November 2024 | Mon | Tue | Wed | Thu | Fri | Sat | Sun |
---|
| | | | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | | Calendar |
|
|
| Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian | |
| | Tác giả | Thông điệp |
---|
P-C Khách viếng thăm
| Tiêu đề: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Sat Oct 20, 2012 8:40 pm | |
| .
Người ở lại thế gian - Nguyễn Thụy Long
Lão ba Nghiêu suốt ngày ngồi trên ghế xích đu hút thuốc rê. Một nửa người lão bị tê liệt từ mười năm nay. Chiếc ghế lão nằm kê ngay ở hàng hiên nhìn ra khu vườn xanh rì cây lá. Lão ba Nghiêu đã già lắm, mặt lão nhăn nheo, nhăn nheo như da quả trám khô. Mùa nắng lão chỉ mặc có chiếc quần đùi rộng thùng thình, cổ vắt một chiếc khăn rằn ri cũ mèm để lau mồ hôi. Thân hình lão gầy còm khô héo như xác ve sầu, hai chân lâu ngày không vận động trở nên nhỏ teo khô quắt lại như hai khúc ống sậy. Cái bụng luôn luôn hở rốn, nhăn nhúm như một cái túi da mốc thếch. Thú vui độc nhất của lão là hút thuốc rê, trên cái miệng móm mém lúc nào cũng bập bập điếu thuốc quấn vụng to bằng ngón tay cái. Lão có thể điều khiển điếu thuốc chạy từ mép bên này sang mép bên kia rất gọn. Nhưng đừng tưởng lão nằm một chỗ như vậy mà không biết gì. Lão là người kỳ cựu ở đây. Lão nằm, lão nghe ngóng và hiểu hết mọi chuyện. Thằng cháu nội của lão là cu Sún, chính nó là cái máy truyền tin nhanh chóng nhất. Bố cu Sún là anh hai Khâu chạy xích lô máy suốt ngày. ở nhà chỉ có hai ông cháu. Cu Sún chạy rong trong xóm, nó lưu ý đến tất cả mọi chuyện để về kể lại cho ông nghe.
Khi cu Sún chạy về nhà, lão ba Nghiêu đã hút tàn một điếu thuốc rê, lão đang vấn điếu khác. Lão để miếng giấy vào lòng bàn tay trái, rắc một ít thuốc lên trên, kế đó lão hơi uốn cong góc giấy, lão dùng bàn tay kia xoe tròn một cái. Thế là điếu thuốc thành hình sâu kèn, lão đưa lên miệng, thè lưỡi rơ qua một đường, dán lại. Lão dùng móng tay út lùa những sợi thuốc lồm xồm vào điếu thuốc cho gọn gàng, đoạn để lên môi. Điếu thuốc được chuyển đi chuyển lại nhiều lần từ mép này sang mép kia. Lão chưa đốt vội, lão ngẩng lên hỏi thằng cháu mặt mày bẩn tèm lem: - Có chi lạ không mày? - Bữa nay trên chùa ông Tám Tô có đám ma. Vậy hả, hèn gì tao nghe chuông trống dộng hoài từ sáng đến giờ, mà ai chết hồng? Thằng cu Sún quệt ngang mũi: - Anh hai Du, nội à. Lão ba Nghiêu đang định mồi lửa. Lão ngừng tay bật quẹt máy ngẩng lên hỏi: - Ủa, thằng hai Du đi lính mà? - Ứa, ở nhà ảnh mới nhận được tin ảnh chết trận. - Vậy hả, có mang xác về không? - Chết mất xác đâu đó. Lão ba Nghiêu bật quẹt máy xoè xoè. Lão bập bập điếu thuốc nhả khói mù mịt, chép miệng: - Tội nghiệp không, nó mới cưới vợ năm rồi. Nè, mày qua bền thì nói với ông cụ Chất tao gởi lời chia buồn nghe. - Dạ! Thằng cu Sún định chạy đi. Lão ba Nghiêu gọi giật lại: - Nè, đi đâu đó? Cu Sún tưởng nội nó hỏi tin tức nữa, nó nói: - Hết chuyện rồi, nội à! - Tổ cha mày, tao đâu thèm hỏi chuyện nữa, mày mang cái quẹt máy đi xin cho tao ít xăng.
Nói xong, lão trao cho cháu cái quẹt, thằng bé chạy khỏi. Lão nằm hút thuốc nhả khói tùm lum nhìn ra ngoài vườn cây, lắng nghe tiếng tụng kinh từ trên chùa Tám Tô vẳng lại. Lão lầm bầm chửi thề: - Đ.M. thằng Tám Tô đạo đức giả! Lão ba Nghiêu vốn ghét Tám Tô từ hồi nhỏ, lớn lên lão lại mang một mối hận tình. Hồi đó lão Nghiêu còn trai trẻ, lão yêu thương con Hồng. Tám Tô cậy thế con nhà giàu cướp của lão. Sau này vợ chồng Tám Tô cũng chẳng được hạnh phúc gì, con Hồng sinh ra bài bạc. Tám Tô lập chùa. Dân trong xóm nói Tám Tô chán đời nên muốn nương nhờ cửa Phật. Riêng lão Nghiêu không nghĩ thế, lão cho rằng có một âm mưu đen tối trong vụ đi tu này. Lão kinh tài bằng cửa Phật. Này nhé, lão có một trại đóng hòm, có chùa, có nghĩa địa cho thuê. Dân vùng này chết, ai cũng phải qua tay Tám Tô hết. Tám Tô bán hòm, làm ma rồi cho thuê luôn đất chôn. Thế là bao nhiêu mối lợi người chết đều vào tay thầy chùa Tám Tô.
Lão Nghiêu nằm nghĩ lan man về dĩ vãng mình. Cuộc đời lão gắn liền với xóm này, lão ra đời, sống, lấy vợ, sinh con đẻ cái ở đây. Lão nghèo nhưng cũng còn mảnh vườn ông cha để lại. Lão biết rõ từng gia đình trong xóm. Qua bao nhiêu cuộc đổi đời, lão Nghiêu vẫn sống ở đây. Lão ghét Tám Tô, nhưng vẫn phải sống gần Tám Tô, đó là điều ân hận nhất đời lão. Nhiều khi uất hận quá, lão nói với thằng con trai, hai Khâu: - Tao nói thiệt cho mày biết, tao mà chết thì để quạ đến rỉa xác tao, chớ mày mà nhờ thằng thầy chùa Tám Tô làm đám, tao vế bóp cổ mày chết tươi đó, Khâu à? Hai Khâu nghĩ cha mình già nên lẩm cẩm, anh gạt đi: - Tía thiệt kỳ, chuyện ngày xưa mà hơi sức đâu nhắc hoài, nghe bắt ngấy! Lão Nghiêu nói trớ đi: - Tao ghét thằng chả đạo đức giả. Hai Khâu đi làm về mệt nhọc nên không khỏi bực tức, anh nói bét ra: - Chớ không phải chuyện bà Hồng sao? Thế là lão Nghiêu to tiếng, lão ngoan cố, vừa chửi vừa giải thích. Lão nhất định không nhận lời nói của con gán cho. Hai Khâu không trả lời cha nữa. Anh bỏ ra quán chú Lì nhậu lai rai ba sợi. Lão Nghiêu càng tỏ ra thâm thù Tám Tô, có dịp là lão không tiếc lời chửi bới. Nắng đã lên cao, chờ mãi không thấy thằng cu Sún mang quẹt về, lão đã vấn sẵn hai ba điếu thuốc rê mà không có lửa mồi. Lão ngậm một điếu thuốc trên môi đưa qua đưa lại, lão thắc mắc: - Thằng Sún đi đâu mà lâu vậy cà? Có ai đi qua lão mồi nhờ miếng lửa.
***
Quán chú Lì ở ngay đầu xóm. Địa điểm đó là một ngã ba đường dẫn ra lộ chính. Người ta không biết chú ba Tầu này đến đây mở cửa hàng từ đời thuở nào, nhưng từ bao nhiêu năm nay vẫn không có gì thay đổi. Bàn ghế cũ kỹ, quán hàng lụp xụp. Thực đơn: Buổi sáng có cơm tấm, bàn bì, cà phê. Buổi chiều có cháo giò heo, bì cuốn, đồ nhậu lai rai và rượn đế. Quán đông khách thường xuyên vào buổi sáng sớm, dân lao động ra ăn điểm tâm đôi ba đồng bạc trước khi ới làm. Buổi tối gần như dành riêng cho các tay nhậu. Họ bàn tán với nhau đủ mọi chuyện xảy ra ngoài thành phố. Câu chuyện chỉ tàn khi rượu đã cạn và đêm về khuya. Một vài người quá chén nói bậy bạ vài câu trước khi ra về. Buổi tối hôm nay, trên chùa Tám Tô làm đám cho Hai Du, dân nhậu bu đông ở trên. Quán chú Lì vắng khách. Dân nhậu lai rai chỉ có vài ngoe ngồi trông buồn xo một vài người bàn tán về cái chết của Hai Du, tất cả đều nói trật lấc, họ nói Hai Du bị mã tấu chém lìa đầu người nói bị súng ngựa trời bắn banh xác. Người ôm xác Hai Du lần cuối đang ngồi đây, nó là bạn Hai Du từ hồi nhỏ. Nó bận quần áo lính nhảy dù rằn ri ngồi uống đế lầm ri ở một góc quán. Mặt nó sắt lại như đá, nó lặng nghe những bậc chú bác nói chuyện về bạn, nhưng không lên tiếng. Đôi mắt nó ngầu đỏ nhìn ra ngoài trời tối mông lung. Con hẻm tối có những cơn gió chạy dài khua động lá cây xào xạc. Gã thanh niên mặc bộ đồ dù tu nốt xị đế, đặt cái chai không đến cộp xuống bàn: - Chú Lì, cho thêm một xị nữa đi! Chú Lì ngần ngại nhìn nó: - Keo à, mày uống nhiều rồi đó! Thằng Keo một lần nữa dằn mạnh cái chai, mắt dữ tợn, nhắc lại: - Cho một xị nữa!
Chú Lì thấy bắt ớn. Chú hơi ngạc nhiên vì tính nết thay đổi bết thường của thằng Keo. Hồi chưa đi lính, nó là thằng thanh niên hiền lành nhất xóm. Vậy mà... Roạt? Nó rút mạnh con dao lê dấu trong bụng ra cắm phập xuống bàn. Cán dao rung lên. Chú Lì đành ra phía sau nhà rót đế. Chú gặp thằng cu Sún đứng thập thò ở đó. Chú nói nhỏ: - Sún, mày "dìa" kêu ba thằng Keo ra giùm tao, biểu rằng thằng Keo nhậu say sắp phá quán tao nghe mây! Sau đó chú Lì cũng mang đế ra cho thằng Keo. Nó tu đế khè khè như rắn. Đôi mắt đỏ ngầu rọi ra đầu xóm tối om. Tất cả mọi người có mặt ở đó thầm hỏi: "Thằng Keo chờ đợi ai?". Thắc mắc ấy chỉ một lát sau được chính thằng Keo giải đáp. Nó uống hết già nửa xị đế, tay cầm cổ chai chống lên đùi, tay kia nắm lấy chuôi dao, mắt quắc dữ tợn, răng nghiến trèo trẹo. Tiếng nói nó trở nên cay nghiệt: - Mẹ nó, tôi phải xả thịt nó ra, quăng cho chó ăn, quân phản bội, đồ đàn bà chó đẻ. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Thằng Keo rít lên, nhưng rồi nó cười nhạt: - Đàn bà, đàn bà thề non hẹn biển rồi nuốt lời. Quân chó đẻ đó tôi không thể để nó sống được ở trên đời này. Dân nhậu lại đưa mắt dò hỏi nhau: - Nè, ai đó? - Hổng biết! Mặt thằng Keo lạnh như tiền, làm nhàm: - Về đây con, về đây, ông cố nội mày lụi mày đủ mười lát dao thôi. Đ.M. mới đi lính mười tháng, thót đi làm điếm rồi. Đ.M nhơn tình thế thái. Đ.M. mình chết lên chết xuống, cực nhọc hơn con chó để nó ở đây chửng giỡn với ba thằng Mỹ.
Chửi rủa như vậy hình như thằng Keo chưa đã giận. Nó đứng dậy rút phất con dao cầm lăm lăm trong tay. Dân nhậu hoảng hồn, một người lên về kêu ba thằng Keo. Một vài người khác bạo dạn hơn trờ tới tìm lời mềm mỏng khuyên giải: - Keo à, mày có điều gì buồn phiền thì vô đây nói tụi tao nghe coi. Hung hăng vậy coi sao đặng, dân nhậu phải tỉnh táo mới đáng mặt chớ mày. Thằng Keo trừng mắt: - Mấy người biết gì! Đ.M. đừng xía vô chuyện tôi chết oan à! Giết con Lan xong, thằng này tự sát liền cho coi. Lúc đó đám nhậu mới hiểu nỗi lòng thằng Keo. Thì ra mèo thằng Keo là con Lan hiện giờ đi bán "ba" ở Sài Gòn. Chú U thấy mình có ít nhiều trách nhiệm trong vụ này. Chú xông ra nắm tay thằng Keo: - Keo à, tao nói phải quấy mày nghe, giết con Lan tội nghiệp nó. Hoàn cảnh bắt buộc đó mày. Thằng Keo la lên: - Ai bắt buộc nó, phải con đĩ mẹ nó không. Tôi vô lụi chết luôn một thể. Chú Lì xuống nước năn nỉ: - Keo ơi, tao xin mày, van mày, quanh đây bà con cô bác không à. Mày xử vậy coi sao được. Thằng Keo hậm hự: - Tôi chán đời rồi, tôi đếch cần? Tôi thề con Lan phản bội tôi, tôi giết nó. Chú Lì phân lẽ phải trái: - Mày còn thương con Lan chớ gì, mày để nó làm ăn, tội nghiệp nó vì hoàn cảnh gia đình. Nó đâu muốn vậy! Thằng Keo bớt hung hăng, tay cầm con dao bỏ xuôi lơ. Mắt nó mở thao láo nhìn con hẻm tối. Tất cả bực tức dồn nén bao lâu nay bất giác làm nó tủi phận. Nó nghĩ đến hình ảnh người yêu, rồi nước mắt nó chảy ra, nó gục đầu khóc trên bàn.
Nó thật tình thương con Lan, nhưng nó tự ái. Lâu nay con Lan không còn viết thư cho nó nữa, cho đến bây giờ nó trở về để tìm hiểu sự thật. Một sự thật đắng cay. Bao nhiêu nỗi buồn đè nặng trong lòng nó. Hai Du chết rồi và con Lan đi bán "ba", nghề đó đâu có xa nghề làm điếm. Đêm nay nó ngồi đây, chờ người tình phụ bạc để lụi ít dao. Nó tự hỏi không biết mình có mù quáng không? Khách nhậu thấy thằng Keo ngồi gục đầu trên hai tay, đôi vai rung lên. Nó đang khóc, nó nức nở gọi tên người yêu: - Lan ơi, Lan ơi! Một khách nhậu đến định an ủi nó thì chú Lì can: - Đừng anh, để cho nó khóc, tội nghiệp, nó khóc được thì nó đỡ khổ. Trong khi đó mẹ con Lan đã được thằng cu Sún chạy đến báo tin dữ. Bà hoảng hồn, miệng nam mô chạy ra đầu xóm kêu xe dông tuốt lên chỗ con Lan bán, dặn nó đừng về mà nguy hiểm đến tính mạng. Con Lan nghe tin đó không hề xúc động, nó nhún vai: - Ảnh giết con cũng được chớ sao? Bà Hoa gắt nhỏ: - Mày nói chi kỳ vậy. Tao đẻ ra mày để thằng nào muốn đâm muốn chém cũng được sao. Mày còn phải trả hiếu cho tao, phải nuôi tao. Mày vẫn còn thương thằng đó sao? Đừng có lãng mạn rởm, chết vì tình. Lan thản nhiên: - Hết thương rồi, từ ngày má biểu con, con đâu dám thương ảnh nữa. Ảnh đi lính đâu có tương lai, con ra đây bán ba kiếm chồng Mỹ bảnh hơn nhiều mà. Bà Hoa biết con gái nói mỉa, bà cau có: - Tao có cấm cản mày đâu! - Dạ, nhưng ảnh không vừa ý má thì con thôi liền. May ra bán hàng ở đây kiếm được chồng sĩ quan Mỹ, má à. Nghe con gái nói móc mình, bà Hoa đay nghiến: - Có phải mày gài tiếng ác cho tao không? Lan cười thản nhiên: - Má đâu có ác, chỉ có con xấu thôi, con chót thề thốt với người ta rồi con lại nuốt lời. Đứa con gái như vậy đáng chết, thôi má "dìa" đi, mặc con. Bà Hoa đi khỏi, Lan thở dài. Nàng lẩm bẩm một mình: - Em đáng tội chết lắm, anh ơi. Phải chi anh hiểu cho em.
Nói xong muốn bật khóc, nàng trở vô quán. Nàng bắt gặp những khuôn mặt đàn ông phè phỡn. Khi bà già con Lan về tới xóm thì bà con cho biết tiếng Keo bị bố nó ra xàng cho một cây rồi xách cổ về nhà. Bà già con Lan đứng phân bua: - Đó, cô bác coi, tôi khổ vì con quá sức. Biết vậy hồi con Lan còn nhỏ, tôi bóp mũi nó chết ngắc cho rồi. Tôi biểu hoài nó đừng thương thằng đó, nó đâu có nghe tui. Một người ngứa miệng xía vô: - Mà chị cản ngăn nó chi vậy, tụi nó thương yêu nhau thì gả phứt đi cho rồi. Mẹ con Lan trề môi: - Tui biết người biết của mà, tui biết con Lan dại dột bị rù quên nên khuyên bảo vậy thôi. Cô bác tính coi lấy cái thằng suốt ngày chỉ đờn ca, hát xướng mất công mình nuôi rể luôn, cái thứ nghệ sĩ đó đói rã họng suốt đời. Bà con lối xóm thấy trời khuya tản mát ra về. Họ chán nghe cái giọng điệu của bà già con Lan. Bác Bẩy Thương đóng cửa cái rầm: - Đ.M. đêm khuya mà um xùm hoài. Mẹ, cái thứ đạo đức giả đó sao không có thánh thần nào vặn họng đi cho rồi. Chị Bẩy Thương nằm trong mùng cho con bú, gắt vọng ra: - Ông thiệt kỳ, chuyện người ta mắc mớ gì đến mình. Bị vợ át giọng, Bẩy Thương nổi nóng: - Nè, câm miệng, xía vô tao dộng chết mẹ. Nói xong Bẩy Thương bỏ ra hàng ba tới ghế bố nằm. Anh thoáng nhìn thấy bóng một thằng nhỏ lấp ló gần đó. Anh lên tiếng hỏi: - Đứa nào đó? - Cháu đây bác Bảy! - Sún đó hả mây? - Dạ! - Không đi về ngủ còn đứng lấp ló chi đó?
Thằng cu Sún lủi thủi ra về. Nó chợt lo ngại. Chết mẹ, cái máy quẹt chưa tìm thấy, về ăn nói sao đây với ông nội? Quả nhiên khi về tới nhà, nội nó còn nằm ở ghế xích đu hút thuốc rê. Bây giờ lão Nghiêu phải dùng chiếc đèn dầu hột vịt mồi lửa. Thấy cu Sún nép nép đi vào, định chui vào mùng, lão gọi giật giọng: - Sún, ra tao biểu! - Dạ! Thằng Sún đành leo xuống. Chờ cho nó tới gần, lão Nghiêu hỏi giận dữ: - Máy quẹt của tao mày kiếm thấy chưa? Cu Sún đứng gãi đầu gãi tai: - Dạ, cháu kiếm hoài mà... mà... - Mà cái con ớ mẹ mày! Tao cho mày một ngày nữa đó, không kiếm thấy thì đừng vác cái bản mặt về đây!
Chửi cháu xong, lão nằm ngửa mặt hút thuốc, lão thưởng thức hương vị đậm đà của điếu thuốc rê. Lão biết bây giờ có la thằng cháu cũng vô ích. Lão nghe tiếng trống tung tung từ trên chùa Tám Tô vọng xuống. Lão bực mình lẩm bẩm chửi: - Đ.M. thằng thầy chùa Tám Tô um xùm hoài. Quay lại thấy thằng Sún còn tần ngần đứng đó, lão biết ý nó muốn thông tin. Lão hất mặt hỏi: - Chi lạ không mày? - Dạ, thiếu giống. - Nói tao nghe coi. Thế là thằng cu Sún kể thao thao câu chuyện rùng rợn thằng Keo tính giết con Lan ngoài quán chú Lì cho nội nghe. Lão già hỏi tới: - Vậy hả, rồi sau sao? - Anh Keo bị ông già xách đầu về dộng vô lu nước. - Đ.M. vậy mà không để cho nó lụi chết thứ đàn bà phản phúc đó cho rồi. Còn má con Lan sao? - Bả chửi anh Keo quá trời! - ứa, còn con mẹ đó nữa, cũng đáng lụi cho nhát dao lắm. Bà con lối xóm đâu có ai ưa. Thằng Sún chộp được cơ hội: - Dạ, phải đó nội, con có nghe bác Bẩy Hương chửi thề! - Vậy hả, chửi thề sao, nhắc lại coi. Thằng cu Sún cố nhớ lại: - Chửi... chửi à... "Đ.M. đêm khuya um xùm hoài, mẹ cái thứ đạo đức giả đó sao không có thánh thần nào vặn cổ chết cho rồi..." Lão Nghiêu nhả điếu thuốc, phun nước miếng cái phẹt, vỗ bụng đét một cái: - Đ.M. thằng chả hạp tao đa. Nói được một câu nghĩa lý, lão Nghiêu khoái tỉ cười hê hê. Đêm khuya trời nóng, cây lá ngoài vườn đứng im phăng phắc.
Thằng cu Sún làm xong nhiệm vụ thông tin. Nó chun vô mùng nằm ngủ ngáy khè khè. Lão Nghiêu nằm hút thuốc đập muỗi phành phạch. Một lát sau lão nghe tiếng xích lô máy của Hai Khâu trở về. Chưa bước chân vô cửa, Hai Khâu đã than: - Trời nóng quá chừng! Anh thấy cha còn thức liền hỏi: - Khuya rồi, tía không đi ngủ sao? - Trời nóng quá, tao muốn nằm chơi một lát. Hai Khâu cởi chiếc áo nhà binh cũ rách liệng lên bàn. Anh ra hàng ba đứng ngó trời ngó đất: - Không chừng đêm nay mưa. - Tao cũng đoán vậy! - ờ mưa cái cho mát mẻ, cuối năm trời nóng dữ, à, hôm nay trên Sài Gòn người ta chích ngừa bệnh thiên thời, sao vùng này chưa thấy động tĩnh gì há?
Lão Nghiêu quạt phành phạch. Lão lại nghe tiếng trống trên chùa gõ tung tung. Lão bỗng nhớ đến cách đây mấy năm, bệnh thiên thời phát sinh tại vùng này làm chết vô số người. Hồi đó Tám Tô mới có một kiểng chùa nhỏ. Sau vụ đó Tám Tô giầu lớn. Lão Nghiêu búng mẩu thuốc ra ngoài vườn: - Trời giúp Tám Tô mãi. Hai Khâu đang đứng tựa cửa, anh quay lại hỏi: - Tía nói sao? - Tao biểu trời giúp Tám Tô làm giầu, một vụ thiên thời nữa thì chả mua hết đất vùng này chôn xác chết, lập thêm mấy kiểng chùa, trại hòm của chả đóng hòm không kịp. Hai Khâu bực mình: - Tía cứ hằn thù Tám Tô hoài à, thôi bỏ đi, chuyện xưa nhắc lại hoài. Lão Nghiêu cũng nổi nóng. Lão la bài hoải: - Tao nhắc lại chuyện xưa hồi nào? - Vậy sao tía cứ kiếm chuyện nói xấu Tám Tô hoài, người ta tu hành... Lão Nghiêu càng nóng: - Đ.M. cái quân buôn xác chết đó mà mày biểu là tu hành à! Đ.M. cái thứ ba đời cho vay lời, mười đời buôn xác chết đó mà đạo đức cái nỗi gì… Hai Khâu hừ một tiếng, cười kháy: - Tui biết tại sao tía thù Tám Tô? Lão Nghiêu bị câu nói móc tức cành hông: - Mày biết sao, nói tao nghe coi. Hai Khâu bỏ vô mùng, cười khẩy, nói vọng ra: - Tại sao thì tía biết đó, hỏi lại tui làm chi. Một lát sau lão Nghiêu nghe tiếng con trai ngáy như cưa cây, lão nằm ở ghế xích đu rồi ngủ quên. Nửa đêm trời mưa lớn. Tỉnh dậy lão thấy người lạnh run, miệng há ra mà không nói được. âm thanh cuối cùng lão nghe là một tiếng sét và tiếng giồ mưa ào ạt Ngọn đèn dầu đã bị gió thổi tắt.
