưng khi nào tôi ra thu dọn, lau bụi tôi cứ thấy bị sửa lại là hai mươi đồng. Vì giá cao nên chẳng ai mua. Bây giờ bà mang ra đây nó lại trở về giá mười lăm đồng.
Hà cười nói:
Số tôi may, hôm nay chính ông chủ thấy tôi cũng là người Á Đông nên ông bớt cho tôi năm đồng, ông ấy lấy bút mới sửa tức thì đấy.
Cô thâu ngân tròn mắt:
Ở đây làm gì có người Á Đông nào. Chủ tiệm là người Mỹ, tôi cũng là người Mỹ, hơn nữa ngày hôm nay chỉ có mình tôi ở đây, ông chủ bận không ra được. Bà có đùa cho vui không đấy?
Hà nghe lạnh buốt sau lưng. Nàng quay đầu lại, cố nhìn về phía kệ để bát đĩa, tuyệt nhiên không có bóng một ai, sát sau lưng kệ là bức tường ngang, chẳng có cánh cửa nào. Thế người đàn ông đó ở đâu ra? Nàng im lặng hấp tấp trả tiền rồi đi như chạy ra xe.

Suốt trên đường về nhà, Đoàn lái xe, ngưng lại, nghỉ giải lao. Hà cứ im lặng, chỉ trả lời những khi Đoàn hỏi làm Đoàn phải ngạc nhiên tưởng Hà bệnh.
Em sao vậy, em bệnh à?
Không, em không sao cả. Hà nói dối.
Nàng đang hoang mang không biết cái ông Á Đông nói chuyện về cái tách trà hoa mai ở đâu ra. Tiệm chỉ có bốn bức tường, không phải là một cái nhà ở, nơi đó không có thêm gian nào ngoài gian bán hàng. Mà sao ông ấy lại sửa giá tới, sửa giá lui để chờ nàng tới mua. Sao ông biết nàng sẽ tới.
Bỗng Hà thấy đau quặn ruột, nàng nghĩ ra rồi. Ông ấy là người Việt Nam. Ông ấy đã đi qua chiến tranh, qua mất mát, qua tù đầy, qua Mỹ và qua đời rồi. Cái tách trà này trước đây là của gia đình ông. Ông muốn trao cho một người biết trân quý nó. Hà ôm chặt cái gói giấy vào lòng, nước mắt ràn rụa.
Nàng đã nói chuyện với một hồn ma, một cái hồn tha hương thất lạc tìm về quá khứ trong những ngày cuối năm.
Đêm ba mươi, Hà thắp nhang, pha trà để lên bàn thờ cha mẹ xong, nàng mang cái tách hoa mai vàng ra, cầm lên ngắm nghía. Hà thấy lòng nàng nao nao xúc động, nghĩ đến người đàn ông Á Đông trong tiệm đồ cũ. Ông có thật hay không? Hay nàng chỉ tưởng tượng ra vào những ngày cuối năm âm lịch, những ngày mà hồn nàng chao đảo nhất.
Nàng xót xa lan man nghĩ tới những người đàn ông Việt Nam đã đi qua chiến tranh, qua tù đầy, qua một nước khác không phải quê hương mình để sống nốt những ngày còn lại rồi qua đời ở quê người. Toàn là những vượt qua thống khổ, ngậm ngùi.

Nàng rót trà vào cái tách hoa mai, cúi xuống, nói nho nhỏ:
Xin mời ông ngụm trà đầu năm trong cái tách mai vàng gia bảo này.
Hà đợi cho tàn hết một tuần nhang, mở cửa ra trước hiên nhà, cầm tách trà rót xuống mặt đất tân niên.
Những cánh mai trong tách như theo nhau trôi vào lòng đất.

Trần Mộng Tú
Giao Thừa Giáp Ngọ 2014
Nguồn: http://etruyen.com
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeSun Sep 30, 2018 7:35 pm

.

Lời Nguyền
Khái Hưng (1896-1947)


Đồ sộ, chót vót trên đỉnh đồi cao, đồn Vụ-bản hách dịch nhìn xuống con đường đá nối Nho-quan với Hòa-blnh. Trên một quả đồi đối diện và thấp hơn, khu trại giam chính trị phạm náu mình trong hàng dậu dầy nứa nhọn và hai hàng cọc chăng giây thép gai. Phía dưới là một cái thung lũng nhỏ với con sông Vành quanh co uốn éo như con rắn dài vận khúc bạc lướt mình trong cỏ hoang, rừng rậm. Bên kia sông là phố và chợ Trào, dăm chục nóc nhà vừa lợp ngói vừa lợp tranh quây vuông lấy bốn cái quán gạch trống rỗng.

Xa xa về phía Tây Nam, dẫy núi Hoành Sơn sừng sững như một bức thành kiên cố đứng ngăn. Buổi sáng nó chìm biến vào trong sương dầy trắng đục, buổi chiều nó lờ mờ trong sương lam bốc lên như khói. Buổi trưa nó lấp lánh ném ánh bạc của những cây ngân diệp mọc bên sườn. Về phương Đông bắc, và chỉ xa chừng dăm cây số, một quả đồi cao và dài đứng án ngữ như một bức bình phong. Quanh đó những núi đá trắng và đen mọc lởm chởm, với những hình thù cổ quái. Còn phía Tây bắc là những đồi rậm liên tiếp những rừng sâu, cỏ sắc bao vây lấy từng khu ruộng nhỏ hẹp và dài.

Vùng ấy hằng ngày yên ngủ để chờ đợi những hồi kèn rời rạc báo giờ từ vòm đồn tỏa xuống, cả những hôm phiên chợ tắp nập, nó cũng yên lặng buồn tẻ với những người Mường ít cười ít nói: Họ lững thững gánh gạo, gánh măng, gánh lợn, gà, vịt, ngỗng ra chợ bán, rồi lại lững thững trở về làng vời một ít muối và các thức đồ dùng của người Kinh đem từ vùng xuôi lên. Họ như chán nản, chả buồn mặc cả nài giá bao giờ.
Cái trạng thái u huyền giữa một cành thiên nhiên hùng vĩ, khiến Khanh, một tù nhân chính trị, tưởng tượng ra một thần bí gì rùng rợn ngày đêm bay lượn trên không để đe dọa vùng này. Một hôm vác ống bương ra suối lấy nước, y ngỏ ý nghĩ đùa bỡn ấy với người lính kèn. Thì kinh ngạc xiết bao, người kia hãi hùng se sẽ đáp lại:
- Phải, một lời nguyền.
Người lính cũng chỉ thốt ra một câu vắn tắt. Rồi như khiếp sợ một cái gì có thể sắp xảy tới, y im bặt.
Đêm hôm ấy trong khi nằm lịm trên giường lát nứa, nghe bài kèn tám giờ, Khanh lại liên tưởng đến người lính kèn và câu chuyện đương tò mò khao khát muốn biết: Một lời nguyền! Bài kèn buồn rời rợi với những âm thanh trầm trầm như những lời ai oán của lòng người sau bao phen uất ức! Hay đó là lời nguyền đêm đêm lên tiếng làm vang động làn không khí âm u nơi đồi núi?
Tà tà ta ta tí a ta ta...

Lời nguyền của những kẻ bỏ xác nơi ma thìêng nước độc chốn sơn lâm? Mới tuần lễ trước Khanh đi đưa một người bạn giam đến nơi yên nghỉ cuối cùng: bên sườn đồi dưới bóng một cây lao xao cành lá rườm rà luôn luôn thì thào lời oán trách trong gió thoảng qua. Trong đám dân Kinh bên phố, cũng như trong hàng ngũ binh lính bên đồn và anh em chính trị trong trại giam, thỉnh thoảng lại một người từ giã cõi nhân gian, sau những cơn sốt nóng sốt rét mê sảng. Phải chăng họ đáp lại tiếng gọi thìêng liêng, của một lời nguyền độc địa tự đời nào vang lại?
Hồi kèn đã dứt. Từ đó, trong tiếng thanh sắt trên đồn, tiếng mõ tre ở các điểm canh, Khanh đều cảm thấy có liên can tới cái lời nguyền ghê gớm nào đó của người xưa. Qua kẽ rào nứa, một vài chấm lửa bên sông còn le lói, lập lòe. Đó là những dấu hiệu mong manh của sự sống trong một vùng như chết lịm dưới màn sương. Khanh ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Và y mê thấy con thành đanh đỏ mỏ từ trên trời cao bay sả xuống mổ vào ngôi mộ người bạn đồng trại, chơ vơ bên sườn đồi dưới bóng cây lao xao ủ rũ.

Nhưng câu chuyện «Lời nguyền » một hôm Khanh đã được người linh kèn thuật lại cho nghe trong cái lều canh lúa của người Mường.
Sáng hôm ấy, ra tới suối, Khanh thấy hiện ra một cảnh tượng rất nên thơ: Bên kia dịp cầu tre, trong một khu ruộng khô đất nhỏ, sáu cô Mường, áo cánh trắng xiêm dài xanh đương chậm rải gieo ngô. Từng đôi, người đi trước cầm cây hóp uể oải chọc xuống đất một lỗ, người theo sau uể oải bỏ rơi vào đó một hạt ngô. Họ đi thong thả, làm việc rời rạc như biểu diễn trên sân khấu cho khán giả ngắm nghía cái điệu bộ nhịp nhàng của họ. Ngồi trên lều cao, hai chân quấn « xà cạp » đá đưa đánh dịp, Chín-bảy - tên gọi tắt con số 1297 của người lính kèn - đương phùng má thổi bài « la mát ». Xúm chung quanh y, trên các bực thang bốn cô Mường lắng tai kính cẩn ngồi nghe.
Thấy Khanh đến gần, Chín-bảy vội rời cái kèn, bước xuống đón tiếp, vẻ mặt rạng rỡ, dáng bộ dương dương đắc chí như một con gà sống giữa đám gà mái tơ vậy. Trong khi hai người nói chuyện, các cô Mường chỉ mỉm cười yên lặng đứng nhìn. Hỏi câu gì các cô cũng làm thình không đáp. Chín-bảy bảo Khanh:
- Các nàng chỉ biết có hai việc: cười và hút thuốc lào. Rồi anh xem!
Quả nhiên lúc y đi lấy một cái điếu cầy lớn đem ra bỏ thuốc đánh diêm hút, tức thì cả mười cô đều bỏ việc cười rú lên, chạy ùa lại. Họ xếp thành một vòng tròn, lần lượt truyền cho nhau cái điếu cầy miệng rộng che kín nửa mặt mà rít từng hơi dài. Hết mồi thuốc ấy thay mồi thuốc khác, cái điếu đi vòng tới vài chục lần và bao diêm đánh đã gần cạn. Và cô nào cô ấy ngây ngất mỉm cười đầu lảo đảo.

Khi các cô nàng lại quay về với công việc gieo ngô của họ, Khanh theo Chín-bảy lên lều ngồi nói chuyện, và vui vẻ hỏi đến việc gia thất của người bạn quân nhân.
- Tôi đã có vợ ở vùng xuôi, y đáp, nhưng thế nào rồi tôi cũng phải lấy một người vợ nữa ở trên này.
Và y thêm: «Cũng như phần đông anh em «nhà binh » ở đây. Đó là một việc bất đắc dĩ».
- Việc bất dắc dĩ? Khanh hỏi, nghĩa là không được phép đưa vợ con ở vùng xuôi lên đây?
- Không phải không được phép, nhưng vì đã có lời nguyền.
Khanh bỗng thấy rùng rợn. Người lính kèn lại nhắc tới « lời nguyền » ghê gớm. Chưa kịp hỏi thêm, thì Chín-bảy đã đưa mắt âu yếm nhìn theo các cô nàng áo trắng xiêm xanh hoạt động dưới trời thu mà kể cho bạn nghe câu chuyện tương truyền trong hàng đội ngũ.

Ngày xưa, thời còn chưa chịu phục tòng người Pháp, dân Hoa-bình chỉ vâng theo mệnh lệnh của các quan lang; người Kinh cũng ít khi lên vùng này buôn bán. Đi bắt buộc dân Mường phải theo pháp luật của mình và đóng các thứ thuế như dân Trung châu, một mặt người Pháp đưa những ông quan lang có thanh thế nhất trong các họ lớn, như họ Đinh, họ Quách ra làm chánh quan lang hay tuần phủ đứng cai quản tỉnh Hoa-bình, một mặt họ lập nên những đòn binh kiên cố ở khắp các yếu điểm trong địa. hạt với những toán lính khố xanh Trung Châu không biết tiếng Mường, không thuộc phong tục Mường. Mục đích của họ là để đàn áp dân Mường và để tránh sự thân thìện giữa nhà binh và dân bản xứ.
Đồn Vụ-bản là một trong những đồn binh kiến thìết theo chương trình thống trị. Nó án ngữ con đường Nho Quan - Ninh Bình. Và đóng giữa giang san họ Quách, nó lại có thể kiểm soát những hành động của những ông quan lang có oai quyền ấy.
Với những nhiệm vụ to tát như thế, viên quản mà người Pháp tín nhiệm cho về coi đồn, ta có thề tưởng tượng hách dịch đến bực nào.

Có một ông, ông quản Tăng, không những hách dịch, mà còn bệ vệ và ăn ở hành động theo lối Âu Tây y như một quan binh Pháp vậy. Y nằm giường Hồng kông, ăn cơm tây. Lúc nào sang phố y cũng đóng trào phục mới với hàng huy chương rực rỡ trên ngực. Tay y cầm roi da, quay tít, miệng y huýt sáo một điệu âm nhạc nhà binh. Một con chó tây kếch sù đi bên cạnh y; gặp nhà nào quen thuộc của chủ nó là nó chạy sồng sộc vào khiến lũ trẻ hết cả hồn vào bảo nhau:
- " Quan quản! »
Quan quản! Tiếng ấy oai vệ như tiếng quan Sứ ở tỉnh vậy. Quan quản là chúa tể vùng này. Quan châu, một quan lang, đối với y, chỉ như một công chức bản xử đối với quý quan. Bao nhiêu công việc trọng đại đều ở trong tay quan quản: như thu thuế thợ, thuế đò, thuế thân, thuế điền. Quan châu chỉ là một người giúp việc.

Nhưng tiếng «quan quản» hình như cũng chưa vừa lòng y. Một hôm, người ta không hiểu vì đâu, tiếng ấy bỗng đổi ra « quan đồn » rồi cứ theo cái đà ấy, chẳng bao lâu nó lại biến chuyển thành « Cụ lớn ».
Cụ lớn hét ra lửa! Bao nhiêu là môn hạ! Suốt ngày thì thọt trong đồn những kẻ nấp bóng Cụ lớn. Thôi thì chẳng thìếu gì lễ lạc, tết nhất, mùa nào thức ấy. Dùng không hết, « Cụ lớn » phân phát cho binh lính.
Về nhậm chức mới được hai tháng, quan quản đã lấy một cô nàng hầu người Kinh con một thương gia có tiếng bên phố chợ. Rồi cách đó nửa năm quan lại kén luôn một lúc hai cô nàng hầu người Mường nữa.

Cái việc lấy nhiều vợ ấy cũng không tốn kém gì cho quan vì bọn họ đều là con nhà khá giả. Có một điều khiến họ lo lắng sợ hãi, mỗi khi tưởng tới: "Là chẳng chóng thì chầy thế nào bà lớn quản cũng lên đây thăm chồng. Lúc bấy giờ nếu cái tin vợ nọ con kia đến tai bà, thì liệu bà có để cho yên không." Mà cứ theo lời huyên truyền và lời nói úp mở của quan quản thì bà là con nhà thế gia đại tộc. Ông thân sinh ra bà làm Tổng đốc và đã hồi hưu. Người ta khen: «Thực là môn đăng hộ đối!» Vì quan quản nghe đâu cũng là con một vị đường quan. Y thường kể chuyện thời niên thìếu của y cho mọi người nghe. Nhà y giàu sang và y rất được chiều chuộng. Mới mười hai tuổi y đã cưỡi ngựa, bắn súng, và chỉ thích có một nghề binh. Vì thế lớn lên y đã bỏ học để nhập ngũ «làm quan quản » chơi. Bao giờ đến đoạn này y cũng thêm: « Làm quan văn thì biết bao giờ lên đến ngũ phẩm, thế mà làm quan võ tôi mới ngoài ba mươi tuổi đã chánh tam rồi!».
Có lần y tưởng tượng ra cả một thìên tiểu thuyết để tả cái gia thế nhà y, bịa đặt ra những nhân vặt đẹp đẽ và các phương diện ăn chơi hào phóng hay đạo mạo nho phong. Người được y tả tĩ mỉ chu đáo nhất là Cụ cố và Bà lớn. Cụ cố là một hưu quan chỉ thích đánh tổ tôm và uống chè tàu. Cụ ở một cái nhà lầu kiến trúc kiểu Tây. Trước mặt là cái vườn hoa trồng đủ các thứ hoa quý và lạ. Trên giàn thì treo đủ các thứ phong lan đi kiếm từ các miền Thượng du đem về. Còn Bà lớn thì tính rất tốt rất rộng lượng, để mặc quan lớn muốn yêu ai thì yêu. Một mình bà lớn trông coi mấy trăm mẫu ruộng thượng đẳng điền, người ăn người làm tấp nập quanh năm, nên không rảnh rang mà lên thăm quan được. Nào đã hết đâu, quan lại còn có một người em trai đã đậu tú tài tây và đương theo học trường Luật và một người em gái nhan sắc tuyệt trần hiện còn đương kén chồng. Tóm lại nhà quan lớn là một nhà danh giá và sung sướng vào bực nhất ở Bắc Hà.

Một buổi sáng người ta thấy đến phố chợ Trào một ông già râu tóc hoa râm và một người đàn bà vào chạc ngoài ba mươi tuổi. Cả hai đều y phục quê mùa, ông lão mặc cái áo cánh đũi nhuộm vỏ xó và một cái quần nâu sắn cao đến đầu gối. Người đàn bà mặc áo tứ thân mầu nâu bã với miếng đổi vai bằng lụa thâm, một cái váy chồi nhuộm bùn và một cái yếm trắng cổ xẻ với hai giải màu hoa hiên đã cũ.
Họ hỏi đường sang đồn, xuống phà qua sông, khó khăn nặng nhọc leo cái dốc cao, gồ ghề. Được một quãng ông già lại đặt cái tay nải nâu xuống ngồi hổn hển và thì thầm nói chuyện với người kia. Đứng trên vòm canh, người lính gác nhìn theo họ và nghĩ thầm: «Lại một ông già và một mẹ đi lên thăm con thăm chồng.»
Đương gò lưng leo nốt đoạn cuối cùng của cái dốc dài tưởng không bao giờ đến đỉnh, thì hai người bỗng dựt mình vì mội tiếng hô lớn từ trên vòm chòi ném xuống. Họ ngửng đẫu sợ hãi nhìn lên.
- Hai người nhà quê hỏi ai?
Không phải vì hai người kia ăn mặc quê mùa mà người lính gọi họ là «nhà quê.» Đối với quân đội, vì thói quen bắt chước người Pháp, chỉ có ba hạng người Việt Nam: nhà binh, nhà pha, và nhà quê. Những người không phải nhà binh và nhà pha đều là nhà quê. Vì thế, một thìếu nữ y phục tân thời, nếu nghe một chủ lính canh kêu là «nhà quê» thì đừng nên lấy làm lạ và phật lòng.
- Thưa thầy, chúng tôi vào thăm ông quản.
Người lính hỏi lại để chữa câu nói hỗn của bọn nhà quê:
- Vào hầu quan có việc gì?
- Bẩm chúng tôi là người nhà.
Chú lính canh cho người vào trình quan. Một lát sau người này ra cổng hách dịch quát:
- Người nhà thế nào mới được chứ?
- Bẩm bẩm tôi là... tôi là..., Người đàn bà thấy ông lão ấp úng lúng túng liền đỡ lời:
- Thầy vào trình hộ rằng có ông cụ và người đàn bà ở nhà quê ra thăm.
Người lính gắt:
- Ông cụ! Nhưng ông cụ có họ hàng thế nào với quan?
- Thưa ông cụ... sinh ra quan, còn tôi là vợ... quan.

Người lính hơi có vẻ sợ hãi vội vàng quay vào đồn, thì vừa gặp ông quản đứng trong sân ngó nhìn ra hỏi;
- Hai bố con lão nhà quê đến xin gì thế chú?
- Bẩm, bẩm quan...
Người lính không dám nói dứt câu.
- Đuổi cổ chúng nó ra!
Câu quát tháo to quá khiến ông già và người đàn bà cũng nghe thấy. Và nhân lúc cổng đồn mở, họ xông vào trong sân. Thấy thế viên quản liền thét:
- Bọn nhà quê kia đi dâu? Có biết nơi này là gì không mà dám xông xáo hử? Mất đầu như chơi, biết chưa? Tống cổ chúng nó ra!
- Tăng! Anh Tăng!
Ông già và người đàn bà chỉ kêu được một tiếng thì đã bị hai người lính đẩy bừa ra khỏi cổng đóng sập cánh cửa lại.

Ông lão già và người đàn bà lại lủi thủi xuống dốc. Họ cùng uất ức đến cực điểm nên không ai nói với ai một câu, cả hai cùng chôn sâu nỗi căm hận trong lòng.
Ở chân đồi, ngay bên sông, có một ngôi đền thờ Mẫu. Người đàn bà mua vàng hương vào lễ, quỳ khấn rất lâu, thì thầm kể lể hết nỗi niềm tâm sự với Mẫu. Khi ra đường, nàng thấy bố chồng vẫn ngồi y nguyên một chỗ, mắt đỏ ngầu đăm đăm nhìn giòng sông chảy mạnh, quay nhanh cái guồng nước sừng sững in lên nền trời trong.
- Thôi đi về, thày!
Ông già thong thả đứng dậy. Nhưng ông đi rẽ xuống ruộng chứ không qua phà. Ông bảo con dâu:
- Tao không muốn gặp người lái phà, vì tao đã trót bảo cho nó biết rằng tao là bố thằng Tăng.
Người đàn bà cũng lẳng lặng đi tbeo ông. Hai cha con, men bờ ruộng sang một khu rừng lao xao, qua một cái cầu tre bắc trên suối, rồi đến ngồi nghĩ ở một bãi cát sỏi bên sông. Sau trận mưa to đêm hôm trước nước nguồn kéo về chảy ào ào như thác. Những thân cây từ rừng đổ về nổi lềnh bềnh, và bị giòng nước phăng phăng cuốn đi.
- Dẫu sao thì cũng ăn nắm cơm cho đỡ đói đã thầy ạ..
- Mày cứ ăn trước đi. Tao không đói.

Ông già đứng lên, ra sát bờ sông đứng vịn vào mộr thân cây lao xao. Bỗng ông nghiêm nét mặt dữ tợn nhìn giòng sông, thốt lời nguyền độc:
«Từ nay đứa nào còn lên đây thăm chồng thăm con thì chết như thế này».
Dứt lời ông gieo mình xuống sông tự tử. Và thân ông cùng với các thân cây, bị nước nguồn vô tình cuốn đi...

Từ đó lời nguyền vẫn thìêng. Những người cha, người vợ lên đây thăm con, thăm chồng, khi trở về đều ốm nặng rồi chết.
Và những binh lính trên đồn, những dân Kinh bên phố đều sống dưới sự đe dọa và sự thực hiện của lời nguyền.
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeWed Oct 03, 2018 8:32 am

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Cai-Cach-Ruong-Dat-1956-640x450

Bí Mật Của Nhà Ngoại Cảm
Truyện Ngắn – Sơn Tùng   

Vụ cháy ngôi biệt thự Hồng Dương vào ngày Mùng Một Tết không chỉ làm chấn động thành phố Đà Lạt mà còn gây xôn xao cả nước. Ngay sau khi hỏa hoạn xảy ra, các cơ quan an ninh và thông tin văn hoá đã nhanh chóng làm nhiệm vụ, ngăn chặn việc phổ biến tin này, nhưng chỉ ngày hôm sau, trong hệ thống đảng, từ trung ương tới các cấp bộ địa phương, mọi người đều hay biết với những tin tức khá đầy đủ.

Ngôi nhà hai mươi phòng của tướng Vũ Sơn đã bốc lửa vào lúc nửa đêm Mùng Một Tết, cháy cho đến chiều hôm sau, khói vẫn còn âm ỉ bốc lên từ những gì còn lại. Sở Phòng Cháy Chữa Cháy thành phố đã huy động tất cả phương tiện cơ hữu để cố đàn áp ngọn lửa nhưng chính họ đã bị ngọn lửa đẩy lui để bảo vệ khu rừng thông bên ngoài và các ngôi nhà chung quanh khỏi bị cháy lan.

Thiệt hại vật chất rất to lớn, chưa thể biết chính xác. Bốn năm trước, Thượng tướng Vũ Sơn đã cho khởi công xậy dựng ngôi biệt thự này trên một đồi thông nhìn xuống Hồ Tuyền Lâm thơ mộng. Việc xây cất đã kéo dài hai năm mới hoàn tất với những vật liệu hiếm quý đắt tiền, với những tiện nghi xa hoa hiện đại. Các phòng ốc được trang trí với những báu vật mà Biệt điện của Vua Bảo Đại trước đây cũng chưa có. Tất cả nay đã thành tro than.

Nhưng thiệt hại nhân mạng cũng rất hãi hùng. Sau cơn tung hoành của lửa khói, khi các nhân viên chữa cháy đầu tiên vào được bên trong, họ đã chứng kiến một cảnh tượng giống như nơi đây vừa là mục tiêu của một trận pháo kích. Quá nhiều xác chết. Xác chết rải rác khắp nơi, nhưng nhiều nhất là tại căn phòng lớn được gọi là “hội trường”, nơi tổ chức những cuộc liên hoan, ca vũ.

Khi hỏa hoạn xảy ra, căn phòng này có khoảng năm mươi người đang tham dự tiệc liên hoan đầu năm. Vợ chồng tướng Vũ Sơn và người con trai, tổng giám đốc một công ty vận chuyển, cũng nằm trong số nạn nhân. Những nạn nhân khác đều là những người có quyền thế và có nhiều triệu đô-la mà ngôn ngữ thời thượng gọi là các “đại gia”, không những chỉ ở Đà Lạt mà còn từ Hà Nội và Sài Gòn lên đây ăn Tết do lời mời của gia chủ.

Nguyên nhân gây ra vụ hỏa hoạn chưa được biết rõ, nhưng đã có lời đồn về một nghi án đốt nhà vì người ta ngửi thấy mùi xăng và tìm thấy vài tang vật đang được phòng giảo nghiệm khoa học hình sự phân tích để phanh ra manh mối.

Những thám tử giỏi nhất từ Hà Nội đã được phái tới Đà Lạt để tăng cường cho Sở Công an thành phố mở cuộc điều tra. Nhưng càng điều tra người ta càng có thêm nhiều câu hỏi mà không có câu trả lời. Nếu đây là một vụ đốt nhà thì thủ phạm là ai? Làm cách nào hắn đã đột nhập ngôi biệt thự có nhiều hệ thống an ninh mà không bị phát hiện? Ai đã khóa trái các cửa “hội trường” khiến không một người nào có thể thoát thân? Cuộc điều tra càng trở nên phức tạp khi phòng giảo nghiệm khoa học hình sự xác nhận những vật liệu gây cháy là của quân đội và thủ phạm phải là người ở trong quân đội hay đã từng là bộ đội. Và cuối cùng, động cơ của vụ đốt nhà táo bạo này là gì?

Nhiều người đã bị điều tra, thẩm vấn. Cuối cùng, sáu tháng sau, công an đã bắt một người không ai ngờ: nhà ngoại cảm Phan Quang Thế.

Ông Thế đã nổi tiếng khắp nước từ mấy năm nay như một người có “ngoại cảm” với cõi âm, có thể nói chuyện được với những linh hồn ở thế giới bên kia, và đã giúp nhiều gia đình tử sĩ tìm được hài cốt người thân bị vùi chôn đâu đó trong cuộc chiến đánh chiếm miền Nam đã qua.

Ngoài 60 nhưng nhà ngoại cảm Phan Quang Thế trông già hơn tuổi, với mái tóc bạc phơ thưa thớt trên đầu, với cặp kính lão ít khi rời khỏi đôi mắt nhỏ trên gương mặt trầm tư mang nhiều nếp nhăn. Ông có thân hình mảnh khảnh và chân đi khập khiễng, nghe nói do một tai nạn lưu thông đã lâu. Ông ít nói và nghe giống như giọng những người miền Bắc mới vào Nam sau ngày chiến tranh chấm dứt, nhưng ông Thế cho biết ông là dân “Bắc di cư” năm 1955.

Từ khoảng giữa thập niên 1990, ông Thế làm việc tại tiệm hớt tóc “Thời Danh” ở khu Ngã Bảy, Sài Gòn. Gọi là “tiệm” nhưng “Thời Danh” chỉ là một cái chái nhỏ trong con đường hẻm được che bằng vài miếng tôn dựa vào bức tường một căn phố ba tầng, và có hai ghế cho khách hớt tóc. Người chủ tiệm làm một ghế và ông Thế một ghế. Ông ta khéo tay và làm việc cần mẫn nên có nhiều khách.

Tiệm hớt tóc là nơi hàng ngày thu nhận nhiều tin tức thời sự, do khách đem tới, và cũng là nơi phát đi nhiều tin tức, do thợ hớt tóc truyền ra, nhưng ông Thế chỉ nghe nhiều hơn là nói. Ông ta có đời sống thầm lặng và kín đáo. Không ai biết nhà cửa ông ở đâu và gia cảnh ra sao. Khi có người hỏi thăm, ông chỉ nói quấy quá là sống độc thân với một người bạn già cùng cảnh ngộ.

Khi những câu chuyện về các nhà “ngoại cảm” được loan truyền, tiệm hớt tóc “Thời Danh” cũng là nơi thu nhận và phát đi nhiều tin tức nóng hổi, và khác với thường lệ, ông Phan Quang Thế có vẻ quan tâm và hỏi han tìm hiểu.

Vài tháng sau, ông Thế bỏ nghề hớt tóc và không còn xuất hiện ở khu Ngã Bảy. Bẵng đi một thời gian khá lâu, khi những người thường lui tới tiệm “Thời Danh” không còn nhắc nhớ đến ông thì có tin ông đã trở thành một nhà “ngoại cảm” sau khi tiếp thu một phép lạ khiến ông có thể nói chuyện với những linh hồn và đã giúp tìm được nhiều hài cốt của những bộ đội chết trên chiến trường miền Nam trước đây. Những vụ này đã được tường thuật trên báo chí với tên tuổi và đầy đủ chi tiết của từng vụ, kèm theo hình ảnh. Đây là những chuyện có thật mà những người chứng kiến không thể nghi ngờ và khoa học cũng không thể giải thích. Có những cán binh từ miền Bắc vào chết mất xác trên rừng núi miền Nam hơn ba mươi năm trước đã được ông Phan Quang Thế tìm ra hài cốt và được gia đình xác nhận đúng là thân nhân của họ sau khi thử nghiệm DNA.

Ngay đến giới lãnh đạo Đảng Cộng sản và nhà nước, những con người theo chủ nghĩa vô thần, những kẻ gọi tôn giáo là thuốc phiện và xem bói toán, thờ cúng là dị đoan lừa gạt, cũng không thể bác bỏ những chuyện sặc mùi mê tín này và họ trở nên hoang mang, sợ hãi, vì biết đâu với khả năng nói chuyện được với những người ở cõi âm, các nhà “ngoại cảm” chẳng có thể tung ra những câu chuyện tác hại liên quan đến những lãnh tụ đã qua đời như Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng…

Tướng Vũ Sơn cũng là một người quan tâm đến những câu chuyện “ngoại cảm”. Tuy đã về hưu, ông tướng cũng còn nhiều ảnh hưởng trong đảng và quân đội, do những vai trò quan trọng trong quá khứ của ông và các chức vụ lớn hiện nay của mấy người con. Trước hết, ông ta là một kẻ vô thần và tin rằng con người khi “chết là hết”, không có linh hồn mà cũng chẳng có thiên đàng hay địa ngục. Nhưng ông cũng không thể dựa vào lập luận nào để bảo rằng những câu chuyện về “ngoại cảm” như được thuật lại là bịa đặt hay lừa gạt. Ông ta muốn đích thân tìm hiểu, nên khi được tin ông Phan Quang Thế đang có mặt ở Đà Lạt vào những ngày cuối năm để giúp tìm hài cốt trong vùng cao nguyên, tướng Vũ Sơn đã mời ông ta tới nhà để đàm đạo và trắc nghiệm về những khả năng huyền bí của nhà “ngoại cảm”.

Qua vài lần gặp gỡ, tướng Vũ Sơn đã kinh ngạc khi chứng kiến tận mắt ông Thế nói chuyện với linh hồn của vài người thân của vợ chồng ông tướng và đã phát hiện những chi tiết mà người ngoài không thể biết.

Tướng Vũ Sơn đã theo đảng từ năm 17 tuổi, khi đang làm công cho một đồn điền trà ở Di Linh, từng vào tù ra khám, đã trải qua nhiều gian khổ, đã đương đầu với nhiều hiểm nguy, đã nhúng tay vào nhiều tội ác, nhưng đây là lần đầu tiên ông ta cảm thấy tinh thần bị lung lay dữ dội và sợ hãi như đang phải đối đầu với một kẻ thù vô hình. Nhà “ngoại cảm” Phan Quang Thế, qua những hồn ma, đã biết nhiều điều liên hệ đến quá khứ của vợ chồng ông. Nhưng con người với cái bề ngoài tầm thường vô hại này là ai, do đâu mà có những quyền năng huyền bí như vậy?

Bà vợ tướng Vũ Sơn càng sợ hãi hơn khi ông Thế tiếp xúc với linh hồn của một người đàn bà mà ông ta nói là người đã cứu bà tướng khi còn nhỏ trong trận đói năm 1945 ở miền Bắc mà cho đến nay linh hồn người này chưa siêu thoát và vẫn lẩn khuất quanh đây.

Quả thật, năm ấy bà tướng là một cô bé mười tuổi đã được một bà chủ điền ở Sơn Tây đem về cứu sống trong lúc đang nằm chờ chết bên lề đường ở ngoại ô Hà Nội vì đã không có gì ăn hơn một tuần lễ. Bà đã trở thành con nuôi của bà điền chủ, và đã trả ơn người cứu mình bằng cách đấu tố người ấy trong cuộc “cải cách ruộng đất” năm 1956 ở miền Bắc. Khi ấy bà đã là một thiếu nữ xinh đẹp và sau đó không lâu được đảng xây dựng kết hôn với tướng Vũ Sơn, lúc đó còn mang quân hàm đại tá.

Câu chuyện này tưởng đã chôn vùi trong màn đêm sâu thẳm của quá khứ nay được nhà “ngoại cảm” Phan Quang Thế làm sống lại khiến mấy đêm liên tiếp bà tướng không thể ngủ yên, mà hễ chợp mắt chỉ thấy toàn ác mộng. Tướng Vũ Sơn ngoài mặt tỏ ra trọng vọng Phan Quang Thế và mời ông tới ở trong một căn phòng của biệt thự Hồng Dương để được thù tiếp, nhưng trong thâm tâm ông ta muốn sống gần để có điều kiện thử thách thêm và tìm hiểu lý lịch của nhà “ngoại cảm”.

Nhưng, vụ hỏa hoạn ngày Mùng Một Tết đã xảy ra bất ngờ và sau đó Phan Quang Thế đã biến mất khỏi thành phố Đà Lạt. Đó là một trong những lý do khiến ông ta bị nghi ngờ, bị truy nã, và bị bắt.

***

Ngồi đối diện với hai điều tra viên mặt lạnh như thép nguội đầy đe dọa, Phan Quang Thế không tỏ ra chút nao núng, sợ sệt. Ông ta ngồi thẳng lưng, chắp hai bàn tay đặt lên mặt chiếc bàn nhỏ trong phòng lấy cung, mắt nhìn thẳng vào mặt hai điều tra viên và nói với giọng vừa đủ nghe:
– Để khỏi mất thời gian của các ông, và các ông cũng không phải nhọc lòng nặng tay trên thân thể già nua, gầy còm này để cố moi những gì muốn biết. Tôi hiểu rõ tội của tôi và cũng biết rõ hậu quả sẽ dành cho tôi, và tôi sẽ nói tất cả sự thật. Vâng, tất cả sự thật, dù các ông có muốn nghe hay không, nhưng tôi muốn nói chuyện với ai đó cao hơn các ông một chút.

Hai viên công an, một người cao gầy và răng hô, một người to béo và mắt lồi, nhưng cả hai đều đỏ bừng mặt giận dữ. Hai người đều trẻ, đáng tuổi con của Phan Quang Thế. Sau một phút nghẹn họng, người cao gầy gằn giọng:
– Anh muốn nói chuyện với ai?
– Thí dụ viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân.
Người to béo xô bàn đứng phắt đậy, đôi mắt lồi muốn lọt ra ngoài, tát mạnh vào mặt Phan Quang Thế một cái và quát:
– Láo! Thằng này, mày là ai mà đòi nói chuyện với viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân?
Phan Quang Thế đưa tay quẹt giọt máu vừa ứa ra trên khoé môi, bình tĩnh nói:
– Tôi chỉ là “thằng dân”, chẳng là ai cả. Nhưng không phải là các ông bảo “nhân dân làm chủ”, và các ông chỉ là tôi tớ à? Các ông được gì khi đánh đập “thằng dân” này? Lỡ thân này chết đi thì các ông được gì? Những điều mà tôi đang muốn cống hiến cho các ông quý hơn cái thân già này nhiều.
Hai viên công an gầm gừ như muốn ăn tươi nuốt sống nhà “ngoại cảm” nhưng đành nén giận, ngồi yên nghe tiếp:
– Hơn nữa, các ông đừng tưởng những gì các ông làm trong Sở Công an này mà bên ngoài không biết. Không cái gì còn có thể che giấu trong thời đại toàn cầu hóa và thông tin điện tử ngày nay. Trước sau gì thì tôi cũng chết: bị xử bắn, bị thủ tiêu trong nhà giam, hay tắt thở trong khi bị tra tấn. Nhưng cấp lãnh đạo của các ông cần biết nhiều sự thật trước khi tôi chết. Và các ông sẽ phải chịu trách nhiệm nếu tôi chết trước khi họ biết sự thật.
Anh công an cao gầy văng tục, xô ghế đứng lên, bước ra ngoài, gọi người đem Phan Quang Thế trở về phòng giam.

Nội vụ được trình lên Viện Kiểm sát Nhân dân vì đây là một vụ án quan trọng đang được các cấp lãnh đạo đảng đặc biệt theo dõi. Sau khi đọc hồ sơ và nghe báo cáo, viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân đã đích thân nghiên cứu và giải quyết. Từ ngày về cầm đầu cái cơ quan công tố tối cao của nhà nước, ông ta chưa gặp một vụ nào phức tạp như thế này. Thật ra, khi mà quyền làm luật và thi hành luật đều nằm trong tay đảng thì vai trò của “Viện Kiểm sát Nhân dân” không có gì nặng nhọc lắm. Nó có thể biến một nhà báo dám viết sự thật thành một tên gián điệp, hay một kẻ phản động âm mưu lật đổ nhà nước xã hội chủ nghĩa và lãnh án hai mươi năm tù. Nó có thể miễn tố một đảng viên thâm lạm công quỹ hàng tỉ đồng, hay giam giữ một người năm này qua năm khác mà không cần đưa ra tòa xét xử… Mọi bản án đã được làm sẵn trước phiên tòa, tất cả chỉ là những trò hề tẻ nhạt. Nhưng, tên Phan Quang Thế này là ai? Do đâu hắn có những quyền năng huyền bí đáng sợ như vậy? Vì lý do gì hắn đã đốt nhà tướng Vũ Sơn với mục đính giết chết nhiều người quan trọng như vậy, và hắn đang còn nắm giữ những bí mật gì?

Theo báo cáo của công an, Phan Quang Thế đã trở thành nhà “ngoại cảm” sau một cơn bệnh nặng, và nói rằng trong mấy ngày hôn mê hắn đã được một vị thần ban truyền cho quyền năng “ngoại cảm”. Công an cũng xác nhận những việc nhà “ngoại cảm” Phan Quang Thế đã làm, như tìm ra những hài cốt bộ đội và nói chuyện với các linh hồn ở cõi âm, là có thật chứ không phải tin đồn nhảm.

Tất cả học thuyết Mác-Lê-nin, duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh, chuyên chính vô sản… đều không giúp được gì trong vụ này. Và trong lúc Viện Kiểm sát Nhân dân đang lúng túng thì trên mạng điện tử xuất hiện một bức “thư ngỏ” của Phan Quang Thế gửi giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam với nội dung như sau:

“Thưa các ông lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam,

“Tôi là Phan Quang Thế, đang bị giam giữ vì vụ đốt nhà Tướng Vũ Sơn. Như tôi đã nói với công an ngay trong ngày đầu chấp pháp, tôi cần gặp các ông để nói những sự thật liên quan đến vụ án, nhưng đến nay các ông vẫn im lặng, trong lúc tôi tiếp tục bị tra khảo với đòn thù mà tấm thân già yếu của tôi không thể chịu được lâu. Vì thế tôi phải gửi thư ngỏ này để nói lên những sự thật mà các ông cần biết trước khi tôi chết.

“Tên do cha mẹ đặt cho tôi lúc sinh ra đời là Nguyễn Văn Minh chứ không phải Phan Quang Thế. Quê ở Huyện Tùng Thiện, Tỉnh Sơn Tây, Bắc Việt. Việc thay họ đổi tên tôi sẽ nói thêm sau.

“Khi chiến dịch cải cách ruộng đất được Đảng Cộng sản phát động ở miền Bắc thì tôi mới lên mười, nhưng vẫn còn nhớ như in những gì đã xảy đến với bà nội tôi, một người đàn bà hiền hậu và đạo đức. Bà tôi chỉ có một mẫu ruộng, tự cày cấy lấy, và năm 1956 đã bị đấu tố vì tội địa chủ, và người đứng ra đấu là Nguyễn Thị Yến, người con nuôi mà bà tôi đã cứu khỏi nạn đói mười một năm trước. Bây giờ, do sự xúi giục của cán bộ cải cách ruộng đất, Thị Yến kết tội bà tôi là địa chủ gian ác, bắt nó lao động hơn mười năm không trả lương. Bà tôi chỉ khóc và nói rằng bà thương nó như con ruột, nó có phụ bà chăm lo vườn tược và làm công việc đồng áng thì cũng như con cháu khác trong nhà, đâu có ai lãnh lương.
Nó chỉ vào mặt bà mà mắng: “Mày đâu có phải là mẹ tao mà bắt tao lao động không công? Mẹ tao đã chết trong trận đói năm ấy trong lúc bọn địa chủ chúng mày thừa lúa gạo cất trong kho. Mày là con địa chủ gian tham, mày cho tao ăn cho khỏi chết đói để đem về bắt tao làm nô lệ, chứ có nhân đức gì đâu!”.
Sau màn đấu tố dã man, bà nội tôi bị đưa lên núi, nhốt trong một cái cũi bằng tre, bị bỏ đói cho đến chết. Hai ông chú tôi theo cách mạng từ ngày đầu kháng chiến nay trở về làng trở thành cán bộ nhà nước cũng không dám làm gì để cứu mẹ. Một chế độ đã đưa con người xuống thấp hơn loài dã thú. Con thú mà thấy mẹ nó gặp nạn cũng không thể đứng yên.

“Cái chết thương tâm của bà tôi cùng với màn đấu tố man rợ đã nhuộm đen tâm hồn tuổi thơ trong trắng của tôi và đã không bao giờ mờ nhạt khi tôi khôn lớn. Năm 20 tuổi, tôi bị gọi đi nghĩa vụ và đưa vào giải phóng miền Nam. Trên đường mòn Trường Sơn tôi đã biết thế nào là địa ngục trần gian. Đi mười chết năm vì bệnh tật, rắn rết, bom trải thảm…

“Tôi là một trong những người sống sót trong đơn vị để chiến đấu trên đất miền Nam trong hơn 5 năm, đã tham dự nhiều trận đánh ác liệt, kể cả trận Tết Mậu Thân tại Huế và trận tổng tiến công mùa hè năm 1972. Trận nào cũng thua và cũng chết quá nhiều. Những người chết bị bỏ lại chiến địa hay chôn lấp vội vã chung một hố trước khi đơn vị rút lui. Con người không có giá trị gì hơn là những công cụ của các ông. Các ông không cần biết tới đời sống của chúng tôi, tình cảm của chúng tôi, tâm tư chúng tôi, gia đình chúng tôi. Chúng tôi chỉ là những sinh vật biết cầm súng để đi vào chỗ chết, theo lệnh của những lãnh tụ vô cảm, sau khi đã gây ra bao tội ác với đồng bào đang sống an bình ở miền Nam.

“Tôi đã nuôi trong đầu ý định bỏ hàng ngũ sau trận đánh đầu tiên nhưng không có cơ hội thực hiện cho đến trận cuối cùng tại An Lộc năm 1972. Tôi đã bị thương nặng, và bị bỏ lại trước khi đơn vị rút lui. Sợ tôi sống sót sẽ tiết lộ những tin tức bất lợi, người trung đội trưởng đã cho tôi một phát súng ân huệ vào ngực, nhưng viên đạn không trúng tim, và tôi đã được những người mà các ông gọi là “ngụy quân hung ác“ cứu sống sau ba tháng nằm trong bệnh viện của họ, được họ tận tình cứu chữa và đối xử không phân biệt, đầy tình đồng bào.

“Tôi đã làm lại cuộc đời ở miền Nam. Với một cái chân què, tôi cũng kiếm được một nghề sinh nhai lương thiện, được sống ấm no trong tự do. Tôi lấy vợ và có con. Tháng 3 năm 1975, vợ và đứa con duy nhất một tuổi của tôi đã chết cùng với hàng ngàn người dân vô tội khác do chiến tích cuối cùng của Quân đội Nhân dân của các ông mà có thời tôi đã phải phục vụ. Khi các ông chiếm được miền Nam, tôi đã phải hối lộ để thay họ đổi tên vì sợ bị các ông trả thù.

“Tôi là con vật khốn nạn đã bị các ông, nhân danh một chủ nghĩa viển vông điên rồ, cướp đoạt mọi cơ hội để được sống như một con người bình thường, khiêm tốn nhất. Các ông đã nhân danh công bằng xã hội để giết hàng triệu người vô tội, trong đó có bà nội tôi, để tạo nên một xã hội còn bất công và tồi tệ gấp trăm ngàn lần khi trước. Bà nội tôi đã bị các ông giết chết một cách nhục nhã đau đớn chỉ vì làm chủ một mẫu ruộng. Bây giờ nếu đem tất cả tài sản ruộng vườn của bà nội tôi hồi ấy tạo được sau bao năm làm ăn cần kiệm cũng không đủ để làm cái cầu tiêu trong ngôi biệt thự nguy nga của kẻ đã đứng ra đấu tố để giết bà tôi. Bên ngoài những ngôi biệt thự như vậy, hàng triệu dân nghèo sinh sống vất vả, bữa đói bữa no.

“Đó là lý do tôi đã phải đốt ngôi nhà tội ác ấy và trừng phạt những con ác quỷ dành quyền đấng chí tôn đang ngự trị trên xã hội vô luân này. Còn vì sao tôi đã trở thành một nhà “ngoại cảm”? Đó là phương tiện được dùng để thi hành bản án của tôi. Tại sao tôi biết vị trí để tìm hài cốt của các đồng đội cũ? Trong thời gian còn bị các ông dùng làm công cụ để đánh chiếm miền Nam, tôi đã kín đáo viết nhật ký và ghi lại, khi có thể, những địa điểm chôn các người bạn đã bỏ xác trong Nam. Nhờ đó sau này tôi đã giúp gia đình họ tìm được nắm xương tàn của người thân, và tôi trở thành nhà “ngoại cảm” có thế tiếp xúc với những hồn ma ở thế giới bên kia. Và các ông, những con người không tin có linh hồn, nhạo báng thượng đế, bây giờ cũng run sợ!

“Mọi cái mặt nạ đã rơi xuống, những nhân danh cao cả đã không còn là bùa ngải để lừa gạt được ai. Nhân dân không còn sợ gông cùm và nhà tù của các ông. Họ đang đứng lên để đòi quyền được sống như những Con Người, trong đó có những người thuộc thế hệ trẻ không liên hệ gì tới “ngụy quân, ngụy quyền”, và có cả những người từng là đảng viên, cán bộ.

“Ngày đền tội của các ông không còn xa“.

Công an đã dùng mọi phương cách để tìm biết làm cách nào Phan Quang Thế tức Nguyễn Văn Minh đã có thể viết và phổ biến bức “thư ngỏ” khi đang bị biệt giam trong nhà tù, nhưng không thể cạy được răng ông ta, dù có những cái răng đã cùng với máu ộc ra khỏi mồm khi bị tra khảo…

Một tuần sau, Sở Công an loan tin Phan Quang Thế tức Nguyễn Văn Minh đã chết trong tù vì chứng đau tim.
Nhà “ngoại cảm” đã đem theo bí mật xuống đáy mồ.

Sơn Tùng
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeWed Oct 10, 2018 12:28 am

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  455c3fe98e5a31.img

Bóng người trong sương mù
Truyện Ngắn Nhất Linh (1906-1963)


Ở ngoài, đêm tối như mực. Trong toa hạng nhì, riêng tôi ngồi đối diện với Trạch - một người bạn cũ, tình cờ gặp vì đi cùng trong một chuyến xe. Mười năm trước, bạn tôi còn là một người cầm lái xe lửa, cũng hàn vi như tôi; bây giờ gặp lại nhau trong toa hạng nhì, hai người cùng ngạc nhiên và cùng mừng cho nhau.

Lúc nói chuyện, tôi thấy bên bạn có cái hộp khảm rất đẹp liền cầm lấy xem, rồi tình cờ mở hộp ra; bạn tôi có ý không bằng lòng nhưng vì nể tôi nên không nói gì. Tôi nhìn vào hộp thấy lạ: hộp bịt kín, ở trong có một con bướm rất to, hai cánh đã xơ xác. Tôi hỏi bạn:
- Con bướm này vùng tôi thường thấy luôn, quý gì mà anh giữ cẩn thận thế này?
- Vâng, bướm thường, nói cho đúng thì là một con ngài, nhưng đối với tôi...
Vừa nói đến đấy, xe rầm rập đi qua một cái cầu sắt. Bạn tôi lắng tai nghe rồi nói:
- Xe đi qua cầu N.G. Tôi bắt con bướm chính ở giữa cái cầu này đã mười năm nay...
Thấy bạn có vẻ khác, tôi đoán có chuyện gì, liền hỏi:
- Con bướm này chắc cũng có sự tích gì đây?
- Vâng, những sự tích buồn... Chuyện đã ngoài mười năm trước độ anh đi Sài Gòn thì tôi còn là anh cầm lái tàu hoả. Chính độ ấy tôi chạy con đường này, tình cảnh tôi độ ấy anh đã rõ.
- Cũng như tình cảnh tôi...
- Nhưng có một việc tôi không nói cho anh hay là độ ấy tôi có lấy một người vợ, nhưng giấu nhà, giấu mọi người, giấu anh. Chúng tôi sống trong cảnh nghèo khổ mà thật lấy làm sung sướng. Nhưng vì cảnh nghèo, vì nhà tôi không quen chịu được kham khổ nên người mỗi ngày một yếu dần. 


Về sau, nhà tôi bị bệnh nặng mà tôi thì vẫn phải đi làm, không ai trông nom ở nhà. Một đêm nhà tôi yếu quá ngất người mấy lần, mà chính đêm ấy là đêm tôi được ông Chánh cử đi cầm lái chuyến xe riêng chở quan an toàn quyền. Thật là một dịp rất hay cho tôi. Nhưng tôi biết không thể nào đi được, liền thưa với ông Chánh, nói là vợ ốm.
Ông Chánh đập bàn, đập ghế, gắt:
- Tôi không biết! Một là mười giờ đêm nay anh phải có mặt ở ga, hai là từ giờ này trở đi anh đừng bước chân tới đây nữa. Thôi anh ra.
Lời ông Chánh nói quả quyết, tôi phân vân không biết nghĩ sao: lúc về nhà, ngồi ở đầu giường, nhìn đến vợ mới biết rằng không đi được, dẫu mất việc làm cũng không cần.
Nhà tôi thấy tôi có vẻ lo nghĩ, hỏi duyên cớ vì sao, tôi liền đem việc ấy ra kể cho nhà tôi nghe. Nhà tôi nghe xong, vẻ mặt tươi hẳn lên, bảo tôi rằng:
- Thế cậu đi chứ! Việc gì phải ngần ngừ! Tôi không việc gì đâu, đã thấy đỡ nhiều. Chiều mai về nhớ mua cái gì làm quà cho tôi đấy.
Tôi thấy nhà tôi cười vui vẻ, tôi vững tâm, thay quần áo ra ga. Ðến ga đúng mười giờ. Nhưng khi cho xe chạy rồi tôi mới thấy lo, tôi mới biết là tôi liều. Lúc đó tôi có cảm giác lạ lắm: hình như tôi đi thế này, lúc về chắc không nhìn thấy mặt vợ nữa. Tôi cố định trí để cầm lái nhưng chỉ được một lúc thôi.

Bỗng cả chuyến xe lửa nghiêng về một bên, rồi lắc lư như muốn đổ. Người "ét" của tôi vội bỏ cái xẻng xúc than, níu lấy tôi, nói:
- Ô hay! Hôm nay ông làm sao sao thế? Chỗ ấy đường cong nguy hiểm thế mà ông không hãm máy. Ông ngủ à?
Tôi không ngủ nhưng người tuy ở đây mà trí còn nghĩ tới người vợ nằm đợi chết một thân, một mình trong gian nhà nhỏ kia. Mắt tôi hoa lên, mồ hôi ướt đẫm cả người. Xe đi vào khe núi, hết lên cao lại xuống thấp như có vẻ nhọc nhằn. Tôi thò đầu ra cửa nhìn thẳng trước mặt, nhưng đêm ấy, sương mù đầy trời, không nhìn rõ gì cả, chỉ một màu trắng xoá dưới ánh hai cái đèn ở đầu toa.
Bỗng tôi thấy... rõ ràng, tôi thấy in trên sương mù một cái hình người đàn bà mặc áo rộng đứng dang tay. Tôi dụi mắt tưởng mình trông hoảng, nhưng không, hình người đàn bà vẫn đấy. Tôi gọi người "ét" lại cửa toa, bảo ông ta nhìn rồi hỏi:
- Bác có thấy gì không? Vừa nói xong, hình người vụt biến mất.
Bác "ét" thò đầu ra và bảo tôi:
- Chỉ thấy sương mù! Ông lại mê ngủ rồi
- Không, rõ ràng tôi thấy có hình người đàn bà in trên sa mù nhưng vừa biến mất.
Người "ét" cười ra vẻ không tin, lấy xẻng xúc thanh cho vào lò, còn tôi vẫn đứng nguyên chỗ cũ đăm đăm nhìn thẳng trước mặt. Ðược một lát, hình người đàn bà hiện ra, lần này rõ ràng hơn, hai tay vẫn dang thẳng như muốn ngăn đường, không cho xe chạy lên nữa. 


Tôi gọi người "ét" nhưng bác ta làm bộ không nghe thấy, cứ cắm đầu xúc than cho vào lò. Tôi biết tôi không mê, tôi biết là cái hình người ấy có thật. mà ai nhìn cũng phải thấy. Tôi đến cầm tay bác "ét" kéo bác ra xem rồi bảo, quả quyết:
- Nhìn xem!
Bác ta há hốc mồm giương to đôi mắt hốt hoảng nói:
- Lạ thật!... Ma ông ạ! Xe tiến đến đâu, cái hình bóng người lui đến đấy, có lúc mờ, có lúc rõ, lơ lửng giữa lưng chừng trời. Rồi cái hình người ấy vẫy hai tay một cách thong thả, như có ý bảo chúng tôi đừng tiến lên nữa, có sự nguy hiểm.
Tôi bảo bác "ét":
- Bác này, lại có sự gì lại sắp xảy ra.
- Vâng, sao cái hình lại như lấy tay làm hiệu bảo ta đứng lại. Cái hình người trước còn vẫy tay thong thả, sau vẫy thật nhanh như người tỏ ra ý thất vọng vì bảo chúng tôi không nghe.
- Hay ta dừng xe lại xem sao, chắc là ma!
- Không được, tự nhiên vô cớ.
Còn tôi lúc bấy giờ tai ù như người mất trí khôn, tôi văng vẳng như có tiếng người ở thật xa đưa lại, tiếng một người đàn bà bảo tôi:
- Ðỗ lại! Ðỗ lại!
Tôi lắng tai, tay nắm chặt lấy cái phanh như định hãm lại rồi lại không dám hãm. Một lát sau, tôi lại nghe thấy tiếng người đàn bà, rõ hơn lần trước, giục tôi:
-Hãm lại! Hãm ngay lại!
Lúc bấy giờ tôi không biết nữa, nhắm mắt hãm phanh thật mạnh. Các toa rùng một cái, bánh xe kêu rít lên trong đêm thanh vắng, xe chạy từ từ một quãng rồi đỗ hẳn. Tôi chưa kịp bước xuống, đã thấy người "xếp tanh" cầm đèn chạy lên hỏi:
- Việc gì thế?
Tôi luống cuống không biết trả lời làm sao, vì nói thật ai tin mình. Tôi trả lời một cách mập mờ:
- Chắc có sự gì lạ. Ðể tôi cầm đèn đi xem trước đã. Lúc bấy giờ mấy ông hầu quan Toàn quyền cũng vừa đến, rồi thấy lạ, đi theo chúng tôi. Vừa đi được một quãng thì nghe có tiếng nước chảy ầm ầm. Tôi định tâm mới nhớ ra rằng đó là cầu N.G. 


Mấy đêm ấy mưa lũ, nước chắc chảy xiết, nên mới réo to như vậy. Ðến bờ sông, giơ đèn lên soi, mấy người đều kinh hoảng: cái cầu N.G bị nước nguồn chảy về xoáy gãy làm đôi.
Một tí nữa, nếu không hãm kịp thì cả một chuyến xe riêng chở Toàn quyền đâm nhào xuông sông sâu, chắc không sống sót một ai: tưởng không có cái tai nạn nào ghê gớm hơn, thế mà chính nhờ tôi, nên mới không có cái tai nạn ấy. Tôi đứng ngẩn người không hiểu ra sao cả.
Người "xếp tanh" mừng cuống quít hỏi tôi:
- Sao ông biết mà hãm?
- Tôi cũng không hiểu.

Mấy người quan hầu có vẻ mừng lộ ra mặt, xúm xít quanh tôi hỏi dồn, tôi không biết trả lời ra sao, một lát mọi người đứng dãn ra. Quan Toàn quyền đến: ngài không nề tôi là người lao động, trong lúc mừng quá, ngài giơ tay bắt tay tôi, cái bắt tay đầu bụi than rồi ngài tỏ lời khen.
Tôi chắc rồi sau thế nào cũng được trọng thưởng, nhưng trọng thưởng lúc đó đối với toi cũng như không, tôi chỉ nghĩ đến nhà tôi ở nhà, không biết ra sao.
Tôi đi trở lại và thoáng thấy con gì bám ở cái đèn để ở đầu toa, nhìn kỹ thì ra một con bướm thật to, vướng vào đèn đương đập cánh để tìm đường thoát. Chính là con bướm trong cái hộp này đây. Trông thấy con bướm, tôi thốt nghĩ ra ngay. Chính phải rồi, chính cái hình người đàn bà lúc này là cái bóng con bướm này in lên trên sương mù, đầu con bướm là đầu hình người mà hai cánh con bướm đập là hai cánh tay người vẫy.
Tôi bắt con bướm rồi định thả nó bay đi; sau nghĩ con bướm đã giúp mình được việc, nên giữ lại làm kỷ niệm. Tôi nhìn vào đồng hồ trong toa, thấy kim chỉ đúng hai giờ đêm...

Hôm sau tôi vừa về đến cổng nhà thì thằng nhỏ chạy ra báo tin nhà tôi mất, mất vào khoảng một giờ đêm qua.
Tôi không tin nhảm, tôi chắc đó là một sự tình cờ, một sự ngẫu nhiên, nhưng tôi vẫn yên trí là linh hồn nhà tôi đã nhập vào con bướm này để phù hộ cho tôi tránh được tai nạn đêm hôm ấy. Nhưng tránh được tai nạn mà làm gì, tôi thoát được thân tôi mà làm gì, giàu sang phú quý bây giờ đối với tôi cũng như không, tôi cũng chỉ như con bướm này, xác đấy mà hồn tận đâu đâu.
Bạn tôi kể xong chuyện, đậy cái hộp khảm lại rồi thẫn thờ nói:
- Bây giờ chỉ còn lại cái xác bướm không hồn.

(Rút từ tập Truyện Ngắn ANH PHẢI SỐNG, Nxb Đời nay, Hà Nội, 1934)
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeMon Oct 22, 2018 8:21 am

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Images?q=tbn:ANd9GcRwrgpRbT2BFu9xG1j6__BlCmtlO9COxu3-tyeKYl8nTAW28JMJ


Chuyện Bà Hùm
Truyện Ngắn - Chu Văn


Mưa dầm gió bấc. Giữa rừng khuya, bỗng vang tiếng cọp rống. Núi rung lên, cây lá run bắn lên, và cây lá run bắn lên. Không khí chuyển động, lung lay ngọn lửa bập bùng trong bếp. Con mãnh thú ở thung núi xa đấy, nhưng dư âm tiếng gào vẫn ào đến từng đợt. Những người ngồi chung quanh bếp lửa cùng dựng tóc gáy, vô tình nhích sát lại với nhau. Và chúng tôi nhìn cả vào chủ nhà - một ông già dân tộc, người trông nom cái trạm ươm giống cây lim ngồi giữa Trường Sơn, vùng dốc Tù hẻo lánh.

Ông già ngồi đó, mặt vuông chữ điền, da màu đất thó. Từ sợi tóc trên đầu, thớ thịt trên mặt, không nhúc nhích. Hình như đôi tai cúp như lá nấm kia không hề nghe thấy cái tiếng gầm khiếp hãi đó.
- Không sợ à, bố?
Ông già hé mở đôi mắt:
- Sợ gì, Hổ à? Không sợ. Ở khe này nhiều đấy!
- Có bắn được bao giờ không?
- Không bắn! Kiêng đấy!
Ông già là một thợ săn có tài, suốt đời làm việc ươm hạt lim trong rừng sâu, gặp cọp nhiều lần, nhưng theo ông nói, thì ông không bao giờ bắn cọp và cọp lẩn trốn ông. Bởi vì... hai bên có họ...

Đêm ấy ông già nể khách đã kể lại câu chuyện ngày xưa. Kể rất vắn tắt thôi. Nhưng khi viết ra, thì có rành mạch chi tiết. Đó là việc của người viết lại. Câu chuyện thế này.
Khi Đức Quang Trung Hoàng đế băng hà, thì Vua Cảnh Thịnh lên nối ngôi, ít tuổi lại yếu hèn nữa. Bởi thế Tây dương giúp sức, nó mới đánh cho nhà Tây Sơn thua lụi thua bại. Quân nó đuổi từ Phú Xuân ra Bắc Hà, bắt được hầu hết Vua tôi Cảnh Thịnh, có cả Đô đốc Trần Quang Diệu với bà Bùi Thị Xuân. Hai vị tướng này vốn anh hùng vô địch, từng giúp vua Quang Trung làm nên nghiệp lớn. Nhưng gặp vua hèn, tướng giỏi mấy cũng bó tay. Tội nghiệp thế.

Vậy trong cánh quân của bà Đô Đốc họ Bùi bị đánh tan ở chân núi Hồng Lĩnh, có một viên tì tướng chạy thoát được. Một mình một ngựa ông cứ nhằm hướng Tây đi mãi. Ông ta qua trăm núi ngàn sông, rồi bươn mãi vào đại ngàn, lưng chừng dãy núi Giăng Màn. Người tráng sĩ ấy còn trẻ, võ nghệ cao cường, gặp lúc thất thế, đành tìm nơi ma thiêng nước độc lẩn tránh bọn đao phủ. Đến dốc Tù, thấy núi hiểm rừng sâu ông dừng chân làm chòi ở lại, sống bằng nghề săn bắn chim muông và trồng trọt cây ngô, cây lúa, kết bạn ăn thề với mấy người bạn dân núi.

Gia Long làm lễ hiến phù ở Phú Xuân, cho voi xé xác Vua tôi nhà Tây Sơn. Tin bà Đô Đốc chết thảm truyền đi, xé ruột người tỳ tướng của bà trong rừng thẳm. Không mong trả được thù lớn, tráng sĩ chỉ còn báo ơn chủ cũ, bằng sớm tối hương khói thờ phụng ông bà Đô đốc.
Không biết tên tráng sí là gì. Dân núi gọi là chàng ẩn. Chàng ẩn búi tóc gọn, để bộ râu xanh, khoác áo vỏ sui và đóng khố. Ngôi nhà ông ở - thực ra là một gian chòi cất lên lưng chừng cây. Chòi ông rất bền chắc, toàn tre đực, néo dây nâu, lợp lá và vách nứa. Trong nhà ấy, có bếp sấy thịt khô, có bồ thóc và có cung nỏ giáo mác. Phải gan dạ lắm mới dám ở nơi này, bởi nói đến dốc Tù, dân tù thường lè lưỡi và lắc đầu, vì có quá nhiều thú dữ, mà duy nhất là con hùm cái, chột mắt.
Hùm ấy đã bắt đi bao nhiêu bò, dê, chó, lợn? Phải kể hàng ngàn. Nó đã ăn thịt bao nhiêu người? Phải kể hàng trăm. Người ta đồn hùm chột đã thành tinh. Nó lì lợm lại ranh ma, lừa lọc vô cùng táo tợn. Nó bắt bò, không phải xé rào vượt cửa, mà cứ lừa lúc nhá nhem, đi lẩn vào chuồng, nằm dưới sàn yên lặng. Nửa đêm nó mới chọn một con bê béo nhất, công đi, không một tiếng kêu.
Nó rình bắt những người đi làm nương, kiếm củi, kiếm trầm trong núi. Nhưng nó cũng có lần, leo thang lên sàn êm như ru, cõng đi một người đang ngủ bên bếp lửa. Cũng đã nhiều phường săn, nhiều nhà thiện xạ lần tới dốc Tù, tìm con chột. Phường săn vây rừng bủa lưới bao lần, chỉ về tay không. còn những người rình bắt nó thì phần lớn có đi không về...

Câu chuyện hãi hùng nhất là có một năm, một người sơn tràng đi vào rừng, nhặt được một con hổ mới đẻ. Anh ta xách con vật về, làm thịt nấu cháo mời bạn bè uống rượu. Đám người đang chè chén thì đã nghe tiếng hổ gầm chuyển núi xô rừng, rồi hổ chột từ đâu hiện ra, to tầm con ngựa, sắc lông đỏ như lửa. Thoáng chỗ này thoắt chỗ kia, nó xông xáo trong ngõ xóm quật đuôi đen đét, cào đất xoàn xoạt, cắn nát bất cứ vật gì cản đường. Đám người ăn uống trên nhà sàn khiếp hãi nhìn thấy con hùm đeo bầu vú thây lẩy, bẹ sữa sa gần quét đất. Nó tìm con, tìm người trả thù, phần vì thiếu con, phần nhức bầu sữa nên càng hung dữ liều lĩnh. Cả làng hốt hoảng nổi trống đạp phèng, la ó ầm ĩ xua đuổi ác thú. Nó gầm gừ, thong thả lẩn vào bụi rậm. Được một đêm yên lặng, tưởng chẳng có chuyện gì.
Sáng sau, mới thấy cái nhà sàn của người sơn tràng mời rượu hôm qua đã đổ sụp, vợ chồng anh sơn tràng xác nát như tương nằm ngay ở gầm sàn. Riêng có đứa con gái nhỏ gia đình tội nghiệp kia - mới được đâu hai tháng tuổi - thì biến đâu mất không để lại dấu tích. Chắc là nó nuốt tươi rồi! Chuyện hổ cái báo thù đã qua một, hai rồi chín mười năm, mà dân xóm vẫn còn nhớ tới để sởn gai ốc.
Hùm chột vẫn còn hoành hành rừng sâu, nhưng ít khi ra vào lối xóm. Có nghe trong rừng đếm có tiếng trẻ khóc, thấy hổ cái gầm gừ như đùa rỡn. Thế rồi có người lại bảo rằng chính mắt đã thấy vết chân cọp to bằng cái đấu, ở một bờ suối xen với vết chân cọp là vết trẻ con, đứa trẻ bò cả hai chân tay. Thế chả lẽ con hùm tinh ấy nó cho con người bú sữa và từ ấy đến nay, đứa trẻ đã lớn lên, và cũng sẽ thành ác thú, để rồi quay lại ăn thịt xóm làng.

Giữa thời ấy, chàng ẩn trốn tránh tai hoạ, tìm đến dốc Tù lánh nạn. Người trai trẻ này đã xâm phạm vào cái giang sơn của hùm tinh, và thế là nhất định sẽ phải xảy ra sự xung đột.
Nhiều lần, chàng ẩn trở dậy ban đêm, đánh hơi thấy mùi hôi nồng nặc lẩn khuất. Ông chắc là có hổ rình; về ban sáng thì ngay chân thang chi chít những vết chân hổ to bằng cái đầu. Ông muốn rình xem con thú này hành động ra sao, nhưng nó cũng lường được nguy hiểm. Những khi chàng ẩn ra rừng săn bắn hoặc làm nương, cứ thấy rờn rợn tóc gáy, ngoảnh nhìn bốn phía thì lại thấy lạnh tanh. Con vật tinh khôn lắm. Nó biết rằng con người nó rình đây, không phải tay vừa.

Nhưng rồi cũng có dịp đối mặt.
Một chiều hè oi bức, chàng ẩn ở nương ngô trở về, ra suối tắm mát, chàng đi tới nơi hàng ngày thì sực thấy một cảnh lạ mắt bên bờ suối, một con hùm khổng lồ ngồi quay lưng lại phía chàng, sắc lông đỏ như lửa. Nó chăm chú nhìn cái gì dưới suối. Thì ra, ở dưới dòng nước chảy vọt trắng xoá, một hình người bé nhỏ, đang vẫy vùng đùa rỡn với ngọn thác, tung toé trên hàng cuội trắng chàng ẩn lánh mình bên gốc cây nhìn kỹ. Người dưới suối kia là một đứa con gái tóc dài, trần như nhộng, da đỏ màu đồng, tay chân gày nhàng nhàng nhưng rất rắn chắc. Một con người nửa người nửa thú, đi bốn chân rất nhanh, và bộ mặt man dại, đôi mắt lóng lánh sáng. Nó vẫn ầm ĩ, hét lên những tiếng chối tai, vốc nước té lên con hùm mẹ, và hùm mẹ thì gầm gừ, thích thú cái đuôi dài như ngọ dáo, ve vẩy cong đuôi.
Chàng trẻ tuổi nhìn ngắm say mê. Thì ra lời đồn đại về con cọp nuôi người là có thật. Và từ buổi ban đầu nó cho người bú sữa cốt để cho nhẹ cơn đau, thì rồi nảy nở ra tình thân, và đã dăm mười năm, cặp mẹ con này sống, kiếm ăn, quấn quít bên nhau...

Chàng trẻ tuổi quên khuấy nguy hiểm, cứ lặng nhìn. Con hổ mãi đùa rỡn với con. Bỗng một tiếng rít báo hiệu như còi. Chính đứa trẻ từ dưới suối đã đánh hơi nhìn thấy kẻ rình mò. Và mẹ cọp cái đứng phắt dậy, quay một vòng, quắc con mắt chột lên. ác thú nhìn người chòng chọc. Con người nhìn lại...
Hai bên cách nhau vài chục bước, khoảng cách ấy, chỉ là một đà nhảy. Chàng ẩn đứng khom khom, không lùi không tiến, không nhúc nhích, chỉ quắc đôi mắt nảy lửa. Con cọp dữ xù lông, dựng bờm, con mắt đỏ như ngọn đèn. Phía sau nó, đứa con gái quẩn vào cạnh đuôi, cầu xin che chở.
Và thợ săn già dặn, chàng ẩn biết rõ cái thế của mình: Nếu nhát gan bỏ chạy là chết liền. Xông vào đánh nó cũng không lợi. Ác thú thường rất sợ những con mồi bất động. Chàng ẩn cứ đứng quắc mắt lên, và cuối cùng chàng thắng. Con vật hung dữ sẽ gầm, quật đuôi đánh vút, quay đi. Đứa con gái trần trục, khoẻ mạnh, cũng ngoăn ngoắt bò chạy theo.

Nhưng nhất định con hùm sẽ không chịu bỏ mồi. Chàng ẩn biết vậy, và từ đây, chàng ra sức đề phòng: Rào chặt chỗ ở, mài mũi lao nhọn, và tẩm một túi đầy tên độc. Luôn luôn chàng cảm thấy như con thú ác đã đến rất gần, nhất là ban đêm.
Điều không ngờ, là nó không đánh chàng vào ban đêm mà bất ngờ lại chọn một buổi trưa, giữa nương sắn. Hổ từ bụi rậm xông tới, nhảy vồ. Chàng tuổi trẻ lánh được, lảng ra xa một chút, rồi vút thẳng mũi lao.
Quả là con người có nghề. Mũi lao chọc thẳng vào mắt cọp. Lưỡi nhọn tẩm độc. Ác thú chết sau một hồi vật vã. Khi chàng thợ săn rút về, gọi bạn vào khiêng xác cọp, thì nghe tiếng thét thê thảm bật lên từ một bụi cây phía trước. Tiếng thét thê thảm của cô gái rừng.

Người ta xúm vào lột da, xẻo thịt, róc xương con thú dữ. Bộ xương, chàng ẩn biếu các ông già bản, thịt thì chia cho khắp mọi nhà. Chàng giữ tấm da, căng rộng, phơi nắng. Một bộ da đẹp vô cùng, đỏ rực như lửa, dài rộng, thừa trái một gian.
Cùng sau đó chàng ẩn để ý theo dõi xem con "hổ mồ côi" nó trốn chỗ nào. Biệt tăm một hồi. Thế rồi lại có dấu xuất hiện của người cọp. Nó luôn rình mò bắt gà, bắt lợn ẩn, và rõ là nó đã có lần toan trèo lên trên chòi, để trả thù. Có nên trừ đi mối hoạ này chăng?
Nghĩ đi nghĩ lại, chàng ẩn thấy rằng giết nó không khó, mà chính là dụ cho nó trở lại với người.

Chàng định ra một kế thật công phu.
Biết rằng đêm nào, cọp con cũng đến rình ở dưới chân thang, chàng ẩn đặt mồi ăn để sẵn, khi thì đầu lợn, khi thì con gà. Mới đầu, các thứ đó qua đêm còn y nguyên, cũng là người cọp sợ bẫy. Nhưng rồi sau chắc nó đói, nên đặt thứ gì, cũng bị cắp đi hết.
Chàng ẩn không nhữ bằng thịt sống nữa. Chàng đặt lợn, gà nướng. Rồi chàng tẩm muối, càng ngày càng mặn hơn một chút. Kèm với thịt, còn có cả cơm với ngô khoai. Thức ăn chín làm cho cái tính thú vật trong con người bớt đi. Nhưng khi hiện ra dưới ánh trăng, vẫn là một vật bò bốn chân, với những tiếng rít, tiếng gừ, học được từ mẹ cọp, và cứ mỗi khi thoáng thấy chàng ẩn, thì lập tức người cọp biến mất.
Chàng ẩn đặt thức ăn, gần mãi lại nơi chòi ở. Và rồi sau, chàng chờ cho người cọp có ra mặt, rồi ròng cây thả cơm xuống. Sợ hãi lạ lùng rồi quen dần, gần dần, phải có đến hàng năm. Cô gái tập đứng trên hai chân, quen dần với riếng nói, những lời dỗ dành, nũng nịu êm ái, và quen với tiếng cười.

Rồi một hôm, cô ta mỉm cười. Biết cười tức là đã biết làm con người. Cô gái đang tuổi lớn - khoảng mười lăm, mười sáu, hình vóc cân đối, tay chân gân guốc, và mặt mày, tuy ngơ ngác và man dại, nhưng có những nét xinh đẹp của cái tuổi lớn lên. Có lẽ quan hệ mới, dịu dàng, âu yếm với chàng thợ săn làm cho cô quên dần con cọp chột. Chưa dám trèo lên "tổ", cái chòi của người, nhưng mỗi khi chàng ẩn ra nương, lên tiếng hú gọi thì cô bé người cọp lại đến, khi bò làm thân. Chàng dẫn cô ta đi tắm ngoài suối, hái quả trong rừng, và thử cho mặc áo. Cái tính dã thú lại nổi dậy. Cô ta vứt hết những mảnh vải dính trên người, như sợ một thứ cạm bẫy, và chạy biệt tăm, hàng tuần không trở lại.
Mùa xuân đến, mùa những con dộc, con vượn gọi đàn, con hoãng, con nai đi tìm bạn, và cô gái rừng bơ vơ, nghe tiếng thôi thúc rộn ràng của mùa xuân trong hoa lá và trong con người, cũng say sưa tìm. Cái chàng thợ săn ấy cũng gọi cô, bằng những tiếng thật êm ái và say sưa tìm. Cái chàng thợ săn ấy cũng gọi cô, bằng những tiếng thật êm ái và đôi mắt đôi tay chàng mơn trớn vuốt ve.
Thế rồi, mùa xuân ấy, họ thành đôi, dễ dàng như tình yêu trong thiên nhiên vậy. Chỉ có tình yêu mới thật sự biến cô trở lại làm người. Người con gái hoang dã về ở hẳn với người yêu, chịu mặc áo, biết làm dáng, chải tóc, và cùng chàng ẩn đi tìm mật ong, săn bắn, làm nương, mỗi ngày tính khéo thêm một chút.

Người ta gọi cô gái ấy là nàng Hùm và cô nói - nói những tiếng thật gọn - thay cho tiếng ú ớ của loài thú. Cũng lại qua năm tháng, người vợ rừng của chàng ẩn mới làm quen với dân xóm - xã hội loài người. Hạnh phúc đến với người tráng sĩ nơi rừng sâu. Một chú bé con khoẻ mạnh mập mạp ra đời trong gian lều. Trong xó rừng có tiếng ru ời ợi. Người vợ địu con sau lưng, cùng chàng đi làm tất cả mọi việc trồng cây, hái lượm và săn bắn. Nhưng nàng ngăn chồng không bao giờ cho làm hại đến loài hổ - loài ác thú những đã từng cho nàng dòng sữa mẹ.
Chàng ẩn yên lòng với hạnh phúc, lãng quên đi cái tai hoạ đã đẩy chàng đến đất này. Và cũng không ngờ rằng câu chuyện cô gái hùm trở lại làm người đã đồn đi khá xa, một ngày một rộng.Cái tin ấy, đã đến tai kẻ thù của chàng, bọn quan lại quân lính nhà Nguyễn.

Một buổi chiều kia người vợ trên nương bỗng thấy nóng ruột lạ lùn. Linh tính báo môt tai hoạ. Nàng bồi hồi, bỏ hết công việc, địu con hộc tốc chạy về.
Cái tổ ấm nhà nàng chỉ còn là một đám lửa đang tàn, và chồng nàng đã mất tích. Nàng theo dấu vết và đánh hơi chạy theo. Ra khỏi rừng, đến đường cái. Một đám người lố nhố đi phía trước kia - toàn những đứa hung ác, áo quần sặc sỡ, gươm giáo tua tủa. Chúng lôi thêm một người bị trói gò cánh khuỷu đã bị đánh đập gần chết. Đó là chàng ẩn.
Chỉ trong một giây, tất cả sức mạnh và tính hung dữ của loài cọp - khi khát máu trả thù - cũng đùng đùng nổi dậy trong lòng đàn bà ấy. Cất một tiếng gầm man rợ, nàng nhún bốn chân, lao thẳng vào đám quân triều, nhanh như tên bắn. Rồi tay cào, miệng rít. Nàng Hùm dùng thế võ sơn lâm tạt ngang, xé ngược, móc mắt, cắn cổ, làm cho bọn lính gãy cổ, lòi ruột, chạy tán loạn.
Nhưng bọn lính đông người, lại có nhiều gươm giáo, và cả súng hoả mai. Chúng xúm lại đâm chém, giết chết ngay chàng ẩn, rồi xả súng bắn nàng Hùm bị thương ở ngực, ở mặt. Nàng Hùm không làm dữ được nữa. Sau tiếng gầm chuyển núi, nàng chạy tuốt vào rừng, và cứ thế, bươn mãi lên đại ngàn.

Hai ngày sau, dân xóm đi tìm, nghe tiếng trẻ con khóc bên bờ suối. Nàng Hùm nằm xoài bên gốc lim máu đọng thành vũng đã đặc. Đứa bé con khát sữa gần kiệt sức, giãy giụa gào khóc và rúc bú đôi vú chết. Người ta rước lấy em bé và đem nàng Hùm chôn cùng chồng ở dốc Tù.

Người coi vườn ươm hạt lim ngồi bên bếp lửa thâu đêm kể lại chuyện ấy, và nhận chính mình là cháu sáu đời ông ẩn bà Hùm. Ông ta quả quyết là có thật như vậy.
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeFri Oct 26, 2018 6:45 pm

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Maxresdefault

Tướng Sát Phu
Truyện Ngắn - Đỗ Ngọc Thạch

Một buổi sáng cuối Xuân đầu Hạ, hai chú tiểu của chùa Pháp Vân ra mở cổng chùa thì thấy một cái bọc nhỏ đặt trong một cái hộp giấy cứng không có nắp đậy, trong cái bọc đó là một đứa bé gái khoảng một tháng, đang thiếp ngủ! Mười ba năm sau, đứa bé gái bị cha mẹ bỏ vào nhà chùa đó đã trở thành một thiếu nữ mắt phượng mày ngài, mặt trái xoan, dáng dấp thanh tú. Hai chú tiểu ngày nào đã trở thành sư thầy, nói với nhau: “Chúng ta làm ơn cứu mạng như thế cũng được rồi, nay nên trả đứa bé lại cho cha mẹ nó, để nó ở lại đây tất sẽ gây họa lớn! Cái trán cao rộng, hơi gồ và sáng bóng, mũi thì dài sống mũi lại quá mảnh khảnh, lưỡng quyền cao rộng nên có số sát phu, đàn ông mà dây dưa với nó tất chết bất đắc kỳ tử!”

Rồi ngay sau đó, hai sư thầy gửi cô bé cho một vị giáo sư, nói là nó có tư chất thông minh, nhờ giáo sư kèm cặp, sau ắt sẽ trở thành nhân tài của đất nước! Quả nhiên, chỉ sau ba năm, cô bé đã học xong tất cả chương trình phổ thông trung học. Các bài thi đại học những năm trước đó, cô bé đều làm dễ dàng như ăn kẹo! Vị giáo sư đã hoàn tất mọi thủ tục để cô bé tham dự kỳ thi đại học tới, cô bé ắt sẽ đỗ thủ khoa, cả nước sẽ bị một phen bất ngờ!…
Nhưng, người bị bất ngờ lại chỉ là hai ông sư thầy của chùa Pháp Vân: Trước ngày thi một ngày, bà vợ vị giáo sư dắt cô bé trả lại cho nhà chùa mà rằng:
- Đứa bé này thông minh thật, đúng là Thần đồng, nhưng nó đã đem tai họa đến cho nhà tôi: ông chồng tôi gần hết đời mới đạt được công danh, vậy mà chỉ sau một đêm dan díu với nó đã chết thật thảm thương! (Khóc) Sáng nay, ông ấy dậy sớm tập thể dục như mọi ngày, vậy mà không thể trở về nhà với tôi được nữa: một chiếc xe tải to đùng đã nghiến nát ông ấy rồi!

Hai vị sư thầy đành để cô bé ở lại chùa. Việc truy tìm tung tích cha mẹ đứa bé vẫn chưa có kết quả. Hai vị sư thầy bàn với nhau: “Nó đã đem tai họa đến cho người ta, vậy phải cho nó cơ hội chuộc lại tội lỗi: cho nó đi học nghề chữa bệnh cứu người. Công, tội có thể bù đắp, hóa giải cho nhau!” Cô bé liền được gửi đến ở phòng mạch Đông Y của một Lương Y danh tiếng, nghe nói đã bốn đời hành nghề chữa bệnh cứu người, cha ông đã từng thọ giáo bậc danh y Hải Thượng Lãn Ông!
Cô bé đến phòng mạch Đông Y chưa được ba bảy hai mươi mốt ngày thì bà vợ ông Lương Y đã dắt nó đến trả cho nhà chùa mà không nói một lời! Hai sư thầy đi tìm hiểu sự việc thì được biết: một lần đang xem bệnh, kê đơn bốc thuốc cho con bệnh thì cô bé đi vào nói đau bụng không thể chịu nổi. Vị Lương y đành bỏ dở công việc mà tìm cách cắt cơn đau cho cô bé. Sau một hồi day huyệt, cô bé đã hết đau bụng nhưng vị Lương Y đã bị cơ thể cô bé làm cho mất hồn, không thể kiềm chế được cơn sóng tình dục cứ dâng lên cuồn cuộn. Sau cuộc giao hoan vội vàng với cô bé, vị Lương Y chẳng còn minh mẫn để kê đơn bốc thuốc cho con bệnh, kết quả là cái toa thuốc ấy đã giết chết con bệnh, người nhà con bệnh tức thì vác dao đến đòi mạng, chẳng kịp ngăn cản!