***
Tờ mờ sáng hôm sau, Hai Khâu trở dậy. Anh không quên để lại tiền cho cha và thằng cu Sún. Hai Khâu đi khỏi một lát thì thùng cu Sún cũng thức giấc. Nó bò ra khỏi giường lấy tiền nhét túi, ra khạp nước rửa mặt. Thấy ông nội ngủ ở ghế xích đu, nó không để ý dông tuốt ra đường kiếm xôi mua ăn điểm tâm. Cu Sún đoán chừng ông nội còn lâu mới thức nên chưa cần mua cà phê sữa vội. Nó cẩm gói xôi đi ăn cùng xóm, đâu đâu cũng xà vào một lát. Nó hy vọng kiếm thấy cái quẹt và tiện thể kiếm ít tin tức sốt dẻo để về kể lại cho ông nội. Nó cố moi khối óc tối tăm coi xem hôm qua bỏ quên cái máy quẹt ở đâu. Nó lẩm nhẩm điểm lại từng nơi tới, đứng thẫn thờ ở ngã ba đường, liệng từng hòn xôi vô miệng.
Ở nhà ra đây, gặp thằng Túm, hai đứa ra quán chú Lì nhặt nút phéng, ờ ờ... rồi sau đó... sau đó, Đ.M. ngu quá! ứa, phải rồi, chạy lên chùa Tám Tô, "dô" nhà con Bích... rồi... chạy ra ruộng... cha... khó quá Đ.M. nhớ chi nổi. Cái máy quẹt đút túi này, không, túi này... rớt sao được. Thằng cu Sún đang cố moi khối óc rối beng của mình thì thằng Túm ở đâu chạy tới. Nó thấy bạn đứng tần ngần như trời trồng ở ngã ba đường liền hỏi: - Đứng chi đô mày? Thằng cu Sún đang cố gắng nhớ lại một lần chót nhưng rốt cục nó chịu thua. Thấy bạn hỏi, nó chửi thề liền: - Đ.M. khó quá! - Chi khó mày? Cu Sún quay sang hỏi bạn: - A, mày thấy cái máy quẹt của nội tao đâu không? Thằng Túm ngớ ngẩn: - Cái máy quẹt nào? - Cái máy quẹt của nội tao đó, hôm qua ổng đưa tao đi xin xăng rồi tao bỏ đâu mất, ổng bố tao quá trời. - Vậy hả, nhớ lại coi. Cu Sún nhún vai: - Đ.M. tao hỏng nhớ nổi. Thằng Túm nhanh nhẩu: - Đâu, mày tính lại cho tao nghe coi. Thế là thằng Sún lại tính toán từ đầu, cuối cùng thằng Túm cũng chịu thua luôn, nó đánh trống lảng: - Lúc ở ruộng, má tao kêu, tao về rồi mày đi đâu? Thằng Sún lắc đầu: - Đó tới khúc đó rồi tao ngắc luôn. Thằng Túm lên mặt: - Đ.M. ngu quá, phải chi tao, tao nhớ ra liền. Bị chê ngu bất tử, thằng Sún tức cành hông: - Đ.M. chớ có làm tàng, không chừng mày còn ngu hơn tao kia. Tao ngu sao được. - Không ngu hả? - Ưà đó. - Đ.M. không ngu, không ngu? Thằng Sún nhẩy chồm tới xàng luôn hai thoi vào mặt bạn. Thằng Túm không chịu kém, nó lao đẩu vào bụng địch thủ loi chí mạng. Bốp, bốp! Thằng Túm té nhủi vào bụi cây. Khi nó rút đầu ra được thì thằng Sún cắm đầu chạy mất. Nó sờ vào lỗ mũi. Cha, máu! Nguy quá? Nó đút hai ngón tay vào lỗ mũi, ngửa mặt lên trời cho máu ngưng chảy. Và cứ như thế, nó đi lêu đêu về nhà. Nó lầm bầm chửi: - Đ.M. thằng Sún, thù này quyết trả. Tao đâm mày cho coi, chưa thấy quan tài chưa đổ lệ.
Hai ba lần nó sa xuống hố lại leo lên, máu cứ òng ọc chảy ra hai lỗ mũi làm ướt cả bàn tay lem luốc. Nó nghĩ đến cách chữa cầm máu. Nó chợt nhớ người ta biểu phải kiếm rẻ rách ở đũng quần đàn bà đút nút lỗ mũi lại mới hết chảy máu. Tới sân nhà, nó kêu lên: - Chị Hai, chị Hai, cho xin một miếng vải quần coi. Chị hai nó đang ở trong bếp thò đầu ra, thấy máu be bét ở mũi em liền la lên: - Trời ơi Túm, sao đó mày? Thằng Túm vẫn ngửa mặt lên trời: - Xé cho miếng vải quần lẹ lên. Chị Hai chạy lại đỡ em: - Vô nhà! Thằng nào "uýnh" mày vậy? Thằng Túm lắc đầu: - Cho xin miếng vải quần! Chị nó không nghe, giắt tuốt nó vô nhà, đặt nằm xuống ván ngựa, chạy đi lấy khăn ướt đắp lên trán nó: - Ngu quá à, nằm đó tao chữa cho. Thằng nào uýnh mày? Thằng Túm giữ bí mật, nó muốn thanh toán riêng với cu Sún nên nói láo đại: - Hổng có, tôi té? Mà chị xé cho tôi miếng vải đũng quần nhét vô lỗ mũi tôi. - Xé sao được, quần tao đang bận, nằm đó tự khắc máu cầm liền. Quả nhiên một lát sau máu hết chảy. Nó lại nghĩ đến mối thù với thằng cu Sún. Nó thầm hăm: - Mày làm chảy máu tao, tao cho đổ máu lại. Khi chị Hai nó xuống bếp, nó len lén lấy con dao nhét vô bụng. Nó chuồn ra cửa, Chị nó ngó thấy la lên: - Chạy đâu đó Túm? Thằng Túm trả lời nhưng không thèm ngó lại: - Tui đi chơi!
Nó chạy ra đầu dốc. Tới ngã ba nó gặp thằng cu Sún đang nhếch nhải khóc, chạy ra. Thấy bạn khóc, Túm quên luôn chuyện vừa rồi. Sún vừa khóc vừa nói: - Nội tao chết rồi, Túm ơi! Thằng Túm đứng khựng. Nó bỏ rơi con dao đến cạch xuống đất: - ủa, chết hồi nào? Sao chết mày? - Tao "dìa" đến nhà thấy ổng chết ngắc, hổng biết tại sao nữa. Hồi sáng tao vẫn thấy ông nằm ở ghế xích đu như mọi khi... Mắt nó nhìn xuống con dao liệng dưới đất: - Mầy... mầy... Thằng Túm thấy cơ sự như thế, liền quên luôn mối thù. Nó nhe hàm răng đen thui ra cười làm lành: - Thôi mình huề nghe mày. - Mày tính mang con dao đi đâu đó? Thằng Túm cười hì hì: - Tính lụi mày ít dao. - Chà, nói thấy ghê! Thằng Túm trở lại chuyện ông nội thằng Sún: - Mày tính sao cái xác ông nội mày? Ba mày đi làm rồi. - Tao đi kêu bà con lối xóm. Thằng Túm đứng suy nghĩ một lát: - Mày lên kêu cha thầy chùa Tám Tô coi. - ứa, phải đó, coi bộ chả rành về vụ xác chết lắm.
Khi Hai Khâu về tới nhà thì bà con lối xóm đã lo liệu gần xong việc tẩm liệm ông già anh. Tám Tô đứng chỉ huy lớp người làm như ông tướng cầm quân. Ông tự đứng ra coi sóc công việc đó một cách tận tình. Thấy thế tuy không vui, nhưng Hai Khâu chẳng biết nói sao. Anh chỉ chép miệng cám ơn chung bà con, Tám Tô biết ý chạy lại nơi anh: - Vì cháu vắng nhà nên bác phải lo liệu giùm, cháu đừng ngại cái đó, dẫu sao tía cháu và bác ngày xưa cũng có ít nhiều... bà con. Nghĩa tử là nghĩa tận mà cháu. Hai Khâu riu ríu cảm ơn. Anh cũng cố nói một câu cho đỡ tủi vong linh ông già: - Dạ, bố con cháu xin cám ơn bác mà cháu nghe đâu giữa tía cháu và bác ngày xưa có điều không hợp nhau... Lão thầy chùa Tám Tô vỗ vai Hai Khâu thân mật: - Bác biết điều đó chớ, nhưng mình già rồi hơi sức đâu nhớ hoài chuyện ngày xưa chi cho mệt. Nét mặt Tám Tô buồn buồn: - Ngày xưa, tuổi trẻ... mà thôi, nhắc lại chuyện đó làm chi. Con người mình sống ở đời này đâu có được là bao. Giầu sang phú quí hay nghèo hèn lúc chết cũng như nhau, còn lại được ngày nào trên thế gian này thì cốt sao giữ cho tâm hồn được thanh thản. - Bác hiểu anh Nghiêu không ưa gì bác, nhiều lần bác muốn làm huề, nhưng chưa kịp thì... chao ôi! Một đời người có nghĩa lý gì đâu... Hồi sáng chính tay bác vuốt mắt ảnh, bác thấy như chính một phần hồn bác chết theo. Cháu tính coi suốt mấy chục năm trời sống chung trong một xóm. Với lớp người xưa, giờ đây còn lại mình bác ở lại thế gian.
Khi lão thầy chùa Tám Tô ngưng lời, đôi mắt Hai Khâu đỏ hoe. Anh buồn bã nhìn bài vị của cha anh, ở đó có ba nén nhang tỏa khói nghi ngút. Đêm hôm đó, lão Tám Tô ở lại tụng kinh siêu thoát cho ông già Nghiêu. Tiếng tụng kinh ê a điểm tiếng chuông, tiếng mõ buồn tênh như tiếng khóc than cho kiếp người. Anh Hai Khâu và thằng cu Sún mặc đại tang quì phủ phục trước linh cửu. Anh lẩm nhẩm khấn vái: - Tía ơi! Con mong rằng tía không phiền trách con là đứa con bất hiếu không nghe lời tía. Nếu linh hồn tía thấy cảnh này thì tía sẽ hết hằn thù với Tám Tô. Cuộc đời người ta có được bao lâu đâu tía, vợ con nó bỏ chồng con đi theo trai, con cũng bỏ qua luôn thì tía cũng đừng để tâm đến chuyện ngày xưa chi nữa mà khổ linh hồn.
Bà con lối xóm mang đồ phúng điếu đến, mỗi người đều có lời chia buồn. Bà già con Lan đứng ở góc nhà luôn miệng nói "tội nghiệp", tay lần chuỗi tràng hạt lên nước nâu không biết lần thứ bao nhiêu. Bẩy Thương vừa đi vào thấy cảnh đó tức lộn tiết. Khi trở ra, anh chửi thầm: - Đ.M. sao đời này nhiều loại người đạo đức giả vậy cà? Về khuya, tiếng cầu kinh siêu thoát càng buồn. Ngoài trời nổi gió lớn, cơn gió chạy dài trong lòng hẻm sâu hun hút, làm những cây tre chuyển động cọ vào nhau kêu kèn kẹt như tiếng nghiến răng của người mơ ngủ. Con Lan đi làm về khuya. Nó bỗng rùng mình khi nghe tiếng kinh siêu thoát. Nó hỏi thầm: - Ủa! Ai chết đó? Một bóng đen từ trong hẻm đi ra, tay cầm dao sáng loé. Lan nhìn thấy và nhận ra thằng Keo. Nàng không hề sợ hãi, bình tĩnh tiến lại. Hai đứa nhìn mặt nhau không nói một câu. Lan thấy tâm hồn mình rạo rực. Nàng chờ đợi, không phải một nụ hôn cháy bỏng như ngày xưa, một mũi dao của người anh cắm ngập vào thân thể đang tàn tạ. Tay Keo run lên, nó thất vọng, không có một lời van xin, không giải thích. Tay nó từ từ xuôi xuống, thở dài: - Mai anh đi rồi? Trong ánh sáng nhá nhem của sao đêm, Keo nhìn thấy hai giọt nước mắt của người tình chảy dài trên gò má phấn son tàn phai. Keo cúi đầu đi: - Vĩnh biệt Lan! Con dao bị bỏ rơi đến cạch xuống nền đất dằn. Tiếng từng niệm của ông thầy chùa Tám Tô như đuổi theo từng bước chân Keo và đôi mắt người tình của nó cũng đang nhìn theo. Keo chẳng bao giờ nhìn lại nữa, mai nó đi rồi, đi mãi, không bao giờ còn trở lại xóm này. Đêm nào đó, Lan về, tiếng kinh siêu thoát đếm bước nàng trên thế gian. Trong tiếng tre già nghiến răng mơ ngủ và tiếng gió chép miệng thở dài.
Thầy chùa Tám Tô thỉnh xong hồi chuông chiều, lão ra đằng sau chùa. ở đó là nghĩa địa, ngôi mồ của lão Nghiêu mới đắp, đất còn tươi rói. Buổi chiều cuối năm, các gia đình có người thân chết chôn tại đây đều đến làm cỏ sạch trơn. Trời cũng sắp tối, người thăm mả về hết, nhưng những cây nhang vẫn còn cháy, những bó hoa cúc còn tươi. Lão Tám Tô đi vòng qua từng khu mồ mả, ông đọc tên từng người chết ở từng tấm bia, hầu hết là những người quen biết Tám Tô hoặc thân hoặc sơ. Lão Tám Tô bỗng nhiên thấy buồn mang mang. Lão trở lại đứng trước nấm mồ mới của lão Nghiêu, thở dài nhè nhẹ, nhớ lại ngày xưa, hồi năm chục năm về trước. Đêm động phòng hoa chúc của vợ chồng Tám Tô, Tám Tô bỗng thấy đôi mắt vợ mình dại đi khi lời ca điệu "hoài tình" của Nghiêu cất lên trong vườn bên cạnh. Tiếng ca của Nghiêu buồn rười rượi như than thở trách móc kẻ bạc tình.
Năm chục năm thấm thoắt trôi, lời ca đó thấm sâu vào tâm hồn Tám Tô, buổi chiều nay nô lại dậy lên khi thể xác Nghiêu đã nằm sâu trong lòng đất, khi tâm hồn Tám Tô tưởng chừng như không còn vương vấn chuyện đời. Đang suy nghĩ miên man, bỗng nhiên Tám Tô nghe tiếng động. Lão quay lại. Thằng cu Sún hiện ra, mặt mũi nó bẩn tèm lem. Tám Tô cất tiếng hỏi: - Ra đây chi đó cháu? Thằng cu Sún nhìn nấm mồ ông nội. Nó giơ cái máy quẹt ra: - Cháu tính ra bươi đất chôn cái máy quẹt này xuống mồ nội cháu kẻo ổng không có gì mồi lửa hút thuốc rê. Lão Tám Tô xoa đầu nó: hồi tẩm liệm cháu không đưa để bỏ vô hòm luôn? - Tại cháu mới kiếm thấy. Bữa hổm nội cháu đưa máy quẹt cho cháu để đi xin xăng, cháu làm mất. Hôm nay biết con Bích ăn cắp, cháu uýnh nó đòi lại đó. Tám Tô cười dễ dãi: - Thôi cháu đưa đây, để mỗi đêm ông dùng thắp nhang cắm mộ nội cháu. - Nội cháu còn hút thuốc rê Gò Vấp nữa đó. - Được, ông sẽ cho nội cháu hút. Lúc đó trời xụp tối. Tám Tô dắt thằng cu Sún trở về chùa. Lão nhìn ra chân trời thấy vì sao hôm mọc đơn độc. Lão thở dài, lão thấy mình cô đơn. Tám Tô có cảm tưởng lão là người độc nhất còn ở lại thế gian. Buồn bã và già cỗi như ngôi sao hôm kia. Rồi đây kẻ nào sẽ vuốt mắt mình khi nằm xuống?
Gia Định 1965 .
|
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Mon Oct 28, 2019 12:34 pm | |
| . Bọ rầy tháng năm - Ngô Nguyên Dũng
Cơn giông bất ngờ nổi lên bắt ông phải tìm chỗ trú mưa dưới tàn cây rậm. Thoáng chốc, mây đen đùn kín khung trời tháng mười. Ánh ngày tắt ngúm. Khắp nơi chỉ nghe tiếng mưa rì rào. Đệm theo một thứ thanh âm khác. Khẽ. Rất khẽ. Nghe như tiếng gọi. Một giọng trẻ con ngại ngùng gọi. Ông ơi, tới đây! Ông quay nhìn dáo dác. Lại đây, ông! Nhanh lên! Sau một thoáng lưỡng lự, ông bước lại chỗ phát ra tiếng gọi và bắt gặp một cậu bé đang đứng đấy. Một mình. Cậu khoác trên người chiếc áo mưa có mũ che màu vàng loé. Mưa gió thế này mà bé con làm gì đứng đó? Con tìm bọ rầy tháng năm. Bọ rầy tháng năm? Vào tháng mười? Dạ, con tìm được cả bầy. Đâu vậy? Đằng kia kìa, xung quanh nấm mộ con. Ông tới đấy. Thật vậy. Chỗ đó, thấy có vô số bọ rầy tháng năm ẩn náu trong cỏ. Lúc ông giơ tay toan bắt một con, cả bầy túa bay tứ tán. Nhịp cánh đập nhấp nháy như những đốm ma trơi trong bóng nhá nhem. Dưng không cả không gian sáng loé. Một lằn sét xé trời thành nhiều mảnh. Một tiếng sấm kinh thiên đánh trúng ngay thân cây, chỗ ông đứng mới nãy, và lưu lại một thương tích còn bốc khói. Toàn thân ông run rẩy. Sau khi hoàn hồn, ông ngoảnh nhìn quanh quất. Không thấy cậu bé đâu nữa. Ông xem lại. Trên tấm bia đá của nấm mộ con thấy ghi tên và di ảnh một cậu bé. Sinh năm 2011. Mất năm 2016. Vào một ngày tháng năm.
"Kết quả thử máu tốt đối với tuổi của ông", người bác sĩ nhìn ông, nhoẻn cười khích lệ. "Ông nên, vì lý do sức khoẻ, hoạt động nhiều hơn nữa. Đi bơi mỗi tuần ít nhất một lần và tản bộ. Và uống nước, uống, uống, cả những lúc ông không thấy khát." Kể từ đó chiều nào ông cũng đi dạo. Gần như mỗi ngày. Cả những hôm thời tiết xấu. Đôi khi có vợ ông theo cùng. Thường thì ông đi một mình, lưng đeo ba-lô, quà tặng của vợ ông nhân dịp sinh nhật thứ năm mươi lăm. "Chiếc ba-lô chứa đầy những ước mơ của đời anh", vợ ông đã ghi như vậy trong tấm thiệp con, kèm theo bốn tấm bưu ảnh chụp cảnh bốn mùa. Lễ hội hoa anh đào đón xuân Nhật bản. Đồng hoa oải hương mùa hè miền nam Pháp. Rừng phong mùa thu Québec. Luồng bắc quang trên vòm trời mùa đông bắc Âu. Ông xúc động. Toàn là những mục tiêu du lịch mà ông hằng mơ tưởng thời thanh xuân và thường xuyên kể cho vợ nghe trong những năm đầu tiên của đời sống lứa đôi. Rồi bất chợt ông không còn mơ tưởng tới chúng nữa, mặc dù ông chưa hề thực hiện bất kỳ ước nguyện nào. Ông không biết phải làm gì với chiếc ba-lô, và cất nó trong kho chứa vật dụng cũ. Cho tới mới đây. Ông đánh thức chiếc ba-lô từ giấc ngủ sâu và giải thoát nó khỏi cõi tối tăm lạnh nhạt của ông. Chiếc ba-lô bằng da nâu, một bên có túi lưới cho chai đựng nước với hai quai vai chắc chắn và điều chỉnh được.
*
Chỗ ông trọ nằm cạnh nghĩa trang một góc phố, nơi nhiều thân cổ thụ và những người quá vãng chia nhau an nghỉ. Một nơi chốn đi dạo lý tưởng. Những thứ mà ông đem theo trong những lần đi dạo đầu tiên là một bình thuỷ trà, một miếng bánh ngọt, một quyển sổ con ghi số điện thoại và một máy điện thoại bỏ túi. Những lúc ngồi nghỉ chân cạnh bồn nước phun, thấy có nhiều chim sẻ, ông quyết định lần sau sẽ đem theo thức ăn cho chúng. Một ổ bánh mì con. Vài chiếc bánh bích qui. Hay một mớ ngũ cốc. Và thêm vài thứ khác cho chính ông. Một quyển sách. Một cây viết lông. Và một quyển tập để ông ghi chép những ý nghĩ. "Ông viết cái gì đó ông?" Ông nghe một giọng trẻ con cất lên và quay qua. Một cậu con trai. 'Cậu bé ngồi bên cạnh mình từ lúc nào vậy kìa?', ông thắc mắc. "Chào cậu nhỏ", ông mỉm cười. "Vẩn vơ vậy thôi. Chẳng có gì lạ." "Ông là văn sĩ à?" "Không đâu. Chỉ là những ghi chú vu vơ. Còn cậu, cậu làm gì ở đây?" "Con đi thăm bà. Bà nằm đằng kia kìa", cậu bé trỏ tay chỉ một nấm mộ nằm quanh quất. "Con thấy ông vài lần trong này rồi", cậu thêm vào. "Còn ông mới gặp con lần đầu." "Con thấy ông, nhưng ông không thấy con", cậu bé mỉm cười. "Đúng ra, không phải lúc nào cũng vậy. Con thấy mến ông." "Vậy à?", ông ngạc nhiên. "Ông có vẻ dễ mến, vì ông thường rải mồi cho chim ăn." "Lúc nào con cũng đi thăm bà một mình sao?" "Dạ." "Lần nào cũng vào giờ giấc này?" "Dạ." "Chẳng hiểu tại sao, mãi hôm nay ông mới thấy con?" "Trong lần tới, ông có thể tiết lộ cho con biết ông đã viết những gì trong quyển sổ này được không?", cậu bé hỏi ngược. Hai mắt cậu mở to. Tia mắt đầy mong đợi. Cậu bắt ông bối rối. "Bây giờ con phải đi đây", cậu quả quyết. "Ông nhắm mắt lại đi và đếm tới mười như thể đang chơi trốn tìm vậy đó."
Khi ông mở mắt, cậu nhỏ không còn ở đó nữa. Ông nhìn quanh. Chỉ thấy dăm ba người dạo bộ và khách viếng nghĩa trang. Không một lời chuyện vãn. Bồn nước phun róc rách không mỏi. Bầy chim tản mác đâu mất. Luồng nắng chiều muộn xuyên qua tán lá và vẽ những đốm rực rỡ lên mặt đất phủ bóng mát. Dường như chúng run rẩy. Mọi thứ quanh ông chừng như lãnh đạm. Cảnh vật trông như giả, một chốn yên nghỉ được con người tạo dựng với những khiếm khuyết. Như một cảnh giới đầy phi lý. Như một đời sống với những ước vọng bất thành. Ông không dám chắc và tự hỏi, không chừng lần gặp gỡ cậu bé mới nãy chỉ là một giấc chiêm bao. Và nơi đây? Thời gian? Cuộc sống ông? Và toàn thế giới?
*
Trên đường về nhà, ông thấy một người đàn bà đang nhổ cỏ dại quanh một nấm mộ. "Chào bà. Xin lỗi, bà có thấy cậu bé nào vừa đi ngang đây không?" Bà đứng lên. "Không. Từ nãy tới giờ tôi mải chú tâm làm việc." Ông ngỏ lời cám ơn và bỏ đi. "Ông ơi … khoan đã … ông chờ chút!", người đàn bà ngập ngừng gọi. Ông quay nhìn rồi tiến lại cạnh người đàn bà. "Có phải ông nói vừa gặp một cậu bé?" "Phải." "Mặt mũi cậu nhỏ trông ra sao?" "Cậu bé … ốm và xanh. Cậu có đầu tóc vàng óng và hai mắt màu ve chai", ông nhớ lại, "trông rất dễ thương." "Cậu mặc quần áo như thế nào?" "Tôi cũng không nhớ nữa. Cậu nhỏ có mặt đó và trò chuyện với tôi giây lát", ông tìm cách ráp lại bức ảnh từ những mảnh vụn trí nhớ. "À này, cậu cho biết, cậu tới đây để thăm bà. Lần nào cũng đi một mình." "Nó đấy, đứa con trai út của tôi", người đàn bà khẽ nói và cúi đầu vài giây. Rồi bà ngẩng mặt, trĩu buồn nhìn ông.
"Nó chỉ mới năm tuổi và qua đời cách đây mới ba năm. Nó nằm đây, bên cạnh bà. Nó là một đứa trẻ rất đáng yêu. Nó có cảm tình mật thiết với tất cả muông thú, đặc biệt yêu thích loài bọ rầy tháng năm. Chôn cất nó xong, bất ngờ tôi tìm thấy có rất nhiều bọ rầy tháng năm bên cạnh nấm mộ. Bất kể mùa màng. Khó tưởng tượng được. Đúng là chuyện không thể tưởng tượng nổi."
(10.2019) * Phóng dịch từ nguyên bản Đức ngữ "Die Maikäfer", cùng tác giả.
| |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Mon Nov 04, 2019 12:11 am | |
| .
Người Chạy Xe Ôm Bến Ninh Kiều - Nguyễn Vĩnh Long
Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau bữa ăn trễ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa tôi mới có hẹn với bà xã và mấy đứa cháu ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm. Bà xã thì trưa nay đã theo mấy đứa cháu gái đi “làm đẹp”: làm tóc gội đầu, móng tay và cả massage. Nghe nói những loại dịch vụ này gần đây rất phổ biến và giá cả rất “mềm”, các bà tha hồ mà chăm sóc mặt mày, tóc da.
Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh quanh sông và có cả chương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước. Bến nước Ninh Kiều còn có một đội ngũ đò máy cho khách du lịch thăm viếng chợ nổi Cái Răng, những khu sinh thái nhà vườn và các cù lao, cồn vùng lân cận… Trong tiếng động của nhịp sống chung quanh tôi thấy thật gần gũi, quen thuộc nhưng cũng có chút gì đó ngập ngừng, bỡ ngỡ. Trên đường ồn ào xe máy, dưới sông rộn ràng ghe đò tạo khu công viên bến Ninh Kiều mang hình ảnh đặc trưng của một thành phố đô thị miền Tây. Loáng thoáng đã gần bốn mươi năm, tôi trở lại nơi này. Trưa ngày mùng bốn Tết năm 1978 là lần đầu tiên tôi ghé Tây đô. Mùi hương khói tỏa, màu vàng của những chậu cúc và mai vàng vẫn còn cùng khắp những con đường. Bến đò Ninh Kiều thưa thớt, trống vắng vào mấy ngày mùng. Không khí Tết tuy trầm mặc nhưng vẫn phảng phất đâu đó cuộc sống đời thường đang trỗi dậy chung quanh. Tìm đến bến đò đi về thị xã Vị Thanh, mà tôi chưa hề biết. Địa chỉ đến của tôi chỉ là một lời dặn dò. Đúng hơn là một lời hứa tưởng chừng như vu vơ, vậy mà tôi vẫn giữ. “Làm sao để gặp lại Nguyệt?”. “Anh cứ đến bến đò Vị Thanh, Chương Thiện hỏi bất cứ ai: nhà của cô N.H. Nguyệt. Là sẽ gặp lại em thôi”. “Anh hứa sẽ đến!”. Chỉ có vậy, vỏn vẹn có vậy cho chuyến đi năm đó của tôi. Người con gái có đôi mắt to tròn biết nói, tên N.H. Nguyệt, tôi làm quen trên chuyến xe qua phà Mỹ Thuận. Rồi vài năm sau mới chợt nhớ và tôi đã trên chuyến đò vượt “Mười Bốn Ngàn” kinh xáng Xà-No để tới. Một đời người có bao nuối tiếc, để một lần tôi đánh vỡ chiếc bình thủy tinh thời gian không hàn gắn lại được. Để rồi đêm nằm quạnh quẽ trong nhà nghỉ bên dòng kinh xáng, tôi cuộn tròn lòng mình sâu thẵm trong đáy mắt ai một lần gặp mặt. Căn nhà có tên người con gái tôi quen đã trở thành cửa hàng thương nghiệp. Người chung quanh cho biết cả gia đình của N.H. Nguyệt đã ra đi hơn nửa năm qua. Gió đêm thổi từ dòng kinh xáng thì thầm lời cảm ơn em, cám ơn đầm sen hồ thủy tạ nằm giữa thị xã Vị Thanh cho tôi một đời thương tưởng không nguôi.
“Ông anh đi xe ôm hông?… Tui lấy giá thiệt hữu nghị…” Tiếng mời hỏi quanh đây, kéo tôi trở về thực tại. Tôi quay lại, người đàn ông khắc khổ đội chiếc nón vải, cười nhe cả hàng răng cái mất cái còn. Tôi chưa kịp lắc đầu từ chối, người đàn ông nói vội: “Cả ngày ế ẩm… ông anh đi một cuốc giúp tui nghen”. Thật là khó đoán tuổi của người chạy xe ôm. Không trẻ hơn và cũng không quá già hơn tuổi tôi, dù trên khuôn mặt anh in hằn nhiều vết nắng gió bụi đường. Mấy món đồ lưu niệm để chập tối hoặc mai mua cũng còn kịp. Nhưng nhớ lời “căn dặn” nhiều lần của bà xã, “đi đâu phải bằng taxi, nhất định không được đi xe ôm. Rất nguy hiểm”. Nếu biết tôi liều mạng, không “nghe lời” chắc chắn là bà ấy sẽ giam lỏng tôi suốt chuyến đi còn lại. Nhìn ánh mắt, khuôn mặt người đàn ông chạy xe ôm, lòng tôi lại thương cảm. Thôi đành dối vợ lần này, nhưng bây giờ thì tôi chưa biết phải đi đâu? Tôi ngập ngừng, nói thật: “Muốn đi giúp anh… Nhưng thiệt tình tui hổng biết đi đâu?” “À… nhìn là biết ông anh là khách du lịch. Để tui chở ông anh đi vòng quanh Cần Thơ cho biết. Tui lấy rẻ 110 thôi”. Mắc hay rẻ tôi nào biết, chỉ gật đầu cười. Thoáng ánh vui mừng trong mắt, anh đưa tôi chiếc mũ bảo hiểm. Cũng như anh, chiếc xe không mới cũng không cũ. Người và xe cứ như hai đôi bạn dạn dày mưa nắng của thời gian. “Tui chở ông anh đi đại lộ Hòa Bình, qua tòa nhà ủy ban nhân dân tỉnh, công viên Lưu Hữu Phước. Lòng vòng đường Lý Tự Trọng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Đình Chiểu… rồi mình qua khu dân cư Hưng Phú, nam đô thị mới của thành phố Cần Thơ… cho biết”. “Dạ… Anh cứ chạy tới chỗ nào đẹp, nổi tiếng của Cần Thơ là được… Anh chạy xe ôm lâu chưa dzậy? Vợ con, gia đình anh ở đâu?”. Tôi bắt chuyện, khi chiếc xe ôm rời khỏi bến Ninh Kiều. “Chạy xe ôm cũng tầm 10 năm rồi ông anh. Nhà cửa tui ở bên kia Xóm Chài. Hai vợ chồng tui có ba đứa, hai gái một trai. Tụi nó lớn hết rồi…” Rồi anh chuyển qua giới thiệu cảnh quang hai bên đường. Thành phố Cần Thơ như khoắc lên người chiếc áo mới, vừa lộng lẫy lại vừa vừa lem nhem đến lạ lùng. Những con đường chen chúc con người, xe cộ ngột ngạt mà hầu hết là thế hệ trẻ, dưới tuổi bốn mươi. Chạy lòng vòng một lúc, khi qua khỏi công viên Lưu Hữu Phước, hướng về ty bưu điện thì trời đang nắng bỗng lất phất mưa. Anh hỏi tôi có cần áo mưa không, sẽ dừng lại. Tôi nói không cần, nhưng cảm thấy chừng như anh run nhè nhẹ và sôi bụng. Anh đang đói hoặc ăn quá ít bữa trưa? Nói anh ghé vào quán ăn nào đó dọc đường, tôi làm như mình cũng đói và tìm chút gì lót dạ. Anh liền cho xe vào con đường nhỏ (hình như là Ngô Văn Sở) có nhiều hàng quán dọc bên đường. Tôi mời anh vào ăn chung cho vui, có bạn.
Một dĩa cơm thịt nướng bì trứng và chén canh cải ngọt cho anh, tô bún nước lèo cho tôi. Lúc này thì không còn e ngại nữa, anh ăn thật ngon lành. Tôi nhìn anh rõ hơn, ốm cao và ngoài hàm răng chiếc còn chiếc mất, khuôn mặt anh rắn rỏi đường nét. Tóc nhiều cứng dợn cao, đôi mắt sâu dù có mờ sương gió vẫn còn đó nét sáng rạng chập chùng. Tôi nghĩ, lúc còn trẻ chắc chắn anh rất sáng sủa, đẹp trai. “Rồi vợ con anh làm gì? Mấy cháu có gia đình con cái gì chưa anh?” “Vợ tui trước làm phụ nấu cho nhà hàng, lương cũng khá lắm. Có lần qua phà vấp té, bể xương hông chậu, nay bả đi đướng khó khăn nên nghỉ làm”! Bên ngoài trời đổ cơn mưa lớn… Anh xuất thân con nhà nghèo ở Xóm Chài, năm lớp 10 phải nghỉ học đi làm phụ giúp gia đình. Gặp chị, vừa đẹp vừa là con gái nhà buôn bán khá giả ở Phụng Hiệp. Hai người yêu nhau thắm thiết. Ba má chị ngăn cấm vì thấy anh nghèo, không tương lai. Nhưng chị quyết tâm một lòng yêu thương anh, về làm dâu Xóm Chài mặc cho gia đình quay lưng từ bỏ… Giọng anh kể ngập ngừng, khó nhọc. “Tui làm mọi nghề, đụng đâu làm đó. Đến nay vẫn chưa lo cho bả được một lần ăn ngon mặc đẹp. Nói thiệt với ông anh, nhiều khi tui hổng dám về nhà nhìn mặt vợ con”. Tôi thấy đôi mắt anh đượm buồn, sũng nước. Ly trà đá trong tay anh cũng run nhẹ. “Thấy tui làm quần quật, bả đòi đi làm nhưng cả nhà đều cản. Sợ có chuyện lần nữa, tiền đâu lo thuốc thang… Tháng trước bả nhận đan giỏ bện lục-bình tại nhà. Hổng bao nhiêu tiền nhưng cũng đở tù túng tay chân…”, mắt anh Nhân (tên anh) dù buồn nhưng tràn ngập yêu thương mỗi lần nhắc đến vợ. Không hiểu sao, tôi muốn được nắm tay và ôm anh với lòng ngưỡng mộ. Có lẽ đã lâu lắm rồi tôi mới nhìn thấy được ánh mắt, được tấm chân tình của tình yêu. Tình yêu thật đẹp và quý giá có thật, đang hiệu hữu trước mặt tôi, của người chạy xe ôm ở bến Ninh Kiều. “Thằng con trai lớn làm thợ hồ chánh công trường, lương hướng rất khá. Mấy năm trước bị đá đè, gãy một chân mặt. May mà người ta thương, vẫn còn cho nó làm bảo vệ. Lương ít ỏi nhưng vẫn hơn thất nghiệp nằm nhà”. Sợ anh chạnh lòng nhiều hơn, tôi hỏi lãng sang chuyện khác: “mỗi ngày chạy xe ôm anh kiếm được bao nhiêu?”. “Thời taxi đầy đường, trừ xăng dầu tiền bến kiếm được sáu, bảy chục là mừng. Nhằm bữa ế ẩm, chạy xe không còn lỗ cả tiền xăng…”, anh cho biết. Lúc trước anh còn ráng chạy thêm ban đêm, nhưng mấy tháng trở lại đây hổng dám nữa vì nạn cướp bóc hoành hành. Nhiều bạn chạy xe ôm ban đêm, mất tiền mất xe và đôi khi mất cả luôn mạng. Rồi anh tâm sự tiếp về hoàn cảnh gia đình mình: “Đứa con gái kế làm công nhân ở Bình Dương, đủ ăn đủ mặc. Lâu lâu cũng gửi dzề vợ chồng tụi chút đỉnh. Còn con út tui thì lấy chồng xa… Được cái, mấy đứa nó thương vợ chồng tui lắm…”
Bên ngoài trời cũng bớt mưa, tôi hỏi anh thức ăn ở đây có ngon không? Anh cười, “cơm chỗ này là nhứt rồi”! Tôi gọi thêm 3 phần cơm để anh mang về. Anh ngại ngùng từ chối, rồi cũng nhận với lời lúng túng cám ơn. “Chắc ông anh là Việt kiều phải hông?” “Hông… tui là dân buôn bán trà ở Đà Lạt”, tôi đành phải nói dối anh cho qua chuyện. Điện thoại di động của tôi rung liên hồi trong túi. Chắc bà xã đang gọi, gần năm giờ rồi. Tôi nói anh Nhân chở tôi trở lại bến Ninh Kiều. Trên đường về anh trầm ngâm và ít nói hơn. Sau cơn mưa không khí những đường phố Cần Thơ trở nên dễ chịu và thơm mùi đất mới. Có lẽ cũng như tôi, anh đang cố sắp xếp lại câu chuyện anh và tôi gặp gỡ, để về kể lại cho vợ con nghe. Rồi chừng như tôi cũng ngồi im lặng phía sau không biết nói gì thêm. Chiếc xe ôm chạy rong ruổi trên những mặt đường, còn tôi và anh đang bên nhau chạy mênh mông trên những mặt đời nghiệt ngã. Tôi nhắc anh để tôi xuống hơi xa khách sạn, phòng khi bà xã bất ngờ bắt gặp. “Ông anh cho bao nhiêu cũng được… Hổng cần trả cũng hổng sao…”, anh nói lí nhí khi tôi đưa lại chiếc mũ bảo hiểm. Tôi nhìn anh cười nhẹ, rồi móc túi quần gom hết món tiền bà xã đưa tôi dằn túi nhét trọn vào tay anh, “Anh Nhân nhớ lấy tiền mua cho chị nhà vài bộ đồ mới cho đẹp nghen”! Anh nhìn tôi ngẩn người. Không để anh khó xữ, tôi định quay đi, thì nghe anh nói nhanh: “Dạ, cảm ơn ông anh thiệt nhiều. Nhưng chắc hổng dám lấy tiền mua quần áo đẹp cho bả được đâu..!”. Giọng anh nghèn nghẹn, xót xa: “Đứa con gái út, tui nói nó lấy chồng xa… Thiệt ra nó đi lấy chồng Đài Loan, rồi chết vì tai nạn giao thông bên đó. Vợ chồng tui phải chắt mót dành dụm, để trả nợ số tiền mang hài cốt nó về nhà mấy tháng trước…” Tôi khựng người, chợt nghe trái tim mình như đang bị ai bóp nghẹn. Không dám quay lại nhìn anh, tôi cố bước chân đi thẳng và thấy lòa nhòa công viên màu nắng tắt. Số phận đời người sao cứ như cơn gió thoảng vô tình…
Rồi anh sẽ qua chiếc phà về bên kia Xóm Chài, với cuộc đời mỏi mòn còn lại. Rồi tôi sẽ trở về bên kia xứ lạ, một đời đầy vơi kiếp sống tha hương. Anh có thể quên tôi, một người khách trên chuyến xe ôm giữa muôn vàn dòng người tất bật. Nhưng chắc chắn tôi sẽ không thể quên anh, chuyến xe chở cả một trái tim sâu thẳm, một cuộc đời có thật của người đàn ông chạy xe ôm ở bến Ninh Kiều. Buổi chiều như một nốt nhạc trầm buồn, chảy vàng vọt trên dòng sông quê hương tôi muôn thuở…
Durham, North Carolina Nguyễn Vĩnh Long . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Sat Nov 09, 2019 9:23 pm | |
| .
Đời Như Ý - Nguyễn Ngọc Tư
1. Không giống như người ta, hễ thích cải lương thì đặt tên con là Ngọc Huyền, Lệ Thủy, mê phim Việt Nam thì đặt tên Diễm Hương, Việt Trinh, chú Đời đặt tên cho hai đứa con gái mình là con Như, con Ý. Ai cũng hỏi, “Làm gì có chuyện đời như ý?”. Chú Đời cười, hàng ria mép xoăn tít xồm xoàm quớt lên, tự hào, sao mà không?
Nhìn vẻ mặt này không ai nghĩ chú mù, thấy sao mà tự tin, thanh thản quá chừng. Không ai biết chú khổ còn hơn… cô Lựu. Chú Đời dẫn cả nhà rời Chợ Cũ, Cầu Nhum lang thang lúc con Ý mới bồng nách. Gồng gánh như một gánh hát, chú ca cải lương, bán vé số kiến thiết. Vợ chú nửa điên nửa tỉnh, không biết có phải vui trong bụng lắm không mà suốt ngày cười ngẩn ngơ. Hai đứa con gái đứa mười, đứa tám tuổi phụ cha đem vé số tới mời từng sạp chợ. Đứa nào mặt mày cũng xấu xí, lem luốc, đen đúa, nên nghe cha tụi nó kêu con Như con Ý ai cũng cười. Một ngày của gia đình chú Đời bắt đầu từ sáng sớm, chú buộc vô mình sợi dây điện nối giữa cây đờn với cái loa con Như đang cầm, nó ghịt dây thì chú bước tới, chùng dây thì đứng lại. Con Ý nhỏ con chạy lăng xăng đằng trước, đứng coi búp bê người ta chưng tủ kiếng. Vợ chú vừa đi vừa ca hát đằng sau, nhặt hoa phượng để lên đầu. Cũng giống như những người hát rong khác, nhà chú có cả thảy bốn người nhưng trên con đường tấp nập, trông họ nhỏ nhoi, cô độc làm sao.
Ở thành phố này có chừng đến ba bốn người hát rong, họ dìu dắt từng đôi, ở tận đằng xa, người ta nghe tiếng ca là biết gánh của ai rồi. Có đôi vợ chồng già ca mùi như Thanh Sang, Thanh Nga; có một đôi trẻ hơn, ông chồng đưa hơi như Trọng Hữu. Chú Đời ca dở, giọng hơi giòn, chói, thuộc lòng chỉ mấy bài “Chiếc áo người vợ hiền”, “Con gái của mẹ”… nghe mắc chán. Nhưng chú đi đằng đầu phố, gió đàn lại cuối phố nghe tiếng được tiếng mất nhưng người ta biết ông “Đời Như Ý” sắp đi qua. Cái miệng của ông này sao mà lanh dữ vậy, luôn miệng gọi Ý con, con đừng có đi xa, con Như đi chậm một chút, ba theo muốn đứt hơi rồi, coi má con đâu. Mình ơi, mình à, mình lại gần tui nè. Rồi oang oang bảo vé độc đắc chiều nay nằm ngay đây, ngay trân chỗ này nè. Có hai ngàn một vé, ăn gói xôi chưa kịp mắc răng đã hết, mua giúp tờ vé số đặng giúp tui xóa đói giảm nghèo. Mua đi, để tui đi xin bà con cũng mắc… cho hà. Mấy ông chạy xe ôm nói chú rao làm sao mà láu cá quá, không biết mù thiệt hay mù giả mà sao cái miệng leo lẻo vậy. Chú gỡ mắt kiếng đen ra, cười với đôi mắt lạnh lẽo, sâu hút, “Mấy anh nghĩ vậy riết quen, em đui tối thiệt thòi, rên rỉ, than vãn cũng đâu hết thảm. Mà, em đang sung sướng quá chừng đây, kể lể nỗi gì”. Theo chú nói thì chú sung sướng thật. Vợ chú đẹp, vui vẻ (vì cười hoài), có đi nhậu vợ chú cũng không chù ụ như vợ người ta. Không ngã lòng trước sự hào nhoáng xa hoa, chồng người ta sao mà đẹp trai, sao mà giàu hơn chồng mình. Chỉ cần mỗi bữa sáng, chú mua cho vợ hai ngàn đồng cà phê sữa là vợ mừng rưng rưng nước mắt. Chú sung sướng vì còn có hai chị em con Như con Ý, nhỏ xíu mà giỏi, dễ dạy, đẹp đẽ. Nghĩ vậy nên chú Đời phải vui, vui vì vừa lòng với những gì mình đang có.
Những trưa nắng gia đình chú tạt vào hiên chợ Bách Hóa, nghỉ chân. Con Như lãnh tiền, chạy đi mua cơm về ăn. Họ ngồi giữa ngọn gió mát lồng lộng. Chú Đời lúc nào cũng ngồi ăn chậm rãi, nghe ngóng chung quanh như canh chừng, như bảo vệ bữa ăn thiêng liêng của nhà mình. Chú nghe tiếng đũa khua tinh tang, cuống quít lên miệng chén là biết đứa nào đói đứa nào không. Rồi cằn nhằn vợ, “Mình ăn chậm thôi, nghẹn bây giờ,đó, nghe ặc ặc rồi đó. Con Như lấy nước mà uống. Coi gỡ xương cho em Ý với, con”. Bữa nào ăn cơm xong, chú cũng ngồi chải đầu cho ba mẹ con họ, ai đi ngang khen chơi, cha, bữa nay hai đứa nhỏ đẹp gái dữ, chú sướng quá cười hích hác. “Nó giống mẹ. Giống vợ em mới đẹp, giống em xấu hì. Mà, ngộ quá, con của mình, xấu mấy cũng thấy đẹp thấy thương”.
2. Quẩn quanh mấy chợ, mấy khu phố quen hoài bán không chạy như trước, chú Đời phải ráng đi tới tối mịt mới về. Giọng chú ngày càng khàn, nghe khen khét như nồi cơm quá lửa. Đi qua mấy quán nhậu, có người kêu vô, đưa ly rượu, chú trịnh trọng nâng ngang mày đa tạ, chỉ hít tới hít lui khen “Rượu ngon. Mùi đã thiệt” nhưng không uống, chú bảo lúc này giọng dở quá, hình như nghe không khỏe trong mình. Nên có lúc giọng ca của chú lật bật như hai hàm răng đánh vào nhau, chú biểu con Như đi mua Anagin về cho chú uống. Mấy cô tiểu thương trong chợ cằn nhằn, thằng cha mầy lúc này ca gì như là sốt rét, “Chiếc áo người vợ hiền” hay vậy mà ca lụm cụm như “chiếc áo bà già”. Một bữa đi ngang qua trạm y tế phường, con Như dụ, nó nói trong trạm có khám bệnh miễn phí, nên nó dẫn chú vào. Lát sau, lúc từ phòng siêu âm bước ra, chú Đời giận quá, mặt xanh, tay chân run rẩy, “Ba đã nói có bịnh hoạn gì, làm tốn hết mười lăm ngàn đồng bạc”.
Chú Đời mau giận mà cũng mau quên. Bữa sau chú còn sắm đồ cho hai chị em con Như. Diện quần áo mới, tắm rửa kỳ cọ sạch sẽ, ai cũng bật ngửa, “vậy ra ông này mù mà tinh, ổng đâu có xạo, mấy đứa cũng ngộ gái quá chớ”. Dì Liễu cũng khen. Dì Liễu bán xoong chảo ở trong chợ Bách Hóa, không có con nên thích con nít, hay rờ rờ đầu chị em Như, Ý, nói với mấy bà bạn, “tui khoái chị em con nhỏ này, nghèo vậy mà đàng hoàng, không đá cá lăn dưa”. Con Như nghe thích lắm, về nói với ba, chú Đời hỏi, dì Liễu thích con hay thích con Ý. Như bảo thích bằng chang nhau. Cho con cục kẹo thì cũng cho con Ý một cục. Chú Đời thở dài, “Ba già rồi, hát ca hết ra hơi rồi, chắc là nuôi mấy má con con không nổi, hay là ba cho bả một đứa, nghen”. Dì Liễu tính đâu chú nói chơi, con người quý con như mạng mình, nói cho là cho sao. Ai dè chú làm thiệt. Dì Liễu mừng lắm, những bữa chợ vắng có một đứa hủ hỉ, trông đồ cho mình ngủ cũng vui. Dì chọn con Ý vì khuôn mặt nó đẹp, sáng sủa chứ không buồn bã như con Như. Dì còn đi coi thầy, chọn ngày tốt để rước con Ý về. Hôm con Ý về với dì Liễu là rằm tháng Hai, chú Đời biểu con Ý mặc đồ mới, kéo nó ngồi vô lòng mình, chú chải tóc cho nó, chú chải lâu vì nó cứ tức tưởi liên hồi. Chú hỏi bữa nay con mặc áo màu gì, nó bảo màu xanh. Chú dặn lòng, mình sẽ nhớ hoài, lúc xa chú, con Ý mặc đồ xanh, mặc dù chú không biết màu xanh ra sao. Chú kêu vợ lại, biểu, “Mình hôn nó một cái đi, mai mốt nó không ở với nhà mình nữa. Mình đẻ ra nó mà tui không nuôi, mình đừng có giận”. Vợ chú đâu có giận. Chỉ có con Như giận, nó nức nở, “con thương con Ý nhất nhà mà, ba”. Chú không thương à? Thương, nhưng chú chắc dạ lắm, bước đi là đi một nước. Vợ chú rên ti tỉ, ngoái lại nhìn phía chợ hoài. Con Như vẫn khóc. Chú hỏi nó, “Con Ý có nhìn theo không, con”. “Có, ba à, tội nghiệp nó quá”. Dường như con đường có nhiều ổ gà sao nghe chông chênh quá. Chú Đời cắn môi bước tới. Nhưng đến chạng vạng, lúc quay về nhà trọ đã thấy con Ý ngồi lù ở cửa. Từ đó không cách gì bứt nó ra được. Chú năn nỉ nó quay lại với dì Liễu, nó không nghe. Chú lấy gậy đánh, nó cắn răng chịu. Chú đưa vợ với con Như trốn khỏi thị xã nó cũng biết cách lần theo. Bảy tuổi, con Ý cũng đã bảy năm lưu lạc giang hồ chớ giỡn. Cuối cùng, một đêm, chú bắt nó ngồi trước mặt mình, ôm lấy đôi vai xương xẩu của nó, chú nói cho con Ý nghe một câu chuyện đau lòng, chú nói nó không phải là con ruột của chú, chú lượm nó ở ngoài đống rác bệnh viện. Chú nuôi nó tới chừng này là để kiếm người bán lại. Dì Liễu cũng trả cho chú hai triệu chớ đâu có ít. Con Ý nhìn tệp tiền chú rút ra từ túi áo, mặt nó lạnh băng. Sáng sau, chú Đời đưa con Ý trở lại với dì Liễu. Lúc quay đi chú hỏi con Như, “Nó có nhìn theo không, con”. Con Như nói không. Chú ừ, nấc khan một tiếng rồi cất tiếng ca, “Nuôi con khôn lớn không mong gì con nuôi lại mẹ…”, sao mà nghe nghẹn ngào như đang khóc.