Hai vị sư thầy sau khi biết chuyện thì mười phần kinh hãi! Mặc dù hai vị sư thầy nghiên cứu rất kỹ về thuật tử vi tướng số nhưng trong thâm tâm họ đều không mấy tin vào những chuyện tào lao đó, chẳng qua chỉ là trò chơi của tạo hóa! Nhưng đến sự việc xảy ra ở phòng mạch Đông Y này thì cả hai vị sư thầy đều run sợ trước sự huyền bí của định mệnh mà thuật tướng số chỉ hé mở được phần nào sự huyền bí đó!
Suy nghĩ nát nước mà hai vị sư thầy vẫn chưa biết phải cho cô bé có tướng cách dị thường này đi đâu, chùa Pháp Vân này chưa có lệ thu nhận sư nữ mà tung tích cha mẹ cô bé vẫn chưa thấy tăm hơi gì? Thời gian cứ đều đặn trôi đi từng ngày, từng ngày, nó không thể dừng lại để đợi hai vị sư thầy nghĩ xong kế vẹn toàn, một tuần lễ trôi qua như một cái chớp mắt. Sang ngày thứ tám, một vị sư thầy có việc phải đi Tây Nguyên. Ba ngày sau, vị sư thầy ở nhà được báo mộng, người báo mộng lại là đích thân Bồ Tát: ”Đêm hôm trước khi đi Tây Nguyên, sư huynh con đã dại dột giao hoan với cô bé có tướng sát phu đó. Hôm qua, xe chở sư huynh con đã lăn xuống vực ở tỉnh KonTum, chiếc xe cháy rụi, sư huynh con đã bị cháy thành than rồi! Tiếc thay, trồng cây sắp đến ngày hái quả mà lại… Con ráng mà giữ thân đặng tu thành chính quả, đừng như sư huynh mà uổng công mấy chục năm tu hành!”. Vị sư thầy chỉ còn biết ôm bài vị của sư huynh mà khóc không thành tiếng…

* * *

Khi tôi đang lang thang kiếm sống ở Sài Gòn thì bất ngờ gặp một người bạn cũ là chuyên gia Hán-Nôm ở Hà Nội vào Sài Gòn làm việc. Khi biết được tình cảnh đang thất nghiệp của tôi, người bạn nói:
- Giá như ông nghe tôi, hồi còn làm ở Viện Văn học mà tranh thủ theo học một khóa Hán-Nôm thì bây giờ tôi có thể nhận ông làm việc ở chỗ tôi. Bây giờ phong trào tìm về cội nguồn rất rầm rộ, rất nhiều văn bia, thần tích, gia phả… cần được biên dịch…
- Tôi không thích nói “Giá như…”, ông không giúp được gì cho tôi cũng không sao! – Tôi nói cứng – Mà ông cũng chẳng phải ái ngại cho tình cảm của tôi bây giờ. Cái số tôi nó “bèo dạt mây trôi” dài dài, tôi đã quen rồi!
Người bạn vụt nhớ ra điều gì, vội nói:
- Ông nói tới chuyện tướng số làm tôi nhớ đến một vị sư thầy ở chùa Pháp Vân, vừa là bà con xa vừa là học trò Hán-Nôm của tôi. Vị sư thầy này rất giỏi tử vi tướng số, nếu ông có hứng thú, tôi sẽ dẫn ông tới chơi!
Dĩ nhiên là tôi rất hứng thú và người bạn chuyên gia Hán-Nôm liền dẫn tôi đến chùa Pháp Vân.
Khi chúng tôi đến chùa Pháp Vân, vị sư thầy vẫn chưa thôi ôm bài vị của sư huynh mà khóc thầm! Gặp người bạn chuyên gia Hán-Nôm và tôi, vị sư thầy mới dứt được nỗi đau mất sư huynh đã kéo dài ba ngày! Sau khi kể cho chúng tôi nghe đầu đuôi câu chuyện về cô bé có tướng sát phu, vị sư thầy nói:
- Tôi đã được Bồ Tát báo mộng sắp thành chính quả, vì thế bằng mọi giá phải cho cô bé đi khỏi chùa này. Tôi rất mong sư phụ và thí chủ đây giúp tôi!
- Chúng tôi xin sẵn lòng, sư thầy cho biết giúp như thế nào? – Tôi và người bạn Hán-Nôm cùng nói.
Vị sư thầy im lặng giây lát như lấy hơi rồi nói:
- Tôi không ngờ cái tướng sát phu của cô bé lại hiệu nghiệm kinh hoàng như vậy. Tôi đã đành phải lấy cái tướng cách đó ra mà đặt tên làm giấy khai sinh cho cô bé, gọi chệch đi một chút: Sa Phi! Tôi chợt nghĩ, cái tên đó gần giống với tên một loại đá quí, vì thế tìm một người có tên là một loại đá quí mà gả cho cô ta thì tai họa sẽ giảm thiểu đi nhiều, nếu người đó có lá số tử vi gần giống với lá số tử vi của Hàn Tín thì không còn lo ngại gì nữa!
Nghe tới đó, tôi giật mình kinh ngạc vì thấy mình đáp ứng đủ cả hai điều kiện mà sư thầy vừa nói. Tôi càng kinh ngạc hơn khi vị sư thầy chăm chú nhìn tôi một lát rồi nói:
- Thí chủ đây đã lập lá số tử vi chưa? Nếu chưa tôi xin làm giúp!
Tôi lấy lá số tử vi của mình ra đưa cho vị sư thầy mà nói:
- Tôi mới lập lá số này được một tháng, nhờ thầy xem lại!
Vị sư thầy đón lấy lá số tử vi của tôi, liếc nhanh qua rồi nắm chặt lấy hai tay tôi mà rằng:
- Người cứu mạng tôi đây rồi! Hẳn là Bồ Tát đã đưa tới!
Mọi việc đã được quyết định chóng vánh như là vị sư thầy đã chuẩn bị sẵn từ trước: vị sư thầy thuê cho tôi một căn nhà nhỏ ở vùng ven đô, tiền trả trước một năm, ba ngày nữa tôi sẽ đem xe hoa đến đón cô dâu Sa Phi về đó làm lễ động phòng! Tất nhiên mọi chi phí cho tiệc cưới (gọn nhẹ), sư thầy lo hết!

Ngày thứ nhất, tôi làm xong cái việc khá quan trọng là tân trang căn nhà nhỏ, nơi sẽ trở thành tổ ấm gia đình của tôi sau nhiều năm phiêu bạt giang hồ, lăn lóc khắp rừng xanh núi đỏ cho đến biển bạc sóng cồn! Có lẽ cái nhu cầu cần có điểm dừng đã quá mạnh khiến cho tôi không hề cảm thấy run sợ mảy may khi phải đối mặt với sứ giả của tử thần! Có lúc tôi cũng tặc lưỡi mà cười thầm: “Có chết trong tay người đẹp cũng còn hơn là chết tan xác nơi sa trường mịt mù bom đạn! Vả lại, vị sư thầy đã cam đoan với tôi rằng, cái tướng sát phu dù có dữ dội tới cỡ nào cũng không hại được tôi, vì tôi đã có quý nhân phù trợ, hơn chục lần tôi đã thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc đã khẳng định chắc chắn điều đó !”.
Quả nhiên, trong giấc ngủ ở nhà mới đêm đầu tiên, tôi đã được Phật Tổ Như Lai hiện ra báo mộng: Ngài hiện ra trong ánh hào quang rực rỡ, nhìn tôi bằng ánh mắt nhân từ, tuy Ngài không nói gì nhưng đã mỉm cười với tôi! Tôi hiểu ra ngay cái ẩn ý ở sau sự kiện này: tôi đã có công cứu nạn người nhà Phật (tức vị sư thầy chùa Pháp Vân) nên số phận đã mỉm cười với tôi, tôi cứ im lặng làm theo sự xếp đặt của số phận, không nói gì cả, vì im lặng là vàng mà!

Ngày thứ hai, tôi đi thuê xe ô-tô đón dâu và một bộ complê và mua một vài thứ lặt vặt cần dùng. Xong việc, cũng vừa tới bữa trưa, tôi vào một nhà hàng nơi con hẻm yên tĩnh để tự thưởng cho mình một chầu no say, đặng ngày mai bước vào cuộc chiến đấu mới đầy bí hiểm! Vừa uống xong li bia đầu tiên thì thật bất ngờ, Siêu – người bạn học với tôi từ năm học lớp mười ở trường Hải An (Hải Phòng), đi vào, một mình! Sau phút hàn huyên tôi mới được biết: Tốt nghiệp đại học Thủy sản, Siêu về làm việc ở Sở Thủy Sản Hải Phòng một thời gian rồi lên cơ quan Bộ, một thời gian sau nữa làm giám đốc một công ty xuất nhập khẩu thủy hải sản, hiện đang chuẩn bị nhận chức phó Tổng giám đốc của một Tổng công ty rất lớn. Hỏi đến chuyện vợ con, Siêu rầu rĩ nói:
- Ngày mai là ngày tao cưới vợ lần thứ hai. Nếu như vợ trước của tao đẹp như hoa hậu thì vợ này không thua gì Thị Nở của anh Chí Phèo!
Tôi ngạc nhiên:
- Thế thì thôi đi, như mày lấy vợ đẹp có khó gì?
- Không thể thôi dễ dàng như mày nói thế được! – Siêu nói thong thả – Cô nàng tuy xấu mã nhưng lại tốt tướng, phải nói là quý tướng, đó là tướng “vượng phu ích tử”: nàng vừa có ngọc đới yêu vi vừa có song long nhiễu nguyệt, người như thế trong ngàn người mới có một! Hơn nữa, cha và mẹ nàng đều có thế lực cực mạnh ở trong giới kinh doanh và quan trường!
- Thế thì còn rầu rĩ cái nỗi gì! Cứ cưới cô vợ Thị Nở ấy đi, khi nào thích “ăn phở” thì một cú điện thoại là có liền, mà “phở” bây giờ được “nâng cấp” tới cỡ siêu người mẫu, hoa hậu, ngôi sao điện ảnh… thậm chí có cả “hàng ngoại” với đủ các màu da, các quốc tịch! – Tôi nói như là rất sành sỏi trong đề tài này!

Siêu như là không hứng thú với cái đề tài “phở”, hỏi sang chuyện làm ăn của tôi và tỏ ra ái ngại cho cảnh ngộ hiện tại của tôi. Siêu nói:
- Chịu khó chờ một thời gian nữa, khi nào tao nhận chức, tao sẽ lấy mày về làm việc ở Phòng thông tin – tuyên truyền, chắc là mày sẽ làm tốt! Còn chuyện vợ con thì sao?
Khi tôi đưa tấm hình của Sa Phi cho Siêu xem và nói ngày mai sẽ là ngày đón dâu, Siêu kinh ngạc thốt lên:
- Tiên nữ giáng trần! Không thua gì tứ đại mỹ nhân bên Tàu ngày xưa! Cô gái này có vẻ đẹp bế nguyệt của Điêu Thuyền!
- Chính xác! – Tôi thừa nhận – Dung nhan thì hao hao như Điêu Thuyền, nhưng tư chất thì đặc biệt thông minh, trí nhớ thật siêu phàm. Đọc sách chỉ một lần là hiểu ngay và nhớ hết, có thể đọc ngược Truyện Kiều không sai một chữ! Cô ta đã tự học ba ngoại ngữ Anh, Pháp và Trung Hoa! Tuy không học qua trường nào nhưng có thể giải nhanh chóng tất cả các đề thi đại học.

Những câu chuyện về cô gái Sa Phi đã thực sự cuốn hút anh bạn Siêu của tôi, nhất là chuyện sát phu kỳ lạ và kinh hoàng! Khi chúng tôi đã uống hết một thùng bia Heineken, Siêu nói “xì-tốp” và kêu một ấm trà Thái rồi châm rãi nói:
- Mày phải hủy bỏ ngay đám cưới này! Để rồi tao sẽ làm mối cho mày một người vợ có tướng cách cực quý, vừa vượng phu ích tử vừa rất xinh đẹp, lại có chức danh Phó Giám đốc đàng hoàng!
- Dù có là Nữ hoàng bây giờ muốn cưới tao, tao cũng không ham. Đã nhận lời người ta rồi, mọi việc đã hoàn tất, không thể thất tín được, nhất là với người nhà Phật! Hình như trong chuyện này, cả Phật Tổ Như Lai và Quan Âm Bồ Tát đều nhúng tay vào! – Tôi nói to như quát.

Hai người hai quan niệm khác nhau thật khó mà có thể đi đến một sự hòa hoãn. Những tưởng cuộc tranh luận của chúng tôi sẽ dẫn đến xung đột vì chúng tôi vốn cùng nóng tính và từ thời học trò vốn chẳng ai chịu thua ai. Song, anh bạn Siêu của tôi tỏ ra bình tĩnh và sành đời hơn.
Không hiểu sao, Siêu bỗng đưa cho tôi cái điện thoại di động mới cứng và nói:
- Cái điện thoại di động này tao mua cho mụ vợ, nhưng hôm nay gặp lại mày ở đây, tặng mày luôn. Mày hãy gọi cho một người thân nào đó bất kỳ mời mai đến dự lễ cưới của mày, nếu người đó nhận lời ngay thì mọi điều mày nói từ nãy đến giờ đều đúng! Còn nếu mày gọi tiếp cho hai người nữa mà không ai nhận lời thì mày phải nghe tao, hủy đám cưới!
Tôi nhận cái điện thoại di động từ tay Siêu, ấn ngay số máy điện thoại của bà chị cả. Vừa nghe thấy giọng nói của tôi, bà chị đã nói ngay, giọng mếu máo:
- Mẹ ốm nặng, tình hình rất nguy kịch, cậu ra Hà Nội ngay, chị sẽ ra sau vì cả ba đứa cháu của cậu đều đang sốt ói mửa lung tung…
Nhận được tin dữ, tôi bảo Siêu đưa tôi đến chùa Pháp Vân ngay. Vị sư thầy chấp nhận quyết định chớp nhoáng của tôi: tôi phải đi Hà Nội ngay, Siêu sẽ thay tôi giải quyết vụ cô gái tướng sát phu.

* * *

Ra Hà Nội, tôi chỉ được báo hiếu mẹ một tháng thì mẹ tôi qua đời. Trước khi nhắm mắt xuôi tay, mẹ tôi chỉ đọc cho tôi nghe một câu ca dao cổ:
“Con ơi, nhớ lấy câu này
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ đi!”
Sau cái chết của mẹ, mọi suy nghĩ của tôi về sự đời như là có sự thay đổi rất lớn: Nếu như trước đây tôi “coi trời bằng vung”, sẵn sàng “bán trời không văn tự” thì bây giờ lúc nào tôi cũng cảm thấy sợ hãi, thấy mình yếu đuối, bé nhỏ vô cùng, cô đơn vô cùng! Tệ hại hơn là trong giấc ngủ thường có ác mộng: cảnh bom đạn nơi chiến trường ngày xưa cứ hiện về không ngớt, và kết cục những cơn ác mộng ấy là một chùm bom cứ lao thẳng vào người tôi, có lần là cả một tốp hơn chục chiếc máy bay “Thần Sấm”, “Con Ma” cứ nhằm tôi mà lao tới cùng với những âm thanh gầm rú ghê rợn !… Và cuối cùng tôi đã rút ra phương châm xử thế: tránh mọi va chạm với người đời và tránh xa mọi tai ương có thể xảy ra! Để làm được như thế, không có cách nào tốt hơn là làm theo các ẩn sĩ thời xưa!

Biết tôi có ý định tìm chỗ ở ẩn, Lò Giàng Páo – cậu học sinh cũ của tôi khi tôi dạy ở trường dự bị đại học Dân tộc Trung ương – nói sẽ dẫn tôi lên quê hương Hà Giang của cậu núi non trùng điệp, rất nhiều chỗ sơn thủy hữu tình có thể dựng Am cỏ như người xưa! Páo là người Lô Lô, rất nhiệt tình nên chỉ sau một tuần, tôi đã làm xong thủ tục chuyển vùng. Chỉ chờ Páo xin nghỉ phép là thầy trò chúng tôi có thể lên đường…
Sáng hôm ấy, tôi đang thơ thẩn ở Viện Bảo tàng dân tộc để chờ Páo thì bất ngờ gặp lại Giàng A Thạc – học cùng với tôi hồi lớp Năm ở trường Lương Ngọc Quyến – Thái Nguyên. Khi biết ý định muốn lên rừng của tôi, anh chàng họ Giàng người H’mông cười chảy nước mắt rồi kéo tôi đi, vừa đi vừa nói:
- Tao có thằng bạn rất thân, hóa ra lại là bạn học với mày hồi lớp Mười ở Hải Phòng. Mày nhớ thằng Đông chứ, tốt nghiệp trường Đại học Mỏ – Địa chất, nó về làm ở một đoàn Địa chất ở Thái Nguyên, tao với nó chơi với nhau từ đó. Rồi nó được đi làm luận án tiến sĩ ở Nga, rồi về làm bên Dầu khí. Lần này nó rủ tao về Vũng Tàu. Chắc chắn là mày gặp nó là sẽ bỏ ngay ý định lên rừng mà sẽ đi xuống biển với chúng tao!
Quả nhiên khi gặp Đông, tôi bị Đông thuyết phục đi Vũng Tàu với Đông và anh bạn người H’Mông, và điều đặc biệt là Đông sẽ nhờ tôi làm quản lý trang trại của Đông ở Đồng Nai – như vậy là vẫn có chỗ cho tôi dựng Am cỏ làm Ẩn sĩ. Thì ra Đông làm công tác Thanh tra của ngành Dầu khí. Đông kể cho tôi nghe khá nhiều chuyện thuộc loại “thâm cung bí sử” của ngành Dầu khí và lấy làm tiếc rằng tôi không còn làm báo nữa vì nếu còn làm báo sẽ được có những tài liệu “độc nhất vô nhị” về những vụ tham nhũng động trời mà Đông đang thu thập chứng cớ. Nếu như trước đây, hẳn là tôi sẽ bám riết lấy Đông mà khai thác tài liệu, nhưng giờ thì tôi đã “tắt lửa lòng”, không muốn quan tâm đến thế sự nữa, điều mà tôi quan tâm ở Đông là cái trang trại của Đông ở Đồng Nai. Vì thế, sau ba ngày tắm biển sảng khoái ở Vũng Tàu, tôi thúc giục Đông đưa tôi đến trang trại…

Trang trại của Đông thật là trên cả tuyệt vời, nếu tả cảnh thuần túy và thật cô đọng, ngắn gọn cũng phải hết năm chục trang sách khổ 13×19. Còn nói về tiềm năng phát triển kinh tế của trang trại thì cũng không dưới năm mươi trang! Tuy nhiên, điều thu hút sự chú ý của tôi ở cái trang trại này không phải là thiên nhiên kỳ thú mà là những người đang làm việc ở đây, mà đáng chú ý nhất là một người đàn bà trạc tứ tuần có tên gọi là Sái phu nhân. Tôi té ngửa khi chợt nhân ra khuôn mặt của Sái phu nhân rất giống cô gái Sa Phi ở chùa Pháp Vân! Chẳng lẽ đó chỉ là sự giống nhau ngẫu nhiên? Nhưng sau khi tìm hiểu thì sự ngờ vực của tôi đã có lời giải: bà Sái phu nhân chính là mẹ đẻ của cô gái Sa Phi! Và cái tên Sái phu nhân cũng do chữ “sát phu” mà ra: từ năm mười bảy tuổi đến năm bốn mươi tuổi, bà ta đã mười lần lên xe hoa và cả mười tân lang đều chết “bất đắc kỳ tử”, điều đáng ngạc nhiên là cả mười tân lang đều là quan chức cỡ giám đốc, Tổng giám đốc, trong đó có hai vị thuộc ngành du lịch, hai vị ở ngành Ngân hàng, hai vị ở ngành Dầu khí, hai vị ở ngành Thủy hải sản và hai vị ở ngành Thương mại! Với “chiến tích” đó, bà Sái phu nhân còn có tên gọi “Thập đạo Nữ tướng quân”, đó là giới sử học gọi còn cánh nhà báo thì gọi là “Dũng sĩ diệt giám đốc”.
Khi tôi nói rằng tôi đã gặp cô gái Sa Phi ở chùa Pháp Vân thì bà Sái phu nhân bỗng khóc rống lên một hồi rồi nói:
- Tôi thật đáng chết khi bỏ con bé vào chùa Pháp Vân! Con ơi, con hãy tha tội cho mẹ! Sau đó ba năm, tôi có nhờ người đến tìm nhưng không thấy, tính đến nay đã gần hai mươi năm trời, không biết con tôi thế nào? Nếu ông biết con tôi ở đâu dẫn nó về đây với tôi, tôi xin tình nguyện làm tôi tớ cho ông mãi mãi!

Vốn có tính dễ mủi lòng trước những lời cầu xin đẫm lệ, tôi nhận lời đi tìm Sa Phi, vả lại tôi cũng có chút “duyên nợ” với cô gái này! Tôi lập tức đi tìm Siêu. Có lẽ đến nhà cô gái xấu như Thị Nở nhưng có tướng “vượng phu ích tử” mà chắc là Siêu đã cưới làm vợ thì sẽ gặp Siêu. Nhưng khi tôi đến thì cô Thị Nở nói với tôi:
- Anh Siêu chê em xấu xí quá nên đã hủy hôn mà cưới cô gái có cái tên “Sa Sát” gì đó rồi! Nghe nói họ đang hưởng tuần trăng mật ở Đà Lạt, anh lên đó sẽ gặp ngay!

Tôi đến ngay Công ty của Siêu thì họ cũng nói vậy và cho tôi số máy di động của Siêu. Tôi gọi ngay cho Siêu thì người trả lời lại là tiếng Sa Phi: ”Em là Sa Phi đây! Anh Siêu của em đang ở đâu hả? Chúng em đang ở thác Đăm Bri, anh ấy vừa rơi xuống thác cách nay năm phút, đội cứu hộ đang tìm nhưng chưa thấy xác!”. Không biết cô gái Sa Phi còn nói gì nữa không mà tôi chỉ nghe thấy tiếng thác dội ầm ào!

Đỗ Ngọc Thạch
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeMon Nov 05, 2018 4:05 pm

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  145568261-352-k23218

Gào Trăng Trong Núi
Nguyên tác: Sangetsuki
Nakajima Atsushi (1909-1943)
Người dịch: Nguyễn Nam Trân

Lời Người Dịch:
Nakajima Atsushi sinh năm 1909 ở Tokyo và qua đời năm 1943 cũng tại đây do suy tim, hậu quả của chứng suyễn kinh niên. Vỏn vẹn trên ba mươi năm làm người, ông đã chứng kiến toàn chuyện bất hạnh trong đó có cảnh tổ quốc Nhật Bản nhảy vào chiến tranh Thái Bình Dương một năm trước khi ông tạ thế. Lúc nhỏ đau yếu mãi, rốt cục tốt nghiệp đại học, ông lao đao vì sinh kế. Sau khi dạy văn ở trường Nữ Trung Học Yokohama một thời gian, ông đành để vợ con ở Tokyo đi nhận chân thư ký ngoài đảo Saipan đổi gió chữa bệnh. Được ít lâu, ông lại từ chức trở về Tokyo, lao đầu viết và viết nhưng chẳng mấy lúc lên cơn suyễn nặng rồi mất.

Văn chương ông phần lớn bắt nguồn từ cổ điển Trung Quốc, có lẽ vì xuất thân từ một gia đình cựu nho. Thời trẻ, theo cha qua Triều Tiên, Mãn Châu, sau có dịp đó sinh sống và du lịch Trung Quốc, quần đảo Ogasawara, Saipan nên hơi văn phảng phất hương vị trời xa xứ lạ. Ông thường lồng khung tác phẩm trong bối cảnh cổ xưa như thời Xuân Thu (với các nhân vật như Khổng Khâu, Tử Lộ, Vệ Trang Công, Thúc Tôn Báo). Hán (Lý Lăng, Tô Vũ, Tư Mã Thiên), Đường (Sa Ngộ Tịnh)... Ngoài Hàn Phi Tử, Vương Duy, Cao Thanh Khâu, Sử Ký, Tả Truyện ông còn ham đọc các tác giả Âu Mỹ như Anatole France, Aldous Huxley, Robert Stevenson, O'Henry và Goethe nên lối hành văn của ông chính ra chịu nhiều ảnh hưởng Tây Phương.

Từ những đề tài cũ, ông chỉ giữ lại những chi tiết làm mình xúc cảm rồi dàn dựng tài tình một thế giới hư cấu huyền ảo và qua đó, bày tỏ quan điểm về con người và cuộc sống.

Gào Trăng Trong Núi (Sangetsuki, Sơn Nguyệt Ký) mượn tích Nhân Hổ Truyện, một thiên truyền kỳ đời Đường do Lý Cảnh Lượng soạn, trích từ tác phẩm Cựu Tiểu Thuyết Ngô Tăng Kỳ biên. Tuy nhiên, chắc chắn thể nghiệm thân xác bị suyễn hành hạ của Nakajima Atsushi cũng góp phần không nhỏ vào việc xây dựng tác phẩm. Qua nó, chúng ta thấy bóng dáng Hoá Thân (Metamorphose) (người biến thành sâu) của văn hào Tiệp gốc Do Thái Frank Kafka và những truyền thuyết về người hóa sói ở Âu Châu nhưng diễn ra trên một bình diện và mang một ý nghĩa khác.

Nguyên tác ra mắt độc giả năm 1941 trên tờ Bungakkai (Văn Học Giới) đã được nhà xuất bản Kadogawa in khổ bỏ túi từ 1968 và tái bản đến lần thứ 55 năm 2003. Văn ông thường được dùng làm tài liệu giáo khoa cho thanh thiếu niên Nhật.

***

Lý Trưng (1) người Lũng Tây (2) học rộng tài cao, cuối năm Thiên Bảo (3), tuy hãy còn trẻ mà đã tên đề bảng hổ, được bổ ngay chức Úy ở Giang Nam. Tính tình ngang bướng, chẳng coi ai hơn mình, không chịu nổi phận hèn kém nên chỉ ít lâu đã treo ấn về vườn. Nằm khểnh ở núi cũ, đóng cửa tuyệt giao người đời, mê mải làm thơ quên hết ngày giờ.

Lý nghĩ thay vì ôm chức lại quèn suốt ngày quì gối trước bọn thượng quan nhơ bẩn, chi bằng theo đuổi nghiệp thơ để trăm năm sau danh thơm còn lưu truyền hậu thế. Tuy nhiên, tên tuổi nào có thấy đâu mà cái nghèo cứ bám miết làm Lý không khỏi bực bội. Từ đấy, mặt mày tiều tụy, gầy guộc xác ve. Ngoài cặp mắt với cái nhìn sắc cạnh riễu cợt, chẳng còn tìm đâu ra dấu vết phong thái trẻ trung, đôi má tròn căng của ông tân tiến sĩ ngày đăng khoa.
Chỉ được vài năm, không kham nỗi cảnh túng quẫn, vì miếng cơm manh áo vợ con, đành khuất tiết, khăn gói về Đông nhận một chức quan nhỏ địa phương. Làm như thế một phần cũng vì đã tuyệt vọng về đường thi phú. Bè bạn đồng lứa ngày xưa ai nấy đều đã đường mây nhẹ cánh nhưng không nói cũng thừa biết, việc phải nhận mệnh lệnh từ lũ xưa kia Lý vẫn cho là lục tục tầm thường và không thèm để mắt tới là cực hình cho lòng tự ái của kẻ một thuở tài danh. Lý đâm ra tức tối nóng nảy, bắt đầu cảm thấy không kìm được triệu chứng cuồng khí đang bốc lên trong người. Cách đó một năm, khi có việc quan phải đi xa, đến chỗ trọ bên bờ sông Nhữ Thủy thì bệnh bỗng phát ra. Nửa đêm, mặt mày chợt biến dạng, Lý đứng trên giường gào hú những âm thanh lạ lùng không ai hiểu nổi rồi cứ nguyên như thế nhảy xổ xuống, chạy như ma đuổi vào trong đêm tối. Lý không bao giờ trở về nữa. Cho người kiếm khắp núi non rừng rú quanh vùng cũng chẳng đâu ra vết tích. Từ dạo ấy, không còn ai rõ hành tung.

Năm sau, có quan Giám Sát Ngự Sử người quận Trần tên gọi Viên Tham phụng mệnh xuống miền Lĩnh Nam, dọc đường ngủ đỗ đất Thương Ô. Sáng hôm sau, mới tờ mờ đất, quan đang sửa soạn lên đường thì kẻ lại giữ nhà trạm cho biết đoạn đường sắp tới thường có hổ ra vồ người nên bộ hành phải đợi trời sáng rõ mới dám đi. Bây giờ hãy còn quá sớm, quan nên đợi thêm chốc nữa. Thế nhưng Viên Tham có lẽ cậy tùy tùng đông đảo, gạt phắt lời khuyên của dịch lại.
Khi đoàn người đang nương theo bóng trăng tà đi ngang truông cỏ giữa rừng thì đúng như dự đoán, một con mãnh hổ chợt từ lùm cây phóng vọt ra. Hổ mới dợm chồm về phía Viên Tham thì thoắt cái đã quay ngoắt vào bụi rậm. Giữa lùm cây bỗng nghe có tiếng người thì thào lập đi lập lại “Suýt chút nữa xúc phạm đến cố nhân!”. Giọng nói ấy Viên Tham có dịp nghe ở đâu rồi.
Tuy đang kinh hãi nhưng trong đầu Viên Tham bỗng như có ánh chớp loé ra, sực nhớ mới kêu lên: “Tiếng nói kia có phải của bạn ta là chàng Lý Trưng không?” Viên Tham vốn đỗ Tiến Sĩ đồng khoa, là một người bạn thân trong số người hiếm hoi Lý cho là bạn. Có lẽ chỉ vì Viên tính khí ôn hoà, không xung khắc với cái kiêu căng ngạo mạn của Lý.

Bẵng một lúc, trong lùm cây không thấy ai đáp. Thế rồi nghe tiếng khóc thút thít nghẹn ngào vọng ra từng hồi. Một đỗi sau, mới có giọng trầm trầm trả lời: “Vẫn còn gọi tôi là Lý Trưng đất Lũng Tây được đấy!”.
Viên Tham quên cả sợ, xuống ngựa tiến lại gần lùm cây, bồi hồi kể lể nỗi nhớ nhung lâu ngày vắng bạn. Lại hỏi tại sao không chịu ra khỏi lùm để gặp nhau.
Lúc ấy mới nghe giọng Lý Trưng trả lời cho biết ngày nay mình đã mang hình quái vật gớm ghiếc thì đâu dám bước ra chào cố nhân mà không khỏi thẹn. Hơn nữa, có chường mặt chỉ làm bạn cũ sinh lòng khiếp sợ và ghét bỏ thôi. Tuy nhiên hôm nay không hẹn mà gặp cố nhân giữa đường thì lòng mình vô cùng cảm khái quên mất tị hiềm. Thế thì cho dù một khoảnh khắc, chỉ xin đừng đem lòng ghê tởm cái vỏ ngoài xấu xí kinh khiếp mà cho gã Lý Trưng ngày xưa được trò chuyện đôi lời.

Về sau Viên Tham nghĩ lại mới thấy lạ lùng nhưng thực tình lúc đó quan đã đối phó với tình huống dị thường này hết sức tự nhiên, không hề kinh động. Quan bèn truyền lệnh cho đội ngũ tùy tùng dừng chân lại và một mình đứng trước bụi rậm trò chuyện với cái tiếng người kia. Họ hết trao đổi về những tin đồn ở kinh đô, tin tức bạn bè cũ, địa vị của Viên bây giờ rồi đến lượt Lý Trưng chúc mừng Viên Tham. Sau bao câu chuyện ân cần với giọng thân mật như thuở còn trai trẻ, Viên Tham mới hỏi Lý Trưng vì cớ gì để thân phải đến nước nầy. Trong bụi cỏ, tiếng người mới thuật hết ngọn ngành:

Cách đây độ một năm, trên đường đi xa, ban đêm lúc tôi ngủ đỗ ở quán trọ bên bờ Nhữ Thủy thì chợt thức giấc và nghe như ngoài cửa có ai gọi tên mình. Tôi mới nghe theo bước ra ngoài thì tiếng kêu từ trong bóng tối đôi lúc cứ tiếp tục vẫy gọi. Bất giác, tôi đuổi theo tiếng gọi ấy và sau một hồi chạy bất kể trời đất như trong cơn mơ, tôi đến tận bìa rừng. Thế rồi không biết tự lúc nào, hai bàn tay tôi đã cào lấy mặt đất và nương theo đó phóng đi. Tôi cảm thấy trong người dào dạt một nguồn sinh lực sung mãn giúp tôi trèo vượt đá ghềnh thoăn thoắt. Nhìn lại mới thấy chỗ từ ngón đến khuỷu tay, hình như lông lá đã bắt đầu mọc.
Lúc trời sáng thêm một chút, đến chỗ dòng sông dưới thung lũng nhìn hình thù in trên mặt nước thì thấy mình đã hóa hổ rồi. Lúc đầu còn tưởng là hoa mắt, sau lại ngỡ đang ở trong giấc chiêm bao. Bởi vì tôi từng có kinh nghiệm lúc đang ở trong giấc mộng lại thấy mình nằm mộng nữa kia. Đến khi thấy cần phải hiểu đây không là mộng mị gì cả, tôi mới đâm ra thẩn thờ. Rồi khiếp sợ. Một sự sợ hãi sâu xa vì biết rằng bất cứ chuyện gì quái lạ đến đâu cũng có thể xảy ra. Thế nhưng cớ gì tai nạn lại đổ lên đầu tôi thế nhỉ. Không hiểu được. Hoàn toàn không hiểu nổi. Chắc số trời bắt tôi phải sống cái kiếp nầy mà không cần cho biết lý do, chỉ nên lẳng lặng chấp nhận định mệnh đã an bài như thế. Tôi đã định hủy mình. Có điều lúc tôi chực chết đi cho yên bỗng có con thỏ chạy qua trước mặt. Nhân tính liền biến đâu mất. Khi cái thằng người trong tôi bừng mắt dậy thì mồm tôi đã dây đầy máu thỏ, bên cạnh lông thỏ rụng vương vãi rồi. Đấy là kinh nghiệm làm hổ đầu tiên trong đời tôi. Còn nói chi biết bao điều tôi tiếp tục làm kể từ ngày ấy.

Duy có một đôi giờ trong ngày, tình cảm con người trở lại trong tôi. Khi ấy, tôi vẫn còn sử dụng được tiếng người và có khả năng suy nghĩ những điều khá phức tạp như xưa. Hãy còn nhớ làu làu nội dung sách vở kinh sử. Lúc đó tôi có dịp đem cái lòng con người để đánh giá hậu quả những hành vi tàn ngược tôi đã làm trong lốt hổ, rồi lúc nhìn lại số phận mình, tôi thấy không có gì đáng thẹn, đáng sợ và đáng tức hơn. Tuy nhiên theo thời gian, những giây phút trở về với bản tính con người càng ngày càng ngắn lại.
Tôi hãy còn lấy làm quái lạ tìm hiểu tại sao mình lại hóa hổ nhưng mấy lúc gần đây, có khi bất đồ tự hỏi tại sao trước kia mình là người cơ nhỉ. Đó mới là điều đáng sợ. Mai mốt, cái phần tình cảm con người chắc sẽ bị tập quán thú vật chôn biến đi chăng? Khác nào nền móng cung điện cổ xưa bị vùi trong đất cát. Cứ như thế, một ngày khi quên hết cái quá khứ làm người rồi thì chỉ còn là một con hổ hung hăng, gặp cố nhân ở giữa đường nhận không ra, có vồ ăn thịt cũng chả cảm thấy chút hối hận. Thế thì người lẫn thú, cả hai trước kia là loài gì thế? Trước đó hãy còn nhớ gốc gác sau dần dần quên bẵng đi và cứ ngỡ hình thù hiện tại mang trên thân xác mới là cái ta xưa nay? Nhưng thôi, chuyện đó ra sao cũng được! Để mặc tình cảm con người sót lại trong lòng biến mất đi có khi giúp mình sống hạnh phúc hơn. Dầu vậy cái phần con người trong ta nó lại không sợ gì hơn là rơi vào cảnh đó. Ôi, buồn làm sao, lo làm sao mà cũng xót xa làm sao mỗi lần nghĩ đến khi mình sẽ quên đi có lúc đã làm người. Tình cảm này ai thấu cho ta. Chắc nào ai biết được! Nếu có, phải là người sống cùng hoàn cảnh. À nầy, phải rồi! Trước khi tôi hoàn toàn hết còn là người, chỉ xin cố nhân giúp cho một chuyện.

Nãy giờ, cả Viên Tham lẫn đám tùy tùng đều nín thở, lắng tai nghe tiếng nói lạ lùng từ trong lùm cây vọng ra. Giọng ấy lại tiếp tục:
Không dám yêu cầu gì quá quắt. Lý tôi bình sinh làm thơ và những mong nhờ đó để chút danh lại trên đời. Nay sự nghiệp chưa thành mà số phận đã ra nông nỗi nầy. Xưa kia sáng tác được vài trăm bài vẫn chưa có dịp cho lưu hành ở đời. Bản thảo bây giờ cũng không nhớ để đâu. May là trong số đó vẫn còn thuộc lòng vài chục. Chỉ mong bác giúp ghi chép gìn giữ hộ. Không phải muốn dựa vào đó để dương danh thi sĩ. Thơ tôi hay dở mặc lòng nhưng nó tượng trưng cho những gì một đời đeo đẳng đến nỗi cửa nhà khánh tận, tính khí cuồng điên. Nếu không gửi gắm một chút lại đời sau thì chết đi khó lòng nhắm mắt.

Viên Tham bảo bộ hạ đem giấy bút rồi theo tiếng nói trong bụi mà ghi chép lại. Giọng Lý Trưng từ lùm cây vang ra sang sảng. Dài ngắn cả thảy trên ba mươi bài, văn thể cao nhã, ý nghĩa phiêu dật, chỉ đọc qua một lượt đã thấy bài nào cũng bộc lộ tài năng phi phàm của tác giả. Tuy trong bụng không khỏi khen thầm nhưng Viên Tham mơ hồ cảm thấy quả tình không có gì để nghi ngờ năng khiếu trời cho của Lý mà quái lạ, các tác phẩm coi như vượt hẳn người đời thế nầy xem ra hãy thiêu thiếu cái gì.
Sau khi đã để tuôn trào những vần thơ cũ, giọng của Lý Trưng đột nhiên đổi khác, như thể tự trào:
Đáng thẹn cho tôi, ngày nay đã mang cái lốt gớm ghiếc nầy rồi mà vẫn cứ muốn nhìn thi tập của mình bày trên án thư của khách phong lưu tài tử đất Trường An. Nằm dài trong hang đá mà còn mơ mộng chuyện đâu đâu. Cứ chế riễu tôi đi! Thằng đàn ông đáng thương, nhà thơ thì không thành mà lại thành hổ. (Viên Tham nghe và chợt nhớ cái tật thích tự trào của Lý Trưng ngày còn trẻ mà đau lòng cho bạn). Được rồi, để bác có thêm dịp cười cợt, tôi xin ứng khẩu đọc mấy vần thơ nói lên cái tâm sự bây giờ của tôi. Nó là bằng cớ cho thấy trong xác hổ nầy vẫn còn có chút Lý Trưng:

Ngẫu nhân cuồng tật thành thù loại,
Tai hoạn tương nhưng bất khả đào.
Kim nhật trảo nha thùy cảm địch,
Đương thì danh tích cộng tương cao.
Ngã vi dị vật bồng mao hạ,
Quân dĩ thừa diêu khí thế hào.
Thử tịch khê sơn đối minh nguyệt,
Bất thành trường khiếu đãn thành hao.

(Nhỡ mắc bệnh cuồng mang xác lạ.
Tai họa bao vây, trốn thế nào?
Nanh vuốt ngày nay ai chẳng sợ,
Nhớ xưa danh tiếng một thời cao.
Tôi thân quái vật vùi truông cỏ,
Bác ngựa xe quan thế mạnh bao!
Đêm nay khe núi nhìn trăng sáng,
Muốn rống thê lương, thoắt nghẹn ngào)

Lúc đó, trăng tàn, ánh sáng tỏa bàng bạc, móc trắng thấm ướt mặt đất, gió lạnh len qua hàng cây báo hiệu ngày sắp rạng. Mọi người hầu như đã quen với không khí quái dị, chỉ than thầm cho cái thái độ khinh bạc của nhà thơ. Lý Trưng lại tiếp lời:
Tôi vừa thưa không biết cớ gì mình ra nông nỗi nầy nhưng suy đi nghĩ lại thì sự thể xãy ra không phải hoàn toàn vô cớ. Khi tôi còn là người, tôi lại cố kiếm cách lánh đời. Họ bảo tôi ngạo mạn, tự cao tự đại. Nhưng ai nào biết cho thái độ đó chỉ bắt nguồn từ tính nhút nhát của tôi. Dĩ nhiên, ngày xưa trong xóm ngoài làng, được xem như kẻ tài năng xuất chúng, tôi làm gì không khỏi tự kiêu. Nhưng phải nói cái tự kiêu đó xuất phát từ tính nhát nhúa mà thôi. Một đằng tôi muốn mượn văn chương để lưu danh với đời, một đằng lại ngại tìm thầy, kết bạn hòng trao đổi dùi mài thêm. Nói cách khác đi, cứ như là cao ngạo không muốn chung đụng với những kẻ lục tục thường tài. Nhưng điều đó cũng là do lòng tự tôn phát xuất từ nhát nhúa và e thẹn. Sợ làm hao phẩm chất châu ngọc của mình đi nên không gắng công khắc khổ rèn cập. Tin rằng mình đã có được phân nửa chất ngọc, không chịu xuống ngang hàng với hàng ngói vỡ gạch vụn. Rồi dần dần lìa bỏ cuộc đời, xa lánh loài người. Uất ức tủi hờn đã nuôi dưỡng cái lòng ngạo mạn và tính nhát nhúa ngày thêm to lớn.

Người ta ai cũng phải dạy cho thuần một con mãnh thú trong người. Bản sắc con thú như rập khuôn với tính tình của ta. Trong trường hợp tôi, con thú đó là lòng ngạo mạn do e thẹn sinh ra. Nó là tính hổ. Con hổ đó đã làm tôi đánh mất thân danh, làm khổ vợ con, làm tổn thương bè bạn. Tóm lại, bên ngoài thân xác biến dạng thế nào thì lòng tôi cũng biến chất theo thế ấy. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy chính mình đã làm uổng phí cả chút tài mọn mình có. Cái câu răn đời thường thấy ở cửa miệng người ta là « cuộc đời nếu không làm gì cả thì thấy nó dài nhưng có chuyện làm lại rất ngắn » thường được đem ra mà đùa nhưng sự thực, cái mối lo lắng hèn nhát ngại mình « phô cho người ta thấy cái tài hãy còn non nớt » để rồi đâm ra bê trễ không chịu khắt khe với bản thân mới là tất cả cái dở của tôi. Có biết bao nhiêu người tài nghệ thua sút tôi xa nhưng họ một lòng một dạ trau giồi nên đã đường đường thành những nhà thơ. Giờ mang xác hổ rồi, tôi mới thấm thía điều đó. Mỗi lần nghĩ đến, tôi cảm thấy tâm can dày vò vì hối hận. Nhưng tôi hết còn sinh hoạt như người thường nữa rồi. Giả dụ giờ đây trong đầu tôi có nghĩ được một bài thơ hay. Liệu có cách nào truyền đạt cho người khác biết không?
Hơn nữa đầu óc tôi mỗi ngày càng giống hổ thêm. Biết sao đây, hở trời! Bao tháng ngày bỏ phí hỏi tìm đâu? Lần hồi tôi không chịu nổi nữa. Mỗi lúc như thế, tôi trèo lên mỏm đá trên đỉnh núi đằng kia, hướng về thung lũng hoang vu mà gầm. Tôi muốn đem nỗi buồn đang đốt cháy ruột gan thổ lộ cho ai kia được biết.
Tối hôm qua, tôi lại lên chỗ ấy ngước nhìn vầng trăng gào thét. Để một ai đó hiểu dùm nỗi thống khổ trong tôi. Tuy nhiên, muông thú nghe tiếng tôi gầm thì sợ hết vía, chỉ biết nằm bẹp dí. Cả núi rừng sương móc chung quanh chắc chỉ xem đó là tiếng rống của con hổ trong cơn giận dữ cuồng điên. Chồm lên không, phục xuống đất mà gào đi nữa, chẳng có lấy một người thấu được lòng. Cái thuở làm người cũng thế, có ma nào hiểu cho con tim nhạy cảm, dễ bị tổn thương của tôi đâu! Cái bộ lông đẫm ướt nầy, đâu chỉ vì thấm mỗi sương khuya.
Dần dà, màn đêm bốn bề rồi cũng vén lên. Giữa mấy hàng cây vọng từ đâu đến âm hưởng tù và báo hiệu bình minh rúc nghe buồn bã.

Phải từ biệt mà thôi. Giọng Lý Trưng cho biết cái giờ bước vào vòng mê muội (giờ phải trở về kiếp hổ) sắp điểm rồi. Thế nhưng trước khi chia tay xin nhờ cậy thêm điều nữa. Đó là chuyện vợ con. Gia đình tôi còn ngụ ở quê cũ đất Khách Lược, đến nay họ vẫn không rõ những gì đã xảy đến cho tôi. Khi cố nhân từ miền Nam trở về, có thể nào nhắn hộ với họ là tôi đã chết rồi không? Chuyện xảy ra hôm nay xin kín tiếng cho. Nói ra thì quá trơ trẽn nhưng xin thương xót lũ cô nhi mà lo toan để mai sau chúng nó không phải chết đói chết rét vệ đường thì ơn ấy không gì sâu dày hơn.
Nói vừa dứt lời, trong bụi rậm lại vang ra tiếng khóc thảm thiết. Viên Tham cũng mắt lệ lưng tròng xin nhận lời bạn phú thác. Nhưng giọng của Lý Trưng thoắt trở lại cái khẩu điệu tự trào khi nãy:
Đáng lẽ ra phải nói chuyện nhờ vả nầy trước tiên nhưng thuở làm người tôi chỉ nghĩ đến cái thi nghiệp chẳng ra gì của tôi thôi chứ có lo vợ con phải đói lạnh đâu. Vì chừng đó mà bị đọa xuống hàng cầm thú cũng nên!
Ngoài ra Lý còn nhắn thêm với Viên Tham khi từ phương Nam trở về xin chớ mượn con đường nầy nữa. Bởi vì lúc đó mình đã mê muội, không nhìn ra người cũ mà nhảy ra vồ cũng nên. Rồi sau khi giã biệt, đi đến chỗ gò cao cách đó chừng một trăm bước, nhớ quay mặt nhìn lại một lần cho. Để biết rõ hình dạng của tôi bây giờ. Không phải muốn khoe tư thế hùng dũng mà chỉ cho bác thấy hình thù xấu xa gớm ghiếc để mai sau qua chốn nầy, bạn dù có thương cũng ghê tởm không muốn tìm gặp nữa.

Họ Viên hướng về bụi rậm nói mấy câu thân ái từ biệt rồi lên yên. Bên trong bụi lại văng vẳng tiếng khóc thê thiết không gì cầm lại được. Viên Tham bao lần ngoái về hướng bụi rậm rồi ra roi đi trong nước mắt.
Như lời Lý dặn, đoàn người ngựa lên tới gò cao mới quay lại, đảo mắt nhìn cái truông giữa rừng cây ban nãy.

Tức thì một con hổ từ trong cỏ rậm phóng ra, leo lên đường cái và nhòm về hướng họ. Hổ ngẩng đầu lên nhìn vầng trăng giờ đây đã nhạt nhòa, gầm lên độ hai ba lần, xong quay mình lao vào bụi rậm rồi không thấy hình dáng đâu nữa.

Chú thích:
(1) Trong truyền kỳ của Lý Cảnh Lượng, Lý Trưng vốn dòng dõi hoàng tộc.
(2) Thuộc tính Cam Túc bây giờ.
(3) Niên hiệu thời Đường Huyền Tông (742-756)
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeTue Nov 13, 2018 11:36 am

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  9k=

Cái Đầu Lâu
Truyện Ngắn: Thế Lữ (1907-1989)


Chiều hôm đó, tôi ngồi chơi với Ngô Đàm trong phòng sách của anh ta. Sau một hồi chuyện phiếm, bạn tôi lấy ra một cái hộp gỗ trắng đem khoe tôi:
- Tôi mới mua được cái này hay lắm.
- Cái gì?
- Rồi anh sẽ biết.
Nắp hộp mở, anh lấy ra một cái đầu lâu lớn, nương nhẹ đặt lên bàn, rồi nhìn tôi mỉm cười. Tôi hỏi:
- Anh mua vật này làm gì?
Đàm không trả lời ngay, lim dim mắt, gạt tàn thuốc lá và thong thả nói:
- Cái đầu lâu là biểu hiện sự chết, là một vật mà các nhà hiền triết hoặc tu hành bên Âu châu thường bày trước mặt, bên những chồng sách đầy bụi bám để suy nghiệm về những lẽ huyền bí của "đời sau". Đối với một nhà thông thái thì đó là một vật khảo cứu cũng như viên đá lạ, một chất hóa học hay một ống cấy vi trùng. Tôi không phải là nhà hiền triết, không phải là nhà tu hành hay nhà thông thái, nên cái đầu lâu đối với tôi là một thứ bài trí ghê gớm, một thứ đồ... "mỹ thuật" của người hiếu kỳ như tôi. Nhưng có lẽ trong những lúc đọc sách ở nơi tĩnh mịch này, trong những khi suy xét về những điều bí hiểm của sự chết, của đời người, thứ đồ "bài trí" kia sẽ là một vật kích thích cho trí tưởng tượng của tôi... Biết đâu bạn anh sẽ chẳng là một nhà tư tưởng trầm mặc như nhà hiền triết, nhà tu hành?
Câu nói văn hoa, nửa nghiêm trang, nửa đùa cợt của Đàm khiến tôi hơi ngạc nhiên, nhìn bạn.
Bỗng cửa phòng bật mở, một người thiếu niên mặc âu phục bước vào, chưa kịp nói gì đã trông thấy cái đầu lâu, rồi đứng đực ra đó. Đàm hỏi:
- Kìa, anh Chung, sao hôm nay trông kỳ khôi thế?
Lúc ấy, Chung mới ngoảnh lại sẽ gật đầu chào tôi, rồi lại trân trân nhìn cái đầu lâu trên bàn, mãi mới nói:
- ồ anh Đàm! Anh cũng có cái này ư?
- "Cũng có?" Thế ra tôi không thể có một cái đầu lâu được sao?
- ồ, thế anh không thấy gì lạ chứ? Anh không thấy gì ư?
Chung ngồi xuống, đưa tay vuốt tóc, mặt hãy còn vẻ lo lắng, nhìn hết tôi đến Đàm rồi đến cái đầu lâu. Anh nói:
- Sao lại có sự ngẫu nhiên lạ thường đến thế? Tôi đến đây cũng định thuật cho anh nghe về cái đầu lâu ở nhà tôi... thì lại gặp ngay chính vật này... Chính cái đầu lâu này. Tôi đã tưởng nó đang ở nhà tôi biến lại đây, nên tôi mới sửng sốt đến thế. Để tôi kể đầu đuôi câu chuyện các anh nghe.
Chung lấy chén nước uống cạn một hơi, lóng cóng châm điếu thuốc lá rồi nói tiếp:
"Trước kia tôi vẫn ở trên Hàng Bông như anh đã biết. Nhưng cách đây nửa tháng, anh Lịch là người học trường Mỹ thuật mới ra năm nay, tìm được một cái nhà ngói ở ngoại ô để làm phòng vẽ. Nhà ấy một tầng chia làm hai căn rộng. Lịch ở một căn còn một căn gọi anh Thao học năm thứ hai trường thuốc với tôi đến ở cho vui và chịu đỡ Lịch ít tiền thuê nhà.
Chỗ này ở xa thành phố, chung quanh toàn bãi cỏ, một mặt ngoảnh ra phía đường cái. ở chỗ yên tĩnh như thế để học hành, lại rẻ tiền nhà, mà có hai người bạn cùng nhã nhặn tử tế cả thì còn gì dễ chịu hơn. Tôi không bao giờ phàn nàn nếu trưa hôm kia anh Thao không có cái ý kiến kỳ quặc đem về nhà một cái đầu lâu.


Đầu lâu thì tôi không lạ gì. Hồi còn học trường Bưởi, tôi đã được trông thấy nhiều lần ở phòng thí nghiệm. Nhưng cái mà anh Thao lấy ở nhà thương về lại là của một tên tù mới chết, trông còn mới, trắng hơn cái này nhiều, mà xương chưa được khô lắm. Thao xem ra quý hóa cái vật quái gở ấy lắm. Tôi thì không. Tôi thoạt trông thấy nó bỗng ghê rợn cả người... Có lẽ vì tôi thoáng nghĩ đến cảnh hiu quạnh chung quanh nhà của chúng tôi, hay có lẽ tôi vừa mới đọc xong những truyện linh hồn hiển hiện anh cho mượn ngày trước... Cái đầu lâu đặt trên bàn học anh Thao kê gần cửa sổ lúc nào cũng như chăm chú nhìn tôi bằng hai con mắt đen và rỗng, mà hai hàm răng thì nhe ra một cách chế giễu độc địa. Tôi có cái cảm giác khó chịu hình như "nó" biết cả những điều tôi nghĩ thầm. Tôi sinh ác cảm với "nó" và chắc hẳn "nó" cũng không ưa gì tôi. Cái vật trơ trơ kia không ngờ lại làm tôi băn khoăn đến thế. Tôi lấy đủ các nhẽ để tự nhủ mình cũng không xong, mà nỗi lo ngại của tôi mỗi lúc một thêm nặng nề như đè nén mãi lòng mình.
Tối hôm ấy, thấy bứt rứt trong người, để Thao ngồi học một mình, tôi đi nằm trước. Anh Lịch ở phòng bên cạnh vào nói mấy câu chuyện rồi lại ra ngay. Tôi nằm đó chừng đến hơn một giờ đồng hồ mới ngủ đi được. Nhưng cả trong giấc ngủ, tôi vẫn bị cái đầu lâu kia ám ảnh hoài. Tôi nằm mơ toàn thấy những đầu lâu với xương người, hay những cái ghê sợ hơn thế. Một lần tôi hốt hoảng thức dậy thì ngọn đèn cây trên bàn học anh Thao đã tắt, trong nhà tối đen như bưng lấy mắt, bên ngoài cũng vậy, vì tôi cố tìm cái cửa sổ chấn song sắt cũng không trông thấy đâu. Bên cạnh tôi anh Thao chừng đã ngủ say, tiếng thở đều và thong thả. Thỉnh thoảng một tiếng ngáy ở buồng anh Lịch lại đưa sang. Mọi vật quanh nhà đều im lìm. Không một tiếng lá bay, không một hơi gió thoảng. Tôi muốn quên mà không thể quên cái đầu lâu kia được. Tôi thấy hình như nó có tri giác, nó "vẫn còn thức" và trong bóng tối, đang nhăn răng tráo mắt nhìn sự kinh khiếp của tôi.
Bỗng nhiên tôi thấy lạnh tái người đi. Từ phía bàn giấy anh Thao, tôi chợt nghe thấy những tiếng ken két như hai hàm răng nghiến vào nhau. Tiếng ấy nghe mỗi lúc một rõ dần, mà lâu đến gần một phút. Trước tôi còn muốn tin là tiếng anh Thao nghiến răng trong mơ. Nhưng Thao nằm bên cạnh tôi, mà tiếng kia thì rõ ràng ở bàn giấy đưa lại. Tiếng nghiến răng vẫn không dứt, nghe ra giận dữ và ghê gớm hơn lên... Tôi vội nắm lấy cánh tay anh Thao, hết sức lay. Thao thức dậy hỏi thì tiếng nghiến răng lại ngừng bặt. Tôi ghé tai Thao nói rất nhỏ:
- Này Thao ạ, tôi vừa thấy một việc lạ quá!
- ở đâu?
- ở cái đầu lâu.
- Có lẽ nào?
- Cứ để yên mà nghe.
Rồi chúng tôi không nói gì thêm, lắng tai nghe ngóng một lúc thì lại thấy như trước, tiếng nghiến răng cứ trước nhỏ, sau to dần. Thao liền đứng phắt lên, chạy lại bàn đánh diêm thắp đèn: cái đầu lâu vẫn nguyên chỗ cũ, nhưng lúc ấy ngoảnh mặt nhìn về phía giường tôi nằm.
Chúng tôi nhìn khắp nhà một lượt. Không có gì lạ. Cửa sang phòng anh Lịch vẫn đóng kín. Của sổ tuy không có cánh, nhưng có chấn song sắt, mà cái bàn giấy của Thao kê xa đó những năm sáu bước, áp vào bức tường đối diện với giường của chúng tôi.
Thao bảo tôi rằng những tiếng vừa rồi là tiếng chuột gặm, nhưng chính anh cũng biết nhà chúng tôi không có qua một con chuột nào. Và cái tiếng lúc nẫy nghe to, nghe rõ một cách khác thường lắm.
Thao thấy tôi lo ngại cũng không bình tĩnh được, nhưng anh cố tìm lời an ủi tôi.
Chúng tôi để đèn rất lâu chờ xem, song không thấy gì. Nhưng khi tắt đèn lên giường nằm chưa đầy nửa giờ, thì cái tiếng nghiến răng lúc nãy lại bắt đầu, mà lần này thêm dữ dội.
Lúc ấy, cây đèn để ngay cạnh giường ngủ. Tôi chập ba que diêm làm một bật lên thắp. Trông sang bàn giấy thì cái đầu lâu đang lắc lư như thằng phỗng nhựa của trẻ con chơi!
Ngô Đàm bỗng phì cười lên thì Chung có ý không bằng lòng.
"Quả thế, cái đầu lâu cứ nhăn nhở, lắc lư đến nửa phút. Mà chả có gì đáng cười hết. Chính anh Thao là người không sợ gì cả, lúc ấy cũng phải kinh ngạc mà nhìn tôi.
Suốt đêm ấy, chúng tôi không ngủ, cứ để đèn ngồi rình thì lại không thấy xảy ra việc gì nữa.
Sáng hôm sau (tức là hôm qua) chúng tôi nói chuyện ấy cho anh Lịch nghe thì anh cũng không tin. Sau thấy tôi nhất định nài anh Thao đem cái đầu lâu vứt đi, Lịch mới cho là chuyện có thực. Nhưng anh nói:
- Đã thế thì để đêm nay tôi cũng rình xem, rồi có thế nào vứt đi cũng không muộn.
Thì đêm qua cũng lại giống đêm trước. Cứ tắt đèn được một lúc lại thấy cái đầu lâu nghiến răng ken két mà thắp đèn lên lại thôi.
Tôi nhân đọc các sách anh cho mượn và gần đây lại được đọc một đoạn dật sử về hồi đại cách mệnh Pháp, thấy kể chuyện những thủ cấp sau ba, bốn giờ vẫn còn sống được, nên tôi càng cho việc cái đầu lâu kia nghiến răng là một việc phi thường. Bây giờ thì tôi tò mò hơn là khiếp sợ. Tôi bảo Thao cứ để yên cái đầu đấy và đến rủ anh ngủ ở nhà chúng tôi một tối xem. Tôi vẫn biết anh hay để ý đến những thứ chuyện kỳ dị này lắm".

* **


Ngô Đàm vui lòng nhận lời. Tôi cũng ngỏ ý muốn đi với anh ta một thể và cùng hẹn đến tối sẽ có mặt ở nhà anh Chung.
Lúc Chung ra khỏi, Đàm xoa tay mỉm cười một mình. Tôi hỏi ý anh về chuyện vừa rồi ra sao, thì Đàm chỉ nhún vai, nói:
- Tôi sợ không gặp được cái ly kỳ như anh Chung nói, không khéo lại chỉ là một câu chuyện buồn cười thôi. Nhưng dẫu sao, ta cứ đi xem, không biết đâu mà nói trước được.
Bẩy giờ rưỡi hôm ấy chúng tôi đến nhà thì các anh Thao, Chung và Lịch đang ăn cơm ở phòng vẽ của Lịch. Đàm đứng xem mấy bức vẽ than của Lịch được chừng năm phút thì các anh ăn xong. Chúng tôi sang cả phòng bên kia nói chuyện.
Trước hết, Đàm đi lại bên bàn cầm cái đầu lâu ngắm nghía mãi. Mặt anh có vẻ nghiêm trang như nhà thông thái đang khảo cứu, nhưng đôi mắt tươi cười một cách hóm hỉnh. Bỗng anh quay lại hỏi Lịch:
- Anh có thấy gì lạ ở cái đầu lâu này không?
- Không.
- Giá lúc anh cầm nó lên xem, anh chú ý chút nữa, thì thấy bốn chiếc răng trong cùng hà gần một nửa.
Lịch ngạc nhiên hỏi:
- Nhưng sao anh lại biết tôi đã cầm lên xem?
- Có gì là lạ. Anh cầm lên xem cẩn thận lắm, nhưng lúc chực bỏ cái quai hàm dưới ra để xem bộ răng thì trượt tay suýt đánh rơi xuống bàn. Có phải không?
- Phải. Nhưng sao anh biết?
- Tôi thường đọc sách của Conan Doyle, nên cũng tập được một đôi chút tỉ mỉ. Những vết đen này là bởi than vẽ ở ngón tay anh ra... Chỉ cần để ý một chút cũng thấy được. Anh đang vẽ ở phòng ngoài chắc chợt nghĩ đến cái đầu lâu, nên vào xem thử chứ gì?


Rồi Đàm đi khắp gian nhà, cúi nhìn các chân tường một cách cẩn thận như người đi tìm một vật quý đánh rơi. Anh lại nhờ Lịch cầm đèn ở phòng bên sang, còn tự anh cũng cầm cây đèn bên cạnh cái đầu lâu, và bảo dẫn đi xem chung quanh nhà.
Bên ngoài tối như mực. Trên trời mây ám không có một ánh sao nào. Ngoài một hàng dóc rào mau, xa xa thấy một đám sáng chiếu lên: đó là thành phố Hà Nội. Sau một cuộc tìm xét rất kỹ càng, nhưng rất vô ích, Đàm đạo mạo như một nhà trinh thám, bước vào trong nhà rồi xoa hai tay vào với nhau. Thốt nhiên, như sực nghĩ ra điều gì, anh nói:
- Tôi khờ quá, không đem cái đèn bấm ở nhà tôi lại.
Thao nói:
- Hay để tôi lên phố mượn?
- Anh chắc có mượn được không. Thôi để tôi về nhà lấy vậy. Phiền thực, nhưng thế chắc chắn hơn.
Lúc Đàm trở lại thì đã gần mười một giờ: anh đi nửa đường thì xe đạp nổ bánh.


Chúng tôi để sẵn diêm với đèn gần tầm tay. Cái đèn bấm Đàm trao cho Chung, còn anh ta thì ngồi ở một cái ghế thấp bên cạnh cửa sang phòng anh Lịch. Trước khi tắt đèn, Đàm dặn chúng tôi không ai được làm gì, nếu không có lời anh ấy bảo.
Đèn tắt. Bóng tối dầy đặc trong nhà. Tôi đưa tay lên tận mắt cũng không trông thấy. Thao với Lịch nằm sát vách, còn Chung và tôi thì ngồi ở mép giường. Không ai nói qua một lời. Tôi nghe hơi thở của Chung thì biết anh ta hồi hộp lắm.
Cái lo ngại dần dần ám đến. Mà sự yên lặng ở gian phòng có nhiều người này lại càng có vẻ khác thường. Chúng tôi cùng hết sức lắng tai, tiếng đồng hồ đeo ở tay anh Lịch nghe rõ mồn một. Tôi đếm tiếng tích tắc để biết thời giờ, nhưng mãi cũng sinh chán, và trong lòng lúc ấy thấy nôn nao một cách lạ. Tâm linh hình như bị kích thích và hình như báo cho tôi biết trước có một điều ghê gớm sắp xẩy ra...

Có lẽ chúng tôi ngồi đó đã ngót một giờ, có lẽ lâu hơn nữa; mà tịnh không thấy một tiếng động nào hết. Hai anh Thao và Lịch chừng như đã ngủ, tôi đưa tay định xem họ còn thức không thì bỗng Chung nắm chặt lấy cánh tay tôi, nói khẽ quá đến nỗi tôi phải đoán ra chứ không nghe rõ:
"Im! Nghe!"
Tôi chú ý nghe thì quả nhiên thấy có tiếng ken két nghiến răng thực. Lúc ấy tôi mới hiểu cái khiếp sợ của Chung. Lúc ấy tôi mới thấy rõ ràng cái ghê rợn của người gặp ma quái. Tay Chung vẫn nắm chặt lấy cánh tay tôi, nhưng hơi run run. Còn tôi thì cứ muốn quát to lên, quát rất lớn để phá tan cái yên lặng ghê gớm lúc đó.
Thấy hơi nóng ở sau gáy, tôi biết hai anh Thao và Lịch đã ngồi dậy. Tôi tráo mắt nhìn bóng tối đen đặc và mỗi lúc tưởng thấy hình thù dị thường hiện lên.

Tiếng nghiến răng càng lâu càng rõ thêm. Thỉnh thoảng ngừng lại một giây rồi lại nghiến nữa. Đàm ngồi trên chiếc ghế gần đó có lẽ cũng sinh nát đảm: chúng tôi không trông thấy anh, mà đợi mãi cũng không thấy anh bảo sao.

Hốt nhiên, từ phía đầu lâu, một tiếng quái gở gào lên trong những tiếng cười nghe sởn tóc gáy. Mọi người đều vùng dậy, tôi không đợi anh Đàm nữa, vớ lấy diêm đánh, mà Chung cũng bật đèn bấm lên.
Cái đầu lâu lắc lư như điên cuồng, và ngay cạnh đấy, một vật đen ngòm đang giẫy giụa. Mắt chúng tôi khi đã đỡ chói thì nhận ra đó là một con mèo đen bị giữ trong tay Đàm.

Đàm lúc ấy, tay thì giữ mèo trên bàn, nhưng người thì ở dưới gầm bàn. Anh cả cười lách chui ra, vừa gặp lúc chúng tôi ồ cả lại. Con mèo giương mắt kinh hãi nhìn chúng tôi. Một con mèo to, đen, mà gầy, lông mọc xờ xạc không đều và không mượt.
"Đấy (lời Đàm nói) cái quái dị mấy hôm chỉ là ở con vật đói khốn nạn này mà ra cả. Các anh nên nhớ rằng cái đầu lâu vô tri giác kia còn mới, mới luộc xong, vẫn còn hơi thịt... Từ lúc anh Chung mới kể chuyện, tôi đã ngờ thế... Đến lúc xem lại cái đầu lâu với cái cửa sổ không có cánh này, thì tôi đã hơi chắc.

Mà bây giờ thì đã nắm được, hì! Đã nắm được "điều huyền bí" ở trong tay".
Sự lo sợ của chúng tôi bấy giờ lại đổi ra sự kinh ngạc. Vì có ngờ đâu câu chuyện kỳ quái ấy chỉ gây nên bởi một con mèo.

Rút từ tập truyện ngắn
Bên đường Thiên lôi, 1936.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeSat Nov 24, 2018 8:45 am

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  20213046431_aba8d73a2b

CHIẾC HỒ HUYỀN BÍ
Trần Mộng Tú

Bà Hằng đứng lặng trước gương tự ngắm mình. Buổi sáng mới ra khỏi giường, mái tóc xanh mướt còn sổ tung, ôm lấy khuôn mặt không một vết nhăn, nước da trắng ngà với hai con mắt long lanh sáng trong gương đang nhìn lại bà như khiêu khích, khiến bà bối rối.

Tiếng động ở trong bếp, con gái bà đang lo bữa ăn sáng cho thằng út 12 tuổi trước khi xe bus trường học đến đón. Bà nghe tiếng cô nói với vào phòng bà.
- Mẹ, con đi làm. Con làm thêm trứng cho mẹ ăn sáng rồi, chốc nữa mẹ chỉ nướng bánh thôi.
- Cám ơn con. Bà nói vọng ra, giọng uể oải. Tối qua, chủ nhật có mấyngười bạn của con đến chơi, bà rút vào phòng nhưng vẫn không ngủ sớm được. Cái cơ thể của một người đàn bà ngoài 70 không chiều bà nữa, không phải cứ đặt lưng xuống muốn ngủ là ngủ ngay như vài chục năm về trước.
Con rể bà đã dậy đi làm từ năm giờ sáng, anh ta phải làm theo thời khóa biểu của miền đông nước Mỹ, cách miền tây ba tiếng. Hai đứa cháu ngoại lớn đã vào đại học đi xa, may mà có thằng út bonus này mới lên mười hai. Ba giờ tan học, nó về trò chuyện với bà được vài câu khi bà cho nó ăn, rồi nó còn làm bài, còn học võ, còn bạn bè. Thôi thì nó bận cho đến khi bố mẹ nó về.
Con, cháu ra khỏi nhà, bà xuống bếp ăn sáng, một mình. Bà ngồi uống chậm từng ngụm cà phê pha với sữa Ensure, cô con gái ép bà phải dùng sữa này từ mấy tháng nay khi bà mất kí.

Một khúc phim quay mờ mờ trong trí bà, nhưng càng lúc càng rõ nét.
Ngôi làng Trout Creek ở Montana, mùa hè của mười năm về trước, hai vợ chồng bà về thăm ông chú chồng. Ở đó bà gặp một nhóm bạn già của chú, họ nói chuyện về một chiếc hồ lạ lùng như trong huyền thoại. Họ bảo, nơi đây có một chiếc hồ nhỏ, mấy chục năm hay có khi cả trăm năm, nó lại xuất hiện trong đám lau nằm về phía tây ngôi làng. Nếu ai có cơ duyên gặp nó sẽ thấy một sự nhiệm mầu xẩy ra. Cái hồ đó không phải ai cũng thấy được, và không biết nó hiện ra và biến đi lúc nào, nhưng nó có một phép lạ, nó có thể lấy đi tuổi tác trên thân thể mình.
Bà tò mò hỏi:
- Thế có nghĩa là gì?
Một cụ ông nhìn vào mắt bà nói:
- Có nghĩa là khi bà trầm mình xuống đó, nó có thể lấy đi một số tuổi của bà, và sau khi bà bước ra khỏi nước, bà thành một người của ba mươi hoặc hai mươi năm về trước, tùy theo lòng mong ước của bà.
Bà mừng rỡ, lấy làm thích thú với cái chi tiết hấp dẫn đó, đòi chồng dắt bà đi tìm chiếc hồ đó vào ngay buổi sáng hôm sau. Bà thuyết phục chồng:
- Em vào tuổi 60 rồi, các vết nhăn rõ quá rồi, da đã chấm đồi mồi. Anh lại không cho em đi sửa sắc đẹp, thì anh phải cho em đi tới chiếc hồ đó chứ. Biết đâu em có may mắn, chiếc hồ nổi lên cho em “Cải lão hoàn đồng”.

Ông đã chiều bà, hai người dậy từ tờ mờ sáng, đi về phía tây của ngôi làng. Họ đi xuyên qua những bãi đất ẩm ướt, giẫm lên những rễ cây chằng chịt, lách những đám lau sậy hoang vu, họ ngồi trong một đám lau khác quay mặt về hướng đông, ngồi chờ mặt trời lên để thấy chiếc hồ huyền bí hiện ra. Mặt trời lên từ phía đông, lên đến đỉnh đầu, rồi từ từ ngã xuống và biến mất ở phía tây. Hai vợ chồng vừa đói, vừa khát, cái hồ vẫn không xuất hiện, đành phải bỏ về. Cả nhóm bạn già của ông chú ngày hôm qua xúm lại, khi thấy bà xuất hiện không có gì khác lạ, họ chép miệng ra về. Có người trước khi đi, còn ngoái cổ lại nói:
- Kiên trì đi, mai lại ra, mốt lại ra, biết đâu ông thần hồ ông ấy sẽ động lòng.
Một bà già nói:
- Trong suốt đời ở đây, chúng tôi ra cả mấy chục lần rồi, chẳng hề thấy cái hồ xuất hiện. Chỉ là huyền thoại thôi.
Bà lão khác giễu:
- Biết đâu chị là người Á Đông ông thần thích chị hơn. Cứ cố nữa đi.
Bà không nản, bà cố nữa thật, cái ao ước được trẻ đẹp lại trong lòng bà đã có từ lâu, từ khi bà chấm dứt chu kỳ thời sanh nở. Đã rất nhiều lần bà đứng trước gương, thử tưởng tượng cặp mắt mình được kéo lên một chút cho bớt xụp; cái cầm độn thêm một chút cho thanh mảnh như thời con gái; da hai bên mang tai kéo lên cho hai cái dấu ngoặc bên mép bớt xệ xuống, buồn phiền; cái môi bơm cho đầy đặn quyến rũ và nhất là bộ ngực được tiếp một bịch chất lỏng vào cho da căng lại như thời ba mươi tuổi.
Sau một tuần liên tiếp, buổi sáng phải dậy từ mờ sương, và về khi mặt trời lặn, ăn bánh mì, uống nước chai, ông không chiều bà nữa, ông nói, bà muốn thì đi một mình, vì bà đã thuộc đường rồi. Cũng chỉ còn hai hôm nữa là ông bà phải trở về nhà mình ở Florida.

Bà đã đi lần cuối cùng, một mình và cái hồ huyền bí đã hiện ra với bà. Bà nhớ rõ ràng cái cảm giác không rõ rệt của buổi sáng hôm đó. Bà bước trên đất ẩm, bước trên cỏ còn ngậm sương và bước cuối cùng vừa lách qua khỏi đám lau, bà thấy ngay một cái hồ nhỏ, nước mầu tím ngắt như pha mực dưới chân bà. Bà chưa kịp suy nghĩ đã thấy như có ai kéo chân bà xuống, dìm bà ngập đầu và khi bà hoàn hồn thì cái hồ đã biến mất, cạn khô như nó chưa hề dâng lên trên mặt đất.
Mặt trời vẫn chói chang trên đầu, bà ra khỏi đám lau, lên xe về nhà ông chú như một người mộng du, như có ai lái xe mà bà chỉ ngồi bên cạnh. Chồng bà là người đầu tiên đón bà ngay khi cửa xe mở, ông đứng sững, nhìn bà, cả phút sau mới thốt lên được một câu ngắn:
- Em đã toại nguyện.
Bà chạy ngay vào phòng tắm, nhìn mình trong gương. Bà sững sờ đến không cất nổi một tiếng kêu, bà tưởng mình đang đứng đối diện với cô con gái ba mươi tuổi của mình. Bà nhìn kỹ một lúc, thấy mình còn trẻ hơn con.
Từ đó bà sống một cuộc đời mới. Khi bà đi ra đường với chồng, người không quen tưởng hai cha con; bà đi với con gái, họ tưởng chị em; bà đi với cháu nội, cháu ngoại người ta tưởng bà chỉ là một chị giữ trẻ. Những người trong gia đình, trong họ hàng, bạn hữu cư xử với bà khác đi. Họ không thân thiện như trước nữa. Bạn bè xa cách vì thấy bà đã sửa sắc đẹp và trẻ hơn họ nhiều quá, con cái bà ngượng ngùng khi gọi bà là mẹ, nhất là cậu con trai ngoài bốn mươi, lung hơi gù và tóc đã muối tiêu. Cô con gái thì không phản đối ra mặt nhưng cô tránh đến nơi công cộng cùng bà. Chỉ có mấy đứa cháu là chúng thích thú khi khoe với bạn bè là bà của chúng trẻ hơn tất cả các cô giáo trong trường.

Ban đầu bà rất hãnh diện và tự phụ về sự trẻ trung xinh đẹp của mình, bà bấp chấp những người chung quanh đang ganh tị nhan sắc của bà. Bà đi ra đường nhiều hơn, đi một mình, thích nói cho người lạ biết bà bao nhiêu tuổi để được nhìn mắt họ tròn xoe thèm muốn, ganh tị. Bà thấy mình tự tin hơn, yêu đời hơn. Bà mặc quần ngắn, váy ngắn, áo hở cổ trông vẫn rất tự nhiên, không làm người khác khó chịu vì nó hòa hợp với nét trẻ trung trên mặt và vóc dáng của bà. Nhưng có một điều làm bà không hài lòng là hình như chồng bà không mấy hứng thú khi ôm một người vợ quá trẻ hơn mình. Ông thấy ông mỗi ngày một già đi mà bà vẫn đứng nguyên một chỗ. Bà gặng hỏi ông thì ông chỉ ngập ngừng nói:
- Cũng được… cũng được.
Có lần hai ông bà đang xem truyền hình, thấy quảng cáo về mỹ viện, ông tắt ngay, vừa đứng lên vừa nói trống không:
- Họ không biết là làm cho trẻ cái vẻ bên ngoài mà gan ruột vẫn già nua, sức khỏe vẫn suy xụp thì khác gì hình nộm.
Bà giận lắm, nhưng không biết phản ứng thế nào cho đúng, vì quả thật cơ thể bà vẫn là cơ thể của một bà lão bẩy mươi.

Cái ông thần hồ huyền bí mấy chục năm hay cả trăm năm mới hiện ra một lần đó rất oái oăm. Ông lấy đi tuổi tác trên thân thể nhưng ông vẫn để sức khỏe của tuổi tác suy hóa theo thời gian ở lại. Ông đã cho thân thể bà lại tuổi thanh xuân như một cái hộp mỹ miều nhưng lại đựng trong đó những vật cũ kỹ như số tuổi của bà.
Bà vẫn có tất cả những vấn đề về sức khỏe của một phụ nữ từ tuổi sáu mươi bước sang bẩy mươi ở trong một thân thể trẻ trung của tuổi ba mươi.
Người ta thấy bà lưng ong, ngực nở, môi thắm, má hồng, mắt long lanh, răng như ngà, ăn mặc thời trang trong mọi buổi họp mặt. Nhưng bà ngồi thở dốc khi mới giữa buổi chơi, ăn ít và kêu đau lưng, nhức mỏi, Đôi mắt long lanh đó không đọc báo được nếu không đeo kính lão, bàn tay nuột nà trông khỏe mạnh đó, không cắt được quả táo quá cứng, không xẻ được quả dưa hơi to. Bà dễ quên, dễ vấp ngã và đang phải kiểm soát áp huyết thường xuyên. Những lúc đó bà thấy ngượng với chính mình, cảm tưởng mình như một diễn viên đóng kịch dở.
Buồn nhất hai năm trước đây, khi ông qua đời ở tuổi già, bà đã đứng cạnh áo quan như một góa phụ còn nguyên nét thanh xuân. Bà nghe thấy những lời xì xào như tiếng ong vo ve chung quanh bà.

Sau đám tang bà đóng cửa hai ba ngày, soi mình trong gương, bà bị giằng co giữa nhan sắc và tuổi tác. Có nên trả lại thanh xuân cho cái hồ huyền bí đó không? Cuối cùng bà nghĩ đến sự cô đơn, không có ai muốn cố gượng thân với mình nữa sau khi ông mất. Bà đành chấp nhận trở về với chính tuổi tác của mình.
Sau cái giỗ 49 ngày của ông, bà tìm về Trout Creek một mình, bà không cho bên chồng biết, bà ngủ ở khách sạn và tìm về phía Tây ngôi làng. Bà đã đến đó, mang theo lương thực, ngồi trong đám lau ẩm ướt chờ cái hồ huyền bí xuất hiện để bà nhẩy xuống đòi lại những nếp nhăn trên mặt, những da thịt lồi lõm trên thân thể, những sợi tóc bạc và hàm răng không toàn vẹn của mươi năm trước cái hồ đã lấy đi của bà. Bà sẽ trả lại má phấn, môi hồng và mái tóc đen bóng, hàm răng ngà này lại cho ông thần hồ.
Bà đã ở đó một tuần, sáng sáng lái xe đến vùng đất đã có chiếc hồ huyền bí xuất hiện. Khu đất đó vẫn khô cằn mặc dù đám lau ẩm ướt bao chung quanh nó. Cái hồ không bao giờ hiện ra nữa, mà nếu mấy chục năm nữa, nó còn hiện ra, thì làm sao bà có thể đợi được. Bà biết rằng phép lạ không thể xẩy ra hai lần cho một đời người, ngay cả cái hồ huyền bí có xuất hiện ngay bây giờ, chắc gì ông thần hồ trả lại cho bà mắt, môi ngày cũ.
Bà thất thểu ra về, bà biết mình đã mất hẳn những cái bà đã có, đã nhận được, theo thời gian tuổi tác của mình. Bà đã vứt nó đi không thương tiếc, bà không lấy lại được nữa.

Bà hình dung ra khi bà nằm xuống, ở tuổi 80 hay 90 trong áo quan với một khuôn mặt trẻ măng, chung quanh đám con, dâu, rể, đã tóc bạc, da mồi.
Bất giác bà rùng mình.

tmt
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeTue Nov 27, 2018 11:10 am

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Qychn102_bongnguoimudo

Bóng người mũ đỏ
Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)
Nguyên tác: Myo na hanashi


Một tối mùa đông, tôi đang đi trong phố Ginza cùng với người bạn cũ là Murakami.
-À tớ mới nhận đựơc thư của Chieko. Nó gửi lời thăm cậu đấy.
Murakami có vẻ như chợt nhớ ra, đã cho tôi biết tin về em gái của anh hiện đang sống ở Sasebo.
- Cô Chieko lúc này khoẻ chứ ?
- Ừ, dạo này nghe đâu nó vẫn khoẻ. Lúc ở Tokyo nó bị khủng hoảng tinh thần nặng quá. Cậu cũng biết lúc ấy đấy.
- Tớ biết, nhưng có chắc là cô ấy đã bị khủng hoảng tinh thần không?
- Cậu không biết đấy thôi. Lúc đó, khi Chieko ở đây nó cứ như là người mất trí. Khóc đấy rồi lại cười đấy. Đang cười tươi đấy, thì lại kể một chuyện thật kỳ lạ..
- Chuyện kỳ lạ?

Trước khi trả lời tôi, Murakami đã đẩy cánh cửa kính của một hiệu cà phê. Thế rồi anh ngồi xuống trước mặt tôi, nơi chiếc bàn nhìn thấy được cảnh đi lại ngoài phố.
- Tớ chưa kể cho cậu nghe chuyện kỳ lạ ấy à?  Đây là chuyện mà Chieko đã kể cho tớ nghe trước khi đi Sasebo.
Như cậu cũng đã biết, lúc ấy chồng của Chieko là sĩ quan trên chiến hạm A đang được điều động tới Địa Trung Hải, trong chiến dịch ở châu Âu. Trong lúc chồng đi vắng, Chieko đến ở nhà tớ, nhưng khi chiến tranh sắp kết thúc thì bỗng nhiên Chieko lại bị khủng hoảng tinh thần rất trầm trọng. Nguyên nhân chính không chừng là vì từ trước đến nay hàng tuần bao giờ cũng có thư của chồng gửi về, thì nay thình lình bỗng bặt vô âm tín. Cũng vì Chieko mới cưới chưa được nửa năm thì vợ chồng phải xa nhau, ngay cả đến đứa chẳng ngại ngùng điều gì như tớ cũng cảm thấy tàn nhẫn khi trêu ghẹo Chieko về chuyện nó mong thư chồng.

Chuyện xẩy ra đúng lúc ấy. Một hôm... À, đúng rồi, hình như hôm ấy là ngày lễ Kỷ Nguyên (1). Hôm ấy, từ sáng trời đã đổ mưa, đến trưa thì lạnh buốt, thế mà Chieko bảo lâu lắm rồi chưa đi Kamakura, nhất định thế nào cũng phải đi chơi Kamakura mới được. Chieko có một người bạn học nay là vợ của một nhà buôn đang sống tại Kamakura, nó bảo là đi thăm người bạn ấy, nhưng tôi và vợ tôi đều nghĩ rằng chỉ đi chơi thôi thì ai lại  phải lặn lội xuống tới tận Kamakura giữa lúc trời đang mưa gió như thế. Đã mấy lần chúng tôi thử khuyên cô ấy là để ngày mai hẵng đi có phải hơn không, nhưng Chieko cứ nhất định bảo muốn đi trong ngày hôm ấy. Và thế là nó vùng vằng đi thay áo, rồi mở cửa đi mất.

Chieko cũng bảo còn tùy, sẽ ở lại Kamakura tối hôm đó, sáng hôm sau mới về không chừng. Nó nói thế rồi ra khỏi nhà, nhưng chỉ một lát sau, không biết làm sao mà lại quay về ngay, quần áo ướt sũng, mặt mày thì tái mét. Nghe đâu Chieko đã chẳng che dù mà cứ thế đi bộ từ nhà ga trung ương đến ga xe điện Horibata. Hỏi sao lại làm thế, thì nó mới kể... Đó là một chuyện thật kỳ lạ..
Khi Chieko vừa vào nhà ga trung ương.- À, trước đó còn có chuyện như thế này nữa chứ. Chieko kể rằng khi lên xe điện không may nhằm chỗ tất cả các ghế trên xe đều có người ngồi cả rồi, đành đứng nắm vào sợi dây vịn, thì bỗng thấy cảnh sắc trên mặt biển lờ mờ hiện ra trên kính cửa sổ xe điện ngay trước mặt. Lúc ấy xe điện đang chạy qua phố Jinbô-chô, làm gì có biển mà có cảnh sắc trên biển hiện ra trên cửa kính xe điện được. Thế nhưng Chieko bảo đã trông thấy sóng biển nhấp nhô trên dòng người qua lại qua lớp cửa kính. Nhất là khi hạt mưa bám vào cửa kính thì còn như thấy thấp thoáng cả đường chân trời nữa. - Xem thế thì biết, có lẽ đầu óc tâm trí của Chieko lúc ấy đã làm sao rồi. Thế rồi khi Chieko đi vào nhà ga trung ương, một người phu khuân vác hành lý đội mũ đỏ đang ở chỗ cửa ra vào bất ngờ cất tiếng chào và hỏi:
-Ông nhà có gì lạ không ạ ?
Điều này quả là rất kỳ lạ. Và điều kỳ lạ hơn nữa là khi nghe người phu mũ đỏ ấy cất tiếng hỏi như thế, Chieko lại không cảm thấy lạ lùng chút nào mà còn đáp lại rằng:
- Cảm ơn ông. Có điều là độ này không biết nhà tôi thế nào, là vì chẳng có thư từ tin tức gì gửi về cả!
Bấy giờ người phu mũ đỏ ấy lại bảo:
-Hay là để tôi đi thăm ông nhà?