Con Như sợ rồi sẽ tới phiên mình. Nó cuống quýt sống, cuống quýt yêu thương chú Đời. Nó ăn ít, lấy đồ cũ ra mặc như thể chứng minh rằng nuôi nó cũng không tốn kém gì mấy. Chú Đời hiểu lòng nó, hay hôn lên mái đầu khét nắng của nó, lặng lẽ thở dài. Lấy số tiền dì Liễu cho, chú Đời đưa vợ vào bệnh viện. Bác sĩ nói vợ chú bệnh đã quá lâu, không có hy vọng chữa lành, nhưng cứ ở lại điều trị một thời gian xem sao. Chú Đời ôm vợ vào lòng, ngồi ngay chỗ băng đá đằng trước, chú nắn đôi tay, rờ rẫm mãi lên mặt vợ, biểu: “Mình ở đây nghen, ráng mau hết bệnh về nấu cơm cho tôi ăn, nói chuyện với tôi chơi. Hồi cưới mình tới giờ, chưa khi nào mình nói câu nào tử tế với tôi, tôi cũng buồn lắm”. Vợ chú cười.
3. Cả gia đình lang thang đó giờ chỉ còn hai người. Đêm khuya trở giấc, chú Đời kéo mền đắp cho con Như, vô tình đôi tay chú quệt trúng hai hàng nước mắt. Chú biết nó thức, chú hỏi “Sao vậy, con đau bụng hả?”. Nó tức tưởi, “Bây giờ chỉ còn có mình con, ba đừng bắt con đi đâu hết, để con dẫn đường cho ba, mua thuốc cho ba uống, phụ bán vé số, nghen ba”. Chú ừ, bỏ con đi đâu bây giờ.
Chú thường vòng qua chợ Bách Hóa, chú không hát, không dừng lại bán, chỉ kêu con Như tỏ mắt nhìn con Ý coi bữa nay nó mặc áo màu gì, mập ốm ra làm sao, tóc dài bao nhiêu rồi. Đứa con gái lớn buồn bã bảo, “em con mập lắm, trắng hơn hồi nó còn ở nhà mình. Nó cắt tóc tém, coi giống con trai lắm, nó nhìn thấy con mà giả đò như không thấy vậy, ba”. Không mặc đồ xanh ba mua à? Không, lâu rồi nó không mặc nữa. Chú nghe vừa mừng vừa đau. Vậy là nó quên chú rồi, nó yên lòng bên người mẹ mới. Vậy là từ nay chú đã xa mãi đứa con này. Lụi hụi hết mùa nắng, giọng chú tắt khèn khẹt trong cổ họng, thậm chí không thể cất lời rao. Chú đờn cho con Như ca, tiếng ca ngọng ngịu và non nớt lắm, vô vọng cổ luôn bị đứt giữa chừng. Tội nghiệp, con nhỏ không có tài, ngáy còn lạc giọng mà ca nỗi gì. Những lúc ngồi bên con, nghe nó ăn giá sống cho họng bớt khan, chú Đời muốn khóc, thấy mình bất lực trước bệnh tật. Chú bảo, “Thôi, bỏ nghề, con”.
Đã thấu gần hết cái khổ của kẻ hát rong, đã mỏi đôi chân ròng rã, chú Đời bán cây đờn, cái loa với bộ bình ắc quy. Chú xin cho con Như đi chạy bàn, rửa chén ở quán hủ tiếu Nam Vang. Mới đầu nó không chịu, nó nói ba ở nhà một mình không được. Hồi đó ba buồn còn đờn lửng tửng chơi, bây giờ đờn cũng không còn. Nhưng rồi đến bữa cơm, nó đổi ý, nó không thể để chú Đời quẹt kho quẹt vầy hoài. Một bữa trưa, nó bưng tô nước thịt có nhúng nắm rau chạy về, chú Đời rầy nó làm vậy chi, ông bà chủ chắc không thích, nó cười, chú thím Sảnh biểu con đem về cho ba đó. Người ta thương con lắm. Chú Đời bảo, cuộc đời này, thiệt nhiều người tốt. Một bữa trưa, chú Đời bắt nó ngồi lâu với chú thêm một chút nữa. Chú lấy lược ra chải đầu cho nó, tóc nó đã dài chấm thắt lưng. Chú nói, không biết chừng nó mười tám hai mươi tuổi tóc dài cỡ nào hen. Con Như cười, chừng đó cho ba chải đầu, thắt bím cho con mệt luôn. Chú Đời bảo, từ đây tới đó còn lâu. Rồi chú than, sao mà chú nhớ vợ với con Ý quá chừng. Con Như bần thần, “Hồi đó, nhà mình vui biết bao nhiêu hén, ba”.
Ừ, vui. Trưa vầy, nếu không ở bên hông chợ thì cả nhà chú cũng tụm lại bên một gốc cây nào đó có bóng mát, nghỉ chân, ăn cơm. Hai đứa con nhỏ của chú bữa nào cũng không chịu ngủ lấy sức mà mải mê búng thun. Mở miệng ra rầy, con Ý nịnh, “để con nhổ tóc bạc cho ba”. Nó nói đầu ba bạc nhiều lắm, rồi đặt sợi tóc lên bàn tay chú, trời ơi, sợi tóc mỏng tanh, nhẹ te vầy mà nó cũng thấy, con mắt nó sáng ghê. Rồi chú nhớ tới người vợ hay tựa đầu vào vai chú ngủ khì, trong trẻo, vô tư như trẻ con. Tự dưng chú Đời thèm được sống lại những buổi trưa ấy, những buổi trưa đã xa rồi, đã xa mất rồi. Chú biểu, “Mai con chạy ra chợ Bách Hóa, hỏi dì Liễu cho con Ý về, ba gặp một chút, sao… ba nhớ nó quá hà”. Nhưng con Ý đâu còn ở chỗ dì Liễu nữa, dì nói nó đi rồi. Con Như tưởng dì giấu, cứ theo năn nỉ hoài, “tội nghiệp ba con mà, dì, cho nó về một chút thôi rồi mai mốt con không lại xin dì nữa”. Dì Liễu vốn là người nhân hậu, dì chỉ biết nắm tay nó mà khóc ròng. Là thật. Con Ý đã bỏ nhà đi bụi đời là thật. Nó đi vì lâu rồi mà không được nhìn thấy người cha tội nghiệp ấy dắt chị nó lặng lẽ qua chợ. Nghĩa là ba nó đã không còn thương nhớ nữa. Vậy thì ở lại làm gì? Con Như quay về, nó phải dừng lại rất lâu, nó không biết phải nói thế nào cho chú Đời đừng đau xót. Nó ngập ngừng đứng chỗ cái hàng ba đầy rêu ướt, chợt nó nghe tiếng hát, trời ơi, là tiếng hát của má nó. “Ầu ơ. Đường dài ngựa chạy biệt tăm. Ơ… Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ”. Con Như mừng rỡ xô cửa bước vào, má nó đưa tay lên miệng ra hiệu im lặng, rồi thì thào: – Đừng la lớn. Mệt rồi. Ngủ đi. Con Như chạy lại ôm má nó, nó nghĩ chắc chú Đời giả bộ đây, trông con Ý thấy mồ mà không chịu dậy. Nó chọc lét vô mấy cái xương sườn của chú, nhưng chọc mãi, chọc mãi, chú không bao giờ thức nữa.
4. Làm gì có chuyện đời như ý? . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Wed Nov 13, 2019 7:20 am | |
| .
Baby sit - Nguyễn thị Thanh Dương
“Cần người baby sit ở tại nhà, trông 3 đứa trẻ 7, 6, và 5 tuổi, làm vài công việc vặt. Có phòng riêng, lương hậu hỉ. Xin mời ”. Đọc hàng loạt mục cần người đến nhà giữ trẻ, tôi dừng lại ở đây, sao mà thích hợp với tôi đến thế, tôi đang tìm một nhà có đông trẻ con để đến giúp việc, vì tôi cô đơn quá đổi. Cái nghề baby sit này tôi đã nghĩ tới với rất nhiều hứng thú sau những tháng năm dài mấy lần vấp ngã trong cuộc đời. Tôi gọi phone ngay: - Hello, chào chị, tôi có đủ điều kiện để xin làm baby sit cho nhà chị đây. Giọng hớn hở bên kia đầu dây: - Chị trẻ không? Khỏe không? Em có 3 thằng con trai quậy dữ lắm, đến nỗi bác Ba hiện thời đang baby sit tụi nó chịu không thấu, bác quá mệt đòi thôi việc nên em mới đăng báo kiếm người thế vô, bác Ba làm nốt 2 tuần nữa cho tròn tháng rồi mới ra… Chị ta nói dài quá tôi phải ngắt lời: - Tôi hiểu rồi, năm nay tôi 40 tuổi, sức khỏe tốt. Được không? - Vậy thì tốt quá, coi như em nhận lời mướn chị, bữa nào mời chị đến nhà, coi những công việc bác Ba làm sao chị làm vậy. Tôi đồng ý, hai tuần nữa tôi lại có một cuộc sống khác.
Một cuốn tiểu thuyết có bao nhiêu trang buồn vui thì cuộc đời tôi cũng có bấy nhiêu trang. Tôi là một đứa trẻ không có cha ngay từ trong bụng mẹ, nghèo khổ và lam lũ tôi sống với mẹ bữa đói bữa no trong một xóm lao động ở Việt Nam, năm tôi 12 tuổi mẹ tôi bị bệnh chết, không thân bằng quyến thuộc. Tôi bơ vơ. Tôi được một bà hàng xóm tốt bụng mang tôi đến một gia đình họ hàng của bà. Đó là chủ hãng nước mắm ở bến Chương Dương, Sài Gòn, để tôi làm việc vặt gì thì làm, mục đích chính là họ nuôi tôi làm phước. Ông bà chủ có hai người con gái tuổi mười tám đôi mươi, đa số tôi làm việc vặt cho hai cô. Biết thân phận mình tôi làm việc rất chăm và ngoan ngoãn nên cả ông bà và hai cô đều thương. Được sống ở thành phố, bên cạnh hai cô chủ, tôi phổng phao khoẻ mạnh và đầu óc khôn ra, những sinh hoạt của họ cũng cho tôi nhiều kiến thức. Lúc nào rảnh hai cô thay phiên nhau dạy tôi học chữ. Tôi quý mến ông bà chủ hãng nước mắm lắm, tôi hay nói với ông bà con mong mau lớn con sẽ khuân nước mắm từ kho ra xe, ông bà đỡ phải mướn người ta. Nhưng chưa đến cái ngày tôi được làm công việc đó để đền ơn đáp nghĩa chủ, thì năm 1980 cả nhà ông bà tổ chức vượt biên, và tôi nghiễm nhiên đã là một thành viên của gia đình họ nên cũng được đi theo. Năm đó tôi 18 tuổi. Sang đến Mỹ tôi vẫn tiếp tục làm người giúp việc cho họ. Vài năm sau hai cô học hành xong và lập gia đình, cuộc sống của tôi vẫn êm đềm theo gia đình chủ, nhưng hai cô nói tôi không thể suốt đời làm thuê làm mướn cho nhà cô mãi được, tôi đã trưởng thành cấn có một cuộc sống riêng, có vợ có chồng như người ta. Hai cô thương tôi mà nói thế, chia tay hai cô tôi buồn lắm và không tự tin chút nào, vừa xấu vừa không trình độ thì ai dám lấy tôi?
Thế mà có người thương tôi, lấy tôi, làm tôi vừa mừng vừa ngạc nhiên, anh quê ở Long Đất, Vũng Tàu, làm tài công chở người vượt biên từ ghe nhỏ ra ghe lớn, một hôm anh liều mình lên ghe lớn đi luôn, qua đây tứ cố vô thân. Anh cũng bơ vơ. Gia đình ông chủ hãng nước mắm ở California, còn tôi và chồng rủ nhau về Tiểu bang Texas, nghe nói cũng đông người Việt Nam và nhà cửa thì rất rẻ so với Cali. Sau này tôi hỏi chồng tôi với vẻ cảm động và vô vàn biết ơn rằng em xấu, em quê mùa thế tại sao anh lấy em, anh yêu em ở điểm nào? Anh đáp thản nhiên thời điểm đó ít người Việt Nam, đàn ông thì thừa, đàn bà thì thiếu, thà lấy em còn hơn ở giá, chứ có yêu thương gì đâu! Sự thật mất lòng, nhưng chứng tỏ là anh thành thật, thôi thì “bèo dạt mây trôi” gặp nhau, cho đời bớt buồn, bớt khổ. Chúng tôi an phận sống bên nhau và mong muốn có một đứa con, nhưng chờ hoài hết năm nọ, năm kia, hai vợ chồng tôi mới đi bác sĩ để biết một sự thật đau lòng tôi không có khả năng sinh con. Chồng tôi thất vọng, chán nản sinh ra nhậu nhẹt say sưa, một hôm tôi biết được anh đã ăn ở với một cô gái, và cô đang mang bầu, tôi hiểu phận mình thua thiệt, tự nguyện rút lui, trả anh cho cuộc đời mới đang mở ra cho anh.
Vài năm sau tôi lập gia đình với một ông lớn tuổi, bị vợ bỏ, ông chấp nhận hoàn cảnh tôi, không cần con cái, hình như ông dị ứng với vấn đề này, ông nói con cái ở Mỹ chỉ là một lũ mất dạy. Tôi an lòng sống với ông, tưởng sẽ được hạnh phúc cho đến tuổi già. Nhưng ông bị chết đột ngột vì bệnh tim, không kịp một lời trăn trối, nhưng cũng kịp để lại cho tôi một món tiền khá lớn phải trả nợ cho credit card, không biết ông đã vay mượn từ lúc nào, mang tên hai vợ chồng, chỉ để đánh cá football (sau này tôi mới biết đó chính là nguyên nhân ông bị vợ bỏ, con khinh, và vất va vất vưởng như lục bình trôi sông rồi tấp vào đời tôi, để tôi phải trả một giá rất đắt cho cái hạnh phúc mà tôi chưa hề được hưởng). Tôi đã cần cù đi làm lương vài đồng một giờ trong vài năm để trả món nợ đó, tôi suy luận theo thuyết nhà Phật, có lẽ kiếp trước mình mắc nợ ông ta? Bây giờ nợ trả hết rồi, tôi không oán hận gì ông đâu, ông hãy thanh thản an giấc ngàn thu, chỉ mong rằng kiếp sau nếu có tái sinh, dù lấy ai cũng xin ông chừa thói cờ bạc, chừa đánh cá football cho vợ con ông nhờ. Vừa xấu người, vừa xấu số, qua hai đời chồng mà chẳng được gì ngoài thất vọng khổ đau. Tôi quyết tâm an hưởng cuộc sống độc thân, tưởng rằng sẽ thanh thản mà sao buồn thế! đơn độc thế! Đôi lúc tôi muốn quay về tìm hai cô chủ cũ đang sống ở California, nhưng lại tự ái, và phụ lòng tin tưởng của người ta nên đành thôi. Tôi cũng là một người đàn bà như bao nhiêu người đàn bà khác, cũng thèm khát một mái gia đình, những đứa trẻ thơ, để được săn sóc chúng, thương yêu chúng. Thế là tôi nghĩ đến nghề baby sit, tôi muốn được ở tại nhà chủ, sống hàng ngày với họ, để hưởng lây không khí gia đình, để gần gũi những đứa trẻ mà đáng lẽ tôi cũng có.
***
Tôi đã đến nhà cô chủ mới để quan sát tình hình, vợ chồng chú An giới thiệu tôi với bà Ba và 3 đứa trẻ rồi họ vội vã rời khỏi nhà, họ đang kinh doanh một nhà hàng lớn rất đông khách nên bận túi bụi, việc nhà cửa, con cái giao phó hết cho người baby sit. Lần đầu nhìn 3 thằng ranh tôi đã thích, còn chúng nhìn tôi với vẻ tò mò. Hôm nay ngày nghỉ nên chúng ở nhà đủ, bà Ba vừa làm việc vừa nói chuyện với tôi, bà hơn 65 tuổi, nhưng chưa có quốc tịch nên chưa được hưởng tiền già. Ôi, ở cái tuổi này mà phải quản lý 3 thằng vừa ăn khoẻ vừa nghịch ngợm như thế kia thì mệt thật! Tôi bỗng thấy mình còn trẻ quá, sẽ đủ sức làm nữ tướng điều khiển 3 thằng lính quèn đó. Tôi tiếp tục công việc của bà Ba không khó khăn gì, sáng dậy lo cho 3 đứa đi học, trưa lần lượt đón về, chiều nấu cơm, tắm rửa cho chúng, rồi dọn dẹp nhà cửa… Tôi vừa nghiêm vừa thân thiện để chúng không ăn hiếp và không quá sợ tôi. Ai như bà Ba muốn làm cái gì cũng phải năn nỉ nào ăn cơm đi, nào tắm đi, nào thay đồ đi. v.v... rồi bà thương, chúng nó đâu cần cái tình thương hứa hẹn của bà để phải đánh đổi những trò chơi hứng thú của chúng. Mỗi lần cho lũ trẻ tắm là một cuộc chơi “trốn tìm” và “đuổi bắt” đầy ngoạn mục, quần áo dơ thay ra, chúng không để vào rổ trong phòng tắm mà cố tình quẳng vào kẹt tủ, gầm giường, hay góc bếp cho bà Ba tìm mệt nghỉ, bà Ba đi khắp nhà tìm quần áo dơ của chúng như tìm chiến lợi phẩm sau một cuộc giao tranh. Xong, thì 3 thằng lại xổng mất, bà phải chạy từ phòng nọ đến phòng kia, từ tầng lầu xuống tầng dưới, và ngược từ tầng dưới lên tầng lầu để tóm chúng lôi vào phòng tắm... Bà mệt và căng thẳng đến nỗi có đêm bà thấy ác mộng, 3 đứa chạy nhảy bừa bộn trong phòng tắm, nước văng tung toé, nước tràn lan lênh láng, trôi bà đi khắp nhà… Giật mình tỉnh dậy người bà còn đẫm mồ hôi, bà không tin là mình vừa ngủ mê, lò dò bật đèn ra phòng tắm, thấy mọi sự yên tịnh bình thường bà mới yên tâm vào ngủ tiếp.
Khi bố mẹ chúng ra khỏi nhà, căn nhà rộng 4,000 sqft, đẹp đẽ sang trọng, trên khu đất rộng, vườn tược xinh tươi, hàng tháng có người đến làm vườn cắt cỏ này là của tôi, tôi tha hồ ra mà đi trên cỏ non xanh mướt, ngắm hoa lá, nhìn chim bay… Những giây phút thú vị đó, tôi tin chắc rằng vợ chồng cô chủ chưa bao giờ biết đến. Vào nhà tủ lạnh đầy ngập đồ ăn, tôi muốn ăn, muốn bày món gì có mà trời biết. Tôi đã làm những món ăn, bánh trái khiến lũ trẻ thích mê, tôi kể cho chúng nghe những đứa trẻ bằng tuổi chúng đang ở Việt Nam, đang thiếu ăn, thiếu mặc, hay không được học hành gì cả… tôi kể về tuổi thơ nghèo khổ của tôi, chúng cảm động nghe tôi kể như nghe chuyện cổ tích, tôi dạy chúng phải biết quan tâm và giúp đỡ người khác, biết nhường nhịn thương yêu nhau. Dần dần 3 đứa đều quý mến tôi, ngoan ngoãn nghe lời tôi, chúng không nghịch phá nữa, tự mình làm những gì có thể được, tôi không phải hầu hạ chúng như bà Ba, trái lại tôi còn sai chúng làm được khối việc vặt, khi quần áo đã sấy khô, chúng gấp lại, của đứa nào đứa nấy mang về phòng, chúng vui thích vì được tự tay xếp quần áo vào tủ theo ý mình, tôi sai chúng nó lấy báo cho tôi đọc hay rót nước cho tôi uống là chuyện thường tình ở nhà, không biết bố mẹ chúng nhìn thấy có xót ruột không? Chứ chúng làm với tất cả lòng hăng hái, mà tôi cũng thương yêu chúng biết bao nhiêu, không phải là nhiệm vụ của một baby sit đâu, mà bằng tấm lòng của một người mẹ. Tôi và 3 đứa trẻ đã có những ngày êm đềm hạnh phúc, những bữa cơm chiều đầm ấm, những buổi trưa 3 đứa thì ngủ, còn tôi nằm khểnh nghe nhạc, thảnh thơi như một kẻ vô công rỗi nghề, tôi mở máy nghe Chế Linh và Tuấn Vũ, hai giọng ca mùi mẫn là thần tượng của tôi, họ hát bài gì tôi cũng thuộc dù tôi không nhớ tên tác giả, nhưng chắc chắn là không có nhạc Trịnh công Sơn, dù ai cũng khen nhạc ông ta, có nhiều câu nhạc của Trịnh công Sơn nghe “mơ hồ” quá tôi không hiểu nổi: “Tóc em từng sợi nhỏ rớt xuống thành hồ nước lênh đênh.” Hay “Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ. Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao…” thà cứ cụ thể, huỵch toẹt như “Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn…” hay “Đêm đêm một mùi hưong, mùi hoa sứ nhà nàng…” nghe mà thấm tới tim tới phổi, nghe mà rơi lệ. Nằm nghe nhạc đã, tôi ngủ thiếp đi, tỉnh dậy 3 đứa trẻ vẫn nằm ngủ bên tôi trong căn nhà sạch sẽ thơm tho, chẳng có chuyện gì phải làm, tôi vẩn vơ nghĩ tới vợ chồng cô An, không biết ngay giây phút này họ đang làm gì nhỉ? Tội nghiệp! chắc chú An đang bù đầu trong khói bếp mịt mù, trước kia chú có thuê đầu bếp, nhưng đứa thì làm mình làm mẩy, đi trễ về sớm, đứa thì chuyên môn ăn cắp mang về nhà toàn những món đồ biển đắt tiền. Thế là chú vừa là ông chủ vừa kiêm luôn chức đầu bếp cho chắc ăn, khỏi phải trả tiền công đầu bếp mà lại quản lý được cả đám nhân viên dưới bếp, không thất thoát hao phí đồ ăn, thực phẩm. Còn cô An cũng bù đầu không kém, như tất cả những người Châu Á làm kinh doanh, khâu tiền nong thì chỉ có ngưòi nhà hay chính chủ nhân quản lý, cô An ngồi trong quầy thu tiền, mỗi ngày phải mỉm cuời không biết bao nhiêu lần, phải Hello, Thank you với không biết bao nhiêu người, kể cả những người có bộ mặt đáng ghét nhất.