"Ông ta nói sẽ đi thăm chồng mình, nhưng chồng mình đang ở mãi tận Địa Trung Hải cơ mà", Chieko thầm nghĩ thế và chợt nhận ra rằng người phu mũ đỏ xa lạ này nói gì mà nghe lạ quá. Chieko đang định hỏi lại, thì người ấy đã khẽ cúi chào rồi lẩn vào đám đông mất dạng. Chieko dáo dác tìm quanh mãi, xong chẳng còn thấy bóng dáng người ấy một lần nào nữa. Nói cho chính xác hơn thì không phải là Chieko không trông thấy người phu mũ đỏ trong nhà ga nữa, mà là Chieko không còn nhớ được nét mặt của người phu nẫy giờ ở trước mặt mình, điều đó mới là kỳ lạ. Vì vậy, khi Chieko không thấy người phu ấy đâu nữa, thì đồng thời lại thấy tất cả những người phu khuân vác đội mũ đỏ khác ai cũng như là chính người phu ấy.
Và rồi Chieko có cảm tưởng rằng cho dù mình không nhận ra, nhưng người phu mũ đỏ lạ lùng ấy vẫn luôn đưa mắt về phía này mà giám sát nhất cử nhất động của mình. Đã như thế rồi thì nói gì đến chuyện đi Kamakura nữa, chỉ ở đây thôi cũng đã khiến Chieko cảm thấy rờn rợn khó chịu. Rốt cuộc, Chieko đã quên cả giương dù lên, cứ thế đội mưa mà cắm đầu cắm cổ chạy trốn khỏi nhà ga trung ương trong cơn mưa tầm tã.

Những điều Chieko kể lại chắc là do tinh thần đang bị khủng hoảng, nhưng có lẽ cũng vì lúc ấy nó đã bị cảm lạnh. Suốt ba ngày sau đó Chieko nóng sốt hầm hập, và hình như cứ lẩm bẩm nói trong mê sảng những gì ấy với chồng, nào là "Mình tha lỗi cho em", hay "Sao mình không về?".
Ám ảnh từ chuyến đi Kamakura không chỉ có thế thôi. Sau khi bệnh cảm đã khỏi hẳn rồi, thế mà hễ nghe ai nói đến chữ phu khuân vác đội mũ đỏ, là Chieko sa sầm nét mặt ngay, rồi suốt cả ngày hôm ấy chẳng buồn nói với ai một lời nào.
À, nói thế mới nhớ còn có chuyện buồn cười là nhiều khi đang đi đâu đấy, hễ thấy bảng hiệu của công ty chuyên chở hàng hải nào đó có vẽ hình người phu khuân vác đội mũ đỏ, là nó liền bỏ về nửa chừng mà không đi đến nơi đến chốn nữa.

Tuy nhiên, được chừng một tháng sau thì Chieko cũng đã bớt sợ hình ảnh người phu mũ đỏ. Lúc ấy Chieko đã có thể vừa cười vừa nói với vợ tôi rằng:
- Chị ạ, trong truyện tiểu thuyết gì ấy của nhà văn Kyoka, có nhân vật phu khuân vác đội mũ đỏ có khuôn mặt như mặt mèo là gì! Không chừng cũng vì em đọc truyện ấy nên mới gặp phải những điều kỳ lạ.
- Thế nhưng, đến khoảng ngày mồng mấy... tháng ba, Chieko lại bị người phu khuân vác đội mũ đỏ ám ảnh một lần nữa. Và rồi từ đó cho đến khi chồng trở về, dù cho có việc gì, Chieko cũng nhất quyết không bao giờ đi ra nhà ga nữa. Khi cậu lên đường đi Triều Tiên, nghe đâu cũng vì sợ người phu mũ đỏ mà Chieko đã không đi tiễn cậu đấy.

Ngày mồng mấy tháng ba ấy là ngày bạn đồng liêu của chồng Chieko về nước sau hai năm sống ở Mỹ. Chieko đã rời nhà từ sáng để đi đón họ. Như cậu đã biết, đấy là chỗ mà ngay giữa ban trưa cũng chẳng có mấy người lai vãng. Trên vỉa hè vắng người, có một chiếc xe bán chong chóng như thể đã bị bỏ quên lại bên lề đường. Đúng lúc trời mây u ám có gió mạnh, tất cả những chiếc chong chóng bằng giấy màu cắm trên xe đều quay tít cả lên... Cảnh tượng chỉ có thế thôi mà không hiểu sao đã khiến Chieko cảm thấy hoang mang sợ hãi. Thế rồi khi đi ngang qua đó, thoáng đưa mắt nhìn, bỗng thấy một người đàn ông đội mũ đỏ đứng quay lưng ra đường đang lom khom cúi xuống. Dĩ nhiên đây là người bán chong chóng, có lẽ đang hút thuốc lá hay thứ gì ấy. Thế nhưng khi nhìn thấy màu đỏ của chiếc mũ, Chieko bỗng linh cảm là hễ đến nhà ga trung ương thì không chừng lại có chuyện kỳ lạ xảy ra. Chieko cũng đã toan quay bước, nhưng rốt cuộc là chỉ nghĩ trong đầu như thế thôi.

Cũng may là khi Chieko đến nhà ga và cho đến khi đón bạn của chồng xong xuôi, đã không có chuyện gì xẩy ra. Tuy nhiên, khi đoàn người phía trước đang lục tục đi ra chỗ cửa soát vé hơi không được sáng sủa lắm, bỗng có kẻ nào đó ở phía sau đã nói với Chieko rằng:
- Nghe nói ông nhà bị thương bên cánh tay phải. Thư không đến cũng là vì thế đấy ạ.
Chieko vội ngoảnh lại nhìn về phía sau, nhưng chẳng thấy người phu mũ đỏ hay ai cả, mà chỉ có đôi vợ chồng ng ười sĩ quan hải quân quen biết. Dĩ nhiên là không có lý gì mà cặp vợ chồng này lại đường đột nói với Chieko như thế, vì vậy Chieko nghe có tiếng người như thế quả là một chuyện lạ. Thế nhưng, có lẽ dù sao thì Chieko cũng mừng vì không thấy bóng người phu mũ đỏ. Chieko bèn cứ thế đi qua cửa soát vé và cùng mọi người ra ngoài hiên, để tiễn bạn đồng liêu của chồng lên xe. Bấy giờ, từ phía sau lại có tiếng người rõ mồn một:
- Thưa bà, ông nhà sẽ trở về trong tháng sau đấy ạ.

Lúc bấy giờ Chieko lại ngoảnh nhìn về phía sau, nhưng sau lưng Chieko, ngoài đôi vợ chồng mà Chieko ra đón, chẳng thấy một người phu mũ đỏ nào cả. Bấy giờ sau lưng thì không có ai, nhưng trước mặt có hai người phu mũ đỏ đang khuân hành lý lên xe. - Một trong hai người ấy không biết nghĩ gì mà đột nhiên vừa ngoảnh lại nhìn về phía này vừa nhếch mép cười một cách lạ lùng. Trông thấy thế, Chieko liền sa sầm nét mặt đến nỗi mọi người chung quanh cũng nhận ra. Chieko phải cố trấn tĩnh lại và nhìn kỹ, thì hóa ra chỉ có một người phu mũ đỏ đang khuân hành lý, chứ không phải là hai người như nó tưởng. Hơn nữa, người phu mũ đỏ này là một người khác, hoàn toàn không phải là người vừa mới cười. Vậy chứ hỏi lần này Chieko có nhớ được nét mặt của người phu mũ đỏ vừa cười hay không, thì trí nhớ của nó vẫn mông lung mờ mịt. Dù cho Chieko cố nhớ lại thế nào đi nữa, trong trí cũng chẳng hiện ra thêm được gì hơn ngoài một khuôn mặt với chiếc mũ đỏ trên đầu mà chẳng có mắt mũi gì cả. Đây là chuyện kỳ lạ thứ hai mà Chieko đã kể lại cho tớ nghe.

Sau đó độ một tháng thì cậu đi Triều Tiên, và tớ nhớ là đúng vào khoảng trước hay sau đó, chồng Chieko cũng đã trở về thật. Mà quả thực, cậu ta đã bị thương nơi cánh tay phải nên không viết thư được, mới là chuyện lạ chứ. Vợ tớ lúc đó đang ở đấy, đã trêu Chieko rằng:
- Chắc là tại Chieko nhớ chồng, nên tự nhiên mà biết được đấy.
Thế rồi khoảng nửa tháng sau, vợ chồng Chieko đã lên đường tới nhiệm sở của chồng nó ở Sasebo. Đúng lúc đôi vợ chồng này sắp sửa, hay là vừa mới chân ướt chân ráo tới nơi, đã có thư của Chieko gửi về, mà thật không ngờ là trong thư có kể một chuyện lạ thứ ba.

Đó là khi vợ chồng Chieko rời nhà ga trung ương,người phu đội mũ đỏ vác hành lý cho vợ chồng nó, có lẽ là muốn đến chào, đã tới chường mặt bên cửa sổ xe điện đúng lúc xe vừa chuyển bánh. Vừa thấy mặt người này, chồng Chieko liền tỏ vẻ ngạc nhiên, và rồi sau đó đã ngượng ngùng kể lại cho vợ nghe câu chuyện sau đây.
- Số là khi đổ bộ lên Marseille, chồng Chieko đã cùng với vài người bạn đồng liêu tới một hiệu cà phê, thì bỗng có một phu khuân vác đội mũ đỏ người Nhật bước tới bên bàn của họ mà thăm hỏi như thể là có quen biết rồi. Tất nhiên, làm gì lại có phu khuân vác mũ đỏ của Nhật Bản đi lạc trong dòng người qua lại trên bến Marseille được. Thế nhưng không hiểu vì sao, chồng Chieko đã không lấy làm lạ, mà còn kể cho hắn nghe chuyện mình bị thương nơi cánh tay phải và sắp đến lúc được về nước. Sau đó, một người bạn say rượu làm đổ ly rượu cô nhắc, chồng Chieko mới vội nhìn quanh, thì người phu mũ đỏ đã mất dạng, không biết từ bao giờ.

Không biết hắn là gì thế nhỉ?
Bây giờ nghĩ lại mới nhớ ra rằng tuy lúc ấy đang mở mắt thật đấy, nhưng không biết đó là thực hay mơ. Không những thế, mà các bạn của chồng Chieko đều có vẻ thản nhiên như thể hoàn toàn không biết có người phu mũ đỏ đã tới bàn của họ. Vì thế, rốt cuộc chồng Chieko cũng không thể kể hay nói với ai được về chuyện này. Thế nhưng, về đến Nhật lại nghe Chieko kể đã gặp người phu mũ đỏ kỳ lạ ấy đến những hai lần. Vì vậy chồng Chieko mới nghĩ rằng phải chăng đó chính là người phu mũ đỏ mà mình đã trông thấy ở Marseille, thế nhưng chuyện này nghe như là chuyện kinh dị, vả lại chồng Chieko cũng sợ bị chê cười rằng ai lại đang trên đường viễn chinh vinh dự là thế mà lại nghĩ đến vợ, vì thế mà lâu nay đã chẳng kể cho ai nghe cả. Xong bây giờ nhìn mặt người phu vừa rồi, thì thấy giống hệt người phu mũ đỏ đã tới hiệu cà phê ở Marseille, giống đến từ sợi lông mày cũng không khác.
- Chồng Chieko kể xong rồi trầm ngâm hồi lâu, mãi một lúc lâu sau mới có vẻ hoang mang khẽ hạ giọng mà rằng:
- Nhưng mà lạ nhỉ? Tuy bảo rằng họ giống hệt nhau từ sợi lông mày, nhưng tôi lại không tài nào nhớ ra được nét mặt của người phu mũ đỏ hôm ấy. Chỉ có điều là khi vừa trông thấy mặt hắn qua khung cửa sổ xe điện, tôi liền nghĩ đúng là hắn...

*

Murakami kể đến đây thì có ba bốn người, có vẻ là bạn anh ta, mới bước vào hiệu cà phê, vừa tiến lại gần bàn chúng tôi vừa chào hỏi Murakami. Tôi bèn đứng lên, bảo anh:
- Thôi, tớ xin kiếu đây. Trước khi trở lại Triều Tiên, thế nào tớ cũng sẽ đến thăm cậu một lần nữa.
Tôi bước ra khỏi hiệu cà phê, bất giác thở dài. Là vì, tối hôm nay tôi mới biết được lý do vì sao, cũng đúng ba năm trước, đã hai lần Chieko thất hứa không tới chỗ hẹn với tôi ở nhà ga trung ương, hơn nữa sau đó còn gửi cho tôi một lá thư ngắn ngủi nói rằng muốn mãi mãi là một người hiền phụ trung trinh.
 
Nguyên tác : Myo na hanashi, của Akutagawa Ryunosuke (Tháng 12-1920)
Người dịch: Quỳnh Chi (4/2005-1/2011)

Chú thích:
(1) Lễ Kỷ Nguyên (Kigen Setsu) vào ngày 11 tháng 2, nay được gọi là Ngày Kỷ niệm Kiến Quốc ( Kenkoku Kynenbi) của Nhật Bản.
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeFri Dec 07, 2018 11:12 pm

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  2Q==

Đêm Trăng

Thế Lữ (1907-1989)


Đường quanh co ở giữa hai bên rừng núi phần nhiều là hẹp và xấu lắm; chúng tôi phải cho ngựa dẫn hàng một tiến lên.

Ở Pa Khá, chỗ nghỉ sau cùng tới đây, từ 12 giờ trưa đến bây giờ gần 6 giờ chiều, mà chỉ đi được chừng ba mươi cây số. Hồi ấy vào trung tuần tháng hai. Trời về tiết xuân, nhưng gặp được lúc ấy cũng ấm áp dễ chịu.
Chúng tôi dừng ngựa lại trước một cái nhà lều rộng lớn, làm trên một khoảng đất san phẳng, lấn vào khu rừng phía tay trái độ bốn năm sào. Lều dựng theo lối ta, mái lợp tranh, ba phía vách bằng phên nứa hãy còn xanh tươi: cửa cũng bằng phên, nhưng đan chưa xong, còn đặt nằm dưới đất. Chỗ này dựng lên để cho những người đi xa nghỉ chân và nhân thể cho bọn người Thổ săn bắn ở vùng này làm nơi tạm trú. Cái lều cao, rộng hơn nhà ta ở nhiều lắm, nhưng trống hơn không có bầy biện gì. Ở mặt đất giữa lều, chỉ thấy một đống củi gỗ rấm, một tia khói đưa lên thong thả, với năm ba chiếc ghế thấp vứt bỏ chung quanh. Áp theo cả chiều dài bức vách trong cùng và bức vách phía trái còn có một thứ tầng cũng đan bằng nứa, rộng ngót một thước tây, cao lên tới ngực, buộc vào những cột chống là mấy khúc cây nhỏ mới đẵn về. Thấy có hai người Thổ đang thõng chân nằm ngủ ở trên, tôi đoán đó là một thứ chõng hay một thứ giường phên mới ứng chế.
Gởi người buộc ngựa rồi, chúng tôi vào lều giở bánh tây, cơm nắm, lạp xường và giò chả ra ăn với nhau. Trong lều không có đèn, chúng tôi ngồi quây lấy đống củi bấy giờ đã thổi cháy to lên cho sáng. Những chuyện Mán Thổ núi rừng tất nhiên được dịp đem ra nói. Người thì khoe những cảnh lạ, những điều kỳ quái ghê sợ mà mình đã trải qua; người thì thuật những phen thập tử nhất sinh ở chốn ma thiêng nước độc; nhưng đậm đà nhất là những chuyện trăng gió đường rừng, những chuyện hát đúm ở các chợ phiên. Mỗi người đều có một chuyện "tìm hoa" trong làng để nhắc lại.
Nhân đó một người bạn kể cho tôi nghe những bước phiêu lưu của một người đàn ông mà thỉnh thoảng tôi được gặp trong cái thì giờ đứng uống bát nước ở một hàng quán. Ông này là người Kinh, nhưng nét mặt với tiếng nói thì y như người Thổ; vóc dáng trông đẫy đà lực lưỡng, bao giờ cũng mặc một bộ quần áo bằng vải ka-ki. Ông ta rất táo tợn; trong bọn đi rừng đến cả người Thổ cũng phục ông ta là người thạo và xông pha nhất. Họ gọi ông ta là ông Ba-đi-ghệt - nhưng cái sính đi ghệt ông ta đã bỏ, chỉ còn lưu lại cái tên hiệu thôi. Ông Ba chẳng ở lâu được một chỗ bao giờ; gặp việc gì ở đâu cũng đi nhận làm ngay, thấy cái gì cũng buôn: gỗ, vải vóc, thuốc phiện lậu, xương hùm, nấm hương, nhung hươu, đủ mọi thứ. Có một điều ai cũng chú ý nhất mà ông vẫn đem khoe với bất kỳ người nào muốn nghe chuyện, là đến đâu, ở đâu ông ta cũng tìm được một người con gái để kết duyên hờ với mình. Ở với nhau được ít ngày rồi một hôm, người con gái Thổ thấy ông ta đi không bao giờ trở về nữa. Tôi chưa ngồi nói chuyện với ông Ba-đi-ghệt bao giờ nên không biết rõ tâm địa của người đàn ông ấy. Nhưng tôi xem ra thì không mấy người ưa. Họ bảo rằng ông ta bạo dạn thì không ai hơn, nhưng mà giảo quyệt nham hiểm cũng không ai bằng nữa.

Ăn uống xong, tôi để các bạn ngồi đó, giải áo khoác lên chiếc chõng bên cạnh một cái cửa sổ mắt cáo rồi nhảy lên ngả lưng. Tôi duỗi thẳng chân ra nằm, vươn vai mà thở một hơi thực dài đuổi hết những cái mệt nhọc nặng nề từ trước. Không gì khoái chá bằng được nghỉ ngơi sau một cuộc trèo non lội suối đường trường.
Hai người Thổ vẫn ngủ say, tiếng ngáy rờn rợn. Các bạn đi đường thì bàn nhau vào ngủ trong làng, nhân tiện để tìm mấy đóa hoa rừng. Hôm ấy có cuộc hát thi, vì gặp ngày làng mở hội.
Tôi lẳng lặng nhắm mắt không trả lời ai hết, vì tôi không muốn theo họ và để phí mất lúc khoan khoái dễ chịu bấy giờ. Tâm hồn tôi thấy bâng khuâng như nằm ở trên mây, trí tưởng chập chờn... rồi giấc ngủ dịu dàng dần tới.
Tôi mở mắt ra thì trăng xuyên qua khung cửa sổ mắt cáo đã đặt trên mình tôi những mảng sáng vuông nhỏ. Bấy giờ có lẽ đã nửa đêm, hai người Thổ không còn ngủ gần tôi, mà các bạn người Kinh cũng đi cả.
Tôi không muốn ngồi dậy, cứ để nguyên giầy mà nằm yên đó, hai mắt lim dim.
Nhưng tôi không buồn ngủ thêm nữa.
Trong mình thấy tỉnh táo vui lắm. Huyết mạch lưu thông như hơi gió thổi; tôi tưởng chừng có thứ thuốc tiên trong thân thể, khiến cho người tôi bỗng chốc thành khinh khoái như bay...
Tôi lắng tai nghe. Một dải suối róc rách ở gần, tiếng sóng như thủy tinh gieo vào trong thứ giọng rù rì rối tăm của những côn trùng dưới cỏ. Sau lều thì khu rừng cây yên lặng như ngủ kỹ, nhưng ở trong đưa những tiếng bí mật, khiến cho mình cảm thấy được cái sinh hoạt của nó trong lúc đêm khuya. Một con hươu đang ngớ ngẩn nhìn cái lều vắng không. Những tiếng rất nhẹ của con sóc chạy trên cành; những tiếng lá cựa dưới mình một con vật đang nằm, một tiếng vỗ cánh nặng nề của con chim lớn. Từng trận gió thổi qua, một loạt lá rơi dào dạt, rồi tất cả lại im lặng như ngóng đợi, như nín hơi. Xa xa, rõ thực xa, giọng thác ào ào, để ý thì mỗi lúc thấy một gần thêm, rồi lại xa dần, rồi lại như biến đi mất. Có khi nghe như tiếng muôn nghìn người ồn ào đưa từ đâu đâu tới; phảng phất trong trí não tôi hình dung ra những cảnh chợ búa xe pháo ở chốn thị thành.
Tôi cứ nằm đó nghe hoài. Nghe càng lâu muôn tiếng càng hỗn độn. Sau cùng thành một thứ giọng rì rào mờ ám mỗi khắc một nhạt dần. Thần trí lại chịu một sức thôi miên ma túy đưa lại đâu từ chốn bồng lai. Văng vẳng trên không, chỉ còn những tiếng nhạc gần rồi lại xa, với những hơi sáo rất nhỏ, rất trong, và cao tít.

Bỗng đâu, một cơn gió lạnh thổi qua làm tôi hơi rùng mình. Tôi thở dài rồi mở hé mắt; trên lông mi những phấn bụi ánh sáng đang nhảy nhót rập rờn. Tôi lại thấy như không phải nằm đó một mình... Hình như có ai đứng bên tôi. Mà "ai" đó hình như là một người thiếu nữ. Tôi chắc đó chỉ là hình ảnh của sự mơ màng thôi, nên cứ lặng yên, bỗng thấy một bàn tay, một bàn tay bé nhỏ dịu dàng, êm ái để lên vai tôi:
- Đêm trăng sáng đẹp như thế này mà không đi nghe hát một lúc chơi, lại nằm đây ngủ!...
Câu nói tiếng Thổ, giọng dẻo dang trong trẻo nghe rất hay. Chưa nhìn cũng chắc người đứng đó là đẹp lắm. Tay người thiếu nữ lại lay tôi lần nữa.
Tôi mở hẳn mắt nhìn cô ta nhoẻn miệng cười:
- Đi dậy đi anh. Dậy đi chơi một tý!
Cô ta đứng trước cái cửa sổ vách liếp và ngoảnh mặt ra phía rừng. Người vào trạc mười chín, hai mươi, hai mắt tinh anh, đẹp lạ thường, đôi má đầy, mơn mởn đào non, nhỏ và mướt.
- Trời ơi! Con gái Thổ mà có người nhan sắc đến thế này ư? Tôi mơ hay tỉnh?
Tôi nghĩ bụng thế, rồi ngồi dậy, thì ra tỉnh chứ không phải mơ. Tôi hỏi cô ta:
- Cô em ở đâu đến?
- Tôi ở trong làng (Cô vừa nói vừa lấy bàn tay lau miệng).
- Làng cô xa không?
- Không xa lắm.
- Cô em có đi với ai nữa không?
- Không.
Tôi bối rối quá, vì cô ta bỗng dưng có vẻ thẹn. Tôi ngẩn người ra, không biết hỏi thêm câu gì. Tôi nhìn cô ta một lúc lâu, cô ta ngẩng lên nhìn tôi rồi trông đi chỗ khác.

Giá tôi đừng nín lặng, hỏi chuyện nữa đi mới phải. Nhưng biết hỏi gì? Những phút đối diện yên lặng ấy sao mà dài và khó chịu đến thế!
Tôi ngượng nghịu quá chừng. Xin thú thực rằng xưa nay tôi nói đùa với các chị con gái Thổ đã nhiều, nhưng tôi đều coi thường, không để ý gì đến ai hết. Cũng nhiều cô kháu lắm, song không ai có thể gọi là đẹp, đẹp trong trẻo và say đắm như cô này.
Tôi nghĩ mãi, mà chẳng có câu nào cho hợp lúc cả; mãi sau mới hỏi lên được:
- Cô em ở đâu đến?
Thì lại là câu mình đã hỏi rồi.
Cô con gái nhìn tôi hơi ngạc nhiên, song cũng đáp:
- Tôi ở trong làng.
- Gần không?
- Không xa lắm.
- Nhưng cô em đi đâu thế?
Cô Thổ đã hết thẹn, tươi cười nét mặt và nhanh nhẹn trả lời:
- Tôi đi chơi. Tôi đến đây thấy có ngựa buộc ở ngoài kia, tôi vào, không có ai, chỉ có anh ngủ... Tôi vào rủ anh đi nói chuyện chơi.
Rồi cô cười, mà cười quá chừng: tiếng giòn và đầy đặn. Tôi cũng cười góp nhưng nghĩ thầm:
- Quái lạ, chả nhẽ người này lẳng lơ đến nỗi đi tìm một người đàn ông ngủ một mình để nói chuyện với, hay sao?
Tôi nhìn người thiếu nữ một lần nữa: Không! Cô ta chỉ có vẻ đẹp đẽ, trong sạch và rất đáng yêu quý thôi. Đôi mày đưa cong lên ở dưới cái trán bịt khăn chàm, có một vẻ kín đáo ý nhị, tôi ưa quá. Tôi lại hỏi cô:
- Thế cô em vào đã lâu chưa?
- Vào lâu rồi. Tôi xem anh ngủ mãi.
- Tôi không ngủ, mà sao tôi không biết?
- Anh ngủ đấy mà!
Cô vừa thong thả nói lại vừa cười. Cô cười sao xinh thế! Con người nhan sắc mà có duyên thay!
- Này cô em...
Cô bé nhìn tôi. Nhưng tôi không tiện hỏi câu ấy. Miệng cô vẫn hé nở, để lộ ra một nét trắng nhỏ của đầu hàng răng trên. Cô lại ưỡn ẹo dựa cái thân mềm mại vào chân tôi, làm cho tôi gợn cả người lên và không nghĩ đến những cái vẩn vơ như trước nữa. Tôi mỉm cười và liều để tay lên vai cô ta. Người con gái nói luôn:
- Anh nhé, anh đi chơi nói chuyện với tôi nhé. Tôi... tôi đến rủ anh đi chơi...
- Cô thích đi chơi với tôi à?
- Thích. Mà thế nào cũng đi nhé?
- Ở đây nói chuyện cũng được chớ sao?
Nói rồi, tôi liền xốc nách bế cô ngồi lên với tôi, và lấy áo phủ khoác cho tấm thân xinh bé ấy. Cô ta có ý không bằng lòng, bỏ áo của tôi xuống và ngồi nhích ra một chút. Cô mặc một chiếc áo chàm mới, lúc ấy trông thẫm đen: áo cài một bên nách, hở cổ, thân ngắn, tay rộng, thắt ở ngang lưng; chiếc váy cộc cũng bằng vải chàm và cũng mới. Cái đen tối dưới lều trong trẻo dịu dàng; chúng tôi hình như ở dưới bóng rợp của một thứ "nắng trăng". Cửa trước lều không đóng, lại thêm có ba cái cửa sổ mắt cáo ở vách trong nên chúng tôi trông được tỏ mặt nhau và cả những gói hành lý để ở một góc.

Lúc ấy hai tay cô gái thu lại để chồng lên một đùi. Chân cô buông thõng và hơi đưa đẩy, nét mặt cô có vẻ buồn bực làm cho tôi lo ngại.
Tôi lấy tay nhẹ nâng lấy cằm người thiếu nữ rồi kéo lại cho trông tôi:
- Cô em không muốn ngồi với tôi sao?
Cô sẽ mỉm cười:
- Sao không muốn? Không thì tôi "lại với anh" làm gì?
- Thế cô muốn nói chuyện với tôi lắm sao?
Cô Thổ lại cười:
- Ừ, muốn!
Tôi đánh liều hỏi một câu nữa:
- Thế cô em yêu tôi chứ?
- Anh bảo cái gì hả?
Tôi ghé vào tai cô nói:
- Em... có yêu tôi không?
Cô vơ vẩn trả lời:
- Không biết.
Rồi lại vơ vẩn nhìn tôi.
Bấy giờ, tấm lòng xuân phơi phới của tuổi hai mươi lăm bị khích động mà sôi nổi trong người tôi, khiến cho tôi quên cả chủ định từ trước. Tôi liền ôm lấy cô bé, ôm bằng cả một tấm lòng chứa chan yêu dấu và bảo cô rằng:
- Sao lại "không biết" hở em? Em đến đây với tôi như một người trong giấc mơ màng, tôi có biết em là ai đâu; nhưng tôi yêu em ngay, mà sao em cứ lững lờ không để cho tôi biết bụng em thế?
Tôi còn nói nhiều câu rất ngọt ngào, nhiều lời rất hay, mà cái vốn tiếng Thổ của tôi có thể cho nói được.
Hơi nóng trong người cô thiếu nữ như thấm vào người tôi, vào tận trong huyết mạch; tôi mơn trớn cô ấy như một con chim bé nhỏ mà người ta nâng lên để vào trái tim mình...
Bỗng nhiên, cô đẩy khẽ tôi ra, ngồi thẳng lên, buộc lại cái khăn chàm; rồi tụt đứng xuống đất. Tôi nhìn cô ra ý hỏi duyên cớ, thì cô cau đôi mày lại, bảo tôi:
- Tôi không bằng lòng thế! Tôi lại rủ anh đi đằng này với tôi kia mà.
Tôi cũng đứng xuống đất, giữ lấy hai vai cô, rồi nhìn vào cái mặt lạnh lùng của cô mà nói:
- Trời ơi! Em biết không! Trong lúc đêm khuya canh vắng em đến đây, em gọi tôi, em làm cho tôi vui sướng vô cùng; em là con gái, mà em lại xinh đẹp dường này! Thế thì em bảo tôi không yêu mến em sao được?
Cô Thổ nhìn tôi:
- Nhưng anh đi đằng này với tôi đã.
Tiếng cô nói gọn, nhất quyết; tôi hơi sinh nghi. Nhưng cô mỉm cười ngay; cô lại kéo lấy tay tôi nói một cách nũng nịu:
- Đi chơi một lúc thì sao? Anh nhé, đi chơi với tôi một lúc nhé, anh bằng lòng đi!
- Mà đi đâu bây giờ?
- Chơi bên rừng... trên bờ thác, xem nước chảy. Đêm trăng đẹp, đẹp quá, không đi cũng hoài...
Tôi nói:
- Không sợ hổ à?
Cô ta cười mấy tiếng khẽ:
- Sợ hổ! Đây không có hổ - hay có cũng ít khi lắm. Vả lại có trăng kia mà. Anh nằm đây còn không sợ thì đi chơi có sợ gì? Anh à, anh đi với tôi nhé!

Bên rừng tối trên thác sâu, ở những nơi phong cảnh đêm khuya hoang dại này phải đâu là nơi để khách đa tình đến cùng nhau than thở? Người con gái Thổ chắc cũng chả ưa gì những chốn ấy cho lắm, thế mà cứ thiết tha nài tôi đi cho được, hẳn cũng có duyên cớ gì đây? Mà duyên cớ gì? Trông cái mặt nhan sắc dịu hiền thế kia, tôi không thể cho cô ta là một người có lòng bí hiểm được.
Tôi ngẫm nghĩ một lát, rồi quyết thử "đi chơi" với cô ấy xem sao.
Tôi lấy cái áo phủ khoác lên vai, thắt lại cái thắt lưng da ở áo ngoài rồi đi lấy mũ đội.
Cô ấy trông theo tôi từng cách cử chỉ một: lúc thấy tôi thu gọn lại cái đống dây thừng to nằm cuộn tròn trong một góc lều, để lấy một cái gậy ở dưới thì cô Thổ liền chạy lại hỏi ngay:
- Ồ! Anh có những dây tốt nhỉ! Để làm gì thế?
- Để qua cầu.
- Sao lại để qua cầu?
- Cầu nhỏ ở ven núi trên này chật chưỡng lắm. Giá không có cuộn dây này thì tôi rơi xuống núi mấy lần rồi.
Cô Thổ cười:
- Thế mà tôi đi không việc gì đấy!
Chúng tôi đã ra tới cửa; cô Thổ toan dắt tôi theo một lối tắt đi về bên rừng. Bỗng cô đứng yên, mắt nhìn vào mắt tôi, rồi chạy vào trong lều, đến bên cuộn dây chão. Tôi hỏi:
- Cô làm gì thế?
- Anh à, đem cái này đi!
Cô vừa nói vừa lôi cuộn dây ra. Tôi hỏi lại:
- Đi chơi kia mà?
- Cứ đem đi, anh ạ.
Tức khắc, tôi không nói một lời nào, đi vào bỏ gậy và mũ áo ra, rồi toan trèo lên cái "giường" phên nằm, nhất định không đi đâu nữa. Cô ta liền chạy lại bên tôi níu lấy tay tôi năn nỉ:
- Anh đi với tôi một tí, đi với tôi một tí thôi mà.
- Không! Đi làm gì thì cô phải nói rõ cho tôi biết đã.
- Rồi anh biết mà!
- Nói ngay bây giờ kia!
Người thiếu nữ ra chiều thất vọng vô cùng:
- Không... anh đi, anh đi với tôi một tí thôi, rồi anh thấy cái này hay lắm.
Cô ta vừa nói vừa cầm cái mũ và dìu tôi ra cửa, cuộn dây chão đeo nặng một cánh tay.

Tôi không còn hiểu gì trong cái cử chỉ lạ lùng của người con gái nữa. Miệng cười của cô ta cũng không còn duyên gì hết; tôi thấy bực mình lắm; nhưng tôi cứ theo.
Ra đến ngoài thì thấy mặt trăng đã chếch về tây. Đám rừng âm u với dãy núi trập trùng tắm trong một bầu ánh sáng rõ ràng và lạnh lẽo. Tiếng ve sang sảng kêu ran như đã kêu từ mấy thế kỷ; bóng trăng theo đó mà rung trên ngọn cỏ, bụi cây.
Chúng tôi xuống một con đường dốc nhỏ đi vào nách rừng. Cô Thổ trước còn cười nói đon đả để tôi vui lòng; đến sau, thấy tôi đã nhất định đi theo, thì cô chỉ rảo chân bước. Người thiếu nữ ấy cũng đủ nhan sắc và dịu dàng để tôi quên được cái lo ngại; và cái trường hợp cũng đủ ly kỳ để gợi tính tò mò và lòng mạo hiểm của tôi.
Xuống hết đường dốc này lại trèo lên một khu rừng nhỏ nữa. Chúng tôi đi qua một đám cây rất rậm chỉ lác đác được ít mảnh sáng trăng. Rồi cây cối mỗi lúc một thưa dần, lối đi mỗi lúc một rõ. Tôi đi rừng đã quen, và chỗ này cũng không khó đi lắm, nên tôi chỉ để mắt trông những bóng lá đi lần lần trên má và trên vai người thiếu nữ, với hai ống chân trăng trắng thoăn thoắt ở trong đám tối mập mờ. Có một lần tôi đi sát lưng cô ta, để tay lên vai mà giữ cô lại. Cô ngoảnh đầu cười gượng. Tôi hỏi:
- Cô định dẫn tôi đi đâu?
- Đi đằng này, mà!
- Làm gì? Hả!?
Mặt cô bỗng ra vẻ thương khó. Cô ta muốn cười nhưng không được, chỉ quay đầu đi, rồi vừa nói vừa thở dài:
- Anh đi một lúc nữa rồi anh biết. Anh, anh! Đi, đi!
Xuống một đường dốc.
Rồi lên một đường dốc nữa.
Chỗ này trèo rất khó nhọc, lại không có lối như trước, chỉ có người thiếu nữ đi quen nên đã lên được xa. Tôi phải bảo cô ấy quăng một đầu dây xuống cho tôi và lên trước, buộc đầu kia vào một gốc cây để tôi bám leo lên cho dễ. Qua một lớp cây rậm và um tối thì đường đã dốc xuống; đi một lát nữa thì đã thấy lối rõ và dễ đi. Tôi nghe thấy tiếng ào ào ở đâu từ lúc nẫy; bây giờ nghe càng gần thêm.
- Có phải gần đây có một cái thác không?
Tôi hỏi người thiếu nữ thế. Cô ta đáp:
- Phải. Gần đến nơi rồi.
- Đến nơi? Thế ra đi đến đấy à?
- Phải.
- Nhưng đến làm gì mới được chứ?
- Anh cứ đi rồi biết mà!

Tôi nghĩ bụng chưa bao giờ gặp cảnh ngộ nào lạ kỳ hơn. Thực vậy. Mà cho cả về sau này cũng thế, trong suốt cuộc đời phiêu linh của tôi, tôi không hề gặp đêm nào như cái đêm hôm ấy cả.
Tôi tự hỏi xem cái kết cuả cuộc "đi chơi" này rồi sẽ ra sao. Nhưng không tìm được câu trả lời, thì tôi cứ ra chân bước.
Tôi có ý xem xét những chỗ vừa đi qua, thì phần nhiều đường lối giống nhau không thể phân biệt và nhớ được rõ. Phải là người ở lâu và quen đây lắm mới thuộc được những đường tắt này.
Chúng tôi đang đi ở trong bóng những cây lá chen nhau, bỗng đến ngay một nơi quang quẻ rộng rãi toàn ánh trăng sáng. Tôi nhíp mắt lại vì hơi chói, trông ra thì núi non nhấp nhô, tỏ mờ trước mắt; khuôn trăng tròn vẹn, kê ngay trên một đỉnh núi, bình tĩnh như có ý đợi chờ.
Tiếng thác nghe thấy từ lâu, bấy giờ đang rộn rã cuồn cuộn ở phía dưới chân. Nhưng tôi chưa trông thấy nước: nguồn thác sâu lắm, mà chỗ ấy thì cao. Một con đường nhỏ chạy qua mặt tôi, dẫn đến một cái cầu ghép bằng thân cây như tôi thường gặp. Cầu này thay một chỗ đất sụt làm lở một quãng đường ven núi đất và cắt đứt mất lối đến Hoàng Su Phì: Bấy giờ tôi đã nhận ra rằng cô con gái dẫn tôi đi toàn nẻo tắt và hà tiện được tới ba phần tư đường. Vì từ chỗ lều tranh đến đây, đi khỏi một quãng đường thấp rồi lên những đường leo lưng chừng núi, còn phải qua một khúc cầu nữa.
Chúng tôi tiến lên chừng hai chục bước thì đến bên cầu. Cầu hẹp và dài, chỉ có mươi khúc cây đâm ngang cắm sâu vào núi để nâng đỡ. Cô Thổ nhẹ nhàng đi ra tới giữa rồi ngoảnh lại đợi tôi đi theo. Tôi trông xuống, thấy dưới sâu lắm, và rải rác có những tảng đá lớn; nước thác chảy như xiết, ầm ầm từ một nẻo khuất giữa hai chân núi, vòng khúc rắn xông ra. Tôi còn ngập ngừng một hồi chưa dám đi lên vội. Sau đánh bạo tiến lên được ba bước. Một khúc gỗ cựa mình một cái làm tôi sởn cả gai ốc, đã tưởng cái cầu gẫy nhưng không việc gì.
Tôi phải hết dè giữ mới lại dám bước lên, dò đi như người "leo cầu vồng" vậy. Dưới chân, nước vẫn gầm như chuyển đá, mà bên trái thì cái núi dốc như tường xiêu, lại ở quá tầm tay không thể nào vịn được.
Dò được nửa cầu rồi. Càng thấy ghê sợ thêm. Liệu chừng không thể qua được khỏi cầu mà không ngã, tôi phải lấy cuộn dây định tìm quăng lên một cái chạc cây nào trên lưng núi, rút chung đôi lại rồi víu lấy mà sang.
Bỗng người con gái Thổ giữ lấy tay tôi nói:
- Thôi! Không phải đi nữa.
Tôi vừa ngật ngưỡng vừa nhìn cô ta, lấy làm kinh dị. Cô Thổ điềm nhiên nhắc lại:
- Thôi, không phải đi nữa: Đến nơi rồi!
- Sao? Đến nơi?
- Phải.
- Ồ quái lạ! Quái lạ! Quái lạ! - tôi nghĩ bụng thế - người con gái này thực kỳ quái, nó định trêu mình đây hay sao?
Tôi nhìn mặt người con gái để dò xét ý tứ, nhưng cô ta không nhìn tôi và có ý quay mặt đi. Tôi vừa bực mình vừa lo ngại, quát khẽ lên một câu:
- Làm sao lại thế này!
Cô ta không trả lời. Ánh trăng chiếu vào sắc da người con gái, lúc ấy xanh bệch như da người chết. Nét mặt sắt lại như lo sợ hay tức giận, miệng mím vào một cách đặc biệt, rồi bỗng nói rất nhanh:
- Ở dưới cầu này có một người ngã xuống chết!
Tôi còn chưa hiểu, hỏi lại, thì cô ta nói luôn:
- Người ấy là một người đàn ông cùng đi với tôi, rồi lỡ chân rơi xuống đây chết.
- Cùng "đi chơi" với cô à?
- Ừ.
- Thế làm sao, nói mau! Sao cô lại gọi tôi đến?
Cô Thổ nói:
- Tôi nhờ anh đem nó lên đây cho tôi.
- Nhờ tôi? Sao lại nhờ tôi. Nhờ tôi mà được à?
Cô ta điềm tĩnh không đáp câu hỏi của tôi, nhưng trỏ xuống dưới gầm cầu mà bảo:
- Kia kìa, nó ngã xuống mắc vào cành cây ở lưng chừng núi kia kìa.
Tôi chú mắt trông, chỉ thấy nước thác chảy xuống từng bực, bọt sùi lên trắng như tuyết ở chung quanh những tảng đá cuội lù đen.
- Đâu nào?
- Ở cái cây kia mà. Kia kìa, chỉ có một cây thôi, mà nó ở lưng chừng núi.
Tôi quỳ gối, đầu cúi về phía trong mà trông xuống thì quả thấy ngang núi đâm ra một cây nhỏ, rễ ăn chặt vào, có lẽ sâu lắm, nên đất lở đến tận chỗ ấy mà cây vẫn vững nguyên. Mình cây cong cong ở chân rồi đâm vát lên trời, cành lá xòe ra gần che mất một nửa mình người bị nạn. Lúc ấy tôi chỉ trông thấy có một cái vai dốc xuống mắc vào gốc cây.
- Các người đi xem hát hội ở làng xa hết cả (người con gái nói). Tôi đi tìm chỉ thấy có anh, tôi mới định nhờ anh lấy nó lên hộ tôi.
- Ừ thế làm sao không nói thực ngay để cho tôi... (tôi nghĩ đến những cử chỉ của tôi trong lều) để cho tôi tưởng cô đến rủ tôi đi chơi thực?
Cô gái mỉm cười một cách nhạt nhẽo:
- Tôi sợ anh không đến, tôi phải nói thế...
Thấy tôi có dáng nổi giận, cô vội nói thêm:
- Mà rồi tôi cũng về với anh kia mà!
Tôi vừa lườm vừa nhại:
- Hừ! Về - với - anh!
Cô Thổ lại hết lời nói với tôi những câu rất ngọt ngào và thiết tha; mặt thì nhợt nhạt, mắt thì long lanh mà miệng vẫn gượng cười: giọng nói khác đi, hình như cô ta cố nén sự cảm động.
Tôi không nỡ từ chối giúp đỡ cô ta. Nhưng tôi không giấu cái bực mình, vừa tìm cách xuống đến cái cây vừa gắt.

Chỗ sườn núi lở, dốc như bức vách nghiêng, mà trừ cái cây giữ lấy người chết cách chúng tôi khá xa, thì chả còn bấu víu vào đâu được nữa; người bị nạn chắc hẳn ngã về phía trong, nên mới tình cờ mắc vào gốc cây đó, chứ nếu ngã phía ngoài hay ngã nhích ra chút nữa thì không còn mình xác nào. Tôi giở cuộn dây ra, nằm úp mình trên cầu rồi ròng dây xuống ướm thử. Cái dây dài được hơn hai chục thước mà thả đến chỗ ấy cũng không thừa được bao. Tôi thử tìm cách buộc vòng, câu lấy người chết lên, nhưng vướng nhiều cành nên không làm thế được. Tôi lại phải kéo dây lên thắt hơn một chục nút để cho dễ bám. Trong khi ấy người con gái lẳng lặng ngồi bên cạnh tôi mà xem.
Nước thác vẫn réo ào ào, làm tăng cái vẻ to tát của chốn núi vực cao sâu ở dưới bóng một vành trăng ngàn năm lặng lẽ.
Tôi nhìn cô Thổ thì cô ta nhìn lại, tôi cau mày mắng:
- Buộc đi chứ, ngồi đấy à?
- Buộc gì?
- Thì thắt nút đi chứ!
Cô ta lôi một phần dây lúng túng thắt được một nút rồi hỏi:
- Anh làm những nút này làm gì thế?
Tôi không thèm đáp. Rồi thấy cô ta cứ dang tay kéo dây mãi chưa thắt được vòng nào thêm, tôi tức mình giật về, không khiến nữa.
Nút thắt xong tôi buộc rất chắc chắn một đầu dây vào ba thân gỗ về phía núi; bỏ mũ ra; bảo cô Thổ giữ lấy mối buộc chắc chắn để tôi leo xuống. Chân tôi đạp vào đất núi làm cho cát bụi ở đấy theo gió bay cả vào mắt mũi tôi. Tôi vừa buông một tay để dụi thì "sựt" một tiếng ở đầu dây. Tôi lạnh cả người vội quát:
- Cái gì thế, cái gì thế?
- Không hề gì. Cái mối đây nó thắt chặt lại đấy mà.
- Phải cẩn thận, nghe không! Phải nằm xuống mà giữ!
Cô Thổ trên cầu nằm áp người xuống, hai tay nắm lấy phần đầu dây.
Xuống đến nơi, tôi bẻ mấy cành lá đi cho quang, và để chân lên một cái chạc dún thử mấy cái. Cây này là một giống ổi rừng, thân già quánh và to. Lúc đứng trên cầu tôi tưởng là một thứ cây dai và mềm vì thấy nó nhỏ lắm, nên định buộc cuộn dây vào người, ôm lấy cái xác mà bảo cô Thổ kéo lên. Như thế thì khó nhọc vô cùng, chưa chắc người con gái Thổ đã kéo nổi.
Nhưng bấy giờ tôi lại tính cách khác. Người chết là một người đàn ông to lớn mặc quần áo tây vàng; hai chân dạng ra, áp với núi và đâm ngược lên trời, mình úp vào trong nên tôi không thấy mặt. Hắn bị mắc vai bên phải vào ngay gốc cây và hình như bị nát cả cổ và có lẽ gẫy xương dầm vai; nhưng máu chỉ đẫm ra ngoài áo có một ít. Một cánh tay nắm lại chọc vào núi, còn tay kia bị đè ở dưới mình. Tôi ngồi quắp lấy một cành to, tròng lọng dây vào hai chân người kia rồi lựa cho lách xuống đến tận thắt lưng.

Mặt trăng lúc ấy mới lọt một phần xuống sau đỉnh núi trước mặt. Tôi trông thấy bóng cây với bóng người tôi in lên cái thây chết. Những cành lá theo gió và theo cách cử động của tôi mà lung lay một cách bình yên.
Xem cách ăn mặc của người chết thì tôi đoán là một người Thổ "văn minh" giầu có, hoặc một người Kinh buôn bán ở đường rừng.
Tôi bám dây tụt xuống, để một chân lên mình người chết và ghì cho cái tròng ở lưng hắn thắt vào rõ chặt rồi đạp chân kia vào núi, tôi đu người tôi sang một bên. Vai cái xác liền rời ra cùng với một loại đất vụn rời xuống: Người chết đã nằm ngang ra dưới đầu dây. Cổ hắn trẹo về một bên và hơi ngật ra đằng sau; tóc bộn bề và ướt đẫm, da xám như mầu đá mài.
Tôi lại ngồi lên một cành cây nắm lấy vai hắn dìu lại xem cho rõ mặt. Nhưng tôi kêu lên một tiếng kinh dị: ồ lạ này!
Người bị nạn nào phải ai đâu? Chính là ông Ba-đi-ghệt!
Phải, ông Ba-đi-ghệt, cái người mạo hiểm táo tợn chúng tôi vẫn biết tiếng, mà tôi mới gặp được hơn nửa tháng, trong một làng ở gần Pa Khá. Ông này đi trước chúng tôi đã lâu kia mà, sao bây giờ lại vẫn ở đây, rồi lại chết thảm hại thế này? Mà sao người con gái Thổ kia lại...
Tôi thoáng nghĩ đến một điều làm cho tôi căm tức.
- À thì ra (tôi lẩm bẩm nói thế) thì ra họ trăng gió với nhau đã lâu, hôm nay đi chơi trên cầu này rồi một người rơi xuống chết, rồi nó tìm mình đến, nó dụ mình đến để mình gỡ xác tình nhân nó lên!
Hai con mắt ông Ba mở lim dim như ngủ gà, như xem cái tức giận trong lòng tôi. Trên cái mặt đầy những máu, máu đọng đen thẫm lại một bên, hai môi dầy trên lún phún một hàng râu; miệng thì nhăn một cái cười kinh khiếp.

Tôi liền buông tay ra bám dây leo lên cầu. Người con gái hỏi, nhưng tôi lặng thinh. Lên tới nơi tôi nhìn nó một cách rất khinh bỉ.
Nó hỏi nữa:
- Sao? Anh? Xong rồi chứ?
Tôi cười gằn:
- Xong. Chị cứ việc kéo tình nhân chị lên!
Nó chỉ trông tôi một cái nhanh, không nói gì, chống tay ngồi lên rồi mắm môi kéo.
Nhưng cái xác nặng lắm, nó ngã hẳn người ra mới lên được một chút, rồi lại để tụt xuống ngay. Tôi thấy nó làm ngứa mắt liền vuốt tóc lại bên kéo đỡ. Không đầy năm phút cái xác đã lên nằm trên cầu.
Tôi toan cuốn xong cái dây thừng rồi mới hỏi xem người con gái định xử trí ra sao, thì bỗng thấy nó cười nhạt một tiếng nghe lạnh đến xương tủy. Tôi ngẩng lên nhìn
Bấy giờ cô thiếu nữ dịu dàng ở trong lều không còn đó nữa. Tôi chỉ thấy một người con gái kỳ dị, đang nghiến răng mà lẩm bẩm ở trước mặt tôi. Nó vẫn xốc nách người chết để ngồi rũ dưới chân, trông thẳng vào mặt tôi nhếch mép một cái, rồi nói:
- Anh tưởng nó là tình nhân tôi hả? Không! Nó là kẻ thù của tôi. Tại sao? Nó giết mất anh Cẩm của tôi.
Anh Cẩm là người sắp lấy tôi, mà nó giết đi, rồi quẳng xuống đây cho mất xác.
Nói đoạn nó chỉ tay xuống những từng nước trắng xóa ở dưới. Tiếng thác chảy như dữ dội thêm. Nhưng cái trường hợp ấy làm tôi quên cả ghê rợn.
Người con gái lại nói - phải nghe giọng nó nói mới thấy được cái cảm giác của tôi lúc bấy giờ.
- Nó nhiều tiền, nó muốn lấy tôi, nó đến dụ tôi, tôi bằng lòng ngay; nhưng tôi bằng lòng ở với nó để lừa giết nó. Tôi rủ nó đến đây chơi, nó không nghi ngờ, tôi liền chém cho nó một nhát. Anh trông đây này!
Tôi trông. Ở sau gáy ông Ba quả có một nhát dao bổ thực sâu, nhưng chỗ ấy máu đọng lại thâm xì nên lúc nãy tôi không để ý.
- Tôi chém nó (lời người con gái) để cho nó cũng chết ở dưới cầu này, để chồng tôi... (giọng nói ngày một thêm đầy, gần như nghẹn ngào) để cho chồng tôi trông thấy được hả dạ... Nhưng mà nó không rơi xuống thác, nó lại vướng vào cây. Tôi muốn cho nó rơi xuống đến tận dưới thác kia, tôi mới gọi anh đến. Bây giờ anh đứng mà xem.
Trước cái dáng điệu kia, cái giọng nói kia, tôi không biết trả lời ra sao cả. Tôi cũng không biết xử trí thế nào nữa; tôi đứng ngẩn ra nhìn.
Trông con mắt lóng lánh của người con gái, cùng với cái mặt đanh thép kia, tôi tưởng như thấy cái khí chất rừng núi, cái tâm hồn Thổ Mán hiện ra.

Tôi vẫn ngẩn ra nhìn.
Người con gái lại cười nhạt mà láy lại câu lúc nãy:
- Bây giờ anh đứng mà xem.
Nói xong, nó đứng dạng hai chân ra, cái mép váy đằng trước căng thẳng bởi hai ống chân hơi thô và trắng. Một tay nó xốc ông Ba đứng dậy, một tay nữa nâng ở ngang lưng. Tôi toan dò bước đến gần thì đã thấy người con gái dướn mình văng cái thây chết xuống. Rồi, không biết vì quá đà hay cố ý, cả người con gái cũng văng theo...
Mặt trăng kia đã kín đáo ẩn mình sau đỉnh núi; hai cái thân người trên cao rơi xuống một tiếng gớm ghê trong những tiếng thác đổ ầm ầm không bao giờ ngớt.

Rút từ tập truyện ngắn Vàng và máu, 1934
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeThu Dec 13, 2018 12:08 am

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Images?q=tbn:ANd9GcS6NV7NNNXZINtF7Ubs_XaJUGGM36bbxKKXaasWGoso4Jh8OlpaFA

Câu Truyện Mơ Trong Giấc Mộng
- Nhất Linh (1935)


(Tặng tâm hồn Bồ Tùng Linh, tác giả Liêu Trai)
Đã được đăng trên Tuần Báo Ngày Nay số 10, in tại Hà Nội năm 1935.

Một đêm trăng mờ trên sông Thương. Con thuyền lờ đờ trôi bên cạnh một dãy lau cao, gió thổi qua xào xạc. Sinh ngồi dựa vào mạn thuyền, đôi mắt mơ màng nhìn một thiếu nữ tóc trần, mặc áo lụa trắng, đương ôm vào lòng một cây đàn hờ hững gảy vài tiếng rời rạc. Một cơn gió mạnh thoảng qua. Sinh hỏi thiếu nữ:
– Ở giữa sông, mà lạ thật, có mùi hoa nhài thơm lạ?

Thiếu nữ nghiêng đầu để Sinh nhìn rõ trên mái tóc mấy bông hoa nhài trắng cài trong làn tóc đen, rồi thiếu nữ đăm đăm nhìn nước trôi cạnh thuyền như muốn ôn lại trong trí những việc xảy ra từ thời quá khứ ra xa xăm. Một lát thiếu nữ thở dài, buồn rầu nói:
– Em thích nhứt hoa nhài… vì hình như kiếp trước đời em là đời hoa nhài.
Sinh cười nói đùa:
– Tuyết của tôi có linh hồn một nhà thi sĩ
Tuyết nghiêm nét mặt:
– Em không nói đùa đâu. Anh không thấy người ta vẫn bảo hoa nhài là một bông hoa đĩ, vì hoa nhài chỉ nở ban đêm, thế mà đời em – em nói ra cũng không hỏi thẹn gì – là đời một gái giang hồ.
Rồi nửa buồn rầu nửa đùa cợt, Tuyết cất tiếng hát:
Ngẫm xem hoa ấy thân này…

Tuyết đặt đàn ngồi sát lại gần Sinh:
– Anh muốn tin hay không tin tuỳ ý anh, nhưng em thì em cho đời em với đời hoa nhài có liên lạc với nhau. Mà người ta bảo hoa nhài là một thứ hoa đĩ, thật đúng lắm. Để em kể anh nghe lại cái hồi em mới bắt đầu bước chân vào cuộc đời giang hồ này:
“Năm ấy em mới mười sáu tuổi. Một đêm nhà vắng, cũng về mùa hè, có cả trăng mờ như đêm nay. Em nằm một mình ở ngoài hiên cho mát và vơ vẩn nhìn ra ngoài. Bỗng em thấy trên cái sân gạch rộng, lờ mờ dưới bóng trăng hiện ra ba người con gái mặc toàn đồ trắng, nhẹ nhàng đi lướt qua sân. Em thấy làm lạ, vì trong nhà, ngoài em ra, không có một người con gái nào khác nữa. Em ngồi nhổm dậy nhìn ra thì thấy ba người con gái đi đi lại lại chơi bời cười nói trên sân coi như nhà của họ. Em ngạc nhiên bước ra sân, toan hỏi, thì cả ba cô con gái cùng đến xúm lại bên em, cầm tay em tỏ nỗi mừng rỡ, rồi bảo em:
– Chị Tuyết đây rồi! Chúng em tìm chị mãi.
Thấy em ngạc nhiên, một cô hỏi:
– Chị quên chúng em rồi sao? Sao mà chóng thế. Bạn cũ của chị đây mà, chị nhớ ra chưa?

Thế là từ lúc ấy, em mang máng nhớ dần ra rồi, em thấy hình như có gặp họ ở đâu nhiều lần rồi. Em chỉ nhớ mang máng thế thôi, chưa kịp nghĩ ngợi gì cả, thì ba cô đã cầm tay em kéo đi, vừa đi vừa nói chuyện, nói chuyện lâu lắm, nhưng em không nhớ nói những chuyện gì. Lúc đi với họ, em thấy trong người nhẹ nhõm và quanh người lúc nào cũng phảng phất một thứ hương thơm ngát, nhưng không đoán ra được là thứ hương gì. Bỗng một cô nói:
– Thôi khuya rồi, xin từ biệt chị.
Rồi cả ba cô sát lại người em, ôm lấy em: em thấy hoa cả mắt, cả hương thơm ở người ba cô bạn làm em choáng váng, tê mê, thiêm thiếp đi một lúc. Khi tỉnh dậy thì cả ba cô đi đâu mất và khi em giơ vạt áo lên thì thấy đẫm mùi hoa nhài. Có tiếng cười khúc khích. Em giật mình thức dậy mới biết là mình vừa nằm mê.
Em quay mặt ra ngoài cho tỉnh hẳn, thì thấy ngay ở đầu phản bên gối em, ba bông hoa nhài trắng và to vừa mới nở, gió thổi chùm lại với nhau và quay cả về phía em nằm, hương thơm đưa thoang thoảng”.

Sinh cười bảo Tuyết:
– Nằm bên hoa, ngửi thấy mùi hoa mê như thế là thường.
Tuyết nói:
– Anh để em kể hết đã… “Từ lúc ấy trở đi, em thấy em đổi khác hẳn, rồi ngay ngày hôm sau, em gặp một chàng trẻ tuổi, em mê người ấy, và từ đó, thân em không còn là thân một cô con gái mười sáu tuổi trong sạch nữa. Em trở về thì mấy bông hoa hôm trước, cánh đã héo tàn, vàng úa. Bắt đầu từ đó, em bước dần mãi vào con đường nhơ nhuốc… cho đến ngày nay. Nhiều lúc em muốn trở về với cái đời trong sạch kia, nhưng không thể nào được nữa, hình như có một sức mạnh vô hình bắt em phải sống, phải mãi mãi sống cái đời khốn nạn này”.

Tuyết nhắc cây đàn lên gẩy xong bài Xuân Nữ Thân, rồi cúi mặt buồn rầu, hai bên má nước mắt chảy ràn rụa. Muốn khuây buồn cho người bạn một đêm, Sinh giơ tay khẽ rứt mấy bông hoa nhài ở mái tóc Tuyết, rồi cầm vứt xuống sông. Hai người cùng nhìn theo mấy bông hoa trôi theo giòng nước. Một cơn gió thoảng qua, Sinh nói:
– Để làm gì cái bông hoa ấy nó quấy rầy cuộc vui của hai người đêm nay. Hết hoa, một cơn gió qua là hết cả hương thơm ám ảnh…
Tuyết mỉm cười chua chát:
– Hết thế nào được. Cái hương ấy nó đã thấm sâu vào da thịt em, nó đã tắm cả linh hồn em, gió nào thổi cho sạch được.

Mặt trăng lộ ra, trời sáng hẳn. Tấm áo của Tuyết đã trắng lại trắng thêm, nổi hẳn lên trên nền lá sậy đen. Bỗng Sinh chăm chú nhìn vào mặt Tuyết, và ngạc nhiên thấy mặt Tuyết dưới ánh trăng mỗi lúc mặt trắng dần… trắng như mầu trắng của một bông nhài mới nở. Chàng ngạc nhiên hơn nữa, khi một cơn gió thoáng qua đưa lại phía chàng mùi hương nhài thơm nức như ở trong áo Tuyết bay ra….

Sinh dụi mắt. Lúc bỏ tay ra, thì thấy ánh sáng soi vào giữa mắt mình và thấy mình nằm trên cái ghế mây giải ở đầu hiên nhà. Lúc đó Sinh mới hay rằng mình mới vừa nằm một giấc chiêm bao. Thấy lẫn trong gió có mùi thơm hoa nhài, Sinh quay mặt nhìn ra: ngay ở đầu ghế, một cánh nhài gió thổi hắt về phía chàng để lộ ra trong đám lá một bông hoa nhài mới nở trắng nuột dưới ánh trăng. Hương thơm vẫn thoang thoảng và bông hoa rung rinh trước gió, Sinh tưởng tượng như đương còn thì thầm kể lại câu truyện chàng được nghe trong giấc mộng.

Nhất Linh
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeTue Dec 18, 2018 9:35 am

.

Dòng Máu Đứt Quãng
Truyện Ngắn Thế Lữ (1907-1989)


Năm giờ sáng hôm ấy, hai người cảnh sát hết giờ đi tuần đêm, đang từ cuối phố hàng Đẫy thong thả đi xe đạp về bóp chính Bờ Hồ, bỗng có tiếng gọi đằng sau:
- Ông đội xếp ơi! Ông đội xếp ơi!
Hai viên cảnh sát cùng quanh xe trở lại, thì thấy một người đàn ông mặc quần áo nâu từ xa chạy lại, vừa vẫy tay, vừa gọi rối rít.
Một người cảnh sát càu nhàu:
- Suốt đêm không sao, bây giờ mới lại sắp giở chuyện.
Rồi xẵng tiếng hỏi người đàn ông đang tiến lên:
- Cái gì mà ngậu mãi lên thế?
Người kia đứng dừng lại trước hai cái xe đạp, hổn hển thở ra được một câu nhát gừng:
- Thưa hai ông... ông cai Bốn bên nhà tôi... sáng hôm nay... thấy nằm chết... ở... trước cửa.
- Trước cửa nhà ai?
- Nhà ông ấy.
- Nhà người ấy ở đâu?
- Ở bên nhà tôi.
- Mà nhà tôi ở đâu chứ?
Người đàn ông thở mạnh một hơi rồi thưa:
- Bẩm ở ngoại ô, bên đường cái. Tôi toan lên bóp trình, đến đây thì gặp hai ông... May quá!

Hai người cảnh sát tức khắc đạp xe xuống phía Ô Cầu Giấy. Người đàn ông chạy theo, vừa thở vừa thuật:
- Sáng hôm nay, tôi dậy sớm, mở cửa ra thì thấy cái cửa liếp nhà ông cai Bốn đổ xuống bên đường, rồi tôi trông thấy ông ta nằm chết trên đó, tôi sợ quá vội đi trình Cẩm... Hai ông đến mà xem.
- Trên người có thương tích gì không?
- Tôi không biết.
Qua dãy đèn điện thành phố, đi chừng năm phút nữa thì đến một lớp nhà lụp sụp ở bên tay trái. Một bọn bảy tám người, vừa đàn ông vừa đàn bà, trẻ con đang xúm xít trước gian nhà lá cuối cùng. Người đàn ông áo nâu chỉ tay nói:
- Nhà ông cai Bốn ở đấy.

Bọn người thấy "đội xếp" đến thì đứng rẽ ra hai bên. Hai viên cảnh sát liền trông thấy xác một người đàn ông lực lưỡng, trạc độ ba mươi lăm, bốn mươi tuổi, mặc quần tréo go thâm, áo cánh trắng. Người ấy nằm ngửa, đầu về phía đường, đè lên cánh cửa liếp, nét mặt trông già dặn mà không đều, hai mắt mở rất to, nhìn lên mái nhà một cách dữ dội, cái cằm vuông nổi cả xương quai hàm lên, mồm hơi mở, để hé ra hai cái hàm răng cắn chặt lại. Một tay người ấy bấm xuống mặt liếp, còn một tay thì đặt ngang mình. Một chân gập lại bị đè dưới một chân duỗi thẳng.
Cảnh tượng ẩy tỏ ra người đàn ông kia chết một cách khác thường lắm.
Nhưng sao trên người không có qua một vết thương nào? Hai viên cảnh sát đương cúi nhìn, bỗng một người nói:
- Kìa, ông nhìn trên ngực người chết xem, kia kìa, ở phía dưới cái cánh tay để ngang bụng ấy. Hình như những giọt máu thì phải...
Người cảnh sát thứ hai gật đầu:
- Ừ, phải đấy, có nhẽ là những giọt máu thực.
Quả nhiên là ở phía bụng trên người chết có đến năm, sáu giọt máu đỏ thẫm, to bằng đầu đũa một, chạy thành một hàng trên chiếc áo cộc trắng. Nhưng ngoài những vết máu không biết từ đâu mà có ấy, thì không thấy thương tích nào.

Hai người cảnh sát xem xét xong, cùng đứng lên nhìn nhau, cùng có một ý nghĩ giống nhau, nên cùng nói:
- Thực lạ lùng!
Rồi một người quay lại hỏi:
- Thế vợ con người chết đâu?
Người đàn ông lúc nãy thưa:
- Không thấy vợ con gì cả. Ông ta mới đến ở đây được ba, bốn tháng.
- Làm nghề nghiệp gì?
- Bẩm, ông ta làm Cai lục lộ.
- Không ai thổi nấu cho ư?
- Bẩm có. Trước thì ông ta ăn cơm hàng trên phố, vì phải đi vắng cả ngày. Sau ông ta nhờ chúng tôi thổi nấu cho...
- Có hay cãi nhau, đánh nhau bao giờ không? Có ai thù oán không?
- Bẩm, ông ta hiền lành lắm, không mất lòng ai bao giờ... Cũng không chơi bời gì bao giờ... Làm ăn kể cũng được khá tiền, nhưng ông ta tiếng vậy mà thỉnh thoảng lại khó ở trong mình, phải uống thuốc luôn, nên ăn tiêu cũng không được rộng rãi lắm.
Người cảnh sát lại hỏi:
- Thế ra người này đau yếu luôn ư?
- Bẩm vâng. Nhưng mấy hôm nay ông ta phải bận đi làm cả ngày thì lại ra dáng khỏe mạnh. Tối hôm qua, ông ta còn sang đánh cờ với tôi và ông phó Nhớn bên nhà mãi khuya mới về ngủ. Bên này tôi còn nghe thấy ông Bốn quạt và thỉnh thoảng lại kêu bức.
- Chúng tôi cũng vì trời nóng, mãi đến hơn một giờ đêm mới ngủ được, mà vẫn không thấy nhà ông Bốn có chuyện gì.
- Thôi được rồi. Khai thế là đủ.
Nói đoạn viên cảnh sát quay lại bảo người bạn đồng sự:
- Ông đứng đây coi, để tôi về sở trình. Đừng cho ai vào trong nhà kia nhá!

Viên cảnh sát vừa nhảy lên xe đạp thì mấy người đàn bà hàng xóm hình như sợ liên lụy đến mình, nên tìm những lời lễ phép kể cho viên cảnh sát đứng coi đó về cách ăn ở của ông cai Bốn. Họ hết lời tỏ lòng thương hại cho con người hiền lành tử tế như thế mà lại chết một cách thảm hại như thế. Cái tình lân lý của những kẻ già mồm hay chửi nhau kia, có lẽ chưa bao giờ đằm thắm bằng lúc này. Nhưng họ thấy người cảnh sát khoanh tay đứng đó, nét mặt vẫn thản nhiên, vẫn lạnh lùng, nên phải đành những tiếng chép miệng, thở dài với những lời xót thương cho các người qua đường nghe vậy.
Trong bọn người chen chúc nhau, có một người thiếu niên, đầu trần, đi xe đạp với tôi là chú ý đến việc này.
Tôi biết vụ án mạng từ lúc năm giờ sáng, chính là lúc tôi đi xe đạp bên cạnh hai viên cảnh sát ở phố hàng Đẫy và nghe thấy tiếng gọi "đội xếp" ở đằng sau. Tôi liền bỏ cuộc đi chơi sáng thường ngày của tôi và cùng đi tới đây với họ. Còn người thiếu niên kia, có lẽ cũng là người đi chơi sáng - thì đến sau tôi ít lâu.

Từ lúc viên cảnh sát thứ nhất đi rồi, tôi thấy chàng ta cứ cúi xuống hoài mà nhìn cái xác chết một cách rất cẩn thận, rồi lại ngẩng đầu chăm chỉ nhìn gian nhà. Trong nhà, ngoài chiếc giường cầu với một cái rương kê một bên không còn bày biện gì nữa. Nhưng hình như người thiếu niên còn muốn tìm ra một vật gì khác nữa thì phải, nên cứ hết nhìn cái xác lại nhìn vào trong nhà, mãi không thôi.
Tôi thấy vậy, đứng lại bên chàng ta sẽ hỏi:
- Ông cho việc này có lạ không?
Chàng ta đứng thẳng người lên, ngẫm nghĩ một hồi, rồi đáp:
- Lạ, thì còn nhiều cái lạ hơn... Nhưng thế nào mà chả có một... nguyên ủy?
Tôi ngạc nhiên trông thẳng vào mặt người kia. Chàng ta yên lặng nhìn tôi rồi nói tiếp:
- Phải, việc này thoạt thấy kể cũng lạ đấy... Nhưng xét kỹ thì cũng chẳng có gì là kỳ dị lắm... cũng là một việc thường.
- Một việc thường! Vậy ông bảo người này chết vì đâu? Trong mình còn có thương tích nào nữa không? Mà sao lại có những giọt máu lạ lùng ấy?
Người thiếu niên vuốt lại tóc mỉm cười:
- Ông hỏi tôi một cách thực thà quá, làm như trong giây phút tôi có thể trả lời ông được ngay bằng ấy câu. Nhưng thế cũng chưa phải là một cớ để nói rằng việc này không thể cắt nghĩa được.
Tôi nghĩ bụng: "Thực là giọng lưỡi trong tiểu thuyết trinh thám... Có lẽ người nói chuyện với mình đây là một tay Sherlock Holmes thứ hai cũng nên".
Từ đó tôi lại càng để ý đến người thiếu niên hơn trước. Chàng ta mặc áo trắng dài chân đi dép tóc hất ngược và dài, bù rối như không bao giờ chải. Vẻ mặt lạnh lùng và thỉnh thoảng lại như hơi có dáng mỉa mai. Hai mắt đen và sáng ở trên cái sống mũi cao.
Thỉnh thoảng chàng ta lại se sẽ gật đầu như đang hiểu ra được một điều gì mới tìm thấy.

Tôi toan hỏi thì một tiếng còi xe hơi hách dịch réo lên, báo hiệu cho mọi người biết rằng ông Cẩm đã đến.
Đám người rẽ tản mát ra để lấy lối. Viên cảnh sát đứng thẳng người lên chào lối nhà binh.
Từ trên xe bước xuống bốn người: một viên Cẩm, một viên mật thám Tây, một ông đốc tờ với người cảnh sát về báo lúc nãy.
Lúc đó mọi người bị hai viên cảnh sát bắt đứng ra xa. Tôi phần phải giữ xe đạp, phần bị chen và đẩy lùi lại đằng sau không thể nào tiến lên được, nên không biết các nhà chuyên trách tra vấn, khám nghiệm ra sao cả.
Một lát tôi ngoảnh lại định nói chuyện với chàng thiếu niên thì không thấy chàng ta đâu nữa, mà cái xe đạp của chàng ta thì thấy dựng ở một gốc cây bên đường. Tôi nhớ lại những cử chỉ của người thiếu niên và sinh ra nghi hoặc. Bụng bảo dạ: "Con người kỳ khôi thực, không biết sao lại chú ý đến người chết quá như thế nhỉ... Mà bây giờ lại lủi đi đâu mất? Không biết có liên lạc gì với cái ‘án mạng’ ly kỳ này không?"

Bấy giờ vào khoảng bảy giờ. Trên trời xanh ngắt không có một sợi mây nào. Ánh nắng về sáng mà đã thấy khó chịu.
Trong gian nhà lá, mấy nhà chuyên trách đã khám xét xong. Nhưng hình như chưa tìm ra được manh mối gì cả. Viên đốc-tờ cùng với viên chánh mật thám, vẻ mặt mệt nhọc và tư lự, vừa bước ra đường vừa chấm mồ hôi trán. Hai ông nhắc đi nhắc lại một câu nói:
- Thực là một chuyện tối ly kỳ.
Viên cẩm Tây cũng đạo mạo gật đầu:
- Phải. Thực ly kỳ lắm!
Rồi họ cùng bước lên ô-tô. Trong lúc ấy thì người ta khiêng cái xác ông cai Bốn lên một chiếc xe tay để đem về nhà xác.

Tôi đứng đó nhìn theo và nghĩ bụng rằng những điều bí mật trong cái chết khác thường kia chưa biết bao giờ mới khám phá ra được, tất cũng lại vùi lấp đi, rồi quên đi, cũng như bao nhiêu cái chết tối tăm khác. Rồi tôi cứ bùi ngùi thương con người xấu số ấy hoài... Bỗng một tiếng nói đàng sau tôi làm tôi sửng sốt, ngoảnh trông lại: thì ra người thiếu niên.
Chàng ta mỉm cười bào tôi:
- Ông nghĩ gì vậy? Họ có bắt ai đi theo không?
- Họ là ai kia?
- Các nhà "chuyên trách" ấy mà!
- À! Không. Không bắt ai cả.
Người thiếu niên ra ý vui vẻ:
- Nếu vậy thì may! Bởi vì những người hàng xóm đây, cũng như ông với tôi, không có liên can gì đến việc này hết. Tôi chỉ sợ họ bắt oan, rồi làm khổ những người vô tội. Các nhà chuyên trách không thể hiểu việc này được, vì họ khám xét sơ sài quá. Nhưng có gì là lạ lắm đâu?
Tôi hỏi:
- Ồ, thế ra ông biết được những việc xảy ra ư?
- Không. Tôi đã bảo tôi cũng như ông: là một người ngoại cuộc. Nhưng cái bí mật ấy tôi lấy trí mà dò xét, tôi khám phá ra gần hết rồi.
- Ông khám phá ra được?
- Phải. Có gì là lạ? Ông hãy dựng xe đạp một chỗ rồi nhân lúc bọn người kia đang bàn tán hão với nhau, ta vào trong nhà này dò xét lại xem.
Vừa mới bước chân vào nhà, người thiếu niên đã chỉ cho tôi thấy một điều lạ: trên mặt đất đen và ẩm, có một tràng máu nữa, giọt máu cũng to bằng những giọt trên mình người chết, chạy từ một bên cửa đến dưới chiếc giường cầu. Chiếc giường này áp vào bức vách hậu ngay dưới một cái cửa sổ đóng lại bằng một mành phên. Cái chiếu cũ trên giường hơi lệch về một bên, trên mặt chiếu lại thấy những giọt máu chạy thẳng một chiều; như nối theo tràng máu dưới đất, và chạy từ thành ngoài cái giường gỗ cho đến cái cửa sổ ở bức vách sau. Trên mặt vách, khoảng trên cái thành giường trong và dưới cửa sổ, cũng có một giọt máu nữa, nhưng dài và nhỏ hơn.

Người thiếu niên nói:
- Ông có thấy cái gì khác ở tràng máu trên giường này không?
- Tôi chỉ thấy ở giữa giường hình như tràng máu đứt một quãng.
- Chính thế! Những giọt máu từ cửa vào đây vẫn liên tiếp và cách nhau thực đều... Cả ở chỗ hai chân người chết đè lên cũng vậy? Duy có chỗ này là đứt quãng đến hai gang tay. Thế nghĩa là lúc tràng máu chạy từ ngoài, qua giường mà ra ngoài cửa sổ kia thì người chết, người đã chết, ông nghe chưa, vẫn nằm trên giường, nằm ở chỗ tràng máu bị đứt. Mà khoảng máu ấy...
- Thì ở trên minh người chết chứ gi?
- Phải. Đấy ông xem. Dễ hiểu lắm.
- Nhưng sao ông biết người ấy chết rồi mới có những giọt máu trên mình?
- Vì theo lời ông đốc-tờ mà tôi nghe lỏm được lúc nãy, thì người này chết đã được hơn bốn giờ... nghĩa là vào khoảng trước hai giờ đêm. Hai giờ đêm đến giờ thì những giọt máu đọng kia không thể còn tươi như thế được: bây giờ máu mới hơi se và bắt đầu thâm dần. Vậy lâu lắm thì những giọt máu kia cũng mới có tự ba rưỡi, bốn giờ sáng.
- Thế sao người chết lúc chết thì nằm trên giường... để cho những giọt máu kỳ lạ kia nhỏ được lên mình, mà sao lại thấy nằm dưới đất?
- Điều quan hệ là ở trong câu hỏi đó. Nhưng ông để cho tôi phân giải có đâu đuôi.... Tôi biết rằng người ấy chết lúc hai giờ, rồi tôi lại biết người ấy chết một cách tự nhiên, bình thường, chết vì thứ bệnh mà người lao động dẫu khỏe mạnh đến đâu cũng có khi mắc phải. Đó là bệnh đau tim.
- Bệnh đau tim?
- Phải. Bệnh này, người mắc thường không tự biết hay có biết nhiều người cũng coi thường... Rồi đột nhiên, hoặc trên giuờng hoặc đang ngồi chơi, hoặc đang đi, bỗng lăn ra, tắt hơi, quả tim ngưng đập, không thể cứu được. Cho nên tối hôm qua, hàng xóm vẫn thấy ông cai Bốn đi lại như thường, rồi lúc ông ta chết không ai biết gì cả.
- Tôi vẫn không hiểu rõ. Ông chỉ nói cho tôi biết cái tính nguy của chứng bệnh nhưng không nói tại sao ông biết người ấy đau tim?
Người thiếu niên liền đưa cho tôi xem những mảnh giấy trắng nhỏ đã bẩn, đã nát, và bảo tôi:
- Chứng cớ ở đấy. Những chữ viết trên giấy này đã mờ nhưng cũng đủ rõ cho tôi biết được đó là những giấy gói thuốc: "Bromure de sodium" mà người ấy xin ở nhà thương Bảo Hộ. Giấy này tôi thấy rất nhiều, vứt ra sau nhà, nên tôi đoán người uống thuốc mang bệnh đã nặng lắm. Ông đã nghe ra chưa?
- Tôi nghe ra rồi. Nhưng nếu chỉ chết về bệnh thì sao đến nỗi thế kia...
- Vâng, chính vậy. Nếu không có gì xảy ra hết, nếu người chết không vì một sức gì làm cho cử động được, thì chả ai cho là lạ cả, thì các nhà chuyên trách không phải bận đến khám xét, mà tôi không được cái hân hạnh nói chuyện với ông ở đây...... Bây giờ tôi nói đến cái điều mà ông nóng nghe... nói đến những giọt máu và cái cảnh tượng khác thường mà ta đã trông thấy. Chính những giọt máu đó là những vết tích chứng cho ta biết rằng: Có một vật bị thương, từ ngoài đường đi vào, nhảy qua giường người chết, khiến cho người chết vùng dậy, đứng xuống đất.
- Ông bảo sao? Người chết đứng được xuống đất?
- Phải, rồi như cái máy, loạng choạng nhảy lùi ra cửa rồi ngã ngửa lên chiếc cửa phên kia!...
Tôi hỏi dồn:
- Ồ, thế thì quái lạ thực! Một vật làm cho người chết đứng được dậy, vùng ra cửa... nếu vậy thì ra là... là...
- Là quỷ nhập tràng! Phải rồi, người chết bị quỷ nhập tràng... nhưng ông đừng nhìn tôi một cách kinh ngạc quá như thế... Việc này không phải là một điều quái gở đầu. Chắc ông cũng thường thấy nói rằng một người mới chết, nếu có một con mèo nhảy qua, thì sẽ đứng dậy, cử động được một lúc như có luồng điện sai khiến vậy.
- Tôi vẫn biết là thế... Nhưng vì đâu mà ông biết rằng người chết bị quỷ nhập tràng được?
- Có gì đâu? Đó là vì sau khi tôi xem xét người chết, thấy những vết máu trên bụng hắn, tôi lại thấy những vết máu giống như thế rơi trên mặt đất thì tôi thoáng có một ý kiến khác hẳn của các nhà chuyên trách: tôi nhất định tin rằng việc này không có tay người dính vào... Đã có cái ý nhất định ấy rồi, nhân tình cờ tôi lại gặp một điều "lạ" mà giá lúc khác thì mình coi thường không chú ý đến. Đó là một vết đo đỏ tôi thấy trên mặt đường đá, ngay bên cái bánh xe ô-tô đỗ trước cửa nhà này. Vì nghĩ đến xe ô-tô, và vì lại trông thấy cách đó mấy bước có một vết mờ mờ đo đỏ nữa, trong trí tôi liền nảy ra một tia sáng cho tôi đoán được các việc xảy ra. Tôi đoán rằng hồi gần sáng - lúc ấy ông cai Bốn đã chết nằm trên giường - có một con vật chạy qua đường thình lình bị xe ô-tô nghiến què một cẳng. Cửa liếp nhà ông Bốn không buộc cài ở trong. Con vật đau cuống lên, lẻn vào trong nhà, nhưng vẫn còn hoảng sợ. Nó trông thấy cái cửa sổ lúc ấy vẫn mở, liền nhảy lên giường, vượt qua cái xác chết mà ra ngoài. (Lúc qua cửa sổ, nó làm rơi cái thanh tre chống tấm phên nhỏ, cái thanh tre rơi xuống chân vách ngoài, tôi đi tìm thấy). Cái việc ấy xảy ra không đầy nửa phút... Người chết bị con vật nhảy qua vùng đứng phắt ngay dậy, rồi như một người máy không hồn loạng choạng đến gần một phút, rồi sau đến ngã ngửa lên chiếc cửa liếp kia.

Đấy, câu chuyện theo những điều tôi xét thì chỉ có thể... Nếu ông chưa tin, thì đây, tôi đã có chứng cớ.
Nói đoạn, người thiếu niên dẫn tôi ra đàng sau nhà, đi năm sáu bước nữa đến một bụi cây rậm. Chàng ta cẩn thận vạch một cụm lá ra, rồi chỉ cho tôi trông thấy một con mèo vàng to, và gầy, bị nát một nửa chân sau, đang nằm nép trong một xó.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeFri Dec 28, 2018 11:06 am

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  9k=

Cái Xác Đuổi Người
Truyện Ngắn Thế Lữ (1907-1989)


Tôi tắt đèn điện trong phòng khách, mở rộng hai cánh cửa sổ, rồi ngồi ngắm cảnh ngoài vườn.
Lúc ấy vào khoảng hơn mười giờ, một đêm trăng mùa hạ. Ngoài vườn, gió thổi trong đám cây âm u, làm nhấp nhánh những ánh trăng trên lá, thỉnh thoảng lại đưa vào một lớp hương êm mảt của cỏ hoa. Tôi đang lắng nghe những tiếng rì rào kín đáo của ban đêm, bỗng có người rón rén bước tới rồi nói:
- Thảo nào! Chả nhẽ anh đi ngủ sớm thế?
Tôi quay lại thì là Ngô Đàm. Đàm là một người bạn tôi quen được ít lâu nay, và tôi đã có lần giới thiệu với độc giả nhân một câu chuyện ly kỳ (1).
- Ngồi đó mơ tưởng gì thế?
- Ngồi ngắm cảnh đêm trăng. Anh đi đâu rồi ghé qua vào đây hẳn?
- Chả đi đâu cả. Tôi định lại nói chuyện với anh cho đỡ buồn, thấy đèn tắt, tôi ngạc nhiên, vì thường anh vẫn làm việc khuya lắm.
Tôi kéo ghế mời bạn ngồi rồi toan đi bật đèn. Nhưng Đàm ngăn lại:
- Để tối thế này, thú hơn... Thế hợp với câu chuyện tôi định kể cho anh nghe hơn. Nhưng thuốc lá đâu? Đưa tôi một điếu.
Tôi đưa thuốc lá cho Đàm và hỏi:
- Chuyện gì?
- Một chuyện ly kỳ lắm. Vừa rồi nhân đọc một cuốn sách Tây mới sực nhớ đến. Anh là người ưa những chuyện lạ, chắc anh thích nghe.
Trong nhà mờ tối một cách huyền ảo. Người bạn ngồi trước mặt tôi chỉ là cái bóng nửa thực, nửa hư. Chốc chốc lửa thuốc lại làm cho mặt anh ta sáng đỏ lên một lát.
- Chuyện thế nào? Anh kể đi. Bạn tôi gật đầu, hút một hơi thuốc dài, ngả người lên lưng ghế rồi bắt đầu nói:
- Anh có biết thế nào là một cái nhà tràng không? - Nhà tràng tức là một thứ trường học lớn, một nơi đào luyện các nhà tu hành của đạo Thiên Chúa ấy mà, anh hiểu chưa? Câu chuyện này xảy ra ở đó; mà chính một người "nhà thầy" đang học ban "phi lô" thuật lại cho tôi nghe. Anh nên biết rằng người ấy không đời nào bịa đặt ra một điều gì cả.
Hồi bấy giờ, anh ta còn đang học ở lớp La Tinh năm thứ tư, nghĩa là trước khi lên ban "phi lô", còn phải học ba năm nữa. Học sinh ở năm ấy đã qua cái thời kỳ làm "cậu bé", nhưng chưa lên tới bực "các thầy lý đoán"; phần nhiều đã nghiêm trang, đạo mạo, song cũng có người tính hay đùa bỡn, hay nghịch tinh. Cho nên trong cuộc đời học tập nguyện cầu kia mới có những chuyện vui, chuyện lý thú, với cả những chuyện lạ như chuyện này nữa.
Hôm ấy, đang buổi học chiều, cha Chính coi tràng vào báo cho học trò năm thứ tư biết tin một người bạn cùng năm mới tạ thế, và hỏi lấy hai người tình nguyện coi xác người chết trong một đêm.
Mọi người xì xào bàn tán một hồi lâu rồi ngồi im, không ai nói chi hết. Bởi vì ai cũng biết rằng nhà xác đứng trơ trọi ở một góc vườn rộng và vắng, - mà những chuyện ma quỷ hiện hình không phải là những chuyện họ sẵn lòng bỏ ngoài tai. Mọi khi thì vẫn giao việc coi xác cho một bõ già, không biết gì là sợ hãi, nhưng lần này ông ta lại có việc lên nhà xứ mãi hôm sau mới về. Cha Chính phải hỏi đến ba, bốn lượt mới có một người đứng dậy: Đó là anh Phê. Anh Phê là một người học trò ranh mãnh, táo tợn nhất, nên không ai lấy làm lạ mấy. Nhưng đến lúc một anh khác, tên là Nhiệm, cũng xin đi coi xác, thì mọi người cùng ngạc nhiên. Anh này chẳng qua chỉ làm mặt bạo dạn đấy thôi, chứ cả trường La Tinh người sợ ma nhất lại là anh Nhiệm. Song có lẽ sợ ma là một chuyện, mà có lòng tốt với một người bạn qua đời là một chuyện khác, nên lúc cha Chính hỏi lại lần nữa, thì Nhiệm vẫn quả quyết xin thức với Phê. Một vài anh thì thầm: "Anh chàng trót nhận lời rồi, hối lại không kịp nữa". Cha Chính hẹn cho hai người sau hồi chuông nguyện sáu giờ sẽ xuống nhà xác.