Chín mười giớ tối cô chú An mới về tới nhà, tắm rửa và hỏi thăm con cái qua loa xong là lăn vào phòng ngủ, nếu có động đất hay trời sập chắc họ cũng không biết. Làm gì cô chú An dám mơ tới một giấc ngủ trưa thanh bình nhàn hạ như tôi? Nằm nghe nhạc lâm ly sướt mướt như tôi? Làm chủ nhà hàng, khách tới ăn tấp nập, nhưng cô chú An thường không ăn nổi những món ăn của mình, ngày nào cũng ngửi, cũng nhìn thấy, họ ngán quá rồi, cô An thường mang đồ ăn do tôi nấu ở nhà, tôi làm món dưa cải muối chua với củ hành đỏ thật thơm ngon, cô An rất thích. Từ ngày làm baby sit, ăn, ở, chủ bao nên đồng lương tôi hầu như không dùng tới, dư được bộn tiền, tôi không có họ hàng gần xa ở Việt Nam để mà giúp họ. Tôi nghĩ đến những đứa trẻ nghèo - như tôi ngày xưa - và muốn đồng tiền của tôi được hữu ích tôi liên lạc với một ngôi chùa ở Việt Nam, thông qua đó, hàng tháng tôi gởi tiền về để chùa mang đến những Cô nhi viện, những Nhà nuôi trẻ em khuyết tật, cho các em được thêm manh áo mới, thêm miếng ăn ngon. Nếu quả thật kiếp này làm điều lành kiếp sau được hưởng thì tôi mong sẽ có một mái gia đình và những đứa con như 3 thằng mà tôi đang baby sit là đủ rồi, chẳng mong giàu có sang trọng gì.
Một hôm cô An mang về một tờ báo xuất bản ở Việt Nam, do người bạn cô mới đi chơi Việt Nam và mang về. Cô An chỉ cho tôi bài viết về một bà người Việt sống ở Mỹ có lòng từ tâm, hàng tháng gởi cả ngàn đô về Việt Nam để giúp các trẻ em nghèo. Cô An chặc lưỡi: - Làm điều thiện mà dấu tên, ngu thật. Người ta đâu biết mình là ai, thì hãnh diện với ai đây? Rồi cô so sánh, nửa đùa nửa thật: - Chắc bà này giàu lắm mới chi ra như thế. Mà có giàu hơn tôi được không? Mỗi ngày nhìn vợ chồng cô An ra đi, lao vào cuộc sống, tôi biết họ kiếm ra rất nhiều tiền, bằng sức lực mồ hôi và bằng cả sự khôn ngoan sống ở đời như cô An đã từng hãnh diện khoe với tôi, chị biết không, buôn bán kiếm lời là chuyện dĩ nhiên, ngoài ra phải biết kiếm thêm, mỗi bill tính tiền ăn của khách đều cộng thuế, nhưng tôi đâu có ngu mà khai thật lợi tức của mình với sở thuế, nên hầu hết tiền lời, tiền thuế của người ta trả đều vô túi mình.
Còn tôi, lương tháng 1,200 đồng, không kiếm thêm được đồng nào như vợ chồng cô chủ. Nhưng nếu so sánh giữa tôi và họ ai giàu hơn? Thì… tôi chứ ai! Vì tôi còn có tiền phân phát cho người khác. Và ai sướng hơn? Thì… cũng tôi chứ ai! vì tôi có niềm vui khi đã mang lại niềm vui cho người khác...
Nguyễn thị Thanh Dương
| |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Fri Nov 15, 2019 9:15 am | |
| .
CUỘC CỜ - Trương Thái Du
Ở Lạt ai chẳng biết ông Tư cờ. Tài danh trùm xứ sở đã đành, ông còn nổi tiếng bởi dăm món chơi ngông không giống ai.
Nói nào ngay, ông Tư trong mắt đa phần thiên hạ là kẻ bất bại. Nghe bảo đận trung niên, ông Tư gặp một tay iêng hùng lục lâm non choẹt nhưng có chiêu tốc chiến tốc thắng, đè xe, ém mã rất kinh hồn. Biết mình vào thế kẹt và sẽ mất tước bách thắng, lựa lúc đi giải ông Tư tạt vô chái bếp cơi lửa ủ mạt cưa vào vách gỗ. Khách chưa kịp giở phục chiêu giăng sẵn thì đã nghe làng xóm í ới cháy nhà. Xúm xít kẻ tát người bê tình giềng nghĩa láng, ông Tư không mất chốn dung thân. Hôm sau mặc vợ con lui cui dọn dẹp, phên nẹp nửa căn nhà bị cháy xém; ông Tư thản nhiên trốn ngoài bờ trúc góc vườn kẻ kẻ, vạch vạch các ô vuông giải bàn cờ xuýt thua. Năm hai mươi tuổi, trên đường câu cá kiếm cơm, ông Tư nhặt được quyển “Kỳ thư” bên suối Khu Bê. Duyên trời cộng với đĩnh ngộ, ông mau chóng nổi lên như một hảo thủ vùng Lạt. Thật sự các nước cờ của ông Tư cũng thường thôi, nghiệt là chúng lại kết hợp với nhau trong trật tự hết sức cao cường, thông cổ, tường kim, mạch lạc mà lại có vẻ bí hiểm. Có lần ông dụ địch thủ chén ngấu cả hai con xe, trong khi chàng chốt quèn lặng lẽ áp thành cản tượng cho pháo giác kết liễu tướng giặc. Ông thành danh cũng có chữ liều và không màng trả giá. Cao nhân cũng lắm kiểu ngạnh. Trò ông chơi ai cũng gọi là cờ tướng hay văn vẻ nho nhe “tượng kỳ”, còn ông thì cụt lủn: “cờ voi”. Bọn sính chữ một phép thường xướng đường biên giữa hai phía là “Hán giới - Sở hà”, riêng ông xem đó như ranh mép ngày – đêm. Ta là ngày, nó là đêm. Ta sáng nó tối. Ta dương nó âm. Ta hiền nó dữ. Ta khôn nó ngu. Ta chính nghĩa nó ngụy thù…
Ông Tư chơi cờ cả đời và chiến thắng cả đời, nên chẳng có lý do gì trận đấu từ giã xới cờ ông không thắng nốt. Lúc ấy ông cũng đã gần đất xa trời. Ông đem bàn cờ hằn dấu những cái nện ăn quân chan chát mấy mươi năm đặt trên tủ thờ, như báo cáo chiến công với tiên tổ. Tình thực, đó cũng là ý nghĩa duy nhất của đời ông, bởi bao năm ông chỉ biết ăn uống, chơi cờ và… "yêu vợ". "Vợ làm vợ ăn, vợ làm chồng ăn, con bú sữa mẹ" là phương châm sống kiên định của ông Tư. Bầy con nheo nhóc lớn lên rồi trưởng thành ở tứ xứ vẫn luôn răm rắp, khúm núm trước mặt ơn sinh thành. Nhưng ai biết dâu bể khôn lường, ông Tư có một lũ cháu A Khùng hay cãi chày cãi cối. Giỗ tết cả nhà xum vầy, nếu ông mở lời kể lể ngợi ca chiến công một đời đánh cờ, y rằng bọn A Khùng ấy xổ toẹt hết. Mà tuồng như chúng lại có lý mới chết chứ! - Ông dịch chữ Nho sai rồi ông ơi - Thằng cháu nội đích tôn là hay gây hấn với ông nhất, vì cậy sở học hồ hải vinh qui bái tổ - Chữ Tượng trong Tượng kỳ đâu phải là con voi! Nó biểu trưng cho những yếu tố trừu tượng của trận đánh. - Khéo vẽ, sao không nói nốt chữ nhân chớ phải là người đi. - So với cờ quốc tế, cờ của ông rất thiếu công bằng. Con chốt mãi mãi là con chốt. - Chứng chóa mắt ngoài bờ tre đây. Vậy cái thằng Quốc tế liên hiệp nó công bằng giữa nhược tiểu và cường thịnh, giữa nhiều tiền và ít tiền, giữa nước lớn và nước bé như thế nào? - Ông à, ông chơi cờ cả đời không chán ư? Đến lượt thằng cháu mua bán ngoài chợ thắc mắc. - Đời chẳng qua cũng là một cuộc chơi. - Nhưng cháu thấy vinh quang tinh thần của ông nó yếm thế như thế nào ấy. Buổi xôi thịt này có no được đâu. - Ta già rồi, lũ cháu không hiểu cũng là dễ hiểu!
Từ đó ông Tư sinh ra lẩm cẩm, suốt ngày thì thầm: "không hiểu cũng là dễ hiểu". Ông đem bàn cờ cũ để hẳn xuống trường kỷ, rồi lấy giấy nhám xóa dần những đường chéo làm sông ở giữa. Cái tin ông Tư đột nhiên chơi cờ trở lại ngỡ sẽ làm con cháu phiền lòng. Nhưng không, ông chơi rất lạ và chỉ chơi với chính ông: bộ cờ mới ông giữ mỗi bốn con Tượng. Ông quân xanh, đối thủ vô hình quân đỏ (không như ngày xưa lúc nào ông cũng đỏ để nhường xanh đi trước, hậu thắng tiên mới oai!). Ngày ngày ngồi lì bên bàn cờ trống hoác, tay phải ông chống Tượng thì tay trái với qua phía đối diện đẩy Tượng lên biên. Hai cặp Tượng căng lắm là gườm nhau qua dòng sông. Nước chéo vuông của Tượng hình như thay thế tạm các kẻ chéo chữ nhật ông đã bôi xóa. Lòng ông sôi sục năm tháng cũ, các nước cờ cũ, các con cờ cũ vô hình. E hèm, Tượng không phải là voi? Ông nhớ lại lời thằng cháu. Xưa ông ít dùng Tượng. Cờ ông là cờ toàn công, Pháo đầu thượng sách nên ông xem thường quân Tượng. Nếu là voi sao Tượng không vượt sông lâm trận? Người Trung Hoa sáng tạo ra Tượng Kỳ khi chiến xa (được hình tượng hóa vào con xe) còn chiếm ưu thế tuyệt đối trên chiến trường. Kỵ binh (con Mã) bắt đầu được biết đến ở đời Triệu Linh Vương (nước Triệu), năm 307 trước Công nguyên, khi họ Triệu cải trang phục giống người Hồ để dễ dàng cưỡi ngựa. Thời chiến quốc ấy, làm gì có voi trên mặt trận nào. Qua Đông Hán người Tàu mới gặp voi ở Trung Bộ Việt Nam hôm nay nên bày ra huyện Tượng Lâm. Nếu Tượng Lâm là vùng rừng có voi thì Tượng Quận thời Tần chẳng lẽ lại mang nghĩa một quận tượng trưng trên bàn tiệc thực dân? Khéo bọn thực dân đại quốc chỉ xem khu vực có tổ quốc ông là một cuộc cờ tượng trưng không chừng! Cũng là Tượng, nhưng sao rắc rối thế. Ông Tư quyết đánh cờ với bốn quân Tượng đến khi nào ông không còn mắc mớ trong lòng nữa mới thôi. Chỉ tội bà Tư hồn hậu, nhân từ. Nhìn ông chơi cờ một mình mà ruột gan bà xát muối ớt. Xưa bà chẳng quản "Quanh năm buôn bán ở mom sông" để ông "vĩ mô" với thiên hạ, oai hùng riêng trấn muôn trượng một góc trời. Khốn khó hy sinh, cuối cùng đàn con của bà cũng se lông, khỏe cánh tung bay khắp nơi. Ông nghỉ chơi cờ dăm năm, bà hân hoan mấy mùa? Hủ hỉ vào ra, bà chẳng hiểu cờ nhưng ngồi nghe không sót các cuộc luận những ván cờ oanh liệt năm xưa của ông. Hai người, ông cứ nói, bà chỉ ừ. Ấm lòng đến lạ. Ấy thế mà bây giờ, cứ hoảnh mắt là ông ngồi xuống trường kỷ đẩy tới đẩy lui bốn con Tượng. Bà Tư hốt hoảng: "Hay là có ma cờ? Một đời ông dày vò nó, nay ông đầu bạc răng long, nó quay lại hành ông, biến ông thành một quân cờ". Xế nay nhà ông Tư có khách xa. Bà Tư dọ hỏi sự tình, trong khi ông chẳng màng, đầu óc tập trung chuyển cờ, miệng nín khe. - Thưa ông, con là kẻ bại trận cái hôm nhà ông bị cháy… - Thật may phúc – Bà Tư đỡ lời, nhìn dáng người, xe cộ, bà đoán khách giàu phải biết. - Con nghiệm ra trong đám cháy và cuộc cờ tiềm năng tố chất của đất đai, con người vùng mình, xứ mình. Khi tích cóp đủ vốn liếng, con về huyện bên mở lối làm ăn dành dụm. Công nhân của con, hơn nửa là người Lạt. Con cháu ông bà cũng tròn chục gắn bó với con đã khá lâu. - Vậy ra anh là ân nhân nhà tôi. - Bà nói quá. Không có ông chỉ bảo con đâu thể nên người. Tình thế vừa đủ lọt lý, ông Tư mới ngước mắt lên gằn giọng: - Anh lại muốn kiếm chác trong ngôi nhà cổ đã một lần cháy dở này? - Con tính, khí không phải. Khách thập phương đến Lạt ai cũng háo hức về chuyện đời cờ của ông. Con sẽ sang sửa ngôi nhà, lập một mái đình lợp ngói âm dương nóc tròn ngoài sân, dựng tượng ông ngồi bên bàn cờ đá như trên tiên giới. Đây sẽ là điểm nhấn của toàn bộ khu du lịch mà con đã được cấp phép, bắt đầu thương lượng bồi hoàn, giải tỏa. - Hai khọm già này sẽ bị tống cổ đi chứ? - Ấy… ông bà là nhân chứng sống một thời, con đâu dám. Đất xung quanh vẫn của ông. Chẳng việc gì ông bà phải dọn đi đâu. Con sẽ gửi thêm lương thưởng hậu hĩ…
Ông Tư mệt rồi. Ông không buồn nghĩ nữa. Ông đứng dậy nhặt bốn con Tượng và nách cái bàn gỗ sắp mục ra sân. Vòm mai anh đào ưng ửng dưới nắng chiều xuân. Trời đất đẹp lạ lùng mà lòng ông cứ nhói lên nỗi buồn không thể đặt tên là chiến thắng. Ông Tư ngồi xếp bằng, bệt xuống đất. Bàn cờ nằm hơi nghiêng xuống thung lũng, trên chiếc đôn đá cạnh gốc thông xù xì. Ông dựng bốn con Tượng thẳng lên như bánh xe rồi lơ đãng nới tay. Chiếc ô tô tàng hình vụt lao xuống vực. Ông Tư không cần quân cờ nữa. Đã đến lúc ông có thể chơi trên một bàn cờ chay, hay nói đúng hơn ông lẫn lộn chẳng biết mình là quân cờ hay quân cờ là mình. Đêm tới. Đám lá thông lập cập trong gió, âm u hát như mong xua đi hơi lạnh cao nguyên bốc lên từ lòng đất. Khách đã ra về từ lâu. Chẳng thấy ông đâu, bà Tư nháo nhác đi tìm khắp nơi. Rồi bất lực, bà hoảng loạn nhắn gọi con cháu kíp tới giúp. Ánh đèn pin loang loáng khắp vườn, tiếng réo kêu nối nhau mất hút. Tinh mơ, hàng chục người suốt đêm quần thảo bở hơi tai hết ba quả đồi và năm cái hụt, đành ngược dốc về nhà. Ban mai. Gió tung những cánh anh đào rụng đêm qua vào nắng, chấp chới như một đàn bướm hồng. Ông Tư đã hóa đá bên cội thông trăm tuổi. Đúng là tiên ông sống động, hơn cả óc tưởng tượng thương mại sặc mùi tiền của gã đại gia nọ. Bà Tư và đám con cháu sững sờ, không thể tin vào mắt mình.
Ông Tư về với tiên tổ, nhẹ nhàng thanh thoát làm sao. Mong lắm, gương ông sẽ sáng mãi cho cháu con, cho dòng tộc, cho xứ Lạt vạn xuân này. Những cuộc cờ, những quân tướng tượng trưng, đơn giản chỉ là một trò chơi cõi tạm. Được mất có lẽ nằm ở cách chơi, chứ phải đâu là kết cục thắng hay bại rỗng tuếch và gần như vô nghĩa!
Thung lũng Đa Thiện, Đà Lạt 1.2006 Ngộ Không Nguyễn Phi Hùng chuyển . | |
| | | NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Mon Dec 02, 2019 9:46 am | |
| .
Những ngôi nhà không có đàn ông - Hồ Thụy Mỹ Hạnh
Tôi không biết có lời nguyền nào gán cho khu phố của tôi không, mà những người phụ nữ tại khu phố này đều sống đơn chiếc! Nếu không thì thật là lạ vì tính từ đầu ngõ đến cuối dãy gần chục căn nhà liền kề nhau, trong mỗi căn nhà đều do phụ nữ làm chủ, với lý do này hoặc lý do khác mà người đàn ông của ngôi nhà ấy đã nhường vô điều kiện cho phụ nữ để ra đi…
Bình thường thì không gây được sự chú ý, nhưng mùa xuân đang đến, những ngày cuối năm sự rộn ràng đến với mọi nơi, thì chỉ thấy toàn phụ nữ trong các ngôi nhà ấy đồng loạt chường khuôn mặt đẹp như hoa với tất bật công việc từ nặng đến nhẹ để chuẩn bị đón chào năm mới. Những người phụ nữ chân không yếu, tay không mềm kia xắn tay làm những việc mà lẽ ra là của đàn ông. Vì người đàn ông của họ đã vắng trong ngôi nhà mà họ từng hạnh phúc, còn cách nào hơn là các người đẹp phải tự gánh vác công việc một mình. Từ đầu xóm cô Ngọc đang ngồi trên mái nhà moi rác trong chiếc máng xối bị tồn đọng đầy lá cây suốt mùa mưa, rồi cô leo xuống dễ dàng với vài động tác của loài mèo. Chị Hiền nhà kế bên thì đứng trên chiếc ghế cao sơn phết lại các cánh cửa một màu tươi mới, chị khéo léo thao tác như đang vẻ tranh không… hình. Cô Nga kế nữa thì một mình vần những chậu cây kiểng từ vị trí này sang vị trí khác, cánh tay cô gồng lên thì các chậu kiểng chỉ việc chịu thua theo sự sắp xếp của cô. Chị Mai đang leo lên chiếc thang tháo những tấm rèm cửa, vừa thay rèm vừa hát “… đồn anh đóng ven rừng mai, nếu mai không nở, anh đâu biết xuân về hay chưa…”. Giọng hát của chị không cần giàn âm thanh hổ trợ cũng hay ra phết khiến vài người đi ngang nhà phải quay nhìn vào. Còn tôi thì chú ý tên chị được nhắc đến hai lần trong câu hát, thảo nào mà chị cứ hát mãi câu ca bất hủ ấy. Không thể không nhắc đến cô Thảo, cô đang trộn một thau hỗn hợp cát với xi măng, rồi cẩn thận trét lại những chỗ bong vỡ trên sân, cô vừa tô hồ vừa lẩm bẩm gì đó như đọc thần chú. Chiếc bay lướt nhẹ nhàng và hoàn tất công việc thành thạo như một thợ hồ chuyên nghiệp. Còn vài chị nữa nhưng các chị cách xa nhà tôi quá, nên tôi không tiện quan sát để kể tường tận về hoàn cảnh của họ. Chỉ bấy nhiêu đó thôi có thể đủ để kết luận rằng phụ nữ xóm tôi thật giỏi, ngoài việc nhà họ còn phải làm việc kiếm tiền để mưu sinh và họ có thể làm những việc khó cũng như dễ mà không cần có sự giúp sức của đàn ông.
Đừng hỏi “Tại sao tài sắc như vậy mà không có người nào cho họ cơ hội được nâng khăn, giữ bóp?”. Có đấy! Họ đã từng có những đức ông chồng, nhưng cuộc hôn nhân không đem họ đến bến bờ hạnh phúc, thì đành vẫy tay chào nhau. Cô Ngọc có một ông chồng ghen tuông vượt mức báo động. Cô làm việc ở một nhà hàng, nơi tiếp những ông khách thường xuyên say xỉn, cô phải nghe những câu tán tỉnh của khách khi rượu đã vào. Chồng cô biết vậy nên mỗi khi cô về nhà trễ là có "trò chơi" rượt đuổi, cô thường xuyên “vút” lên mái nhà trốn. Khi hết chịu đựng nổi cô đâm đơn ly dị, cũng là lúc cô thành thạo việc leo lên mái nhà. Giờ thì đừng hỏi tại sao máng xối nhà cô luôn sạch sẽ! Chị Hiền đúng thật là hiền, chồng chị là đệ tử của Lưu Linh, nhưng không bao giờ chị ngăn cản sở thích của chồng. Chị còn nghiên cứu nấu các món ngon cho chồng nhậu, ổng thích nhậu lúc nào chị phục vụ lúc ấy. Chị thân cò lặn lội nuôi chồng, con. Mua quà cho con là kèm rượu cho chồng. Riết…lá gan của ổng thọ nạn, ổng gút bai cuộc đời. Chị đau khổ dày vò, chị cứ mua sơn ra mộ ổng sơn, không để một vết trầy, khi ổng sống chị tốn thời gian chăm lo cho ổng thế nào, bây giờ chị cũng “chăm sóc” mộ y như thế. Từ đó nhà cửa của chị cũng được hưởng tài “sơn” của chị. Chị cứ ước nếu chồng chị còn sống, chị sẽ cho ổng nhậu gấp đôi, gấp ba, miễn là ổng sống trọn đời với chị. Chị không bao giờ nghĩ ra được người vợ ngoan không có nghĩa là phải chìu cả những thói hư tật xấu của chồng, vì như thế là hại chứ không phải là chu toàn bổn phận. Chị không biết chính rượu đã đưa đường, dẫn lối ổng ra nghĩa địa! Để lại đôi mắt của chị đẹp và buồn đến nao lòng, chị nói đời chị chỉ tôn thờ một người, tình đầu là tình cuối!
Cô Nga có khuôn mặt đẹp từng nét, dáng cô cao hơn thước bảy! Ba má cô có ý muốn cô trở thành hoa hậu nên “đầu tư” rất kỹ. Sữa để cao giò, sữa làm trắng da, sữa thông minh cô đều được uống, kết quả là cô phát triển cả chiều ngang nên vỡ mộng đi thi người đẹp. Bù lại cô có một sức vóc thuộc loại vận động viên thể hình. Cô đã quen tai với lời khen, cô không thích nghe phê bình điểm yếu của mình. Cô lấy chồng và cho rằng người đàn ông may mắn mới lấy được cô. Còn chồng cô lại nói “Sắc đẹp không bỏ vô nồi nấu ăn được!”, anh ta cần một người vợ biết tôn trọng chồng. Cứ thế họ không ít lần cãi vã, có lần hai bên xáp lá cà với các chiêu cào, cấu, cắn và chồng cô… thua trận với thân thể đầy thương tích! Anh ta cuốn gói đi theo một phụ nữ khác có chiều ngang vừa đủ một vòng tay ôm, vừa hiền hậu nhu mì. Tiếng dữ đồn xa, cô Nga không thể bước vào trái tim người đàn ông nào nữa, bất mãn quá nên cô tỏ ra bất cần “Đàn ông là cái mắm gì? (Cô không biết đàn ông là… mắm nhĩ! Các món ăn không thể ngon khi thiếu… mắm!).Còn các ông nghe thì càng tránh xa vì thấy cô dữ quá!Cô đành ngậm ngùi sống kiếp độc thân. Giờ chỉ có mấy chậu kiểng lãnh đủ sự lực lưỡng của cô! Chị Mai rất là đáng thương! Chị là thợ may, bàn tay cầm kéo của chị tạo nên vô số chiếc áo đẹp, tiền cứ theo đó mà vào tủ của chị. Tiền ai chẳng thích, nhưng chị quên hết mọi việc ngoài may và may nên không có thời gian chăm sóc gia đình. Chồng phê bình không ăn thua. Nhất là mùa cận tết thì chị không còn thời gian để dành cho chồng chị dù một cái nắm tay. Anh buồn nên hát karaoke. Hát một mình chán anh bèn đến quán Karaoke đèn sáng, từ quán đèn sáng anh chuyển sang quán Karaoke đèn mờ! Thế rồi một ngày giật mình nhìn lại, chị mới hay rằng anh đã đi theo một cô biết hát đồng ca với anh. Chị hát hay, nhưng ngày ấy không chịu dành thời gian để hát với anh. Chị hiểu ra rằng người phụ nữ hoàn hão là người phụ nữ phải biết biến căn nhà thành mái ấm, biết chia thời gian của mình cho các công việc sao cho hợp lý, khi hiểu được như thế thì người đàn ông của đời chị đã vắng trong căn nhà có rèm cửa đẹp như cung tiên! Chị đã mất anh rồi, giờ đến lượt chị khi buồn chỉ còn biết hát một mình “… nếu mai không nở, em đâu biết xuân về hay chưa…”
Còn cô Thảo? Cô rạch ròi công việc hẳn hoi, việc của phụ nữ thì phụ nữ làm, việc của đàn ông thì đàn ông làm. Cô phân công từng việc, ví dụ “Kiếm tiền là đàn ông, giữ tiền là đàn bà!”, “Mua sắm là đàn bà, chi tiền là đàn ông!”, “Sinh con là đàn bà, nuôi con là đàn ông!”, “Việc khó là đàn ông, việc dễ là đàn bà!”, “Hờn giận là đàn bà, xin lỗi là đàn ông!”…, thậm chí cô còn thảo ra bản hợp đồng có chữ ký của cả hai. Cứ thế cô không bao giờ làm thay cho chồng những việc mà cô đã giao hẹn từ ngày anh mới ngỏ lời cầu hôn. Ngày chưa cưới, cô nói gì anh cũng “yes”, cưới xong thì lời hứa gió bay, anh thường “no”, có khi còn nhấn mạnh “no… no”. Hỏi sao cô cam tâm cho được. Cho đến một ngày chồng cô ủ rũ nói: “Em yêu! Chúng mình phải làm một cuộc trắc nghiệm, phải xa nhau một thời gian đã ngâm cứu lại bản hợp đồng sống chung của chúng ta. Anh nghĩ thần kinh của anh có gì đó không ổn khi ký kết. Em cứ ở đây, còn anh sẽ ra ngoài sống. Sự cách biệt sẽ giúp chúng ta nhận ra mình cần nhau đến thế nào hoặc có cần nhau nữa không…”. Cô nghẹn ngào không nói nên lời. Đã lỡ cam kết “… xin lỗi là đàn ông!” nên cô không thể làm thay anh điều đó, sau này nghiền ngẫm lại bản thân, cô nhận biết mình đã quá đáng vì được yêu chìu. Những ngày vắng anh là những ngày cô ăn năn sám hối. Cô nhật tụng “I love you! My dear... I miss you…”. Cô luôn mong một ngày nào đó anh quay về. Cô giấu nhan sắc chim sa cá lặn của mình vào nỗi u hoài, không màng đến lời ong bướm bên ngoài. Cô hy vọng ngày anh trở lại sẽ thấy ở cô một đức tính biết sống vì người khác, không giành phần hơn cho mình. Cô sẽ là người vợ biết chia sẻ với chồng mọi việc, cô luôn tâm sự như thế.
Tôi tin câu nói của người xưa rằng “Hồng nhan…”, ai bảo phụ nữ xóm tôi… tài sắc vẹn toàn thế chứ! Còn tôi hả? tôi đang bận sửa điện nên không trả lời được! Nói ngắn thôi hả? Thì tôi cũng ở xóm này, nên tôi không thoát khỏi thế giới cô đơn tình ơi! Tệ hơn nữa là tôi chưa bao giờ lọt vào mắt xanh của chàng nào mới lạ! Nếu có “lọt”, không chừng tôi cũng rơi vào một hoàn cảnh nào đó để tiếp tục cuộc sống hẩm hiu! Vì như đã nói, những ngôi nhà ở xóm tôi đã bị lời nguyền không có đàn ông!
Hồ Thụy Mỹ Hạnh . | |
| | | NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Fri Dec 13, 2019 3:05 pm | |
| . Mắt Nhân Sư - Trần Thùy Mai
Chỉ vì cái bật lửa đó mà bọn tôi xô xát trong quán cà phê. Nó nhỏ nhắn, xinh xinh, khắc hình con nhân sư với đôi mắt lân tinh lấp lánh. Khi Ngọc rút ra châm thuốc, một thằng con trai từ bàn bên sán tới, bóp chặt cổ tay cô. Ngọc "á" lên một tiếng, cái bật lửa rơi ra. Bọn choai choai ở đây thích dùng hàng hiệu cho ra vẻ sành điệu, vậy mà cái bật lửa này còn hơn cả hàng hiệu, nó là hàng độc, không thể có cái thứ hai. Tôi phóng tới, nắm lấy vai thằng mất dạy. Tôi đã học mấy năm với thầy Dũng võ. Thầy dạy tôi "Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã". Thấy việc nghĩa mà không làm là hèn, hèn lắm. Nhưng tôi không được làm việc nghĩa, vì lúc tay tôi và tay thằng kia còn gài lấy nhau thì Ngọc đã kéo áo tôi lại, trừng mắt nhìn vào đối thủ: - Có muốn ta gọi Rôn tới hay không? Nàng móc điện thoại ra, nhưng không phải gọi, vì thằng kia đã ỉu xìu như bánh đa nhúng nước, đặt cái bật lửa xuống bỏ đi ngay. "Rôn là ai mà ghê vậy?". Tôi hỏi nàng sau khi dọn cà phê của tôi sang chung một bàn. "Anh muốn biết à, chút nữa về trường bán trú của em đi".
Chín giờ đêm, chở sau lưng một cô gái xinh xắn nhưng lòng tôi không phấn khởi mấy, tôi đang mang tâm trạng cụt hứng. Cô ta đã chứng tỏ nắm đấm của tôi không hữu hiệu hơn uy danh của một gã Rôn nào đó. Ngọc cười khúc khích: "Em biết anh có võ, nhưng thằng nhóc đó mang "hàng" trong người, anh không thấy sao?". "Hàng là gì?". Ngọc chồm ra trước nhìn vào mặt tôi: " Ôi, Mặt Sữa ơi, vậy mà đòi đánh nhau. "Hàng" là mã tấu đó, khi nó cúi xuống em thấy ống quần nó cộm lên, biết liền". Tôi cũng bất giác quay lại nhìn những nét thơ ngây trên khuôn mặt Ngọc. Ngọc hiểu ý: "Anh đang hỏi em còn nhỏ sao mà biết nhiều chuyện phải không? Rôn dạy em đấy". Tôi chở nàng lên ngã ba Thánh giá, qua những vùng mồ mả nhấp nhô rồi đến ngôi nhà ba tầng trên dốc vắng. Ngôi nhà ấy có những đường nét cổ xưa, hiện ra trong ánh vàng ủ ê của chiếc trụ đèn trước sân. Trông có vẻ là nơi ở của loài dơi hơn là của người, tôi nghĩ thế khi bước lên lối đi sát thềm nhà, giẫm chân trên cỏ dại mọc len trong các khe gạch hoa cương. Rôn ngồi trên tầng hai trước ly rượu, mình mặc áo đen, một tay buông thõng xuống, một tay đặt trên mặt bàn. Cây đèn chong có chụp lụa màu nhuộm ánh sáng đỏ quanh chỗ y ngồi. Màu đen và vẻ lặng lẽ của người đàn ông trong đêm làm y giống con cú thu mình trên cành cây rậm. Thấy Ngọc, mắt y sáng lên. Tôi quan sát vẻ mặt y: hốc hác nhưng không xấu, trái lại có một vẻ đẹp góc cạnh đầy bí ẩn. "Fan mới của em đấy à?", Rôn hỏi Ngọc. Ngọc mỉm cười, vẻ nũng nịu và tự hào. Rôn hỏi tôi: "Cậu đến đây làm gì?". Câu hỏi của y đi cùng nụ cười thân thiện nên không giống một lời tra hỏi, mà giống một tiếng mời chào. Tôi khó trả lời được Rôn, khi tôi cũng không biết ma lực nào đưa chân tôi tới đây. Tôi bỗng buột miệng hỏi: - Tối nay em ở lại đây được không? Rôn đưa mắt nhìn Ngọc, một cái nhìn sắc lạnh. Ngọc hơi nhăn mặt, nhưng tôi đã vội nói cho nàng khỏi hiểu lầm: - Em chỉ ngồi ở cửa phòng Ngọc thôi mà. Rôn cười: - Ta biết rồi, cậu thuộc týp người thích mùi rượu hơn là uống rượu.
Tôi ở lại. Tôi còn rất trẻ, cánh cửa nào mở ra trước mặt tôi cũng muốn đi vào xem thử bên trong có gì. Có thể sau mỗi cửa động là hàng đống xương người mà cũng có thể là hàng kho châu báu, biết đâu. Ngọc cởi chiếc áo khoác jean, ném lên lưng ghế. Rồi nàng ngồi xuống giường, tháo dây đôi giày păng-túp da lộn. Chừng như để cho sướng tay, nàng quăng hai chiếc vào hai góc phòng rồi ngả mình trên nệm. Tôi ngồi bệt bên giường nàng. "Sao em lại đến đây ở?". "Thích. Mà em có ở hẳn đâu, thích đi là đi, thích về là về!". Tôi lặng nhìn sống mũi thanh tú, cái cổ cao, đôi môi kiêu kỳ của Ngọc, nét nào trên mặt nàng cũng giản dị và cao sang, nhất là khi giờ đây nàng chỉ mặc một cái áo hai dây đơn sơ trên chiếc quần jeans ngắn. Một cô bé rất bụi, bụi một cách rất tiểu thư, vậy mới ngược đời. Ngọc bật lửa châm thuốc, hai mắt con nhân sư nhấp nháy như nhìn tôi. "Mẹ cho em cái bật lửa này trước khi ra đi. Mẹ bảo, khi nào mắt nhân sư sáng rực khác thường là vận may sắp đến". - Mẹ đi đâu? - Sang Đức. Đi với dượng Michael - Ngọc nói, giọng tự hào - Bốn mươi tuổi, mẹ em kết hôn với một người đàn ông mà nhiều cô gái hai mươi nằm mơ cũng không thấy. Tôi ngạc nhiên. Ngọc kể tiếp: - Chỉ có em là quỷnh. Ngày cưới mẹ, em hát tặng bài Mẹ yêu, rồi bỗng nhiên em khóc. Thật vô lý. Dượng Michael đến ôm em, dượng bảo sẽ không quên em. Em xin lỗi dượng, em rất ân hận đã làm cho mọi người bớt vui. Tôi cầm lấy cái bật lửa, nhìn sâu vào đôi mắt nhân sư, cố tìm xem có tia sáng nào khác thường không. Ngọc như hiểu ý tôi, bảo: - Chưa đâu. Phải vài năm nữa, vận may mới tới. Mẹ em đã hứa rồi, mẹ sẽ về, đem em qua bên đó. Em sẽ được đi học ở trường Đại học Dresden. Ngọc nheo mắt, lim dim mê đắm như đang nằm mơ. "Mẹ có biết em đi bụi thế này không?". Ngọc cười ranh mãnh: "Còn lâu mới biết".
Ở tầng dưới có nhiều tiếng ồn ào, tiếng ca hát của người say. Ngọc bảo tôi: - Tụi nó về rồi đó, anh đóng giùm em cánh cửa. Dưới cầu thang, một lũ vong vị đang trở về từ các quán nhậu, chúng rôm rả hào hứng với nhau một lúc rồi chia nhau ngả lưng trên những tấm nệm cũ. Chúng lè nhè: "Ngọc ơi, sao em bỏ tụi anh". Tôi quay vào với Ngọc. "Tại sao cả thằng vong lúc nãy bắt nạt em cũng có mặt ở đây?". Ngọc cười: - Nó là thằng Tín, hiệu là Tín ke. Nó say em như say thuốc. - Có bao giờ tụi nó lên đây chọc ghẹo em không? - Rôn không bao giờ cho ai động tới em. Em không thuộc về ai cả. - Thế nghĩa là em thuộc về Rôn. - Không hẳn thế - Ngọc nhún vai - Không phải như anh nghĩ. - Ai tin được? Ngọc nhìn vào mặt tôi: "Này anh, tin hay không tùy anh thôi. Bây giờ hoặc là anh về, hoặc là ra hành lang cho em ngủ".
Đêm ấy tôi ngồi thâu đêm ở cầu thang, nhìn qua khoảng trống ốp kính, ngắm những vì sao trên trời. Vào khoảng hai giờ sáng, có tiếng chân nhẹ như tiếng dơi vỗ cánh đằng sau lưng tôi. Tôi quay đầu nhìn: người đàn ông áo đen đứng lặng lẽ nhìn tôi trong ánh sáng đỏ nhờ đang tỏa xuống. Rôn. Y đến bên tôi, ngồi xuống, rút thuốc ra mời. - Cảm ơn anh, em không hút. Ban đầu tôi có ý nghĩ là Rôn muốn vào phòng Ngọc, nhưng thấy tôi nên ngại. Nhưng sau đó tôi hiểu là không phải thế. Trong thế giới kỳ quặc này làm gì có chuyện ngại ngần hay nể nang, chỉ có thích hay không thích, thế thôi. Rôn khoác tay qua vai tôi, bàn tay với những ngón dài đeo một cái nhẫn bạc. Y vừa quàng vai tôi vừa cầm điếu thuốc bằng một bàn tay. Lúc bấy giờ tôi mới nhận ra tay bên kia của Rôn bị cụt. Tôi băn khoăn: Làm sao một người đàn ông chỉ có một tay lại đủ sức mạnh để thống trị cả bầy lâu la dưới kia, đủ sức mạnh để độc chiếm một người con gái mà có thể hắn ta không hề động đến? Nhưng tôi không nghĩ ngợi được nhiều vì Rôn đã hút hết thuốc, bàn tay mềm của y đang luồn vào trong áo sơ mi tôi mơn trớn. Tôi bảo: "Đừng anh, em nhạy nhột lắm". Rôn khựng lại, rồi hắn phá ra cười, tiếng cười nghe như tiếng gương vỡ trong đêm.
Trường bán trú của Ngọc nhanh chóng trở thành trường bán trú của tôi. Rôn vẫn bảo cả bọn: "Lên đây với anh. Việc gì phải ngồi nhà với những bữa cơm đầy nước mắt". Phần lớn bọn con trai lẵng nhẵng đi theo Ngọc về đây, rồi khi về đây thì chúng phát hiện ra một thiên đường. Nơi đây không có những lời đay nghiến, những bài rao giảng, không có sự chịu đựng lẫn nhau. Chỉ có những bài học về thú vui và tự do tuyệt đối. Tôi thì không mặn mà những bài học của Rôn cho lắm. Tôi chỉ muốn luôn ở bên Ngọc. Nàng sôi nổi và mỏng manh, một vật thể rất giòn và dễ vỡ. Có lần nhìn hai má hồng rực của Ngọc, tôi hỏi đùa: "Em có xài doping không?". Ngọc cười: "Không rảnh". Những lúc không có tôi, nàng đùa với những món đồ chơi linh tinh vứt trong phòng. Khi tôi đến, tôi kéo cái mặt nạ quỷ ra khỏi mặt nàng; chất cao su đặc chế lành lạnh, trơn trơn trong tay tôi. Ngọc níu lại, rồi như muốn trêu tức tôi, nàng áp cái mặt nạ đen đủi gồ ghề vào mặt mà hôn lấy hôn để. "Hàng ngoại đây anh, vài trăm đô một chiếc đó, không tồi mà cũng không dễ mua được". Tôi bảo: "Em tiêu tiền như phá". Ngọc phá ra cười: "Mẹ bảo cứ mua bất cứ cái gì em thích. Anh không thấy nó đẹp à? Gu của em là vậy, em không chịu được cái gì trơn tru tròn trặn". Tôi nhìn Ngọc, lần đầu tiên nhận ra vẻ giằng xé lạ kỳ trong mắt nàng, đấy là sự cứng cỏi pha lẫn với khổ ải, kiêu sa lẫn với nhục nhằn, giống như mắt một con thú rừng bị trói. Tôi mù mờ nhận ra những gì ẩn náu bên trong nàng: tâm trí nàng bị loạn chuẩn, nàng không có chuẩn mực nào để dựa vào, vì thế nàng đã dựa vào Rôn. "Ít nhất thì em cũng đã thích được một thứ không dữ dằn góc cạnh", nàng nghĩ ngợi một lát rồi bảo. "Nó là cái gì anh biết không? Là Mặt Sữa của anh". Nàng nói rồi cười khúc khích, nhả khói thuốc quanh tôi, mùi khói thơm làm tôi ngây ngất. "Sao em mời mãi mà anh không hút?". "Không, anh không hút. Chỉ nhìn em hút ngày này qua ngày khác cũng đủ lắm rồi". "Có phải trong mắt anh, em nhiều cái hư lắm phải không? Em hư vầy mà sao anh cứ thương?". Tôi áp đầu tóc tơ mịn của Ngọc vào lồng ngực tôi: "Không biết". Ừ, tôi cũng không hiểu nữa. Mấy tháng trôi qua, ngày nào cũng ở bên Ngọc, niềm hưng phấn như từ nàng ngấm vào tôi. Tôi chợt nhận ra có những ngày tôi chỉ ăn một bữa mà không hề thấy đói, không hề thấy mệt, chỉ nhìn thấy Ngọc, ngửi mùi khói thuốc quanh nàng là tim tôi nhảy múa như ngày hội.
Nhưng sau ba tháng, sự hưng phấn trong tôi bỗng biến dạng. Tôi chớm cảm thấy sự nô dịch vô hình mà nàng tròng lên cổ tôi. Đúng vào thời điểm đó, một hôm ba tôi bỗng có một buổi tối rảnh rang, phòng mạch của ông hôm đó không hiểu vì sao vắng khách. Một sự việc có vẻ rất đơn giản và nhỏ nhặt thế mà đã tác động rất lớn đến cả đời tôi: hôm đó tình cờ cũng là một buổi tối hiếm hoi tôi có mặt ở nhà. Ba tôi phát hiện ra hai bàn tay tôi một bên ướt đẫm mồ hôi còn một bên khô ráo. "Con có dùng ma túy không?". Những chuyện xảy ra sau đó chẳng có gì đáng nhắc lại. Đó là chuỗi ngày khủng khiếp nhất của tôi. May mà tôi chỉ bị nhốt trong nhà chứ không phải vào trại cai nghiện. Dù ở đâu thì đấy cũng là những tháng ngày đày ải, thì ra lâu nay thân thể tôi đã trở nên trống rỗng. Những làn khói nàng thổi vào tôi đã tràn vào trong khoảng trống đó đầy ắp, giờ đây không có nữa, cơ thể tôi yếu ớt lạ kỳ, không còn sức sống. Tưởng chừng chỉ một cái búng nhỏ, là toàn thân tôi vỡ tan. Khi tôi bình phục, ba tôi vẫn chưa yên tâm, bắt tôi phải đi thật xa. Ngày tôi sắp đi, bỗng mẹ tôi bảo có người muốn gặp. Bỗng nhiên, tim tôi đập thình thình, rất có thể đấy là Rôn. Nhưng không phải Rôn mà là Ngọc. Nàng ngồi trong phòng khách, thanh tú, cao sang và vẫn cái vẻ dễ vỡ như ngày nào. "Đi một vòng lần cuối đi anh". Tôi lạnh người, sợ hãi, không muốn một lần nữa rơi vào sự nô dịch. Ngọc nhìn tôi khẩn khoản: - Đi đi, em hứa hôm nay em không hút.
Tôi rùng mình. Ba tôi thường bảo: Con là đồ dại gái. Hình như đúng thế thật. Giờ đây, tôi không còn làm nô lệ cho chất khói mỏng mảnh ấy. Nhưng sức hút tỏa ra từ Ngọc là sức hút của chính nàng. Tôi và Ngọc thuê một chiếc thuyền thiên nga, đạp ra giữa sông. Ngọc dựa đầu vào vai tôi. "Mặt Sữa, anh đi Singapore phải không?". "Ừ, anh đi học". Ngọc thở dài: "Lại thêm một người bỏ đi". Bỗng nhiên tôi áy náy khôn cùng. "Khi nào về...". Tôi rất muốn nói: "Khi nào về sẽ gặp em", nhưng kịp dừng lại. Ngọc hiểu, nàng bảo: - Không cần, chừng anh về thì có thể em đã sang cùng mẹ rồi. Sang bên ấy em sẽ cai, nghe nói bên ấy cai không phải chịu đau đớn. Nàng cười như biết lỗi: "Em sợ đau lắm. Chỉ vì sợ đau mà em ra nông nỗi này. Anh biết không, trong đời có những lúc toàn thân như bị đè dưới nghìn cân đá. Lúc đó mình có thể làm bất cứ điều gì... Biết hít là chết nhưng cũng còn lâu mới chết, còn hơn là đứt phựt dây thần kinh chết ngay".
Tôi lặng yên, một lần nữa áp mái tóc tơ mịn của nàng vào ngực tôi. Tôi biết mình cũng như tất cả những thằng cùng cảnh ngộ đã bị nàng thu hút về ngôi nhà đó - ngôi nhà mà Rôn ngự trị, nơi hắn dùng nàng như một con mồi để bắt giữ những gã trai mới lớn về cho hắn ôm ấp và mớm cho chất bột trắng. Bao giờ thì Ngọc mới thoát khỏi sợi dây thòng lọng của Rôn? Biết bao giờ tôi mới đủ sức mạnh của một người trưởng thành để nâng đỡ được nàng? Tôi nhớ lại khuôn mặt của Rôn khi lần đầu mới gặp, chợt nhớ lại mình đã đọc ở nơi nào đó: người ta cứ tưởng tượng ra những tội phạm với bộ mặt xấu xí, nhưng thật ra đa số những người phạm vào tội ác lại có khuôn mặt đẹp. Dưới chân Ngọc và tôi nước sông trong vắt, tung những cuộn bọt lăn tăn quanh bàn đạp nước. Ngọc rụt rè rút điếu thuốc, mắt nàng nhìn tôi với vẻ năn nỉ. Tôi chụp lấy bật lửa trong tay nàng, bỏ vào túi. "Em đã hứa với anh rồi mà". Ngọc thở dài: - Nhớ rồi, hôm nay em không hút, anh cất cái bật lửa ấy đi. Nhớ thỉnh thoảng xem chừng. Có thể khi nào mắt con nhân sư sáng rực lên, là em đã đi rồi đấy. Tôi gật đầu, tự nhủ: Khi tôi về, nếu Ngọc chưa ra khỏi ngôi nhà ấy, thì chính tôi sẽ dắt nàng ra. Tôi không muốn một mình thoát ra, bỏ mặc nàng.
Mấy năm sau quay về, tôi đi tìm ngôi nhà cũ. Nhà đã bị niêm phong. Rôn đã ngồi tù, mãi đến khi Rôn vào tù người ta mới biết y không phải là chủ ngôi nhà ấy. Chủ nhân ngôi nhà đang ở một thành phố lớn, ông ta sở hữu nhiều biệt thự rải rác trên cả nước, và cả một hòn đảo nhỏ ở Nha Trang. Khó mà truy ra được người ấy là ai, bởi ông chưa hề bước chân đến ngôi nhà mà Rôn cai quản. Bọn con trai đã tan tác hết. Người duy nhất tôi còn gặp lại là thằng Tín ke, vừa từ trại cai nghiện trở về. Tôi hỏi thăm: "Ngọc đi chưa?". "Rồi, hơn nửa năm, mày không được tin tức gì à?". Trên chóp đồi cao nhất trong nghĩa trang thành phố, tôi đặt hoa hồng đỏ trên mộ Ngọc. Trong tấm ảnh trên bia nàng vẫn thế, chiếc mũ bê-rê đội lệch trông thật bụi, bụi một cách rất tiểu thư. Tín ke bảo: "May cho mày. Không phải nhìn mặt Ngọc vào những ngày cuối. Nó không chịu nổi buồn nên chích nhiều quá, cả người teo quắt lại". Tôi rút bật lửa đốt những tờ giấy vàng cho Ngọc. Chiếc bật lửa lâu nay tôi vẫn ngắm nhìn nhưng chưa hề thấy đôi mắt nhân sư rực sáng, trái lại qua thời gian hai chấm lân tinh cứ phai dần và trở nên mờ đục. Có lẽ đây chỉ là một huyền thoại mà mẹ nàng đã để lại cho con trước lúc ra đi. . | |
| | | NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Wed Dec 25, 2019 10:35 pm | |
| . Thằng chồng Việt kiều của tôi - Vô Danh
Những ai phải trải qua cay đắng mới biết giá trị đích thực của cuộc sống. Tôi cũng vậy. Hạnh phúc, tiền bạc, danh vọng, và bộ mặt đã làm tôi như quay cuồng. Cũng chỉ vì “lấy chồng Việt Kiều” và “có rể Việt Kiều” đã làm cho “thằng chồng Việt Kiều” của tôi điêu đứng và tôi suýt bỏ rơi anh ta khi mới bắt đầu qua đây.
Có lẽ tôi quá cay đắng nhưng tôi đã hối hận rất nhiều. Tôi vốn ở Biên Hòa, được cho là xinh đẹp từ nhỏ. Tôi được gia đình cưng chiều nhưng không có hư đốn. Tôi vào được Đại Học Sư Phạm nghành Anh Văn và học xong. Trong thời gian làm kiếp sinh viên, gia đình tôi đi xuống và lam lũ. Tôi trở thành sinh viên nghèo phải bươn chãi kiếm sống vì gia đình tôi không thể chu cấp mọi chi phí. Ở xóm, có nhiều người lấy chồng Việt Kiều và có tiền xây nhà cao ráo. Ai cũng nói tôi có học và có sắc tại sao không kiếm được chồng Việt Kiều cho gia đình đỡ khổ. Cuộc sống khốn khổ như vậy khiến cho tôi nghĩ đến chuyện “lấy chồng Việt Kiều” để cưu mang gia đình. Tôi nghĩ đơn giản như vậy, chính vì đơn giản đó đã làm hại một người, đó là thằng chồng Việt Kiều của tôi.