Nhà xác là một chiếc nhà gạch cũ và thấp có hiên rộng đằng trước và hai bên. Trong nhà kê ba chiếc giường nhỏ phòng khi có xác các chú bé. Người bạn mới từ trần nằm trên một chiếc phản gỗ hẹp và dài, mình phủ tấm khăn liệm trắng. Chiếc phản gỗ kê phía trong, sau một bức màn gió xanh kéo che gần một nửa gian nhà, hai cây nến hai bên phản đang yên lặng cháy.
Lúc mới bước vào, Nhiệm bạo dạn lôi một chiếc ghế đẩu ngồi ở phía ngoài bức màn, ngoảnh mặt nhìn ra cửa sổ đằng sau, tươi cười nói:
- Ở đây mát thật, anh Phê nhỉ?
Phê không trả lời. Anh ta nhìn Nhiệm một cách hóm hỉnh và mỉm cười, vì anh ta biết rằng Nhiệm chỉ làm ra mặt bạo dạn. Một lát, Phê bỗng gọi Nhiệm:
- Này! Anh Nhiệm coi!
- Cái gì!
- Coi cái tấm màn nó động đậy!
Nhiệm thản nhiên đáp:
- Gió làm động đấy chứ có gì đâu!
- Thế mà trông như có ma nấp ấy nhỉ?
Câu nói nửa thực nửa ngờ của Phê làm cho Nhiệm khó chịu. Nhưng anh lẳng lặng đưa mắt nhìn bốn góc nhà xác, nhìn cái săng đặt bên tường và không đậy nắp, nhìn những tấm ảnh nhân từ với một tượng chịu nạn phía trên đầu người chết. Mắt anh chỉ liếc qua lên mặt cái xác nằm trơ đó rồi tức khắc quay đi. Anh ta lấy tràng hạt ra và khuyên Phê đọc kinh, nhân để tránh những câu nói không vui gì của bạn. Nhưng nào có đọc kinh được! Trong lòng Nhiệm cứ nao nao như sợ một cái nguy hại vô hình.
Trời đất một thâm dần lại. Hai ngọn nến cao sáng thêm ra. Nhiệm thở dài. Cái yên lặng dai dẳng càng khắc càng nặng nề. Cảnh vật chung quanh như liệm vào cõi chết.
Nhiệm se sẽ nói:
- Này anh Phê ạ, bây giờ hơn bảy giờ mà cũng chưa tối lắm nhỉ?
- Phải, vì ngày tháng năm thì dài.
- Trong này còn nến nữa không?
- Để làm gì?
- Để tí nữa... tối rồi thắp lên cho thêm sáng.
- Tôi thì tôi thích tối. Anh sợ tối à?
Nhiệm trả lời:
- Việc gì mà sợ! Tưởng còn nến thì thắp lên cũng được, mà không thì... chậc... cũng không cần. Nhiệm nói rồi lại nhìn đi, mặt cố giữ vẻ bình tĩnh.
Phê nghĩ bụng: "Cu cậu sợ chết đi ấy lại còn cứ vờ".
Rồi anh ta tìm cách ghẹo bạn chơi. Thỉnh thoảng anh nói với Nhiệm một câu rất đột ngột, một câu "nát đảm" để được thấy cái lo sợ thoảng trên mặt Nhiệm.
Đêm ấy là đêm rằm. Trăng lúc ấy soi vào gần tới bậc cửa. Hai người ngồi lẳng lặng trông thì giờ dần qua. Đồng hồ trên nhà nguyện văng vẳng điểm tám giờ... Rồi điểm chín giờ... Rồi mười giờ... Phê thỉnh thoảng lại định nói chuyện nhưng Nhiệm không thèm nghe.
Sau cùng, Phê bỗng kéo tay Nhiệm, ghé tai nói:
- Bây giờ mà cái xác kia đứng dậy đi ra ngoài với chúng mình thì anh bảo sao?
Nhiệm rợn người lên, nhìn Phê ra ý trách móc:
- Khiếp! Nói toàn những cái...
- Cái gì?
- Cái vô lý chứ gì?
- Phải. Vô lý. Nhưng anh cứ thú thực ngay rằng anh sợ...
- Tôi chả sợ gì hết. Anh nói vậy chứ, giá có ma thực hiện lên, tôi cũng không coi vào đâu.
Phê nghĩ thầm: "Nếu vậy được lắm". Rồi anh ta không nói qua một lời nào nữa, làm mặt tử tế ngồi giả tảng đọc kinh.

Trăng lên cao càng thêm sáng. Cái tối tăm chỗ hai người ngồi trong nhà xác thực lạnh lẽo, âm thầm. Tiếng giun dế rủ rỉ dưới chân cỏ.. Tiếng gió thổi làm động những tàu chuối... Bỗng chốc một tiếng chim đêm, kêu dài và thảm.. Mười một giờ rồi.
Đồng hồ vừa dứt tiếng sau cùng thì Phê bỗng lại nói:
- Anh Nhiệm ạ, anh ngồi đầy để tôi ra ngoài một lát nhé.
- Hử? Anh ra ngoài à?
- Ừ. Mình ngồi suông đây với cái xác kia một đêm cũng buồn... Tôi muốn ra vườn tảo cái gì vào đây chén.
Ý kiến hay lắm. Song Nhiệm vẫn ngần ngừ chưa biết trả lời ra sao thì Phê lại nói:
- Ngoài vườn nhiều ổi, nhãn, tôi muốn trẩy về đây ăn với anh cho đỡ buồn... Nhưng tôi trèo vụng quá! Mà ổi, nhãn ở những cây thấp thì còn xanh. Này! Hay là... anh để tôi ngồi coi đây... anh ra vườn trẩy hộ tôi...
Nhiệm tuy không muốn ra vườn, nhưng lại càng không muốn ngồi một mình trong này, nên anh ta liền nhận lời bạn. Phê dặn với:
- Anh lấy cho rõ nhiều nhãn ấy nhé, cả ổi nữa, rõ nhiều ổi, ta ăn suốt đêm kia mà.
- Được, được. Anh cứ để mặc tôi.
Thế là Nhiệm bị trúng kế. Nhiệm vừa đi khuất, Phê liền đứng ngay dậy vừa đi đến bên cái xác vừa nói:
- Cứ làm bộ can đảm mãi... nào, thử xem bạo được đến đâu. Rồi không rụt rè, anh ta lật bỏ cái khăn trắng phủ người chết ra một bên và dựng cái xác đứng xuống đất. Cái xác vẫn cứng thẳng như một bó nứa, và nặng lắm, không tiện vác lên vai: anh ta phải kéo giật lùi đến bên cạnh cửa rồi dựng ở đấy. Đoạn, ngó nhanh ra ngoài một cái, anh ta đến nhảy lên cái phản gỗ, tắt bớt một ngọn nến đi, ngả lưng xuống, duỗi thẳng cẳng ra, kéo cái khăn trắng lên phủ khắp mình, và nằm đợi.

Được chừng năm phút thì thấy tiếng chân Nhiệm bước vào, Nhiệm tới cửa đã vui vẻ nói:
- Nhiều ổi chín thơm lắm, nhưng chỉ lấy được có ít nhãn... Mà... ô này! Anh Phê đâu?
Không ai trả lời. Nhiệm vẫn cẩn thận giữ bọc ổi, nhãn trên vạt áo. Anh ta bước đến bên cái ghế đẩu mà Phê ngồi lúc nãy. Cái xác đứng trong phía tối; song anh ta vừa ở ngoài sáng vào nên không trông thấy.
- Anh Phê đâu? Im lìm.
- Anh Phê? Vẫn im.
Nhiệm sẽ đưa mắt vào phía trong, phía người chết nằm, nghẹn tiếng gọi nữa: - Anh Phê?
Phê liền thở lên một tiếng thực dài... rồi chậm chạp ngồi lên, nói lơ lớ tiếng:
- Hử! Cá... ái gì?
Nhiệm chưa hiểu, trợn mắt rất to nhìn, bỗng thét lên một tiếng ghê gớm, bao nhiêu ổi, nhãn tung cả xuống đất, rồi vùng chạy ra. Phê sằng sặc lên cười, khoác cái chăn liệm trên mình toan đuổi theo, thì... cái xác chết chạy ra đuổi trước.
Tôi hỏi: - Hử! Anh bảo sao? Cái xác đuổi?
Đàm gật: - Phải! Lúc Nhiệm chạy ra khỏi cửa thì cái xác đuổi theo liền... rồi cứ Nhiệm đuổi hoài. Phê ở trong này nằm điếng người đi vì khiếp.
Còn Nhiệm thì chạy bán sống, bán chết. Anh ta lúc ấy cũng còn đủ thần hồn để hiểu rõ cái tình thế quái gở: là bị một cái thây ma đuổi theo. Thế mà chạy càng nhanh càng bị đuổi gấp, anh ta không dám quay cổ lại, không dám nghĩ đến lúc kết cục, chỉ biết rằng nếu chậm một tí là bị người chết nắm được mình. Hình như anh ta có kêu lớn lên hai, ba lần nhưng tai chẳng nghe thấy gì cả.
Chạy khỏi những ruộng cỏ đầy nhưng vũng nước, anh ta qua một ruộng khoai gồ ghề thì tưởng đứt ruột ra không chạy được nữa. Cố hết sức dướng lên một độ nữa thì bỗng vướng quần ngã dúi xuống bên một luống dâu. Cái xác nằm đè lên như ôm choàng lấy Nhiệm.

Nói đến đó, bạn tôi ngồi yên, với tay lấy diêm châm điếu thuốc lá nữa. Tôi nóng ruột hỏi:
- Thế là hết?
- Không. Còn! Nhưng không còn gì là lạ mấy! Lúc cả nhà chung, vì tiếng chó cắn dữ quá thức đậy, đổ tìm khắp các ngả thì thấy Nhiệm nằm như chết dưới cái thây ma. Nhưng anh ta mới ngất đi thôi: trống ngực vẫn thoi thóp đập.
Mọi người cùng kinh ngạc, khiêng hai cái thây: thây người sống và thây người chết vào nhà xác, thì Phê ở trên chiếc phản gỗ bấy giờ đã tỉnh dậy ngơ ngác nhìn.
Song mọi người không phải kinh ngạc lâu, vì lúc Phê hoàn hồn liền đem đầu đuôi việc tinh nghịch của mình thú thực hết cả.
- Nhiệm cũng không hề gì chứ?
- Không hề gì. Các cố tìm cách cứu tỉnh ngay. Nhưng mất đến một tháng, anh ta cứ ngẩn ngơ như người ra dại. Bây giờ thì khỏi hẳn, vẫn học hành tấn tới như thường. Anh ta không hay nhắc tới chuyện xưa, nhưng vẫn nhớ rõ rệt cái cảm tưởng quái gở của mình trong lúc bị xác chết đuổi.
Tôi hỏi Đàm:
- Nhưng quái lạ! Sao cái xác chết lại đuổi nhỉ? Anh có tin là có ma quỷ thực không?
- Tin hay không thuộc về chuyện khác. Nhưng trong việc này, tôi quyết không có ma quỷ nào hết. Tôi cũng cùng một ý kiến với một vài ông cố Y Pha Nho ở đấy, lấy nhẽ khoa học cắt nghĩa ra... Tôi cho việc này cũng gần có một tính cách như những "quỷ nhập tràng" mà tôi vẫn để tâm nghiên cứu.
Người chết ở đây tuy không bị một con vật gì nhảy qua, nhưng bị một thứ "hấp lực" làm cho chuyển động. Người sống thì tưởng là bị xác chết kia đuổi, nhưng thực ra thì cái xác bị cái "hấp lực" kia hút theo. Lúc các người trong nhà tràng tìm được người học trò lớp La Tinh ở luống dâu thì thấy cái xác đè sấp trên lưng anh ta, chân tay vẫn cứng thẳng như lúc còn ở trong nhà xác; vừa rồi tôi nói cái xác chuyển động thì chưa đúng, vì cái xác không động chỉ bị chuyển thôi, nghĩa là bị hút theo người tưởng là mình bị đuổi. Mà cái "hấp lực" ấy, tôi cho là cái sợ hãi quá sức của người sống, lúc vụt chạy ra...

Tuy vậy, cắt nghĩa như thế cũng chưa đủ, việc này đối với tôi vẫn còn bí mật như các điều huyền bí khác mà ánh sáng khoa học mới lờ mờ ló tới. Cho nên các điều tôi phân giải chỉ là một "giả thuyết" tầm thường thôi.
------
(1) Người thiếu niên ở trong truyện "Dòng máu đứt quãng".

Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeFri Jan 04, 2019 12:05 am

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  9k=

Truyện Chàng Hoichi Cụt Tai
Nguyên tác: Hirai Teiichi dịch Lafcadio Hearn (từ Anh ra Nhật)
Người dịch: Nguyễn Nam Trân (từ tiếng Nhật)


Lời người dịch:
Ðến nay, ngàn liễu bến Matsue (Tùng Giang), thành phố nhỏ nhìn ra biển Nhật Bản bốn mùa phong vũ, vẫn thắm xanh như cái thuở con người phiêu bạt Lafcadio Hearn (1850-1904) đến định cư để tìm hiểu một nền văn hoá xa lạ đối với ông. Hearn (người Nhật đọc là Haan hay Herun) sinh năm 1850 ở quần đảo Ionia, Hy Lạp. Cha Ái Nhĩ Lan, mẹ Hy Lạp. Từ khi cha mẹ ly hôn, ông rày đây mai đó cho đến năm 1890, ngày đặt chân lên đất Phù Tang. Lấy tên Koizumi Yakumo (Tiểu Tuyền Bát Vân), ông viết nhiều tùy bút, biên khảo về đất nước và con  người Nhật Bản.
Hearn lớn lên ở Pháp, chu du Mỹ, Canada, Martiniques... trước khi sự tình cờ đưa ông cập bến Yokohama năm đã 40 tuổi. Yêu mến phong cảnh hữu tình đất Matsue, ông sống một chuỗi ngày thật hạnh phúc ở đây, sau vì bệnh hoạn phải xuống Kumamoto rồi lên Tokyo dạy Anh ngữ ở những ngôi trường nổi tiếng như Waseda, Tokyo, trước khi qua đời năm 1904 vì nghẽn mạch tim.

Viết văn, ông chịu ảnh hưởng Robert Stevenson, Gustave Flaubert, Guy De Maupassant, những nhà kể truyện nổi tiếng. Ông muốn từ bỏ thế giới Tây phương để mạo hiểm đến những miền đất lạ như nhiều nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Paul Gauguin và Pierre Loti.
Hearn đặc biệt yêu thích những truyện kinh dị, không cứ gì của Nhật mà của quần đảo Antilles, của cả Trung Quốc. Lúc mới đến Nhật, chưa rành mặt chữ, phu nhân Setsuko đọc truyện ma quái Nhật cho ông nghe. Ông soạn lại bằng tiếng Anh, sau mới được dịch ra Nhật ngữ.  Người ta biết Hearn nhiều qua tập «Kaidan» (Quái Đàm) mà «Truyện Chàng Hoichi Cụt Tai» (Miminashi Hôichi no Hanashi) này là một... Nguyên tác (chỉ dài độ một phần ba bản văn) vốn mang tên «Tì Bà Bí Khúc Khấp U Linh» lấy từ tác phẩm cổ điển «Ngoạ Du Kỳ Ðàm» do một ẩn sĩ tên Nhất Tịch Tản Nhân soạn, bản cổ nhất còn lưu lại in năm 1782.

Tham khảo:
1) Hirakawa Sukehiro, Koizumi Yakumo, Kaidan, Kidan, (Tiểu Tuyền Bát Vân, Truyện Kinh Dị) Kodansha, 1990.
2) Hirakawa Sukehiro, Koizumi Yakumo, Kureơru Monogatari, (Tiểu Tuyền Bát Vân, Truyện cổ vùng đảo Antilles) Kodansha, 1991.
3) Lafcadio Hearn (Tashiro Michitoshi dịch), Kaidan, Kidan (Truyện Kinh Dị), Kadogawa, 1956, ấn bản năm 1995.
4) Lafcadio Hearn (Hirai Teiichi dịch), Kaidan, Iwanami, 1940, ấn bản năm 2000.  


Cách đây hơn bảy trăm năm, vùng Dan no Ura ngang eo biển Shimonoseki là nơi xảy ra trận quyết chiến giữa hai giòng họ Minamoto và Taira. Ở Dan no Ura, một nhà Taira từ đàn bà con nít đến cả vị ấu chúa mà ngày nay người ta còn nhớ đến qua cái tên Thiên Hoàng Antoku (An Đức) đều bị tuyệt diệt. Từ đó đến nay bao nhiêu nước đã chảy qua cầu mà một vùng biển Dan no Ura vẫn còn xì xào về những chuyện kinh dị về hồn ma vất vưởng của dòng họ Taira. Đừng nói chi đến những con cua Heike (một tên khác của Taira) trên lưng mang hình mặt người như muốn giữ lại dấu tích oán hờn của các chiến sĩ Taira, (lũ cua mà người kể truyện đã có lần nhắc đến trong một tác phẩm khác), trên một vùng biển đó, người ta đã nghe, đã thấy bao nhiêu là sự kiện kỳ quái. Ví dụ cái cảnh hàng nghìn ánh lửa ma trơi không biết đâu ra, lướt trên ngọn sóng trong những đêm tối đen. Dân chài thường gọi đó là “quỉ hỏa”, loại ánh sáng xanh lè lạnh lẽo. Nào đã thôi đâu, những ngày gió lớn, lúc đó từ ngoài khơi lại vọng về những tiếng thét gào cuồng nộ như âm thanh sát phạt trên bãi chiến trường.

Xưa đã thế nhưng ngày nay những con ma Taira còn lộng hành hơn trước nữa. Ma hiện ra trên thuyền bè đi lại ngoài khơi, tìm cách nhận đắm hoặc chờ những ai đang bơi lội giữa giòng, bất thần chụp lấy rồi kéo họ xuống đáy biển. Cái chùa A Di Đà lập lên ở vùng Akamagaseki (nay là Shimonoseki) vốn nhằm mục đích cúng tế, an ủi vong linh những con ma Taira ấy. Phần đất cuối chùa nơi sát biển, nhà chùa có dành ra một khu chôn cất, dựng bia mộ khắc tên vị thiên hoàng chết đuối cùng như tên quần thần của người, mọi năm đến ngày giỗ chạp, đều lập đàn tràng giải oan. Từ khi A Di Đà Tự lập ra, rồi đến khi bia đá dựng lên thì quỉ quái họ Taira cũng bớt quấy người. Dù vậy, những chuyện quái dị không vì thế mà hoàn toàn chấm dứt, điều đó chứng tỏ vong linh kia vẫn chưa được phiêu diêu về cõi thọ.

Vài trăm năm trước ở vùng Akamagaseki có một chàng mù tên gọi Hoichi (Phương Nhất). Hoichi nổi danh về tài đánh tì bà và hát theo điệu đàn. Cái tài đánh đàn kể truyện anh chàng vốn có từ ngày còn bé. Khi hãy còn là một gã thiếu niên, tài chàng đã vượt cả thầy học. Chả thế mà mấy chốc Hoichi đã trở thành nhạc sư tì bà, sở trường về khúc “Truyện hai nhà Minamoto-Taira tranh hùng” (1). Người ta bảo khi Hoichi chơi đến đoạn nói về cảnh thủy chiến ở Dan no Ura thì não nùng ai oán đến “quỉ thần cũng phải cảm thương nhỏ lệ“.
Lúc Hoichi chưa có danh chi, chàng ta rất nghèo. May nhờ có một người tri kỷ nâng đỡ anh. Người ấy là hòa thượng trụ trì chùa A Di Đà, một nhà tu hành tinh thông cả thi ca âm luật, lâu lâu vẫn gọi Hoichi đến chùa đánh tì bà cho cụ nghe. Hòa thượng thấy chàng trẻ tuổi tài cao, thương mến muốn giúp đỡ đến độ mời chàng đến trọ hẳn. Hoichi cảm lòng tốt của cụ, bèn nhận lời. Từ đó, Hoichi vào ở hẳn một gian hậu liêu. Cảm cái ơn cho nơi ăn chốn ở, hễ đêm nào không có khách mời chơi đàn, Hoichi vác tì bà đến đánh để hòa thượng giải sầu, và như thế thành lệ.

Chuyện xảy ra vào một buổi chiều mùa hạ. Hôm đó, một đàn việt có tang ma, sư cụ phải đi đọc kinh suốt đêm, mấy chú tiểu chú điệu đều tháp tùng. Hoichi ở lại canh chùa một mình. Trời nóng hầm, Hoichi lò mò ra ngoài hàng hiên trước phòng ngủ để kiếm chút hơi mát. Hàng hiên này nhìn ra khu vườn nhỏ phía sau chùa. Hoichi ra ngồi đây với ý định chờ sư cụ về nhưng ngồi một mình mãi không làm gì cũng buồn, chàng mới bắt đầu dạo một khúc tì bà. Quá nữa đêm mà sư cụ vẫn chưa về. Hoichi dợm vào phòng nằm duỗi tay chân một chút thì thấy không khí trong phòng hãy còn nóng, chàng ta mới ra ngoài lại. Vừa trở ra, Hoichi bỗng nghe tiếng chân người từ cánh cổng sau tiến lại gần. Ai đó đi xuyên qua cảnh vườn con, tiến về phía hàng hiên. Đang phỏng đoán như thế thì chàng ta thấy bước chân kia đã tới sát trước mặt mình, đứng sựng lại. Nhưng người đó không phải là hòa thượng. Một giọng to, khỏe cất lên gọi tên chàng mù. Giọng trịch thượng, kẻ cả như giọng samurai gay gắt gọi người dưới:
– Hoichi!
Hoichi quá kinh hoàng đến độ trong một chốc không cất thành tiếng. Giọng nói kia lại như ra lệnh:
– Hoichi!
– Thưa vâng!
Chàng mù lí nhí trả lời chả bù với giọng nói nhanh như gió cuốn của người lạ. “Thưa tôi mù loà, không thấy đường. Vị nào đang gọi tôi đấy ạ…”
– Ngươi chớ sợ.
Giọng nói bỗng có phần dịu lại, người lạ tiếp lời: “Ta nhân đóng quân ở gần vùng này, có việc mới ghé qua đây. Chủ quân của ta là bậc cao quí, xưa vẫn ra vào chỗ cung cấm. Nay bề trên và đoàn tuỳ tùng của ngài ghé trọ qua đêm ở vùng Akamagaseki này, biết đến trận quyết chiến ở Dan no Ura nên ghé vãng cảnh. Bề trên nghe đồn tài kể chuyện của ngươi rất cao diệu, ngài muốn nghe một khúc. Vậy ngươi hãy mau mau lấy đàn theo ta đến chỗ dừng chân của các bậc tôn quí. Các vị ấy đang chờ ngươi đó!”

Thời ấy, samurai đã ra lệnh thì mọi người phải răm rắp tuân theo. Hoichi vội vội vàng vàng xỏ dép, vác đàn, đi theo người lạ. Người vũ sĩ nắm tay Hoichi một cách gọn gàng, kéo chàng ta đi nhanh như tên bắn. Bàn tay người lạ rắn như thép nguội, mỗi bước đi, bên sườn có tiếng lách cách như thể đang mang giáp trụ. Có lẽ người lạ là vũ sĩ cận vệ của một nhà quyền thế nào đó. Cái sợ hãi buổi đầu đã bớt dần. Hoichi điềm tĩnh trở lại và trong lòng bắt đầu rộn lên một niềm hãnh diện. Bởi vì anh chàng nhớ ra lúc nãy người lạ có nhắc đến mấy chữ “một bậc cao quí ngày xưa vốn ra vào chỗ cung cấm”, như vậy tài đàn của mình đã lọt đến tai một bực đệ nhất công hầu nào rồi. Vừa nghĩ đến đó thì người vũ sĩ bỗng dừng bước. Hoichi lắng tai nghe và có cảm tưởng hai người đang đứng trước một cánh cổng lớn. Ở chốn xa thành thị phố xá như thế này, ngoài chùa A Di Đà chắc không làm sao có một cái cổng lớn cỡ này. Hoichi đang nghi hoặc thì tùy giả đã cất tiếng dõng dạc:
– Khai môn!
Không phải đợi lâu, có tiếng song hồng mở nặng nề, hai người đã bước vào bên trong cửa. Đi qua khỏi một khu đình viên khá rộng, cả hai đến một cánh cửa khác. Dừng chân ở đó, tuỳ giả lại hô lớn: “Có ai trong đó không, xin được bẩm đã đem Hoichi về đến đây rồi”. Nói xong, có tiếng chân người từ bên trong đi ra, lại có tiếng vách giấy mở ra, tiếng rèm cửa cuốn lên, giọng đàn bà con gái xì xào. Nghe họ trò chuyện với nhau, Hoichi thầm nghĩ những người này phải là bọn thị tỳ trong một phủ đệ. Chàng mù đâm ra lo lắng không biết người ta sẽ dắt mình đi đâu. Chưa kịp nghĩ ngợi gì, có người đã đưa tay dắt chàng ta đi lên năm sáu bậc thang. Đến bậc cao nhất, có lệnh phải cởi dép. Bàn tay đàn bà lại tiếp tục dắt Hoichi đi qua những khu hành lang lát gỗ nhẵn thín và dài tưởng chừng bất tận. Chàng mù rẽ quặt không biết bao nhiêu lần ngõ ngách, cột trụ, xuyên qua mấy gian phòng trải chiếu rộng thênh thang trước khi được đưa vào trong một gian đại điện. Hoichi nghĩ ôi chao, đại điện này hẳn là nơi tụ tập các vị tôn quí vì hắn nghe tiếng vạt áo lụa chạm nhau sột soạt như tiếng lá trong rừng xao động, tiếng người đông đảo đang trò chuyện với nhau. Họ đang thì thầm những gì, Hoichi không hiểu rõ nhưng ngôn từ họ dùng là của nơi gác tía lầu son.

Hoichi được lệnh cứ tự nhiên. Người ta bày trước mặt chàng một tấm nệm tròn, mềm mại và bảo ngồi lên. Hoichi đang nắn lại giây đàn thì một giọng đàn bà đã cất lên, dường như tiếng của lão chủ quản trong cung:
– Mi hãy so dây, bắt đầu dạo khúc “Truyện Heike” cho bề trên thưởng thức đi. Nhưng nếu bà ta chỉ nói chừng đó thì Hoichi không biết phải bắt đầu từ đâu. Truyện nhà Taira dài lắm, kể biết mấy đêm mới xong. Hoichi mới đánh bạo:
– Dám thưa Truyện Heike khá dài, một buổi không sao kể hết. Chẳng hay bề trên muốn nghe đoạn nào?
Hỏi đến đây thì giọng lão bà lại trả lời:
– Hãy kể cho ngài nghe đoạn quyết chiến ở Dan no Ura. Trong cả một Truyện Heike, đoạn này nghe buồn thấm thía nhất đấy.

Hoichi bèn từ từ cất giọng, kể lớp nói về trận thủy chiến khủng khiếp. Tiếng đàn khéo làm sống lại nào là tiếng mái chèo quạt nước, tiếng đoàn thuyền lao lên xung trận, tiếng tên bay xé gió, tiếng chân rầm rập xen với tiếng quân reo hò, tiếng đao kiếm giáp trụ chạm vào nhau soang soảng, tiếng người bị đâm ngã ùm xuống nước. Trong lúc Hoichi đang ra sức trình tấu, chung quanh người nghe đã bắt đầu xuýt xoa tán thưởng. “Làm sao lại có tay đàn tuyệt vời như thế nhỉ“, “Ngay ở kinh đô, cũng chưa nghe ai đánh hay đến vậy”, “Dưới gầm trời này, hỏi ai hơn được Hoichi!”, bao nhiêu lời khen tặng lọt vào lỗ tai chàng mù. Trong lòng Hoichi rộn một niềm tự hào, chàng lại ra sức đàn hát. Tán thưởng tưởng còn như không dứt thì chung quanh bỗng nhiên trở lại im lặng như tờ. Lúc ấy, khúc đàn đã tiến dần đến đoạn tả thảm cảnh nhà Taira, một đoàn người đẹp, trẻ thơ bỗng nhiên gặp cảnh tuyệt mệnh, thương tâm, nhất là cảnh hai bà phi bồng ấu chúa trầm mình dưới giòng nước bạc. Người nghe ai nấy ngậm ngùi thở dài, chợt nổi lên đâu đây tiếng nấc tức tưởi nghẹn ngào rồi tiếng khóc oà vang. Tiếng khóc vỡ ra như không cầm lại được, chính Hoichi cũng phải ngạc nhiên không ngờ mình đã động mối thương tâm của người nghe đến thế. Tiếng khóc kéo dài một hồi lâu rồi như vơi đi, bốn bề bỗng yên tĩnh trở lại. Trong cái im lặng đó, giọng bà lão lại cất lên:
– Tiếng đàn như thế thật trên đời có một không hai. Đã đành từng nghe tiếng người đồn dãi nhưng hôm nay xem mi trổ tài mới biết lời đồn kia còn thua sự thật. Đức vương thượng rất hài lòng. Ngài còn giáng chỉ cho chúng ta bảo phải ban cho mi nhiều tặng vật để thưởng công. Vậy kể từ đêm nay, trong suốt sáu đêm, mỗi đêm mi phải tới đây đánh đàn tiếp cho chúng ta nghe. Nếu đức ngài không phải lên đường thượng kinh gấp, thì ngày mai, cũng vào giờ khắc này, sẽ có người gọi mi tới dinh nầy. Kẻ dẫn đường cho mi hôm nay ngày mai sẽ đến đón. Ta chỉ có một điều căn dặn mi là chuyện bề trên ngự đến vùng Akamagaseki này, mi không được hé môi cho ai. Đức ngài vi hành tới vùng này nên không muốn trong hay ngoài biết. Hôm nay như thế là xong, mi có thể lui về chùa được rồi.

Hoichi rạp mình chào xong, bàn tay thị nữ lại dắt chàng ta ra tận cửa, ở đó, người tùy giả lúc nãy đã đợi để đưa hắn về chùa. Vũ sĩ đưa Hoichi trở lại mái hiên chùa, rồi từ giã quay về. Lúc Hoichi trở lại chùa trời đã sáng bạch nhưng việc anh ta qua đêm ở ngoài, chẳng có ai để ý. Hòa thượng coi bộ đêm đó về khuya lắm, tưởng là chàng mù đã đi ngủ từ lâu nên chẳng bận tâm. Sáng hôm sau, Hoichi có nằm nướng một chút lấy sức nhưng cái chuyện kỳ lạ đêm qua, anh ta không để lọt ra ngoài một tiếng. Nửa đêm hôm đó, người vũ sĩ lại đến tìm Hoichi đi trình tấu ở chỗ các bậc tôn quí hội họp, và cũng như đêm trước, chàng thu lượm được muôn ngàn lời tán tụng. Tuy nhiên, trong lúc Hoichi đi đánh đàn, ở chùa người ta bỗng phát giác sự vắng mặt của chàng mù. Khi về chùa lúc hừng sáng, chàng ta được gọi đến trước mặt sư cụ. Sư cụ không bằng lòng chút nào, luôn miệng trách mắng:
– Hoichi, ta nói điều này chỉ vì ta lo cho ngươi thôi. Đã mù lòa, một thân một mình mà bỏ chùa đi đâu suốt đêm đến sáng. Thật không có gì nguy hiểm hơn. Nếu có đi đâu sao không bảo tụi nhỏ đứa nào nó dắt đi mà tự ý đi một mình như vậy. Thế chớ đến nay, người đã đi những đâu?
– Bạch sư cụ thứ lỗi cho con. Chỉ vì con có chút việc riêng mà ban ngày ban mặt không thu xếp xong phải kéo đến tối đấy ạ.
Hòa thượng coi mòi Hoichi không chịu nói thực, cụ không bực mình mà chỉ ngạc nhiên. Đây là chuyện không bình thường chút nào, hẳn có lý do chi đây. Hoậc giả chàng mù này đang gặp chuyện gì chẳng lành, bị ai lừa lọc gì chăng. Lo thì lo nhưng hỏi thêm không tiện, hoà thượng chỉ còn biết ra lệnh cho mấy điệu phải trông chừng nhất cử nhất động của chàng mù. Hễ mà đến đêm Hoichi còn bỏ chùa đi đâu nữa thì phải tức tốc theo dõi.

Đêm ấy, khi Hoichi vừa ra khỏi chùa thì đã có người biết. Mấy chú tiểu chú điệu liền xách lồng đèn theo dấu anh chàng. Thế nhưng trời đang mưa, đường tối mịt. Bọn nhà chùa vừa ra tới ngõ lớn thì đã hút mất bóng Hoichi. Làm như thể Hoichi có chuyện phải nhanh chân đi gấp. Không thấy đường mà đi được nhanh như thế thật có trời mới hiểu, nhất là đường sá gập ghềnh. Bọn nhà chùa bèn thử xuống dưới xóm, đến những nhà Hoichi quen biết xem hắn ta có ghé đó không. Họ điểm từng nhà hỏi thăm, không sót đâu cả thế mà chẳng ai rõ tung tích chàng mù. Lúc không còn biết đi đâu mới theo ven bãi lui gót trở lại chùa thì họ chợt hoảng kinh. Trong khu nghĩa địa chùa A Di Đà, bổng văng vẳng tiếng tì bà dồn dập. Phía khu mộ địa tối om vẫn chập chờn đôi ba ánh lửa ma trơi như mọi hôm. Theo ánh lửa đèn lồng, bọn trai trẻ nhà chùa rốt cục tìm ra Hoichi trong nghĩa địa. Giữa cơn mưa tầm tã, Hoichi đang ngồi thẳng lưng trước lăng Thiên Hoàng Antoku, tay đàn miệng hát, dáng điệu đau đớn thiết tha, kể sự tích cuộc tranh chiến ở Dan no Ura. Chung quanh Hoichi toàn là bia, là mộ, ngổn ngang gò đống, và trên đó, hàng hàng lớp lớp những ngọn lửa quỉ lạnh lẽo chập chờn. Từ trước đến giờ, chắc chắn chưa có ai thấy một nơi nào mà ma trơi tụ tập nhiều như ở đây.

– Chú Hoichi ơi, chú ơi!
Bọn trai trẻ gào lên. “Chú Hoichi ơi, ma nó ám chú rồi!”
Chàng mù như không đếm xỉa gì đến lời nói đó. Không những thế, chàng ta càng mạnh tay đàn, cao giọng hát, dồn hết tâm lực kể truyện trận quyết chiến Dan no Ura. Bọn nhà chùa nắm vai Hoichi, lay lấy lay để và nói như thét vào tai: ”Chú Hoichi, chú Hoichi ơi, theo bọn tôi về chùa thôi!” Bỗng lúc đó, Hoichi quay lại chúng, nói như mắng:
– Trước mặt bậc cao quí như thế này mà chúng mày dám ồn ào. Coi chừng mất đầu đấy nhé!
Lời nói chẳng ăn nhập gì đâu vào đâu làm bọn trai trẻ nhà chùa không khỏi phì cười. Đã đến mức này thì họ biết Hoichi gặp đúng của gì rồi. Họ bèn hè nhau dùng sức kéo Hoichi dậy và bốc hắn về chùa. Theo lời dạy của sư cụ, họ thay quần áo khô và cho hắn ăn hắn uống. Thế rồi hòa thượng giục Hoichi phải tường trình về hành vi lạ lùng của hắn.

Ban đầu, Hoichi còn trù trừ không muốn nói nhưng cuối cùng, nghĩ đến sư cụ xưa nay vẫn chu đáo với mình, mà mình lại làm phiền, mới đem tình thực giãi bày. Từ chuyện người samurai nửa đêm đến tìm mình cho đến những chuyện gì đã xảy ra từ đó đến nay, đều thuật lại cho nhà sư.
Hòa thượng lúc đó mới nói: ”Hoichi, thật tội nghiệp cho ngươi. Ngươi đang gặp nạn lớn đấy. Khổ nỗi là ngươi không chịu kể cho ta chuyện này sớm hơn. Trăm điều nguy khốn xảy đến cho ngươi cũng vì do cái tài đánh đàn tì bà. Tuy nhiên, lúc này ngươi phải tỉnh táo để tìm cách chấm dứt cơ sự này. Mấy đêm nay ngươi chẳng đi đánh đàn ở nhà ai cả, chỉ ra ngồi ở khu mả họ Taira trong nghĩa trang nhà chùa đó thôi. Thật ra, hồi hôm, bọn nhỏ nó tìm ra ngươi giữa đêm mưa trước lăng thiên hoàng Antoku đấy. Có thể là ma dẫn lối quỉ đưa đường cho ngươi nhưng những gì ngươi đã gặp đều là huyễn ảnh thôi. Một khi đã nghe lời ma quỉ thì chúng sẽ trói buộc ngươi mãi mãi. Nay đã đến tình cảnh này chỉ còn có cách không bao giờ chịu nghe theo chúng nữa, nếu không có ngày chúng phanh thây. Thật đấy, chẳng chóng thì chầy chúng sẽ giết ngươi thôi… Mà này, Hoichi, hôm nay lại có đàn việt mời đi cầu siêu suốt đêm, bắt buộc ta phải rời chùa, không thể ở bên ngươi được. Dầu sao, trước khi đi ta cũng sẽ viết kinh lên trên người để làm bùa hộ mạng cho ngươi.

Trước khi tắt nắng, hòa thượng bảo Hoichi phơi trần ra rồi cùng tăng sĩ trông việc sổ sách kho đụn, cả hai lấy bút lông xúm lại viết kinh lên người chàng mù. Từ ngực đến lưng, cả trên đầu, trên mặt, tay chân, cùi chỏ… ngay cả gan bàn chân cũng được chép đầy Bát Nhã Tâm Kinh, coi như toàn thân không thiếu chỗ nào. Chép kinh xong, hòa thượng mới ôn tồn:
– Đêm nay, khi ta đi xong, ngươi nhớ ra ngồi chỗ hàng hiên hậu liêu mà chờ. Tất nhiên ma kia sẽ đến đón. Thế nhưng dù có chuyện gì xảy ra chăng nữa, nhất thiết ngươi không được trả lời, không được động đậy. Cứ câm như hến, ngồi đấy thiền định theo phép Tam Muội, chuyên tâm vô niệm cho ta. Hễ ngươi rục rịch hay mở mồm là ngươi tới số đó nhé. Nói vậy chứ ngươi đừng sợ hãi gì, có gì xảy ra cũng chớ mở miệng kêu cứu, kêu cứu chỉ tổ chết sớm. Cứ làm đúng từng li từng tí lời ta căn dặn thì ngươi sẽ thoát hiểm từ đây.
Tối đến, hòa thượng cùng tăng sĩ thủ kho ra đi. Hoichi đúng lời sư cụ dặn, ra ngồi trước hàng hiên. Chàng mù đặt cây đàn tì bà trên sàn ván, ngồi nghiêm trang nhập định. Tâm thần yên ắng, không một tiếng ho khẽ, không một hơi thở mạnh. Cứ như thế, Hoichi ngồi chờ từ giờ này sang giờ khác. Dần dà, đã nghe tiếng chân bước từ chỗ phía khách vãng lai tiến về phía mình. Tiếng chân đi ngang cửa gỗ, thông qua khu vườn đến bên hàng hiên, dừng lại trước mặt Hoichi.
– Hoichi! Vẫn cái giọng khỏe, oang oang, cất tiếng gọi. Thế nhưng lần nầy, chàng mù nén thở, im tiếng, châu thân bất động.
– Hoichi! Tiếng quát lần thứ hai lanh lảnh rợn người. Lần thứ ba nó trở nên hằn học.
– Hoichi!
Hoichi vẫn ngồi im như tượng đá. Giọng nói kia không giữ được sự bực bội:
– Không trả lời! Quái! Thằng khốn nạn kia nó biến đi đâu nhỉ?
Tức khắc đã nghe tiếng chân bước thô bạo lên hiên. Tiếng chân xáp gần Hoichi rồi bỗng nhiên khựng lại. Hoichi cảm thấy trống ngực đập thình thịch, người run lẩy bẩy. Bên cạnh, vẫn không có một tiếng động nào.
Thoạt nhiên, cái tiếng nói thô bạo kia bỗng ghé sát bên tai chàng mù:
– Tì bà thì có mà nhạc sĩ tì bà không thấy. Chỉ có hai cái lỗ tai treo ở đây!… Có tai mà không nghe để trả lời. Chắc muốn trả lời mà không có miệng. Cả người chỉ còn lại cặp tai!… Được rồi, đến thế này thì ta chỉ còn cách đem cặp tai này cho bề trên để có chứng cứ là ta đã làm đúng mệnh lệnh của ngài.

Chỉ trong một sát na, Hoichi đã cảm thấy hai ngón tay cứng như thép nguội giật lấy tai hắn ta, rồi xoẹt, hai tai đã đứt lìa. Khỏi phải nói chàng mù đau nhói đến tâm can nhưng cắn răng không thốt nửa lời. Tiếng chân kia từ từ bước xuống khỏi hàng hiên, đi qua khu vườn, xa dần về phía cổng hậu rồi mất hút. Hoichi cảm thấy hai bên đầu có cái nước gì nóng nóng đang ròng ròng chảy xuống nhưng vẫn không dám đưa tay lên sờ.
Tờ mờ đất, hòa thượng mới khăn gói về chùa. Đến nơi, cụ đã tức tốc chạy xuống phía hiên hậu liêu. Bỗng sư cụ dẫm lên cái gì nhờm nhớp, trượt chân suýt ngã. Rồi cụ bỗng hoảng hốt vì dưới ánh sáng ngọn đèn lồng, đó là một vũng máu. Nhìn ra thì trên hàng hiên, Hoichi vẫn ngồi chính tọa trong tư thế nhập định, từ vết thương, máu nhỏ xuống nhuộm đỏ cả người.
– Hoichi đó hả! Sư cụ ngạc nhiên kêu “Trời Phật ơi, làm sao đến nỗi bị thương thế này?“
Nghe tiếng hòa thượng, Hoichi biết nguy hiểm đã qua, bật lên khóc rồi bù lu bù loa kể sự thể những gì xảy ra đêm qua.
– Tội nghiệp ơi là tội nghiệp!
Hòa thượng không cầm được tiếng than. “Trăm sự cũng tại ta bất cẩn. Viết kinh lên khắp người của ngươi mà lại không viết lên tai. Thấy chỗ tai hẹp, khó viết ta mới cậy thủ kho viết giùm, mà chính ta cũng chẳng chịu kiểm xem hắn có viết cho chưa. Để đến nỗi này là do ta sơ ý… Nhưng có hối cũng đã muộn, điều gấp rút bây giờ là trị liệu cho ngươi chóng bình phục. Hoichi, chớ có buồn nữa, phải vui lên vì kể từ nay, tai qua nạn khỏi rồi. Chắc chắn ma quỉ chẳng còn đến đây hạch sách quấy nhiễu ngươi nữa đâu.”

Nhờ lương y tận tâm, chẳng bao lâu, vết thương của Hoichi đã lành lặn. Câu chuyện kinh dị xảy đến cho chàng mù được đồn đãi nhanh chóng, danh tiếng chàng nổi lên như cồn. Bao nhiêu nhà giàu có cao quí đua nhau tới vùng Akamagaseki để thưởng thức ngón đàn của chàng, thi nhau cho vàng tặng lụa. Chẳng mấy lúc Hoichi trở thành giàu có. Thế nhưng vì câu chuyện quái dị kể trên mà Hoichi mang cái hỗn danh là “chàng Hoichi cụt tai”.

Nguyễn Nam Trân (dịch)

Chú thích:
(1) Cuộc thư hùng giữa hai giòng họ quyền thần Taira, (Bình, còn gọi là Heike (Bình gia)) và Minamoto (Nguyên, còn gọi là Nguyên thị (Genji)) thời trung cổ Nhật Bản, cũng giống như những cuộc tranh phong Trịnh Nguyễn, Lê Mạc của ta. Tháng 3 năm 1185, danh tướng Yoshitsune nhà Minamoto đánh tan đoàn chiến thuyền Taira ở Dan no Ura và mở màn cho chính trị mạc-phủ Kamakura. Cả một nhà Taira bị diệt vong, thiên hoàng Antoku (cháu ngoại họ Taira, tuổi hãy còn thơ) cũng chết trong trận thủy chiến. Sinh hoạt của hai giòng họ đã để lại những cổ điển bất hủ như Genji monogatari (Nguyên thị vật ngữ), một tác phẩm phong lưu được coi như truyện Kiều của Nhật, hay anh hùng ca Heike monogatari (Bình gia vật ngữ).
 
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeWed Jan 16, 2019 12:15 am

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Z

Người dẫn đường cõi âm

Người ta nói rằng, khi một ai đó chết đi, linh hồn sẽ được người dẫn đường đưa về âm phủ. Người dẫn dường chỉ có nhiệm vụ dẫn đường, không ép buộc, nếu linh hồn quá quyến luyến nơi đã sinh ra, hoặc người thân vì đau lòng mà không thể quên được người đã khuất, thì linh hồn đó sẽ bướng bỉnh không chịu đi và trở thành một linh hồn lang thang.
Người dẫn đường sẽ bỏ đi, vì vậy mà họ vĩnh viễn không thể siêu thoát.

***

Ở một thành phố nọ có một ông già khó tính chẳng ai có thể lại gần. Ông ta không có ai ở bên cạnh chăm sóc, kể cả lúc trái gió trở trời, lúc ốm đau bệnh tật. Hàng xóm đến giúp đỡ thì ông cáu bẳn chửi rủa, xua đuổi hết không chừa một ai. Lâu dần cũng chẳng ai màng quan tâm đến nữa.
Ông sống ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác trong sự cô đơn tự nguyện, căn nhà gỗ thi thoảng vang lên tiếng ho khan đến oằn người. Mỗi đêm đều thấy tiếng rên rỉ đau đớn, đôi khi là tiếng khóc nỉ non vang lên. Thi thoảng người ta thấy ông đi ra ngoài mua đồ ăn mới biết là căn nhà vẫn có người sinh sống.

Người dẫn đường âm phủ đứng ngoài, thổi một bài sáo u uất, dường như nghe thấy tiếng sáo đau thương đó, Ông già thì thào:
- “Ông nhớ con lắm, Xu ạ”
Ông già lau nước mắt rơi trên tấm ảnh thờ thằng cháu nội và hai vợ chồng con trai ông và khóc nức nở, bóng ông cô đơn trong ánh đèn vàng heo hắt trong nhà. Ông trải chăn, nằm xuống giường và bật bóng đèn nhỏ gần giường để tạo ra một cái bóng bên cạnh, như tìm kiếm một người bạn ở bên cùng chờ thần chết đến.

Người dẫn đường chấm dứt khúc sáo u hồn, chuẩn bị bước vào trong nhà thực hiện nghĩa vụ của mình thì thấy một con chồn đang giữ vạt áo của hắn với ánh mắt van xin. Con chồn sử dụng ký ức tái hiện hình ảnh một ông lão cầm tay cháu đi trong rừng. Hai người họ quả thật rất vui vẻ và tràn đầy nhựa sống.
Ký ức hiện lên hình ảnh của một con chồn con bị thương, hai ông cháu đã băng bó và cho nó ăn, ký ức tái hiện cảnh họ thả con chồn đi, ông lão còn cẩn thận dặn dò “Đừng để bị thương nữa nhé chồn con, sống cho tốt!”.

Người dẫn đường do dự, hắn giơ sáo lên, thổi một bài nữa. Chấm dứt tiếng sáo cũng là lúc ông già tỉnh dậy. Ông giật mình thấy Xu đang nằm trong lòng ông ngủ ngon lành như ngày xưa, là cháu nội ông bằng xương bằng thịt. Ông vội vã sờ vào má thằng bé. Đúng là Xu của ông, ông ứa nước mắt lặp đi lặp lại “Đúng là Xu của ông rồi, đúng là Xu của ông rồi”.
Từ hôm đó, ngày nào Xu cũng ở bên ông, nhưng chỉ vào ban đêm, ban ngày căn nhà vẫn vắng lặng như thế, nhưng ông biết Xu là có thật vì bát cơm Xu chuẩn bị cho ông vẫn còn ở đó, cốc nước Xu lấy cho ông chưa vơi đi chút nào.
Ông già trở nên dễ tính và khỏe mạnh lại, ông bắt đầu đi ra ngoài thăm hỏi hàng xóm, bắt đầu cảm nhận ánh mặt trời chiếu vào vườn nhà ông, để đêm về cùng ngồi kể chuyện cho Xu nghe trong lúc thằng nhóc đấm lưng cho ông nội.

Mấy tháng liên tiếp đã trôi qua, kỳ trăng tiếp theo chuẩn bị đến. Một đêm trăng tròn, ông già ho lụ khụ, ông biết rằng cũng đã đến lúc mình phải từ bỏ cõi trần. Ông nắm chặt tay Xu và yêu cầu Xu hãy ở bên ông cho tới sáng, đừng bỏ đi như những lần trước.
Xu tái mét mặt nhưng vẫn hứa với ông là nó sẽ ở bên ông. Nó cầm tay ông nội, mắt nó như sắp khóc. Nó vừa lo ông mất, nó lai vừa lo ông sẽ phát hiện ra nó chỉ là một con chồn nếu như nó ở lại đến sáng.

Ông già nhất quyết không chịu bỏ tay Xu ra, cho đến khi trời sáng, Xu trở lại nguyên hình là một con chồn nhỏ. Nó sợ hãi rút chân lại, chạy ra góc nhà trốn. Nó quay mặt vào tường như không dám nhìn người ông mà nó yêu thương, ân nhân của nó từ khi nó còn nhỏ.
“Xu, Xu, con quay lại đây, con đừng bỏ ta mà đi, chồn con yêu của ta”.
Chồn mở to mắt, nó chạy ào vào vòng tay ông, hóa ra ông đã biết nó là chồn từ lâu rồi. Thế mà ông không hề nói, nó sợ, nó vừa vui, vừa buồn, vừa mất mát. Nó mới được ở bên ông mấy ngày, rồi ông sẽ lại rời nó đi xa.
“Chồn con ngốc nghếch, người sắp chết cũng có thể nhìn thấy cái đuôi của con, cảm ơn con đã ở bên ta những ngày cuối cùng của cuộc đời, sau này con hãy sống cho thật tốt, con hiểu không”
Chồn con gật đầu, nó nhảy tránh sang một bên, lúc đó khúc nhạc của người dẫn đường đã thổi được một nửa. Hắn ngừng lại, bước vào nhà. Dẫn ông già đi đến con đường cuối cùng của cuộc đời.

- “Tại sao người để chồn con làm thế, người không sợ ông già sẽ cứ quyến luyến mà không chịu đi theo người, rồi sẽ thành hồn ma lang thang sao”
- “Vì người sắp chết có thể nhìn thấy cái đuôi chồn” – Hắn cười và tiếp tục cuộc hành trình của mình.

(Sưu Tầm)
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeWed Jan 23, 2019 7:18 am

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Cellphone

Cái Cell-phone
Trần Mộng Tú

Sau đám tang, họ hàng bạn bè ở xa, ở gần, đã từ giã ra về hết. Người đàn bà bắt đầu thu dọn lại căn nhà mình. Ngôi nhà bây giờ chỉ còn lại một người. Chị không biết mình sẽ ở lại trong ngôi nhà này, hay chị sẽ dọn về với con.

Chị bắt đầu dọn dẹp từ mấy gian bên ngoài. Từ cái ghế vải dài nằm coi truyền hình của anh, chắc là phải gọi con đem đi giặt; những cái áo khoác treo trên mắc ở tủ ngoài, chị tháo xuống, xếp vào thùng; mấy cái nón mùa đông, mấy cái nón mùa hè, chị cũng xếp luôn vào. Cứ mỗi một thứ xếp vào thùng chị lại tần ngần ngắm nghía, cầm lên, bỏ xuống. Không biết nên giữ hay nên đem cho, vì cái nào cũng mang một kỷ niệm. Cái mũ nỉ ấm áp này mua ở đâu, trong chuyến đi nào; cái nón mùa hè này, chị nhớ là của con gái cho bố trong ngày Father’s Day.

Trên cái bàn ăn trong bếp, một cái khay nhựa mầu trắng, đựng gần hai mươi chai thuốc của anh, chị cầm lên đọc tên từng chai thuốc. Chị đã thuộc lòng từng loại thuốc trong chai; thuốc giảm đau, thuốc mất ngủ, thuốc chống ói, thuốc trụ sinh,v.v.  Chị cho tất cả mấy cái chai vào cái túi nhỏ, cột chặt lại, vứt cái túi vào thùng rác ngoài sân. Cái khay bây giờ trống rỗng. Chị hình dung ra hình ảnh khi anh qua đời, người ta đến mang anh ra khỏi giường, chiếc giường trống, một màu chăn gối trắng toát. Người ta cất anh vào một cái ngăn thật lạnh.

Chị vào nhà xe, những đôi giầy cũ mới, những đôi giầy anh dùng chạy trên sân đánh tennis, giầy đi bộ, giầy du lịch, giầy khiêu vũ. Những đôi giầy đã mang anh vào đám tiệc, đi gặp gỡ bạn bè, lang thang trên những con đường, loanh quanh ở công viên, lên thuyền, xuống bến, đi qua những thành phố rất lạ, những quốc gia rất xa. Nhưng bây giờ anh đi về một nơi lạ nhất, xa nhất, anh lại không cần đến bất cứ đôi giầy nào. Chị xếp những đôi giầy của anh vào một chiếc thùng giấy, để vào một góc nhà xe. Chúng sẽ được mang đem đi cho và người xa lạ nào đó, sẽ xỏ chân vào, tiếp tục đi trên một đoạn đường ngoài kia. Họ có đi cho đến khi đôi giầy rách, cũ? Hay những đôi giầy đó lại được chuyển sang những bàn chân mới?

Chàng đi để lại đôi giầy, 
Ngón chân em nhớ những ngày có nhau (1)

Chị ra vườn, vườn trước vườn sau, những cây hoa lan đất đủ mầu đang đua nhau nở tung trong chậu; hoa hồng, hoa dâm bụt cũng rực rỡ không kém, chị bùi ngùi nghĩ đến công lao của anh chăm sóc cây cỏ lá hoa. Những ống nước trong vườn cũng do anh đặt, sợi giây điện chung quanh tượng Đức Mẹ cũng anh giăng. Các con có lưu ý là bố phải cẩn thận, kẻo gây hỏa hoạn đấy, Nhưng anh đời nào nghe chúng. Mấy năm rồi, bóng đèn vẫn chớp, vẫn sáng, có sao đâu. Chị se lòng nghĩ, nếu một người khác dọn vào nhà này, họ có làm lại ngôi vườn không? Những cây hoa có bị dời chỗ, những bóng đèn sẽ tháo xuống, và tượng Đức Mẹ nữa, người chủ mới có cùng một tôn giáo như anh chị không?

Cuối cùng, chị quay vào buồng của anh. Căn buồng mấy năm nay là một thế giới của riêng anh. Thỉnh thoảng chị ngó vào, kêu ầm lên: Sao mà bừa thế này!
Chị đến bàn viết. Cái máy vi tính đã đóng lại để cho người con trai lớn đến mang đi; một ít giấy linh tinh trên mặt cái bàn nhỏ, chị nhìn qua, thấy không có gì quan trọng, chị thu xuống cái sọt giấy bên dưới. Chị coi như là xong, những thư từ trên máy vi tính đã có con trai lo hộ, chị không thắc mắc.
Bây giờ chị cần thu dọn quần áo của anh đem cho. Chị bối rối vì không biết nên bắt đầu từ ngăn kéo nào, từ góc tủ nào.

Quần dầy, áo mỏng, áo còn mới, hay quần đã cũ. Cái treo, cái gấp, cái vắt trên ghế, cái rơi cạnh giường. Hơn một tháng nay anh ở bệnh viện, anh vào hospice, chị đâu có thời giờ để ý đến căn buồng.
Quần áo là vật dụng thân quen nhất cho thân thể, chúng đã ôm ấp anh, mang hơi hướm anh, chúng là những người bạn thân thiết của anh, quần áo này gần gũi với anh cho đến hôm anh mất. Chị úp mặt vào chiếc áo sơ mi vắt trên thành ghế tưởng như chị đang gục đầu trên vai anh.
Một cơn gió nhẹ thổi vào phòng qua cửa sổ xoa xoa mái tóc chị, nước mắt chị ứa ra.

Bất giác chị nhớ đến bài thơ của Cao Bá Quát khóc vợ:
Từ ngày anh ra đi 
Giường không đêm đêm giữ 
Trăng biển soi lòng nhớ 
Vào giấc mộng cô đơn 
Gió sông thổi cơn lạnh 
Vào khoảng trời hoàng hôn 
Chiếc gương nhỏ em cất 
Trong hành lý người xa 
Áo lạnh em vẫn giữ 
Trong phòng của hai ta 
Giữ vật tự an ủi 
Làm sao mà quên nhau (2)

Chị tháo xuống từng chiếc áo, chiếc quần. Gấp lại như gấp chính hồn mình, chị xếp từng xấp để lên giường anh. Chị đứng nhìn những xấp vải vô tri đó mà như nhìn những mảnh hồn mình. Chị ngồi lặng đi trong buồng anh không biết bao lâu.

Ngoài kia, mặt trời đang xuống.

Bỗng chị nghe một tiếng reo, hai tiếng reo. Tiếng reo của chiếc cell-phone. Chị nhìn quanh, không phải phôn của chị, chị biết phôn của chị đang để ở buồng ngủ của chị, phía bên kia nhà. Chị hấp tấp đến bàn viết, kéo từng ngăn kéo, chị tìm thấy cái phôn của anh đang rung, chị cầm lên:
- A lô, A lô!
Không có tiếng trả lời.
Chị luống cuống bấm lung tung tìm xem ai vừa gọi. Không có ai gọi cả, con số cuối cùng trong máy là của con gái chị gọi cho bố từ tuần trước, khi anh còn tỉnh.

Cái phôn im lặng, tắt ngấm, lạnh ngắt trong tay chị.
Bất giác chị nấc lên: “Anh ơi!”
Ngoài kia, mặt trời đã tắt.

Trần Mộng Tú
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeSun Jan 27, 2019 9:45 am

.

Thực nhân quỷ

Nguyên tác: Jiki nin ki
của Koizumi Yakumo


Ngày xưa, khi thiền sư Muso đang một mình rong ruổi đường xa trong xứ Mino, ngài đã lạc vào một khu rừng sâu không một bóng người, không biết làm sao để hỏi đường ra. Muso lạc lõng quanh quẩn mãi, qua không biết bao nhiêu đường đất rồi mà vẫn không tìm ra được một nơi để ghé lại dừng chân, ngài đã nản lòng nghĩ bụng thôi thế là đêm nay không tìm đâu ra quán trọ để nghỉ qua đêm. Đúng lúc ấy, khi nắng chiều thoi thóp cuối ngày sắp khuất dần sau đỉnh đồi, Muso đã thấy hiện ra trong ánh tà dương ấy một mái thảo am, dường như được dựng ở đây để dành cho các nhà sư ẩn tu, xa lánh tục lụy trần gian. Ngôi thảo am trông có vẻ xơ xác tiêu điều lắm, nhưng dù vậy Muso vẫn cố rảo bước tìm đến tận nơi. May sao có một nhà sư già đang sống trong thảo am. Muso bèn ngỏ lời xin nhà sư làm ơn cho mình tá túc lại một đêm. Nhà sư già lạnh lùng từ chối. Thế nhưng bù lại thì ngài đã mách bảo cho Muso biết ở thung lũng bên cạnh có một ngôi làng, hãy đi tới đó thì sẽ tìm được chỗ trọ và còn được dọn cho cơm ăn nước uống tử tế. Và nhà sư đã chỉ cho Muso biết ngôi làng ấy ở đâu.

Muso tìm đến nơi thì đó là một ngôi làng nhỏ, có chưa tới được mươi, mười hai mười ba nóc nhà. Muso được ân cần đón vào ngôi nhà của lý trưởng làng ấy, nhưng trong nhà đang có chừng bốn năm mươi người đàn ông đang tụ họp trong gian phòng có vẻ như là phòng khách.
Muso được dẫn vào một căn phòng nhỏ ở vườn sau, và được mời cơm nước cùng được sắp sẵn cho chăn và nệm để ngủ. Tuy trời mới xẩm tối, nhưng Muso đã mệt lử, bèn cứ thế nằm lăn ra ngủ thiếp đi. Thế rồi gần đến khuya hôm ấy,ở nhà trên bỗng có tiếng ai đó khóc òa lên thật to. Muso mở bừng mắt thức dậy bởi tiếng kêu khóc thảm thiết ấy. Một lát sau, có tiếng đẩy cửa nhè nhẹ, rồi một người đàn ông còn trẻ, tay cầm đèn bước vào phòng, ngồi bệt xuống chiếu, cung kính cúi đầu chào Muso, đoạn thưa như sau:
- Thưa sư ông, chúng tôi thật chẳng muốn chút nào, nhưng bất đắc dĩ cũng đành phải thưa với ngài chuyện này.
Bẩm sư ông, trong nhà này bây giờ tôi là gia trưởng. Mới ngày hôm qua tôi vẫn còn là trưởng nam. Rất tiếc là đúng lúc ngài đến tệ xá, và trông ngài có vẻ mệt mỏi nữa, thế nhưng chúng tôi xin thất lễ mà không thể không thưa thật với ngài. Dạ thưa ngài, sự thật là cha tôi đã mất vào khoảng vài giờ trước. Có lẽ ngài cũng đã trông thấy mọi người tập họp ở gian nhà trên, tất cả đều là người trong làng này. Họ đến để dự lễ Thâu Đêm với người vừa mất. Bây giờ tất cả chúng tôi đang sửa soạn rời khỏi làng này để đi sang làng bên cách đây chừng một dặm. Là vì, thưa ngài, làng tôi có lệ hễ trong làng có người qua đời, thì tối hôm ấy dân làng không ai được ở lại trong làng. Tất cả đều lo dọn cỗ bàn cúng vái xong xuôi, chỉ để thi hài người vừa chết ở lại nhà, còn tất cả mọi người trong làng đều phải ra đi. Trong nhà có đặt thi hài nên lần nào cũng có chuyện kinh dị xảy ra. Vì vậy, bẩm sư ông, chúng tôi cũng định mời ngài hãy cùng chúng tôi đi nơi khác. Chuyện chỗ trọ thì sang đến làng bên kia chúng tôi cũng sẽ có nơi có chỗ hẳn hoi cho ngài. Dĩ nhiên, ngài là người tu hành, nên chúng tôi cũng nghĩ rằng ngài không sợ gì ma quỷ, và nếu nhờ ngài ở lại trong nhà chúng tôi với xác người chết, mà đêm nay sẽ không có chuyện quái lạ như thế xẩy ra, thì còn gì hơn. Tang gia chúng tôi cũng đang bối rối quá, xin ngài cứ suy nghĩ kỹ hộ cho. Nếu không phải là người tu hành như ngài, thì chắc hẳn là không một ai nhận ở lại trông nhà đêm nay đâu ạ.

Muso đáp:
- Xin cảm ơn quý gia chủ đã chân tình cho bần tăng biết rõ sự thể. Thật đáng tiếc là khi bần tăng vừa tới đây, quý gia chủ đã không cho bần tăng biết đức nghiêm đường vừa quá cố. Đâu có hề chi, tuy bần tăng cũng có hơi mệt đấy, nhưng là kẻ xuất gia tu hành, chuyện mệt nhọc đâu có đáng kể gì. Phải chi được quý gia chủ cho biết, bần tăng đã tụng một bài kinh cầu siêu cho người quá cố, trước khi mọi người rời khỏi nhà. Nhưng nếu đã vậy, để mọi người đi rồi, bần tăng ở lại tụng kinh sau cũng được. Bần tăng sẽ ở lại đây canh giữ thi hài cho đến sáng mai. Theo lời ngài vừa kể, nếu ở lại đây sẽ có chuyện kinh dị xảy ra, bần tăng thực tình chưa hiểu rõ đó là chuyện gì, xong bần tăng không hề kinh hãi hồn ma bóng quế hay yêu tinh quỷ quái. Xin quý gia chủ đừng lo cho bần tăng điều gì cả.

Vị thiếu chủ nghe Muso nói một cách ung dung tự tại như thế thì sắc mặt lộ vẻ mừng rỡ, hết lời cảm ơn.  Một lát sau, tất cả mọi người trong nhà ấy cùng với bọn người làng ở nhà trên, sau khi nghe gia chủ kể lại những lời ân cần tử tế của Muso thì ai nấy đều tới để ngỏ lời cảm ơn Muso. Sau đó, gia chủ lại nói:
- Thưa sư ông, để ngài ở lại một mình thật tình là chúng tôi cũng rất ái ngại, nhưng đã đến lúc chúng tôi phải ra đi. Theo lệ của làng này, không ai được ở lại nhà đến quá nửa đêm. Trong lúc không có chúng tôi ở cạnh ngài, xin ngài hãy hết sức thận trọng giữ mình. Trong lúc chúng tôi vắng nhà, nếu có điều gì lạ xảy ra thì sáng mai khi trở về, chúng tôi sẽ xin phép được nghe ngài kể lại cho biết.

Chẳng mấy chốc mọi người đều rời nhà ra đi, chỉ còn một mình Muso ở lại trong căn phòng có đặt thi hài. Trước thi hài là những đồ cúng như vẫn thấy trong mọi tang lễ. Có một ngọn đèn nhỏ leo lét cháy. Muso cũng đã tụng xong bài kinh cầu siêu cho người chết. Xong xuôi đâu đấy, Muso bắt đầu ngồi thiền, trầm tư mặc tưởng rất lâu.. lâu lắm. Muso vẫn còn ngồi yên. Trong ngôi làng nhỏ không còn ai, chẳng có một tiếng động nào. Thế rồi đêm mỗi lúc càng về khuya, thình lình có một cái bóng mơ hồ không rõ hình hài, lặng lẽ lướt nhẹ vào trong nhà.

Chỉ trong một sát na, Muso bỗng thấy các giác quan của mình tê dại đi như bị bóng đè, muốn cất tiếng kêu lên cũng không được. Nhìn kỹ thì thấy cái bóng mờ ảo ấy đưa tay xốc tử thi lên, vục miệng vào nhai ngấu nghiến, còn hơn là mèo ăn thịt chuột, trước hết là đầu tử thi, rồi đến tóc, xương, và cả đến vải liệm quấn quanh tử thi. Ăn xong, kế đó quái vật lại quay sang ăn hết sạch cả những đồ cúng. Thế rồi, cũng như khi vào, lần này cái bóng ấy lại lặng lẽ quay ra và biến nhanh mất dạng, không biết đã về đâu.

Sáng hôm sau khi dân làng trở về, họ thấy chỉ có thiền sư Muso đang đứng trước nhà lý trưởng đợi họ. Dân làng lần lượt cúi chào Muso rồi cứ thế đi vào trong nhà. Họ tìm kiếm khắp phòng, nhưng cũng chẳng một ai tỏ vẻ ngạc nhiên vì không trông thấy tử thi hay các đồ cúng. Bấy giờ chủ nhà mới nói với Muso rằng:
- Bẩm sư ông, có lẽ đêm hôm qua ngài đã trông thấy những điều ghê sợ. Thú thật là chúng tôi ai cũng lo lắng cho ngài. Nhưng nay được thấy ngài bình an vô sự, không hề hấn gì cả, chúng tôi hết sức vui mừng. Nếu được, chúng tôi cũng muốn ở lại cùng với ngài. Nhưng như tôi đã thưa với ngài tối qua, theo lệ làng này thì khi trong làng có người qua đời, cả làng phải để nhà trống, để thi hài lại, mà bỏ làng ra đi. Nếu không theo đúng lệ làng, thì thế nào cũng gặp tai họa. Cứ theo đúng lệ làng, thi hài và các đồ cúng sẽ biến mất trong lúc mọi người vắng nhà. Chắc có lẽ sư ông cũng đã rõ hết sự tình rồi, phải không ạ.

Bấy giờ Muso mới kể cho họ nghe về cái bóng thật lớn không rõ hình hài đã vào phòng người chết, ngấu nghiến nhai tử thi lẫn đồ cúng. Thế nhưng dân làng chẳng ai tỏ vẻ ngạc nhiên khi nghe kể lại chuyện ấy.
Chủ nhà lại thưa với Muso:
- Bẩm sư ông, vâng, chuyện mà ngài vừa kể giống hệt với những điều tương truyền từ xưa trong làng chúng tôi.
Bấy giờ Muso mới hỏi:
- Ở trên đỉnh núi bên kia có một nhà sư. Nhà sư ấy đã đến làng này tụng kinh cho người chết lần nào chưa ạ?
Người chủ nhà hỏi lại:
- Ơ lạ nhỉ, ngài bảo đó là nhà sư nào thế ạ?
Muso đáp:
- Đêm hôm qua, nhà sư ấy đã chỉ đường cho bần tăng tìm đến làng đây đấy ạ. Bần tăng đến thảo am của vị sư ấy trên núi bên kia để hỏi đường. Bấy giờ, nhà sư ấy đã từ chối không cho bần tăng trú lại qua đêm, nhưng thay vào đó, nhà sư ấy đã chỉ đường cho bần tăng tìm tới đây.
Nghe Muso kể, ai nấy đều đưa mắt nhìn nhau có vẻ ngạc nhiên. Họ lặng thinh hồi lâu, rồi gia chủ lại thưa:
- Bẩm sư ông, trên ngọn núi kia làm gì có nhà sư nào đâu ạ. Cũng làm gì có thảo am. Đã bao đời rồi ở vùng này chẳng thấy ai xuất gia tu hành.

Muso chỉ hỏi thế rồi cũng thôi không đả động tới chuyện ấy nữa, là vì nhận thấy những người dân làng đã đối đãi thật tử tế nhưng có vẻ như là họ cho rằng Muso đã bị ma quái phỉnh phờ gạt gẫm.
Muso bèn hỏi thăm cho rõ những điều cần biết về đoạn đường mình sắp tới rồi từ biệt mọi người mà lên đường. Đúng lúc ấy, Muso chợt nghĩ hay là hãy thử tìm đến thảo am trên núi kia, để xem cho chắc có phải là mình đã bị ma quái lừa gạt hay không.
Muso đã tìm ra ngay ngôi thảo am ấy. Lần này nhà sư già đã mời Muso vào nghỉ chân. Muso vừa vào trong am, không biết nhà sư giữ am ấy nghĩ gì mà bỗng nhiên cúi gầm mặt xuống mà than khóc:
- Thật là xấu hổ quá. Xấu hổ quá. Ôi xấu hổ quá đi mất!
Muso bảo:
- Thưa ngài, tối hôm qua cho dù ngài đã từ chối không cho bần tăng trọ lại, cũng không việc gì mà phải xấu hổ đến thế. Mà trái lại, nhờ ngài chỉ đường nên bần tăng đã đến được làng bên kia, đêm qua bần tăng đã được họ tiếp đãi tử tế. Xin thành thật cảm ơn ngài.
Nhà sư chủ am liền đáp:
- Thưa ngài, tôi không có tư cách gì để cho ngài ở trọ lại đây. Tôi xấu hổ, không phải vì đã từ chối không cho phép ngài trọ lại, mà thực ra là vì ngài đã trông thấy rõ hình tướng của tôi. Tối hôm qua, ngay trước mắt ngài, kẻ đã ăn tử thi và đồ cúng nhà ấy không phải là ai khác mà chính là tôi. Không giấu gì ngài, tôi chính là con quỷ ăn thịt người đấy ạ. Xin ngài mở lòng từ bi lắng nghe đầu đuôi sự tình đã khiến tôi bị mang ác nghiệp vào thân như thế.
Ngày xưa xưa lắm, tôi là kẻ tu hành ở nơi đèo heo gió hút vắng vẻ này. Thời bấy giờ trong suốt một dải rừng sâu hàng mười mấy dậm dặm này chẳng có một vị sư sãi nào cả. Vì thế, hễ bọn sơn tặc có người chết thì thế nào họ cũng vác xác đến tận đỉnh núi này, để nhờ tôi tụng kinh cầu siêu. Có người còn lặn lội từ xa mà đem thi hài đến đây.
Thế nhưng tôi chỉ lập đi lập lại việc tụng kinh cầu siêu như một kế sinh nhai độ nhật, thâm tâm thường chỉ nghĩ đến chuyện dựa vào cái nghề nhàn hạ nhẹ nhàng này mà đổi lấy cái ăn cái mặc. Vì cái tâm bất chính, vì vọng niệm ham muốn tư lợi, nên sau khi chết, chẳng mấy chốc tôi đã hóa thành con quỷ ăn thịt người. Từ đó trở đi, hễ trong làng có người chết thì thành ra là thế nào tôi cũng phải ăn thịt xác chết ấy. Và rồi không hẹn mà đêm hôm trước, tôi đã làm như thế trước sự chứng kiến của ngài.

Thưa sư ông, xin ngài mở lòng từ bi mà trị giống ngạ quỷ trong tôi, xin cho một lễ cầu siêu giúp tôi thoát ra khỏi cái vòng nhân quả oan nghiệt này mà sớm được thành Phật.

Nhà sư vừa nói xong, bỗng biến mất, không còn thấy bóng dáng đâu nữa . Cùng lúc ấy ngôi thảo am cũng biến đi đâu mất. Muso như chợt bừng tỉnh, thấy mình đang chống gậy dứng giữa bãi lau lách cao ngập đầu, bên cạnh một ngôi cổ mộ rêu phong hình tòa tháp ngũ luân bằng đá, dường như là nấm mộ của nhà sư nọ.

Người dịch: Quỳnh Chi (25/6/2008)

.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeMon Feb 04, 2019 12:10 am

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  An-oan-nguoi-an-may

Ân Oán Của Người Ăn Mày

- Fernando Sorrentino


Năm 1965, lúc đó tôi 23 tuổi đang là sinh viên sư phạm để ra làm một ông thầy dạy văn chương trung học. Sáng hôm đó là một buổi sáng sớm mùa Xuân, tôi đang ngồi học trong phòng mình trong căn hộ ở tầng 6 một tòa chung cư. Đây là tòa nhà chung cư duy nhất trong dãy phố.

Hơi lo ra, tôi ngồi học mà cứ thỉnh thoảng lơ đãng nhìn ra cửa sổ. Bên dưới nhà tôi là đường phố. Bên kia đường là căn nhà ngay góc đường của ông Sĩ-giang. Ông này khó tính nhưng nhà ông có mảnh vườn tuyệt đẹp mà tôi cứ hay nhìn xuống. Kế bên nhà ông Sĩ-giang là căn nhà cũng rất đẹp của gia đình Bình-nam. Gia đình Bình-nam là gia đình hiền lành, thân thiện, luôn làm những chuyện tử tế. Gia đình này có 3 cô con gái, mà tôi thì si tình cô lớn nhất, là Diễm-an. Sáng sớm lắm nên tôi biết Diễm-an chưa có ra ngoài nhà nhưng mà thỉnh thoảng tôi cứ liếc sang đó. Có lẽ chỉ vì trái tim sai khiến.
Theo thói quen, ông Sĩ-giang sáng sớm là đã tưới nước và dọn dẹp cho căn vườn yêu quý của ông ta. Căn vườn này nằm ngay trước nhà, có hàng rào sắt phía trước, cách đường phố phía dưới là 3 bậc tam cấp bằng đá.

Đường xá đang còn vắng tanh. Tôi thấy có một người đàn ông đang đi từ xa tới bên phía lề đường của nhà Sĩ Giang và Bình Nam. Tôi bị lôi cuốn vì ông ta có vẻ là một người ăn xin hay là dân du cư, áo quần là những tấm giẻ cũ kỹ đủ màu như cầu vồng.
Ốm yếu, râu ria, trên đầu thì đội cái mũ rơm màu vàng. Dù trời nóng, ông ta cũng khoác cái áo choàng rách rưới, xam xám. Ông ta còn mang thêm cái một bị lớn, dơ dáy. Chắc là để đựng đồ ăn xin được và thức ăn thừa.
Tôi tiếp tục nhìn theo tay ăn mày. Ông ta ngừng trước nhà ông Sĩ Giang, leo lên bậc tam cấp, rồi hỏi hay xin cái gì đó với ông Sĩ Giang qua khe hở của cái hàng rào sắt. Tính ông Sĩ Giang là một người thô lỗ, khó chịu cho nên trông ông có vẻ không muốn nghe người ăn xin nói gì mà chỉ hất tay đuổi ông ta đi. Nhưng ông ta cứ đứng nguyên đó nói gì không rõ. Rồi tôi nghe ông Sĩ Giang to tiếng:
- Đi! Đi ngay! Đừng có làm phiền nữa!
Tuy nhiên, không hiểu sao ông ăn mày cứ đứng đó, tay vịn vào hàng rào, kèo nài, lẩm bẩm. Giận dữ và mất hết kiên nhẫn, ông Sĩ Giang dùng hết sức đẩy mạnh ông ăn mày ra khỏi hàng rào. Kẻ ăn mày tuột tay khỏi hàng rào, trật chân lên bậc tam cấp, ngã chỗng chân lên trời, đầu đập mạnh vào bậc đá xanh.

Ông Sĩ Giang hoảng hốt chạy ra, cúi người lên lão ăn mày, tay để lên tim ông ta lắng nghe nhịp đập. Chắc không nghe thấy gì nên ông Sĩ Giang sợ hãi chạy xuống chân ông ăn mày rồi nắm chân kéo ông ta sền sệt xuống lề đường. Bỏ ông ta nằm đấy như một người say rượu. Sau đó ông Sĩ Giang đi vào nhà, đóng khóa cửa vườn, cửa nhà lại, như là không biết gì xảy ra. Ông ta chắc cũng nghĩ rằng chẳng ai thấy cái tội ác vô tình ông gây ra cả.
Người nhân chứng duy nhất là tôi.
Không lâu sau đó có người đi ngang qua và thấy người ăn mày nằm chết bên đường. Cảnh sát đến và xe cứu thương được gọi đến. Xác người ăn mày được cho vào xe cứu thương và chở đi mất.
Mọi việc diễn ra như vậy. Ngoài người ăn mày thì đã chết, ông Sĩ Giang thì sống để bụng chết mang theo, chẳng ai còn nhắc đến cái chuyện người ăn mày chết đường chết chợ đó nữa.
Còn tôi, tôi rất cẩn thận không bao giờ hé ra một lời về chuyện này cho bất cứ ai. Có lẽ như vậy là không chính trực lắm nhưng tôi sẽ được gì khi tố cáo ông Sĩ Giang, người dù sao chẳng có làm gì xấu với tôi cả? Hơn nữa, cũng không phải ông Sĩ Giang cố tình muốn sát hại người ăn mày kia. Tất cả chỉ là chuyện vô tình, lầm lỡ. Tôi nghĩ để cho ông Sĩ Giang đã lớn tuổi phải gánh chịu những phiền phức, rắc rối với pháp luật, có thể còn phải đi tù về chuyện này thì thật có gì đó hơi bất nhẫn. Tốt hơn hết là để cho ông ta chịu sự phán xử của lương tâm ông ta.
Lâu dần tôi cũng quên đi cái bi kịch thương tâm đó. Nhưng mỗi khi gặp ông Sĩ Giang tôi lại thấy xao xuyến bàng hoàng chút gì đó trong người vì nghĩ rằng ông ta không thể ngờ tôi là người duy nhất đã chứng kiến toàn bộ cái bí mật có lẽ ghê gớm nhất của cuộc đời ông. Sau đó tôi tránh mặt ông và không bao giờ còn dám nói chuyện với ông nữa.

Ba năm sau, tôi đã 26 tuổi, tôi đã lấy bằng sư phạm về ngành ngôn ngữ và văn chương Tây ban nha. Diễm-an không lấy tôi làm chồng mà lấy 1 kẻ may mắn khác. Tôi cũng chẳng biết kẻ ấy yêu Diễm-an hơn tôi hay là xứng đáng với nàng hơn tôi hay không.
Thời gian đó, Diễm-an đang mang thai, sắp đến ngày sinh nở. Nàng vẫn sống trong căn nhà tuyệt đẹp đó và chính nàng vẫn đẹp hơn bao giờ hết.
Một buổi sáng tháng 12 tôi đang dạy kèm văn phạm ở nhà cho vài em học sinh trung học, cũng trong căn phòng ngày xưa chứng kiến vụ án mạng. Cũng như ngày nào, thỉnh thoảng tôi lại liếc nhìn xuống con đường phía trước dưới nhà.
Bỗng nhiên tim tôi nhảy lên loạn xạ. Tôi tưởng như mình bị ảo ảnh.
Trên con đường trước mặt, có một người đang đi về phía nhà gia đình Diễm-an, chính là người ăn mày ba năm trước bị ông Sĩ-giang giết chết. Không thể lẫn lộn vào đâu được. Bộ quần áo màu mè giẻ rách, chiếc áo choàng xám, cái mũ màu vàng, cái bị túi dơ bẩn.
Quên cả đám học sinh, tôi vội đi tới bên cửa sổ. Người ăn mày đang đi chậm lại, như là đang sắp đến nơi ông ta muốn đến.
"Ông ta trở về." Tôi nghĩ "Và trở về để báo thù ông Sĩ-giang đây."
Nhưng ông ta không ngừng lại trước nhà ông Sĩ-giang. Ông đi băng qua hàng rào vườn nhà ông Sĩ-giang. Ông ta đứng trước cửa nhà của Diễm-an, mở chốt cửa rồi đi vào nhà.
Tôi điên lên vì lo lắng. Tôi bảo đám học trò:
"Tôi sẽ trở lại ngay!"

Tôi chạy ra thang máy và đi ngay ra phố, băng qua đường, chạy vội tới nhà của Diễm-an,
Mẹ cô ta, đang đứng trong nhà, ngay cửa chính. Bà nhìn tôi ngạc nhiên rồi nói: "Ủa? Chào cháu! Cháu đó ư? Thật là một phép lạ!"
Mẹ Diễm-an luôn luôn có cảm tình với tôi. Bà ôm hôn tôi. Nhưng tôi chưa hiểu gì cả. Tại sao bà lại nói phép lạ gì ở đây? Té ra là Diễm-an vừa mới lâm bồn. Và bà tưởng tôi đến thăm đúng lúc. Ai trong nhà cũng vui mừng. Tôi bèn đành bắt tay chúc mừng kẻ đã đánh bại tôi.
Tôi chưa biết phải hỏi thế nào và đang suy nghĩ không biết có nên giữ im lặng cho qua luôn không. Rồi sau đó tôi nghĩ ra một cách. Tôi bèn vờ hỏi một cách hơi lơ đãng:
"Thật ra thì tôi bước vào nhà mà không bấm chuông vì tôi thấy một ông ăn mày với một cái bị to mà dơ dáy lắm lẻn vào nhà này. Tôi sợ ông ta ăn cắp đồ trong nhà."
Mọi người trong nhà nhìn tôi ngạc nhiên: ăn mày? bị túi? ăn trộm? Hầu như cả nhà đang ở trong phòng khách này từ nãy giờ nên chẳng ai hiểu tôi nói gì.
Tôi bèn nói:
- Vậy chắc chắn là tôi nhìn lộn rồi.

Sau đó họ mời tôi vào phòng của Diễm-an và em bé mới sanh. Trong hoàn cảnh này tôi chẳng biết nói gì hơn là chúc mừng nàng, hôn tay nàng, suýt soa nhìn em bé, và hỏi vợ chồng nàng đã đặt tên cho em bé chưa. Họ nói rồi, và tên bé là Duy-thành.
Trở về nhà, tôi ngẫm nghĩ:
"Đó chính là người ăn mày bị giết bởi ông Sĩ-giang. Chắc chắn. Vậy ông ta không trở về để báo oán mà chỉ để đầu thai vào làm con của Diễm-an."
Tuy nhiên, 2-3 ngày sau, tôi thấy giả thuyết của tôi có vẻ kỳ quặc quá cho nên tôi cũng từ từ quên nó đi mất.
Có lẽ tôi cũng quên đi những chuyện không vui, hơi quái dị đó luôn nếu sau này vào năm 1979 không có một chuyện xảy ra làm tôi nhớ và liên hệ lại tất cả mọi việc xảy ra từ năm 1965 đến lúc đó.