Với ý nghĩ đơn giản, tưởng rằng ở nước ngoài ai cũng ăn sung mặc sướng dễ kiếm ra tiền. Tôi có đọc sách báo thì thu nhập trung bình hàng năm của người Mỹ là 24 ngàn đô-la. Nếu thằng chồng làm 24 ngàn đô-la thì mình xin 6-7 ngàn có sao đâu. Nhưng thánh thần ơi, đó là thu nhập, chưa tính thuế, tiền xăng, ăn uống, chi tiêu, nhà cửa, điện nước,… Cái ý nghĩ ngu xuẩn chỉ cần 6-7 ngàn mỗi năm đó lan truyền vào gia đình tôi và gia đình tôi tưởng bở và thật. Cũng chính vì tôi có sắc và có thân hình đẹp nên tôi kiếm được một thằng Việt Kiều hiền lành nhưng có chút khờ trong những Việt Kiều về thăm. Hắn hồi ở Việt Nam chỉ học tới lớp 9, sau đi làm phụ hồ, và theo gia đình đi Mỹ theo diện HO. Qua đó hắn chỉ biết đi làm. So về trình độ học vấn thì chênh lệch với tôi do đó khó nói chuyện. Tôi biết không hạp lắm nhưng giả nai để được đi Mỹ.
Tôi nhanh chóng trao sự trinh tiết cho hắn và bắt hắn phải chịu trách nhiệm và cưới. Hắn hứa cưới. Tôi ra giá là trước khi tôi qua Mỹ thì gia đình tôi cần 20 ngàn đô để xây nhà mua xe (vì nhà tôi ọp ẹp và không có xe gắn máy). Hắn trở lại Mỹ, và gởi tiền đều đều, hắn làm gì tôi không quan tâm vì tôi chẳng yêu, thấy tiền là tôi thích. Tôi cố gắng học cho xong 4 năm đại học để phòng khi không qua được Mỹ thì tôi có bằng cấp và dạy học Anh Văn cũng có tiền.
Khi nhà cửa tôi xây xong, xe có 2 chiếc thì hắn về. Trông hắn tiều tụy và ốm sau 2 năm và tôi cũng vừa tốt nghiệp Đại Học. Đám cưới tổ chức linh đình. Gia đình tôi nở mặt nở mày với hàng xóm. Trong khi chờ đợi qua Mỹ, tôi học thêm đủ thứ nghề từ thêu may đến vi tính, uốn tóc đến móng tay,… Hắn chu cấp vài trăm đô mỗi tháng. Khi đến Mỹ tôi thật sự thất vọng. Thằng chồng tôi ốm yếu và bịnh hoạn. Tôi biết sự thật là sau khi gặp tôi, hắn làm 2 việc để có tiền gởi theo yêu cầu tôi. Mỗi ngày hắn chỉ ngủ được 4 giờ. Cuối tuần làm thêm. Nhà thì ở nhà mướn chứ không như tôi nghĩ là nhà riêng có bãi cỏ đẹp. Xe hơi thì xe cà tàng cũ xì chứ không bóng lộn như tôi thấy ở tỉnh ủy tỉnh Đồng Nai. Tôi lúc đầu nghĩ rằng hắn lừa dối tôi để được tôi nên tôi giận quá bỏ hắn qua người dì. Hắn sụp đổ tinh thần và vào bịnh viện tôi chẳng cần quan tâm. Tôi luôn nghĩ cuộc sống của hắn ở Mỹ phải tốt, phải như thiên đường… Nào ngờ chỉ là dân lao động nghèo nàn không biết Anh Văn.
Dì tôi nói là nếu không trở lại sống với hắn thì về Việt Nam vì nếu tôi bỏ hắn thì tôi bị trục xuất. Dì tôi không dám chứa chấp tôi sợ liên lụy. Dì tôi cho tôi 10 ngày suy nghĩ. 10 ngày đó tôi tìm hiểu cuộc sống ở Mỹ. Tôi thấy ai cũng cố gắng đi làm để có tiền chứ không dễ hái ra tiền. Khác với ở Việt Nam là làm việc ở đây dù tiền ít vẫn không bị đói. Môi trường sống tốt hơn, học hành miễn phí, có biết tiếng Anh xin làm dễ hơn,.... Tôi nghĩ về thằng chồng tôi không yêu nhưng lấy chồng vì tiền. Tôi dần dần thấy tội nghiệp hắn. Vì mê sắc đẹp tôi mà hắn phải hao tổn sinh lực làm 2 việc để có hơn 24 ngàn đô-la gởi về cho tôi trong lúc bản thân hắn chẳng có gì. Tôi dần dần động lòng trắc ẩn thằng chồng không yêu. Tôi thấy tội nghiệp quá. Đã tốn sinh lực kiếm tiền cho tôi và sau đó bị tôi bỏ đi. Tôi ứa nước mắt ân hận.
Sau một tuần tôi trở lại và xin lỗi. Những giọt nước mắt hạnh phúc trong thân hình tiều tuỵ của hắn làm tôi thêm đau lòng. Tôi thề với Trời Phật tôi không bỏ hắn và sẽ lo cho hắn. Tôi dễ dàng kiếm việc và hắn nghỉ 3 tuần dưỡng sức vì mới ra viện. Tôi ráng bươn chãi thêm việc cuối tuần để hòng giúp hắn có tiền mua xe khác và cho tôi một chiếc xe cũ nào đó vì sống ở Mỹ thiếu xe không thể xin việc làm tốt hơn. Tôi giải thích cho gia đình tôi hiểu và tôi chỉ sẽ chu cấp 100 đô mỗi tháng mà thôi. Gia đình tôi dĩ nhiên không hiểu và giận tôi và nói rằng tôi đi Mỹ bị Mỹ hoá không biết lo cho gia đình. Tôi thấy 100 đô đủ rồi, gia đình tôi kiếm thêm chứ làm sao tôi phải nuôi chồng và nuôi 6 người bên Việt Nam.
Hắn từ từ hồi phục nhưng do lao lực quá nên lúc nào cũng ốm ốm và không có sung sức. Cuộc sống tình dục vợ chồng rất thưa thớt vì hắn yếu sức. Tôi muốn có con với hắn để hắn yên lòng vì thế tôi và hắn phải nhịn 6 tháng để hòng hắn có đủ sức lực theo lời bác sĩ. Trời Phật thương tôi và tôi có thai. Hắn hạnh phúc và sức khoẻ dần dần tốt hơn. Do có vốn tiếng Anh, tôi có việc trong ngân hàng và lương khá. Hắn chỉ đi làm việc nhẹ và tôi gánh vác mọi thứ. Tôi chỉ mong hắn khoẻ mạnh trở lại chứ trong gia đình ai đi làm chính cũng vậy thôi. Con tôi ra đời khoẻ mạnh, tôi mừng khôn xiết, người mừng vui hơn tôi là hắn.
Giờ gia đình tôi ổn định. Tôi làm việc có lương gấp 3 lần chồng vì chồng chỉ lao động bình thường và khó lòng vươn lên vì trình độ bị giới hạn. Tôi dần dần có được hạnh phúc gia đình, tình cảm vợ chồng, cũng như được thoả mãn tình dục do chồng tôi hồi phục được sức khoẻ. Tôi đã sai và sửa sai. Hy vọng các chị muốn lấy chồng Việt Kiều hiểu rõ hoàn cảnh của ông chồng tương lai để tránh nhiều chuyện đau lòng nơi xứ người. . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Thu Jan 02, 2020 9:30 am | |
| .
Tài đánh hơi của chó - M. Zoshenko
Lái buôn Bápkin bị "thó" mất cái áo lông gấu trúc. Ông ta tỏ ra rất tức giận: - Cái áo lông còn mới ơi là mới. Tiếc thế cơ chứ. Thực ra không phải là tiếc tiền, nhưng tôi mà bắt được đứa ăn trộm ấy à, tôi sẽ nhổ vào cái bản mặt của nó. Bápkin đề nghị cảnh sát cho một con chó đặc nhiệm đi truy lùng dấu vết của kẻ cắp. Một người đàn ông đội mũ cát két, mặc xà cạp dẫn một con chó đến. Trông nó thật dữ tợn, lông mầu nâu xỉn, cái mặt nhọn hoắt trông không có cảm tình chút nào.
Người đàn ông đưa con chó đến gần cửa xuỵt xuỵt mấy tiếng và bỏ đi chỗ khác. Con chó đánh hơi trong không khí, đảo mắt nhìn khắp lượt mọi người, lúc này đám đông đã bu kín quanh nhà Bápkin. Bỗng nó lao tới chỗ bà Phêka ở nhà số 5, đi quanh chân bà ta và hít gấu váy. Bà Phêka chạy thục mạng con chó đuổi theo và nó tóm được gấu váy của bà ta nhất định không chịu buông tha. Bà Phêka liền qùy xuống dưới đất trước mặt ông cảnh sát. - Vâng tôi xin nhận lỗi, tôi có tội - tất cả chỉ có 5 xô men chua và dụng cụ để làm bia lậu, tất cả ở trong buồng tắm ấy ạ. Hãy dẫn tôi đến đồn cảnh sát đi. Đám đông ồ lên: - Thế còn áo lông thì sao? - Áo lông nào? Tôi không biết áo lông áo liếc gì cả. Tội của tôi tôi nhận rồi. Hay xử tội tôi đi, đừng hỏi lằng nhằng nữa. Người ta đưa bà Phêka đi. Người đội mũ cát két lại xuỵt con chó đi tìm tiếp. Con chó hít hít trong không khí, mắt đảo xung quanh, rồi nó tiến gần đến chỗ ông trưởng khu phố. Ông này mặt mày tái dại, gục xuống đất. - Hãy bắt tôi đi, hãy trói tôi đi. Tôi đã thu tiền điện nước của mọi người trong khu phố nhiều gấp hai lần và đem đi đánh bạc hết rồi. Và tất nhiên là tất cả đổ xô vào cấu xé ông trưởng khu phố rồi trói nghiến ông ta lại. Trong lúc đó con chó hung hãn kia lại tiến về phía người đàn ông sống ở nhà số 7 và cắn gấu quần ông ta, Người đàn ông tái mét mặt, người rũ xuống như một miếng giẻ rách: - Tôi có lỗi. Thực tình tôi không phải là người xấu đâu, chỉ vì sợ gian khổ nên tôi đã sửa lại ngày sinh tháng đẻ để khỏi phải ra mặt trận - hu hu hu. Hãy bắt tôi đi!
Đám đông nhốn nháo, không hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra. "Con chó này sao mà tài thế không biết?". Mọi người thầm nghĩ. Lái buôn Bápkin chớp mắt lia lịa, nhìn quanh một lúc rồi rút tiền ra đưa cho cảnh sát: - Ông hay mang con chó của ông đi đi. Thôi đành mất cái áo lông ấy còn hơn. Bápkin nói chưa hết câu thì con chó đã xồ đến bên cạnh và sủa ầm lên. Bápkin định bỏ chạy nhưng con chó đã đớp được vạt áo của ông ta, lôi ngược ông ta lại. Lái buôn Bápkin lắp bắp, mặt tái nhợt: - Vâng thưa ông cảnh sát, quả thật tôi là kẻ khốn kiếp, cái áo lông gấu ấy không phải là của tôi, tôi đã lấy trộm của thằng em trai. Hãy tha cho tôi với! Đám đông lại được một phen nháo nhác. Trong lúc ấy con chó tai hại kia kịp tóm thêm được hai, ba người nữa. Những người này cũng đành thú nhận những tội lỗi của mình. Người thì ăn cắp tiền, người thì đánh vợ bằng bàn là, người thì ăn của đút lót...
Đến lúc này thì đám đông tản đi đâu hết chỉ còn lại người đàn ông và con chó. Bỗng nó lại sủa vang và cắn đứt gấu quần ông chủ. Ông này liền qùy thụp xuống trước mặt con chó và vừa nói vừa khóc: - Hãy cắn xé tao đi, tao là kẻ đốn mạt nhất. Mày biết không, người ta cấp cho tao 3 đồng vàng mỗi tháng để mua thức ăn cho mày, nhưng đã từ lâu rồi mỗi tháng tao chỉ mua có một đồng thôi, hai đồng vàng còn lại thì tao thủ túi và đánh bạc hết rồi.
Chuyện gì xảy ra sau đó thì tôi không được rõ. Tốt nhất là nên tránh xa những điều tội lỗi. . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Mon Jan 06, 2020 9:08 am | |
| .
Thung Lũng Tình Yêu - Võ Anh Cương
Không biết ai cho địa chỉ của tôi mà anh tìm đúng phóc nhà tôi khi vừa về nước. Trông anh trẻ hơn tuổi sáu mươi của mình. Tôi ngắm anh trong chiếc quần jean, chân mang giầy thể thao, áo phông bỏ thùng. Còn anh thì nhìn tôi tủm tỉm cười. Anh nói: - Trông cậu cũng vậy, không khác ngày trước mấy, có điều mập hơn một chút! Tôi mời anh vào nhà, chưa vội ngồi ngay, anh nhìn quanh quẩn phòng khách rồi hỏi: - Vậy chớ nhà cậu không treo ảnh gia đình hay bạn bè à? Tôi trả lời trước kia em có treo nhưng năm rồi quét sơn lại em cất mấy tấm hình vào tủ không treo nữa. Anh hỏi sao vậy, treo hình gia đình mình cũng là một nét đẹp của người Đà Lạt mà, sao cậu lại cất đi, tiếc thật. Anh chậm rãi ngồi xuống bộ sa lông, tay anh mân mê tách trà nóng tôi vừa rót, anh nhấp một ngụm nhỏ rồi nói: - Tôi có đem cho cậu một chút quà, để trong một cái túi xách nhưng xuống phi trường lại bị thất lạc mất, về đến mấy ngày mà vẫn không nghe hãng hàng không thông báo gì cả, cậu thông cảm. Tôi nói anh về thăm quê là quý rồi còn quà cáp làm gì, của một đồng công một lượng. Tôi hỏi tiếp anh về được bao lâu, anh thấy quê mình giờ ra sao? Anh trả lời cậu cứ coi tôi như người xa lạ, cứ hỏi y như một công thức vậy, sao lại thế? Tôi ngạc nhiên anh ơi, ai về lại quê hương đều được người ta hỏi vậy mà, đâu riêng gì em? Anh cười, cậu biết không bên đó tôi tìm được hãng truyền hình có kênh VTV4, tôi không lạ thời sự trong nước đâu. VTV4 cũng chiếu cảnh Đà Lạt hoài, nhất là mấy kỳ Festival Hoa Đà Lạt, chà coi hoành tráng dữ. Mà thôi, tôi muốn rủ cậu đi chơi với tôi một chút được không? Tôi nói ôkê, anh chờ em xíu, em thay quần áo, anh em mình đi liền.
Con đường Thánh Mẫu trải bê tông nhựa nóng vòng vèo đưa tôi và anh đến Thung lũng Tình yêu. Anh cứ đòi đi chơi Thung lũng Tình yêu trước, các chỗ khác đi sau hoặc không đi cũng được, nhứt định phải đi Thung lũng Tình yêu thôi cậu. Tôi mua 2 chiếc vé, anh theo tôi đi qua cánh cổng và vào khu du lịch. Anh ngắm những loài hoa trồng trong những tiểu cảnh, anh nói ở Chicago hoa trên phố nhiều và đẹp hơn ở đây, họ trồng cũng nghệ thuật lắm nhưng hoa ở bên nhà thân quen hơn. Tôi hỏi thân quen là sao anh? Anh đáp như là của mình vậy mà, tôi ngắm hoa không thấy xa lạ, còn bên kia hoa đẹp đó nhưng khi nhìn tôi thấy cứ như người dưng! Về lại Đà Lạt, anh nói thêm, tôi muốn cậu chỉ cho tôi vài loài hoa dại được không? Tôi nói em cũng biết vài loài hoa dại tỷ như Bồ công anh. Anh ngắt lời hoa Bồ công anh màu vàng phải không, tôi biết hoa này, nhưng tôi muốn cậu tìm cho tôi mấy loài hoa không tên kia. Tôi ngạc nhiên hoa không tên ở Đà Lạt cũng nhiều nhưng anh muốn biết loài hoa nào? Anh kể “ngày trước, tôi hay lang thang trên đồi cỏ bằng chiếc xe 67, lúc mỏi tay lái tôi tắt máy ngồi xuống bãi cỏ xanh, bên dưới là Thung lũng Tình yêu. Cậu biết không tôi thấy nhiều loài hoa dại mọc rải rác trên đồi. Có một loài hoa màu vàng, cánh hoa chỉ nhỏ bằng móng tay út trẻ con, tôi hỏi một cậu chăn bò đi ngang qua đó là loài hoa gì? Cậu nhỏ nói chú không biết sao, cây này có củ ăn được nó dẻo lắm, tụi cháu kêu là củ dẻo. Tôi chỉ một loại hoa khác, màu trắng, thằng nhỏ trả lời chú nhổ lên đi củ này ăn cũng được nó giống như củ sắn vậy. Tôi nhổ cây hoa lên, quả vậy củ này ăn hơi giống củ sắn, nhưng nó nhỏ chỉ bằng hột đậu phụng. Thằng nhỏ nói chú coi, nó giống hột mưa đá, tụi cháu kêu là cây mưa đá. Còn chú thấy cây ăn ruồi không? Thằng nhỏ chỉ vào một cây, hoa của nó tựa như cái lạp xưởng, màu đỏ có nắp đậy. Thì ra là cây ăn thịt. Tôi nhìn vào bên trong thấy một số bộ phận của ruồi và kiến đang bị tiêu hóa”. Anh tiếp: - Đó, tôi muốn hỏi cậu mấy loại hoa đó? Cũng là người Đà Lạt, nhưng tôi chịu chết không biết mấy thứ hoa lạ như anh kể. Anh và tôi đi lên đồi rồi theo con dốc xuống hồ, vừa đi chúng tôi vừa nhẩn nha ngắm cảnh, thỉnh thoảng anh lại bình luận vài câu. Đến cửa đập nước, hồ này nguyên là một con suối bị chận lại, nước dâng lên thành một cái hồ, anh ngừng chân: - Tôi e cậu lầm mất rồi, đây là hồ Đa Thiện, còn Thung lũng Tình yêu bên kia kìa!
Tôi giải thích anh nói đúng, bây giờ hồ Đa Thiện nhập vào Thung lũng Tình yêu rồi, người ta gọi chung khu vực này là Thung lũng Tình yêu. Anh ngỏ lời muốn tìm lại Thung lũng Tình yêu ngày xưa kia. Tôi ngẫm nghĩ, muốn vậy anh và em phải qua Đất mới, mà chỗ đó giờ người ta làm vườn cả rồi anh ơi. Anh ngồi xuống bãi cỏ xanh. “Hồi đó chiều thứ bảy tôi thường ra Thung lũng Tình yêu chơi. Tôi dựng xe trên đồi và đi bộ xuống Thung lũng. Tôi còn nhớ dưới thung lũng có một con suối nước trong veo thấy cả mấy con cá lòng tong đang bơi. Lau sậy mọc ken dầy ở một vài đoạn, trên bờ là những bãi cỏ xanh, trên đồi thông vi vu, khung cảnh hữu tình lắm….”. Tôi hỏi ngang anh đi một mình hay hai mình hả? Anh cười: - Tôi đi chơi với bồ, ai lại đi một mình ra Thung lũng Tình yêu bao giờ, mà thôi cậu để tôi kể tiếp cho cậu nghe. … Bữa đó tôi dựng chiếc 67 trên đồi khóa cẩn thận rồi dìu Hương đi xuống Thung lũng. Hương người Sài Gòn lên đây trọ nhà người bà con đi học, em học trường nữ trung học Bùi Thị Xuân, còn tôi học trường nam trung học Trần Hưng Đạo. Chiều thứ bảy Hương mới được phép ra ngoài chơi. Tôi hay đưa Hương đi chơi và chở em về tận nhà trước bữa cơm chiều. Bấy giờ tôi mười chín tuổi, Hương thua tôi hai tuổi. Hai đứa tôi quen nhau từ năm tôi vào lớp đệ tam, tôi tình cờ gặp Hương tại nhà một người bạn. Đó là mối tình đầu của tôi và cũng là cuối cùng. Cậu ngạc nhiên ư? Bên Mỹ tôi cũng có bạn gái nhưng chỉ là bạn thôi, đến giờ tôi vẫn sống độc thân, ráng đi làm thêm mấy năm nữa rồi về hưu, chắc là lại nhờ cậu kiếm cho tôi một căn nhà nhỏ để tôi có chốn đi về.
Anh cười héo hắt nói tiếp “Cóc chết 3 năm quy đầu về núi, ông bà ta nói cấm có sai cậu à?”. Anh im lặng một chút, bỗng đâu tiếng chim hót véo von vang lên, một đôi chim te te tờ huýt vừa bay vừa hót. Anh nói tiếp, tôi kể đến đâu rồi nhỉ? Phải, bữa đó tôi dẫn Hương ra Thung lũng Tình yêu chơi, buổi chiều nắng vàng, trời trong mây xanh mà lại vắng người, rất hợp ý tôi. Cậu biết tôi rắp tâm làm điều gì không? Ai mà biết được, tôi nghĩ, trong đầu tôi xuất hiện một cảnh phong tình. Chắc là ổng lại rắp tâm làm hại đời cô thiếu nữ tên Hương chăng? Trong đầu tôi xuất hiện liền tù tì mấy tình huống. Chẳng là tôi ám ảnh bởi biết bao chuyện xấu xa diễn ra. Báo chí nói đầy, các ông nhà báo kể chi tiết những chuyện hảm hại đời con gái người ta cứ như là đang chứng kiến vậy. Chớp mắt thôi mà sao tôi lại nghĩ được nhiều chuyện đến vậy chứ? Chắc anh cũng vậy, chẳng là anh đang rắp tâm đó sao? Anh hắng giọng. “Tôi rắp tâm tỏ tình với Hương bên bờ suối, chỗ con suối lượn lờ hình chữ S, chúng tôi gọi là hồ chữ S”. Chỉ vậy thôi sao, tôi nghĩ, có ghê gớm gì đâu, nhưng tôi không lộ ra mặt. Anh tiếp “tôi mất đến hai năm trời để nghiền ngẫm ba chữ thôi mà không nói được, chiều nay nhất định tôi phải nói với Hương, tôi nghĩ như vậy. Khi hai đứa ngồi xuống bờ suối, Hương đung đưa chân nghịch nước, nước bắn tung tóe ướt cả áo tôi. Tôi hít một hơi dài, nắm bàn tay em rồi nói: - Hương, anh muốn nói với em một điều? Hương ngước mắt nhìn tôi: - Anh nói đi, em nghe? Tôi nói: - Anh… anh yêu em! Hương cười: - Em tưởng anh nói điều gì khác kia chứ chuyện ấy em biết từ lâu rồi! Tôi sửng sốt nhìn Hương không nói tiếp được một tiếng nào. Hương lại cười, nụ cười của em làm tôi chết mệt. Em nói: - Em đọc trong mắt anh điều đó từ lâu rồi, anh không tin sao? - Không, anh tin chứ, có điều em… em có… Hương nghiêm mặt: - Em chưa biết, nhưng em đang chờ anh chứng tỏ tình cảm của mình đối với em! - Anh phải làm sao để em hiểu tình cảm anh dành cho em? Hương nói: - Em không biết!