Nhiều năm đã trôi qua. Tôi cũng đã qua tuổi thanh niên. Không còn nhiều ước vọng hăng hái như ngày xưa. Mỗi khi đọc sách cạnh cửa sổ tôi thường để tâm trí lãng đãng đây đó, mắt vãn thỉnh thoảng nhìn ra cửa sổ, bên kia đường.
Con của Diễm-an, Duy-thành, bây giờ đã 11 tuổi, đang chơi trên sân thượng của nhà nó. Trò chơi hơi có vẻ trẻ con so với số tuổi của nó. Có lẽ thằng bé không thông minh lắm. Tôi nghĩ nếu nó là con của tôi thì chắc nó sẽ nghĩ ra nhiều cách để giải trí thú vị hơn.
Nó đang đặt 1 đống lon không trên đầu bức tường ngăn cách 2 căn nhà và đứng cách xa khoảng 3 hay 4 mét, lấy đá cố chọi cho trúng vào mấy cái lon. Làm vậy, dĩ nhiên là các cục đá sẽ rớt hết qua vườn nhà bên cạnh của ông Sĩ-giang. Bây giờ thì ông ta chưa thấy nhưng tôi biết lát nữa đây ông ta sẽ nổi trận lôi đình khi thấy cả một khoảnh hoa trong vườn nhà ông ta bị đá rơi trúng làm bầm dập, gẫy nát.

Ngay lúc đó, tôi thấy ông Sĩ-giang mở cửa nhà và bưóc ra vườn. Lúc này ông già lắm rồi, bước từng bước chậm chạp, nghiêng nghiêng. Mỗi bước lại ngưng, mỗi buớc lại nhấc chân lên nặng nề. Nhưng ông ta không chú ý gì đến mảnh vườn mà lại đi thẳng tới cổng vườn, mở cổng rồi bước xuống bậc tam cấp bằng đá dẫn ra lề đường.
Trong lúc đó thì thằng bé Duy-thành, không nhìn thấy ông già, cuối cùng đã chọi trúng một cái lon. Cái lon văng lên, rớt xuống bờ tường vài lần, rồi rớt xuống vườn nhà ông Sĩ-giang với một tiếng "beng" lớn, có lẽ do trúng một bờ gạch hoạc chậu kiểng. Ông già đang đi chập choạng trên bậc tam cấp, nghe tiếng động bỗng giật mình quay lại. Ông bị mất thăng bằng rồi ngã quay trên bậc thềm, đầu giộng mạnh vào thềm đá xanh.
Tôi thấy hết. Nhưng ông già và thằng bé chẳng ai thấy ai cả. Chẳng hiểu tại sao, thằng bé bỗng ngưng chơi. Nó chạy đi mất. Chỉ vài giây sau, nguời ta bu lại chỗ ông Sĩ-giang té nằm đó. Trong chốc lát người ta xác định là ông đã chết vỡ sọ, do bị té bất ngờ.

Sáng hôm sau, khi thức dậy, tôi đi ngay ra cửa sổ nhìn qua bên kia đường. Xác ông Sĩ-giang được quàng giữa nhà. Nhiều người đứng hút thuốc và tụ tập trên lề đường trước nhà ông.
Mọi người bỗng im lặng, đứng tránh ra có vẻ bối rối khi có một lão ăn mày từ nhà Diễm-an bước ra, vẫn với bộ quần áo màu mè, cai áo choàng xám, cái mũ rơm màu vàng, cái bị túi dơ bẫn kia. Lão đi ngang qua nhóm người, chậm chạp nhưng từ từ khuất dần theo hướng mà trước đây ông ta đã theo hướng đó mà đến.

Cũng hôm đó, một tin buồn đến nhưng không làm tôi ngạc nhiên, là thằng bé Duy-thành bỗng nhiên không ai thấy nó ở trong nhà nữa. Họ tìm kiếm mãi mà không bao giờ tìm ra dấu vết thằng bé. Tôi chỉ biết khuyên gia đình Diễm-an thường xuyên đặt hoa lên bậc thềm chỗ chỗ người đã tử nạn.
Một thời gian sau Duy-thành bỗng trở về nhưng không còn nói dược. Sau này nó phải học lại từ đầu và tuy chậm nhưng vẫn phát triễn bình thường.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeThu Feb 07, 2019 8:54 am

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  2Q==

… đã khói sương che
- Minh Thùy

 
Biết người xưa ấy
đã khói sương che
biết tình xưa ấy
đã cách bến bờ…
 
Ở xứ này không ai bấm chuông nhà người ta lúc 7 giờ sáng ngày chủ nhật, ngoại trừ tên đó. “Đồ hâm nặng, đồ cà chớn, đồ té giếng!” Dung càu nhàu rủa thầm, vẫn đứng nấu nước pha trà, mặc kệ chuông reo. Có lần bị rung chuông vào sáng sớm mùa đông, Dung hét lên qua máy nói vọng xuống cửa: “Đang gọi Polizei (cảnh sát) đến đây, quậy đi rồi biết!”
Ngó qua cửa sổ, chưa bao giờ Dung thấy hắn chạy nhanh đến thế, chân tập tễnh, hắn phóng mấy bước qua đường, biến mất sau rặng cây đào góc phố. Cô cười thầm: “Tâm thần, dở hơi đến đâu cũng biết sợ luật pháp.”
 
Cứ chủ nhật, hắn gọi điện thoại đến từng nhà, hay trây mặt làm khách không mời, đến tận nhà, phát giấy truyền đạo, rủ rê người ta đi nhà thờ, tự cho đó là nhiệm vụ cao cả của hắn đối với chúa Trời và người đời, dù bị chửi rủa cũng cam chịu.
Hôm nay trời nóng, hắn lên cơn hâm nữa sao mà trở lại. Dung mở cửa sổ nhìn xuống cổng chính, thở hắt ra. Chính hắn, đang đứng tần ngần trước cửa, một tay ôm mớ giấy nói về đạo nhà trời, với đủ thứ tiếng trên thế giới, một tay xách cái gói khá lớn, vẻ kỳ bí.
- Muốn quậy phải không, chuẩn bị tinh thần đi!
Dung đưa cái Handy ra cửa sổ cho hắn thấy, bấm số 110, gọi lớn: “Hallo Polizei, bitte helfen Sie mir, ich habe problem….*„
Từ dưới đường hắn cũng gào lên: “Vừa phải thôi bà nội, có truyền đạo đâu, đem cái này đến cho đây, xuống lấy đi!”
Hắn biến mất lên xe bus vừa cập bến bên kia đường. Cái chân cà nhắc của hắn chắc giờ đau nặng nên chạy chậm hơn trước, còn cặp nách theo cái gậy. Khổ thân, đã vậy cứ mê mãi đi truyền đạo, hắn tuyên bố, hôm nào thuyết phục được ai chịu nhận giấy truyền đạo hay lỡ ngu đột xuất đi đến nhà thờ với hắn, là cái chân hắn bớt đau nhiều.
Đám trẻ láu cá xui dại: “Ông anh ôm mớ giấy truyền đạo lên nóc nhà thờ, nín hơi nhảy xuống đất một phát, tật cà nhắc khỏi ngay, có khi chạy nhanh hơn gió, đạo trời thiêng lắm đấy!” - hắn nửa tin nửa ngờ, chưa dám thử.
 
Cái chân bị gẫy xương phải đi cà nhắc cũng chính vì cả tin bạn bè. Đang  hò hét xem bóng đá, lũ đàn ông say xỉn xoay ra tranh luận ồn ào rằng, nhờ chịu đựng gian khổ, nhịn nhục đi phát giấy truyền đạo, Chúa đã động lòng trắc ẩn với niềm tin của hắn, bây giờ hắn có nhảy từ lầu cao xuống đất chả hề hấn gì, rồi cá độ với nhau. Bị thách thức sát ván, thêm hơi rượu bốc lên, hắn lừng lững đi lên tận lầu năm cao nhất, nhảy xuống tức khắc. Nằm im, bất động!
Hơn một tháng hắn rơi vô tình trạng koma *, sống đời thực vật trong bệnh viện. Thương cảm một linh hồn cô đơn sắp về nước Chúa, mọi người ghé qua bày tỏ tình đồng hương, có người còn sụt sịt khóc thương hắn dại dột. Khi quan tài vừa mang đến, bất ngờ hắn tỉnh dậy, ngơ ngác đòi ăn cháo vịt và muốn đi phát giấy truyền đạo!
Bác sĩ cười, gõ tong tong vào hai chân đang bó bột:
- Chưa vô lò thiêu hay cưa chân là may mắn đấy, truyền đạo gì nữa.
Hắn cực lực phản đối, đó chính là phép mầu nhiệm của Chúa Trời chứ không phải may mắn! Chả biết linh thiêng thế nào, ít lâu sau, giấy công nhận hắn được quyền cư trú ở nước Đức theo diện tị nạn nhân đạo, gửi đến tận tay, trong khi nhiều người khác bị trục xuất vì không đủ lý do tị nạn. Thêm lý do tàn tật ở chân, hắn không bị bắt buộc làm việc, thong dong nhận trợ cấp xã hội đủ ăn, lại có bảo hiểm sức khỏe và nhân mạng.
Niềm tin đạo giáo của hắn từ đó tăng lên theo cấp số nhân, còn bạn đồng hương lại gánh khổ nạn vì việc truyền đạo ngày chủ nhật.
 
***
 
Bà già hàng xóm tầng dưới đất gọi với lên: “Xuống lấy cái gói đi, nó cứ lù lù ở đây, làm tao hồi hộp sợ chất nổ!” Báo động làm Dung hơi hoảng, có thể lắm chứ, tên hâm giận mình hay đe dọa gọi cảnh sát nên trả thù chăng. Cái gói kín mít, chả thấy gì bên trong, Dung đem ra giữa sân, đứng xa xa, dùng cái cây xé rách lớp giấy ngoài, hóa ra đó là cái cây nhỏ bọc trong mấy lần giấy báo thấm nước giữ cho tươi. Cây chỉ chừng 40 cm, có một nụ hoa nhỏ còn xanh, rễ đất bao lưới cẩn thận. Mở ra, có tờ giấy nhỏ với hàng chữ: “Tặng Dung cây hoa ngọc lan, vừa mang từ bên nhà sang, để nhớ quê hương”.
Dung ngẩn ngơ, lần trước về thăm nhà, ráng nhét một cây ngọc lan nhỏ vào va-li không được, đành bỏ lại tiếc nuối. Không hiểu sao tên hâm biết chuyện, biết mình yêu hoa ngọc lan. Từ chối, trả lại không được, dù sao cũng phải cám ơn người tặng. Khi định gọi điện thoại, Dung mới biết mình chưa bao giờ có số telefon của hắn.
Hình như người Việt ở đây chả ai quan tâm hắn ở đâu, làm gì, nhưng hắn thì biết hầu hết mọi người, cả số nhà lẫn điện thoại.
Anh Đăng nói:
- Hắn như ma xó, biết hết chuyện kín, chuyện hở từng người, nhưng “chuyện đời tôi” của hắn thì dấu kín, chỉ biết hắn mồ côi từ bé, họ hàng đem về nuôi chỉ để sai vặt, làm công không. Lớn lên biết tự lập thân, đi lao động bên Tiệp, rồi theo bạn bè lần mò qua xứ Đức này, lúc thì hắn nói đang ở nhà của xã hội, lúc nói ở nhà thờ, phần tử rất khả nghi.
Chị Hà cười:
- Khả nghi gì lão hâm đó, hôm nọ thập thò đến nhà chị, bị anh Bình quát, tao mới sửa nhà, đang dọn dẹp mệt bỏ mẹ, mày giở đạo ra, tao thiến d… mày đấy! Hắn nói, để em phụ giúp anh một tay, rồi lăn vào làm cật lực, xong việc, anh Bình nói ở lại ăn cơm, đưa tiền công, nhưng hắn không nhận, chỉ xin mớ quần áo cũ. Chị mừng quá, lôi mấy đống quần áo cũ còn tốt, của người lớn lẫn trẻ con, cho tất. Thân hắn mồ côi, không vợ con, xin làm gì nhỉ? Sao tự dưng Dung lại muốn biết số telefon của hắn?
 
Dung im bặt, nói lãng qua chuyện khác, thấy xấu hổ khi phải thú nhận món quà từ tay hâm nặng quái dị. Cũng chả dám hỏi ai, sợ bị nghi ngờ có tình ý riêng với hắn, trở thành trò cười cho mọi người. Cô tự nhủ: “Mình đâu có xin, hắn tự dưng cho, mắc mớ chi phải day dứt tội lỗi” quên bẵng luôn nỗi thắc mắc tại sao hắn tặng mình cây ngọc lan.
Cây hoa lớn nhanh, nhà không có vườn, lại ở tầng cao, Dung phải trồng cây vô chậu lớn, mùa hè để ngoài balcon, mùa đông hì hục khiêng vô nhà, sợ tuyết giá làm cây chết cóng. Hơn năm sau mới hé ra bốn nụ hoa, cô nâng niu nhẹ nhàng, chăm bón phân tưới nước, lau sạch bóng cánh lá.
Thi thoảng lại cho cây thưởng thức nhạc êm dịu! Hoa nở nhiều cánh trắng, vươn ra đài các, hương thơm dịu nhẹ. Đêm mùa hè sáng trăng, hoa càng tỏ nét đẹp tinh khiết, thanh tú. Dung với hai người bạn bày trò “ngắm hoa thưởng nguyệt” ngồi ở balcon, ăn bánh uống trà, chụp vài tấm ảnh cây hoa yêu quí tặng bạn bè, nhưng tình tiết có được cây ngọc lan trên nước Đức thì dấu biệt.

***
 
Bà hàng xóm đưa Dung cái hộp giấy lớn, nói: “Tuần rồi cô đi vắng, có người đến tìm, nhờ tôi đưa cô cái này”.
Dung cám ơn bà, ngạc nhiên với món quà không đợi, không biết chủ nhân, chỉ có hàng chữ bên ngoài: Nhờ chuyển đến cô Thuyền Dung, số nhà…
Cô do dự khá lâu trước khi mở hộp, bóc lần lượt nhiều lớp khăn mỏng. Đó là bức tranh sơn mài, khắc họa hình thiếu nữ bên chiếc đàn tranh, mặt sau có dòng chữ: “Tặng Dung, để nhớ quê hương.” Ngoài ra, không có chữ ký, không tên người tặng.
Dung bồi hồi ngỡ ngàng, chắc chỉ có hắn mới viết như thế. Cô chợt nhớ ra chưa bao giờ biết tên thật của hắn, chỉ nhớ mấy biệt danh kỳ quái: dở hơi, hâm nặng, lão quái… cũng chưa bao giờ ngắm kỹ dung nhan hắn ra sao.
Sao mình vô tình thế nhỉ, cô tự giận mình khi ngắm bức tranh dưới ánh đèn, lớp xà cừ lóng lánh như dát bạc, hình cô gái đang nhấn phím đàn linh động, thật đẹp. Cô nhớ đến cây đàn tranh thuở nhỏ bị nứt hư khi một lần lỡ tay làm rơi xuống đất. Làm sao hắn biết mình yêu đàn tranh, sao hắn biết mình vẫn ao ước chơi lại đàn tranh.

Hắn có ý gì đây, Dung nhủ thầm, phải trả lại thôi, không có tình cảm gì mà khơi khơi nhận quà là không được, nhưng biết tìm hắn nơi nao. Đời lắm lúc trái ngoe, lúc nào cũng xua đuổi hắn như đuổi tà, giờ phải cất công đi tìm hắn.
Dung ghé sang nhà chị Hà nói chuyện bâng quơ:
- Bà con mình lúc này mừng húm, chủ nhật không bị tên hâm đến quậy nữa, được ngủ yên hưởng thái bình. Hắn biến đâu mất nhỉ?
Chị Hà, anh Bình cùng cười:
- Lâu lâu hắn không xuất hiện đâm ra nhớ mới chết chứ, nghe đồn hắn về quê nhà, kiếm ra một em chân dài rồi.
Anh Lãng chen vô:
- Chân dài chân ngắn gì đâu, lúc sau này hắn thay đổi tiết mục, không mê truyền đạo nữa, vì thấy không ai chịu lên thiên đường với hắn, nên hắn bay về thăm quê hương thường xuyên, đem nào quần áo, thú nhồi bông, bánh kẹo cho trẻ em nghèo ở miền núi, miền quê. Tiền xã hội trợ cấp, không dám chi tiêu cho mình, cứ nhịn ăn nhịn mặc, đem về giúp đỡ người tàn tật. Vừa rồi, đi qua đường ở trung tâm Saigon, lạng quạng thế nào bị xe bus đụng phải, tử luôn rồi.
Dung với chị Hà sửng sốt:
- Thật không, chắc tin vịt cồ?
Nói dóc chết liền. Có mấy người bạn từ bên này về chơi, hay tin, đến tận bệnh viện nhận là người nhà của hắn, cùng nhau làm đám ma rồi hỏa táng, đem rải tro xuống biển ở Cần Giờ như ý hắn muốn. Có chụp hình đầy đủ, hôm nào anh mượn về cho xem.
Dung lẳng lặng bỏ đi lang thang trên phố, không biết tìm gì, không muốn gặp ai, cũng chẳng biết về đâu. Chiều mùa thu se lạnh, áo khoác lại để quên ở nhà chị Hà, Dung không gọi taxi, cứ thế lầm lũi đi trong gió lạnh, sương mù lãng đãng rơi xuống bao phủ thành phố.

Gần nửa đêm Dung về tới nhà, ngồi ngắm hết cây hoa ngọc lan đến bức tranh sơn mài vẫn để trên bàn hai tuần nay, tự dưng thấy căn phòng mình sao trống trải chơ vơ quá. Cô mở cuốn sách dày ép mấy cánh hoa lan trong đó, hoa đã khô, hương thơm vẫn thoảng nhẹ trên giấy.
Đêm khuya sương mù càng dày hơn, Dung mở toang cửa sổ, mặc cho gió lạnh tạt vô mặt. Hình như có tiếng động ở cổng chính. Cô nghiêng người nhìn xuống, bóng ai đứng cạnh chuông cửa, một tay ôm gói giấy. Tim cô tự dưng như thắt lại, cô hồi hộp chờ đợi tiếng chuông rung. Nhưng im lặng. Cô chờ.
Gần 10 phút trôi qua, ngó xuống, bóng người còn đó, vẫn im lặng, hay chuông cửa bị hư? Dung lao xuống cầu thang, mở tung cổng chính.
Không một ai! Cả khu nhà vắng ngắt!

Sương mù che phủ nơi nơi, ngọn đèn vàng đầu đường đứng trơ trọi hiu hắt như mong đợi ai. Cô cứ đứng trong giá lạnh, nghe lòng rưng rưng thổn thức:

Biết người xưa ấy
đã khói sương che
biết tình xưa ấy
đã cách bến bờ
Biết lòng không đậu
trông chi thuyền về…
Người như gương vỡ
trăm năm lỗi thề…..*

Minh Thùy

*** Ghi chú:
- Hallo Polizei, bitte helfen Sie mir, ich habe problem….: Hello Cảnh sát, làm ơn giúp tôi, tôi đang gặp vấn đề….
- * Koma: tình trạng hôn mê.
- * Biết người xưa ấy… trích từ bài thơ Bên Sông của thi sĩ Phạm ngọc Lư (1972)
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeThu Feb 21, 2019 10:48 am

.


Nàng Tuyết
Nguyên tác Yuki Onna,
trong tập truyện Kwaidan của Koizumi Yakumo
Người dịch: DTTM


Tại một làng quê nọ ở xứ Musashi có hai người làm nghề đốn củi tên là Mosaku và Minokichi. Mosaku nay đã già, còn Minokichi là một chàng trai mới vừa mười tám tuổi, còn đang học nghề theo phụ giúp Mosaku. Ngày ngày họ đi vào một cánh rừng cách làng chừng 5 dậm. Trên đường đi đến cánh rừng này, họ phải băng qua một con sông rộng có một con đò ngang đưa đón qua sông. Nhiều lần người ta đã bắc cầu qua sông ngay ở chỗ bến đò, nhưng lần nào chiếc cầu sau đó cũng bị nước lụt cuốn trôi đi mất. Không có chiếc cầu nào chống chỏi được với giòng nước cuồn cuộn trôi khi nước sông dâng lên.

Một buổi chiều lạnh lẽo, Mosaku và Minokichi đang trên đường về nhà thì gặp phải một trận bão tuyết lớn. Họ tới chỗ bến đò thì thấy người lái đò đã bỏ về để lại chiếc thuyền con bên bờ sông. Đó không phải là một ngày có thể bơi qua sông, hai người tiều phu bèn vào trú trong chiếc chòi của người lái đò, mà nghĩ bụng là họ đã may mắn tìm được một nơi tạm trú lúc này. Trong chòi không có lò than hay có chỗ nhóm lửa. Đó chỉ là một căn chòi nhỏ vỏn vẹn chừng hai chiếu [1], chỉ có mỗi một cửa ra vào chứ cũng chẳng có cửa sổ. Mosaku và Minokichi đóng cửa lại, và cứ để nguyên cả áo tơi chằm bằng lá mà nằm lăn ra nghỉ. Mới đầu họ không thấy lạnh lắm, và tưởng rằng chẳng mấy chốc cơn bão sẽ đi qua.
Ông lão Mosaku hầu như đã ngủ thiếp đi ngay sau đó. Nhưng chàng trai trẻ Minokichi còn nằm thao thức một lúc, nghe tiếng gió gào thét khủng khiếp và tiếng tuyết đập liên hồi vào cánh cửa. Ngoài sông nước gầm gào sôi cuộn, căn chòi xiêu vẹo run rẩy kêu cọt kẹt như chiếc thuyền mành giữa biển khơi. Trận bão thật lớn, và khí trời mỗi lúc một lạnh hơn, làm Minokichi run bần bật trong chiếc áo tơi. Xong cuối cùng, mặc dù lạnh buốt, chàng cũng ngủ thiếp đi.

Minokichi chợt tỉnh giấc vì bị tuyết hắt vào mặt chàng. Cánh cửa chòi đã bị bật mở tung, và trong ánh tuyết hắt lên, chàng thấy trong chòi có một người đàn bà, một người đàn bà trắng toát từ đầu đến chân. Nàng đang cúi xuống nhìn ông lão Mosaku và đang phà hơi thở của nàng lên mặt ông lão. Hơi thở của nàng như một làn khói trắng và sáng loá. Minokichi còn đang nhìn nàng thì nàng bỗng quay sang phía Minokichi và cúi xuống người chàng. Minokichi muốn kêu to lên, nhưng chàng mới chợt nhận ra là chàng không tài nào kêu lên được thành tiếng. Người đàn bà trắng toát cúi xuống trên mình chàng, cúi sát và sát mãi, cho đến khi mặt nàng chạm sát vào mặt Minokichi. Chàng thấy nàng rất đẹp, tuy rằng đôi mắt của nàng khiến chàng phải khiếp sợ. Nàng cứ nhìn chàng như thế mãi một lát, rồi mỉm cười và khẽ nói:
- Ta định cũng làm nhà ngươi như người đàn ông kia, nhưng ta không khỏi thấy thương hại cho ngươi, vì ngươi còn trẻ và dễ thương quá. Ta không làm hại ngươi đâu. Nhưng ngươi không được nói với ai, ngay cả mẹ ngươi, những gì mà ngươi đã trông thấy trong đêm nay. Nếu không, ta sẽ biết, và rồi ta sẽ giết ngươi chết. Ngươi hãy nhớ kỹ những điều ta nói!

Nói đoạn nàng quay đi, và lướt ra ngoài cửa. Bấy giờ Minokichi thấy mình mới có thể cử động trở lại được, chàng vùng dậy và nhìn ra ngoài, nhưng không còn thấy người đàn bà ấy đâu, chỉ có tuyết bay cuồng loạn hắt vào trong chòi. Minokichi đóng cửa lại, lấy mấy thanh củi chống cánh cửa cho chắc. Chàng không biết có phải là gió đã thổi làm cửa bật mở ra hay không, và nghĩ có thể đó chỉ là một giấc mơ, có lẽ chàng đã tưởng lầm ánh tuyết sáng mờ ảo in trên cánh cửa với hình dáng một người đàn bà, nhưng chàng cũng không chắc lắm. Chàng bèn đánh thức ông lão Mosaku, thì kinh hãi biết bao, ông lão không trả lời. Trong bóng tối, chàng cầm lấy tay ông lão, sờ tay lên mặt ông thì thấy khuôn mặt ông lão đã đông cứng thành băng đá. Mosaku đã chết cóng.
Sáng sớm, cơn bão đã tan, và sau khi mặt trời lên được một lát, người lái đò trở ra căn chòi của mình, thấy Minokichi nằm bất tỉnh bên cạnh xác chết đã đóng băng của Mosaku. Minokichi liền được săn sóc cho tỉnh lại, nhưng sau đó chàng vẫn còn ốm lây lất khá lâu vì cái lạnh khủng khiếp đêm hôm ấy. Chàng cũng hết sức kinh hoàng bởi cái chết của người tiều phu già, nhưng chàng không dám hở một lời về người đàn bà trắng toát. Sau khi khỏi bệnh, Minokichi đi đốn củi trở lại, sáng sáng một mình vào rừng và trở về vào lúc trời đã sập tối với những bó củi cho mẹ đem bán.

Một buổi chiều mùa đông năm sau, trên đường về nhà Minokichi trông thấy một cô gái có vẻ là người đi đường xa, tình cờ cũng đang đi cùng đường với mình. Nàng có dáng người thanh tú, khuôn mặt rất đẹp, và nàng đã cúi chào Minokichi với giọng nói líu lo như chim hót. Thế rồi chàng đi bên cạnh nàng và họ bắt đầu trò chuỵện. Cô gái cho biết cô tên là Ô-Yuki, có nghĩa là Tuyết. Sau đó nàng kể rằng cha mẹ nàng mới qua đời nên bây giờ nàng đang về kinh thành Êđô, nơi có vài người quen biết, may ra họ có thể giúp nàng tìm được một chỗ vào làm người giúp việc.  Minokichi liền đem lòng cảm mến ngưòi con gái lạ mà càng nhìn chàng càng thấy đẹp.  Chàng dò hỏi xem nàng đã đính hôn chưa, nàng mỉm cười bảo nàng còn không. Nàng cũng hỏi chàng đã có vợ hay đã hứa hôn với ai chưa. Chàng bảo chàng chỉ có một mình và phải nuôi  mẹ già goá bụa, và vì chàng còn quá trẻ nên lâu nay cũng chưa phải đi hỏi vợ. 
Sau vài câu thăm hỏi, họ cứ lặng lẽ đi bên nhau một lúc thật lâu mà không ai nói một lời nào. Nhưng tục ngữ chẳng có câu "Tình trong ánh mắt nói đủ thay lời" là gì... Khi đi vào tới làng thì hai người đã phải lòng nhau lắm rồi, thế là Minokichi mời Ô-Yuki tới nghỉ lại ở nhà chàng. Nàng do dự trong giây lát rồi cũng đi với chàng về nhà. Mẹ chàng niềm nở đón tiếp và dọn cho nàng một bữa cơm nóng sốt. Ô-Yuki tỏ ra rất dễ thương khiến mẹ của Minokichi liền đem lòng yêu mến, và bà đã ngỏ ý bảo nàng hãy hoãn lại ngày đi Êđô. Kết cuộc đương nhiên của câu chuỵên này là Ô-Yuki không đi Êđô nữa. Nàng ở lại làm dâu nhà này.

Ô-Yuki tỏ ra là một nàng dâu rất ngoan. Vài năm sau, khi mẹ Minokichi qua đời, bà còn trăn trối lại những lời cảm ơn và khen ngợi con dâu. Và Ô-Yuki đã sinh cho Minokichi mười đứa con, cả trai lẫn gái, thẩy đều xinh đẹp và có làn da mịn màng.
Mọi người trong làng đều thấy Ô-Yuki là một người rất tuyệt vời và khác hẳn với họ. Hầu hết đàn bà miền quê đều mau già, nhưng Ô-Yuki thì dù đã là mẹ của mười đứa con, nhưng lúc nào nhìn nàng cũng còn trẻ trung và tươi tắn như ngày đầu tiên nàng vừa đến làng này.

Một đêm khi các con đã ngủ say, Ô-Yuki đang ngồi may dưới ánh đèn. Minokichi nhìn nàng, nói:
- Nhìn mình ngồi may tôi bỗng nhớ lại một điều kỳ lạ mà tôi đã gặp khi tôi còn là một cậu con trai mới mười tám tuổi. Tôi đã thấy một người thật đẹp và trắng như mình. Nàng trông giống mình lắm.
Ô-Yuki đáp lại mà không buồn đưa mắt nhìn Minokichi:
- Mình hãy kể cho tôi nghe về người đàn bà ấy. Mình gặp cô ta khi nào?
Minokichi bèn kể lại về cái đêm kinh hoàng trong chiếc chòi của người lái đò, và về người đàn bà trắng toát đã cúi xuống người chàng, mỉm cười và thì thầm với chàng, cũng như về cái chết lặng lẽ của ông lão Mosaku. Rồi chàng nói tiếp:
- Dù ở ngoài đời hay trong mơ, đó là lần duy nhất trên đời tôi đã gặp một người đàn bà đẹp như mình. Dĩ nhiên đó không phải là người, nên tôi sợ người đàn bà ấy, sợ lắm. Nhưng nàng trắng quá. Tôi cũng không chắc rằng khi đó tôi đã nằm mơ, hay đó chính là Yuki Onna.
Ô-Yuki bỗng đặt đồ khâu xuống, đứng vùng lên, khom người cúi xuống Minokichi đang ngồi, mà nói như thét vào mặt chàng:
- Người đó chính là ta, là Ô-Yuki đây. Ta đã dặn ngươi rằng ta sẽ giết ngươi nếu ngươi kể cho ai nghe một câu nào về điều đó rồi mà... Nhưng vì các con, ta tạm tha chết cho ngươi. Ngươi phải hết lòng lo nuôi nấng các con. Nếu có đứa nào kêu ca điều gì về ngươi thì ngươi biết tay ta.

Tuy là nàng đang nói như thét, nhưng giọng nàng vẫn mơ hồ như tiếng gió thoảng qua. Thế rồi nàng tan vào làn sương trắng sáng loá đang cuốn lên chiếc xà ngang trên mái nhà, và theo ống khói luồn ra khỏi nhà. Từ đó không ai còn gặp lại nàng nữa.
 
(Tokyo, 14/12/2005)
Nguyên tác Yuki Onna,
trong tập truyện Kwaidan của Koizumi Yakumo.
Người dịch: DTTM
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeFri Mar 01, 2019 7:36 pm

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  MHClark2

Trang Nhật Ký Đẫm Máu
- Mary Higgins Clark

   
    Trong khi cô sắp sửa bán căn hộ sang trọng tọa lạc tại khu Manhattan, Lacey Farrell, một nhà địa ốc trẻ, là nhân chứng vụ án mạng của bà chủ nhà. Thế mà bà này lại tâm sự cho cô biết về cái chết của Heather, đứa con gái của bà và là một nghệ sĩ trẻ của Broadway trong một vụ tai nạn xe hơi.

     Lacey biết quá nhiều nên cuộc sống của cô bị xáo trộn. Được cảnh sát che chở, bắt buộc phải dọn đi nơi khác và thay đổi lý lịch, mặc dù vậy cô vẫn bị tên thủ phạm tìm ra tông tích. Một cuộc tìm kiếm của kẻ giết người chuyên nghiệp và cuộc săn đuổi bắt đầu.  
     Sau đó, Lacey cố tự an ủi mình là nếu như cô đến sớm hơn vài giây, không những cô không giúp gì được cho Isabelle, mà trái lại cô còn chết chung với bà ấy.

     Nhưng sự việc xảy ra hoàn toàn khác. Dùng chiếc chìa khóa để cho khách coi nhà, cô đã vào trong căn hộ trên đường 70 phía Đông và gọi tên Isabelle đúng vào cái lúc bà này hét lên «Không…!» và sau đó là một tiếng súng nổ.
     Hoặc bỏ chạy hoặc phải trốn, Lacey không hề do dự, cô đóng cửa, vội vã chui vào núp trong ngăn tủ treo quần áo nơi cửa ra vào. Trước khi cô kịp đóng kín cửa, một người đàn ông tóc vàng ăn mặc rất sang trọng đã chạy xuống cầu thang. Qua khe hở, cô nhìn thật rõ bộ mặt hắn ta và hình ảnh đó lập tức in sâu vào trong tâm trí cô. Nói cho đúng, cô đã từng thấy người này rồi. Nhưng nét mặt đó bây giờ trở nên lạnh lùng và độc ác. Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là người mà cô đã cho coi căn hộ vài giờ trước đây, ông Curtis Caldwell dễ thương, người xứ Texas.
     Từ trong chỗ trốn, cô nhìn người kia đi ngang qua thật nhanh, tay phải cầm một khẩu súng, còn ở nách trái thì kẹp một bìa hồ sơ bằng da. Hắn ta mở cửa ra vào và hối hả chạy ra ngoài.

     Các thang máy và cầu thang cấp cứu nằm ở đầu kia hành lang. Lacey biết là thế nào Caldwell cũng sẽ nghi người mới vào nhà vẫn còn có mặt ở đây. Do bản năng tự vệ thôi thúc, cô phóng người ra khỏi tủ quần áo để đóng mạnh cánh cửa sau lưng hắn ta. Người đàn ông này liền xoay người lại và trong một khoảnh khắc quái ác, hai ánh mắt đã giao nhau, ánh mắt lạnh lùng của ông ta xóay vào mắt nàng. Hắn nhảy lại cánh cửa nhưng Lacey đã nhanh tay chốt được cánh cửa ngay lúc hắn tra chìa khóa vào ổ.
     Chết cứng vì hoảng sợ, cô đứng tựa vào cánh cửa, run lẩy bẩy khi thấy nắm cửa được vặn xoay qua lại. Cô thầm cầu xin cho Caldwell không có cách nào khác để vào trong nhà.

    Cô phải báo cho cảnh sát mới được.
    Cô phải cầu cứu một ai đó
    Isabelle! Cô nghĩ đến người này. Chắc chắn là chính bà đã hét lúc nãy. Bà có còn sống không?
     Tay lướt trên tay vịn cầu thang, Lacey phóng bốn nấc một lên cầu thang được phủ thảm dày, băng qua một phòng nhỏ màu mận và ngà, nơi mà nhiều lần cô đã nói chuyện với Isabelle, nghe bà ta nhai đi nhai lại hết sức bền bỉ rằng bà không tin vào cái chết của cô con gái Heather của mình, dù bề ngoài nó có vẻ đơn thuần chỉ là một tai nạn xe hơi.
     Hoảng sợ với những ý nghĩ trên, cô chạy vào trong phòng. Isabelle nằm ngang trên giường, người co rút lại, mắt mở trừng bàn tay đẫm máu bấu vào một xấp giấy ló dưới cái gối để cạnh đó. Một trang giấy bay lơ lửng trên không do ngọn gió thổi xuyên qua một cánh cửa sổ được mở.
     Lacey quỳ gối xuống: «Isabelle» - cô thì thầm. Có quá nhiều điều mà cô muốn nói ra, nhưng gọi một chiếc xe cứu thương chẳng hạn thì mọi chuyện sẽ ổn thôi, nhưng cô không thốt nên lời. Đã quá muộn rồi, Lacey biết như thế, vì Isabelle đang bước vào cõi chết.

     Cảnh tượng này ám ảnh cô trong nhiều đêm. Vẫn giấc mơ đó: cô quỳ gối cạnh Isabelle, nghe những lời trăn trối của bà ta. Isabelle nói với cô về quyển nhật ký, van nài cô cầm lấy các trang giấy. Cùng lúc đó, có một bàn tay đặt trên vai cô, cô ngước mặt lên. Tên sát nhân đang đứng trước mặt cô, vẻ mặt lạnh lùng chĩa họng súng ngay trán cô và bóp cò.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeFri May 03, 2019 11:25 am

.
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Images?q=tbn:ANd9GcSwP_GSkxAmfdgtbcPFre3AW-Fc2b8CanfGI6JW2gMZKNLCdAUT

SỰ XUẤT HIỆN
- Guy de Maupassant (1850-1893)


Trước đây chúng tôi thường có những buổi họp mặt thân mật, lúc ở nơi này, lúc ở nơi khác. Và trong các buổi họp mặt đó chúng tôi thường kể cho nhau nghe những câu chuyện ly kỳ nhưng phải có thật. Trong một buổi họp mặt thân mật tại khách sạn P ở phố Grenelle, nhân bàn tán về một vụ kiện đang khiến báo chí thời đó mất rất nhiều giấy mực, vụ án liên quan đến cô M, bị chính em trai mình nhốt giữ trong một bệnh viện tư nhằm chiếm đoạt tài sản của cô, ông hầu tước già vùng Samuel, khoảng tám hai tuổi, đứng dựa vào lò sưởi, nói bằng một giọng run run:
“Tôi có một chuyện rất lạ, cực kỳ lạ, nó đã ám ảnh suốt cuộc đời tôi, cho tới nay đã là năm mươi năm, không ngày nào tháng nào tôi có thể quên được nó. Kể từ hôm biến cố đó xảy đến với tôi, quanh tôi luôn có những dấu hiệu, những dấu vết khiến tôi sợ hãi, các ngài có hiểu điều tôi nói không? Vâng, tôi đã phải chịu đựng nỗi lo sợ khủng khiếp đó trong suốt mười phút, chỉ mười phút mà nỗi sợ đó đã trở thành nỗi ám ảnh suốt cuộc đời tôi, nó luôn thường trực trong tim trong óc tôi. Những tiếng động bất ngờ cũng khiến tôi giật thót mình, những đồ vật lờ mờ trong đêm khiến tôi luôn hoảng hốt muốn phát điên lên. Cuối cùng tôi trở nên sợ tối, sợ đêm.

Ồ! Tôi đã chẳng dám thú nhận điều đó nếu tôi còn chưa tới được độ tuổi như bây giờ. Giờ đây, điều gì tôi cũng có thể nói ra được. Khi người ta đã tám mươi hai tuổi, người ta không còn ngượng khi thấy mình không đủ can đảm trước những nguy hiểm ảo tưởng. Trước những hiểm nguy có thật, thưa các bà, các cô, tôi không bao giờ lùi bước.
Câu chuyện này đã khiến đầu óc tôi xáo trộn biết bao, nó khiến tôi vô cùng bối rối, lo sợ, bế tắc đến nỗi tôi chưa bao giờ dám kể nó cho bất cứ ai nghe. Tôi đã giữ kín nó trong lòng như thể giữ kín một bí mật đau buồn, đáng xấu hổ, không thể tỏ bày cho tới khi xuống mộ.
Tôi sẽ kể lại cho các bạn nghe về biến cố đó, không thêm, không bớt, không cố gắng giải thích gì thêm. Đương nhiên biến cố đó có thể giải thích được, ít nhất thì tôi cũng đã có những giờ khắc điên rồ. Nhưng không, tôi chưa bao giờ điên, tôi có thể chứng minh điều đó. Hãy tưởng tượng những gì bạn muốn, và đây là tất cả sự kiện, rất giản đơn.

Đó là vào tháng Bảy năm 1827, lúc đó tôi đang trong quân ngũ, và đóng quân ở Rouen.
Một hôm, khi tôi đang dạo chơi trên bến cảng, tôi gặp một người đàn ông, tôi cảm tưởng là tôi quen anh ta cho dù tôi chưa nhớ được ra quen ở đâu và anh ta là ai. Theo bản năng tôi dừng lại, người đàn ông lạ nhận thấy cử chỉ đó của tôi, anh ta nhìn tôi rồi nhào vào vòng tay tôi.
Hóa ra đó là một người bạn thuở thiếu thời mà xưa kia từng rất thân thiết đối với tôi. Chúng tôi đã không gặp nhau từ năm năm nay. Anh ta có vẻ già đi đến năm mươi tuổi. Tóc anh ta bạc trắng, và anh ta đi với cái lưng còng xuống như thể vô cùng mệt mỏi. Anh ta hiểu ngay cái nhìn ngạc nhiên của tôi và anh ta kể cho tôi nghe chuyện đời anh, kể về nỗi bất hạnh khủng khiếp đã giáng xuống cuộc đời anh ta. Anh ta yêu cuồng ai một thiếu nữ, ngất ngây trong hạnh phúc khi lấy được nàng, sau một năm cuồng say trong hạnh phúc siêu thực, nàng chết vì trụy tim; hẳn nhiên là tình yêu cuồng si của anh ta đã giết chết nàng.
Ngay sau hôm mai táng, anh rời bỏ tòa lâu đài hạnh phúc của họ, đến sống ở khách sạn Rouen. Anh sống ở đó một mình, đơn độc, tuyệt vọng, gặm nhấm nỗi đau, không còn thiết gì hết và chỉ nghĩ cách tự tử.
“Nhân thể gặp được cậu, anh ta nói với tôi, tôi có thể nhờ cậu giúp tôi một chút được không? Tôi muốn nhờ cậu vào phòng ngủ của tôi, vào phòng ngủ của chúng tôi, lấy hộ tôi những giấy tờ quan trọng mà tôi đang rất cần ở trong tủ bàn giấy. Tôi không thể nhờ thuộc hạ của tôi làm điều đó bởi đó là một bí mật mà tôi không muốn họ biết, không muốn họ tiết lộ. Còn tôi, không có một thứ gì trên thế giới này khiến tôi quay trở về căn nhà đó nữa. Tôi sẽ đưa chìa khóa phòng cũng như chìa khóa tủ cho cậu. Hãy nói với ông gác cửa là tôi nhờ anh đến, ông ấy sẽ mở cửa cho cậu. Nhưng trước hết trưa mai hãy đến dùng cơm với tôi, chúng ta sẽ hàn huyên lâu hơn.”

Tôi hứa sẽ giúp anh ta việc nhỏ mọn đó, vả lại với tôi đó cũng sẽ chỉ như một chuyến đi dạo vì lâu dài của anh ta cách Rouen khoảng năm dặm. Tôi sẽ chỉ mất khoảng một giờ cưỡi ngựa để đến đó. Mười giờ sáng hôm sau, tôi đã ở nhà anh ta. Chúng tôi cùng ăn trưa; nhưng anh ta không nói quá ba câu với tôi. Anh xin lỗi tôi vì sự kiệm lời của anh vì anh đang nghĩ đến căn phòng hạnh phúc xưa, nơi tôi sắp đến, và điều đó khiến anh rối bời - anh giải thích như thế với tôi. Quả thật anh ta tỏ ra bồn chồn, lo lắng, như thể có một gì đó đang vò xé trí não, tâm hồn anh. Cuối cùng anh ta chỉ dẫn chính xác những gì tôi sẽ phải làm.
“Rất đơn giản, tôi cần hai tập thư và một bó giấy để ở trong ngăn kéo trên cùng, bên phải trong tủ mà tôi đã đưa chìa khóa cho cậu.” Anh ta thêm vào “Hẳn tôi không cần nhắc cậu đừng lục lọi gì cả.”
Câu nói đó khiến tôi mếch lòng, tôi tỏ vẻ khó chịu. Anh ấp úng:
“Xin lỗi cậu, tôi đau khổ quá.” Và anh ta òa lên khóc.
Một giờ sau tôi lên đường hoàn thành sứ mạng được giao. Đó là một ngày đẹp trời, ngựa phi nước kiệu, tôi băng qua đồng cỏ, vừa đi vừa nghe chim hót líu lo, tiếng thanh kiếm gõ nhịp vào đôi ủng đi ngựa. Khi vào đến rừng, tôi thả lỏng cương, bằng những bước thung dung, tôi vừa đi vừa ngắm cảnh. Những cành cây ve vuốt khuôn mặt tôi, thỉnh thoảng có chiếc lá chạm vào răng tôi, tôi liền ngoạm lấy nó và nhai trong miệng một cách thích thú. Tôi cảm thấy vui thú, niềm vui sống tràn ngập trong tôi, cảnh đẹp ở đây khiến tôi ngây ngất như say.
Đến gần lâu đài, tôi lục tìm phong thư giới thiệu để đưa cho người làm vườn, và tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy nó đã được gắn xi. Tôi ngạc nhiên và bất bình đến nỗi tôi suýt quay về và không hoàn thành sứ mạng bạn tôi đã nhờ. Nhưng rồi tôi nghĩ có lẽ không hẳn như tôi tưởng. Anh bạn tôi hẳn đã làm chuyện đó theo thói quen mà không có ý gì.

Trang viên có vẻ như bị hoang phế từ hai mươi năm nay. Cổng hàng rào mở toang và mục nát, không hiểu sao nó vẫn còn đứng được mà chưa sụp xuống, cỏ phủ kín lối đi; người ta chẳng còn phân biệt được đâu là bồn hoa đâu là thảm cỏ nữa.
Nhìn thấy một cửa bên cũ kỹ, hoang phế, tôi lấy chân đạp vào cửa và tiếng kẹt cửa khiến một người đàn ông ló đầu ra từ một cửa bên cạnh, ông ta sững sờ nhìn tôi. Tôi nhảy xuống và đi ra chỗ ông ta, đưa cho ông ta lá thư giới thiệu. Ông ta đọc thư, đọc lại một lần nữa, gấp nó lại, nhìn tôi kỹ càng từ đầu đến chân, để thư vào túi và bảo:
“Ờ! Ông cần gì nhỉ?”
Tôi trả lời một cách cáu kỉnh:
“Ông phải biết chứ, vì ông đã nhận được lệnh của chủ ông trong thư rồi mà; tôi muốn vào lâu đài.”
Ông ta có vẻ rụng rời, ông hỏi lại:
“Vậy… vậy là ông vào… vào phòng ngủ của ông ấy?”
Tôi bắt đầu sốt ruột: “Mẹ kiếp! Ông định cứ đứng mãi đây mà tra xét tôi sao?” Ông ta ấp úng: “Ồ không… thưa ông… là vì…. là vì căn phòng đó không được mở ra kể từ khi… kể từ khi cô ấy… cô ấy chết. Nếu có thể, ông đợi tôi vài phút, tôi sẽ đến… đến xem xem liệu….”
Tôi ngắt lời ông ta một cách giận dữ:
“A, thế sao, ông trêu tôi đấy à? Ông không thể vào đó được vì ông làm gì có chìa khóa, nhìn đây này, chìa đây này.”
Ông ta đành nói:
“Vậy thì, thưa ông, để tôi chỉ đường cho ông.”
“Chỉ cho tôi cầu thang lên, và sau đó để tôi được yên, tôi sẽ tự tìm ra nó.”
“Nhưng… thưa ông… tuy nhiên…”
Lần này thì tôi không kiềm chế được nữa:
“Ông im đi cho tôi, được không? Hay ông thay tôi làm việc tôi phải làm.”

Tôi gạt ông ta ra một cách thô bạo và tôi đi vào trong nhà, tôi đi qua bếp, qua hai phòng ở của người gác vườn và vợ ông ta. Tôi băng qua tiền sảnh, lên gác và tìm ngay thấy cái cửa mà bạn tôi đã tả. Tôi mở nó không khó khăn gì và bước vào trong phòng.
Căn phòng tối đến nỗi khi mới vào tôi chẳng nhìn thấy gì hết. Tôi ngừng lại, ngửi thấy mùi ẩm mốc của một căn phòng không có người ở, bị đóng kín cửa từ lâu, một căn phòng chết. Dần dần, mắt tôi quen dần với bóng tối, tôi nhận thấy đây là một phòng ngủ lớn, lộn xộn với một cái giường không có khăn trải giường, nhưng lại đầy gối ngủ, gối ôm. Một cái trong số chúng vẫn còn trũng xuống như thể ai đó vừa gối đầu lên.
Đồ đạc để lung tung, tôi để ý đến một cái cửa, hẳn đó là cửa tủ quần áo, nó vẫn đang hé mở.
Trước tiên, tôi đến bên cửa sổ với ý định mở nó ra để không khí, ánh nắng bên ngoài có thể ùa vào; nhưng cái móc sắt gỉ hoen đến nỗi tôi không thể nhấc nó ra để đẩy cửa sổ được. Tôi cố thử bậy nó, bẻ nó bằng thanh kiếm của tôi nhưng cũng chẳng làm được gì. Bực bội vì không mở được cánh cửa chết tiệt nhưng vì mắt tôi giờ đã hoàn toàn quen với bóng tối nên tôi bỏ ý định mở cửa sổ. Tôi đi tới tủ bàn giấy.
Tôi ngồi vào một cái ghế bành, tựa vào một chiếc bàn nhỏ, mở cái ngăn kéo bạn tôi đã chỉ dẫn. Nó đầy chật, tôi chỉ phải tìm ba bó giấy mà bạn tôi đã tả rất kỹ cho tôi. Tôi bắt tay vào việc tìm kiếm.

Tôi đang chăm chú nhìn các địa chỉ ghi trên phong bì thư thì cảm thấy có một cái gì đó sượt qua sau tôi. Tôi không để ý lắm vì nghĩ rằng có thể đó là một luồng gió làm lay động các màn treo. Nhưng một phút sau, lại có một cái gì đó rất khó nhận thấy lướt nhẹ qua da khiến tôi rùng mình. “Thật vớ vẩn và ngu ngốc”, tôi tự nhạo báng tính nhát gan của mình. Tôi đã tìm ra được bó giấy thứ hai cần tìm, và đúng lúc tôi tìm được bó thứ ba thì tôi nghe thấy có tiếng thở dài đầy buồn nản cất lên sát vai tôi. Giật thót mình, tôi vừa nhảy vọt ra khỏi ghế đang ngồi vừa nắm lấy chuôi kiếm. Tôi thầm cám ơn thánh thần vì đã mang theo nó bởi nếu không có nó hẳn tôi đã bỏ chạy như một thằng hèn.
Một phụ nữ mặc toàn đồ trắng đang đứng ngay sau cái ghế bành mà tôi vừa ngồi một giây trước đang nhìn tôi. Một cơn rùng mình lan khắp người tôi, choáng váng, tôi suýt ngã ngửa! Ôi! Không ai có thể cảm nhận được điều đó trừ những người đã từng trải qua cảm giác đó, cảm giác của một nỗi sợ khủng khiếp. Trí óc tê liệt, tim ngừng đập, chân tay mềm nhũn như bún: máu như ngừng chảy. Tôi không tin có ma quỷ; thế nhưng lúc đó tôi đã sợ gần chết, và tôi cảm tưởng chỉ vài giây đó thôi mà dài hơn cả phần đời còn lại của mình, vài giây tôi phải chịu một nỗi sợ lên tới cực điểm.
Lúc đó nếu cô ta không nói gì với tôi thì hẳn tôi đã chết vì sợ. Nhưng cô ta đã nói, bằng một giọng nhẹ nhàng đầy đau khổ, làm xúc động người nghe. Tôi không dám nói rằng tôi đã làm chủ lại được bản thân, và rằng tôi đã bình tĩnh trở lại. Không, tôi đã cuống lên, không còn biết phải làm gì. Nhưng lòng kiêu ngạo chảy trong huyết quản và cá tính không biết sợ bất cứ cái gì thuộc về nghề nghiệp đã giữ tôi lại, và tôi tự cảm thấy dù sao tôi cũng đã có một thái độ đáng tôn trọng. Tôi đã tôn trọng chính bản thân tôi, tôn trọng cô ta, đương nhiên là tôn trọng cả cô ta rồi. Cho dù cô ta có là gì đi chăng nữa, là một phụ nữ hay là một bóng ma. Tôi kể lại tất cả những điều đó cho các bạn là vì tôi đảm bảo với các bạn rằng vào cái lúc cô ta xuất hiện, tôi đã chẳng nghĩ đến bất cứ điều gì, đầu óc tôi hoàn toàn trống rỗng, chỉ có duy nhất một cảm giác - Sợ.
Cô ta nói:
“Thưa ông, tôi có thể nhờ ông một việc được chứ?!” Tôi muốn trả lời, nhưng tôi không sao thốt lên được lời nào. Lời nói như khào khào trong họng mà không bật ra được.
Cô nhắc lại:
“Ông đồng ý chứ? Ông có thể cứu tôi, chữa trị cho tôi. Tôi đau đớn kinh khủng, tôi đau, ôi tôi đau quá!”
Và cô ngồi một cách nhẹ nhàng xuống cái ghế bành mà tôi đã ngồi. Cô nhìn tôi: “Ông đồng ý chứ?”
Tôi “Vâng” bằng một cái gật đầu vì cổ họng tôi vẫn như nghẹn lại. Cô ta chìa cho tôi một cái lược bằng đồi mồi và thì thào: “Chải tóc cho tôi, ôi, hãy chải tóc cho tôi; điều đó sẽ chữa lành bệnh cho tôi; người ta cần phải chải tóc cho tôi. Nhìn đầu tôi này, tôi đã phải chịu đau biết mấy; tóc tôi khiến tôi đau quá!” Mái tóc của cô mượt, rất dài, rất đen phủ tràn lưng ghế, chạm đất.
Tại sao tôi lại làm điều đó? Tại sao tôi vừa nhận lược vừa rùng mình? Sao tôi lại chạm tay vào mái tóc của cô để khiến sự đụng chạm làm tôi có cảm giác buốt lạnh như thể tôi vừa chạm vào một con rắn? Tôi không hiểu.
Cảm giác đó vẫn còn lưu lại trên ngón tay tôi, khiến tôi run lên vì sợ. Tôi chải tóc cho cô, chạm vào cô, tôi không hiểu tại sao tóc cô lại lạnh đến thế. Tôi vặn, tôi xoắn rồi tôi lại gỡ tóc cô; tôi bện tóc cô lại như người ta bện bờm một con ngựa. Cô thở dài, nghiêng đầu, đầy vẻ hạnh phúc.
Đột nhiên, cô bảo: “Cảm ơn!” rồi giật lấy chiếc lược trong tay tôi và bỏ chạy qua một cánh cửa đang hé mở.
Còn lại một mình, trong vài giây tôi bàng hoàng như thể vừa tỉnh dậy sau một cơn ác mộng. Rồi hoàn hồn trở lại, tôi chạy tới cửa sổ và phá tung cái cửa bằng một cú đẩy dữ dội mãnh liệt. Một con bướm đêm bay vào, tôi lao đến cái cửa mà cô ta vừa đi qua cái cửa đó. Cái cửa đóng kín.
Một nỗi sợ xâm chiếm tôi, tôi không còn nghĩ đến điều gì khác ngoài bỏ chạy. Vơ vội ba bó thư để trên mặt tủ, để mặc cánh tủ mở tung, tôi bỏ chạy ra ngoài, nhảy bốn bậc cầu thang một, không hiểu bằng đường nào mà tôi đã ở ngoài ngôi nhà, tôi nhìn thấy ngựa của tôi cách tôi khoảng mười bước chân, nhảy phóc lên nó, tôi ra roi phi nước đại về Rouen.

Tôi chỉ ngưng ngựa cho tới tận khi về tới Rouen, tới trước nhà trọ của tôi. Vứt đây cương ngựa cho người hầu, tôi bỏ vào phòng mình và ở lì trong đó để suy nghĩ. Trong suốt một giờ, tôi lo lắng tự hỏi phải chăng tôi đã bị ảo giác, phải chăng trí óc của tôi đã quá căng thẳng, phải chăng một dây thần kinh ảo giác nào đó đã làm tê liệt trí óc, đánh lừa trí óc khiến trí óc đã sản sinh ra chuyện kỳ bí, những chuyện siêu thực.
Và tôi đã tin rằng hẳn nhiên đó chỉ là ảo giác, và những gì tôi cảm thấy, nhìn thấy lúc trước hẳn chỉ là sản phẩm của óc tưởng tượng. Tôi ra cửa sổ, ngắm trời mây cho thanh thản. Ngẫu nhiên, tôi nhìn xuống ngực. Quân phục của tôi đầy tóc dài phụ nữ quấn cả vào khuy áo!
Tôi gỡ từng sợi và vứt ra ngoài bằng những ngón tay run rẩy. Tôi gọi người hầu. Tôi cảm thấy quá xúc động, quá bối rối để có thể đến nhà bạn tôi. Tôi muốn suy nghĩ thật kỹ những gì tôi sẽ phải nói với anh ta.
Tôi gửi trả cho anh ta thư của anh ta qua đường bưu điện. Anh ta tới doanh trại của tôi và hỏi thăm tôi. Người ta trả lời anh rằng tôi đang bị mệt, rằng tôi bị say nắng và những gì nữa tôi không biết. Anh ta có vẻ lo lắng.
Ngày hôm sau, tôi tới nhà anh ta từ rất sớm. quyết tâm nói sự thật cho anh ta biết. Thế nhưng anh ta ra ngoài từ hôm trước và tới nay vẫn chưa về nhà. Chiều hôm đó tôi quay lại nhà anh ta một lần nữa nhưng anh ta vẫn chưa về nhà. Tôi đợi anh ta một tuần, anh ta không hề xuất hiện. Tôi quyết định báo cảnh sát. Người ta tìm kiếm anh ta khắp nơi, không hề phát hiện thấy bóng dáng anh ta ở đâu.

Người ta kiểm tra một cách tỉ mỉ lâu đài bị bỏ hoang của anh ta. Không có bất cứ đấu hiệu khả nghi nào. Không một dấu hiệu nào chứng tỏ rằng có một phụ nữ bị giam giữ, che giấu ở đó. Cuộc điều tra đi vào bế tắc, các câu hỏi không có câu trả lời. Thế đấy, từ năm mươi sáu năm nay, tôi vẫn sống trong hoài nghi, không biết thêm được điều gì, tôi chẳng biết thêm được gì hết.
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeWed May 29, 2019 9:57 pm

.


Người sống cùng ma
- Người Khăn Trắng


Chùa Già Lam tọa lạc trên một khu đất rộng, phong cảnh thoáng mát, đầy cây cảnh rất thích hợp cho việc tu hành, kinh kệ. Từ ngày má vợ mất, tôi hay lên chùa để thắp nhang nhất là vào các ngày rằm lớn. Nếu các Chùa khác ở Sài Gòn cũng đều có Bảo Tháp, nơi giữ cất của người đã khuất thì Chùa Già Lam cũng vậy. Tôi hay vào nơi giữ cất vì ở đó có cốt của ông già vợ. Ông mất năm sáu chín, cải táng năm 1980 và đưa về chùa từ năm đó. Ông anh vợ tôi lặn lội từ Sài Gòn ra miền Trung để đưa vào đây cốt của cha vợ tôi để tiện việc nhang khói.

Nhà cốt nằm ở phía tay phải của Chùa, chật hẹp, ở đó cất giữ rất nhiều cốt. Đa số là người của miền Trung.... Nhưng ông Tư, người giữ cốt lại là người miền Nam. Ông làm nghề này đã lâu, hoàn toàn tự nguyện vì công quả... Mỗi khi có lễ gì ở Chùa như lễ An cư kiến hạ, cầu siêu, hoặc cúng rằm tháng bảy là ông ở lại Chùa suốt đêm. Còn thường thì ban ngày ông có mặt ở Chùa, tối về nhà ngủ.
Nhìn ông hom hem, da sạm đen. Đôi mắt sâu hoắm cứ tưởng ông yếu lắm nhưng ông rất khỏe. Cốt được cất trong một cái lọ, phía ngoài là bức ảnh nhỏ xíu nhà cốt lưu giữ hàng trăm cốt có ghi tên tuổi cụ thể và nhiệm vụ của ông Tư là lo quét dọn nhà cốt rồi thắp nhang mỗi ngày. Thắp chung cho nhà cốt. Ông thuộc vanh vách từng cốt một...

Cốt ông già vợ tôi ở trên cao, mỗi khi thắp nhang phải bắc thang lên. Không khí rất huyền hoặc kỳ bí đó là thế giới của người chết.
Tôi hỏi:
- Bác làm nghề này có sợ không?
Bác Tư cười móm mém:
- Ban đầu thì sợ nhưng bây giờ quen rồi. Tâm linh mà. Mình cứ sống tốt thì có ai hại mình được đâu. Tôi vào nghề này vì tình cờ thôi. Gọi là nghề nhưng thực ra là làm công quả. Sư trụ trì bảo tôi là ở Chùa thiếu người trông coi giữ cốt, nếu thí chủ làm công quả thì coi giữ giùm Chùa. Tôi gật đầu đồng ý. Hằng ngày ăn cơm chay niệm Phật và ngồi ở đây cho đến hôm nay. Tôi đã ngoài bảy mươi rồi, cũng gần đất xa trời rồi. Coi như là tích đức vậy... Nhà Chùa là nơi bá tánh đến nghe kinh. Nhiều người đóng góp công quả, thắp nhang lạy Phật để xua tà tâm.
Tôi hỏi:
- Bác ở trong này có thấy ma bao giờ không? Nghe nói gần chùa ma quỷ hay đến nghe kinh để sớm siêu thoát.
Bác Tư kể:
- Có chứ bữa đó tôi ở lại hơi trễ một chút vì trời mưa, tôi thấy một loạt bóng trắng ào vào. Tôi ngỡ mình nằm mơ tự nhéo tay thật đau thấy đang tỉnh táo. Tôi hỏi mấy chú tiểu thì chú cho biết: ở Chùa này thấy hoài, các hồn ma đi dạo chơi, bây giờ trở về. 
Tôi cứ run bần bật cả người vì sợ. Tôi tính xin trụ trì cho nghỉ việc, nhưng ngặt nỗi nhà Chùa không còn ai nên đành ở lại. Tôi thắp nhang cầu các vong linh: Tôi làm nghề giữ cốt, chăm sóc vong hồn các bạn. Xin đừng quấy nhiễu nữa.... Sau đó rồi cũng yên ổn, thỉnh thoảng nghe có tiếng gì đó mơ hồ lắm.... Nói về nghề, thì nghề giữ cốt có khác gì coi nghĩa địa đâu, cũng là thân xác và phần hồn cả thôi. Tôi chỉ sợ mai mốt già cả rồi không ai thay thế thì tội cho các vong linh lắm... Mà nói thật nghe nếu ngày nào không đến nhà cốt tôi lại thấy áy náy cậu ạ... Nghề của tôi cũng cô đơn như nghề coi xác ở bệnh viện vậy, nó buồn lắm. Vì đơn độc một mình...

Giọng bác Tư trầm đục. Tôi nhìn bác lặng lẽ, gầy gò đi lau chùi bụi bặm ở các bức di ảnh, mà trào lên bao xúc động sâu xa. Bác đã vượt qua bao nỗi sợ hãi để làm công quả. Nếu như ở xóm nghĩa địa có nhiều người tập họp, còn ở đây bác chỉ có một mình. Tôi nhớ chính tôi có lần say rượu ở Phước Long đã nằm ngủ bên ngôi mộ hoang suốt đêm, khiến bạn bè hoảng hốt và khi tỉnh rượu tôi cũng kinh hoàng vì sự táo tợn của mình. Đó chỉ là một đêm thôi, còn bác Tư thì cả đời gắn bó với người chết, mà những người đó hoàn toàn xa lạ, không thân thích.
Bác nói:
- Phật dạy con người ta từ bi hỉ xả, hưởng phước vô lượng. Gieo nhân nào, gặt quả ấy. Đây cũng là một điều tâm. Tâm trong hồn thanh thản.
Tôi hỏi:
- Hồi nhỏ chắc bác gan lắm?
Như gãi đúng chỗ ngứa. Bác kể:
- Hồi nhỏ nhà tôi ở dưới quê, mần ruộng kiếm sống. Tôi hay đi câu cá đêm qua các khu gò mả. Lũ bạn sợ nhát không dám đi. Tôi cứ mặc kệ. Vì tôi nghĩ: ma chết sợ người đấy chứ. Nghĩ vậy nhưng vẫn cứ run vì nghe tiếng gió hú, lửa ma trơi chập chờn, rồi đom đóm bay lập lòe, nhìn đâu như cũng thấy có ma quỷ... Nhưng tôi chẳng ngán gì cả, cứ đi. Thỉnh thoảng cũng bị ma nhát mấy lần.
Tôi hỏi:
- Ma nhát là nhát làm sao hả bác? Nghe ly kỳ quá. Mà bác có tin có ma quỷ không?
Bác Tư gật đầu:
- Có chứ. Có thế giới dương gian thì cũng có cõi âm ty. Có thờ, có thấy, có kiêng, có lành ông bà đã dạy vậy mà. Người ác sẽ bị trừng trị dù có thoát khỏi cõi dương gian. Lưới trời lồng lộng. Còn ma nhát ấy à lạ nghe. Tôi thấy có ai nhéo tai mình rồi có tiếng cười vang vang. Cứ ngỡ là bạn bè đùa. Khi định thần nhìn kỹ, chỉ có mình với đêm đen, nghĩa địa... Tôi hoảng sợ nhưng rồi vẫn tiếp tục đi. Về đến nhà, trời đã rạng bình minh. Bạn hỏi: Đêm qua có thấy gì lạ không? Tôi kể lại câu chuyện ai cũng rùng mình. Họ cho tôi là gan cóc tía. Họ bảo: những người bị ma nhát là những người yếu bóng vía. Vậy mà tôi không hề hấn gì. Thế mới lạ chứ...
Tôi hỏi:
- Nghe nói người sống gần âm khí, cốt cách cũng kỳ lạ lắm, bác thấy sao?
Bác Tư cười xuề xòa:
- Chú thấy tôi có vậy không? Mà tôi đôi lúc cũng như bị nhập tâm, nói năng một mình cứ ngỡ như có ai nói chuyện với mình vậy.... Về nhà, vợ bảo: Ông này lẩm cẩm rồi, coi chừng bị ma nhập.

Câu chuyện của chúng tôi kết thúc. Tôi từ giã bác Tư ra về. Rời ngôi Chùa yên tĩnh mà lòng cứ day dứt một câu hỏi: Người làm công quả như bác Tư hiện nay còn lại bao người. Chắc là cũng có. Nhưng để gắn bó một cuộc đời có lẽ rất hiếm. Hiếm lắm.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeWed Jun 19, 2019 12:15 am

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  2Q==


CÁI TAY KHÔ
- Guy de Maupassant (1850-1893)


Vào một t
i cách đây khoảng tám tháng, Louis, một trong những người bạn của tôi, tụ tập một vài người bạn học từ thuở nhỏ tại nhà. Chúng tôi cùng nhau uống rượu mạnh, hút thuốc và bàn về văn học, thơ ca, tranh phú. Cũng như mọi cuộc vui của đám thanh niên, thỉnh thoảng lại nổ ra một trận cười vì ai đó trong chúng tôi lại kể một chuyện vui, tếu táo. Đột nhiên cánh cửa mở toang, một cậu bạn lao vào như một cơn gió. "Đoán xem tôi vừa ở dâu về nào?" vừa vào cậu ta vừa hỏi.
- Tôi cá là cậu vừa về từ vũ hội hóa trang của cô nàng Mabille. - Một người trả lời.
- Không, trông cậu có vẻ rất cao hứng, chắc là cậu vừa mượn được tiền của ai đó, hoặc là vừa chôn cất một ông chú ông bác nào đó - người cho cậu một khoản thừa kế kha khá hay cậu vừa đặt được chiếc đồng hồ với một giá hời. - Một người khác đoán.
- Cậu vừa làm một cốc ở đâu đó và bây giờ cậu đang chếch choáng say - Người thứ ba độp lại - và cậu ngửi thấy mùi rượu thơm lừng ở nhà Louis nên cậu đến đây để lại tiếp tục chén tạc chén thù chứ gì?
- Các cậu sai bét, tôi vừa về từ nhà P... ở Normandie, tôi đã ở đó tám ngày và xem tôi mang gì về từ đó đây này. - Vừa nói cậu ta vừa rút từ trong túi ra một cái tay khô.

Cái tay này rất đáng sợ, đen sì, khô cong, rất dài và như thể co quắp lại vì đau, những cơ bắp bằng một cố gắng phi thường đã giữ chặt với nhau như những dải dây bằng da thuộc, những móng tay vàng ệch, hẹp, vẫn còn lại trên đầu các ngón tay; tất cả những cái đó khiến người ta liên tưởng tới một cái gì đó tàn ác.
- Các cậu biết không - Anh bạn tôi kể - người ta bán những di vật của một phù thủy già nổi danh trên khắp vùng; thứ bảy nào ông ta cũng cưỡi trên cán chổi tới lễ hội phù thủy, ông vừa đi vừa làm phép, cả phép tốt lành lẫn phép xấu xa, ông ta khiến sữa bò trở thành màu xanh và khiến cho đuôi bò ngắn tủn như đuôi lợn. Trong số những di vật được bán có bàn tay này, bàn tay của một tên tội phạm nổi tiếng đã bị kết án tử hình năm 1736 vì hắn đã chặt đầu bà vợ hợp pháp của hắn rồi vứt cái đầu xuống giếng và mang cái xác treo lên gác chuông nhà thờ mà tại nhà thờ này đức giám mục đã làm lễ cưới cho hắn ta. Sau hai kỳ tích này, hắn đã bắt cóc mười hai nhà thám hiểm, xông khói khoảng hai chục thầy tu trong chăn của họ và làm một hậu cung trong một nhà thờ tôn giáo.
- Nhưng cậu làm gì với cánh tay khủng khiếp này. - Một người kêu lên.
- Ờ tất nhiên, tôi sẽ treo cái tay khô này vào dây kéo chuông để dọa các chủ nợ của tôi.
- Bạn thân mến của tôi, - Henri Smith - một người Anh cao lớn, điềm tĩnh nói - tôi tin rằng bàn tay này đơn giản là tay của một người da đỏ còn trẻ, tôi khuyên cậu đừng có lấy nó mà nấu canh.
- Các cậu đừng có đùa, - Một sinh viên trẻ ngành y nói một cách lạnh lùng - và cậu, Pierre, - nếu tôi có thể khuyên cậu, thì tôi khuyên cậu hãy chôn bàn tay này theo đúng thể thức của những người theo đạo Cơ Đốc đi. Nếu không tôi sợ rằng chủ nhân của cái tay này sẽ theo cậu mà đòi lại cái gì của nó đấy. Và rồi tôi sợ là cái tay này sẽ mang đến cho cậu những điều không may, vì cậu biết đấy đã có câu thành ngữ: "Ai đã giết người một lần sẽ giết người lần nữa".
- "Ai đã uống sẽ uống nữa". - Chủ tiệc tiếp lời.
Và cậu ta rót cho cậu sinh viên một cốc rượu đầy, một cậu khác làm một hơi cạn cốc và ngã bịch xuống gầm bàn, say như chết. Cú ngã khiến cho bàn tiệc bùng lên những tiếng cười ầm ĩ, Pierre giơ cao ly rượu chào bàn tay, anh ta gào lên: "Ta uống, vì chuyến viếng thăm sắp tới của chủ ngươi", rồi mọi người nói qua chủ đề khác và một lúc sau mọi người lục tục ai về nhà người đó.

Ngày hôm sau, nhân thể đi ngang qua nhà anh ta, tôi rẽ vào chơi với anh ta một lúc, lúc đó vào khoảng hai giờ chiều, tôi thấy anh ta đang vừa đọc truyện vừa hút thuốc. Tôi hỏi:
- Chào cậu, cậu khỏe chứ?
- Rất khỏe.
- Thế bàn tay khô của cậu sao rồi?
- Bàn tay khô của tôi ấy hả, hẳn nhiên là cậu phải nhìn thấy nó rồi, vì hôm qua khi về đến nhà tôi đã gắn nó vào dây kéo chuông cửa nhà tôi. Nhân thể tôi kể cho cậu nghe, cũng hôm qua một tên đần độn nào đó, hẳn là muốn đùa nhả đến kéo chuông cửa nhà tôi ầm lên vào lúc nửa đêm; và khi tôi hỏi ai đó thì chẳng có ma nào trả lời cả. Tôi cũng chả buồn quan tâm và tôi quay lại giường đi ngủ.

Đúng lúc đó, có tiếng chuông cửa, đó là ông chủ nhà, một týp người cục mịch và thô thiển. Ông ta vào mà không buồn chào ai.
- Này ông, - Ông ta nói với bạn tôi - ông hãy bỏ ngay cái thứ hôi thối mà ông treo ở trên dây kéo chuông ở cửa phòng ông đi, nếu không tôi sẽ buộc phải hủy bỏ hợp đồng thuê nhà với ông.
- Nhưng thưa ông, - Cậu bạn Pierre trả lời với đầy vẻ nhã nhặn - ông đã xúc phạm một bàn tay mà nó không đáng bị thế, ông có biết rằng nó vốn thuộc về một người đàn ông mạnh mẽ và rất có giáo dục.
Ông chủ nhà không buồn trả lời, quay gót bỏ đi cũng đột ngột hệt như cái cách khi ông ta vào. Pierre đi theo ông ta, anh tháo cái tay ra và mang nó buộc vào cái chuông treo trong hốc cạnh giường ngủ.
- Thế này thì hơn, - Anh nói - và tôi nghĩ sự có mặt của nó ở đó sẽ như sự có mặt của một thầy tu dòng Cister - một dòng tu nổi tiếng vì sự hà khắc đối với lỗi lầm của kẻ khác, nó sẽ nhắc nhở tôi, gợi cho tôi phải có những ý nghĩ nghiêm chỉnh khi ngủ.
Khoảng một tiếng sau, tôi rời khỏi nhà anh ta và về nhà.

Đêm đó, tôi rất khó ngủ, tôi cảm thấy nóng ruột, cáu kỉnh; nhiều lần tôi giật mình thức giấc trong đêm, thậm chí có những lúc tôi tưởng như có ai đó ở trong nhà tôi khiến tôi phải bật dậy, ngó hết gầm bàn, gầm tủ, mọi xó xỉnh trong nhà. Cuối cùng vào khoảng sáu giờ sáng, khi tôi bắt đầu thiu thiu ngủ, một tiếng gõ cửa mạnh và vội vã khiến tôi bật dậy. Đó là người giúp việc của bạn tôi, quần áo xộc xệch, xanh xao và run rẩy.
- A! Ông đây rồi! - Anh ta kêu lên rồi bật khóc - Ông chủ khốn khổ của tôi đã bị người ta ám sát.
Tôi mặc vội quần áo và chạy đến nhà Pierre. Ngôi nhà đầy người, mọi người thi nhau bàn tán, bình luận, đoán già đoán non xem chuyện gì đã xảy ra...
Rất khó khăn tôi mới đến được cửa phòng ngủ, cửa vẫn đang được đóng chặt, tôi xưng tên, người ta để tôi vào. Bốn viên cảnh sát đang đứng ở giữa phòng, sổ trên tay, họ kiểm tra, thỉnh thoảng khẽ khàng trao đổi và ghi chép; hai bác sĩ đang đứng gần giường của Pierre, trên giường. Pierre nằm sõng soài, bất tỉnh. Anh ta chưa chết, nhưng sắc mặt đầy vẻ kinh hoàng, đôi mắt anh ta mở to hết cỡ, đồng tử giãn rộng có vẻ như chăm chăm nhìn vào một điều gì đó rất khủng khiếp, khó tin, kỳ lạ, những ngón tay của anh ta co quắp lại, cơ thể anh ta, kể từ cằm trở xuống được phủ kín trong một tấm ga trải giường. Tôi nhấc tấm ga trải giường ra, và tôi thấy trên cổ anh ta hằn rõ năm vết ngón tay, một vài giọt máu giây trên áo sơ-mi của anh ta. Có điều gì đó khiến tôi bỗng nhìn lên cái chuông ở hốc đầu giường của anh ta, cái tay khô không còn ở đó nữa. Hẳn các bác sĩ đã mang nó đi để không gây khiếp sợ cho những ai vào phòng của người bị thương bởi cái tay này thật sự trông rất sợ.

Hôm sau, trên báo có đăng một bài tường thuật vụ án với tất cả các chi tiết được cung cấp từ cảnh sát. Và đây là những gì người ta đã đăng:
"Một vụ ám sát khủng khiếp đã diễn ra ngày hôm qua, nạn nhân là một thanh niên trẻ tên Pierre. B, sinh viên trường Luật, con trai của một trong những gia đình danh giá nhất Normandie. Pierre trở về nhà lúc mười giờ đêm, anh than phiền với ông Bouvin, người hầu của anh, rằng anh mệt, sau đó lên giường nghỉ ngay. Vào lúc nửa đêm, ông Bouvin bị đánh thức một cách đột ngột bởi tiếng chuông phát ra từ phòng ông chủ, tiếng chuông rung lên như thể người lắc chuông lắc nó với một sự thịnh nộ khủng khiểp. Ông Bouvin cảm thấy sợ, ông đốt đèn lên và chờ đợi; tiếng chuông ngừng khoảng một phút rồi lại tiếp tục rung lên còn mạnh hơn trước khiến ông Bouvin cuống cuồng vì sợ hãi, chạy ra khỏi phòng xuống đánh thức người gác cửa, và ông này đã vội gọi ngay cho cảnh sát, mười lăm phút sau, hai nhân viên cảnh sát đã phá cửa để vào được phòng. Một cảnh tượng kinh hoàng bày ra trước mắt mọi người, đồ đạc bị hất đổ lung tung chứng tỏ đã có một cuộc vật lộn ghê gớm giữa nạn nhân và kẻ sát nhân.
Giữa phòng, Pierre nằm ngửa, chân tay cứng đờ, mặt tái mét, mắt mở to hết cỡ đầy vẻ kinh hoàng; trên cổ hằn sâu năm vết ngón tay. Theo báo cáo của bác sĩ Bourdeau, người ngay lập tức đã được mời đến khám nghiệm tử thi, thì kẻ sát nhân phải có một sức khỏe siêu phàm và có một bàn tay gầy gò, khỏe một cách kỳ lạ, bởi vết những ngón tay để lại hằn sâu như lỗ bi trên da thịt nạn nhân. Không ai biết động cơ của kẻ giết người là gì, và cũng chưa có một manh mối gì về kẻ giết người. Cảnh sát đang tiếp tục điều tra".

Hôm sau nữa, cũng trên tờ báo đó:
"Pierre, nạn nhân của vụ án khủng khiếp mà chúng tôi đã đưa tin ngày hôm qua, đã tỉnh lại sau hai giờ điều trị tận tâm của bác sĩ Bourdeau, nạn nhân đã qua cơn nguy kịch nhưng trí não của anh ta bị chấn động mạnh và có khả năng không hồi phục lại được, cảnh sát vẫn chưa có một chút manh mối nào về kẻ phạm tội".
Thật vậy, cậu bạn tội nghiệp của tôi đã phát điên; trong suốt sáu tháng, ngày nào tôi cũng vào bệnh viện thăm anh ta, nhưng bệnh điên của anh không có vẻ gì thuyên giảm. Như mọi người điên khác, anh ta tin chắc rằng có một bóng ma đang bám riết lấy anh ta, trong cơn mê sảng, anh thường nói những điều rất lạ lùng.

Một hôm có người chạy đến tìm tôi và báo cho tôi rằng bệnh tình của anh ta đang rất nguy kịch, khi tôi đến thì anh ta đang hấp hối.
Trong suốt hai tiếng đồng hồ, anh nằm thiêm thiếp, rồi đột nhiên, anh ta ngồi bật dậy, vừa kêu vừa khua hai tay lên như thể chống chọi với một kẻ nào đó rất đáng sợ: "Giữ nó đi! Giữ nó đi! Hắn bóp cổ tôi, cứu tôi với! Cứu tôi với!" Anh ta chạy hai vòng quanh phòng, vừa chạy vừa gào thét, rồi ngã gục xuống, mặt úp xuống đất, chết ngay lập tức.
Anh ta không có người thân ở đây và bởi tôi cùng quê với anh ta nên tôi phải lãnh trách nhiệm đưa thi hài anh về ngôi làng nhỏ ở vùng Normandie, nơi bố mẹ anh cũng được chôn tại đó. Đó cũng chính là nơi mà từ đó anh ta đã đến thẳng nhà Louis để uống rượu cùng chúng tôi, và khoe về bàn tay khô.
Thi hài của anh ta được đặt trong một chiếc quan tài bằng chì, chuyến đi kéo dài suốt bốn ngày, đi theo hộ tống quan tài chỉ có tôi và một vị linh mục già, người sẽ đọc kinh cầu siêu cho anh ta khi hạ huyệt.
Hôm đó là một ngày đẹp trời, bầu trời xanh thẳm với những đám mây trắng lũng lờ trôi, chim hót véo von trong những cây ngấy ở triền dốc. Nơi đó, thuở thơ bé, biết bao lần tôi và Pierre đã đến hái quả ngấy chín về ăn.
Tôi còn như thấy rõ bóng anh ta lẻn qua hàng rào bằng một lỗ nhỏ ở hàng rào mà chúng tôi biết rất rõ, sát cạnh rẻo đất mà người ta chôn những người đã chết. Rồi chúng tôi về nhà, môi và má đen xì vì dính nhựa quả ngấy; tôi nhìn lên hàng cây ngấy, chúng trĩu qua; một cách máy móc, tôi với lấy một quả và cho vào miệng.

Ông linh mục mở quyển Kinh và bắt đầu lầm rầm cầu nguyện cho Pierre. Tôi nghe thấy những nhát cuốc đầu tiên của những người phu đào mộ. Đột nhiên, họ gọi chúng tôi, vị linh mục đóng quyển sách của ông lại, và chúng tôi đi ra xem họ cần gì. Hóa ra họ đã đào phải một quan tài. Bằng một nhát cuốc, họ phá tung nắp ván thiên và lộ ra trước mắt chúng tôi một bộ xương rất dài, nằm ngửa, hốc mắt sâu hoắm của bộ xương như đang nhìn chằm chằm vào chúng tôi đầy thách thức. Tôi bỗng cảm thấy ngạt thở, không hiểu tại sao nhưng tôi bỗng cảm thấy sợ.
- Xem này, - Một người kêu lên - tên khốn này còn bị chặt tay cơ, và đây là tay của hắn.
Và anh ta nhặt lên một bàn tay khô đét được đặt cạnh bộ xương lên cho chúng tôi xem.
- Này, - Một người khác vừa nói vừa cười - nó đang nhìn mày đấy và nó sắp nhảy lên bóp cổ mày để đòi lại cái tay của nó bây giờ.
- Thôi nào các bạn, - Ông linh mục nói - hãy để cho người chết được yên, bây giờ hãy đóng quan tài lại cho người này và chúng ta sẽ tìm chỗ khác cho Pierre khốn khổ.

Hôm sau việc chôn cất đã xong xuôi, tôi lên đường trở về Paris sau khi để lại năm mươi frăng nhờ ông linh mục già đọc kinh cầu siêu cho người đàn ông mà chúng tôi đã vô tình phạm vào mộ phần của anh ta.
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeWed Jun 26, 2019 3:39 pm

.
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  2Q==

Mái tóc

- Guy de Maupassant (1850-1893)


Những bức tường nhà thương điên hoàn toàn trần trụi, chỉ được sơn một lớp vôi. Một cái cửa sổ hẹp có song sắt, và được đặt tít trên cao để người điên không thể với tới được, chiếu vào trong căn phòng bé tí một ánh sáng buồn thảm; người điên ngồi trên một chiếc ghế rơm nhìn chúng tôi bằng một con mắt bất động, lơ đãng đầy ám ảnh. Anh ta rất gầy, hai má hõm sâu, tóc anh ta gần như bạc hết, với độ tuổi đó người ta có thể đoán tóc anh ta mới chỉ bạc trắng ra như thế trong vòng một vài tháng. Quần áo anh ta đang mặc trên người có vẻ quá rộng với chân tay lòng khòng toàn xương, với bộ ngực mỏng, với cái bụng lép kẹp của anh ta.

Người ta cảm thấy người đàn ông này, đang suy kiệt gầy mòn đi vì chính những suy tưởng, ngẫm ngợi, như thể một quả tươi đang bị hỏng thối vì sâu đục khoét bên trong. Sự điên cuồng của anh ta, những ý tưởng trong cái đầu khăng khăng ngoan cố của anh ta đang gậm mòn anh ta, đang đục ruỗng anh ta, đang vò xé anh ta, từng chút, từng chút một.
Nó là vô hình, không thể sờ thấy được, không thể nắm bắt được, không thể kiểm soát được, cái suy nghĩ phi vật chất, nó gặm mòn thịt xương, hút kiệt máu, hút kiệt nhựa sống, làm người ta chết mòn.
Huyền bí làm sao khi Sự suy nghĩ giết chết một con người! Người có suy nghĩ như thế mới khốn khổ làm sao, đáng thương làm sao, đáng sợ làm sao! Những giấc mơ kỳ lạ nào, đáng sợ nào, gây chết người nào, đang tồn tại trong vầng trán này, khiến cho vầng trán này hằn lên những nếp nhăn sâu, không ngừng thay đổi?
Bác sĩ nói với tôi: "Anh ta có những cơn thịnh nộ vô cùng tệ hại, đó là một trong những trường hợp kỳ lạ nhất mà tôi đã từng thấy. Anh ta mắc chứng điên tình rùng rợn. Một loại bệnh loạn dâm tử thi. Mặt khác những gì anh ta đã viết lại trong nhật ký, đã chỉ cho chúng ta thấy một cách rõ ràng tâm bệnh của anh ta. Sự điên rồ của anh ta, trong trường hợp này cũng có thể nói rằng đó là kết quả hiển nhiên. Nếu ông quan tâm, ông có thể đọc tài liệu này". Tôi theo ông bác sĩ vào phòng làm việc, và ông đưa cho tôi quyển nhật ký của người đàn ông khốn khổ. "Ông hãy đọc đi, - Bác sĩ nói - và hãy cho tôi biết ý kiến của ông".

Đây là tất cả những gì được viết trong tập nhật ký đó:
"Cho tới năm ba mươi hai tuổi, tôi sống bình lặng không tình yêu. Cuộc sống với tôi thật vô cùng đơn giản, vô cùng tốt đẹp và dễ chịu. Tôi đủ tiền tiêu dùng, để không phải lo tới việc kiếm sống, tôi có sở thích riêng, tôi có thú vui riêng, cuộc sống của tôi thật êm đềm bình lặng! Mỗi sáng tôi thức giấc một cách vui vẻ để làm những công việc ưa thích của tôi, và mỗi tối, tôi lên giường đi ngủ đầy hài lòng, yên tâm về một ngày mai thanh bình, tốt đẹp không âu lo.
Tôi đã trải qua một vài mối tình, nhưng chẳng một cô nhân tình nào khiến tôi cảm thấy con tim mình điên lên vì nhung nhớ thương yêu. Tôi cứ sống như vậy cho tới một ngày tình yêu đã tìm đến tôi một cách khó tin. Và tôi đã yêu một cách si mê, một cách điên dại và tôi tin những người đã từng yêu một con người hẳn cũng có cùng cảm giác như tôi.
Tôi có thú sưu tập đổ cổ, tôi thường nghĩ đến những bàn tay xa lạ từng sờ lên những đồ vật đó, những đôi mắt đã từng chiêm ngưỡng chúng, những tấm lòng đã từng yêu mến, quyến luyến chúng, bởi thường người ta hay yêu mến quyến luyến đồ đạc của mình. Tôi đã ngồi hàng giờ, hàng giờ để ngắm nghía một chiếc đồng hồ đeo tay xinh xắn thời trước. Nó rất nhỏ nhắn xinh xắn với những hình chạm tinh xảo. Người phụ nữ đã mua được nó hẳn ngày ngày đi dạo cùng nó với một niềm vui, một niềm tự hào đã được sở hữu một đồ vật tinh xảo đến thế. Nó chưa bao giờ ngừng đập, ngừng sống, nó luôn chạy tíc tắc, tíc tắc, một cách đều đặn suốt một thế kỷ nay. Ai là người đầu tiên đã đeo nó trên da tay mềm ấm, ai là người đã đeo nó dưới lớp tay áo lụa mềm mại, mịn màng? Tim nó hẳn đã đập theo nhịp tim người phụ nũ đeo nó? Ngón tay ấm mềm nào đã ngày ngày vặn cót đồng hồ một cách âu yếm? Đôi mắt nào đã ngày ngày nhìn ngắm đợi chờ đến giờ hẹn, đến giờ đón người yêu?

Tôi ao ước được biết cô gái, được nhìn thấy cô gái đó biết bao nhiêu, người con gái đã chọn được một đồ vật tao nhã quý hiếm đến thế! Nàng ấy đã chết! Tôi tin thế và tôi bị ám ảnh bởi mong muốn có được người con gái thuở xưa ấy; Tôi yêu tất cả những cô gái thuở trước đã từng yêu! Những chuyện phấn son, tình ái, âu yếm xa xưa khiến tôi thấy mủi lòng. Ôi! Sắc đẹp, nụ cười, những vuốt ve âu yếm, thanh xuân, những hy vọng... tất cả những điều đó sao không thể trở nên bất tử!
Tôi đã khóc ròng bao đêm, than tiếc cho những cô gái thuở xưa, đẹp đến thế, ân cần âu yếm đến thế, ngoan hiền đến thế, những vòng tay của các nàng đó hẳn từng dang rộng để ôm người họ yêu, họ từng ban tặng cho những người họ yêu một nụ hôn và họ chết! Nụ hôn bất tử, nó đến từ đôi môi này đến đôi môi khác, từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, từ thời đại này đến thời đại khác. Con người tiếp nhận chúng, trao chúng cho người khác và chết.
Quá khứ thu hút tôi, hiện tại khiến tôi lo sợ bởi tương lai là cái chết. Tôi tiếc cho tất cả những gì đã qua, tôi khóc cho tất cả những ai từng sống; tôi muốn ngừng thời gian lại, ngừng giờ khắc lại. Nhưng thời gian cứ trôi, cứ trôi, cứ qua đi. Mỗi phút, mỗi phút thời gian lại lấy đi chút gì đó của tôi hôm nay để làm tiêu tan nó vào ngày mai. Và tôi không bao giờ muốn sống lại nữa.
Vĩnh biệt những cô gái của quá khứ. Tôi yêu các cô.
Thế nhưng tôi không bao giờ trở nên đáng thương vì tôi đã tìm thấy cô ấy, chính cô ấy, người con gái mà tôi đã chờ đợi bấy lâu nay. Tôi đã được thưởng thức niềm hạnh phúc vô bờ khó tin đó nhờ có nàng.

Một sáng đầy nắng, tôi lang thang trên các đường phố Paris, tâm hồn tràn ngập niềm vui, chân nhịp bước đầy vui vẻ, vừa đi vừa nhìn các cửa kính, hòa trong đoàn người đang dạo chơi trên phố. Bỗng nhiên tôi nhìn thấy một chiếc tủ gỗ kiểu Ý thuộc thế kỷ thứ mười bảy trong một cửa hàng bán đồ cũ. Nó rất đẹp, rất hiếm. Tôi tin một nghệ sĩ người Áo, một người rất nổi tiếng là tác giả của đồ vật tinh xảo này.
Tôi đi qua.
Thế nhưng hình ảnh của chiếc tủ gỗ đó cứ đeo đẳng tôi đến nỗi mỗi bước chân tôi lại nghĩ đến nó, tưởng tượng đến nó. Tôi lại quay bước trở về trước cửa hàng đó để ngắm lại nó và tôi có cảm tưởng như nó đang cám dỗ tôi.
Sự cám dỗ của một đồ vật mới kỳ lạ làm sao! Ta ngắm nhìn một đồ vật, dần dần nó cám dỗ ta, nó làm ta bối rối, nó xâm chiếm tâm can ta như thể khuôn mặt một cô gái, vẻ đẹp của nó đi vào lòng ta, vẻ đẹp lạ thường có được từ hình dạng, từ màu sắc, từ chất liệu của đồ vật; thế là ta thích nó, ta ham muốn nó, ta muốn có nó. Một nhu cầu được sở hữu nó xâm chiếm ta, mới đầu chỉ là một cảm giác thích thích rồi nó cảm giác đó cứ lớn dần lên, trở thành một ham muốn, một đòi hỏi không thể cưỡng lại được.
Càng ngắm, càng nhìn tôi lại càng mong được có nó, được sở hữu nó.
Tôi đã mua chiếc tủ gỗ đó và tôi mang ngay nó về nhà. Tôi đặt nó trong buồng ngủ.
Ôi! Tôi ái ngại cho những ai không biết đến tuần trăng mật của những kẻ sưu tập với một đồ sưu tập đẹp, quý, hiếm mà người đó vừa mua được. Người đó nhìn nó, ngắm vuốt nó như thể nó được làm bằng xương bằng thịt vậy; chốc chốc người đó lại đi lại gần nó để ngắm nghía nó. Cho dù đi đâu, làm gì người sưu tập đó cũng nghĩ đến nó.
Hình ảnh đẹp của nó sẽ theo người đó ra phố, ra chợ, theo vào rạp hát, vào hội chợ, theo người đó đi khắp mọi nơi. Và ngay khi về đến nhà, thậm chí còn chưa kịp cất mũ cất khăn người đó đã vội lao ngay tới rồi lặng ngắm đầy trìu mến đồ vật thân yêu đó của mình.
Tôi cũng như người sưu tập đồ đó, trong suốt tám ngày, tôi say mê biết mấy cái tủ này. Mỗi lúc tôi lại mở cánh nó ra, mở các ngăn kéo của nó ra; tôi sử dụng nó với một cảm giác vui thích, nhấm nháp niềm vui sâu kín được sở hữu nó.

Một tối, khi sờ độ dày của tấm đế, tôi nhận thấy có một ngăn bí mật. Tim tôi đập rộn lên, tôi mất cả một đêm tìm ra điều bí mật mà không thể khám phá ra được.
Hôm sau tôi dùng một lưỡi dao mỏng lùa vào khe gỗ, một tấm ván bật ra, trải ra trên đáy hộc lót nhung đen là một mái tóc tuyệt đẹp của phụ nữ.
Vâng, một mái tóc, một mái tóc dài, dày, vàng óng hơi ngả sang đỏ. Ta có thể đoán mái tóc đó được cắt sát da đầu và được buộc lại bằng một sợi dây vàng.
Tôi đứng lên, sửng sốt, run rẩy, khó hiểu! Một mùi hương rất nhẹ, gần như không thể cảm nhận được bay ra từ ngăn bí mật và từ mái tóc được cất giấu.
Tôi cầm mái tóc lên rất nhẹ nhàng, gần như là thành kính, và tôi định luồn nó trở vào ngăn bí mật. Ngay khi nó vừa được cầm lên, cả một suối tóc đổ dài đến tận đất, suối tóc dày và nhẹ, mềm mại, rực rỡ như đuôi lửa của một ngôi sao chổi.
Một cảm giác rất lạ xâm chiếm người tôi. Đó là gì nhỉ? Khi nào? Như thế nào? Tại sao mái tóc này lại được giấu trong cái tủ này? Cuộc phiêu lưu tình ái nào? Mối bi kịch nào che giấu sau kỷ vật này? Ai đã cắt mái tóc này? Một tình nhân, trong ngày vĩnh biệt? Một người chồng, vào ngày trả thù? Hay chính cô gái ấy đã tự cắt nó, trong một ngày tuyệt vọng?
Phải chăng vào đúng giờ cô gái nhập tu viện mà người ta đã đặt vào đó kỷ vật tình yêu như một bằng chứng để lại trên thế giới này? Phải chăng vào giờ đóng đinh quan tài người tình trẻ xinh đẹp yểu mệnh mà người yêu của cô, người si mê cô, đã giữ lại món đồ trang sức quý giá đẹp đẽ làm duyên cho mái đầu cô, vật duy nhất anh ta có thể giữ lại được từ cô, phần cơ thể sống duy nhất không bị phân hủy thôi rữa, phần duy nhất, anh ta vẫn còn có thể yêu, vuốt ve trìu mến, hôn lên nó trong cơn đau xé lòng?
Chẳng lấy gì làm lạ rằng mái tóc này vẫn nguyên si như thế, trong khi cái cơ thể từng nuôi nó, chăm bón cho nó vừa dài vừa dày đến thế đã tan rữa, không còn lấy một mẩu nguyên vẹn.
Các sợi tóc trôi trên ngón tay tôi, mềm mại trên da tôi, kích thích tôi bằng một sự mơn trớn đặc biệt, sự mơn trớn chết chóc. Tôi cảm thấy mủi lòng đến mức suýt khóc.
Tôi giữ mái tóc trên tay rất lâu, rồi tôi cảm thấy nó động đậy trong tay tôi, như thể có một linh hồn nương náu ở trong. Tôi để mái tóc lên tấm nhung đã bạc màu vì thời gian, tôi đóng ngăn lại, đóng tủ lại, và tôi ra phố đi dạo để mơ mộng.
Tôi đi dạo với một tâm trạng vừa buồn vừa bối rối, một cảm giấc bối rối mà người ta hay có sau một cái hôn yêu đương. Tôi có cảm tưởng tôi đã từng sống ở kiếp trước và tôi đã từng quen cô gái có mái tóc vàng hung dó.
Khi về đến nhà, tôi không sao cưỡng được mong muốn vào xem lại vật kỳ lạ tôi đã tìm thấy đó; khi cầm nó lên, khi chạm vào nó tôi cảm thấy một cơn rùng mình xuyên suốt người tôi.

Tuy thế nhưng vài ngày sau đó tôi vẫn giữ được trạng thái bình thường như mọi khi tuy những suy nghĩ về mái tóc đó không hề rời tôi một lúc nào nữa.
Mỗi khi đi đâu về, việc đầu tiên tôi làm là chạy ngay vào buồng ngủ, bằng những ngón tay run rẩy tra chìa khóa vào tủ, như thể một người tình run rẩy vội vàng tra chìa khóa mở cửa phòng mà người yêu anh ta đang đợi bên trong. Trong tôi luôn có một hối thúc kỳ lạ, khó hiểu, một ham muốn xác thịt được luồn tay vào suối tóc đẹp mềm mại thơm tho của người con gái đã chết đó.
Rồi khi tôi thôi không vuốt ve nó nữa, khi tôi đóng tủ lại, tôi lại cảm thấy nó như thể nó là một người sống, bị che giấu, bị cầm tù đang buồn bã cô đơn trong tủ; tôi lại cảm thấy một thôi thúc mong muốn được vuốt ve nó; tôi lại có nhu cầu cấp thiết được cầm lại nó, được sờ nắn nó. Rồi tôi cảm thấy phát bực, thấy khó chịu vì sự tiếp xúc lạnh lẽo, trơn tuột, phát bực, phát hoảng, nhưng cũng rất thú vị.
Tôi sống như thế trong hai hoặc ba tháng gì đó, tôi cũng không biết nữa, Cô gái ấy ám ảnh tôi. Tôi vừa hạnh phúc vừa khổ sở như thể một người đang yêu mà không dám tỏ bày, mong muốn siết chặt người yêu vào lòng mà không dám nói.
Tôi tự nhốt mình trong phòng cùng cô ấy để cảm thấy cô ấy trên da thịt mình, để áp chặt môi lên trên mái tóc, để ôm, để hôn, để cắn nó. Tôi cuốn nó quanh mặt mình, tôi ngậm nó vào mồm, tôi vùi mặt vào trong làn sóng tóc, nhìn mọi vật hung vàng qua làn sóng tóc vàng hung.
Tôi yêu nó! Vâng tôi yêu nó. Tôi không thể không cần tới nó nữa, tôi không thể ở đâu một giờ đồng hồ liền mà không nhìn thấy nó. Tôi đợi... tôi đã đợi... đợi gì nhỉ? Tôi không biết nữa?
- Nó.
Một đêm tôi giật mình thức giấc, tôi có cảm tưởng không chỉ có mình ở trong phòng.
Tuy nhiên chỉ có mỗi mình tôi trong phòng. Nhưng tôi không sao ngủ lại được; và bởi tôi bồn chồn vì mất ngủ, tôi dậy để đến lấy mái tóc ra, để vuốt ve nó. Đêm đó nó còn có vẻ mềm mại dịu dàng hơn cả ngày thường, và nó cùng có vẻ sống động hơn. Phải chăng linh hồn người đã chết hiện về? Những nụ hôn của tôi đã làm ấm nó lên, không muốn đặt nó về chỗ cũ nữa, tôi mang nó về giường mình, tôi lên giường ngủ lại, vừa ngủ vừa áp nó vào môi như thể áp môi vào da thịt người con gái mà người ta sắp sửa có được, sắp sửa chiếm hữu được.

Người chết đã hiện về! Cô ấy đã đến. Vâng, tôi đã nhìn thấy nàng, tôi đã chạm được vào nàng, tôi đã có nàng, nàng cao, tóc vàng, tròn lẳn, ngực nhỏ rắn chắc, hông nở; tôi đã nhìn đầy âu yếm toàn bộ dáng hình quyến rũ tuyệt vời với những đường cong mê hồn đó.
Vâng tôi đã có nàng suốt đêm suốt ngày. Đêm nào nàng cũng đến, người phụ nữ đã chết, người con gái đã chết đẹp mê hồn, người đáng được chiêm ngưỡng, đáng được tôn thờ, con người bí ẩn, xa lạ.
Niềm hạnh phúc vô bờ bến của tôi to lớn đến mức tôi không thể che giấu mãi được. Tôi cảm thấy một niềm vui siêu nhiên, một hạnh phúc sâu sắc, không thể giải thích được vì tôi đã có được nàng, có được một vật thể không thể nắm bắt được, không thể nhìn thấy được, cái chết! Không một người đang yêu nào có thể thưởng thức những lạc thú điên cuồng, nồng nhiệt, khát khao, dữ dội nhưng cũng đầy đau khổ đó!
Tôi không thể giấu đi niềm hạnh phúc của mình. Tôi yêu nàng đến nỗi tôi không muốn rời nàng ra nữa. Tôi mang nàng đi khắp nơi cùng tôi. Tôi đưa nàng cùng đi dạo trên khắp phố phường như một người chồng khoác tay vợ đi dạo, tôi đưa nàng đến nhà hát, đưa nàng vào ngồi trong những lô (1) sang trọng nhất, như thể đưa người tình bé nhỏ đi chơi... Nhưng người ta đã nhìn thấy nàng... người ta đã đoán ra... người ta cười tôi, cười nàng... Rồi họ ném tôi vào tù như một kẻ thần kinh. Người ta lấy nàng đi... Ôi, bất hạnh làm sao!"

Tập nhật ký dừng ở đó. Đột nhiên, khi tôi ngẩng đầu lên nhìn ông bác sĩ, một tiếng kêu thống thiết, một tiếng gào điên dại, đầy bất lực, một tiếng hét thảm thiết vang vọng khắp nhà thương điên.
"Ông nghe anh ta đấy - Ông bác sĩ nói - chúng tôi phải trị liệu bằng liệu pháp vòi sen cho tên điên dại dâm dục này năm lần mỗi ngày. Vậy là không chỉ có viên đội Bertranđ yêu những xác chết" (2).
Tôi lúng búng, quá xúc động vì ngạc nhiên, vì kinh hoảng, vì thương cảm: "Nhưng... mái tóc... nó có tồn tại thật không?"
Bác sĩ đứng lên, mở cánh tủ đầy chật những lọ thủy tinh và những dụng cụ, và ông ném qua bàn làm việc một dải tóc, vàng dài bay về phía tôi như một con chim vàng.

Tôi chợt rùng mình khi chạm tay vào suối tóc mềm mượt đó. Trong tôi lẫn lộn hai cảm giác, vừa ghê ghê vừa thèm muốn, ghê ghê như thể tôi chạm vào một hung khí đã từng gây tội ác, thèm muốn như đứng trước sự cám dỗ của một vật đáng bị lên án và bí hiểm.
Ông bác sĩ vừa nhún vai vừa nhắc lại:
"Sự tưởng tượng của con người thật là vô cùng".

----------------
1 Lô: trong rạp hát có những khoang kín mà người ta có thể kéo một loại rèm thưa như lưới mắt cáo để những khán giả khác không nhìn thấy họ.
2 Viên cảnh sát đã bị kết án năm 1849 trong một vụ án nổi tiếng thời đó vì tội hiếp dâm một xác chết.
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeFri Jul 05, 2019 9:28 am

.
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Truyenma3

BÓNG NGƯỜI DƯỚI VỰC SÂU
- Người Khăn Trắng


Trong đợt đi công tác tại tỉnh T… khoảng 10 giờ đêm, khi xe của chúng tôi chuẩn bị qua cầu, bất chợt xe bị gẫy láp. Thế là phải dừng lại để sửa. Cư, cậu lái xe ngán ngẩm:
- Xe cũ quá rồi. Lần nào qua cầu sông Mây này cũng bị hư, kỳ lạ thật!
Anh Hồng, người cùng đi với tôi, là dân thổ địa nơi đây cười.
- Xe qua cầu, chở nặng hỏng là thường, có gì lạ đâu. Thôi ta ra khỏi xe hít thở không khí một ít.

Tôi nhảy xuống xe cùng anh, thong thả tản bộ. Trời khuya lạnh lẽo, tiếng chim ăn đêm kêu lảnh lót. Sương mờ mờ, ánh trăng yếu ớt xuyên qua màn sương. Bất chợt tôi nhìn thấy một bóng áo trắng lướt qua. Tôi rùng mình, anh Hồng bảo:
- Cậu lạnh phải không? Mặc thêm áo vào, miền cao này gió lam khí chướng độc lắm đấy.
Tôi run giọng:
- Hình như có bóng áo trắng lướt qua. Kìa! Nó đang ở dưới chân cầu kìa. Anh có thấy không?
Anh Hồng bật cười:
- Cậu khéo tưởng tượng quá. A, mà ở đây có ma quỷ là chuyện bình thường vì ngày xưa đây là bãi chiến trường.
Cư xen vào:
- Chắc là con Hạnh và thằng Tú hiện về chứ gì? Ngày nào chúng nó chẳng nhát tụi em.
Anh Hồng ngạc nhiên:
- Con Hạnh và thằng Tú nhảy cầu chết ấy à? Tớ nghe nói chúng nó chuẩn bị làm đám cưới kia mà.
- Chúng chết lâu chưa?
Cư cười khì:
- Đã ba năm rồi, anh ở trên tỉnh đâu có biết gì? Kia kìa, chúng nó đang cười sằng sặc, múa hát ầm ĩ, ai yếu bóng vía là chết ngay với chúng.
Tôi hỏi:
- Cư có vẻ rành câu chuyện này quá. Cậu kể cho tớ nghe với.
Cư gật đầu:
- Hai đứa nó là hàng xóm với nhau. Yêu nhau tha thiết cha mẹ chúng nó ngăn cấm vì hai bên gia đình có ân oán với nhau vì chuyện gì thì không biết. Chúng nó lén lút nhau ra rẫy hẹn hò. Bị bắt quả tang. Thế là bị gọt đầu bên suối. Con Hạnh nhục quá ra cầu Mây nhảy xuống tự tử. Thằng Tú cũng vậy linh hồn không siêu thoát nên hiện ra chọc ghẹo mọi người. Cả hai gia đình rất ân hận nhưng muộn quá rồi.
Anh Hồng chép miệng:
- Tội nghiệp chúng nó quá nhỉ. Thế không ai lập cho chúng cái miếu để chúng có chỗ nương thân.
Cư cười:
- Lập miếu, rồi mời cả pháp sư nữa, nửa đêm ra cúng. Nhưng đến hôm sau, lão pháp sư sợ quá, bỏ nghề luôn, bây giờ điên khùng nằm ở nhà.
Tôi bảo:
- Thế ta xuống với chúng nó, thắp nén nhang gọi là lòng thành. Biết đâu gặp người có lòng, chúng sẽ không quậy phá chúng ta nữa.
Cư tròn mắt:
- Anh liều thế. Coi chừng nó dụ anh xưống nước chết chung với chúng nó đấy.
Tôi cười:
- Xưa nay chỉ có ma sợ người, chứ làm gì có người sợ ma. Nào, ta đi!
Cả ba chúng tôi bỏ xe rọi đèn pin xuống cầu. Tôi nghe có tiếng thì thào.
- Nào! Xuống đây với em. Em đang ở đây này.
Tôi như người mất hồn, cứ theo bóng áo trắng là là bay. Nhưng rồi, một cú giật mạnh khiến tôi tỉnh lại. Anh Hồng đang níu chặt tay tôi, nói không ra hơi.
- Cậu nhìn kìa, chút nữa thì rơi xuống vực. Thôi, mau lên ngay.

Tôi tỉnh lại, vội vã nhìn xuống. Trời ơi, chỉ chút nữa là tôi đặt một chân xuống vực. Hú vía, mà cái bóng trắng kia cứ giơ tay vẫy gọi mãi. Tôi lủi thủi bước lên cầu, cả ba chúng tôi ngồi trong xe chờ trời sáng.
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeSat Jul 13, 2019 11:18 am

.
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Images?q=tbn:ANd9GcSWNwk_ojVZgBojdU6EBwp9HmY09sdCI9GkTGBPRLznrqtMzBy0

Bóp da ma quái
- Người Khăn Trắng


Ông Nhuận đi công chuyện ở miền cao, mua tặng vợ một cái bóp da rất đẹp. Cái bóp này được làm bằng da kỳ đà. Bà chủ cửa hàng xởi lởi:
- Đây là cái bóp rất đặc biệt, ở cửa hàng tôi chỉ còn có một cái duy nhất. Nó được làm bằng da kỳ đà.
Ông Nhuận săm soi cái bóp thật kỹ rồi đồng ý mua. Sau đó ông bỏ trong xăm-xô-nai rồi lên xe về phố. Ông đưa cho vợ chiếc bóp, bà vợ phấn khởi:
- Ôi cái bóp đẹp quá. Em rất thích. Cám ơn anh!
Bà vợ ôm ông hôn chùn chụt. Rồi đem đồ đạc bỏ vào trong bóp... Bạn bè bà nhìn cái bóp ai cũng trầm trồ khen cái bóp đẹp và có cái gì đó kỳ ảo...

Cái bóp rất bóng, da sáng loáng, có thể soi gương được. Một lần bà nhìn thấy một gương mặt con gái lạ trong cái bóp da. Bà ngỡ mình hoa mắt, khi định thần lại thì không thấy gì cả... Nhưng điều đó cũng không quái gở bằng có lần nửa đêm bà thấy có một bàn tay từ trong cái bóp thò ra. Bàn tay búp măng. Bà vã mồ hôi hột. Sự sợ hãi khiến bà lặng người đi. Tại sao lại có hình ảnh cô gái và bàn tay búp măng như vậy. Phải chăng cái bóp này là cái bóp ma quái?
Bà kể lại với chồng. Ông chồng cười:
- Bà thì cứ tưởng tượng. Làm gì có chuyện ma quái ở đây.
Nhưng rồi khi chứng kiến tận mắt ông cũng rụng rời tay chân. Ông bảo:
- Thôi, đem đốt cái bóp đi. Nó là ma quỷ chứ không phải người. Ta đã bị bà bán hàng lừa rồi.
Vợ ông cằn nhằn:
- Mua thì phải lựa chọn, ai lại mua cái bóp cũ bao giờ? Biết đâu người ta lấy cái bóp này từ nghĩa địa thì sao?
Ông Nhuận buồn buồn:
- Hay hôm nào anh đem trả lại cho bà ấy, rồi lấy lại tiền.
Bà vợ trố mắt:
- Anh điên à? Cái bóp chỉ có trăm ngàn bạc, mà từ đây lên miền núi cả mấy trăm cây số... Thôi, tốt nhất là đem đốt nó đi!

Nói rồi, bà định bật nắp bếp ga, quẳng cái bóp lên đó. Bất chợt bàn tay trong bóp thò ra nắm chặt tay bà, rồi có tiếng người rên rỉ:
- Bà chủ, bà đừng sợ. Tôi vì chết thảm nên hiện ra nhờ bà giúp đỡ. Tôi là Thùy Lâm, nhà ở đường Hoa Hạ phố núi. Ông bà chủ hãy tìm đến địa chỉ đó, mọi việc sẽ rõ, cha mẹ tôi sẽ biết ơn ông bà chủ.
Bà Nhuận bủn rủn tay chân, lắp bắp:
- Thế ra cô là hồn ma à? Tại sao cô không hiện ra với bà chủ cửa hàng đã bán hàng cho tôi? Cô mau buông ra, tôi sẽ làm theo ý cô.
Hồn ma nức nở:
- Bà ta là đầu mối của tội ác. Tôi đã định bóp cổ bà ta để trả thù.
Ông Nhuận tò mò:
- Như thế bà ta là thủ phạm gây nên cái chết cho cô à? Nào cô nói cô tên gì?
Hồn ma nức nở:
- Tôi đã nói rồi. Tôi là Thùy Lâm, hai mươi tuổi. Tôi đi dự đám cưới, lúc đi ngang qua khu rừng vắng thì bị hai tên cướp bịt mặt thay nhau hãm hiếp và giết chết tôi, rồi chôn xác tôi ở gốc cây sao trong rừng. Vì tôi chống cự quyết liệt, lật được chiếc mặt nạ của một tên, nó là thằng Trọng con bà chủ cửa hàng bán bóp da. Thằng Trọng tức giận, chặt bàn tay tôi rồi bỏ trong chiếc bóp đó. Còn thằng kia đâm tôi chết.
Ông Nhuận tức giận:
- Bọn chúng thật khốn nạn. Nhưng sao cái bóp lại ở chỗ bà chủ cửa hàng được?
Thùy Lâm kể:
- Cái bóp da này là báu vật của bà ngoại tôi truyền lại cho mẹ tôi và mẹ tôi cho tôi. Nó càng dùng lâu càng bóng như mới. Nó làm bằng loại da kỳ đà. Bọn chúng sau khi chôn tôi xong, tiếc cái bóp nên đem rửa sạch máu, bán lại cho bà chủ. Bà chủ tiệm cũng không hỏi han gì, đem trưng bày như đồ cổ. Được hai hôm thì ông đây mua nó, ba mẹ tôi hoàn toàn không biết gì về cái chết của tôi. Họ đi tìm tôi khắp nơi. Tôi đã báo mộng cho ông bà, nhưng ông bà không thấy. Vì không phải ai cũng thấy ma cả.
Ông Nhuận sửng sốt:
- Và vì vậy cô mới hiện ra ở nhà tôi?
Thùy Lâm đau đớn:
- Đúng vậy nhờ có ông bà mà tôi mới có cơ may trả thù. Tôi hận hai kẻ sát nhân đến tận xương tủy. Ông bà mau giúp tôi với. Sau này, tôi sẽ có dịp trả ơn ông bà.
Ông Nhuận gật đầu:
- Được rồi! Rồi sẽ làm theo ý cô.
Vợ ông Nhuận cũng rối rít:
- Ông mau đi ngay. Tôi sợ lắm rồi... Mà cô Thùy Lâm ơi, cô đừng có xuất hiện nữa, chúng tôi sẽ làm theo lời cô đó.
Thùy Lâm biến vào trong cái bóp da. Ông Nhuận vội vã lên đường.

Suốt một ngày vất vả, ông có mặt tại phố núi vào lúc trời chạng vạng tối. Ông hỏi địa chỉ ông bà Liêu và có mặt tại đó. Ông bà Liêu tò mò:
- Ông cần gặp chúng tôi à? Có việc gì thế? Tôi chưa hề quen ông.
Ông Nhuận giới thiệu:
- Tôi là Nhuận, một lữ khách tình cờ qua phố núi và được gặp cô Thùy Lâm. Cô ấy nhờ tôi nhắn lại với ông bà một chuyện.
Ông bà Liêu rú lên:
- Thùy Lâm! Đó là con gái chúng tôi. Nó mất tích cả tuần nay, chúng tôi đang rất lo sợ. Thế con gái chúng tôi nó đang ở chỗ ông à? Ông mau cho chúng tôi gặp.
Ông Nhuận bần thần:
- Cô ấy chết rồi! Hồn cô ấy báo mộng như vậy.
Mẹ Thùy Lâm cơ hồ như muốn ngất xỉu, bà ôm ngực run lẩy bẩy:
- Chết rồi à? Làm sao mà chết? Trời ơi, con tôi. Mà tại sao nó lại báo mộng cho ông. Ông quen nó à?
Ông Nhuận nói:
- Không! Tôi không hề quen cô ấy. Thậm chí còn khiếp sợ khi thấy cô ấy nữa.
Cha Thùy Lâm thất thần:
- Ông ơi ông làm ơn nói rõ đi. Số phận con gái tôi ra sao mà nó lại báo cho ông như vậy?
Ông Nhuận đưa cái bóp da ra. Vừa nhìn thấy cái bóp da, mẹ Thùy Lâm ngất luôn. Cha Thùy Lâm vội đưa bà lên giường nằm rồi lạnh lùng nhìn ông.
- Đây là cái bóp da lâu đời của nhà vợ tôi. Làm sao ông lại có nó? Phải chăng ông là thủ phạm giết chết con Thùy Lâm nhà tôi? Rồi hồn nó bắt ông phải đem trả và tự thú.
Ông Nhuận xua tay:
- Trời ơi! Chưa gì ông đã gán cho tôi cái tội khủng khiếp quá vậy. Tôi sẽ kể cho ông bà nghe tường tận.
Và ông thuật lại lời của Thùy Lâm... Kể xong, ông chép miệng:
- Tội nghiệp cô gái! Cô ấy chết trẻ quá.
Cha Thùy Lâm nghẹn ngào:
- Cảm ơn ông đã cho tôi biết sự thật, tôi sẽ bắt hai đứa sát nhân sát hại con tôi đền tội ác.
Mẹ Thùy Lâm đã tỉnh lại thều thào:
- Cho tôi xin lại cái bóp. Tôi muốn nhìn mặt con tôi.
Ông chồng đưa cho bà cái bóp và một bàn tay từ trong cái bóp hiện ra nắm chặt tay bà. Bà vuốt ve bàn tay con nước mắt giàn rụa.
- Đây đúng là cái bóp của tôi, và bàn tay là của con gái tôi. Con ơi, sao con chết thảm như vậy?
Ông chồng ứa lệ:
- Tôi phải đến nhà mẹ thằng Trọng, hỏi cho ra nhẽ!

Vừa lúc đó có tiếng ồn ào, một thanh niên mặt mũi bặm trợn xuất hiện. miệng anh ta đầy máu. Anh ta đấm ngực thùm thụp kêu gào trước cổng nhà cha mẹ Thùy Lâm:
- Thùy Lâm, hãy tha cho tôi. Tôi xin khai tất cả. Tôi và thằng Cư có tội. Thằng Cư nó đâm đầu vào cây sao chết rồi. Nó đã thoát, còn tôi, tôi cũng sẽ theo nó để đền tội cho cô.
Cha Thùy Lâm kêu rú lên:
- Thằng Trọng, thì ra là mày. Tại sao mày lại giết con gái tao. Tao sẽ giết chết mày.
Ông nắm cổ gã, hắn kêu lên sằng sặc:
- Giết đi. Tôi đang muốn chết đây. Tôi bị ma ám cả tuần nay rồi. Cô ấy luôn hiện về báo thù.
Ông Nhuận ngăn cha Thùy Lâm:
- Nó đã bị ma ám, cứ để nó tự khắc khai báo. Nó là thằng Trọng à?
Cha Thùy Lâm gật đầu rồi quay sang Trọng:
- Mày phải khai rõ ra, tại sao mày lại giết con gái tao?
Thằng Trọng kể, giọng đứt quãng:
- Tôi gặp Thùy Lâm trong tiệc cưới. Nàng đẹp lộng lẫy khiến tôi và thằng Cư mất cả hồn vía. Tôi bàn với thằng Cư đến làm quen. Thùy Lâm rất vui vẻ đồng ý nói chuyện. Rồi phần vì men rượu, dục tình nổi lên nên tôi và Cư phục kích con đường mà Thùy Lâm sẽ về. Cả hai dùng khăn bịt mặt, quả nhiên Thùy Lâm xuất hiện và chúng tôi đã thực hiện được ý đồ. Thùy Lâm chống cự quyết liệt nhưng cuối cùng đành khuất phục, nàng để mặc chúng tôi muốn làm gì thì làm. Mục đích của chúng tôi là chỉ có thế. Nào ngờ, lợi dụng lúc tôi sơ hở, nàng quăng chiếc bóp da trúng mặt tôi, làm cái khăn rơi xuống. Nàng rú lên:
- Thằng Trọng! Tao không ngờ mày lại đồi bại đến thế? Tao căm thù mày.
Tôi biết mình đã bị lộ nên liều mạng bàn với thằng Cư thủ tiêu Thùy Lâm.
Tôi bước tới chỗ nàng ngồi giả bộ dỗ dành, nếu Thùy Lâm nghe lời thì thôi còn không thì ra tay ngay... Thùy Lâm không nghe tôi giải thích mà ra sức mạt sát, chửi rủa, còn dùng tay cào cấu vào mặt tôi. Tôi điên tiết, lấy con dao chặt ngay bàn tay đó. Thùy Lâm gục xuống rồi Cư đâm vào bụng cô ta. Thùy Lâm chết ngay tức khắc. Xong việc cả hai như sực tỉnh, thấy mình đã phạm tội ác khủng khiếp. Chúng tôi vội chôn Thùy Lâm dưới gốc cây sao. Nhưng sau đó nhớ ra còn bàn tay của nàng. Tôi vội bỏ vào cái bóp định chôn tiếp. Nào ngờ. Cư cứ xăm xoi cái bóp nói:
- Đây là cái bóp rất đẹp, giá trị lắm, ta mang về chỗ mẹ cậu, nhờ bán lấy tiền xài!
Tôi gạt đi:
- Cậu điên à? Làm thế thì khác gì “Lạy ông tôi ở bụi này”.
Cư cười:
- Chỗ mẹ cậu bán hàng lưu niệm, khách thập phương đến chỉ một ngày là cái bóp lên đường. Ta có bạc triệu để xài.

Tôi ngẫm nghĩ rồi đồng ý. Mẹ tôi cũng không hỏi gì về cái bóp. Vài hôm sau, bà đưa cho tôi mấy trăm ngàn gọi là tiền bán bóp da. Tôi và Cư rủ nhau đi uống rượu... và cố quên chuyện cũ đi.
Nhưng đêm nào tôi cũng thấy bàn tay Thùy Lâm bóp cổ mình, cái bàn tay đầy máu. Tôi sợ hãi gào thét. Giọng Thùy Lâm rõ mồn một:
- Mày đã hại cả cuộc đời con gái của tao, lại giết chết tao, tao sẽ báo thù.
Tôi sợ quá, năn nỉ rằng tôi chỉ lỡ tay không cố ý. Nhưng Thùy Lâm cứ lởn vởn bên cạnh. Tôi bị suy nhược trầm trọng. Nhất là khi được tin thằng Cư lao đầu vào gốc cây sao tự tử... Và hôm sau Thùy Lâm ra lệnh cho tôi đến đây tự thú....
Trọng kể xong lăn ra ngất xỉu, máu mồm hộc ra....
Ông Nhuận nói:
- Ghê thật! Hồn ma báo oán, thằng Trọng này thế nào rồi cũng chết.
Mẹ Thùy Lâm não ruột:
- Nhưng còn con gái tôi, nó làm sao sống lại được?
Ông Nhuận, cảm ơn ông. Nhờ ông mà sự thật mới được lộ rõ, tội ác phải trả giá... Đêm nay, ông ở lại với chúng tôi, chúng tôi sẽ làm mâm cơm cúng cho linh hồn cháu được siêu thoát.

Ông Nhuận gật đầu. Lúc khiêng Trọng lên giường thì hắn đã tắt thở. Họ khiêng xác Trọng về nhà mẹ hắn. Mẹ hắn ban đầu hốt hoảng đờ người, nhưng khi rõ chuyện, nước mắt ngắn dài, giọng thê thảm:
- Tôi không ngờ con tôi lại làm điều ác như vậy?
- Nó “ác giả ác báo” thôi. Đó là luật nhân quả.
Đêm đó, ông Nhuận thấy Thùy Lâm hiện về, nét mặt tươi tắn. Thùy Lâm nói:
- Cám ơn ông đã giúp con. Con xin đền ơn ông.
Ông Nhuận hỏi:
- Thế còn thằng Cư chết ra sao? Cháu kể lại cho bác nghe đi!
Thùy Lâm rổn rảng:
- Con làm hồn ma xuất hiện, dụ dỗ nó. Nó say rượu nên đâu biết con đã chết. Thế là nó lao đầu vào gốc cây, vỡ nát cả sọ.
Ông Nhuận thở dài:
- Thế là chỉ vì sự độc ác của con người mà đã tước đi ba mạng sống con người. Bây giờ ân oán đã trả xong con tính sao?
Thùy lâm trìu mến:
- Con xin làm con của cha mẹ. Vì đó là duyên số. Nhờ có cha mẹ, mới làm sáng tỏ được nỗi đau khôn cùng của con. Nhờ có cha mẹ, nên con mới rửa được mối thù.

Ông Nhuận bà Nhuận lấy nhau đã gần chục năm nhưng chưa có con. Vì thế khi nghe Thùy Lâm nói, ông rất vui mừng. Sáng hôm sau, ông từ biệt cha mẹ Thùy Lâm về xuôi, sau khi đã gửi trả lại cái bóp da. Cái bóp da được chôn chỗ Thùy Lâm chết. Cha mẹ Thùy Lâm cảm động:
- Ông không quản ngại đường xa, đem tin tức con gái tôi cho gia đình, thật rất biết ơn ông. Cầu mong mọi điều tốt lành cho ông và gia đình.
Ông Nhuận thân tình:
- Nay mai mình sẽ là người một nhà? Tôi sẽ coi Thùy Lâm bây giờ như con gái tôi.
Cha mẹ Thùy Lâm ngạc nhiên:
- Ông nói vậy là sao? Chúng tôi thực sự không hiểu.
Ông Nhuận cười:
- Thùy Lâm đã đầu thai làm con gái vợ chồng tôi. Vợ chồng lấy nhau đã lâu mà chưa có con.
Cha mẹ Thùy Lâm mừng rỡ:
- Thế thì hay quá, khi có tin mừng ông bà nhớ báo cho chúng tôi biết với. Để chúng tôi xuống thăm cháu.
Ông Nhuận gật đầu. Ngay hôm đó ông về đến phố, ông kể cho bà vợ nghe tất cả sự việc, bà vợ hoan hỉ:
- Tôi cũng có niềm vui nói với ông đây, một cô gái xinh đẹp hiện ra nói với tôi: “Con xin được làm con của mẹ để đền ơn sâu”.... Nói xong, cô ta chui luôn vào miệng của tôi.
Ông Nhuận phấn khởi:
- Đó là linh hồn của Thùy Lâm đó. Chúng ta sắp có tin mừng rồi.
Bà vợ tò mò:
- Thùy Lâm à? Ông Nhuận gật đầu.

Quả nhiên một năm sau, bà Nhuận sanh một đứa bé gái rất xinh đẹp. Đặt tên gì nó cũng khóc. Chỉ khi đặt tên Thùy Lâm thì nó mới nhoẻn miệng cười, ông báo tin cho cha mẹ Thùy Lâm biết. Hai ông bà vội xuống phố, khi thấy đứa con gái, ông bà nức nở:
- Đúng là Thùy Lâm đây rồi. Con gái tôi đã tái sinh ở nhà ông bà. Cho phép chúng tôi là cha mẹ đỡ đầu của Thùy Lâm.
Hôm đó quả là ngày vui của hai gia đình. Thùy Lâm lên ba tuổi, kể lại vanh vách chuyện ngày trước và bảo:
- Hai tên Trọng và Cư sẽ là trâu ngựa cho nhà cha mẹ con kiếp trước để trả nợ cho tội ác của chúng.
Ai nghe cũng kinh hãi.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeWed Jul 17, 2019 12:06 am

.
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Images?q=tbn:ANd9GcSpyTkzHQHO09qaw8IMV5vR8i5DSTmGrvcOsZuyUR7uJM1fl772

Nỗi sợ
- Guy de Maupassant (1850-1893)

Sau bữa tối chúng tôi lên cầu tàu hóng mát. Phía trước chúng tôi, biển Địa Trung Hải không có lấy một gợn sóng, trăng sáng vằng vặc. Con thuyền lớn như đang bay trên bầu trời đầy sao, khói phun lên đen kịt như một con rắn lớn đang uốn lượn; và phía sau chúng tôi, nước tung bọt trắng xóa, bắn tóe ra hai bên khi con thuyền lớn vùn vụt đi qua.

Chúng tôi có tám người ngồi trên boong tàu, chúng tôi cùng im lặng, cùng dõi mắt về hướng châu Phi xa xôi nơi chúng tôi đang cùng nhau đi tới đó. Bỗng nhiên ông thuyền trưởng vừa hút thuốc vừa gợi chuyện:
- Ôi, một lần, tôi đã hoảng hồn lên khi thuyền tôi bị kẹt trong một hốc đá suốt sáu tiếng đồng hồ, đến gần tối may có một chiếc thuyền chở than của người Anh đi ngang qua nhìn thấy chúng tôi và giúp chúng tôi đưa thuyền ra.
Một người đàn ông với nước da rám nắng, đầy vẻ phong trần, từng trải cắt lời:
- Thuyền trưởng, ông nói rằng ông hoảng hồn, ông sợ; tôi chẳng thể tin được. Ông hẳn đã nhầm khái niệm sợ, cảm giác sợ với cảm giác mà ông đã trải qua. Một người đàn ông rắn rỏi không bao giờ sợ khi đối mặt với khó khăn, hiểm nguy. Anh ta rung động, lo lắng: nhưng sợ, đó lại là chuyện khác.
- Ai chà chà! Tôi sợ, tôi xin nói rõ lại với ông như thế. - Ông thuyền trưởng vừa cười vừa nói.
Thế là người đàn ông rám nắng đó liền nói với giọng chậm rãi:
- Cho phép tôi được giải thích! Nỗi sợ (và những người đàn ông gan dạ nhất, táo bạo nhất cũng có thể có một nỗi sợ), đó là một cái gì đó rất khủng khiếp, một cảm giác tồi tệ như thể tim bị bóp nghẹt, cơ căng cứng, óc trống rỗng. Một cảm giác mà chỉ nghĩ đến nó thôi cũng đủ rùng mình kinh sợ. Nhưng điều đó sẽ không xảy ra khi người ta gan dạ, không thối chí trước một trận tấn công, trước một cái chết không thể tránh khỏi, trước mọi nỗi hiểm nguy mà người ta phải đối đầu: điều đó chỉ xảy ra trong một vài trường hợp đặc biệt, dưới ảnh hưởng của những điều thần bí, đối mặt với những nguy cơ mập mờ, hư ảo. Nỗi sợ thật sự, đó là một cái gì đó như là khi sực nhớ tới một nỗi khiếp sợ khủng khiếp trước đây. Một người tin rằng có hồn ma, và tưởng tượng thấy xuất hiện những bóng ma trong đêm là người sẽ cảm nhận thấy sự kinh sợ tột cùng. Tôi, tôi đã từng đối mặt với nỗi sợ khủng khiếp suốt một ngày dài cách đây khoảng mười năm. Và tôi lại cảm thấy nỗi sợ đó vào một đêm đông năm ngoái. Và tuy tôi đã từng qua biết bao hiểm nguy chết người, từng vật lộn với cái chết biết bao lần. Tôi, kẻ đã từng bị bọn kẻ cướp tìm giết, kẻ từng bị tuyên án tử hình vì tội nổi dậy ở châu Mỹ, kẻ đã từng bị vứt xuống biển từ trên một tòa nhà ở Trung Quốc. Mỗi lần như thế, tôi đương nhiên hồi hộp xúc động và lo lắng nhưng tôi không hề mủi lòng và thậm chí cũng không hối tiếc.

Nhưng sự hồi hộp xúc động đó không phải là sự sợ hãi. Không, không hề phải.
Tôi đã từng cảm thấy nỗi sợ ở châu Phi. Hãy chú ý tới điều này, thưa các ông. Ở phương Tây, cuộc sống chẳng có nghĩa lý gì; người ta thường cam chịu trước mọi việc; đêm sáng và chẳng có gì bí ẩn, tâm hồn con người ở đây cũng thế, chúng trống rỗng, chúng chẳng hề có những lo lắng u tối, những lo lắng ám ảnh trí não của con người xứ lạnh. Ở phương Đông, người ta có thể biết đến nỗi kinh hoàng, người ta không biết đến sự sợ hãi. Vậy đấy, và đây, tôi sẽ kể cho các bạn nghe điều đã xảy đến với tôi trên vùng đất châu Phi:
Tôi đi qua các cồn cát lớn ở vùng phía Nam vùng Ouargla. Đó là một trong những đất nước kỳ lạ nhất thế giới. Các ông chỉ biết đến loại cát mịn màng, trơn nhẵn êm ái trên bờ biển vô tận của đại dương. Vậy các ông có biết rằng chính đại dương cũng tạo ra cát trong những trận bão táp. Hãy tưởng tượng đến một trận bão, một trận bão được gây ra bởi những hạt bụi vàng, yên lặng tiến đến, không gió giật, mưa gào báo hiệu. Cơn bão cát cao lừng lững, tiến tới như một khối núi lớn, từng đợt không đều, khác hẳn nhau, được nâng lên như thể những làn sóng không đến tiếp liền nhau, nhưng càng ngày càng lớn, và có vân như cát nhiễu. Ở phía Đông mặt trời như một ngọn lửa lớn thiêu đốt mặt đất. Cần phải trèo lên trên các trảng cát vàng như tro tàn bị thiêu rụi bởi mặt trời. Phải leo lên, tụt xuống, lại leo lên, rồi lại tụt xuống không ngừng, không nghỉ, không có lấy một bóng mát để nghỉ chân. Bọn ngựa đang hí ầm lên, chúng bị lún trong cát tới tận đầu gối, chúng leo lên khó nhọc rồi lại trượt xuống những đồi cát.

Chúng tôi gồm hai người theo sau tám kỵ binh và bốn con lạc đà cùng với những người chăn chúng. Chúng tôi không nói chuyện gì nữa, mệt lả vì nóng, vì mệt, khát khô như đang đi trong một sa mạc nóng bỏng nhất. Đột nhiên một người bỗng kêu lên một tiếng; tất cả mọi người dừng lại, chết trân, cực kỳ ngạc nhiên bởi một hiện tượng phổ biến, không giải thích được mà những lữ khách ở các vùng hẻo lánh xa xôi rất hay gặp. Ở một nơi nào đó gần chúng tôi, theo một hướng nhất định có tiếng trống đang vang lên, tiếng trống huyền bí trên cồn cát; tiếng trống nghe rất rõ, lúc ầm vang, lúc khẽ khàng, có lúc ngừng bặt rồi lại dồn lên theo một điệu nhạc kỳ dị. Những người Ả Rập, kinh hoàng nhìn nhau; một người nói bằng tiếng Ả Rập: "Thần chết đi theo chúng ta". Thế là đột nhiên bạn tôi, người bạn thân thiết như anh em với tôi ngã ngựa, đầu đập xuống đất, ngất lịm vì say nắng.
Trong suốt hai giờ đồng hồ tôi gắng sức cứu chữa cho anh ta, tiếng trống vẫn cứ lúc xa lúc gần, lúc to lúc nhỏ, tiếng trống đơn điệu, nhát gừng, khó hiểu khiến tôi phát sợ, một nỗi sợ thật sự, một nỗi sợ khủng khiếp như khi ta ôm thi hài của người yêu nằm gọn trong huyệt mộ đang cháy rực bởi mặt trời nóng bỏng, nằm gọn giữa bốn con quỷ cát, trong khi đó âm thanh lạ thường đang vọng đến cách chúng tôi khoảng tám trăm mét, tiếng vang đó phát ra từ một ngôi làng kiểu Pháp, tiếng trống dồn dập hối thúc.

Hôm đó, tôi đã hiểu sợ nghĩa là thế nào; và tôi đã hiểu rõ hơn thế nữa vào một lần khác...
Thuyền trưởng ngắt lời ông ta:
- Nhưng tiếng trống? Đó là cái gì thế?
Người kể chuyện trả lời.
- Tôi không biết, chẳng ai biết. Các sĩ quan thường ngạc nhiên bởi tiếng động kỳ lạ này thường quy cho đó là tiếng vang được nhân lên, to lên nhiều lần bởi thổi qua các cồn cát, đụn cát. Tiếng động gây ra khi gió xoáy cuốn cát bay đập vào các bụi cây khô. Người ta cho như vậy bởi hiện tượng này thường diễn ra ở gần những nơi có bụi cây quá khô tự bốc cháy dưới ánh mặt trời. Tiếng trống thực ra chỉ là một loại ảo giác âm thanh. Thế thôi, thế nhưng mãi sau này khi tôi trải qua cảm giác thứ hai của mình tôi mới hiểu ra.

Mùa đông năm ngoái, trong một khu rừng phía Đông bắc nước Pháp. Trời tối sớm hơn các nơi khác khoảng hai tiếng, hôm đó trời vừa sâm sẩm tối, tôi đang ở trên một con đường nhỏ với người dẫn đường là dân địa phương đi bên cạnh, hai bên trồng thông, gió reo vi vu trên đầu. Bỗng chốc tôi nhìn thấy mây đổi chiều và những đám mây lớn đang bay vùn vụt, đang bị đẩy bởi một cơn cuồng phong, cả cánh rừng như vặn mình kêu răng rắc. Tôi cảm thấy lạnh dù tôi cô đi rất nhanh và dù tôi mặc áo khoác dày. Chúng tôi sẽ đến nghỉ đêm lại nhà một người gác rừng và dùng bữa đêm tại đó. Ngôi nhà của người gác rừng này không xa nhà tôi là mấy nhưng tôi đến đó để đi săn. Người dẫn đường của tôi thỉnh thoảng lại ngước mắt lên nhìn trời và lẩm bẩm: "Thời tiết xấu quá!" rồi anh ta nói với tôi về những người ở nơi mà chúng tôi đang đi đến. Người cha hai năm trước đã giết chết một tên săn trộm và kể từ khi đó, ông ta trở nên u sầu như thể bị ám ảnh bởi điều đó. Hai đứa con trai của ông đều đã cưới vợ và hiện đang ở cùng ông.
Trời tối om như mực. Tôi chẳng còn nhìn thấy gì nữa cả, thậm chí ngay cả cái tay tôi xòe ra trước mặt tôi cũng nhìn không thấy. Tôi chỉ còn nghe thấy tiếng những cành cây đập vào nhau không ngừng phía trên đầu. Cuối cùng, tôi nhận thấy có ánh đèn sáng, ngay sau đó người dẫn đường đập cửa. Có tiếng phụ nữ trả lời, rồi đến một giọng đàn ông ồm ồm hỏi: "Ai đến thế?" Người dẫn đường xưng danh, cửa kẹt mở, chúng tôi bước vào. Đó là một cảnh tượng không thể quên được. Một ông già râu tóc bạc phơ, mắt đầy vẻ điên dại, tay cầm súng săn đang đợi chúng tôi ở giữa nhà, hai bên cửa là hai gã to lớn tay lăm lăm rìu. Tôi để ý thấy trong góc nhà có hai phụ nữ đang quỳ, mặt úp vào tường.

Chúng tôi tự giới thiệu và nói rõ lý do đến, ông già buông súng xuống, để nó dựa vào tường và ra lệnh dọn phòng cho tôi; và bởi hai người phụ nữ vẫn chưa hề nhúc nhích, ông ta nói với tôi:
- Ông thấy đấy, tôi đã giết một người, đêm nay là tròn hai năm ngày chết của người đó. Năm ngoái, anh ta đã quay lại tìm tôi, gọi tôi. Thế nên đêm nay tôi còn đang đợi anh ta. - Rồi ông ta nói thêm bằng một giọng khiến tôi phì cười - Hôm nay chúng ta sẽ chẳng yên nổi đâu.
Tôi đảm bảo rằng tôi đã lấy làm vui mừng vì đến đúng đêm đó để chứng kiến một màn kịch về một nỗi khiếp sợ dị đoan. Tôi nói thế để các bạn khỏi sợ. Gần bếp lửa, một chú chó già gần như mù lòa và lông lá bù xù đang nằm ngủ, mũi gác lên trên chân. Phía ngoài ngôi nhà, cơn bão đang gào thét. Qua lỗ nhìn gần cửa, bỗng chốc nhờ tia sáng một ánh chớp tôi thấy một cành cây bị gió giập vùi.

Tôi cảm thấy có một nỗi sợ hãi đang ngự trị trong những người đang ngồi đây cùng tôi, mỗi khi tôi ngưng nói, mọi người đều dõi tai để ý nghe có tiếng động lạ nào đó không. Chán ngắt vì phải ngồi với những nỗi sợ vơ vẩn như vậy, tôi định đứng lên đi ngủ, đúng lúc đó ông già bỗng nhảy phắt tới cây súng săn, ông vừa tóm lấy nó vừa lắp bắp lạc cả giọng: "Anh ta đấy! Anh ta đấy! Tôi nghe thấy anh ta!" Hai người phụ nữ lại quỳ thụp xuống góc nhà, giấu mặt vào tường; hai người con trai cầm lấy rìu. Tôi vừa định nói mấy câu an ủi giúp họ nguôi sợ thì con chó đang ngủ bỗng vùng dậy, đầu ngẩng cao, cổ vươn về phía lò sưởi, con mắt gần như lòa của nó dán chặt vào lò sưởi, nó tru lên một hồi sầu thảm, tiếng chó tru đó sầu thảm đến mức đủ khiến mọi lữ khách phải rùng mình. Mọi con mắt đổ dồn về phía con chó, đến lúc đó con chó vẫn đứng im, bất động, bốn chân choãi ra như thể nó đang gầm gừ với một cái gì đó vô hình, kỳ lạ, và hẳn là đáng sợ bởi lông nó dựng hết cả lên. Người gác rừng, tái mét kêu lên: "Nó cảm thấy được đấy! Nó cảm thấy anh ta đấy! Anh ta đã đứng ở đó khi tôi giết anh ta". Hai người phụ nữ tái mét mặt cùng hét lên một lúc với con chó.

Cho dù tôi không hề biết sợ, thế nhưng một cơn rùng mình khiến tôi rung động từ đầu đến chân. Cái nhìn của con chó vào giờ này, ở nơi này giữa những con người đang cuống cuồng sợ hãi, tất cả những điều đó cũng khiến tôi lây cái sợ mà họ đang cảm thấy.
Thế là trong suốt một tiếng đồng hồ, con chó cứ tru lên không ngừng, và nó cũng không hề động đậy, nó cứ giữ nguyên tư thế như thế trong suốt một tiếng đồng hồ liền, nó cứ tru lên như thể nó đang mơ một giấc mơ kinh hoàng: và sự sợ hãi, một sự sợ hãi khủng khiếp bao trùm lên tôi; sợ gì nhỉ? Tôi biết tôi sợ gì không? Không, đó là một nỗi sợ, thế thôi.

Chúng tôi cùng ngồi im bất động, xanh xám, chờ đợi một sự kiện gì đó hết sức khủng khiếp, tai căng ra, trống ngực đập thình thịch, cuống cuồng lo sợ trước bất cứ tiếng động nhỏ nào. Rồi con chó đi vòng quanh phòng, vừa đi vừa ngửi hít bốn bức tường vừa rên rỉ không ngừng. Con vật khiến chúng tôi phát rồ! Thế nên người dẫn đường của tôi, không thể chịu đựng được hơn nữa đã mở cửa ra sân sau và ném con vật ra ngoài. Ngay lúc đó nó im bặt; chúng tôi lại chìm vào một sự im lặng còn đáng sợ hơn cả trước. Đột nhiên, cùng một lúc, chúng tôi cùng giật thót mình: bên ngoài, ở phía tường đối diện rừng, có cái gì đó bò dọc tường, đi ngang qua cửa, nó có vẻ như đang sờ lần bằng tay một cách ngập ngừng; rồi người ta không nghe thấy tiếng gì nữa trong khoảng hai phút, hai phút đó khiến người ta sợ phát điên. Rồi nó lại quay lại, lại sượt qua tường; nó cào nhè nhẹ như thể một đứa trẻ lấy ngón tay cào nhẹ vào tường; rồi bỗng nhiên một cái đầu xuất hiện ở lỗ nhìn cạnh cửa, một cái đầu trắng toát với đôi mắt hoang dại lấp lánh như mắt của bọn thú ăn thịt, có tiếng nói phát ra từ miệng của nó, một giọng nói không rõ ràng, một giọng rầm rì than thở. Có tiếng súng nổ, người gác rừng già đã bắn. Và ngay khi đó hai người con trai chạy bổ tới, bít chặt cái lỗ nhìn bằng cách dựng cái bàn lớn lên trên cái tủ buýp phê.

Và tôi xin thề với các ông rằng vì đột ngột nghe tiếng súng không đợi trước đó mà tôi bỗng cảm thấy sợ, một nỗi sợ bóp nghẹt tim, làm thân thể bủn rủn, đầu óc trống rỗng, tôi cảm thấy mình mệt lả đi, gần như chết vì sợ.
Chúng tôi cứ ngồi yên như thế cho tới tận bình minh không thể cử động, không thể nói năng, co quắp trong một nỗi sợ khó tả. Chúng tôi không dám dỡ bỏ rào chắn khỏi cửa cho tới tận khi nhận thấy có ánh mặt trời lọt qua khe trên mái nhà dọi xuống. Dưới chân tường, dựa vào cửa, con chó già nằm bất động, mõm vỡ toác bởi một phát đạn. Nó đã bò ra khỏi sân sau bằng cách đào một lỗ nhỏ dưới hàng rào.

Người kể chuyện có khuôn mặt rắm nắng ngưng lại một lúc, rồi anh ta nói thêm: "Đêm đó, tôi đã không phải trốn chạy khỏi bất cứ một nguy hiểm nào; nhưng nếu thời gian quay lại thì tôi thà đương đầu với mọi hiểm nguy chết người còn hơn phải chịu đựng giây phút nghe tiếng súng vang lên và nhìn thấy cái đầu lông lá qua lỗ nhìn đó...".
.

Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeSat Jul 20, 2019 8:35 am

.
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  9k=

Biệt thự ma ám
- Pierre Bellemare

Một thảm cảnh khủng khiếp xảy ra hôm qua tại Southampton và New York. Cậu bé Bob Robertson chết đuối trong hồ bơi. Tiếp theo đó, người mẹ đã tự tử và ông bố cũng tự kết liễu đời mình sau khi bắn một phát súng vào đầu ông chủ Philipp Miller...”


Tommy Robertson, một chàng trai 29 tuổi, đang ngồi trong phòng chờ của công ty Miller Building tọa lạc trên tầng 29 tòa cao ốc ở New York. Anh đưa mắt nhìn sang hàng ghế bên trái rồi bên phải, tất cả đều đầy ắp người. Ước tính khoảng trên 50 ứng viên đến tham dự phỏng vấn theo thông báo tuyển dụng đăng trên báo cách nay một tuần: “Cần tuyển một đôi vợ chồng trẻ có từ 1 đến 2 con để giữ ngôi biệt thự sang trọng. Công việc nhẹ nhàng, lương cực hậu”. Từ sáng sớm, các ứng viên theo thứ tự lần lượt bước vào phòng giám đốc công ty, Philipp Miller, rồi lại lần lượt quay trở ra với gương mặt thiểu não, đầu cúi xuống.
Tommy Robertson và vợ, Kate Robertson, đều thất nghiệp từ hơn một năm nay. Anh thất nghiệp không phải vì lười biếng hay thiếu năng nổ. Ngược lại, với cơ thể lực sĩ cuồn cuộn cơ bắp, anh sẵn sàng chấp nhận mọi công việc nặng nề, khó khăn nhất.
- Mời người tiếp theo..., giọng cô thư ký vang lên.

Tommy Robertson tự tin đứng lên và bước vào phòng giám đốc. Philipp Miller chào anh bằng cái bắt tay nhanh gọn, nét mặt lạnh lùng đầy quyết đoán.
- Mời anh ngồi. Anh chỉ việc trả lời những câu hỏi có vẻ lạ thường của tôi mà không cần phải ngạc nhiên hay đưa ra lời bình luận gì cả. Chúng ta thống nhất như thế nhé!
Tommy cố gắng kiềm chế cái nhăn mặt trước lời nói làm anh khó chịu của “ông chủ” tương lai. Trong tình cảnh bi đát hiện tại, anh không có sự lựa chọn nào khác...
- Tốt lắm. Theo bản lý lịch tôi nhận được, anh có vợ và một cậu con trai 5 tuổi tên Bob. Anh có thường đi lễ nhà thờ không, Tommy? Câu hỏi mở đầu làm anh hơi bất ngờ. Tommy nghĩ câu trả lời hợp lý nhất sẽ là “có”. Nhưng bất chợt anh quyết định trả lời ngược lại với suy nghĩ của mình: - Không, chưa bao giờ tôi đặt chân đến đó cả. Tommy vô cùng ngạc nhiên khi thấy nét rạng rỡ hiện rõ trên gương mặt người đối thoại.
- Rất tốt, Tommy. Còn vợ anh thì sao?
- Kate làm theo bất cứ điều gì tôi yêu cầu.
- Tuyệt lắm. Vậy anh có tin vào Đức Chúa Trời không?
- Tuyệt đối không.
- Anh cũng không tin dị đoan chứ?
- Tất cả đều là chuyện nhảm nhí.
- Tuyệt vời! Philipp Miller tươi cười đứng lên. - Không cần phải tiếp tục cuộc nói chuyện nữa, anh Tommy. Anh chính là người mà tôi cần tuyển.

Ông chủ Miller đã đưa Tommy đi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Miller tiếp:
- Tôi sẽ giải thích công việc anh phải làm. Anh có biết thành phố biển Southampton không?
Tommy gật đầu xác nhận vì anh không lạ gì khu tắm biển cao cấp nằm cách New York khoảng 50 dặm này cả.
- Ngôi biệt thự mà anh và vợ con đến giữ nằm cạnh bờ biển. Ngôi biệt thự khá rộng bao gồm 17 phòng ngủ với 6 phòng tắm, một hồ bơi, một khu vườn rộng 2 mẫu và một bãi tắm riêng. Nhiệm vụ của anh và gia đình là dọn về đấy ở trong khoảng thời gian đúng một năm.
Đến lúc này Tommy mới thoát khỏi cơn mê để trở về với thực tế.
- Còn nhà bảo vệ thì sao?
- Không có nhà bảo vệ nào cả. Anh và vợ con nghỉ ngay bên trong ngôi biệt thự và khỏi bận tâm lo việc bảo trì hay dọn dẹp ngôi biệt thự gì hết. Đã có ba người giúp việc dưới quyền anh và hai xe ô tô dành riêng cho anh và gia đình đi lại. Ngoài các bữa ăn, nước sinh hoạt, điện thắp sáng, lò sưởi... miễn phí, anh sẽ được trả 1.000 đô la tiền lương mỗi tháng và một khoản tiền thưởng 20.000 đô la sau khi kết thúc hợp đồng... Anh thấy thế nào, ổn thỏa chứ?
Tommy lại cảm thấy mình như rơi vào một mê hồn trận khác. Những điều kiện vật chất mà cho dù có nằm mơ anh cũng không thể nào có được! Tommy ấp úng:
- Tôi muốn biết cụ thể hơn...
- Là một nhà kinh doanh địa ốc, tôi kinh nghiệm rằng khi một thảm cảnh chết người xảy ra trong một ngôi nhà nào đó thì mọi người chung quanh đều tin rằng ngôi nhà đó bị ma ám. Hậu quả là không ai dám mua lại ngôi nhà đó dù nó được rao bán với giá rẻ mạt. Ngôi biệt thự ở Southampton được tôi mua lại trong tình huống như thế.
Tommy vẫn chưa hiểu ông chủ muốn nói gì.
- Vậy thì vai trò của tôi trong vở kịch này là như thế nào?
- Đó chính là điều lý thú được tôi khám phá ra! Tôi thuê gia đình anh đến ở trong ngôi biệt thự đó trong vòng một năm. Tôi tin rằng sẽ không có điều gì đáng tiếc xảy ra và anh cùng vợ con sống hạnh phúc... Sự kiện này sẽ đánh tan mọi nghi kỵ... và ngôi biệt thự sẽ được bán lại với giá gấp đôi, thậm chí gấp ba, bốn lần giá mua!
- Tôi thực sự thán phục ông chủ đã nhìn xa trông rộng đến như thế...
- Tốt lắm. Tối nay ông hãy thuyết phục vợ ông. Sáng mai ông đến đây ký hợp đồng rồi đến thẳng Southampton, đồng ý chứ?
- Ơ... Chỉ một câu hỏi nữa thôi: Điều gì đã xảy ra trong ngôi biệt thự ấy?
- Năm ngoái, một đôi vợ chồng tỉ phú ở đấy... Cậu con trai 6 tuổi của họ bị chết đuối trong hồ bơi. Họ đã không chịu đựng được sự mất mát đó nên cả hai đã tự tử bằng cách lái xe tông vào gốc cây cổ thụ bên vệ đường. Đó là cậu con trai duy nhất của họ.
- Cậu bé đó tên gì?
- Tên Bob. Tại sao anh lại hỏi chi tiết đến thế?
- Cho biết thôi ạ. Tạm biệt ông chủ, hẹn gặp lại vào sáng mai...

Nếu Tommy Robertson lực lưỡng bao nhiêu thì ngược lại vợ anh, Kate Robertson, lại mảnh khảnh bấy nhiêu. Kate vừa bước vào tuổi 25. Mái tóc vàng nhạt phủ ngang bờ vai mỏng manh càng toát lên vẻ yếu đuối, thiếu tự tin. Khi nghe chồng thông báo tin tìm được việc làm “mà có nằm mơ cũng không thể có được”, Kate không biểu lộ niềm phấn chấn nào. Đợi cậu con trai ngủ say, hai người ngồi nói chuyện trong phòng khách của căn nhà nghèo nàn thuộc khu ổ chuột Brooklyn.
- Sao em thấy lo quá anh Tommy ạ, không phải lo cho em mà cho Bob...
- Tại sao phải lo cho Bob? Em sẽ thấy nó thích thú đến dường nào khi mình dọn đến đó.
- Anh không liên tưởng gì đến cậu bé chết đuối trong hồ bơi sao, nó cũng tên Bob như con mình...
- Đáng lý anh không nên kể cho em nghe thảm kịch xảy ra trong ngôi biệt thự! Nhưng mà Kate này, anh không muốn nghe những lời nhảm nhí của em nữa đâu nhé.

Sáng hôm sau, gia đình Tommy đến công ty Miller Building ký hợp đồng rồi đi thẳng đến ngôi biệt thự sang trọng ở Southampton. Tommy không thể tin những gì đang diễn ra trước mắt mình. Chị đầu bếp, chị làm phòng và anh làm vườn xúm xít đến khuân vác hành lý và hướng dẫn họ đi xem biệt thự. Thật khó mà tưởng tượng mức sang trọng và tính thẩm mỹ cực kỳ ở từng chi tiết trang trí trong các phòng nghỉ, phòng khách... Đúng y như truyện thần thoại nghìn lẻ một đêm hay những cảnh sang trọng tột cùng trong các bộ phim do Hollywood sản xuất.
- Này Kate, em có cảm thấy mình thật là may mắn không?
Bob thì không ngừng chạy tới chạy lui vì mê ly, vui sướng...
Chỉ một mình Kate là không đồng cảm với chồng con. Nàng thỏ thẻ bên tai Tommy:
- Tommy, sao em thấy lo quá!
- Em sợ gì? Em thật nực cười đấy! Trong đời anh chưa từng thấy ngôi nhà nào sinh động và ấm cúng như thế!... À, chị làm phòng ơi, chị làm ở đây được lâu chưa?
- Ông Miller đã tuyển chúng tôi được 3 tháng rồi ạ.
- Thế chị có thấy bóng ma nào chưa? Chị có nghe tiếng động khác thường nào vào ban đêm không?
- Thưa không ạ. Mọi việc đều bình thường.
- Em có nghe không, Kate tội nghiệp của anh! Đừng buồn thảm như thế nữa, Kate, hãy vui vẻ lên nào. Chúng ta được trả lương để hưởng cuộc sống đế vương trong một năm đấy.

Mười một tháng lặng lẽ trôi qua, cho đến giờ thì dường như sự lạc quan yêu đời của Tommy là có lý. Mọi việc diễn ra bình thường, không một âm thanh cót két nào phát ra từ cánh cửa, không một tiếng gió hú bất thường nào được nghe thấy. Ngược lại, mọi thứ đều như trong mơ.
Mấy ngày nay, dòng người đến dọ mua ngôi biệt thự tăng lên đáng kể. Theo thỏa thuận với ông Miller, vợ chồng Tommy phải tỏ ra hết sức phấn chấn, trên môi luôn nở nụ cười. Họ phải thể hiện trước mặt khách hình ảnh của một gia đình hạnh phúc tuyệt đối.
Hôm ấy, Kate đưa đôi vợ chồng doanh nhân giàu có ở New York đi thăm ngôi biệt thự.
Sau khi cuộc tham quan kết thúc, người vợ tách Kate ra nói chuyện riêng: - Tôi nghe nói trong quá khứ đã xảy ra một thảm kịch trong ngôi nhà này thì phải?
- Đúng thế, nhưng bà hỏi chuyện này để làm gì?
- Vì tôi cũng nghe một số người cho rằng nếu quả thật như vậy thì ngôi nhà sẽ bị ma ám!
- Thật là vô lý! Nếu có chuyện đó thì làm sao gia đình tôi sống hạnh phúc trong gần suốt năm nay?
- Tất nhiên là không rồi. Tôi quả là nực cười và đa nghi khi nghĩ đến điều ấy. Tôi sẽ thuyết phục chồng tôi mua ngôi biệt thự sang trọng này thôi.
Chính lúc này điều bất ngờ đã xảy ra. Đứng gần đó, cậu bé Bob chạy đến đưa đôi tay đánh vào vị khách.
- Hãy rời khỏi nơi đây, bà xấu lắm!
Sửng sốt trước thái độ lạ thường của Bob, Kate giữ chặt hai tay nó lại:
- Ngừng tay nào! Bộ con điên rồi sao?
Bị ngăn cản, Bob khóc sướt mướt:
- Con không muốn bà này đến ở đây đâu! Con không muốn rời khỏi ngôi biệt thự này đâu! Con không chịu trở về căn nhà ọp ẹp cũ đâu! Bà hãy đi đi!...

Phải cố gắng lắm, Kate mới khống chế được cậu con trai dấu yêu. Tối hôm ấy, lần đầu tiên kể từ khi về đây ở, Kate nói chuyện nghiêm túc với Tommy.
- Tommy này, điều mà em lo sợ đã đến rồi đấy. Bob không muốn quay về ngôi nhà cũ nữa... Sau một năm sống đế vương làm sao nó chịu trở về với cuộc sống cơ hàn ngày trước. Và chúng ta không thể áp đặt với một đứa bé.
- Mình sẽ giải thích cho con và phải thích ứng dần thôi em ạ.
- Mình thì dễ dàng thôi, nhưng Bob thì không thể. Thời gian gần đây tính khí nó thay đổi bất thường lắm. Một tiếng hét lớn phát ra từ phòng của Bob.
Kate chạy vội vào phòng theo sau là Tommy. Bob đứng cạnh giường, vẻ mặt căng thẳng lắm. Kate ôm con lên vào lòng.
- Mẹ, con thấy thằng bé!
- Thằng bé nào cơ?
- Nó cũng tên Bob và cũng sáu tuổi như con. Nó bảo: “Hãy đến chơi với bạn dưới đáy hồ bơi”. Con không muốn xuống đáy hồ bơi đâu. Con sợ lắm, con không biết bơi...
Kate quay sang Tommy, giọng thảng thốt:
- Tommy, mình phải rời khỏi đây ngay thôi.
- Không bao giờ!
- Em không thể ở đây thêm một giây phút nào nữa!
- Không bao giờ! Nếu rời nơi đây trước cuối tháng này, mình sẽ mất 20.000 đô la tiền thưởng. Bob, con lên giường ngủ lại đi thôi, đó chỉ là cơn mộng mị. Kate, mình về phòng thôi...

Suốt mười lăm ngày sau đó, họ thực sự sống trong cơn ác mộng. Khuya nào Bob cũng thức giấc trong tiếng hét hãi hùng. Chỉ còn ba hôm nữa thì hợp đồng sẽ kết thúc. Buổi sáng hôm ấy, vợ chồng Tommy thức dậy bình thản hơn mấy hôm trước vì đêm qua họ không nghe tiếng Bob la hét như những đêm trước. Kate vào phòng Bob...
Một phút sau nàng hốt hoảng chạy ra, miệng thét to:
- Bob không có trong phòng!
Hoảng hốt không kém, Tommy cùng Kate đi tìm Bob khắp trong các phòng của ngôi biệt thự. Không thấy nó đâu cả. Nó đã ra ngoài vì cửa ra vào hãy còn mở toang. Tommy chạy như điên, anh sục sạo tìm kiếm khắp khu vườn rồi đến hồ bơi...
Anh đứng bất động trong một giây rồi nhảy ùm xuống... nhưng đã quá trễ, cơ thể của Bob đã lạnh cóng tự bao giờ.
Một tiếng hét khủng khiếp phát ra từ miệng Kate khi nàng nhìn thấy cảnh Tommy bồng xác con. Nàng ôm mặt khóc rồi bất chợt chạy về hướng nhà xe.
Khi Tommy tỉnh ngộ ra thì đã muộn vì Kate đã ngồi vào tay lái và chiếc xe phóng tới như bay. Anh tức tốc chạy đến nhảy vào chiếc xe còn lại đuổi theo.
Kate chạy như điên trên đường phố Southampton rồi hướng ra ngoại thành... Nàng chạy đi đâu thế?
Sự việc chỉ diễn ra trong nháy mắt. Sau khi ra khỏi thành phố, đến một khúc cua Kate tăng tốc tông thẳng vào gốc cây...
Tommy thắng lại trong tiếng rít kéo dài trên mặt đường. Anh phóng xuống xe chạy tới nhưng vội lùi lại vì một tiếng nổ long trời phát ra và chiếc xe của Kate bốc cháy...
Tommy lên lại xe của mình, mở hộc tủ nhỏ lấy ra cây súng ngắn rồi quay ngược đầu xe hướng về New York.

Như mọi hôm, Philipp Miller đến công ty làm việc lúc 9 giờ 30 sáng. Từ xa, Miller đã nhận ra Tommy Robertson. Philipp lên tiếng trước:
- Anh làm gì ở đây thế, Tommy? Giờ này anh phải ở Southampton mới phải lẽ chứ? Này Tommy, anh làm sao thế? Bỏ súng xuống ngay! Anh có điên không? Anh...
Hai tiếng nổ chát chúa vang lên cắt đứt câu nói bỏ dở của Miller và hai thân thể lần lượt ngã xuống trên vỉa hè New York.

- Đào Duy Hòa dịch
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeThu Jul 25, 2019 10:04 am

.
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  34866_18

Đêm ác mộng
- Guy de Maupassant (1850-1893)


Tôi say mê đêm. Tôi yêu thích đêm như thể người ta yêu thích quê hương, xứ sở, hay yêu nhân tình, một tình yêu mang tính bản năng, một tình yêu sâu sắc, không cưỡng lại được. Tôi yêu nó với cả tâm hồn. Tôi yêu bóng tối, yêu sự tĩnh lặng của đêm. Tôi cảm nhận được bóng đêm mơn man trên da thịt mình. Những con chiền chiện hót vang mỗi sáng sớm, trong không khí xanh, trong không khí nóng, không gió nhẹ sớm mai. Chim cú lẩn trong đêm, một đêm đen lướt qua trong không gian tối đen như mực, nó bay qua một màn tối đen dầy đặc và phát ra một tiếng kêu âm rung buồn thảm.

Ngày làm tôi mệt và buồn chán, nó tàn nhẫn và ầm ĩ. Tôi thức dậy mỗi sáng đầy mệt mỏi, tôi mặc quần áo một cách chán nản, tôi đi ra ngoài một cách miễn cưỡng. Mỗi bước chân, mỗi cử động, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, mỗi suy nghĩ đều làm tôi mệt mỏi như thể tôi phải nhấc một gánh nặng nghìn cân vậy.
Nhưng mỗi khi mặt trời lặn xuống, một niềm vui khó tả tràn ngập trong tôi. Tôi tỉnh táo, hoạt bát hẳn lên.
Trời càng tối, tôi càng cảm thấy khác hẳn, tôi trẻ ra, khỏe ra, năng động lên, hạnh phúc hơn. Tôi nhìn bóng tối dày lên, nhìn bóng đêm bao phủ bầu trời, nhìn bóng đêm dần phủ đen thành phố, nó xóa mờ mọi màu sắc, mọi hình dạng, nó bao phủ mọi ngôi nhà, mọi sinh vật, mọi vật bằng vòng tay vô hình của nó.
Lúc đó tôi rất muốn được hét lên sung sướng như những con cú, tôi muốn chạy trên các mái nhà như những con mèo, và một mong muốn mãnh liệt, không thể cưỡng lại được, mong muốn được yêu thiêu đốt con tim tôi.
Tôi đi, tôi dạo bộ, khi thì trong những vùng ngoại ô tối tăm, khi thì trong những khu rừng ở gần Paris ở nơi đó tôi trông thấy, nghe thấy các chị tôi, những loài thú săn mồi, và các anh tôi, những kẻ đi săn trộm đang rình mò. Cái mà họ thích đó luôn là một kết cục ác độc, đó là giết chóc. Nhưng làm sao giải thích được điều đang xảy đến với tôi? Thậm chí làm thế nào để tôi có thể kể được nó ra? Tôi không biết, tôi không biết nữa, tôi chỉ biết đó là như thế.

Thế đấy.
Vậy hôm qua, phải hôm qua không? Phải, đúng hôm qua, ít nhất thì cũng không phải là hôm kia hay một hôm nào khác, hay một tháng nào khác, một năm nào khác. Tôi không biết. Tuy nhiên đó phải là hôm qua, bởi vì hôm qua ngày không tới, bởi mặt trời không hề xuất hiện. Nhưng đêm bắt đầu từ khi nào? Từ khi nào? Ai biết điều đó? Ai sẽ biết điều đó?
Hôm qua, sau khi dùng bữa tối, tôi đi chơi như mọi tối. Trời rất đẹp, rất nóng. Vừa đi xuống đại lộ, tôi vừa nhìn lên trên cao. Trời đầy sao lấp lánh, gió nhẹ hiu hiu, mọi vật đều sáng sủa dưới ánh trăng vằng vặc. Có biết bao đêm sáng lấp lánh trên trời cũng như trong thành phố, đến nỗi tất cả các ngõ tối cũng có vẻ sáng trưng. Những đêm sáng trăng sáng đèn trông lộng lẫy vui tươi hơn nhiều so với một ngày nắng chan hòa.
Trên đại lộ, những quán cà phê đèn đuốc sáng trưng; người người cười nói, đi lại, ăn uống. Mỗi lúc tôi lại vào một rạp hát, rạp hát nào? Tôi cũng không biết nữa. Trong rạp sáng đến nỗi khiến tôi cảm thấy buồn. Ánh sáng chói độc địa, hắt ra từ ban công nhũ vàng, từ những chiếc đèn bằng thủy tinh, từ những dây đèn treo suốt hàng rào rạp hát, từ biển quảng cáo phim... tất cả những ánh sáng đó khiến con tim tôi buồn nản. Tôi đi ra đại lộ Champs Élysées; nơi đó có những quán cà phê âm nhạc trông giống như những ngọn lửa trong tán lá. Những cây dẻ được phết lên một ánh sáng vàng có vẻ như đang phát sáng. Và những quả cầu điện tử trông giống như những vầng trăng đang chiếu ra một thứ ánh sáng xanh xao, nhìn từ xa những chiếc đèn treo, những dây đèn kết trông như chuỗi cườm quỷ quái, những tia kỳ quặc, những khí xấu xa bẩn thỉu, những vòng hoa bằng thủy tinh màu.

Tôi dừng lại dưới Khải Hoàn Môn để ngắm đại lộ, ngắm nhìn toàn bộ chiều dài của nó và dáng hình ngôi sao đẹp tuyệt vời của nó, đi đến Paris bằng hai đường lửa, và những tinh tú! Những tinh tú trên cao, những vì tinh tú xa lạ được ném một cách ngẫu nhiên lên cao xanh, và vẽ lên những hình thù kỳ dị khiến người ta phải mơ mộng, phải suy ngẫm.
Tôi vào trong rừng Boulogne và tôi ở lại trong đó rất lâu, rất lâu. Bỗng đâu tôi rùng mình, một cái rùng mình kỳ lạ, một cảm xúc mạnh và bất ngờ, một sự kích động khiến tôi như phát điên.
Tôi dạo bộ rất lâu, rất lâu. Rồi tôi quay lại. Lúc tôi lại đi qua Khải Hoàn Môn là mấy giờ nhỉ? Tôi không biết. Cả thành phố đang ngủ. Những đám mây, những đám mây đen lớn đang lững lờ trôi trên bầu trời.

Đó là lần đầu tiên tôi cảm thấy sắp xảy ra một điều gì đó rất lạ. Trời có vẻ lạnh, sương dày dần lên, màn đêm, màn đêm mà tôi yêu biết bao nhiêu giờ lại khiến tim tôi thấy nặng nề. Đại lộ giờ vắng tanh, chỉ còn hai cảnh sát đang dạo qua dạo lại trên đường xe ngựa đi, và trên con đường lúc nãy còn rực rỡ đèn hoa giờ im lìm tối. Một đoàn xe ngựa chở rau củ đang đi về các chợ. Chúng đi rất từ từ, chất đầy cà rốt, củ cải, cải bắp. Người lái cứ ngủ, ngựa cứ bước đều đều, con sau sau con trước, không một tiếng động trên mặt đường lát gỗ. Mỗi khi đi qua một cái đèn trên vỉa hè, những củ cà rốt sáng lên ánh sáng đỏ, củ cải sáng lên ánh sáng trắng, cải bắp sáng lên ánh sáng xanh; và những chiếc xe ngựa lần lượt đi qua, những chiếc màu đỏ - những ngọn lửa đỏ, những chiếc màu trắng - ngọn lửa trắng bạc, những chiếc màu xanh - ngọn lửa xanh ngọc.
Tôi đi theo chúng, rồi tôi rẽ vào phố Royale và trở về đại lộ. Không còn ai. không còn những quán cà phê sáng rực đèn hoa, chỉ còn vài người đang vội vã đi. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một Paris im lìm đến thế, hoang vắng đến thế. Tôi rút đồng hồ ra xem. Hai giờ sáng.

Có một sức mạnh thúc đẩy tôi, một nhu cầu cần dạo bộ. Thế nên tôi đi tới tận ngục Bastille. Ở đó, tôi nhận thấy rằng tôi chưa từng bao giờ có một đêm tối đến thế bởi tôi không nhận thấy được, ngay cả cái cột Juillet, và thiên thần bằng vàng ở trên cột đã bị bóng tối dày đặc che khuất. Một quầng mây lớn, dầy che phủ bầu trời, phủ khuất hết các vì sao, và có vẻ như nó đang dầy dần lên, buông dần xuống mặt đất, phủ kín, tiêu diệt trái đất.
Tôi quay về. Quanh tôi chẳng còn ai. Tuy nhiên trên quảng trường Château - d’Eau, một kẻ say rượu suýt nữa đâm vào tôi, rồi anh ta đi khuất. Tôi đứng nghe tiếng bước chân bập bõm của anh ta đi xa dần, tôi lại đi. Trên cao kia, từ trên đồi Montmartre có một chiếc xe ngựa chở khách đang chạy về hướng sông Seine. Tôi gọi nó lại. Người đánh xe không trả lời. Một nàng bướm đêm đang lảng vảng gần phố Droust gọi: "Ông có muốn cùng em vui vẻ chút không". Tôi vội bước để tránh đôi tay chìa ra của cô nàng. Rồi chẳng còn gì nữa hết. Trước cửa rạp Vaudeville 1, một tên đồng nát đang bới tung một đống rác, chiếc đèn pin nhỏ của hắn chiếu loáng loáng sát mặt đất. Tôi hỏi hắn: "Mấy giờ rồi, chú mày?"
Nó lầu bầu: "Tôi biết làm sao được. Tôi làm gì có đồng hồ".

Đột nhiên tôi nhận thấy đèn đường phụt tắt. Tôi cũng biết rằng vào mùa này người ta tắt đèn đường từ rất sớm, từ trước khi mặt trời lên vì lý do tiết kiệm; nhưng còn lâu mới đến sáng kia mà!
"Đi đến khu họp chợ vậy, chí ít ta cũng tìm thấy sự sống ở đó". Tôi nghĩ.
Tôi lại đi, nhưng tôi chẳng nhìn thấy gì, thậm chí cả đường tôi cũng không nhìn thấy để mà đi. Tôi đi một cách chậm chạp, như thể người ta đi trong rừng, nhận biết các con phố bằng cách đếm các dãy nhà, đếm các ngã tư.
Đến trước Quỹ Tín dụng Lyonnous 2, có tiếng chó gừ gừ, tôi rẽ vào phố Grammont, tôi lạc đường; tôi đi lang thang, rồi tôi nhận ra Quỹ Tiết kiệm Buorse nhờ những tấm lưới sắt bao quanh nó. Paris vẫn đang say ngủ, một giấc ngủ sâu, đáng sợ.

Tuy nhiên, phía xa có một chiếc xe ngựa chở khách đang đi, một chiếc xe chở khách duy nhất, có thể đó chính là chiếc xe lúc nãy đã đi ngang qua tôi. Tôi tìm cách bắt xe ngựa bằng cách đi về hướng tiếng xe chạy, vượt qua các con phố tối đen như mực, tối như trong một nấm mồ.
Tôi lại lạc đường. Tôi đang ở đâu đây? Thật điên rồ làm sao khi tắt đèn đường sớm đến thế! Không một người qua đường, không một người đi chơi dêm, không một kẻ lang thang rình mò trộm cắp, không một tiếng mèo kêu, không một tiếng chó sủa. Chẳng có gì hết.
Đi đâu hết những ông cảnh sát nhỉ? Tôi tự nhủ: "Ta sẽ kêu ầm lên, họ sẽ đến". Thế là tôi hét toáng lên, chẳng hề có tiếng ai trả lời.
Tôi lại gọi toáng lên một lần nữa, to hơn. Giọng của tôi vừa phát ra đã mất hút, không tiếng vang, yếu ớt, ngàn ngạt, như bị bóp ngẹt bởi màn đêm, bởi một bóng đêm quánh dặc, không sao thoát lên được. Tôi gào lên: "Cứu tôi với! Cứu tôi với! Cứu với!" vẫn chẳng hề có tiếng trả lời cho tiếng kêu vô vọng của tôi. Mấy giờ rồi nhỉ? Tôi rút đồng hồ ra, nhưng tôi không có bật lửa, cũng chẳng có diêm. Tôi nghe tiếng kêu tíc tắc tíc tắc của cỗ máy bé nhỏ đó với một niềm vui kỳ lạ. Nó đang chạy, nó đang sống. Tôi cảm thấy bớt cô đơn, bớt đơn độc. Huyền bí làm sao! Tôi lại bước đi như một kẻ mù lòa, vừa đi vừa lấy chiếc gậy thăm dò lên tường các ngôi nhà, thỉnh thoảng tôi lại ngước mắt nhìn lên trời, mong chờ trời sáng. Nhưng nền trời vẫn tối đen một màu đen như mực, tối đen như trong các dãy phố tối tăm lúc trước tôi đi qua. Bấy giờ có thể là mấy giờ nhỉ? Tôi lại đi, tôi cảm tưởng tôi đã đi bộ được một thời gian lâu lắm rồi vì chân tôi mỏi rời rã, tôi thở phì phò, và tôi đói, một cái đói vò xé gan ruột.

Tôi quyết định nhấn chuông ngôi nhà gần nhất. Nghĩ là làm, tôi nhấn ngay vào núm chuông đồng đầu tiên tôi sờ thấy, tiếng chuông kêu kính coong vang khắp ngôi nhà, tiếng chuông kính coong rất lạ, như thể chẳng có gì ngoài tiếng chuông trong ngôi nhà này.
Tôi đợi một lát, chẳng có ai đáp lời, cũng chẳng có ai ra mở cửa cả. Tôi lại nhấn chuông, tôi lại đợi, vẫn chẳng có gì thay đổi!
Tôi sợ! Tôi chạy đến ngôi nhà kế bên, và hai mươi ngôi nhà kế tiếp, tôi nhấn chuông tất cả, tôi nhấn cả chuông nhà gác cửa mà trong đó phải có người trực ngủ, anh ta không thức dậy, tôi đi xa hơn, dùng hết sức bình sinh kéo tất cả các chuông cửa, đá bằng chân, gõ bằng gậy vào tất cả những chiếc cửa đóng im ỉm một cách lỳ lợm.

Và rồi bỗng nhiên tôi nhận ra rằng tôi đã đến được khu họp chợ. Nhưng khu chợ vắng tanh, im phăng phắc, không một tiếng động, không một cử động nhỏ nào, không có một xe hàng nào, không có một người nào, không có một sọt rau nào, không một gánh hoa nào. Khu chợ hoàn toàn trống không, im lìm, hoang phế, khu chợ chết!
Một nỗi kinh hoàng chụp lấy tôi, khủng khiếp quá. Điều gì đang xảy ra thế này? Ôi Chúa ơi! Điều gì đang diễn ra thế?
Tôi lại đi. Nhưng mấy giờ rồi? Mấy giờ rồi? Ai sẽ nói cho tôi biết mấy giờ bây giờ? Có biết bao gác chuông trong thành phố mà sao không một cái nào gióng chuông. Tôi nghĩ: "Ta sẽ mở mặt kính đồng hồ của ta ra và ta sẽ sờ kim đồng hồ để biết giờ vậy". Tôi rút đồng hồ trong túi ra... nó không gõ nữa... nó đã đứng lại... nó đã chết. Chẳng còn gì nữa hết, chẳng còn gì hết, không còn lấy một tiếng gió rì rào trong lá cây, không có một tia sáng nào, không có một tiếng động nhẹ nào thoảng trong không khí. Chẳng có gì hết. Chẳng còn gì nữa hết. Thậm chí cũng chẳng còn tiếng bánh xe ngựa lộc cộc lúc trước tôi đã nghe thấy nữa. Chẳng còn gì nữa.

Tôi đi đến bên bờ sông, một cơn gió mát lạnh thổi từ sông lên.
Liệu sông Seine có còn trôi?
Tôi muốn biết điều đó, tôi tìm cầu thang bến sông, tôi đi xuống... Tôi chẳng nghe thấy tiếng nước chảy róc rách qua các nhịp cầu... tôi đi xuống hai bậc nữa... rồi xuống đến cát... đạp vào một cái lọ... chạm đến nước... tôi nhúng cánh tay tôi xuống dưới nước... nước đang trôi... nó đang trôi... lạnh... lạnh.... lạnh quá.... gần như sắp đóng băng... gần như sắp khô cạn đi... gần như sắp chết.
Tôi cảm thấy rất rõ rằng tôi sẽ chẳng đủ sức để trèo lên... rằng tôi sắp chết... chính tôi, vì đói, vì mệt, vì rét.
------------------
1  Vaudeville: rạp hát nằm ở ngã tư giữa quảng trường Capucine và la Chaussée d’Antin.
2  Quỹ Tín dụng Lyonnais: Ngân hàng nằm ở quảng trường Italiens, giữa phố Michodière và phố Granimont.
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeThu Aug 01, 2019 10:06 am

.
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Maxresdefault

Tiếng nói trong đêm
- William Hope Hodgson
  

Đêm tối như bưng. Bầu trời không một ánh sao. Tàu buồm của tôi buông neo trong một vịnh nhỏ ở vùng tây bắc Thái Bình Dương. Thuỷ thủ đoàn chỉ có hai người và một cậu bé tập sự đang ngủ say. Ông bạn tôi là đại uý thuyền trưởng Will đang nằm dài trong buồng lái phía sau, còn tôi thơ thẩn trên boong, cảm thấy hơi lạnh từ lớp sương mù dày đặc, lãng đãng chung quanh, từ trên ngọn cột buồm sà thấp xuống, lan toả trên mặt biển lạnh lẽo đen ngòm.
— Oh! hê! Tàu buồm!
Một tiếng gọi bất ngờ vang lên trong đêm tối, phía bên trái mạn tàu - giọng khàn khàn khác người. Tôi kinh ngạc đến sững sờ, cứng cả miệng, không thốt được nên lời.
— Oh hê! Tàu buồm!
Tim đập mạnh, tôi cố trấn tĩnh, run giọng hỏi:
— Ai đó? Như nhận được sự bối rối của tôi, tiếng nói lạ lùng chậm rãi:
— Đừng sợ, ông bạn. Tôi chỉ là… Một ông già.
— Ông muốn gì? Tại sao ông có vẻ lén lút vậy? Cập thuyền lại đây xem nào.
Cái giọng khàn khàn chợt lúng túng:
— Tôi… tôi… không thể, nguy hiểm lắm. Tôi… tôi…
— Ông nói gì kỳ vậy? Tại sao nguy hiểm? Ông đang ở đâu thế?


Chung quanh chợt im lặng như tờ. Tôi bước nhanh vào trong lấy cây đèn bấm hướng chùm tia sáng vào khoảng mênh mông ngoài mạn tàu. Trong khoảnh khắc, tôi nghe một tiếng kêu tắt nghẹn, tiếp theo là một tiếng khua nước như có ai vừa phóng mạnh mái chèo, chỉ trong một tiếng mà thôi. Qua làn ánh sáng nhoà nhạt của ngọn đèn, tôi thoáng thấy một vật gì mờ nhạt mất hút rất nhanh, hình như là một chiếc thuyền. Will đã thức giấc, anh đến bên tôi:
— Có chuyện gì vậy?
Sau khi nghe tôi kể lại, Will im lặng một giây, rồi khum tay làm loa gọi lớn:
— Ohê! Thuyền!
Từ rất xa, chúng tôi nghe có tiếng trả lời yếu ớt vọng lại. Vài phút sau, lại có tiếng mái chèo khua nước. Tiếng nói khàn khàn rõ hơn:
— Cất đèn đi.
— Ông đến gần đây đi, không có gì phải sợ cả.
— Tôi van các ông hãy cất đèn đi!
Giấu ánh đèn sau lưng, tôi bực tức la lên:
— Quỷ tha ma bắt, tại sao ông lại sợ ánh sáng chớ?
— Bởi vì… bởi vì…
Will vừa dứt lời, tôi nghe tiếng mái chèo và tiếng nói xa dần, tràn đầy vẻ thất vọng và thống thiết:
— Xin các ông bỏ lỗi… tôi không muốn quấy rầy các ông chút nào. Ngặt vì… tôi đói quá, và… cô ấy cũng thế…
Tôi chưa biết phải xử xự ra sao thì Will đã gọi lớn:
— Ông hãy trở lại đi, chúng tôi sẽ tắt ánh sáng. Quay sang tôi, Will nói:
— Kỳ dị thật, nhưng không sao đâu. Anh tắt đèn đi.
Bóng tối tràn lên biển. Tiếng mái chèo lại tiến đến gần. Will hỏi:
— Nào, ông muốn gì?
— Tôi… tôi đói quá… tôi cần một ít lương thực…
— Hãy đến gần đây.
— Tôi… tôi không thể, tôi không dám đến gần quá… kể cả việc trả tiền cho các ông.
— Khỏi cần, nơi đây còn rất nhiều bánh và đồ dùng, ông muốn lấy bao nhiêu cũng được.
— Các ông tốt quá. Cầu Chúa phù hộ cho các ông.
Đột nhiên Will hỏi:
— Thế còn… cô ấy là ai?
— Đó là vợ tôi, cô ấy đang ở lại đảo.
Tôi ngắt lời:
— Gần đây có đảo à? Chúng tôi có thể đến đó được không?
Giọng nói gàn lên, hoảng hốt:
— Không, trời ơi, không… - ngừng một lát - Xin lỗi các ông vì đã lớn tiếng, bởi cơn đói và nỗi bất hạnh đang hành hạ làm tôi mất cả lý trí.
— Không sao, hãy chờ tôi một phút.
Trong khoảnh khắc, Will trở lại, tay ôm đầy những gói, hộp:
— Ông có thể cặp thuyền lại gần đây để lấy đồ không?
Giọng nói yếu ớt pha lẫn sự thèm thuồng, thổn thức:
— Tôi… tôi không dám.
Lòng tôi đầy trắc ẩn khi nhận ra rằng con người tội nghiệp đang đối thoại với chúng tôi trong khoảng tối đen ngòm kia không điên, mà hình như ông ta đang là nạn nhân của một sự kinh tởm nào đấy, nên phải giấu mặt như vậy.
Chiếc thùng gỗ chứa đầy đồ tiếp tế được vứt xuống biển. Lát sau, có tiếng reo nhỏ vọng lên trong đêm tối. Rồi mái chèo khua nước bơi đi.

Thật là kỳ dị. Trong cuộc đời làm ngư phủ, chưa bao giờ tôi gặp trường hợp thế này. Thời gian lặng lẽ trôi, Will vẫn đứng cạnh tôi, chuyện bất ngờ lạ lùng ấy đã làm anh hết muốn đi ngủ.
Dễ đến gần ba tiếng đồng hồ, chúng tôi lại nghe tiếng mái chèo vang lên giữa đại dương tĩnh mịch, Will thì thào:
— Anh ta trở lại kìa. Tiếng mái chèo tiến lại gần, mạnh mẽ và dứt khoát. Chắc là họ đang rất cần thực phẩm. Chiếc thuyền nhỏ ấy hẳn phải ngừng cách tàu chúng tôi một quãng ngắn thôi và tiếng nói lại vang lên trong đêm:
— Ohê, tàu buồm!
— Lại ông đấy à! Thế nào?
Tiếng nói ngập ngừng:
— Tôi đã bỏ đi rất đột ngột… tôi… và cô ấy đã quên cám ơn các ông. Các ông thật hào hiệp, cầu Chúa ban phúc lành cho các ông. Tiếng nói lại tiếp tục: — Tôi và cô ấy nguyện cùng nhau chia xẻ sự thử thách nghiệt ngã này và thề đến chết cũng không thổ lộ cho ai biết. Nhưng những gì xảy ra trong đêm nay đã đánh thức thiên lương của chúng tôi. Chúng tôi phải nói cho các ông biết những điều chúng tôi phải chịu đựng từ khi… từ khi…
Will hỏi nhẹ nhàng:
— Từ khi nào?
— Từ khi tàu L'Albatros bị đắm…
Tôi vô tình kêu lên:
— A, con tàu đã mất tích ngoài đại dương… lâu lắm rồi.
— Vâng, từ Newcastle, con tàu không đến được San Francisco vì đã gặp một trận bão khủng khiếp ở phía Bắc xích đạo, đánh gãy cột buồm. Đến sáng, bão lặn, nhưng tàu bị vào nước. Lúc ấy, chúng tôi đang ở trong căn phòng bên dưới nên không biết gì cả. Các thuỷ thủ đã dùng những thuyền nhỏ bơi đi, bỏ tôi và vị hôn thê của tôi lại trên chiếc tàu sắp đắm. Sự hoảng sợ đã làm họ mất hết nhân tính. Tuy nhiên, chúng tôi không tuyệt vọng. Chúng tôi bắt tay làm một cái bè, gom một ít nước và bánh quy, rời khỏi chiếc tàu lớn đang chìm. Bè của chúng tôi trôi theo một dòng hải lưu nên tiến rất nhanh. Chỉ trong vài giờ, cột buồm gãy của con tàu L' Albatros bất hạnh đã mất hút trong sương mù. Sương vẫn rơi mãi suốt đêm hôm ấy và cả đến những ngày hôm sau. Vào một buổi chiều, chúng tôi nghe vọng từ xa, có tiếng sóng vỗ vào bờ càng lúc càng rõ. Đến nửa đêm, chiếc bè bị sóng nhồi lên cao, đẩy chúng tôi vào đến một vịnh yên tĩnh, những cơn sóng bạc đầu đã ở phía sau.

Bình minh lên, ánh mặt trời rực lửa sưởi ấm tâm hồn. Chúng tôi quỳ gối cảm tạ Thượng đế khi nhận thấy trước mắt mình hiện ra một chiếc tàu buồm lớn đang kẹt trong vịnh. Sự im lìm vắng vẻ của chiếc tàu không làm chúng tôi lo sợ, chúng tôi chống bè về phía đó và gọi lớn nhưng không có ai trả lời.
Khi bè sát cận tàu, thấy sẵn có sợi dây, tôi níu lấy trèo lên. Tôi leo rất khó khăn vì một loại rêu màu xám nhạt phủ đầy sợi dây, loại rêu này cũng dày đặc boong tàu, cột buồm, gút dây… khi tôi lên đến nơi. Lúc bấy giờ, tôi chả để ý đến điều đó, chỉ mong gặp một ai trên tàu nhờ giúp đỡ. Tôi réo gọi nhưng bốn bề lặng yên. Tôi đi về phía mũi tàu, mở cửa xuống tầng dưới. Cửa vừa mở, tôi đã lùi lại và đóng sập lại ngay: mùi ẩm mốc nồng nặc xông lên muốn lộn mửa và tôi hiểu ngay là chẳng còn ai sống sót trên con tàu này.
Tôi cảm thấy cô đơn lạ lùng nên vội quay về bè. Người yêu của tôi vẫn ngồi đấy, nhìn tôi bằng đôi mắt trong xanh:
— Có ai trên tàu không anh?
— Hình như chiếc tàu này bị bỏ hoang từ lâu. Em có muốn lên xem thử không?
Nàng gật đầu và chúng tôi cùng lên tàu, lục lạo khắp các phòng phía đuôi tàu, không khí lạnh lẽo đến rợn người, chẳng có một dấu hiệu nào của sự sống. Chung quanh tràn đầy mảnh rêu, hình thù u uẩn kỳ dị. Tôi nói:
— Chúng ta có thể tạm ở đây.
Chúng tôi chọn hai phòng tốt nhất, cọ rửa sạch lớp rêu làm nơi trú ngụ. Ngoài ra, chúng tôi còn tìm thấy một số thực phẩm và chỗ đặt bơm nước. Và ngay giây phút đó, chúng tôi cảm thấy hàm ơn biết bao lòng nhân ái vô biên của Đức Chúa Trời.
Nhưng một sự việc xảy ra làm nguội bớt sự lạc quan của chúng tôi, đó là sự sinh sôi nẩy nở của loài rêu kỳ quái ấy, chỉ trong vòng một ngày đêm, chúng trở lại ngay tình trạng cũ, nghĩa là lại phủ đầy sàn, vách, bàn ghế… mặc dù trước đó, chúng tôi đã cọ rửa kỹ càng. Sau đó, chúng tôi tẩy chúng bằng nước Phenol tìm thấy trên tàu, nhưng vô ích, đám rêu tệ hại kia vẫn tự nhiên xuất hiện, thậm chí càng tăng nhiều hơn, như thể những hạt mầm được nhân giống khi chúng tôi chạm tay vào.
Vào một sáng sớm, khi vừa thức giấc, tôi run lên khi thấy vết xám ghê tởm quen thuộc đã xuất hiện trên mặt gối, và cả trên khăn quàng của người yêu, tôi hoảng hồn quăng tất cả xuống biển. Tôi không dám hé môi cho nàng biết, vội vã gom một số vật dụng đưa nàng lên đất liền. Tôi mang theo cả một tấm vải buồm đủ để dựng hai cái lều nhỏ, chúng tôi sống hạnh phúc bên nhau… cho đến một hôm, trên ngón tay của nàng hiện lên một vệt xám, tròn và nhỏ như một nốt ruồi. Trời ạ, tim tôi đập hoảng loạn khi nhận thấy trên ngực mình, cũng có một vệt như thế, loại thực bì tàn độc ấy đã bắt đầu tấn công chúng tôi.


Một tháng, hai tháng rồi ba tháng trôi qua, những mảnh rêu khác xuất hiện tiếp tục. Dù tuyệt vọng, chúng tôi vẫn cố chống chọi với sự đe doạ tiến đến từ từ. Thỉnh thoảng chúng tôi mạo hiểm lên lại tàu tìm xem còn gì đáng giá không. Ở đó, vẫn loại rêu mọc dai dẳng, có cây cao đến ngang đầu. Lúc này, chúng tôi đã bỏ mọi ý định, mọi hy vọng rời khỏi đảo. Biết rằng, mình không còn được quyền sống giữa loài người với nỗi bất hạnh mang trên thân thể, nên chúng tôi phải tính đến việc tiết kiệm lương thực vì không biết cuộc sống sẽ còn kéo dài đến bao lâu nữa.
Tiếng nói người giấu mặt trở nên mệt nhọc:
— Thức ăn ngày càng cạn, chúng tôi tìm cách câu cá trong những hồ nước mặn, nhưng than ôi, một vài con cá bé ti chẳng giúp bao nhiêu cho chúng tôi chống lại cái đói đe doạ. Tôi cảm thấy dường như chính nạn đói sẽ giết chúng tôi nhanh hơn cả loài rêu độc hại kia.
Một buổi xế trưa, tôi trở về lều, thấy vợ đang ăn ngấu nghiến một cái gì.
— Em ăn gì thế?
Nàng ngượng ngùng quay đi và lén lút quăng ngay vật trên tay qua khe lều.
Tôi nghi ngờ chạy lại nhặt lên, trời ạ, một mảnh rêu xám. Tôi tiến lại, mặt nàng tái nhợt như xác chết rồi lại đỏ rần, nàng sụm xuống, oà khóc nức nở. Sau đó, suốt ngày, tôi cảm thấy một sự khích động lạ lùng bao quanh, lôi kéo tôi rời khỏi người yêu, đi dọc theo một con đường khúc khuỷu đầy cát trắng. Tôi đi mãi… đi mãi…
— Ối… Ôi… Một giọng khàn khàn cất lên, về phía trái, ngay sau lưng. Tôi quay phắt lại và bủn rủn cả tay chân khi nhận thấy một đám rêu xám hình dáng kỳ lạ, đụng vào khuỷu tay tôi bằng một động tác nhịp nhàng. Tôi chưa kịp phân định được dạng thể của đống bùi nhùi ghê tởm ấy thì tim tôi chợt thắt lại, tiếng kêu được lặp lại bằng một âm thanh xé lòng.
— Ối… Ôi…
Một cánh tay khẳng khiu như que củi, xuyên qua đống rêu xám run rẩy hướng về tôi. Và, cái đầu của vật đó, một cục tròn màu xám không có hình dáng rõ rệt, nghiêng về phía tôi. Tôi đứng như trời trồng khi cái tay gớm guốc ấy lướt qua mặt tôi. Tôi bật lên một tiếng kêu kinh hãi và nhận ra một mùi vị nhạt nhẽo trên môi, ngay ở chỗ vật đó vừa chạm vào. Tôi liếm môi và cảm thấy lòng tràn đầy một ước ao điên dại. Tôi quay lại và chọn một mảnh rêu ôm vào lòng. Tôi ghé răng cắn vào, tôi nhai, tôi nuốt, tôi xâu xé một cách tham lam. Cuối cùng, cơn kích động chấm dứt, tôi liệng mảnh rêu ra xa, đau đớn nhận rõ nỗi bất hạnh của mình. Cái đống rêu xám trước mặt tôi chính là một con người. Con người ấy đã cùng nhiều người đến đây, trên chiếc tàu buông neo trong hồ nước mặn ven biển. Loài rêu quái dị ấy đã tấn công họ, tiêu diệt họ và bây giờ là đến lượt chúng tôi.

Sau đó, bằng một ý chí mãnh liệt, chúng tôi quyết định không nếm cái thức ăn ghê tởm ấy nữa, cho dù chúng vẫn tiếp tục sinh sản trên cơ thể chúng tôi không cách gì ngăn được… cứ như thế, như thế… cuối cùng, chúng tôi không thèm để ý đến chúng nữa.
Ngày qua ngày, sự ham muốn ăn loài rêu ghê rợn ấy đè nặng lên ý chí chúng tôi. Khi miếng bánh cuối cùng vừa hết, tôi cố gắng ra khơi để câu cá và may mắn gặp được các ông. Tôi đã nói, tôi chỉ là một ông già, nếu tính theo tuổi thì tôi đã nói dối. Nhưng… nhưng đối với chúng tôi, tuổi trẻ đã rời khỏi chúng tôi kể từ ngày nỗi bất hạnh ấy chụp xuống đời.
Tiếng mái chèo lại khua nước, một lần, hai lần, rồi ba lần… Tiếng nói trong đêm như vang lên từ một cõi mơ hồ nào xa:
— Thượng đế ban phước lành cho các ông! Tạm biệt!
— Tạm biệt! Có một bàn tay ai đang bóp nghẹt trái tim tôi. Có phải đó là bàn tay của những kẻ đã nhẫn tâm bỏ lại con người trên chiếc tàu sắp đắm để cứu lấy mạng sống riêng mình, phó mặc hai sinh linh cho cơn đói khát hành hạ họ giữa biển? Hay bàn tay của những người khốn khổ ấy, trong cơn đói điên cuồng đã xé thịt một đồng loại mà họ ngỡ là một đám rêu? Bây giờ sự hối hận như một đám rêu kinh dị đang mãi bao bọc con người họ…? Dù sao thì một bàn tay nào đó cũng đang bóp nghẹt tim tôi sau khi tôi được nghe câu chuyện này…

Rạng đông vừa lên. Mặt trời chiếu những tia nắng trên biển, xua tan sương mù và soi một vệt sáng trên chiếc thuyền nhỏ vừa dần xa.
Ngay lúc đó, tôi nhận thấy một vật kỳ lạ nghiêng nghiêng giữa những mái chèo: Một đám bọt bể khổng lồ, lom khom và có màu xám, tất cả đều màu xám, cái thuyền, mái chèo, và cả cuộc đời con người bất hạnh ấy. Tôi không thể nào phân biệt được sự liên hệ giữa bàn tay và mái chèo. Cả cái đầu cũng vậy, chỉ là một vật tròn ngọ nguậy hướng về phía trước, trong khi mái chèo đưa ra sau vạch những đường dài trên mặt nước.
Rồi, chiếc thuyền mất hút trong vệt ánh sáng đong đưa… đong đưa về phía sương mù.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeTue Aug 06, 2019 8:50 am

.
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Lido-de-paris-dinner-and-show-photo_1898656-770tall

Con Ma ở Rạp Hát Lido
- Đào Văn Bình


Văn Nhân là văn sĩ nổi tiếng đã có vài chục tác phẩm xuất bản. Nếu như sinh ra ở Hoa Kỳ hay Tây Phương thì chàng ta đã trở thành triệu phú, đời sống đế vương. Thế nhưng thị trường chữ nghĩa của người Việt hải ngoại thì nhỏ, “văn chương hạ giới lại rẻ như bèo”, báo free, báo biếu, báo chợ, báo cắt dán khơi khơi đăng truyện của chàng mà không phải trả nhuận bút, nhà xuất bản kiếm được mớ tiền khi xuất bản sách của chàng… thế nhưng chính tác giả lại nghèo kiết xác.
Bên cạnh viết văn là nghề tay trái, chàng lại phải có nghề tay phải là bán bảo hiểm để sinh sống. Thế nhưng văn nhân, nghệ sĩ mà chọn nghề bán bảo hiểm là chọn lầm nghề cho nên cuộc sống vẫn không khá. Vào những năm đầu của thập niên 1990 hải ngoại nở rộ phong trào trình diễn đại nhạc hội, thu hình rồi sản xuất băng Video, đáp ứng đúng thị hiếu giải trí của đa số người Việt lớn tuổi không sao thích nghi với nền văn hóa, văn nghệ xứ người và tiếc thương những gì của những ngày tháng cũ mà Hằng Nga là trung tâm độc quyền, nổi tiếng nhất. Giới thiệu chương trình văn nghệ thì ai mà chẳng giới thiệu được. Thế nhưng nếu MC là một cô gái hay một cậu mặt mũi dễ coi, ăn nói duyên dáng thì cũng khá hơn là cứ phải nghe, phải nhìn những khuôn mặt khó coi, ăn nói rẻ tiền, xuất hiện trên sân khấu. Chính vì thế mà Trung Tâm Hằng Nga đã tìm tới Văn Nhân.

Mới đầu thì Văn Nhân từ chối, vì nhà văn có khi nào lên sấu khấu" Ngay soạn giả tuồng cải lương cũng còn không lên sâu khấu nữa kìa. Nhưng vì bà vợ thúc ép quá cho nên Văn Nhân “Cũng liều nhắm mắt đưa chân. Thử xem con tạo xoay vần tới đâu.” Thế nhưng do “tổ đãi”, do tài ăn nói lưu loát, kiến thức rộng của nhà văn, ngôn ngữ có lựa chọn, dù đôi khi cứng nhắc nhưng không đến nỗi bình dân và rẻ tiền, lại biết cách làm việc, thêm đầu óc khôi hài dí dỏm… cho nên đã chinh phục ngay được khán giả. Ở hải ngoại, người ta mua băng Hằng Nga về để xem, làm quà biếu bạn bè, chiếu trong các quán ăn, quán nhậu, quán Karaoke, quán cà-phê và nhất là trên các chuyến xe đò xuyên bang… khiến Văn Nhân nổi tiếng như cồn, còn hơn cả tăm tiếng của nhà văn năm xưa. Bề ngoài tiền bạc và danh vọng thì như vậy, nhưng bên trong không phải không có những xung đột nội tâm. Từ giã cuộc sống trầm mặc của nhà văn thường suy nghĩ về chiều sâu triết lý của cuộc sống, sẵn sàng tố cáo những cái kịch cỡm, thói hư tật xấu của xã hội… nay lao vào cuộc sống bèo bọt của thế giới âm thanh, khóc than, nói cười trên sân khấu… nhiều khi chỉ là những gì nhai lại, Văn Nhân không tránh khỏi những giây phút chạnh lòng, nhất là trong việc giới thiệu ca sĩ. Cái khổ là Văn Nhân thường phải vò đầu, bứt trán để “sáng chế” ra những mỹ từ sao cho thích hợp với từng người. Chẳng hạn, đối với ông bà ca sĩ nổi tiếng ngày xưa nay đã “sáu, bảy bó” nhưng vẫn còn lên sân khấu thì Văn Nhân phong cho câu “tiếng hát vượt thời gian”. Điều đó có nghĩa là “cái già chẳng ăn thua gì, ông bà đây vẫn hát hay, giọng vẫn trong trẻo, ngọt ngào như thời còn son trẻ.” Rồi thì “giọng hát mượt mà” để ai muốn hiểu sao thì hiểu, để phong tặng các ca sĩ có lẽ có thân hình “mượt mà” hơn là giọng hát. Rồi “đây là ca sĩ đang lên”, “được ưa chuộng nhất” để giới thiệu các ca sĩ hạng vừa vừa, hát đệm trong chương trình. Rồi thì khi cô, cậu nào có giọng hát bình dân chuyên điệu Boléro… thì Văn Nhân hiểu rằng không còn cách giới thiệu nào hay hơn là cho họ danh hiệu “làm sống lại hình ảnh Ngọc Cẩm - Nguyễn Hữu Thiết của thập niên 1950”. Rồi còn các cô cậu ca sĩ lần đầu tiên được Trung Tâm Hằng Nga lăng-xê thì Văn Nhân tán “sự xuất hiện của… sẽ đem lại nhiều luyến nhớ cho khán giả.”
Sống trong thế giới xô bồ, hỗn tạp của ca nhạc và ánh đèn sân khấu như thế, do bản tính trầm mặc cố hữu, Văn Nhân tránh các buổi tụ họp tán gẫu sau mỗi lần trình diễn của các ca sĩ. Hơn nữa tính của bà xã lại hay ghen, thỉnh thoảng bíp, sau này thì gọi cell phone để kiểm soát xem “thằng chả” có lẹo tẹo với cô nào không" Nổi tiếng rồi thì mấy cô gái trẻ bám theo là chuyện thường lắm. Cứ cảnh giác cho chắc ăn.
Trung Tâm Hằng Nga thường tổ chức các show tại rạp hát Lido nằm ở 116 bis Avenues des Champs-Elysees của Paris là một hý viện cổ xây cách đây cả trăm năm nhưng cũng nổi tiếng vì có ma….nhưng không phải ma Tây mà ma Việt. Các văn nghệ sĩ Tây, Đầm trình diễn ở đây bàn tán rằng họ thường xuyên thấy một thiếu phụ Việt Nam, ăn mặc theo kiểu quý phái của Sài Gòn- Gia Định những năm 1920. Về đêm, trong những lúc vắng vẻ cứ từ phòng quản lý ở trên lầu thướt tha bước xuống. Rồi có khi con ma ngồi xuống bên cạnh hoặc đứng sau lưng các nghệ sĩ, im lặng không nói gì. Trong không khí chộn rộn ở hậu trường, người ra người vô nên chẳng ai để ý. Ai cũng cho đó là nhân viên của đoàn hát hoặc có thể một khán giả nào đó ái mộ các nghệ sĩ cho nên tìm cách vào hậu trường nhìn cho thỏa thích. Thế nhưng khi giật mình, quay nhìn cho kỹ thì họ không thấy con ma đâu mà chỉ thấy một người đàn bà đang bước vội lên lầu rồi biến mất vào phòng quản lý. Thậm chí có người còn nói, những lúc về khuya đã trông thấy con ma lang thang trên sân khấu hoặc ngồi ủ rũ trên hàng ghế của khán giả một hồi lâu rồi biến mất.

Hôm nay, không giống như mấy show trước, sau buổi trình diễn, do mỏi mệt bởi chuyến bay đường dài xuyên lục địa, rồi nào là tập dượt và mất ngủ vì lạ nhà, Văn Nhân không theo đám văn nghệ sĩ kéo ra khu chợ Việt ở Quận 13 ăn cháo khuya, tán dóc. Chàng tựa đầu vào một chiếc ghế bành và thiếp đi lúc nào không hay. Vừa chợp mắt được dăm ba phút chàng thấy từ trên lầu một thiếu phụ bước xuống. Thiếu phụ khoảng 25 tuổi, khuôn mặt thật đẹp nhưng vương vấn nét buồn diệu vợi. Đầu nàng vấn tóc trần với chiếc trâm bạc dắt ngang, cổ đeo kiềng vàng. Nàng mặc một chiếc áo nhung màu huyết dụ làm nổi bật chiếc cổ cao và đôi bàn tay trắng ngần. Thiếu phụ đi đôi hài nhung đen thêu chỉ vàng làm bước đi của nàng nhẹ như mây bay. Tất cả vóc dáng, trang phục khiến con người thiếu phụ tỏa ra một vẻ đẹp quý phái lạ lùng. Trong đầu óc vừa mệt mỏi vừa mơ màng, khi nhìn thấy thiếu phụ, Văn Nhân nghĩ rằng đây có thể là một vũ công mà Trung Tâm thuê mướn, hóa trang, trình diễn phụ với các ca sĩ, dĩ nhiên là nhiều cô rất đẹp, cho nên chàng lên tiếng hỏi:
-Sao cô không đi ăn cháo khuya với mọi người"
Bằng giọng nói rất nhỏ nhẹ, cô gái đáp:
-Em không phải là nhân viên của đoàn hát. Em là chủ nhân của hý viện này.
Nghe nói thế Văn Nhân giật mình hỏi:
-Cô còn trẻ quá, làm sao cô có thể làm chủ một hý viện to lón như thế này" Vẫn với giọng nói như trong mơ, cô gái đáp:
-Hý viện này đã qua bao đời chủ nhưng em là chủ nhân của nó cách đây khoảng 70 năm. Nghe cô gái nói thế, Văn Nhân nổi da gà và giọng nói trở nên ấp úng:
-Thế thì cô là ma hiện về à" Bởi vì nếu gần 70 năm thì cô phải là một bà lão chứ sao trẻ đẹp như thế này"
Nghe hỏi thế cô gái đáp ngay:
-Phải, em là ma nhưng xin ông đừng sợ vì em chẳng hại ai cả. Em chẳng hiểu sao người ta lại sợ ma. Rồi như thể câu nói đã gợi lên bao nỗi đau, cô gái bật khóc, nói:
-Em chết cách đây 70 năm. Đời em là một khúc nhạc bi thương. Em chưa hề kể chuyện ấy cho ai. Nay thấy ông là một nhà văn, có thể truyền đạt cho đời cho nên em mới mạo muội kể ra. Ông có vui lòng lắng nghe không"
Nói xong cô gái tự nhiên ngồi xuống chiếc ghế bành bên cạnh.

Là một nhà văn, thích nghe cũng như quan sát chuyện đời rồi dặm mắm dặm muối thêm vào đó để viết thành tiểu thuyết. Hơn thế nữa câu chuyện lại lạ lùng cho nên đầu óc tò mò trấn áp cả nỗi sợ ma cho nên Văn Nhân nói cứng:
-Cô cứ nói đi. Tôi đâu có sợ ma. Tôi cũng là con... ma xó đây. (1)
Dù trong giấc mơ Văn Nhân vẫn còn đầu óc khôi hài. Cô gái nhìn Văn Nhân ra chiều cảm ơn. Rồi bằng giọng nói pha lẫn với nước mắt, nàng kể:
“Em tên Mộng Quỳnh. Vào năm 1921 khi em còn là cô gái 19 tuổi sinh ra và lớn lên ở Gia Định thì Maurice Cognaq đã 52 tuổi và đang làm Công Sứ Định Tường. Do cha y làm chủ hý viện Lido này, quen lớn với những quan chức trong Bộ Thuộc Địa thường lui tới hý viện, đã chạy chọt để đề bạt Maurice lên chức Thống Sứ Nam Kỳ. Lúc đó cha em đang làm việc tại dinh thống sứ. Ngày Maurice nhậm chức, y cho phép tất cả gia đình nhân viên phục vụ được tham dự tiệc vui và em cũng được cha em dẫn đi. Nhưng đâu có ngờ đây lại là ngày định mệnh oan nghiệt. Maurice là một gã rất háo sắc. Kể từ khi gặp em, Maurice mê mệt và theo mãi rồi cuối cùng xin cưới em vì bà vợ đầm của y chết cách đây hơn một năm. Trước lời cầu hôn của Maurice cha mẹ em điếng cả người. Nếu lấy hắn thì trớ trêu quá. Còn nếu từ chối thì sinh mạng của em, của cha mẹ em không biết thế nào. Cuối cùng thì ông bà gạt nước mắt xin em hãy hy sinh để cứu mạng gia đình cũng như nàng Kiều bán mình chuộc cha năm xưa. Trong thời gian đó em đã có bồ. Em và Công đã yêu nhau. Công 21 tuổi, học Trường Chasseloup Lauba và đang chuẩn bị thi Bac Deux. Công đẹp trai, con nhà nghèo nhưng hiếu học và yêu em hết mực. Em thường gọi Công với cái tên thân mật là Anh Tư vì Công là con thứ ba trong gia đình. Cha mẹ em cũng rất thương Anh Tư và hứa khi đậu xong, ông bà sẽ cho làm đám hỏi.

Vào những ngày chủ nhật, em và Anh Tư thường đi Sở Thú chơi. Còn những dịp lễ lớn tụi em đi Lái Thiêu ăn trái cây. Mối tình của tụi em đẹp như hoa như mộng. Nghe tin em phải lấy Maurice, Công chết lặng người, khóc hết nước mắt. Đã có lúc tụi em định ôm nhau nhảy xuống Cầu Bình Lợi tự vẫn nhưng Công trấn tĩnh lại nói em hãy ráng sống. Anh Tư nói hắn ta năm nay đã hơn năm mươi tuổi. Nhiều lắm là mười, hai mươi năm nữa hắn cũng chết. Dù thế nào anh vẫn thương em và chờ đợi em. Ngày em “lên xe hoa” cũng là ngày em “lên xe tang”. Giữa vòng vây phủ của dinh thống sứ, một con chim bay cũng không lọt, em không còn cách nào liên lạc với Anh Tư. Vì quá nhớ thương ảnh, em nghĩ ra một kế, nói với Maurice rằng nay em đã là vợ quan thống sứ cần phải giỏi tiếng Pháp để giao dịch với bao giới thượng lưu Pháp. Nghe nói thế Maurice đồng ý ngay. Em nhờ ba em giới thiệu Công với Maurice. Vì ngay tình nên Maurice không nghi ngờ chi cả.
Thế là kể từ đó mỗi tuần em được gặp Anh Tư nhưng có học hành chi đâu mà hai đứa chỉ ôm nhau khóc vùi. Những giây phút đắm đuối bên nhau như Ngưu Lang- Chức Nữ đó kéo dài được một năm. Sau đó có lẽ do có người mách bảo Maurice nghi ngờ và thay bằng một bà giáo người Pháp. Rất may Maurice không ra lệnh cho mật thám giết Anh Tư. Cuộc sống trong cô đơn, buồn tủi của em như thế kéo dài năm năm. Vào năm 1926, cha của Maurice ở Paris qua đời. Xác của ổng được lưu giữ trong phòng lạnh để chờ Maurice về thọ tang. Lúc này Phong Trào Bình Dân ở Pháp thắng thế, chính sách thuộc địa thay đổi đôi chút cho nên địa vị của Maurice chưa chắc đã giữ được. Chính vì thế mà Maurice đệ đơn từ chức đồng thời đưa em về Pháp.

Ngày em xuống tàu rời Cảng Sài Gòn, cha mẹ em coi em như đã chết. Em không biết trong số ông Tây bà Đầm và quan chức Việt Nam tiễn đưa quan thống sứ về nước có Anh Tư lẫn trong đó không" Về tới Paris, thọ tang cha xong, Maurice thay cha làm chủ hý viện. Trong những lúc Maurice bận rộn hoặc phải đi xa, em thay hắn làm quản lý. Căn phòng trên lầu là nơi em làm việc và nghỉ trưa. Qua tới đây em không còn sợ Maurice như xưa. Vì quá nhớ thương Anh Tư, em lén gửi thư cho ảnh và nhờ ba em chuyển. Thế nhưng thơ đi thì có, thơ về thì không. Em nghĩ Anh Tư mòn mỏi trông chờ trong tuyệt vọng đã lập gia đình với người khác. Thế nhưng vào một ngày kia, khi em đang ở trong phòng quản lý thì một người gõ cửa bước vào. Người đó không ai khác hơn là Anh Tư. Nhìn thấy ảnh em cứ ngỡ đây là giấc mơ. Nhưng khi Anh Tư ôm chặt và hôn tới tấp lên mặt em thì em hiểu rằng đây là sự thực. Rồi qua dòng nước mắt Anh Tư kể cho em nghe cuộc đời ảnh sau khi bị Maurice đuổi không cho làm précepteur nữa. Kể từ đó, sợ mật thám bắt, anh cắt đứt liên lạc với ba em và đổi địa chỉ. Sau khi lấy xong Bac Deux, năm năm sau tốt nghiệp kỹ sư công chánh, ảnh xin được việc làm tại Sở Tràng Tiền. Lúc này ảnh cũng đã lớn cho nên ba má ảnh giục cưới vợ nhưng ảnh cương quyết chờ đợi em. Khoảng năm sau, ảnh bỏ công việc này và xin làm chuyên viên cơ khí cho con tàu Marseille chuyên chạy đường Thượng Hải, Hongkong, Sài Gòn, Singapore và Pháp để thực hiện ước mơ gặp lại em. Sau khi dành dụm được một số tiền và phần nào rành đường đi nước bước ở Pháp, ảnh trốn ở lại và lên Paris tìm em. Và ngày hôm nay đây....ảnh đã đạt được giấc mơ đó. Trong vòng tay ấm áp của Anh Tư em thấy đời em như sống lại và em đã khóc... khóc hết nước mắt, nhưng đó là những giọt nước mắt hoan lạc. Và em đã hưởng được những giây phút tuyệt vời bên Anh Tư dù em đã làm vợ Maurice hơn bảy năm.

Thế rồi dưới sự sắp xếp của em, lợi dụng những lúc Maurice đi xa hoặc bận công việc, Anh Tư đều lên đây gặp em. Tụi em cũng đã bàn tính đến chuyện cùng trốn sang Thụy Sĩ để sống với nhau. Cuộc ái ân vụng trộm như thế kéo dài được ít tháng thì một ngày kia khi hai đứa còn đang ở trong phòng thì Maurice mở cửa bước vào. Theo em, Maurice hoàn toàn ngay tình, không biết gì cả. Nhưng có lẽ hôm đó hắn thay đổi chương trình hoặc quên một món đồ gì đó nên quay lại lấy. Thật oan nghiệt! Khi thấy em đang trong vòng tay của Công, Maurice nhận ra ngay người thanh niên năm xưa đã kèm em học ở Dinh Thống Sứ. Y giận điên người và rút trong người ra khẩu súng lục, chĩa thẳng vào Công. Trước tình thế nguy cấp đó, em gỡ tay Công ra rồi thét lên “Không được bắn!” Rồi em nhào lên đứng trước mặt Công, không ngoài mục đích mong Maurice, vì không nỡ giết em mà Công có cơ hội chạy thoát. Thế nhưng khi em vừa nhào tới trước mặt Công thì một phát đạn nổ vang. Khi thấy em ôm ngực, lảo đảo thì chính Maurice cũng kinh hoảng nhìn trừng trừng vào đôi tay của hắn và khẩu súng rớt xuống sàn. Maurice không ngờ chính hắn đã giết vợ hắn. Theo em nghĩ, Maurice không hề có ý giết em. Nhưng có lẽ lúc hắn bóp cò cũng chính là lúc mà em đã đứng án ngữ để che chở cho Công cho nên em đã chết thế cho Công. Vì em chết oan và chết vào giờ linh. Hơn thế nữa vì em lúc nào cũng còn thương nhớ Anh Tư và những giây phút mặn nồng bên ảnh, khiến em không đầu thai được và cũng không thể lìa xa căn phòng này. Đã gần bảy mươi năm qua em chưa hề thố lộ chuyện này với ai. Nay cơ duyên gặp anh và thấy anh là nhà văn vốn đa cảm cho nên em nhờ anh một chuyện, không biết anh có vui lòng giúp cho không"” Nghe câu chuyện thương tâm như thế. Dù không biết hậu quả tốt xấu thế nào, dĩ nhiên là không thể từ chối cho nên Văn Nhân nói:
-Chuyện gì tốt lành cho cô thì tôi sẵn sàng.
Nghe Văn Nhân nói thế, cũng bằng cái nhìn thật biết ơn, cô gái nói:
-Anh làm ơn đến chùa, thỉnh một vị sư tu hành đức độ, xin cho em một thời kinh siêu độ để em có thể đi đầu thai. Có như thế thì kiếp sau em mới có hy vọng gặp lại Anh Tư. Nếu còn như thế này thì chỉ làm khổ em, khổ Anh Tư và khổ người ta.
Cô gái vừa nói đến đây thì từ ngoài cửa, những tiếng tru tréo bỗng vang lên: - Anh Văn Nhân ơi! Bộ anh chê tụi em sao mà không chịu đi ăn với tụi em "Anh ở đây để nói chuyện với ma hay sao"

Đấy là những tiếng lá ó của mấy cô ca sĩ, nhân viên đoàn hát ăn cháo khuya xong kéo về. Và cũng là lúc Văn Nhân giật mình thức dậy. Vừa dụi mắt, lắc nhẹ đầu cho tỉnh táo, Văn Nhân đưa mắt nhìn lên căn phòng quản lý. Căn phòng vẫn đóng cửa im lìm và Mộng Quỳnh cũng biến đâu mất. Thấy chàng chẳng trả lời trả vốn chi cả, mấy cô gái lại lên tiếng chọc ghẹo:
-Trông anh sao ngơ ngác như bị ma nhập vậy! Rồi những tiếng cười chọc ghẹo lại rộ lên. Không một phản ứng, Văn Nhân lặng lẽ đứng dậy, đi vào phòng vệ sinh rửa mặt cho tỉnh táo. Sáng hôm sau, lấy cớ bận chuyện riêng, chàng một mình tới ngôi chùa Việt Nam cũng ở Paris thuật lại cho sư cụ nghe câu chuyện tối qua. Nghe xong sư cụ thở dài nói:
-Đời là bể khổ bến mê! Hiện nay các nhà ngoại cảm đã tiếp xúc được với nhiều hồn oan nơi cõi âm. Rất nhiều người không sao siêu thoát được vì họ đã chết một cách oan khiên, nghiệt ngã. Cứu độ chúng sinh sao cho “Âm siêu, dương thới” là bổn phận của nhà Phật. Xin ông đừng lo.

* * *

Ba ngày sau, trong căn nhà ấm cúng tại Thành Phố Melbourne, Úc Châu, Văn Nhân ngồi thoải mái trong chiếc ghế bành, với một ly nước cam uống cho lại sức. Còn bà vợ thì lăng xăng sắp xếp lại vali, quần áo của chàng và nấu một nồi phở là món “tủ” mà Văn Nhân ưa thích. Chuyến trình diễn đường dài như thế lần nào cũng khiến chàng mệt mỏi và thèm ngủ. Đầu dựa ngửa vào chiếc ghế và chàng thiếp đi lúc nào không hay. Chàng vừa chợp mắt được vài phút thì từ ngoài cửa một người đàn bà bước vào. Trong giấc ngủ trưa mệt mỏi và chập chờn, chàng cứ tưởng đó là người bạn của bà xã tới chơi nhưng khi người đàn bà đến gần và lên tiếng thì chàng nhận ra đó là Mộng Quỳnh. Vẫn trong bộ trang phục quý phái, nhưng hôm nay khuôn mặt của nàng có tươi hơn một chút. Nàng nói:
-Cám ơn anh. Nhờ có anh nói với sư cụ mà em được hưởng một thời kinh siêu độ. Pháp Phật đã làm em giác ngộ và em đã trả lại tất cả những gì gọi là ảo ảnh vô thường của trần gian và được đi đầu thai. Em cũng cầu xin kiếp sau sẽ không còn gặp những chuyện oan trái nữa và nguyện được ăn đời ở kiếp với Anh Tư để đáp lại những ân tình mà Anh Tư đã dành cho em.

Nói xong nàng mạnh dạn nắm lấy đôi tay của Văn Nhân, lắc nhẹ. Hình như đôi mắt bồ câu của nàng long lanh vì nước mắt. Trước tình thế đó, Văn Nhân không còn cách nào hơn là lên tiếng an ủi:
-Mộng Quỳnh! Không có chi Mộng Quỳnh à. Đó chỉ là bổn phận thôi. Nghe nói thế, bằng một giọng rất tỉnh táo, Mộng Quỳnh nói tiếp:
-Em nhờ anh, với văn tài, xin anh viết lại truyện này để người đời biết được những chuyện đau thương dưới thời đất nước bị cai trị bởi Thực Dân Pháp. Nói xong nàng từ từ lùi xa rồi bóng nàng biến mất sau khung cửa. Ngay lúc đó những tiếng eo éo bỗng vang lên:
-Anh mớ gì dữ vậy" Mộng Quỳnh! Mộng Quỳnh là con nào"
Đó là tiếng la của bà vợ, cùng với những những cái lắc mạnh vào vai đã làm Văn Nhân tỉnh giấc. Vì còn đang mơ màng cho nên Văn Nhân chưa hiểu chuyện gì thì bà vợ lại đay nghiến:
-Gớm thật! Mới có vài ngày lại thêm con Mộng Quỳnh nữa. Nó là con nào vậy"
Văn Nhân đưa đôi mắt ngơ ngác nhìn vợ. Và có lẽ cũng phải mất ít phút sau chàng ta mới tỉnh táo hẳn. Chàng nhận ngay ra rằng bà vợ “sư tử Hà Đông” của mình lại ghen bóng ghen gió bởi vì trong cơn mê vừa rồi miệng chàng đã thốt ra những tiếng “Mộng Quỳnh, Mộng Quỳnh”. Bằng giọng thật dịu dàng và có vẻ nịnh vợ, chàng nói:
-Mộng Quỳnh là con ma. Thôi “honey” cho anh ăn phở đi. Anh đói bụng lắm rồi. Vừa ăn phở anh sẽ kể cho “honey” nghe. Bà vợ dù có ngúng ngoảy, ra oai thêm đôi chút nhưng rồi cuối cùng cũng thương thằng chả, bằng cách quay lại bếp, dọn ra hai tô phở. Mùi thơm của phở, vị béo của thịt bò, giá sống hành trần, cái nóng còn bốc hơi của nước dùng làm Văn Nhân tỉnh người. Vừa ăn, chàng lấy lại tự tin và cứ thành thật kể lại tất cả những gì chàng nghe và thấy trong giấc mơ xảy ra tại Hý Viện Lido. Kể xong, Văn Nhân tin tưởng rằng bà vợ sẽ xúc động và cảm thương cho cuộc đời trái ngang của Mộng Quỳnh. Thế nhưng bà vợ “Xì” một cái nói:
-Tin ông thì đổ thóc giống ra mà ăn! Ông là nhà văn, ông viết gì chẳng được. Có lần trên sân khấu nghe ông khen mấy cô ca sĩ, về nhà tôi hỏi ông ‘có thực vậy không anh"’ thì ông nói ‘Anh phịa đó!’ Vậy thì chuyện này biết đâu ông thích con Mộng Quỳnh nào đó rồi phịa ra chuyện ma" Ông không thích nó sao trong giấc ngủ ông còn ‘Gọi thầm tên em"’. Ông định chối hả" ”

Nghe vợ nói thế Văn Nhân cụt cả hứng. Bằng sự thông minh vốn có còn rơi rớt lại Văn Nhân “ngộ” ra rằng, một khi đàn bà đã ghen, dù ghen bóng ghen gió, nếu cứ dùng lý luận giải thích thì “từ chết tới bị thương”. Thôi thì chịu thua cho êm chuyện. Nở một nụ cười như mếu, Văn Nhân nói:
-Em của anh thánh thật! Chẳng cái gì qua mặt được em. Chuyện Con Ma Ở Rạp Hát Lido là chuyện anh phịa đó. Còn Mộng Quỳnh là tên cuốn thiểu thuyết anh đang thai nghén. Toàn chuyện phịa thôi em ơi!
Nghe Văn Nhân đấu dịu thế, dường như bà vợ cũng đã nguôi ngoai. Khẽ nguýt một cái bà nói:
-Ông tưởng qua mặt được tui hả. Còn khuya! Nè, nhất vợ nhì Trời đó nghe ông!

16/07/2011
Đào Văn Bình (trích tuyển tập Mê Cung sắp xuất bản)

(1) Ma xó nằm ở một góc nhà cho nên biết hết mọi chuyện.
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeWed Aug 07, 2019 5:12 pm

.
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Thuongtiec

Huyền thọai về bức tượng đồng đen “Tiếc Thương”

Tôi còn nhớ câu chuyện như sau:

Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, cấp bậc Đại Úy, phục vụ Tại Cục Chiến Tranh Chính Trị, là người chịu trách nhiệm thực hiện tượng đài kỷ niệm “Tiếc Thương” cho Nghĩa Trang. Mới đầu nghệ Sĩ Thu tốn biết bao tháng ngày phác họa trên mô hình, trên giấy và thạch cao những “mẫu” Tượng Đài nhưng vẫn chưa hài lòng tác phẩm nào cả.

Tình cờ một hôm, Đại Úy Thu đến thăm bạn ở Tiểu Đoàn III Nhảy Dù. (Tiểu Đoàn Trưởng, Thiếu Tá Trần Quốc Lịch, Tiểu Đoàn Phó, Nhiếp Ảnh Gia Nguyễn Ngọc Hạnh). Bạn Thu cư ngụ trong doanh trại ở Ngã Tư Bảy Hiền Sài Gòn (Sau này là Bệnh Viện Vì Dân). Nhưng trưóc khi vô nhà bạn, Thu ghé vào quán giải khát trước cổng, Lúc vào quán Đại Úy Thu chú ý một Hạ Sĩ Nhảy Dù đang ngồi nhậu La De (bia). Trên bàn chỉ một mình anh nhưng có hai ly bia đầy đối nhau. Mỗi khi cầm ly bia lên, anh Hạ Sĩ Nhảy Dù vẫn không quên cụng ly bia đối diện và nói:
- Uống đi mày, uống đi mày …
Tiếng cụng ly, lời mời vẫn đều đặn theo nhịp uống của anh ta.
Thoạt đầu, Đại Uý Thu nghĩ là anh này đã say nên không kềm chế được hành động, nhưng nhìn xung quanh chẳng ai thắc mắc thái độ lạ lùng đó, có lẻ họ đã hiểu tâm sự của anh.
Anh Hạ Sĩ lại tiếp tục, tay cụng ly, miệng nói: 
- Uống đi mày …
Ông Thu hiếu kỳ, nhìn nét mặt buồn, đau xót vời vợi của anh Hạ Sĩ. Ông hỏi chủ quán sự tình rồi đến bàn anh để biết chi tiết hơn. Anh Hạ Sĩ điềm tỉnh trả lời:
- Trình Đại Úy, tôi và người bạn ở Vùng 4, rủ nhau gia nhập binh chủng Nhảy Dù cùng một ngày. Sau thời gian huấn luyện, cả hai về Tiểu Đoàn III. Nay… người bạn thân đã chết ở trận điạ …
Nói tới đây anh Hạ Sĩ nghẹn ngào. Ngưng lại một lúc như để cho cơn xúc động lắng xuống, anh lại nâng ly, cụng vào ly bên kia và miệng lại nói:
- Uống đi mày … Có Đại Úy đang uống với tao đâỵ
Sau đó anh nói tiếp:
- Từ ngày bạn tôi mất tôi rất buồn, khi ra đi có nhau, nay còn một, đôi lúc tôi muốn đào ngũ về quê, nhưng về quê tôi cũng không tìm lại được nó nữa, ở đâu tôi còn tìm thấy hình bóng của nó?

Người Hạ Sĩ Nhảy Dù buồn vời vợi và tình bạn thắm thiết của anh đã gây cho Nghệ Sĩ Thu một xúc động tràn ngập, vô bờ. Từ giao cảm thiên thu đó, Nhà Điêu Khắc xin phép Tiểu Đoàn Trưởng cho biệt phái anh Hạ Sĩ làm người mẫu để ông hoàn thành bức tượng đài kỷ niệm. Bức tượng “Tiếc Thương” được hoàn thành đầu tiên bằng xi-măng.
Sau đó, anh Hạ Sĩ Nhảy Dù trở về đơn vị, và trong một trận chiến quyệt liệt ở Tam Quan, Bồng Sơn, anh đã hy sinh trên trận địa để sang bên kia thế giới với người bạn cố tri ngày nào. Anh Hạ Sĩ sầu vời vợi vỉnh viễn ra đi, nhưng hình ảnh còn ghi mãi mãi trong lòng chúng ta.

Nếu câu chuyện đến đây chấm dứt cũng đã nhiều lạ lùng kỳ diệu về tình bạn, tình chiến hữu, nhưng bức tượng lại còn những kỳ bí khác nữa, có thể vì những kỳ bí mà bức tượng xi măng đã đổi thành tượng đồng. Sau đó, biết bao tin đồn đại về bức tượng hóa thần.


Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Z

Huyền Thoại về Tượng Thương Tiếc Nghĩa Trang Biên Hòa

Chuyện hiển linh xưa nay không hiếm, nhưng những huyền thoại về Tượng Thương Tiếc, sống động như chuyện đời thường, chuyện hàng ngày trước mắt, khiến cho ai nghe cũng cảm động nghiêng mình kính cẩn và hết lòng thán phục.
Huyền thoại về Tượng Thương Tiếc được lan toả khắp nơi và khá nhiều chuyện tình tiết khó hiểu:

- Các xe chở rau từ Đà Lạt về khuya thường gặp một người lính ra chặn xe xin mua rau, khi tới bến kiểm lại tiền chỉ thấy toàn là tiền vàng mã.
- Một chuyện khác xảy ra ở Biên Hoà, vào một buổi sáng, có một quân nhân đặt mua bánh mì khá nhiều, khi giao hàng cho người quân nhân ra về, người chủ cất tiền vô tủ, đến lúc cần tiền lấy hàng, mở tủ ra chỉ thấy toàn tiền vàng mã, trong khi đó mỗi mộ ở nghĩa trang đều được cúng một khúc bánh mì…
- Có một cụ già ở chân núi Châu Thới, đêm nọ trời đã khuya, cụ nghe tiếng gọi ở ngoài xin nước uống. Khi đem nước và đèn ra cho người xin nước, thoạt đầu cụ tưởng như những lần quân đội hành quân vào xin nước. Nhưng khi người lính uống xong, ngẩng mặt lên cám ơn ra đi thì cụ chợt sửng sốt, tự nghĩ “sao lại có người lính giống Tượng Thương Tiếc đến như thế?”. Sáng hôm sau cụ già ra nghĩa trang để kiểm lại, cụ nhận thấy mặt mũi vóc dáng anh lính xin nước tối qua y hệt pho tượng Thương Tiếc, vết sình non hãy còn dính đầy đôi giầy trận, cụ cho rằng đêm qua bức tượng đã hiện thành người. Cụ về thuật lại với bà con ở Suối Lồ Ô, một người đi xem rồi về đồn mười, đồn trăm… lan khắp cả Thủ Đức, Tân Vạn, Biên Hoà, đổ nhau đi coi tượng đài Thương Tiếc làm xe cộ kẹt cứng cả một quãng đường trước cổng nghĩa trang.

- Một chuyện khác, những đêm trăng, những đêm mưa gió trở trời hiu hắt, dân chúng xung quanh vùng nghĩa trang có người nhất quyết chính mắt họ trông thấy người lính giống hệt Tượng Thương Tiếc đi lại trên xa lộ!
Chuyện huyền bí lan truyền rất nhiều trong dân chúng và trong Quân Đội. Một số sĩ quan yêu cầu Chuẩn Úy Thường Vụ Chung Sự Nghĩa Trang cho biết những gì thật sự mắt thấy tai nghe, Chuẩn Úy Thường Vụ kể:
“Nhân một hôm đi Chợ Tam Hiệp sắm đồ giỗ ông già, khi mua xong, tôi cho tài xế đem về nhà trước. Tôi ghé thăm các bạn ở Tam Hiệp và mời họ đến nhà ăn giỗ ngày hôm sau. Khi về, trời sẩm tối, đến cổng nghĩa trang, tôi nghỉ chân dưới bức tượng. Không biết cao hứng thế nào, trước khi lội bộ về nhà, tôi nhìn lên tượng, và nói với giọng điệu cố hữu của một Thượng Sĩ đại đội:
- Ê mày, mai giỗ ông già tao, mày có rảnh ghé nhà tao 2 giờ chiều nhậu chơi.
Nói xong tôi bước về nghĩa trang vì tôi ở phía sau khu nhà phục dịch chung sự. Tám giờ sáng hôm sau, việc cúng giỗ bắt đầu và tiệc nhậu kéo dài đến một giờ chiều. Tiễn khách ra về xong, tôi đi ngủ, phần vừa say, phần vì đêm qua thức khuya. Trong giấc ngủ chập chờn, tôi nghe tiếng gõ cửa ầm ầm. Nhà cửa rung rinh, tôi giật mình la to:
- Ai phá nhà tao đó?
Tiếng gõ cửa vẫn không dứt, tôi bực bội đứng dậy mở cửa, tôi sửng sốt, thấy Tượng Thương Tiếc đứng chình ình trước cửa và nói:
- Chuẩn Úy Thường Vụ bê bối quá, kêu hai giờ chiều đến nhậu, nhưng ông nằm say sưa ngủ tôi nhậu với ai?…
Tôi hoảng, đóng sập cửa lại, không dám ngó ra ngoài. Tôi nghe tiếng cười khằng khặc và bước đi rung rinh nhà, tiếng chân xa dần rồi im bặt”.

Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Đại Đội Chung Sự Nghĩa Trang Biên Hoà kể trường hợp ông gặp Tượng Thương Tiếc ngồi sau xe Jeep của ông:
“Khi chạy xe vào Nghĩa Trang, tôi hay dừng lại, đón những binh sĩ đi bộ từ cổng vào, cho họ đỡ mỏi chân. Một buổi trưa, ăn cơm xong, trở lại làm việc, lúc tới cổng nghĩa trang, tôi dừng xe đón một Hạ Sĩ xin quá giang. Lúc anh ta ngồi vào phía sau, tôi bắt đầu rồ ga, sang tay số tiếp tục chạy vào trong. Rồ ga hoài mà xe không tiến thêm môt tí nào… Tôi quay ra, định nhờ anh lính xuống đẩy giùm… thì thấy bức Tượng Thương Tiếc đang ngồi phía sau. Tôi chưa kịp phản ứng gì thì có tiếng nói cất lên:
- Xe jeep Thiếu Tá sao chở nổi tôi…
Tiếp đó là một tràng cười khằng khặc, đồng thời bức tượng cũng biến mất”.
Vị Thiếu Tá còn kể tiếp:
“Nghĩa trang ở trên đồi vào tháng mưa cỏ mọc um tùm nên phải thuê người vô cắt cỏ. Trong lúc một cô đang cắt cỏ, có một anh binh sĩ đến tán tỉnh, vì quen với lối trêu chọc của lính nên cô chẳng thèm quay lại xem hình dáng người tán tỉnh mình là ai. Cô nghe tiếng người lính hỏi:
- Cô có biết tôi là ai không?
Cô gái vẫn cắm cúi làm việc và trả lời:
- Ông là ai, kệ ông chứ mắc mớ gì tôi…
Bỗng cô gái nghe một tràng cười ngạo nghễ từ phía sau và những bước chân thật nặng nề rung chuyển cả đất. Bấy giờ cô mới quay lại, thấy bức tượng đài kỷ niệm đang đứng trước mặt. Cô la hoảng, chạy vào khu làm việc, kể lại sự tình vừa xảy ra cho tôi nghe, đồng thời cô cũng xin nghỉ việc ngay ngày hôm đó…”

- Một chuyện khác: “Vào giữa một đêm trăng mờ năm 1968, một chiếc xe đò chở đầy hành khách từ miền Trung về, khi tới xa lộ còn cách nghĩa trang quân đội 500 thước, viên tài xế bị ngủ gật nên thắng gấp, khiến bánh xe trợt một đoạn dài, rồi lật nghiêng. Trong lúc mọi người đang khóc than, đang tìm cách đập vỡ cửa kiếng chui ra, thì chợt có tiếng nói vang lên:
- Xin đồng bào bình tĩnh... xin đồng bào bình tĩnh... ai đâu ở đó... đã có lính nhảy dù đến cứu bồ.
Tiếng nói vừa dứt thì xe được đẩy lại dựng đứng như cũ, anh tài xế cùng lơ xe và khách vừa mở cửa ra ngoài, vừa hết lời khen sức mạnh ghê gớm của đại ân nhân. Thế nhưng mọi người chỉ thấy ân nhân dáng người cao lớn đứng sừng sững bên kia đường, rồi ông ta bước từng bước rất dài về phía trước. Tới trước cửa nghĩa trang quân đội thì biến mất. Anh tài xế bỗng la thất thanh, chỉ vào Tượng Thương Tiếc:
- Bà con ơi... ổng đó... ổng đó... Trời ơi... trời ơi... ổng hiển linh cứu bà con mình.
Thế là mọi người vội leo ngay vào trong xe, rồi ai nấy đều chắp tay lạy... đều đọc kinh râm ran... cả kinh Phật lẫn kinh Chúa”.

- Chuyện Tượng Thương Tiếc cứu người bị cướp: “Vào lúc 10 giờ tối tháng 3 năm 1969, có hai cặp tình nhân đi trên hai chiếc Honda ra xa lộ hóng gió, gần tới nghĩa trang thì bị ba chiếc khác chở 6 thanh niên tóc dài ép té bên đường. Liền sau đó 3 tên ngồi phía sau nhảy xuống dùng dao uy hiếp khổ chủ để cướp xe và lấy tiền.
Trong lúc bọn cướp cạn đang trói các nạn nhân, thì bỗng có tiếng hét lớn trên đầu dốc:
- Chớ làm càn... chớ làm càn.
Rồi liền đó xuất hiện ở giữa đường xa lộ một bóng đen... Bóng đen khệnh khạng đi tới, một tên cướp hoảng hốt gào lên:
- Ối giời ơi... ma ma, chạy... chạy...
Thế nhưng không làm sao chúng chạy được, cứ thế đứng sững như trời trồng, bóng đen hai tay xách bổng hai chiếc Honda bỏ bên vệ đường, vừa lúc đó có bốn chiếc xe chạy đến, một xe Cảnh Sát đi tuần, một xe Jeep của bốn quân nhân nhảy dù, trên có một Trung Tá, còn hai xe kia là du lịch. Thấy chuyện lạ, các xe ngừng hết lại. Dưới bóng tối mờ mờ mọi người thấy trên đỉnh dốc có một bóng đen đứng hiên ngang lừng lững. Khi rõ chuyện, Cảnh Sát đến chỗ bọn cướp, đứa nào đứa nấy cứ như bị điểm huyệt. Một người lớn tiếng hỏi:
- Còn ai đứng ở trên kia đó...
Một tràng cười vang lên, rồi một giọng như sấm động...
- Cố gắng, Nhảy Dù... cố gắng.
Như hiểu ra chuyện, vị Trung Tá Nhảy Dù trấn an mọi người:
- Không sao đâu, pho tượng Thương Tiếc đi tuần thôi.
Sau đó ông vẫy tay la to:
- Về nghĩ đi em, khuya rồi... Nhảy Dù...
Bóng đen bỗng đứng nghiêm giơ tay chào:
- Cố gắng... Tuân lệnh Trung Tá”.

Tôi chợt nhớ một đoạn trong bài học thuộc lòng thời xa xưa:

Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước.
Họ là kẻ tự nghìn muôn thuở trước
Đã phá rừng, xẻ núi, lấp đồng sâu
Và làm cho những đất cát hoang vu
Biến thành một dãy sơn hà gấm vóc

Chuyện hiển linh xưa nay không hiếm, nhưng những huyền thoại về Tượng Thương Tiếc, sống động như chuyện đời thường, chuyện hàng ngày trước mắt, khiến cho ai nghe cũng cảm động nghiêng mình kính cẩn và hết lòng thán phục. Sống nằm gai nếm mật bảo vệ quê hương, chết hồn thiêng còn hiện về giúp người hoạn nạn… Dù có bị làm nhục phỉ báng cũng không quên vai trò của người lính chiến.

TƯỞNG NHỚ NGHĨA TRANG BIÊN HÒA


Về thăm Nghĩa trang một chiều gío lộng,
Khung trời xưa chìm đắm ngủ say.
Xa lộ Biên hòa cuồn cuộn gío bay,
Biển đời ai oán, nỗi sầu chứa chan!

Ôi, DŨNG KHÍ ĐÀI âm cảnh mơ màng,
Linh hồn 30,000 Nghĩa sĩ, ngỡ ngàng bơ vơ!
VÀNH KHĂN TANG đẫm lệ sương mờ…
GƯƠM THIÊN lạnh lẽo, ngẩn ngơ gío chiều!

Anh LÍNH TIẾC THƯƠNG, thân ngả bệ xiêu,
Vì thương đồng đội chịu nhiều trái ngang!
ÂM DƯƠNG cách biệt đôi đàng…
Màng đen tội lỗi, bàng hoàng Thần linh.

Bao mầm non trai trẻ, cõi vô hình
Là nơi nương tựa, nghĩa tình nước non.
Niềm tin, sự sống, con cháu Lạc Hồng
Tự do, Hạnh phúc… non sông ba miền.

Với người sống, ỷ thế cậy quyền,
Buồn người khuất mặt... nhãn tiền không sai!
Dòng đời thác nước đổ mau,
Sông sâu, Biển rộng… một màu trong xanh

(ST)
Chuyện Chưa Ai Biết
Có một thời để nhớ - Chút lưu lại
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeWed Aug 14, 2019 8:15 am

.
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Images?q=tbn:ANd9GcSd3QYqTO-kj56YWtfHcFy9CY8OC1bzH6kQrv5BMJkGa63TYOhApw

Người đã khuất

- Truyện Ngắn Guy de Maupassant (1850-1893)

   
Tôi đã yêu nàng đắm đuối! Vì sao người ta yêu? Có kỳ quặc chăng, khi trên đời ta chỉ nhìn thấy có một người, trong đầu óc chỉ có một ý nghĩ, trong lòng chỉ có một ao ước và trong miệng chỉ có một cái tên: cái tên cứ dâng lên không ngừng, dâng lên như nước nguồn, từ đáy sâu thẳm tâm hồn, dâng lên mãi mãi, và ta gọi, ta gọi đi gọi lại, ta thì thầm không dứt, nơi nơi, như một lời cầu nguyện.
   
Tôi sẽ không kể lại câu chuyện của tôi. Tình yêu chỉ có một chuyện, bao giờ cũng một chuyện ấy mà thôi. Tôi đã gặp nàng và yêu nàng. Chỉ có thế. Và tôi đã sống một năm trời trong tình âu yếm của nàng, trong tay nàng, trong sự vuốt ve của nàng, trong ánh mắt nàng, trong những tà áo của nàng, trong lời nàng nói; bị bao bọc, ràng buộc, giam cầm trong tất cả những gì từ nàng mà ra, một cách trọn vẹn đến nỗi tôi không còn biết đêm hay ngày, tôi sống hay chết, ở trên mặt đất cũ kỹ hay ở nơi nào khác nữa.
Và thế là nàng qua đời. Như thế nào nhỉ? Tôi không biết, tôi không biết nữa.
Một tối trời mưa, nàng về bị ướt và hôm sau, nàng ho, khoảng một tuần lễ thì ốm. Chuyện gì đã xảy ra? Tôi không biết nữa.
   
Các thầy thuốc đến, viết lách và ra đi. Người ta mang thuốc lại: một người đàn bà cho nàng uống thuốc. Tay nàng nóng, trán nàng rừng rực và ướt mồ hôi, mắt nàng long lanh và buồn bã. Tôi nói với nàng, nàng trả lời tôi. Chúng tôi đã nói gì với nhau nhỉ? Tôi không biết nữa. Tôi đã quên hết thảy, hết thảy, hết thảy! Nàng qua đời, tôi nhớ rất rõ tiếng thở dài nho nhỏ sao mà yếu ớt, hơi thở cuối cùng. Người hộ lý nói: “Ôi!”. Tôi hiểu, tôi hiểu.
Tôi không còn biết gì nữa. Không biết gì nữa. Tôi thấy một linh mục thốt lên lời này: “Người tình của ông”. Tôi có cảm giác như ông ta xúc phạm đến nàng. Vì nàng đã khuất, người ta không có quyền biết đến điều đó nữa. Tôi đuổi ông ta đi. Một linh mục khác đến. Ông ta rất tốt, rất hiền. Tôi khóc khi ông nói với tôi về nàng.
Người ta hỏi han tôi trăm nghìn điều về việc chôn cất. Tôi không biết nữa. Tuy thế tôi nhớ rất rõ cái quan tài, tiếng búa nện khi người ta đóng nàng vào trong đó. Ôi! Lạy Chúa! Nàng bị chôn đi! Chôn đi! Nàng! Trong cái hố ấy! Có vài người đến, những cô bạn gái. Tôi bỏ trốn. Tôi chạy. Tôi đi rất lâu qua các phố. Rồi tôi về nhà. Ngày hôm sau tôi đi du lịch. Hôm sau tôi trở về Paris.
   
Khi tôi thấy lại căn phòng của tôi, căn phòng của chúng tôi, đồ đạc của chúng tôi, toàn bộ ngôi nhà nơi lưu giữ tất cả những cái gì còn lại của đời một con người sau khi người đó đã chết đi, nỗi buồn của tôi tái phát dữ dội đến nỗi suýt nữa tôi mở cửa sổ, lao người xuống đường. Không thể ở lại được nữa giữa những đồ vật ấy, giữa những bức tường đã bao lấy nàng, và hẳn còn giữ lại trong những vết rạn li ti của chúng hàng ngàn nguyên tử của nàng, của da thịt nàng và hơi thở nàng, tôi cầm lấy mũ, bỏ ra đi. Thốt nhiên lúc ra tới cửa, tôi đi qua tấm gương lớn trong phòng đợi mà nàng cho đặt ở đó để hàng ngày, mỗi khi ra đi nàng ngắm nhìn mình từ đầu đến chân, xem toàn bộ trang phục của mình có được hay không, có chỉnh tề và xinh đẹp hay không, từ đôi giày cho đến mái tóc.   
Và tôi đứng phắt lại trước tấm gương đã bao lần phản chiếu bóng nàng. Đã bao lần, bao lần, đến mức hẳn nó cũng còn giữ lại hình ảnh nàng. Tôi đứng ở đó run rẩy, mắt đăm đăm nhìn vào mặt gương, mặt kính phẳng, sâu, trống rỗng, nhưng đã chứa đựng nàng toàn vẹn, đã chiếm lĩnh nàng cũng y như tôi, y như cái nhìn say đắm của tôi. Tôi thấy dường như tôi yêu tấm gương ấy. Tôi sờ vào nó, nó lạnh lẽo! Ôi! Hồi tưởng! Hồi tưởng! Tấm gương xót xa, tấm gương cháy bỏng, tấm gương sống, tấm gương khủng khiếp, làm đau mọi nỗi đau quằn quại! Sung sướng thay những con người có tấm lòng, y như một tấm gương, nơi đây mọi phản chiếu lướt qua và tan biến, tấm lòng ấy quên đi hết thảy những gì nó đã chứa đựng, tất cả những gì diễn qua trước nó, tất cả những gì đã ngắm nghía, soi mình trong tình thương mến của nó, trong tình yêu của nó! Tôi đau đớn biết bao nhiêu!   
   
Tôi ra đi, và bất giác, không biết, không định, tôi đi về phía nghĩa địa. Tôi thấy ngôi mộ của nàng hết sức đơn sơ, một cây thập tự bằng đá trắng với mấy lời sau: “Nàng đã yêu, đã được yêu, và qua đời”.
Nàng ở đó, ở dưới đó, tàn rữa! Kinh khủng bao nhiêu! Tôi đập đầu xuống đất, nức nở. Tôi ở đó rất lâu. Rồi tôi thấy trời sắp tối. Thế là một ước muốn kỳ quặc, điên rồ, một ước muốn của kẻ tình nhân tuyệt vọng choáng ngợp lấy tôi. Tôi muốn suốt đêm ở bên nàng, đêm cuối cùng, khóc trên mộ nàng. Nhưng họ sẽ nhìn thấy tôi, sẽ đuổi tôi. Làm thế nào? Tôi khôn khéo. Tôi đứng dậy, lang thang vơ vẩn trong thành phố của những người đã khuất này. Tôi đi, tôi đi. Sao thành phố này nhỏ bé như vậy bên cái thành phố kia, nơi người ta sống! Và tuy thế, những người chết này, sao họ lại đông đảo đến thế hơn những người sống. Chúng ta cần nhà cao, cần phố sá, cần bao nhiêu là chỗ cho bốn thế hệ cùng nhìn ánh sáng ban ngày một lúc, uống nước nguồn, uống rượu của cây nho và ăn bánh của đồng ruộng. Và với tất cả thế hệ người đã chết, với toàn bộ bậc thang nhân loại xuống đến tận chúng ta đây, hầu như không có gì cả, chỉ một cánh đồng, hầu như không có gì cả! Đất đòi lại họ, sự lãng quên xóa nhòa họ. Vĩnh biệt!  
Ở cuối nghĩa địa có người lai vãng, tôi bỗng thấy khu nghĩa địa bỏ hoang, nơi những người quá cố xa xưa đã hòa mình với đất, nơi chính những cây thập tự cũng rữa nát, nơi mai đây người ta sẽ chôn những người đến sau cùng. Khu nghĩa địa đầy những hoa hồng dại, những cây trắc bá cường tráng xanh đen, một khu vườn tráng lệ và u buồn, được nuôi dưỡng bằng thịt người.      

Tôi chỉ có một mình, mỗi một mình. Tôi nép vào một gốc cây xanh. Tôi ẩn mình hoàn toàn trong đó, giữa những cành lá mỡ màng và âm u. Và tôi chờ đợi, bám chặt vào thân cây như một kẻ chết đuối bám lấy một vật trôi dạt.     
Khi đêm đã tối đen, đen nghịt, tôi rời nơi ẩn náu và đi nhẹ nhàng, êm, chậm bước trên mảnh đất đầy người chết này. Tôi lang thang hồi lâu, hồi lâu, hồi lâu. Tôi không tìm lại được nàng. Hai tay giơ ra, mắt mở, vấp tay vấp chân, vấp đầu gối, vấp cả đầu nữa vào các ngôi mộ, tôi đi và không tìm thấy nàng. Tôi sờ soạng, tôi rờ rẫm như người mù tìm đường, tôi rờ rẫm những viên đá, những cây thập tự, những hàng rào sắt, những vòng hoa bằng thủy tinh, những vòng hoa thực tàn héo. Tôi dùng ngón tay sờ trên chữ để đọc các tên người. Đêm tối làm sao! Đêm tối làm sao! Tôi không tìm lại được nàng!   
Không có trăng! Đêm tối làm sao! Tôi sợ, một nỗi sợ khủng khiếp trong những lối đi hẹp, giữa hai dãy mồ mả này! Những nấm mồ! Những nấm mồ! Vẫn những nấm mồ! Bên phải, bên trái, đằng trước tôi, xung quanh tôi, khắp nơi là những nấm mồ! Tôi ngồi lên một ngôi mộ, vì tôi không thể đi được nữa, đầu gối tôi khuỵu xuống. Tôi nghe thấy tim tôi đập. Và tôi còn nghe thấy một tiếng gì nữa. Gì nhỉ? Một tiếng động mơ hồ không biết gọi là cái gì. Phải chăng nó ở trong đầu óc hoảng loạn của tôi, trong đêm tối dày đặc, hay dưới lòng đất bí ẩn kia, dưới lòng đất gieo đầy thây người, cái tiếng động ấy? Tôi nhìn quanh tôi. 
 
Tôi đã ở lại đó bao lâu? Tôi không biết. Tôi bị tê liệt vì kinh hoàng, bị say vì khiếp đảm, sắp la hét lên, sắp chết. Và bỗng nhiên tôi thấy dường như phiến đá trắng tôi đang ngồi rung động. Quả thật, nó rung động, như thể người ta nâng nó lên. Tôi nhảy phắt sang ngôi mộ bên cạnh, và tôi thấy, vâng, tôi thấy phiến đá tôi vừa rời bỏ đứng thẳng dậy, và người chết xuất hiện, một bộ xương trần trụi đang khom lưng hất đá đi. Tôi nhìn thấy, nhìn thấy rất rõ, dù đêm tối đen kịt. Tôi đọc được trên cây thập tự: “Nơi đây yên nghỉ Giắc Ô-li-văng, qua đời vào tuổi năm mươi mốt. Người quý yêu gia đình. Người nhân hậu và hiền lương, và người tạ thế trong sự bằng an của Chúa”.     
Bây giờ người chết cũng đọc những điều viết trên mộ mình. Rồi y nhặt một viên đá ở lối đi, một viên đá nhỏ sắc, y cạo bỏ rất cẩn thận những điều đó. Y xóa hẳn những điều ấy, chậm rãi, đôi mắt trống rỗng nhìn vào chỗ vừa rồi chúng được khắc lên, và dùng đầu khúc xương xưa kia là ngón tay trỏ, y viết lên những chữ lấp lánh sáng giống như những dòng vạch lên tường bằng đầu diêm: “Nơi đây yên nghỉ Giắc Ô-li-văng, qua đời vào tuổi năm mươi mốt. Do tàn nhẫn, y đã làm bố y chóng chết, người bố mà y mong muốn thừa kế gia sản, y hành hạ vợ, giày vò con, lừa đảo láng giềng, hễ có dịp là ăn cắp và chết đi khốn nạn”. Khi đã viết xong, người chết im lặng ngắm nhìn công trình của y. Và quay lại, tôi thấy tất cả các ngôi mộ đều mở, tất cả các thây ma đều ra khỏi mộ, tất cả đều xóa bỏ những lời dối trá thân nhân họ gi trên mộ, để lặp lại sự thật.      
Và tôi thấy tất cả đều đã từng là đao phủ hành hạ người thân cận, đều hằn thù, bất lương, giả dối, điêu toa, lừa đảo, hay nói xấu, hay ganh ghét, họ đã ăn cắp, đã bịp bợm, đã làm mọi việc đê nhục, mọi việc xấu xa, những ông bố nhân hậu ấy, những bà vợ thủy chung ấy, những cậu con trai tận tụy ấy, những cô thiếu nữ trong sạch ấy, những thương gia liêm khiết ấy, những người đàn bà được bảo là tốt đẹp không chê trách được ấy.  
   
Tôi nghĩ rằng cả nàng chắc cũng phải ghi sự thật ấy lên mộ mình. Và giờ đây không còn sợ hãi, chạy giữa những quan tài hé mở, giữa những thây ma, giữa những bộ xương, tôi đi về phía nàng, tin chắc là tôi sẽ tìm được ngay nàng. Tôi nhận ra nàng từ xa, tuy không nhìn thấy gương mặt phủ vải liệm. Và trên cây thập tự bằng đá mà hồi nãy tôi đọc: “Nàng đã yêu, đã được yêu và qua đời”, tôi thấy: “Một hôm ra đi lừa dối người yêu, nàng bị mưa, cảm lạnh và qua đời”.  
Hình như người ta nhặt được tôi, bất tỉnh nhân sự vào sáng sớm, bên một nấm mồ.
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeWed Oct 23, 2019 7:45 am

.
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Images?q=tbn:ANd9GcT0iZiLNajmcacHoQBTC5Fh9ZPWXD3s-AEueqVvVmhVzTMeRTWWjg

Than Đước Cà Mâu

- Trần Mộng Tú


Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con
(Bùi Giáng)

Thi đến gặp tôi, tối hôm tôi đang sửa soạn về Việt Nam. Chuyến bay một giờ sáng, cất cánh từ Seattle. Tôi phải có mặt ở phi trường trễ lắm là mười giờ.

Thi vừa ngồi phụ tôi thu xếp hành lý vừa nói khe khẽ.
- Mắt em bây giờ tệ quá. Lái xe mỗi lần nhìn xa em phải ngẩng thật cao đầu lên, vì một nửa phần đồng tử phía trên của em không nhìn rõ nữa.
- Nguy hiểm quá, thế em đi khám mắt chưa? Tôi lo lắng hỏi.
- Có em đã đi bác sĩ chuyên môn rồi, chắc chỉ có cách thay mắt thôi. Không kiếm được thì chỉ đôi ba năm nữa là em mù.
Tôi bàng hoàng vì cái tin lạ lùng này. Thay mắt, kiếm ở đâu ra mắt mà thay bây giờ. Tôi buông mấy cái quần áo đang cho nốt vào va-li xuống đất, lại thật gần, nhìn vào mắt Thi.
- Đâu, đưa chị xem nào, em nói gì nghe sợ thế.
Thi ngồi thẳng lưng lại trên ghế, hai tay để trên đùi, mặt ngửng lên một chút, cô mở to hai mắt, nói khẽ:
- Chị xem đi.
Tôi cúi xuống, nhìn vào đôi mắt đang mở to của Thi, hỏi còn khẽ hơn cô:
- Cả hai mắt hả em?
- Dạ
Tôi chăm chú nhìn, chẳng thấy gì khác biệt, dưới hàng mi là đôi mắt quen thuộc, tròng đen long lanh luôn ánh lên một chút tinh nghịch của Thi, tôi nói:
- Sao chị không thấy cái gì khác lạ cả.
Chị nhìn kỹ ở tròng đen đi.
Tôi nhìn thật kỹ, có, tôi thấy, có một cái viền trắng thật mỏng ôm đè trên tròng đen ở cả hai mắt như một nét vẽ thật mảnh của trăng lưỡi liềm. Tôi kéo một chiếc ghế, ngồi sát xuống cạnh Thi, cầm tay cô bóp nhè nhẹ, im lặng.

Hai chúng tôi ngồi im một lúc khá lâu, Thi cất tiếng trước:
- Em biết, chỉ có chị mới giúp được em chuyện này. Chị thương em nhé.
- Thì em cứ nói đi, việc gì chị làm được chị sẽ làm ngay cho em.
- Chị về Việt Nam, tìm mua cho em một đôi mắt mới.
Tôi ngẩn người ra hỏi lại, cho rõ:
- Em định nói chị mua hộ cặp lông nheo giả phải không?
Thi cười cười:
- Không chị ạ, mắt, chứ không phải lông nheo.
- Ai nói với em là có thể mua mắt ở Việt Nam?
- Ở Việt Nam bây giờ cái gì cũng mua được, nếu biết chỗ và có tiền, em biết chị sẽ tìm được.
Thi nói với giọng rất quả quyết, như việc mua mắt ở Việt Nam, Thi đã từng mua rồi. Tôi hứa nhưng không tin ở chính lời nói của mình.
- Ừ thì chị sẽ tìm, tìm được chị sẽ báo cho em biết để em sang thay, nhưng em có biết là em có thể ghi tên xin mắt ở chương trình Organs Donation chứ?
- Em biết, nhưng chờ ở đó lâu lắm, chắc gì đã đến phiên mình. Ai cũng nói với em Việt Nam bây giờ cái gì cũng nhất hết, chị chịu khó hỏi hộ em.

Tôi về Việt Nam, cái việc Thi nhờ là một nỗi ám ảnh khôn nguôi, tôi biết đó là một điều tôi không thực hiện được. Tôi đã hoãn tất cả chuyến đi Tours với thân nhân, đi gõ cửa các văn phòng bác sĩ Nhãn Khoa, đi hỏi han tất cả những người quen, lạ, tôi gặp trong hai tuần nay. Mỗi người nói một cách, có người bảo cứ ráng tìm đi, Việt Nam cái gì mà không có, có tiền là có hết.
Hy vọng tìm được cho Thi “Đôi Mắt Sống” mỗi ngày một nản. Tôi email cho Thi nói, chắc là không thể nào thực hành được cái nhiệm vụ Thi giao phó. Thi nên ghi tên và chờ ở chương trình Organs Donation ở Mỹ thôi. Thi trả lời ngắn, nhưng rất quả quyết: “Em biết chị sẽ tìm được”. Câu trả lời làm tôi phát hoảng.
Một hôm tôi đang đi bộ gần công viên Tao Đàn, chán nản vì sự vô lý của bạn mình, giao cho mình một cái nhiệm vụ không thể nào thực hiện được, đành thất hứa thôi. Đang lang bang nghĩ ngợi, bỗng thấy một đám đông đang tụ lại, bâu kín lấy hai chiếc xe bít bùng của nhà nước vừa đậu lại trước một cái trụ sở công an. Tiếng người đi đường, lao xao: “Xe bắt gái, bắt gái.” Tiếng mấy người đàn ông mặc đồng phục xanh mầu lá cây quát tháo: “Lui ra, lui ra”. Hai chiếc xe trút xuống vệ đường khoảng gần ba mươi cô, các cô còn trẻ lắm, khoảng 16, 17 đến 25 tuổi là cao, họ mặc váy ngắn, hoặc quần jeans bó, mặt phấn, môi son, nhưng vẫn rõ nét gái tỉnh lẻ.
Người đi đường lao xao: “Mấy cô ở ổ mại dâm hay ở văn phòng môi giới hôn nhân đấy. Đang đi khách hay đang để tụi Đài Loan, tụi Đại Hàn kiểm tra hàng thì bị bắt đấy, rõ khổ.”
Các cô líu ríu bước cả vào chân nhau, một tay nắm chặt tay nhau, một tay đưa lên che mặt. Bàn tay các cô nhỏ quá, không thể che kín mặt.Che được mắt mũi, thì hở môi, những đôi môi buồn như cánh hoa héo; che được mũi môi, thì hở hai con mắt, hai con mắt thất thần đến tội nghiệp.
Người xem lại nói: “Toàn gái miền Tây Nam Bộ cả đấy, trông biết liền à.” Tôi xa quê nhà đã lâu, không biết giữa gái miền Tây và gái miền khác, khác nhau thế nào. Chỉ thấy thương cho con gái Việt Nam quá đỗi.

Đêm hôm đó, khuya lắm tôi mới đi ngủ, khó ngủ quá, trằn trọc mãi gần sáng mới thiếp đi. Tôi mơ thấy mình hình như đang đi vào một ngôi chợ ở Sóc Trăng hay Cà Mâu gì đó. Tôi dừng lại ở một gian hàng bán tôm khô, cá khô. Cái gian hàng nhỏ xíu thế mà có cả mấy chục cô tranh nhau bán, họ thấy tôi vào, họ ùa cả ra một lúc. Tôi nhìn họ, thấy quần áo họ lạ lùng quá, hình như toàn bằng giấy cả, tiếng giấy chạm vào nhau nghe sột soạt mỗi khi họ cử động, người nào cũng mặt trắng như sáp, đặc biệt hai con mắt của họ rất to, không có tròng trắng, chỉ toàn tròng đen, một màu đen như than, đen như mực tầu, đen như đêm ba mươi vậy. Những đôi mắt buồn đến não lòng.
Họ tranh nhau bán hàng cho tôi, tôi nhìn xuống những chiếc khay họ đưa ra mời: Có khay đựng tôm khô, có khay đựng cá khô, nhưng có khay toàn những đôi môi mầu hồng, mầu đỏ, có khay đựng những quả tim còn thoi thóp đập, có khay đựng toàn những cặp mắt buồn, đen tuyền. Những cặp mắt như họ vừa móc ở trên mặt xuống để vào khay. Tôi chọn mua một cặp mắt, tôi cho là đen nhất trong khay. Nhưng những cô khác, chen nhau cầm những khay hàng của mình trút xuống người tôi. Tôi sợ hãi đi giật lùi, rồi lao đầu chạy ra khỏi chợ. Tất cả khay hàng đổ tràn trên mặt đất. Tôi dẫm lên tôm khô, cá khô, lên môi hồng, lên tim đỏ…. Tôi chạy, chạy, chạy.

Tôi choàng tỉnh dậy, thấy như tay mình đang nắm chặt một vật gì, tôi mở từ từ bàn tay ra, đó hai mảnh than đước Cà Mâu, đen nhánh, chỉ nhỏ bằng hai tròng mắt.
Tôi mang cái laptop ra: Thi, em nói đúng. Ở Việt Nam, cái gì cũng có, chị sẽ mang về cho em một cặp mắt mới, nhưng là cặp mắt rất buồn. Em nhận nhé!

Trần Mộng Tú
Tháng 4/2011
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeFri Dec 27, 2019 8:46 am

.
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Images?q=tbn:ANd9GcR2dLRqhCSiMdrp0QwT48kV7MbFPCQcwsYKsma1JZR5SA3EPMt1Gg&s

Nghiệp Báo 
- Truyện dân gian Nhật Bản

Lời Mở Đầu:
Đạo Phật đóng một vai trò quan trọng trong văn hóa Nhật bản, và ảnh hưởng của đạo Phật đi sâu vào văn học của xứ này. Nhiều tư tưởng Phật giáo bắt rễ vào văn học dân gian Nhật bản.
Theo lý thuyết Luân Hồi của nhà Phật thì một người không chỉ sống một kiếp, một đời mà trải qua rất nhiều kiếp liên tục qua sự đầu thai. Và cũng theo lý thuyết đó thì con người phải chịu hậu quả của những việc làm trong tiền kiếp của mình. Trong đời sống hiện tại, con người phải trả nợ cho Ác Nghiệp đã phạm trong kiếp trước. Thêm vào lý thuyết Nghiệp Báo là sự mê tín của quần chúng tin rằng chính những người chết có bổn phận phải đòi sự trả nợ này.
Truyện ngắn Nghiệp Báo dưới đây là một trong những truyện Nhật Bản phản ảnh sắc thái trên của Phật giáo.


Phu nhân của Đại Lãnh chúa sắp từ trần, và chính bà cũng biết rằng bà sắp chết đến nơi. Bà đã nằm liệt giường ngay từ đầu mùa thu của niên hiệu Bunsei thứ mười. Bây giờ đã là tháng thứ tư của niên hiệu Bunsei thứ mười hai rồi, và hoa anh đào đang độ nở hoa. Bà nhớ tới những cây anh đào ngoài vườn, và sự hân hoan của mùa xuân. Bà cũng nghĩ tới các con. Bà nghĩ đến các người hầu thiếp của chồng – đặc biệt là nàng Yukiko, mới có mười chín tuổi.

Đại Lãnh chúa nói với vợ: “Phu nhân yêu quý, nàng đã đã đau đớn quá nhiều trong ba năm dài vừa qua. Ta đã làm tất cả những gì có thể để nàng bình phục, kề cận săn sóc nàng ngày đêm, và thường ăn chay cầu nguyện cho nàng. Nhưng mặc dù sự chăm sóc yêu thương của ta cũng như tài năng của các lương y, giờ đây dường như ngày tàn sinh của nàng không còn xa mấy. Chắc chắn ta và mọi người sẽ đau buồn hơn nàng, bởi vì nàng sắp lìa xa một nơi mà Đức Phật gọi rất đúng là “ngôi nhà thế gian đang cháy”. Ta sẽ cho tổ chức tang lễ theo đúng mọi nghi thức để giúp nàng sớm được siêu sinh tịnh độ – dù tốn kém thế nào cũng được; tất cả chúng ta sẽ không ngừng cầu nguyện cho nàng để nàng khỏi phải lang thang trong chốn U Minh, và mau sớm nhập cõi Niết Bàn, và thành Phật.”
Đại Lãnh chúa nói một cách vô cùng dịu dàng và vuốt ve bà vợ. Bà vợ mắt vẫn nhắm chặt, lên tiếng trả lời chồng bằng một giọng nhẹ như tiếng côn trùng:
“Thiếp biết ơn, vô cùng đội ơn, những lời nói tử tế của tướng công… Phải, đúng như tướng công nói, thiếp đã bịnh suốt ba năm dài, và đã được chăm sóc bằng mọi cách chữa trị và tình thương… Vậy thì tại sao thiếp lại quay đi khỏi con đường Chánh Đạo trong lúc sắp lìa cõi đời? Có lẽ nghĩ tới chuyện trần thế lúc này thực là không phải; nhưng thiếp có một lời cầu xin cuối cùng — chỉ một thôi… Hãy gọi nàng Yukiko lại đây cho thiếp. Tướng công biết đấy, thiếp yêu nàng như một người em gái. Thiếp muốn nói với nàng về công việc trong nhà này.”

Yukiko tới theo lời triệu của Đại Lãnh chúa, và vâng theo dấu hiệu của ông, nàng quỳ xuống bên cạnh giường. Phu nhân mở mắt ra, nhìn Yukiko và nói:
“A Yukiko đây rồi… Hãy sát lại đây chút nữa để em có thể nghe ta rõ hơn: ta không thể nói to được… Yukiko, ta sắp chết rồi. Ta hy vọng em sẽ trung thành trong mọi việc đối với tướng công, vì ta muốn em giữ địa vị của ta sau khi ta đi rồi… Ta hy vọng em sẽ được tướng công yêu dấu mãi. Phải, yêu gấp trăm lần so với ta, và muốn rằng em sẽ được sớm nâng lên địa vị cao hơn nữa, và trở thành người vợ chính thức vinh dự của tướng công… Và ta xin em lúc nào cũng kính yêu tướng công; đừng bao giờ cho phép một người đàn bà khác cướp đi tình yêu của tướng công… Đó là điều ta muốn nói với em, em Yukiko thân yêu… Em có hiểu không?”
Yukiko lên tiếng phản đối, “Thưa phu nhân, xin đừng nói những điều kỳ lạ đó với em. Phu nhân đã biết em là phận nghèo hèn; em đâu có bao giờ mơ ước được làm vợ chính thất của tướng công đâu!”
Phu nhân nói lại bằng giọng khàn khàn: “Không, không! Đây không phải là lúc nói những lời nghi lễ khách sáo; chúng ta chỉ nên nói thực với nhau thôi. Sau khi ta chết rồi, em sẽ được nâng lên địa vị cao; và bây giờ ta bảo đảm với em rằng ta ước muốn em sẽ là chính thất của tướng công – phải, Yukiko, ta ước muốn như vậy hơn cả ta muốn trở thành Phật nữa… À, ta suýt quên mất! – Yukiko, ta muốn em làm một việc cho ta. Em biết rằng trong vườn có một cây anh đào nở hoa kép – cây ấy được đem đến đây năm kia từ núi Yoshino thuộc vùng Yamato. Ta được biết cây ấy giờ đang nở hoa, và ta rất muốn trông thấy cây ấy nở hoa! Chỉ một lát nữa ta sẽ chết. Ta phải xem cây hoa ấy trước khi ta chết. Bây giờ ta mong em cõng ta ra ngoài vườn – ngay lập tức, Yukiko, để ta được xem cây hoa đào… Phải, cõng trên lưng em, Yukiko; hãy cõng ta trên lưng em.”

Trong lúc yêu cầu như vậy, giọng của bà dần dần trở nên trong trẻo và mạnh mẽ, như thể là sự ao ước mãnh liệt đã cho bà thêm sức mạnh; rồi bỗng nhiên bà òa khóc. Yukiko quỳ bất động, không biết phải làm gì; nhưng Đại Lãnh chúa đã gật đầu đồng ý.
Ông nói, “Đây là ước muốn cuối cùng của phu nhân trên đời. Phu nhân luôn luôn yêu hoa anh đào; và ta biết rằng phu nhân rất muốn trông thấy cây anh đào Yamato đó nở hoa. Nào, Yukiko yêu quý, hãy cho phu nhân được toại nguyện.”
Như một nhũ mẫu quay lưng lại cho đứa trẻ để đứa trẻ có thể bám vào lưng, Yukiko đưa vai cho người bệnh và nói: “Thưa phu nhân, em sẵn sàng rồi. Xin cho em biết em làm thế nào cho vừa ý phu nhân.”
“Như thế này đấy!”, người đàn bà sắp chết trả lời và vươn người lên với một sức mạnh lạ lùng và bám lấy vai Yukiko. Nhưng ngay khi bà ta thẳng người được thì bà ta luồn hai bàn tay gầy guộc qua vai Yukiko, bên dưới chiếc áo choàng ngoài, và nắm chặt lấy hai bầu vú của cô gái, và bật lên một tràng cười độc ác.
Bà ta kêu lên: “Ta đã mãn nguyện rồi. Ta đã đạt được ước nguyện hoa anh đào rồi (1) – nhưng không phải là hoa anh đào ngoài vườn! … Ta không thể chết được mà chưa được toại nguyện. Bây giờ ta đạt được rồi! Ôi sung sướng quá!”
Nói thế xong bà ta gục xuống về phía trước, trên lưng cô gái đang cúi xuống, và tắt thở.

Ngay lập tức những người hầu định nhấc xác bà ta ra khỏi lưng của Yukiko và đặt lại lên giường. Nhưng thực là lạ lùng! – cái việc dễ dàng đó không thể thực hiện được. Hai bàn tay lạnh lẽo đã dính chặt vào hai bầu vú của người con gái bằng một cách không giải thích được, và có vẻ như đã ăn sâu vào da thịt. Yukiko bất tỉnh vì sợ và đau đớn.
Các danh y được mời tới ngay, nhưng họ không thể hiểu được tại sao lại như vậy. Không một y thuật thông thường nào có thể tháo gỡ được hai bàn tay chết ra khỏi thân thể nạn nhân; hai bàn tay dính chặt đến nỗi bất cứ cố gắng cậy gỡ nào cũng làm chảy máu. Đó không phải là những ngón tay bám chặt vào da thịt, mà vì da thịt của lòng bàn tay người chết đã dính liền làm một với da thịt trên vú cô gái.
Lúc đó vị danh y tài giỏi nhất tại Yedo là một người ngoại quốc – một bác sĩ giải phẫu người Hòa Lan. Người ta quyết định cho mời vị bác sĩ ấy. Sau khi khám xét cẩn thận, bác sĩ nói rằng ông ta không thể hiểu được trường hợp này, và để giải thoát ngay cho Yukiko thì chỉ có một cách là cắt hai bàn tay ấy ra khỏi cái xác chết. Bác sĩ tuyên bố việc tách hai bàn tay khỏi vú cô gái rất là nguy hiểm. Người ta chấp nhận lời khuyên của bác sĩ, và hai bàn tay bị chặt từ cổ tay. Nhưng hai bàn tay vẫn còn bám chặt vào vú, và chỉ ít lâu sau thì hai bàn tay ấy đen lại và khô queo, giống như hai bàn tay của một người chết đã lâu ngày vậy. Nhưng đây chỉ là sự khởi đầu của một hình phạt kinh hoàng. Mặc dầu có vẻ khô héo và không còn huyết sắc, nhưng hai bàn tay đó không chết. Thỉnh thoảng hai bàn tay vẫn cử động, một cách lén lút giống như hai con nhện xám khổng lồ. Và hàng đêm sau đó – bao giờ cũng bắt đầu từ giờ Sửu – hai bàn tay bắt đầu bóp nắn và hành hạ. Chỉ tới giờ Dần thì cơn đau mới ngừng lại.

Yukiko đã xuống tóc quy y, và trở thành một ni cô khất thực, lấy đạo hiệu là Dassetsu. Nàng thuê làm một bài vị mang lời cầu nguyện cho vị phu nhân đã chết và mang theo trên con đường lang thang khất thực của nàng. Hàng ngày nàng quỳ trước bài vị cầu xin sự tha thứ của người chết, và hành lễ theo nghi thức Phật giáo để cho cái linh hồn ghen tuông kia được yên nghỉ. Nhưng cái ác nghiệp đã gây ra sự đau đớn này đã không tỏ ra ngừng chán.
Mỗi đêm tới giờ Sửu hai bàn tay không bao giờ quên hành hạ nàng trong suốt mười bảy năm – theo lời các nhân chứng đã được nghe nàng kể chuyện, khi nàng dừng lại một buổi tối tại nhà Noguchi Dengo Zayémon, trong làng Tanaka thuộc quân Kawachi trong tỉnh Shimotsuké.
Đó là năm thứ ba của triều đại Kokwa. Kể từ đó người ta không nghe nói gì về Yukiko nữa.

(Dịch từ cuốn 50 Great Oriental Short Stories)

Chú thích: (1) Theo truyền thống Nhật bản thì vẻ đẹp tình dục và thể xác của một người đàn bà được ví như một bông hoa anh đào, trong khi vẻ đẹp tinh thần bên trong của người đàn bà được ví như một bông hoa mai.
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeSun Jan 05, 2020 2:24 pm

.

Người và quỷ
- Nguyễn Đình Bổn


Mới sinh ra, tôi là đứa bé khóc đêm rất dữ. Khóc ằng ặc từ đêm này qua đêm khác, đôi khi lại ré lên như thể bị một bàn tay vô hình nào đó cấu véo. Tròn hai tuổi tôi vẫn còn mang chứng bịnh ấy. Cho đến một hôm, ba tôi lặn lội đi tìm một người bà con xa, có chồng là pháp sư nổi tiếng và được ông ấy cho một lá bùa. Lạ thay, khi ba tôi đem đạo bùa ấy về đeo vào cổ tôi thì chứng khóc đêm ngỡ là bất trị kia bớt dần rồi dứt hẳn.
Sau đó vài năm, chiến tranh càng lúc càng diễn ra khốc liệt, gia đình tôi phải tản cư luôn để tìm một chốn an toàn. Trong cuộc hành trình chạy trốn đạn bom ấy, có lần ba tôi đưa cả gia đình ghé nhà người bà con kia. Lúc đó tôi vẫn còn nhỏ, chưa kịp hiểu và nhớ được gì nhưng sau này khi dần lớn lên, xa gia đình và xa hẳn nơi chôn nhau cắt rốn của mình tôi vẫn nhớ hoài quê hương qua những câu chuyện kể ngày xưa của ba mẹ tôi.
Mới sinh ra tôi là đứa bé khóc đêm rất dữ nhưng lớn lên tôi trở thành một kẻ mơ mộng vô phương cứu chữa…

Người con gái ấy một thời đẹp nhất vùng phố cổ và là con duy nhất của một ông chủ tiệm cao lầu. Mười sáu tuổi, nàng đã được nhiều gia đình danh giá, giàu có nhờ mối mai dạm hỏi. Thế nhưng, thật bất ngờ gia đình nàng nhận trầu cau của một… ông phù thủy đã ngoài tuổi bốn mươi và sau đám cưới nàng theo hẳn về quê chồng. Quanh cái đám cưới hơi lạ đời ấy có biết bao nhiêu lời thêu dệt, đàm tiếu nhưng về quê hương chồng nàng vẫn tiếp tục là đầu đề cho bao câu chuyện ngồi lê đôi mách khác. Đàn bà đẹp thường là nạn nhân của chính mình là vậy. Ông ta dùng bùa để quyến rũ bà ấy, một đạo “bùa yêu”. Những người ưa tán chuyện bảo vậy và kể y như thật về chuyện thầy Tám (tên ông thầy phù thủy) đi xuống Hội An chữa bệnh điên, ghé ăn cao lầu và phải lòng cô con gái đẹp…

Không biết đúng sai thế nào nhưng dù gì, khi đã vang danh là pháp sư cao tay ấn nhất vùng, thấy Tám vẫn thuộc vào những người giàu có nhất vì tiền chữa bệnh điên thì đòi bao nhiêu mà chẳng được! Sống giữa cơ ngơi bề thế nhưng gần như biệt lập với xung quanh, nàng hoa khôi phố Hội nhanh chóng trở nên một thiếu phụ u sầu. Chồng nàng thường đi chữa bệnh xa, khi mười ngày, khi nửa tháng mới về, mà khi ông ở nhà thì cuộc sống của một pháp sư cũng rất khác biệt so với người thường. Sập tối là ông bắt đầu cúng, luyện đan, miệng lúc nào cũng lẩm bẩm đọc thần chú. Khi ngủ, ông ngủ một mình. Trên bộ ngựa bằng gỗ gụ – nơi mà với bàn thờ tổ là hai nơi không có người thứ hai được phép tới gần – luôn có ba cái gối săng (gối bằng gỗ) lớn. Ngủ, ông gối một cái còn hai cái đặt hai bên ngang với tầm tay. Cứ cách độ nửa giờ, một tiếng “đùng” thật lớn lại vang lên. Đó là khi ông nện gối săng xuống mặt phản ngựa để cảnh báo những tà ma quỷ quái nào đó đang lăm le lợi dụng giấc ngủ mà quấy nhiễu ông! Điều lạ là dù đôi tay hoạt động cách khoảng và liên tục như vậy, thầy Tám vẫn ngủ say, ngáy như sấm. Chỉ có những người lần đầu tiên đến ngủ nhờ – như gia đình tôi lúc tản cư là hoảng hốt giật mình dù nằm tận nhà sau.
Ba năm đã qua, người thiếu phụ vẫn không sinh được cho ông đứa con nào mà ngày càng héo hắt như những bông hoa cắm trong chiếc bình thiếu nước. Rồi trong một chuyến đi chữa bệnh xa, ông dẫn một chàng trai lạ trở về và bảo ngắn gọn:
- Thằng nào siêng, tôi thuê nó về làm ruộng, làm công việc nhà!
Những lời xì xào lại chui rúc khắp nơi khi người thanh niên ấy về làm đầy tớ nhà thầy Tám. Anh ta cao lớn, da nâu bóng. Một thanh niên đẹp rắn chắc tiêu biểu cho những chàng trai vùng biển. Thế nhưng không ai tin đó là một thanh niên bình thường. Đó là một con quỷ! Không biết từ nguồn tin nào người dân bảo vậy. Đúng hơn là cái thể xác cường tráng, hấp dẫn kia chứa chấp một con quỷ thay cho linh hồn của người. Ông ta dùng thần thông để bắt nó về đây để làm đầy tớ không công nhưng rồi một ngày nào đó ông ta phải trả giá. Chỉ cần một chút sơ suất là nó sẽ vặn cổ. Hãy cứ trông cái cách nó làm hùng hục từ hừng sáng đến nửa đêm và cứ như vậy từ ngày này sang ngày khác không hề nghỉ ngơi cũng đủ biết. Chỉ có sức quỷ mới làm được như vậy! Và ánh mắt lúc nào cũng u uất, cũng căm thù một điều gì đó. Nhất định đó không phải là ánh mắt của một con người!
Những lời xì xầm ấy rồi cũng đến tai thấy Tám. Ông cười khà khà và nói với nhiều người, nửa như cố ý nửa như đùa:
- Đúng là đồn đại. Nhưng mà họ có lý! Dĩ nhiên chỉ có thầy Tám này mới có khả năng bắt và sai khiến quỉ mà thôi!
Và cũng không biết câu chuyện ấy đúng sai thế nào, nhưng về phần anh ta, con người – quỷ ấy chỉ biết làm việc và làm việc. Làm nhiều đến nỗi một tay đầy tớ siêng năng nhất của một bá hộ keo kiệt, tham công tiếc việc nhất chắc cũng phải vị nể. Cày ruộng, tát nước, xay lúa, giã gạo, bửa củi… không có việc gì mà anh từ nan, chỉ có một điều là rất khó mà nghe được từ cái miệng ấy một điều gì ngoài những tiếng “vâng dạ” ậm ự trong họng.

Thầy Tám vẫn đi “cứu nhân độ thế” để thu về những túi bạc lớn rồi từ đó sinh dần ra bao nhiêu là ruộng vườn, của chìm của nổi. Ông đi, mải miết như một nhà truyền đạo chân chính và hầu như ít chú ý đến người vợ trẻ đẹp mà ông “nhốt” giữa ngôi nhà to rộng của mình!
Đúng hơn, giờ đây người thiếu phụ ấy đã có thêm một người để sai bảo. Bao nhiêu năm đã trôi qua trong nỗi cay đắng mà nàng đem giấu rất sâu trong trái tim đã từng sôi nổi. Rồi người thanh niên được cho là hiện thân của quỷ ấy về làm đầy tớ. Nhưng hắn chỉ là một cái bóng. Một cỗ máy hoặc một con bù nhìn được người chồng phù thủy của nàng phù phép để bắt phải hoạt động thì đúng hơn!
Nàng vẫn không biết gì về hắn, không biết cả tên. Khi ở nhà, muốn sai bảo điều gì thầy Tám chỉ gọi hắn là “mày” một cách khinh miệt. Đôi lúc nàng nhìn trộm hắn và tự hỏi: Tại sao hắn lại làm nhiều như vậy? Hắn không nói chuyện gì với bất cứ ai. Cả nàng, với chồng nàng và bà lão giúp việc. Thậm chí với cả con mèo, con chó hắn cũng lảng tránh. Buổi sáng, khi nàng thức dậy, hắn đã xong rất nhiều việc và chuẩn bị ra đồng. Đến nửa đêm, khi nàng chập chờn trong giấc ngủ khó khăn với những cơn ác mộng thì tiếng chày giã gạo của hắn vẫn còn đều đều, thậm thịch.

Có một lần, một lần duy nhất vào buổi chiều giáp Tết, tình cờ nàng bắt gặp hắn đứng bất động, mắt ngó mong về xuôi. Lúc ấy dù đứng phía sau nhưng nhìn cái cơ thể khỏe mạnh, rắn chắc hằng ngày giờ chùng lại trong một tư thế mong ngóng đến da diết nàng bỗng có một ao ước đến lạ kỳ là được nhìn vào mắt hắn. Ôi, ánh mắt ấy phải hoài nhớ, u uẩn lắm mới tạo được một cái dáng đứng thế kia? Nhưng khi nàng dợm nhớm chân, do quá nhạy cảm hắn đã quay lại, nhìn nàng hơi ngỡ ngàng rồi đi nhanh vào nhà sau.
Gần cả tháng sau, khi không có ai, nàng tìm đến hắn bên đống củi đang bửa dở và hỏi:
- Anh  đang nhớ nhà lắm phải không?
Hắn làm như không nghe, vẫn giáng mạnh những nhát búa vào những thân củi gộc.
Nàng nhắc lại câu hỏi của mình một cách kiên nhẫn và hơi nặng giọng.
- Thưa bà, tôi không hiểu?
- Tôi hỏi có phải anh nhớ nhà, nhớ cha mẹ,… vợ con không?
- Không, thưa bà!
Hắn trả lời cộc lốc và đứng dậy xếp những miếng gỗ vừa bửa đem vào bếp. Nhưng chính sự lẫn tránh của hắn đã thôi thúc nàng lao vào một cuộc phiêu lưu mà nàng chưa hiểu sẽ mang lại cho mình điều gì. Sự im lặng của hắn vừa như thách thức vừa như có gì thật đồng cảm!
- Tại sao anh tránh mặt tôi?
Câu hỏi ấy nàng đặt ra sau đó vài tháng trong lúc hắn đang cuốc vườn.
Hắn nhìn nàng khá lâu, tay nắm chặt cán cuốc. Nàng chịu đựng ánh mắt ấy và cảm thấy bạo dạn hơn bao giờ hết. Hắn nói một cách chậm rãi:
- Tôi là một con quỉ! Một con quỉ nô lệ thưa bà!
- Không! Anh nói dối! Tôi không tin. Đó chỉ là những lời đồn đại cố ý!
- Đó chính là sự thực!
- Nhưng dù anh là gì đi nữa tôi vẫn mến anh. Lão ta chỉ chiếm được thể xác này. Những gì còn lại là của anh!
- Không! Hắn bổ mạnh lưỡi cuốc xuống mảnh đất vườn khô cằn mùa hạn – Tôi không mơ đến điều đó. Một con quỷ tầm thường, không phải là quỷ vưong, quỷ quan mà là một con quỷ nô lệ thì không có quyền sở hữu bất cứ điều gì!
Hắn lại lặng lẽ bỏ đi và nàng bất lực nghe nỗi khát khao càng lúc càng cồn cào lên cùng với dòng nước mắt thương thân, thương hắn tuôn ra lã chã.

Sau lần nói chuyện ấy nàng không còn tìm cách tiếp xúc với hắn nữa. Tháng bảy đến. Đó là tháng duy nhất trong năm thầy Tám không đi chữa bệnh vì bận phải ở nhà cúng lớn. Thầy sẽ cúng ba đêm liền, bắt đầu từ ngày rằm, như một kiểu “khao quân”, mà “quân” ở đây chính là âm binh dưới tay thầy!
Buổi trưa trước khi vào cúng một ngày, thầy sửa soạn tắm gội thật sạch sẽ ở cái ao dành riêng cho mình. Nửa giờ sau thì biến cố xảy ra. Đang ở trong bếp cùng mấy người đàn bà hàng xóm vừa mượn sang làm giúp thì nàng nghe tiếng gọi vang:
- Bà chủ! Bà chủ!
Nàng kinh ngạc chạy ra. Hắn – người thanh niên – đầy tớ quỷ đang đứng ở sân trước, ướt từ đầu đến chân và mặt lạnh băng.
- Tôi đã giết chồng bà! Xác dưới ao. Bà vớt lên mà chôn!  Tôi đã trả nợ xong, giờ tôi đi đây!
Hắn nói từng tiếng một, rành rẽ như đã suy tính trước. Nàng chết lặng, gần như không hiểu hắn nói gì. Khi hắn quay lưng, chạy vụt ra khỏi cổng, như có sức mạnh nào đó thôi thúc, nàng lao vụt theo, gào lên:
- Đừng bỏ tôi! Trời ơi! Đừng bỏ tôi!
Hàng xóm xúm lại. Họ vớt thầy Tám lên thì ông đã tắt thở. Khắp người trầy sướt, bầm dập chứng tỏ ông ta đã chống cự mãnh liệt trước khi chết.
Trên bờ ao còn nguyên vẹn bộ quần áo và những lá bùa hộ mệnh mà ông đã cởi ra trước khi tắm. Nhìn máu rỉ ra ở các lỗ khắp châu thân, người ta bàn tán:
- Sinh nghề tử nghiệp mà. Trước sau gì ông ta cũng bị con quỷ ấy giết!
Cũng tại thầy Tám sơ suất. Hắn đã rình đúng ngay cơ hội khi ông ấy cởi hết bùa ra mới hành động!
Chẳng ai dám nghĩ đến chuyện truy lùng con quỷ ấy, ngay cả chính quyền sở tại dù nó chưa chắc đã ra khỏi làng. Người ta chỉ còn có mỗi việc xúm đen xúm đỏ lại coi và bàn tán xôn xao khắp vùng suốt cả thời gian dài, ngay cả khi đã xong đám tang.
Căn nhà có quỷ ấy đóng cửa suốt từ đó. Bà giúp việc không dám ở nữa mà xin về, thậm chí người ta không còn dám đi trên những con đường gần đó. Mấy tháng sau, trong một dịp tình cờ, dân làng phát hiện ra căn nhà đã thành vô chủ. Không ai biết người thiếu phụ ấy đã đi đâu và từ lúc nào?

***

Hồi nhỏ tôi là đứa trẻ khóc đêm nhưng càng lớn tôi càng trở nên mơ mộng. Căn bệnh sau này thì vô phương cứu chữa nên chưa đến tuổi hai mươi tôi đã rời xa gia đình sống lang bạc khắp nơi. Thỉnh thoảng tôi có về nơi ba tôi đang sống và bắt gặp ông thường ngồi hoài nhớ về cố hương trong những buổi chiều vùng trung du miền Đông vàng óng nắng. Mỗi lần như vậy tôi lại nhớ và thắc mắc về câu chuyện người thiếu phụ xinh đẹp và bất hạnh ngày trước.
Ba tôi thường bảo:
- Dù sao ta cũng phải về quê hương một chuyến. Ba mươi năm qua rồi!
Tôi hiểu nỗi nhớ trong lòng ông. Hiểu cả chữ “ta” như hàm ý bao gồm cả tôi trong ấy. Đó chính là tiếng gọi thôi thúc trong mỗi tâm hồn ly hương. Nhưng cũng thật bất ngờ, sau hơn ba tháng bặt tin nhà, tôi vừa mới nhận được thư ba tôi, ông viết:
“Ba đã về thăm quê. Ba có ghé chợ ăn cao lầu và gặp một chuyện rất thú vị. Con còn nhớ là bùa con đeo thời thơ ấu chứ? Đã ba mươi năm, ba thực không ngờ bà ấy vẫn còn sống và nhận ra ba. Nhưng đặc biệt người chồng bây giờ của bà ta… mà chuyện dài lắm. Nếu rảnh con thu xếp về với ba một thời gian…”

Tôi luôn có một túi xách nhỏ trong ấy bao giờ cũng có hai bộ đồ, một cái khăn và dụng cụ vệ sinh cá nhân. Ngay ngày mai tôi sẽ lên đường và rất có thể sau đó sẽ theo gương ba tôi về cố hương một chuyến.

.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeFri Sep 04, 2020 10:35 pm

.
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  9k=

“DONOR.” - Câu Chuyện Có Thật

- Diễm Vy


Chuyện xảy ra gần 20 năm trước, khi tôi còn làm y tá của một bệnh viện trong một thành phố nhỏ ở tiểu bang Arizona. Tối hôm đó, bệnh viện của tôi nhận một nhóm nạn nhân của một tai nạn xe hơi thảm khốc. Trên xe là bốn em học sinh đều ở lứa tuổi 17-18, cùng đi về với nhau sau sau bữa tiệc. Người lái xe 18 tuổi, say rượu và chạy xe quá tốc độ, lạc tay lái tông vào một chiếc xe tải đang đậu bên lề đường. Nhờ có thắt dây an toàn, người lái và em ngồi cạnh tuy bị thương nặng nhưng không nguy hiểm tính mạng. Riêng hai em ngồi sau, 1 nam 1 nữ bị thương rất nặng vì không thắt dây an toàn. Em trai bị chấn thương sọ não và chết ngay sau khi xe chở đến bệnh viện. Em gái hôn mê bất tỉnh phải mổ gấp, không biết có cứu được hay không?

Thật đáng buồn, em trai tử vong là một em gốc Việt, 17 tuổi, vừa tốt nghiệp trung học và đang sắp rời nhà để vào một trường đại học danh tiếng. Các em còn lại đều người ngoại quốc.
Lúc đó tôi đang làm tại khu ICU (Intensive Care Unit). Bệnh nhân tôi được giao đêm đó là em gái 17 tuổi của tai nạn vừa kể trên. Một cô bé người ngoại quốc, đẹp hay không thì tôi không biết vì cả khuôn mặt lẫn cái đầu tóc vàng của em đều tím bầm, sưng to như trái dưa hấu vì những cú va chạm kinh khiếp. Em đang được mổ não khẩn cấp trong phòng mổ.
Tôi được (hay bị) kêu vào phòng họp gấp để nhận một nhiệm vụ quan trọng.
Sau khi được biết nhiệm vụ của mình là gì, tôi nhăn nhó phản đối, “Tại sao lại là tôi? Đây là nhiệm vụ của bác sĩ mà!”
“Tôi biết, nhưng người nhà của bệnh nhân không biết tiếng Mỹ rành lắm, cô đi theo thông dịch cho bác sĩ, và ráng van xin họ giúp chúng tôi,” bà y tá trưởng năn nỉ.

Sau một hồi bàn qua tính lại, tôi lê bước đi theo ông bác sĩ đến phòng chứa xác của em trai Việt Nam mới tử nạn, với nhiệm vụ là cùng bác sĩ, năn nỉ gia đình người chết hiến tặng những bộ phận còn tốt trong cơ thể của em cho bệnh viện.
Một em trai 17 tuổi đang khỏe mạnh nhưng chết vì tai nạn, là một ứng cử viên tuyệt vời để làm người hiến tặng, vì hầu hết các bộ phận trong cơ thể em còn rất khỏe, rất trẻ, rất thích hợp để cứu sống các bệnh nhân đang chờ đợi để được thay các bộ phận trong người. Đó là lý do bệnh viện hết sức cầu xin gia đình.
Thời gian đó, đối với người Việt mình, khái niệm hiến tặng bộ phận cơ thể còn rất mới mẻ. Nếu không là cho người thân trong gia đình, hầu như rất ít ai hiến tặng cho những người không quen biết. Huống hồ gì, chuyện cha mẹ đồng ý hiến tặng các bộ phận trong cơ thể của con thì hình như chưa hề xảy ra. Có cha mẹ nào mà nỡ lòng nào làm như thế? Mất con đã đau đớn lắm rồi…
Chúng tôi gặp cha mẹ nạn nhân trong phòng đợi, trong khi người con đang được chờ quyết định để rút tất cả ống support bên trong, tôi bắt đầu trình bày lý do. Quả như tôi lường trước, cho dù có van xin, nài nỉ, giải thích cách mấy, bác sĩ và tôi chỉ nhận được những cái lắc đầu quầy quậy, ánh mắt oán ghét, và những lời xua đuổi. Tôi lắp bắp xin lỗi rồi bước nhanh như chạy ra khỏi phòng.

Phòng ICU rất vắng lặng vì ở đây toàn những ca rất nặng. Những y tá cùng trực với tôi đêm đó ai cũng bận rộn với bệnh nhân của mình nên chỉ có một mình tôi ngồi tại nurse station. Thường thì ở ICU, mỗi y tá lãnh hai bệnh nhân trong một ca. Nhưng đêm nay tôi chỉ có một, vì một bệnh nhân mới chuyển sang phòng thường. Bệnh nhân còn lại là cô gái đang trong phòng mổ, nên tôi cũng khá rảnh rỗi, cho đến khi ca mổ xong.
Bỗng nhiên tôi thấy hơi nhức đầu nên cúi gục vào lòng bàn tay một chút cho đỡ mỏi mắt. Khi tôi ngẩng đầu lên thì vụt một cái, thoáng có một bóng người mặc áo trắng lướt thật nhanh qua mặt. Tôi đảo mắt nhìn quanh. Không có ai cả!
Tôi vẫn thường thấy lao đao như vậy lắm, có lẽ vì tôi bị chứng bịnh thiếu máu kinh niên. Tôi dụi mắt nhìn kỹ lại một lần nữa, lần này thì thật sự có một bóng áo trắng đang từ từ tiến lại gần tôi.
Tôi dợm đứng dậy để nhìn cho rõ thì thấy có một cậu thanh niên Á Châu rất trẻ, gương mặt xanh xao mệt mỏi đang đi lại phía tôi ngồi. Cậu đi nhẹ nhàng như lướt trên không vậy, xuất hiện trước mặt tôi mà không gây nên một tiếng động. Cậu nhìn tôi, đôi mắt nâu hiền và ngây thơ đến nao lòng. Có vẻ như cậu đang bị lạc đường. Chắc là cậu đi nuôi người nhà bệnh và lạc từ khoa khác sang.
Thấy cậu đứng yên lặng không nói gì, tôi hỏi bằng tiếng Mỹ, “Em cần gì, tôi có giúp được gì cho em không?”
Lạ thay, cậu trả lời bằng tiếng Việt, “Em đi kiếm đồ!”
Giọng của cậu nhỏ và thanh, nghe văng vẳng như từ một nơi xa xôi nào đó vọng về.
“Em bị mất cái gì à?”
“Em làm rớt cái ví trong xe. Trong đó có một món đồ rất quan trọng. Chị kiếm dùm em nghe chị. Nhớ nghe chị… Không đợi tôi trả lời, cậu quay lưng đi thật nhanh và khuất bóng sau góc quẹo.
Tự nhiên tôi cảm thấy lạnh buốt, cái lạnh từ trong xương lạnh ra. Tôi rùng mình. Lạ thật, Tháng Sáu Mùa Hè ở cái xứ sa mạc này nóng cả trăm độ. Cho dù máy lạnh có mở cũng chỉ vừa đủ. Chưa bao giờ tôi cảm thấy lạnh cóng bằng cái lạnh của hiện tại.

Đầu óc tôi quay cuồng và tiếp tục nhức. Chắc mình sắp bịnh rồi, tôi tự nhủ. Sao tự nhiên lại cảm thấy lạnh và nhức đầu quá. Tôi đứng lên định đi theo cậu bé nhưng rồi lại choáng váng ngồi phịch xuống một chiếc ghế. Vừa lúc đó, một cô bạn đồng nghiệp từ đâu đi tới. Nhìn thấy sắc mặt tôi, cô la lên, “Oh my God! Trời ơi sao cái mặt cô xanh lè xanh lét thấy ghê quá. Are you OK?”
“Tôi thấy lạnh quá, cô lấy dùm tôi một cái áo lạnh được không?”
Cô bạn nhanh chóng đi lấy cho tôi một cái áo labcoat mới được giặt ủi và hấp nóng. Tôi mặc áo vào, ngồi co ro mà thấy vẫn còn lạnh, mồ hôi rịn ra hai bên thái dương.
Tôi uống thêm hai viên Tylenol. Một lúc sau, tôi thấy từ từ dễ chịu, và lại nghĩ đến cậu bé hồi nãy. Cậu ta là ai, làm sao biết cậu ở đâu, đi kiếm cái xe gì, và cái ví gì nữa chứ?

Cả khu ICU này có 6 phòng. Hiện giờ đang có năm bệnh nhân, mỗi người nằm một phòng. Tôi coi lại danh sách bệnh nhân viết trên bảng treo trên tường. Không có bệnh nhân nào người Việt. Vậy cậu từ khoa nào đi sang đây? Tôi đi lòng vòng với hy vọng gặp lại cậu bé, nhưng hỏi thăm những nhân viên quanh đó xem có ai gặp một cậu bé người Á châu không, ai cũng lắc đầu không biết.
Thất vọng, tôi trở về khoa đúng lúc bệnh nhân của tôi đã được giải phẫu xong và chuyển về phòng ICU. Bác sĩ bảo em được cứu sống nhưng đôi mắt sẽ bị mù vĩnh viễn vì chấn thương quá nặng. Chỉ có một hy vọng duy nhất là được thay đôi mắt khác em mới có thể thấy lại ánh sáng. Ba mẹ em ngồi bên giường trong khi em vẫn đang nằm thiêm thiếp. Ông bà yên lặng chắp tay cầu nguyện. Tôi không biết làm gì hơn là ngồi xuống bên cạnh và góp lời cầu nguyện trong lòng.
Người mẹ buồn rầu nói, “Tội nghiệp chúng quá. Rồi đây Jane sẽ ra sao khi tỉnh dậy và biết là người yêu của nó đã chết?”
“Người yêu của Jane là anh Việt Nam ngồi chung xe hả bà?” tôi hỏi.
“Đúng vậy, chúng nó yêu nhau lắm. High school sweethearts mà. Hai đứa đều học giỏi và có tương lai. Thế mà, chỉ qua một đêm, một đứa ra đi vĩnh viễn, một đứa trở nên mù lòa.” Bà sụt sịt khóc.
Tôi ngập ngừng, “Bác sĩ nói con bà còn có hy vọng thấy lại ánh sáng, nếu…”
“Vâng tôi biết! Nhưng ở đâu ra có cặp mắt để thay kia chứ? Nếu đó là cặp mắt của một người còn sống cho con tôi, tôi biết chắc chắn nó sẽ không chịu nhận. Nó là cô gái rất tốt, không bao giờ muốn làm khổ ai.”
“Nhưng nếu đó là cặp mắt của một người vừa mới mất thì hoàn toàn có thể dùng được, chỉ có điều…” tôi bỏ dở câu nói vì tôi biết chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra. Đừng bao giờ nên hỏi cha mẹ cậu bé Việt Nam thêm một lần nữa.
Như đọc được ý nghĩ của tôi, bà mẹ thở dài, “Cô y tá ạ, tôi biết nỗi đau của người mẹ mất con nó khủng khiếp như thế nào. Tôi không dám đòi hỏi gì thêm. Số phận con gái tôi bị mù thì tôi sẽ hết lòng chăm sóc cho nó. Con gái tôi có nghị lực lắm, tôi tin nó sẽ vượt qua…”

Xót xa nhưng cũng rất xúc động trước những lời nói của bà, tôi nhẹ nắm lấy tay bà. Vừa lúc đó, một ông cảnh sát đang rảo bước tới, trên tay cầm một bọc giấy. Ông hỏi tôi, “Người ta chỉ cho tôi là có một cô y tá người Việt ở đây. Cô nói được tiếng Việt chứ?”
“Dạ được. Ông cần gì không?”
“Tôi muốn nhờ cô đi với tôi đến gặp gia đình người tử nạn trong tai nạn xe chiều nay. Chiếc xe bị total lost. Trước khi xe tow kéo xe đi, chúng tôi kiểm tra trong xe và tìm thấy chiếc ví này rớt trong xe. Nó thuộc về người đã chết. Tôi muốn giao lại kỷ vật này cho thân nhân của cậu.”
Ví, xe, người tử nạn… những mảnh rời rạc của chiếc hình puzzle tự nhiên ráp nối lại với nhau một cách có trật tự. Tim tôi đập thình thịch và cổ họng tự dưng tắc nghẽn. Chân tôi bắt đầu run lập cập và tay thì nổi da gà. Sao giống y hệt những điều cậu bé kia vừa nói? Không lẽ mình vừa gặp ma sao?
Tôi lắp bắp hỏi ông cảnh sát, “Ông có thể cho tôi xem qua chiếc ví được không?”
Ông ngần ngừ một chút rồi nói, “Cũng được, nhưng trong ví không có gì quý giá hết, chỉ có tấm bằng lái xe và một ít tiền mặt vậy thôi!”
Tôi tần ngần mở chiếc ví ra. Thật vậy, trong ví ngoài một ít tiền nhỏ chỉ có tấm bằng lái xe. Tôi tò mò nhìn vào tấm bằng lái và hoảng sợ làm rơi chiếc ví xuống đất. Trên tấm bằng là hình của cậu bé vừa đến gặp tôi ít phút trước đây. Với gương mặt gầy và cặp mắt nâu trong vắt thơ ngây như đang nhìn xoáy vào tôi, như muốn nói một điều gì.
Vậy ra cậu chính là người đã chết đó sao?

Một luồng khí lạnh chạy dọc theo sống lưng của tôi. Tôi thầm thì, nhắc lại lời của cậu bé khi nãy: “Trong ví này có một vật rất quan trọng…”
“Cô nói gì?”
Tôi lượm chiếc ví lên, mở ra xem lại và lật tới lật lui. Quả thật không có gì khác ngoài vài tờ giấy $10 và $5, cùng tấm bằng lái. Tai tôi văng vẳng nghe tiếng của cậu bé, “chị nhớ giúp em nghe chị, nhớ nghe chị…” Tấm bằng lái!
Tôi nhìn kỹ lại tấm bằng lái lần nữa. Đây rồi, vật quan trọng mà tôi cần tìm chính là tấm bằng lái này đây. Trên bằng lái có tên, tuổi và hình chụp của cậu bé. Còn nữa, nằm ngay ngắn ở góc phải của tấm bằng là cái sticker nhỏ màu hồng, trên có dòng chữ “DONOR” màu đen in đậm nét. Tim tôi đập thình thịch. Như vậy là, chính cậu đã run rủi cho sở cảnh sát tìm thấy chiếc ví rơi trong gầm xe trước khi xe bị kéo đi; chính cậu đã tìm đến tôi, và đưa đẩy cho ông cảnh sát gặp tôi để mọi người có thể biết được ý nguyện của cậu.

Thì ra ngay từ khi mới có bằng lái, cậu đã quyết định là nếu có điều gì xảy ra cho mình, cậu sẽ sẵn sàng hiến tặng những bộ phận còn tốt trong người cho tất cả ai đang cần chúng nên đã tình nguyện ghi tên làm người DONOR. Có phải cậu đến tìm tôi vì biết tôi là người chăm sóc cho người bạn gái thương yêu của cậu đêm nay và muốn nhờ tôi tìm cách để trao tặng cho cô gái đôi mắt của cậu như một kỷ vật cuối cùng?
Tôi chỉ vào chữ “DONOR” và nhờ vị cảnh sát xác minh lại với DMV.
Sau khi xác nhận là cậu bé Việt Nam chính thực đã ghi danh làm người “DONOR”, nhưng đồng thời vị cảnh sát cũng thông báo rằng theo luật pháp, vì cậu bé mất khi cậu chưa đủ 18 tuổi, nên quyết định cuối cùng, cho hay không, cũng vẫn là quyết định của cha mẹ.
Phái đoàn gồm các bác sĩ, cảnh sát cùng với tôi sau khi đưa chiếc ví lại cho cha mẹ cậu và thông báo về tất cả những sự việc trên cho họ. Trong khi chờ gia đình cậu bé bàn thảo với nhau, chúng tôi đều lui ra ngoài đứng chờ. 5 phút, 10 phút trôi qua. Một bầu không khí yên lặng đến nghẹt thở. Rồi cha mẹ cậu bé cũng bước ra. Người mẹ ôm mặt khóc, trong khi người cha nghẹn ngào nói với chúng tôi: “Thôi thì con tôi nó đã muốn như vậy, chúng tôi xin nghe theo ý nguyện của cháu. Xin bệnh viện giúp cháu làm tròn tâm nguyện, hãy giúp đỡ tất cả những ai đang chờ được giúp.”
Tôi bật khóc vì quá xúc động. Tất cả những người có mặt lúc đó đều khóc và cảm ơn cha mẹ cậu bé đã làm quyết định đau đớn và khó khăn nhưng rất cao cả này. Cảm ơn ông bà, tôi thầm thì. Trên cao kia, tôi biết cậu bé đang nhìn xuống và mỉm cười.

Những ngày sau đó, có ít nhất là cả chục bệnh nhân đang chờ thay thận, gan, tim, v.v… đã được cứu sống nhờ được ghép những bộ phận trong cơ thể cậu bé. Cô bạn gái cũng đã nhận được cặp mắt của cậu. Trên gương mặt trắng bóc và mái tóc vàng hoe, đôi mắt nâu trong veo luôn tỏa những tia sáng ấm áp dịu dàng. Đôi mắt như biết nói những lời yêu thương đến mọi người. Cậu bé đã ra đi mãi mãi, nhưng tình yêu quảng đại của em vẫn tiếp tục tồn tại.
Ngay sau cái đêm “gặp ma” trong bệnh viện đó, tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Tôi về bàn với chồng, và vợ chồng tôi đã cùng đi đến quyết định là ra DMV để ghi tên tình nguyện làm người “DONOR.” Nếu một mai có người nào phải ra đi trước, chúng tôi không muốn người thân mình ở lại phải suy nghĩ để làm những quyết định đau lòng thế cho mình.

Cát bụi rồi sẽ trở về với cát bụi. Thế thì tiếc làm chi cái xác thân tạm bợ này! Nếu sau khi mình ra đi mà vẫn còn có ích cho người khác thì đó chính là một niềm an ủi và hạnh phúc vô biên cho mọi người chúng ta rồi.

Diễm Vy
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitimeMon Sep 07, 2020 3:18 pm

.
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  2Q==

Người Ăn Trưa Trong Xe
– Trang Châu


Điều khó khăn cho tôi trong dự tính bước đi một bước nữa là sợ bị lợi dụng. Tôi sợ đàn ông đến với tôi không vì tình mà vì quyền lợi của họ. Góa chồng vào tuổi 45 quả là một điều bất hạnh. Tôi không còn trẻ để nhờ cậy vào nhan sắc. Nhan sắc không phải tôi không có nhưng tôi sợ cái có đó không bền. Hình như càng lớn tuổi thời gian đi càng nhanh. Châu, đứa con gái duy nhất của tôi đã lập gia đình và ra ở riêng. Tương lai của hai vợ chồng chúng nó được bảo đảm với nghề dược sĩ của Châu và nghề kỹ sư của chồng nó. Yên tâm về phần con cái, tôi chỉ còn lo cho tôi. Chồng tôi thình lình qua đời sau một cơn đau tim mặc dù anh mới 53 tuổi. Có lẽ anh quá lao lực và bị căng thẳng trong nghề nghiệp của anh.
Chồng tôi là một y sĩ gây mê. Anh trực gác liên miên ở nhà thương. Có lần anh than thở với tôi rằng nghề của anh phải đi sớm về muộn, phải vào bệnh viện sớm để sửa soạn cho bệnh nhân ngủ và chỉ về sau khi bệnh nhân tỉnh dậy mà không bị biến chứng.
Tôi là một người vợ chỉ biết sống cho chồng, cho con. Có một chút thì giờ rảnh rỗi, tôi làm đại lý cho một hãng du lịch, bán vé máy bay ăn huê hồng. Một cách cho qua thì giờ, thêm có chút tiền túi. Chồng chết, con ra ở riêng, còn lại một mình tôi trong căn nhà 5 phòng ngủ, tọa trong một khu sang trọng của thành phố.

Sau một năm gậm nhấm nỗi cô đơn, khi sự phiền muộn theo thời gian có phần nào vơi đi, tôi lấy lại được bình tĩnh, phân tích hiện tại và suy nghĩ về một hướng đi cho tương lai mình. Tôi không còn ở cái tuổi nôn nả tình yêu hay rạo rực thể xác. Nó chưa mất nhưng nó cần được khơi dậy. Người đàn ông tôi cần vẫn là một người đàn ông có chiều sâu như chồng tôi. Trước tiên, tôi cần sự cảm thông, sau đó thì cho nhau chút gì còn lại của tuổi trẻ. Đến với tôi phải là một người đàn ông hoàn toàn tự do, tuy giàu nghèo đối với tôi không phải là một vấn đề. Phân tích xong nhu cầu của mình, tôi thấy tình hình không khó mà cũng không dễ. Không khó vì điều kiện của tôi không quá đáng; không dễ vì đàn ông hợp với lứa tuổi của tôi mà còn tự do e đếm được trên đầu ngón tay trong cái thành phố không quá ba chục ngàn người Việt cư ngụ nầy. Mà khi có, chắc gì họ là người đang chờ đợi ở tôi giống những gì tôi đang chờ đợi ở họ? Tìm kiếm thì tôi vẫn tìm kiếm nhưng gặp được hay không tôi tin ở số trời.
Khi chồng tôi còn sống, chúng tôi hay tham dự những buổi tiệc có văn nghệ khiêu vũ tại tư gia của bạn hữu. Chúng tôi thích nhảy, dù không nhảy giỏi và thường chúng tôi nhảy với nhau. Thỉnh thoảng bạn bè cũng lôi chồng tôi ra sàn nhảy với những điệu disco hay twist, anh cũng lúc lắc cặp giò, ngoáy mông, trước tiếng vỗ tay cổ võ của bạn hữu vì chồng tôi là người nổi tiếng nghiêm nghị, nhưng là một vẻ nghiệm nghị được quí mến vì anh rất nhã nhặn. Trong hai vợ chồng, tôi là người xã giao bặt thiệp hơn anh. Sau khi chồng tôi mất được sáu tháng, nể vài cặp bạn thân, tôi tham dự mấy buổi họp mặt.
Nhưng sau đó tôi quyết định né tránh. Tôi phải né tránh vì dường như mọi sự có vẻ thay đổi. Trong những buổi họp mặt có đôi có cặp, người đàn bà một mình như tôi, trở nên lạc lõng. Những người vợ, bây giờ có vẻ như không muốn chồng họ mời tôi nhảy và một số ông chồng trở nên ngập ngừng trong cách cư xử với tôi. Tôi tự nhiên trở nên một thành phần bị để ý. Mặc dù từ trước tôi vẫn được xem là một người đàn bà bặt thiệp nhưng đứng đắn. Góa chồng, sự đứng đắn của tôi bị thử thách, sự bặt thiệp của tôi trở nên một đe dọa.

Cả môn thể thao mà tôi thích là golf, bây giờ tôi cũng thôi chơi. Thôi là vì đám bạn đàn ông của tôi ngày trước trở nên săn đón hơn, đó là điều tôi vừa sợ vừa không muốn vì ông nào cũng có vợ. Tôi có cảm tưởng đàn ông có vợ hay không có vợ, trước một người đàn bà có nhan sắc và một mình, đều không phải là những người mù. Họ đều có mắt để nhìn và cái nhìn nào cũng muốn chiếm cảm tình dù cảm tình đó không biết sẽ đi đến đâu, có thể càng xa càng tốt. Cái nhẫn cưới nơi tay họ, khi cần tiến tới họ sẽ tháo gỡ hoặc coi như một cái bùa hộ mệnh khi cần rút lui. Bởi thế, bước đi một bước nữa, tìm được một người đàn ông ở vào lứa tuổi 45 như tôi, dù có nhan sắc, dù giàu có, không phải là một việc đơn giản mà phải nói là một chuyện rủi may.
Tôi không phải loại đàn bà cần đàn ông đến độ phải la cà các hộp đêm để tìm kiếm những gặp gỡ mang lại thú vui chốc lát. Tôi chọn những nơi chốn thanh lịch hơn. Đi nghe hòa nhạc hay những buổi trình diễn của ca sĩ ngoại quốc danh tiếng. Xuất hiện những nơi chốn đó, tôi đưa cái tôi sang cả nhất của tôi ra. Trang phục đắt tiền hợp thời trang, xe Mercèdes. Ở đó tôi gặp Hiến, một luật sư. Anh nói anh vừa ly dị vợ.
Hiến xấp xỉ tuổi tôi. Tôi nhận xét gì về Hiến sau hai lần đi ăn tối với anh? Anh có vẻ chú ý nhiều về những gì tôi đang có hơn là những gì tôi đang cần. Anh mau mắn đề nghị tiến tới sống chung. Tôi thấy Hiến là một người đàn ông lanh lợi, cái lanh lợi hình như dành hết chỗ cho sự thành thực. Tôi thấy rõ anh không đến với tôi vì tình yêu. Phần tôi, cũng may tôi không bị hoa mắt trước cái vẻ hào hoa của Hiến.

Châu, con gái tôi bắt đầu lo lắng cho cuộc sống đơn chiếc của tôi. Mấy hôm trước sinh nhật của tôi, nó gọi điện thoại mời tôi đi ăn tối với nó. Nó nói:
– Chỉ có hai mẹ con mình thôi.
Tôi vui vẻ nhận lời. Mỗi khi Châu mời tôi và nói "chỉ có hai mẹ con mình thôi" là tôi biết nó có ý muốn hỏi ý kiến hay tâm sự gì với tôi. Trong tiệm ăn, ngồi đối diện với Châu, nhìn ánh mắt yêu đời của nó, tôi biết con tôi đang hạnh phúc. Tôi mừng thầm cho con tôi. Trong khi uống cà phê Châu hỏi tôi giọng buồn buồn :
– Mẹ tính ở vậy hoài sao? Mẹ có biết là mẹ còn trẻ không?
Tôi âu yếm đặt tay mình lên tay con:
– Mẹ cũng đang tìm kiếm đây. Ngặt một điều mẹ chưa thấy ai bằng ba con cả.
– Con sợ mẹ sẽ cô đơn hoài nếu mẹ chờ đợi một người đàn ông như ba.
Đến phiên tôi buồn bã:
– Mẹ đâu đòi hỏi phải bằng ba con. Nhưng ít nhất tim mẹ phải có chút rung động. Chắc con cũng biết, tìm cho ra một người đàn ông mà tim mình rung động vì họ, và tim họ cũng rung động vì mình, ở vào lứa tuổi của mẹ, không phải dễ.
– Mẹ có đòi hỏi người đàn ông phải là một người có nghề nghiệp tương đương với nghề của ba không?
– Không nhất thiết, nhưng cần có kiến thức.
– Mẹ có đòi hỏi người đàn ông phải giàu có không?
– Không nhất thiết, nhưng không thể là một người đàn ông ăn không ngồi rồi.
Tôi có cảm tưởng con tôi là nhân viên của một văn phòng xe duyên đang thăm dò ý kiến của tôi. Tôi nhìn nó hiền từ hỏi:
– Chắc con có ý định giới thiệu mẹ cho một ông nào?
Châu cười úp mở:
– Có mà không.
– Sao lạ vậy con?
– Có là vì con thấy một người mà con nghĩ có thể hợp với mẹ, không là vì con không quen ông ấy.
Tôi cười:
– Con không quen ông ấy thì làm sao con giới thiệu cho mẹ?
– Con thấy để mẹ tìm hiểu. Nếu mẹ đi cái siêu thị gần Condo của tụi con ở vào trưa thứ bảy khoảng 12 giờ, mẹ sẽ thấy ông ấy ngồi trong chiếc xe Toyota Tercel màu xanh nhạt, đậu ở parking. Ông ấy vừa ăn trưa vừa đọc sách.
Tôi ngạc nhiên nhìn Châu:
– Con nghĩ gì mà có ý định khuyên mẹ tìm cách làm quen một người đàn ông khá kỳ cục? Hết chỗ ăn trưa lại ngồi trong xe mà ăn trưa?
– Con cũng không hiểu nữa. Mấy tuần nay con có cảm tưởng mỗi trưa thứ bảy ông đến đó như để chờ gặp ai. Lạ lắm. Nhưng điều khiến con chú ý là cuốn sách ông cầm trong tay. Lúc nào cũng chỉ có một cuốn sách ấy. Cuốn Nhà Tiên Tri của Khalil Gibran, cuốn sách con biết mẹ rất thích vì có lần mẹ nói với con mẹ đọc đi đọc lại cuốn sách đó bao nhiêu lần mà vẫn không thấy chán. Cho nên khi thấy ông ấy ngồi trong xe với cuốn sách đó, tự nhiên con nghĩ đến mẹ. Con đoán ông ấy cũng cỡ tuổi ba, khuôn mặt xương xương, người cũng mảnh khảnh như ba nữa.
Trên đường lái xe về nhà, nghĩ đến chuyện Châu đề nghị tôi tìm hiểu người đàn ông ăn trưa trong xe, tôi vừa cảm động vừa buồn cười. Cảm động vì sự lo lắng của con gái tôi dành cho tôi, buồn cười vì ý muốn ngộ nghỉnh của nó. Nó quên mất người đàn ông kia có thể đã có gia đình. Duy có cuốn sách làm tôi phân vân. Người thích nội dung cuốn Nhà Tiên Tri ắt phải có tâm hồn giống tôi. Và sự tò mò đã lấn lướt.

Tôi nhận ra dễ dàng chiếc Toyota Tercel màu xanh nhạt còn mới ngay giữa bãi đậu của siêu thị. Hai bên chiếc Tercel chỗ đậu còn trống. Tôi lái chiếc Pontiac màu ve chai cũ kĩ của tôi, đậu phía bên trái chiếc Tercel. Trời tháng sáu nắng đẹp và nóng. Tôi ăn mặc bình thường như một người đi chợ. Một chiếc quần tây màu đen, một chiếc sơ mi mỏng tay dài màu vàng nhạt. Tôi cố ý để cuốn Nhà Tiên Tri của tôi nằm phía trên hộp đựng găng tay. Nếu chú ý, người ngồi ở phía tay lái ở xe bên kia có thể thấy được cuốn sách. Tôi mở cửa xe, đeo cái xắc tay lên vai, đóng cửa xe, rồi mặt nhìn thẳng phía trước làm như không để ý đến người chung quanh, bước thong thả vào siêu thị.
Châu cho tôi biết đối tượng tôi đang tìm hiểu vừa ăn trưa vừa đọc sách chừng một tiếng là đi. Tôi sẽ ở trong siêu thị, đi loanh quanh, mua lặt vặt sao cho hết một tiếng đồng hồ mới trở ra xe. Tôi suy luận, nếu đối tượng của tôi nhìn thấy cuốn Nhà Tiên Tri của tôi, tôi cũng sẽ trở nên đối tượng tìm hiểu của ông ta và chắc chắn ông ta sẽ chờ tôi. Tôi tự dặn lòng lúc trở ra sẽ quan sát kỹ người đàn ông và nếu thấy đúng là mẫu người tôi có thể có cảm tình tôi sẽ sẵn sàng tạo điều kiện cho một sự làm quen.
       
Rời siêu thị, bước chân tôi bỗng dưng chậm lại, tim tôi đập mạnh vì chiếc Tercel màu xanh vẫn còn nằm ở bãi đậu và hơn thế nữa, người đàn ông đứng tựa cửa xe mình, tay cầm một cuốn sách có vẻ như đang chờ ai. Tôi có thể nghĩ mà không sợ lầm ông ta đứng chờ tôi. Tôi hết sức làm ra vẻ tự nhiên, tiếp tục bước. Tôi thấy người đàn ông rời chỗ đứng đi vòng phía sau xe tôi tiến về phía tôi. Tôi nhìn ông nghiêm trang nhưng tươi tỉnh. Đúng như Châu đã tả, người ông dong dỏng cao, khuôn mặt chữ điền xương xương, mang kính cận. Mái tóc rậm lấm tấm muối tiêu với một mảng xỏa xuống trán. Ông có dáng dấp của một nghệ sĩ hay của một ông giáo sư dạy văn chương hay triết. Tự nhiên tôi mỉm cười với ông ta. Người đàn ông tiến lại gần tôi cúi đầu chào:
– Xin lỗi bà, bà có phải là bà Mai Hương?
Tôi ngạc nhiên đến nghẹn thở:
– Vâng, phải. Nhưng thưa… làm sao ông biết tên tôi?
– Dạ Hạnh nói với tôi. Hạnh nói với tôi: "Anh hãy đến siêu thị nầy vào mỗi trưa thứ bảy, thế nào anh cũng gặp một người đàn bà có cuốn Nhà Tiên Tri như anh. Bà ấy tên Mai Hương". Tôi đến đây đã ba lần, lần thứ tư nầy thì gặp được người mang cuốn Nhà Tiên Tri. Hạnh đã tiên đoán đúng.

Thoáng nghĩ đầu tiên của tôi là con gái tôi đã dàn dựng nên cảnh gặp gỡ nầy. Tôi nghĩ nó đã cho người đàn ông nầy biết trước tên tôi, biết tên cuốn sách tôi thích đọc và có thể nó đã dấu tên thật của nó mà lấy tên Hạnh. Tôi hỏi chận đầu người đàn ông :
– Có phải cô Minh Châu đã cho ông biết tên tôi?
Đến lượt người đàn ông ngơ ngác:
– Thưa bà cô Minh Châu nào? Tôi không được biết, tôi chỉ biết Hạnh cho tôi biết tên bà.
– Hạnh nào thưa ông? Tôi không quen biết một ai tên Hạnh cả.
Chừng như đoán được vẻ ngại ngùng trong câu hỏi của tôi, giọng người đàn ông trở nên trấn an:
– Vâng, bà không thể biết Hạnh. Hạnh đã mất cách đây 25 năm. Nhưng cách đây gần hai tháng Hạnh đã báo mộng cho tôi trước cuộc gặp gỡ.
Chúng tôi ngồi trong một quán nước mặt hướng ra bờ sông. Nắng bên ngoài gay gắt, nhưng gió từ mặt sông thổi lên làm dịu mát da mặt. Tóc tôi phất phơ bay, tóc của người đàn ông cũng lòa xòa trên trán. Ông không buồn đưa tay vuốt, mắt xa xăm nhìn ra mặt nước lao xao những gợn sóng. Tôi có cảm tưởng ông đang tập trung tư tưởng, sắp xếp lại dĩ vãng để trình bày với tôi câu chuyện báo mộng của người đàn bà tên Hạnh, một câu chuyện kỳ bí khiến tôi tò mò đến bạo dạn nhận lời mời của ông đến ngồi uống nước ở quán nầy để nghe tiếp câu chuyện, dĩ nhiên sau khi tôi đã cân nhắc, đánh giá sự chân thật của ông.
– Thưa bà, tôi tên Chung. Người đàn bà tên Hạnh, cách đây 25 năm là người yêu của tôi. Chúng tôi là mối tình đầu của nhau. Chúng tôi là cặp tình nhân thuộc loại cấp tiến thời đó. Chúng tôi quan niệm rất rộng rãi về quan hệ luyến ái. Nói trắng ra là chúng tôi đã gần gũi nhau trước khi nghĩ đến hôn nhân. Cả Hạnh và tôi đều say mê cuốn Nhà Tiên Tri của Khalil Gibran. Hôm báo mộng Hạnh nói với tôi: "Gặp bà Mai Hương anh hãy đọc cho bà nghe đoạn văn mà chúng mình thích. Em biết bà Mai Hương cũng thích đoạn văn đó".

Tôi xin tạm ngừng kể để đọc cho bà nghe đoạn văn mà chúng tôi thích, xem có đúng với đoạn văn mà bà cũng thích không. Đó là đoạn nhà tiên tri nói về hôn nhân: "Các ngươi hãy yêu thương nhau nhưng đừng biến tình yêu thành một chướng ngại cho nhau. Hãy để tình yêu như một vùng biển động giữa đôi bờ tâm hồn các ngươi. Kẻ nầy hãy rót đầy ly kẻ kia nhưng chớ bao giờ uống chung một cốc. Hãy chia nhau phần ăn nhưng chớ bao giờ ăn chung một mẩu bánh. Hãy cho nhau trái tim mình nhưng đừng trở nên kẻ canh giữ tim nhau."
Tôi xanh mặt. Đúng là đoạn văn tôi thường mang ra đọc cho chồng tôi nghe. Chúng tôi rất hợp ý về triết lý hạnh phúc lứa đôi mà Khalil Gibran nêu lên. Không những chỉ hợp ý mà chúng tôi đã sống theo lời Khalil Gibran khuyên. Chúng tôi chia xẻ cho nhau tròn đầy nhưng mỗi chúng tôi vẫn là một cá thể riêng biệt. Chúng tôi cho nhau trái tim mình nhưng không bao giờ canh giữ trái tim nhau. Chúng tôi tin tưởng nhau tuyệt đối. Chúng tôi đã đạt được hạnh phúc tròn vẹn trong chia xẻ và niềm tin. Bởi thế sự ra đi đột ngột của chồng tôi làm tôi mất thăng bằng tâm thể đến tột độ.
Khi tôi nói với con tôi, tôi chưa gặp được ai như cha nó, không hoàn toàn có nghĩa là tôi chưa gặp được người đàn ông nào khác có địa vị như chồng tôi mà còn bao hàm ý nghĩa chưa gặp được người chia xẻ cái quan niệm hạnh phúc lứa đôi như chúng tôi từng chia xẻ với nhau. Cho nên tôi bàng hoàng trước đoạn văn trích dẫn của người đàn ông tên Chung.
– Tình yêu của Hạnh và tôi gặp trở ngại lớn. Nhà tôi nghèo, nhà Hạnh giàu. Khi biết Hạnh yêu tôi, gia đình nàng cấm cản kịch liệt, nhất là cha nàng, một viên chức lớn trong chính quyền thời bấy giờ, nghiêm khắc và độc đoán. Bị ngăn cấm liên lạc với tôi, Hạnh đi tìm cái chết, không một lời báo trước, bằng một liều thuốc ngủ cực mạnh. Hạnh được chôn cất vội vã và bí mật, không một lời cáo phó trên báo. Cha Hạnh coi nàng là một vết nhơ của gia đình. Nhưng Hạnh đã trở thành một viên ngọc quí trong tâm hồn tôi. Từ đó đến nay tôi sống một mình nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy cô đơn, chưa bao giờ tôi cảm thấy cần một người đàn bà cho đời sống mình vì lúc nào tôi cũng cảm thấy có Hạnh bên cạnh.
– Tôi muốn đi về.
Ông Chung đứng lên theo.
– Nếu bà không ngại, tôi xin đưa bà đi xem mặt Hạnh.
Thật tình tôi cảm thấy ngài ngại nhưng không hiểu sao tôi không thốt ra được lời từ chối. Hai bàn chân tôi như có một ma lực nào đó nhấc từng bước bắt tôi bước theo chân người đàn ông. Khi xe ông Chung rời bãi đậu, tôi liếc nhìn ông thì lạ lùng sao tôi bắt gặp ánh mắt và nụ cười rất hiền y hệt như của chồng tôi.

Ông Chung cư ngụ trong một khu condo đắt tiền. Cổng vào có người gác, một thang máy dành riêng cho hai condo, có đường hầm nối liền các condo đến một tiểu siêu thị. Tôi thắc mắc ông Chung làm nghề gì mà có khả năng tài chánh để có thể mua cái condo sang trọng nầy. Condo của ông Chung ở tầng thứ mười. Tôi biết ở xứ lạnh, condo ở tầng càng cao giá càng đắt vì có được cái nhìn bao quát và hưởng được nhiều ánh mặt trời. Ông Chung mời tôi ngồi ở phòng khách. Bộ xa lông bằng da màu nâu sẫm còn thơm mùi da mới. Ông pha mời tôi một ly nước suối rồi ngồi xuống chiếc ghế bành đối diện. Ông nói như để giải bày:
– Chắc bà ngạc nhiên về đời sống vật chất của tôi. Những gì tôi có hiện nay đều là của Hạnh. Khi Hạnh chết, cha mẹ nàng đã bí mật dấu trong quan tài nàng một hộp vàng và kim cương coi như là một nơi dấu của kín đáo. Cha mẹ nàng bị thảm sát trong Tết Mậu Thân 68. Mộ nàng sau đó bị để hoang phế. Hạnh báo mộng cho tôi biết về kho tàng dấu trong quan tài và bảo tôi gấp gấp đi bốc mộ nàng. Tôi đã rời miền Nam bằng phi cơ quân sự Hoa Kỳ, một tuần trước khi miền Nam mất năm 75. Bà muốn biết hiện tôi làm nghề gì? Một nghề bình thường thôi. Giáo sư dạy toán cho một trường trung học. Một ông giáo dạy trung học thì đi xe Toyota Tercel là phải rồi. Đó là tất cả cuộc đời tôi cho đến giờ phút này. Bà là người đàn bà đầu tiên tôi mời lên chỗ ở của tôi. Vì Hạnh muốn như thế. Về phía bà tôi có thể được biết gì không?
– Tôi góa chồng được hơn một năm nay. Minh Châu, con gái tôi, là người đã gián tiếp giới thiệu ông cho tôi. Con tôi biết cuốn sách gối đầu giường của tôi là cuốn Nhà Tiên Tri. Nhà nó ở gần cái siêu thị nên khi thấy ông đến đó đậu xe ăn trưa với cuốn Nhà Tiên Tri bên cạnh, nó lấy làm lạ nên nói cho tôi hay. Thú thật tôi cũng tò mò muốn biết ông là ai mà cũng thích đọc cuốn Nhà Tiên Tri như tôi. Về nghề nghiệp, tôi làm đại lý cho một hãng du lịch bán vé máy bay ăn huê hồng, một nghề tay trái làm cho vui. Nghề chính của tôi là nội trợ lo cho chồng cho con. Nay chồng mất, con đã có gia đình, nên tôi coi như đang thất nghiệp.
Ông Chung nhìn tôi với ánh mắt trìu mến:
– Tôi nghĩ tất cả đều do Hạnh sắp đặt. Tôi nghĩ Hạnh có cảm tình với bà.
Tôi nghe lành lạnh ở sống lưng, khi nghĩ hồn người chết tên Hạnh có thể nhập vào tôi. Không biết sau đó tôi có còn là tôi nữa hay không? Tôi sẽ yêu người đàn ông tên Chung kia bằng thể xác và tâm hồn tôi hay người đàn bà tên Hạnh sẽ mượn thể xác tôi để yêu người tình cũ của mình?
– Bây giờ xin mời bà xem hình của Hạnh.

Tôi cảm thấy rờn rợn muốn thối lui. Nhưng khi bắt gặp cái nhìn bao bọc của ông Chung tôi thấy an tâm. Tôi đứng lên theo ông đi vào một phòng ngủ nhỏ. Trong phòng chỉ vỏn vẹn một chiếc giường đơn, phủ ra mền màu xanh nhạt. Trên đầu giường, hình một thiếu nữ chụp bán thân được lồng kính trong một khung gỗ cũng sơn màu xanh nhạt. Tôi hơi giật mình vì người trong hình tuy rất trẻ nhưng có nét hao hao giống tôi, nhất là nụ cười. Tôi nói khẽ với ông Chung:
– Chị ấy có nụ cười rất tươi.
Ông Chung cũng chăm chú nhìn bức hình rồi thì thầm:
– Hạnh không cười khi chụp bức hình nầy.
Tôi lạ lùng nhìn kỹ bức hình một lần nữa, rõ ràng người trong hình đang nhìn tôi cười. Tôi nghe tay chân mình lạnh toát.
– Xin mời bà ra ngoài hiên ngồi uống nước ngắm trăng. Hôm nay trăng trung tuần rất tròn.

Tôi ngồi xuống chiếc ghế mây nhìn vừng trăng tròn chưa lên cao còn thấp thoáng trong rặng thông. Bầu trời trong vắt đầy tinh tú lấp lánh. Ông Chung bưng ra một cái khay trên có hai ly nước cam và một đĩa bánh bông lan. Ông đặt khay trên cái bàn con ngăn đôi hai cái ghế, rồi ngồi xuống chiếc ghế mây bên cạnh. Tôi không ăn bánh chỉ uống từng ngụm nước cam. Ông Chung lên tiếng trước, giọng trầm trầm:
– Bà thấy Hạnh cười với bà, tôi nghĩ Hạnh đã chọn bà.
– Nghĩa là chị ấy sẽ nhập vào tôi?
– Có thể.
– Lúc ấy tôi sẽ ra sao?
– Tôi nghĩ một trong hai trường hợp nầy có thể xảy ra: Hoặc hồn Hạnh nhập vào bà, bà sẽ là Hạnh, bà sẽ đối xử với tôi như Hạnh đã đối xử với tôi ngày trước. Hoặc Hạnh xem như đã kiếm được cho tôi một người xứng đáng thế chỗ của Hạnh và Hạnh sẽ rời bỏ thế gian này để đi vào cõi vĩnh hằng. Chúng ta hãy chờ xem. Bà có đói không? Tôi sẽ đi làm bánh mì thịt nguội. Đó là món ăn thường xuyên của Hạnh và tôi, thời chúng tôi kín đáo gặp nhau, nằm bên nhau nhai bánh mì trên căn gác trọ của tôi.
Tôi không đói lắm nhưng cũng không từ chối đề nghị của ông Chung. Tôi đang chìm trong bầu không khí huyền bí bao quanh. Tôi vừa bị lôi cuốn, vừa sợ. Nhưng vẻ trầm tỉnh của ông Chung khiến tôi phần nào an dạ. Tôi có cảm tưởng ông cố ý giữ một khoảng cách giữa ông và tôi, tôi có cảm tưởng như ông đang chờ đợi một sự việc gì sắp xảy ra.

Ông Chung bưng ra một đĩa đựng hai ổ bánh mì thịt, mỗi ổ được cắt đôi. Nghe ông mời tôi tự nhiên thấy đói. Tôi cầm nửa ổ bánh mì đưa lên miệng cắn một miếng. Ổ bánh mì tỏa ra một mùi thơm thoang thoảng như mùi hương dạ lý làm tâm trí tôi lâng lâng. Giọng ông Chung lại trầm trầm bên tai tôi:
– Mỗi đêm khi có trăng tròn tôi hay ra ngồi đây một mình. Cứ mỗi lần trăng lên cao tỏa ánh sáng vào cửa sổ của phòng Hạnh, người tôi lúc đó như mê đi và tôi thấy Hạnh hiện ra trò chuyện với tôi. Nàng tiên đoán những gì sắp xảy ra cho tôi và hướng dẫn tôi cách ứng xử. Hôm nay tôi tin sẽ xảy ra một sự việc khác thường, không những liên quan đến tôi mà liên quan đến cả bà, nhưng tôi linh cảm là một biến đổi tốt.
Tôi ăn hết nửa ổ bánh mì thì vừng trăng tròn lên cao tỏa ánh sáng mờ dịu vào cửa sổ phòng của Hạnh. Tôi thấy ông Chung ngả đầu vào thành ghế, mắt nhắm nghiền như một người đang bị thôi miên. Bỗng một vệt sáng dài thoát ra từ cửa sổ phòng Hạnh, xẹt qua đầu tôi, rồi như một ánh sao băng vun vút bay lên. Tôi mở lớn mắt theo dõi cho đến khi không còn phân biệt được đâu là vệt sáng đâu là ánh sao trên bầu trời. Tôi quay mặt nhìn sang ông Chung. Ông tỉnh lại không biết từ lúc nào, ngồi im ngắm tôi với nụ cười hiền hậu. Tôi nhìn ông, bỗng thấy đối diện với mình là một khuôn mặt thân thương quen thuộc như từ lâu đời. Tôi đưa tay qua nắm tay ông:
– Đi vào đi anh, em lạnh.
Bước ngang qua phòng Hạnh, chúng tôi ghé mắt nhìn vào. Bức hình treo trên đầu giường biến mất. Ông Chung, mắt ngấn lệ, tay nắm chặt tay tôi, miệng thì thầm: "Cám ơn Hạnh!".

Trang Châu

.
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị    Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị  Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Tập Truyện Ngắn Huyền Bí - Kinh Dị
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Tuyển Tập Truyện Ngắn Hài Huớc: CÁI KÍNH - Azit Nexin
» VÁN CỜ - Truyện Ngắn của Lê Tất Điều
» Truyện ngắn: Vợ hay Mẹ? Mẹ hay Vợ?
» Truyện ngắn: LÀM ĐĨ
» Bia Ôm - Truyện ngắn: P. Nguyên

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon  :: ĐỀ TÀI :: Văn Hóa, Nghệ Thuật :: Văn-
Chuyển đến