Anh ngừng ngang câu chuyện đang kể. Nãy giờ tôi chú ý đến chuyện tình của anh, nó không nhạt phèo như cách vào chuyện. Cô Hương ấy cũng cá tính dữ, tôi nghĩ. Đề bài cô dành cho anh không hóc lắm nhưng chắc là phải có nhiều lời giải, tôi đâu biết được tính cách con người của cô Hương? Tôi giục: - Anh kể tiếp đi? “Cậu biết không, tôi dìu Hương lên đồi, chiếc 67 tôi khóa cẩn thận vậy mà không cánh mà bay. Tôi vừa tiếc của vừa bực tức và tội nghiệp Hương vì phải đi bộ về nhà, đâu ít gì gần bảy cây số! May mà tụi tôi vẫy được chiếc xe lam chạy từ Đa Thiện về phố. Xe ngừng ở bến đường Tăng Bạt Hỗ, tôi đưa Hương về nhà tận Xuân An cách bến chừng hơn cây số rồi lội bộ về nhà. Mới đi qua rạp Ngọc Hiệp, một toán cảnh sát áo trắng chặn tôi lại. Sau cái chào là màn hỏi giấy. Tôi làm gì có giấy Hoãn dịch nên méo mặt leo lên chiếc xe GMC chờ sẳn. Tụi nó tập trung đám thanh niên bị bắt lính ở một ngôi nhà to gần ngã ba chùa, đâu như trước kia là Hợp tác xã rau gì đó. Bọn cảnh sát phát cho mỗi người một ổ bánh mì và nói sáng mai sẽ thanh lọc, ai có giấy tờ gì thì nhắn người nhà mang xuống. Tôi nhìn ngang nhìn ngửa, cố tìm người quen qua cánh của chớp của ngôi nhà. Tin lành đồn xa, tin dữ cũng đồn xa, thân nhân của đám thanh niên bị bắt kéo đến tìm người nhà mình. Người thì đưa giấy tờ, người thì tiếp tế thức ăn hoặc đưa quần áo, chăn màn… May quá, tôi nhìn thấy chú Sáu bạn của cậu tôi, chắc chú cũng có con bị bắt như tôi vậy! Sau này nghĩ lại, nếu hôm đó tôi đừng gặp chú Sáu thì đời tôi có lẽ không phải lang bạc tận xứ người….” Tôi ngạc nhiên với lời tự sự của anh, định hỏi nhưng thôi. Đúng vậy, sau một chặp im lặng anh nói tiếp. “Tôi biết chắc mình dính chấu rồi, tôi 19 tuổi đang học lớp 12 thì ai cấp cho tôi Giấy Hoãn dịch chứ? Nếu chỉ có cái căn cước, tôi sẽ bị hốt xuống Trung tâm Huấn luyện Quang Trung ở Hóc Môn, 3 tháng sau thì ra trường tôi sẽ bị tống ra sư đoàn 22, 23 gì đó. Cậu à, tôi biết làm thằng lính khổ như chó, nên khi gặp chú Sáu tôi mừng lắm, tôi nhắn chú nói mẹ tôi tìm cho tôi cái bằng Tú tài 1 để mai tụi nó thanh lọc, tôi đưa ra chắc là được đi học Thủ Đức. Ở Thủ Đức tôi gởi thư cho Hương có đề địa chỉ KBC 31… đàng hoàng, vậy mà không nhận được hồi âm của em. Sáu tháng ở quân trường, tôi ra trường với cái lon chuẩn úy rồi bị đưa ra sư đoàn 23. Cậu phải biết, vùng Bình Định nơi tôi đóng quân chiến tranh ác liệt lắm, tôi chẳng muốn đánh đấm chút nào, nhưng guồng máy chiến tranh nó lôi nghiến tôi đi. Tôi cũng bị thương vài lần may mà nhẹ, còn mạng mang về. Mấy năm ở lính tôi biên thư cho Hương nhưng vẫn biệt vô âm tín. Hết chiến tranh tôi rã ngũ chạy về Đà Lạt, ra trình diện rồi đi Sông Mao học tập mất mấy năm. Cậu biết rồi đấy, những năm đó khó khăn quá, tôi không có một chút tin tức nào của Hương. Ra trại, tôi về nhà, làm nghề tự do. Tôi mua mấy cái tăng phô đèn nê ông đôi của Mỹ tháo ra mang xuống Nha Trang bán cho mấy tàu đi đánh cá đêm. Cứ vậy tôi sống cũng không đến nỗi nào. Hàng tháng tôi lên Đồn Công an trình diện, may gặp được ông Trưởng đồn thông cảm không làm khó. Rồi có chương trình HO, tôi đăng ký đi HO5, trước khi đi tôi có qua nhà chào cậu, nhưng cậu lại đang đi học ở Sài Gòn. Qua Mỹ, tôi đi học lại lấy được cái bằng kỹ sư cơ khí rồi đi làm đến giờ. Lần lữa mãi, năm nay tôi mới về…”.
Anh ngừng ngang câu chuyện, tôi cũng im lặng và nhớ lại cái lần quen anh cách đây cũng rất lâu. Chiều hôm đó tôi đang trên đường về, tôi đi băng ngang con đường xuyên mả thánh số 4 gần ấp Hà Đông. Tôi dắt chiếc xe đạp cà tàng vừa đi vừa dòm hai bên đường. Trời mới mưa xong, cơn mưa đầu mùa xua đi bao nóng nực. Tôi không chú ý đến cái chuyện mát mẻ của không khí đầy hơi nước chung quanh, tôi chú ý đến… những con bọ rầy. Đầu mùa mưa, bọ rầy sinh sôi rất nhiều, chiều chiều chúng ưa bám vào những ngọn thông non để kiếm ăn. Kia rồi, một cây thông non bị bọ rầy bu kín. Tôi vứt chiếc xe đạp mặc cho nó ngã chỏng chơ, tôi bắt bọ rầy bỏ vào chiếc túi ny lông tái sinh màu xám nhờ nhờ tôi mang theo và cất trong cái túi vải treo trên đòn dông xe đạp. Tôi mê mải bắt bọ rầy, hết cây thông ngày đến cây thông khác, hết chỗ nhốt bọ rầy trong túi ny lông, tôi không ngần ngại mở nắp lon ghi gô đựng cơm trưa ra bỏ bọ rầy vào. Khi tôi ngẩng lên tôi thấy anh. Anh cười làm quen: - Cậu bắt bọ rầy làm gì vậy? Tôi cũng cười với anh, tôi nói “em đem thứ này về nuôi vịt”. Tôi giải thích thêm, bầy vịt của em tăng gia khoảng chừng ba chục con, thứ này đem về cho vịt ăn, chúng mau lớn lắm. Anh biết không, em còn đi đào trùn cho vịt ăn nữa đó, đầu mùa mưa, trùn nhiều lắm. Vui miệng tôi nói “vịt cũng như người vậy anh à, lâu lâu cũng phải có chất tanh chúng mới lớn. Thỉnh thoảng chừng hai ba tuần, em mần một con để cải thiện”. Anh nói vậy sao, cậu có vịt ăn là nhất rồi. Tôi cười lặng lẽ không đáp, không lẽ tôi lại kể anh nghe cùng lắm tôi chỉ gặm được cặp chân, còn phần thịt lóc ra băm nhỏ dành cho thằng con ăn dần, nó cần thịt để lớn chứ trông vào 3 lạng thịt hàng tháng của tôi mang về sao được? Anh nói hay là cậu ghé nhà tôi, nhà tôi có cái hồ đang bỏ hoang cỏ mọc đầy nhưng rất nhiều ốc, cậu bắt về cho vịt ăn, mà món ốc bươu luộc cũng ngon lắm đó. Câu chuyện tôi quen anh chỉ có vậy, tôi đến nhà anh bắt ốc về nuôi vịt, có một lần anh và tôi cũng lựa những con ốc to hấp xả lai rai với nhau ly rượu khoai mì. Rượu nấu từ khoai mì nặng và uống xong thì nhức đầu kinh khủng, nên tôi không uống thêm với anh lần nào nữa, vậy là bầy vịt được hưởng lợi. Quả chúng có chất tanh nên mau lớn lắm, thằng con tôi cũng vậy, nó phổng phao nhờ bầy vịt tôi nuôi chứ cái thứ sữa con chim toàn đường là đường là tiêu chuẩn của trẻ con đâu làm cho nó lớn? Mới đó mà đã mấy chục năm, thằng con tôi đã vào đại học, ra trường, đi làm, có vợ và sắp có con. Vài năm nữa tôi cũng về hưu, vui tuổi già. Già rồi sao, nhanh quá vậy, đôi khi tôi tự hỏi mình như vậy. Tôi nhớ, có lần tôi ghé thăm anh, nói thăm cho ra vẻ chứ tôi muốn bắt ốc là chính. Tôi còn mang vài cái trúm trong đó đựng trùn thối, biết đâu trong cái hồ hoang của anh có lươn? Tôi tìm quanh không thấy anh đâu, cửa nhà không khóa, gọi anh không trả lời. Tôi đẩy cửa bước vào nhà. Anh nằm trên bộ phản, mắt nhắm nghiền. Tôi lay gọi, anh không trả lời, người anh lạnh ngắt. Anh bị trúng gió. Tôi lục tủ tìm chai dầu gió đánh gió cho anh. Lưng anh bầm đen, anh mở mắt nói “cám ơn cậu”. Tôi nấu cho anh nồi cháo hành, hối anh ăn nóng cho ra mồ hôi mau hết bệnh. Nhìn anh ăn nhỏ nhẻ như một đứa trẻ con tôi phì cười. Anh hỏi sao cậu lại cười. Tôi nói lý do, anh trả lời lắm khi tôi muốn mình là trẻ con mà cũng không được, trẻ con là khoảng thời gian sung sướng nhất đời đó cậu.
Vậy mà mấy chục năm trôi qua, giờ anh về, anh và tôi đã qua cái tuổi tri thiên mệnh. Tôi hơn anh một chút, tôi có một gia đình, không giầu gì nhưng cũng không đến nỗi. Còn anh, trơ trọi một mình, nghĩ cũng tội. Chúng tôi ra về, khi đi ngang qua cổng khu du lịch, tôi gặp chị Sáu, chị họ tôi đang bán củ bông huệ. Tôi chào chị, chị hỏi: - Cậu đi đâu vậy, chà sung sướng dữ ra khu du lịch chơi à? Tôi nói đâu có em đưa ông bạn bên Mỹ về thăm lại chốn xưa thôi chớ mấy khi mình ghé vô khu du lịch hả chị, Bụt chùa nhà không thiêng mà! Chị chép miệng: - Cậu nói đúng ít ai ở thành phố du lịch mà đi chơi mấy khu du lịch, toàn người ở xa tới không hà! Lúc đó anh đang hỏi mua cái mũ cao bồi bằng da, hình như anh thích thứ mũ này lắm. Lúc nãy anh mượn mũ của tay cho thuê ngựa rồi hối tôi chụp cho anh tấm hình. Giờ thì anh mua mũ chắc là đem về Mỹ. Anh đang chọn màu, anh lưỡng lự giữa màu đen và màu cam. Anh gọi tôi cậu ơi màu nào hợp với tôi? Bất ngờ anh buông cái mũ, anh hối hả bước tới chỗ tôi: - Hương, Hương…. Anh nhìn sững, bà chị Sáu của tôi mặt như hóa đá. Chị Sáu cũng nhìn lại anh, đôi mắt chị long lanh, long lanh… Trong một cái chớp mắt, tôi vụt hiểu tất cả. Anh và chị Hương, câu chuyện trùng phùng của hai người yêu nhau xưa như trái đất! Tôi để mặc hai người, tôi ra về trước, sự có mặt của tôi giờ vô duyên quá. Bà chị Sáu của tôi chồng chết từ lâu, không con tự kiếm sống bằng nghề buôn củ bông ngoài cổng Thung lũng Tình yêu. Chị chắp nối lại với anh cũng là chuyện bình thường. Còn anh trở về Mỹ một mình cũng là chuyện bình thường hay anh có lấy chị Hương cũng là chuyện bình thường. Bình thường, bình thường… vừa chạy xe tôi nghĩ bình thường về họ như vậy đấy.
Vậy mà chuyện của họ không bình thường chút nào. Anh không về Mỹ, không lấy chị Sáu, anh chết vì một cơn nhồi máu cơ tim! Anh rời xa Đà Lạt từ lâu, lang bạt kỳ hồ rồi về chết tại nơi anh sinh ra đúng như câu nói gở của anh “Cóc chết ba năm…”. Hôm mở cửa mả cho anh, chỉ có tôi với chị Sáu. Ngồi bên đống lửa trong chiều tà ở nghĩa trang Thánh Mẫu, chị Sáu và tôi chắc là ủ dột lắm. Bây giờ chị mới hỏi tôi: - Em ơi, giờ mọi chuyện đã kết thúc, cái số chị vậy, không sống đời với ai được lâu, chị hỏi khi không phải, có phải thím không đưa thơ của anh cho chị? Tôi lặng lẽ gật đầu, tôi kể, mẹ em nói để cho con Hương nó học, yêu thương sớm không tốt. Mẹ đâu biết em cũng đang yêu, em rình mẹ đi vắng lấy thư anh viết cho chị ra đọc. Ban đầu chỉ là tò mò, sau em chép lại gần như nguyên văn thư của anh gởi chị. Thư tình anh viết hay quá, Hương cứ như mất hồn khi đọc thư tình em viết, cô ấy đâu biết nỗi nhớ nhung ấy là của anh gởi chị. Mà em cũng mới biết chuyện hôm rồi ở Thung lũng Tình yêu, em ân hận quá! Chị Sáu quay qua tôi nói: - Thôi cậu, cái số chị nó vậy mà, cậu chép thư tình của anh gởi cho mợ phải không? Rồi chị tiếp: - Cuối cùng bức thư cũng có người đọc, mà không phải chị. Bây giờ bọn nhỏ yêu nhau có viết thư tình không cậu? Làm sao tôi biết được, tôi đâu phải là “bọn nhỏ”. Câu hỏi của chị lọt thỏm vào cái không gian hoang hoải của buổi chiều tà.
7/6/2013 | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Wed Jan 22, 2020 9:46 am | |
| . Ký Ức Chiều Ba Mươi Tết - Ngưng Thu
Hôm nay, được tin bà vợ ông Bách vừa mới được đưa từ bệnh viện về nhà. Nghe nói, kỳ này chắc không qua khỏi. Vì hình như là bác sỹ chạy rồi. Mấy cụ trong xóm bảo nhau: - Đã ung thư rồi thì khó mà qua lắm! Đó là một người đàn bà mà tôi nhớ mãi trong đời.
Mẹ tôi vẫn ngồi đó, cái thớt vẫn còn nằm lọt trong cái trẹt, nom cũng cũ kỹ lắm rồi. Hai hàng nước mắt của mẹ cứ chảy dài xuống má. Tôi đứng nhìn mẹ mà không biết nói gì. Chỉ biết là thương mẹ lắm! Nhưng tính tình tôi, vốn hay rụt rè. Ít khi thể hiện tình cảm ra ngoài, bằng những cử chỉ, hành động mà chỉ biết im lặng quan sát - Lúc đó, nước mắt của mẹ cũng làm tôi rưng rưng. Sáng ba mươi tết, nhìn thấy sợi giây lạt treo cục thịt heo trên đầu bếp, mấy anh em tôi vui mừng đến sướng rơn cả người. Mẹ nói là không có tiền mua sắm quần áo Tết cho chúng tôi thì cũng... hơi buồn chút chút. Nhưng nỗi buồn đó cũng qua thật nhanh, khi biết là không có quần áo mới thì dù gì nhà mình cũng còn có thịt để ăn. Thằng em út tôi mới hai tuổi rưỡi, nhưng cũng rất khoái món thịt kho với trứng của bà mợ tôi. Mỗi khi cúng giỗ, cậu mợ thường mang sang cho nhà tôi một ít - Và thể nào mẹ tôi cũng để dành cho nó... Út được mẹ cưng ghê lắm. - Út oi mà! Mẹ hay nói thế mỗi lần ôm hôn Út.
Tháng Tết này, gà trong nhà tôi đẻ cũng được vài ba chục trứng. Nhưng mẹ đem bán hết - chỉ chừa lại cũng tròn mươi quả. Tưởng tượng tới món thịt kho trứng trong mấy ngày tết là mấy anh em tôi quên ngay mọi cái thiếu thốn khác mà cứ là... sướng rơn trong bụng. Ôi! cái mùi thịt, mẹ kho thì mới tuyệt làm sao! Chỉ nghĩ tới, tôi cũng đã chảy cả nuớc miếng. Trưa đến hơn đứng bóng mẹ mới xong việc chợ đò. Vừa gánh cái gánh về đến nhà là mẹ tay xắn áo, xắn quần lau dọn nhà cửa và làm đủ thứ việc. Ấy là ở nhà đã có mấy cha con dọn dẹp tổng vệ sinh nhà cửa, giặt mùng, giặt mền trước đó mấy hôm rồi. Vậy mà không biết việc đâu ra... mà mẹ cứ quần quật suốt. Cũng tới lúc, mẹ đem thịt ra chặt kho. Tôi đang ở ngoài vườn cùng các em tôi. Mấy đứa này đúng là… chỉ thích nghịch đất - mà cũng đúng thôi, con nhà nghèo như anh em chúng tôi có cái thứ trò chơi gì khác đâu. Không nghịch đất, em tôi chơi cái trò gì cơ chứ.
Có tiếng người gọi ngoài cổng... Mấy em tôi còn đang nghịch đất ngoài vườn. Tôi là chị lớn nên hay phụ mẹ lo la rầy, nhắc nhở và tắm rửa cho các em. Không biết mẹ và người đàn bà đó nói gì với nhau. Một lát sau, người đàn bà ấy đi ra và tay xách cái xâu thịt mà ba tôi treo trên bếp khi sáng. Tôi và các em tôi ngơ ngác không biết chuyện gì xảy ra với mẹ. Chỉ thấy mẹ ngồi đó, nước mắt đâu mà mẹ cứ tuôn ra và tuôn ra hoài thế… không biết! Các em tôi ngây thơ không hiểu gì. Đứa út thấy mẹ khóc nên cứ cuống quýt gọi : - Mẹ ơi! mẹ ơi!... Mẹ tôi ôm đứa Út vào lòng và không nói gì. Cứ thế mà nước mắt tuôn trào. Còn tôi thì cứ đứng ngây người ra đó và nước mắt cũng tuôn theo. Tuy không biết gì nhiều, nhưng tôi cũng lờ mờ đoán hiểu… có lẽ là bà ấy đến xiết nợ mẹ tôi. Làm ăn buôn bán quanh năm trên mảnh đất nghèo nàn này, mẹ nuôi chúng tôi lớn lên mỗi ngày như thế này cũng đã là quá vất vả. Năm hết tết đến, nợ nần chỗ thì khất được - chỗ thì không! Mẹ không oán trách người đàn bà ấy mà chỉ thương các con không còn thịt thà gì trong ngày Tết nữa…
Lúc đó, không có ba ở nhà. Ba vừa đi đâu đó. Hình như là có bác bên hàng xóm, gọi qua phụ bác làm tiệc Tất niên. Nhìn mẹ khóc, lòng tôi thật sự rất đau. Tôi không hiểu lắm chuyện người lớn nói gì với nhau. Nhưng lúc đó, tôi đã học lớp năm nên tôi cũng biết thương mẹ. Tôi hiểu lòng mẹ. Mẹ vất vả vì chúng tôi quá nhiều. Đời mẹ gian khổ, chẳng sao! Nhưng mẹ ước muốn cho con cái có miếng thịt trong ngày Tết mà cũng không thể. Mẹ ngồi yên trước cái trẹt cũ mà gương mặt buồn rười rượi. Tôi luôn để mắt tới mẹ. Gió từ cửa bếp thổi vào làm tóc mẹ bay phất phơ. Hơn bốn mươi tuổi mà hình như lúc này, tôi thấy tóc mẹ trắng đi rất nhiều. Nhìn mẹ ôm em Út tôi vào lòng, tôi thương em tôi quá và thương mẹ càng nhiều hơn. Một lát lâu sau đó, mẹ tôi vẫn chưa đứng dậy, cứ ngồi thừ ra trước tấm thớt không còn miếng thịt nữa. Trông mẹ già hẳn đi nhiều lắm. Lại có tiếng người đàn bà khi nãy, ở ngoài cửa trước. Chuyện gì nữa đây? Tôi lo lắng! Không biết bà ấy sẽ làm gì mẹ tôi nữa. Mẹ đã khóc nhiều rồi. Nhưng không, bà ấy đi xăm xăm vào nhà, rồi đi thẳng xuống bếp. Và khi tới gần cái trẹt vẫn còn đó của mẹ, bà thả cục thịt “cái bạch” xuống ngay tấm thớt gỗ. Bà nhìn mẹ tôi với vẻ hơi bực dọc một chút nhưng… trong ánh mắt bà ấy là cả một sự thương cảm, không nỡ tâm… Chắc là trên đường về, bà ấy đã suy nghĩ thế nào - rồi quay ngược trở lại nhà tôi. Mẹ tôi rối rít cảm ơn bà ấy. Nhưng bà không thèm nghe và cũng không nhìn mẹ mà cứ thế một mạch đi ra khỏi cửa. Mẹ ôm em tôi hôn liên tiếp mấy cái rồi lại ngồi chặt thịt tiếp. Mẹ vui, vì chúng tôi vẫn có thịt để ăn Tết. Nhưng trong ánh mắt xa xăm của mẹ, tôi nhìn thấy một nỗi buồn vời vợi…
Đám tang bà vợ ông Bách, cả tôi và ba tôi đều đến. Tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh của bà ấy - lúc xách xâu thịt đi ra khỏi bếp nhà tôi - hơn ba mươi lăm năm về trước. Nhưng mà sao, tôi không hề oán ghét bà, lúc đó cũng như bây giờ. Khi mà giờ đây, bà đã nằm yên bất động và chuẩn bị đi vào lòng đất! Tôi cũng đã thầm cảm ơn bà. Vì dù sao lúc đó, bà cũng đã quay trở lại nhà tôi với xâu thịt trên tay. Con người sống chết là thế đấy! Có những việc làm mà sau bao nhiêu năm người ta vẫn còn nhớ đến. Đó là ký ức mà trong đời tôi chẳng thể nào quên! Và có lẽ trong cuộc sống thường ngày, khi chứng kiến sự lớn lên và trưởng thành của chúng tôi, lòng bà không hề phải ray rứt - vì cảm thấy mình đã làm rất đúng.
Tôi đưa tay lên ngực mình và bắt đầu cầu nguyện. Tôi cầu cho bà ra đi được thanh thản! Gió mùa thu hiu hiu buồn và lòng tôi cũng man mác một nỗi buồn. Con người sống chết vô thường quá! Thế mới cần phải biết là: nên ăn ở với nhau như thế nào trên cõi đời này! . | |
| | | NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Sat Mar 21, 2020 10:32 pm | |
| .
Alzheimer với Mẹ cũng là một may mắn - Lê Xuân Mỹ
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng Năm 2019. Ông là anh cả trong 9 anh chị em, có người cha chết trong trại cải tạo Vĩnh Phú từ 1979, bà mẹ một mình lo cho các con. Ông qua Mỹ năm 1998 diện đoàn tụ ODP, hiện là một kỹ sư, làm việc tại Kia-Tencor San Jose, California. Bài viết mới được “Viết trong ngày sinh nhật 88 của Mẹ,” Tựa đề được trích từ lời kết của bài viết xúc động: “Căn bệnh Alzeithmer với mẹ cũng là một may mắn trong muôn vàn bất hạnh. Cái quên, cái lẫn sẽ làm mẹ có thể sống được với tôi, với con cháu thêm một thời gian.” (Việt Báo)
***
Đã từ lâu, mẹ không còn nhớ ngày sinh nhật của mình. Với căn bệnh Alzeithmer, thời gian và không gian chỉ là một khái niệm mơ hồ nào đó trong ký ức. Nỗi nhớ về những ngày tháng xa xưa đôi khi hiện lên rất rõ ràng nhưng ngày tháng hôm nay chỉ là đám mây mờ của sương khói. Mẹ có thể ngồi hàng giờ trước truyền hình để chỉ coi đài Mễ. Tiếng Mỹ hay tiếng Việt đều OK. Miễn là có hình ảnh chuyển động trước mặt. Gặp ai cũng tay bắt mặt mừng. Cũng thấy quen quen. Nhưng tên thì không bao giờ nhớ. Con cháu có đến thăm cũng chỉ cười vui năm ba phút rồi lại trở về chiếc sofa quen thuộc, lặng lẽ một mình. Vậy mà hay. Nếu trí nhớ còn minh mẫn, trong nỗi cô đơn, mất mát và hận thù, có lẽ bà sẽ không sống được đến ngày hôm nay. Tôi sống với mẹ trong hầu hết 65 năm của đời mình. Những năm tháng thanh bình hạnh phúc trước 75, những ngày đen tối sau mất nước, những năm tháng bên mẹ trên vùng đất tạm dung và những ngày mẹ đang mất dần ký ức. 9 anh em ai cũng thương mẹ. Không thể nói là mình thương mẹ nhất vì các em có lẽ sẽ có đứa thương mẹ hơn tôi. Nhưng chắc chắn một điều, để nói về mẹ, không ai hiểu mẹ hơn tôi, và chắc chắn không ai thương tôi bằng tình yêu của mẹ.
Mẹ là một người rất đặc biệt. Gia đình có 5 anh chị em. Người con trai bị Việt Minh giết chết từ nhỏ, chỉ còn lại 4 chị em gái. Mẹ là con út. Trong khi các bà chị hiền lành ít nói bao nhiêu, mẹ là người phải nói là cứng cỏi, lanh lợi và giỏi giang bấy nhiêu. Thuở nhỏ chuyên làm chim xanh, chuyên đi giao thơ tình cho các bà chị. Bà nào cũng lấy chồng có chức có quyền, có danh có phận, riêng mẹ tôi về làm vợ của ba tôi hồi đó chỉ là một công chức bưu điện bình thường. Mẹ là một người có đủ đức tính của một người phụ nữ Việt Nam thời xưa. Tam tòng, tứ đức. Nhưng không ai nói mẹ hiền. Trong nhà ai cũng sợ mẹ. Từ con cháu đến các chị. Mẹ thẳng tính, ăn to nói lớn. Nghĩ là nói không nể nang ai. Miễn sao phải thì thôi. Ba tôi sau này là một sĩ quan cảnh sát, nhưng tính tình hiền lành trái ngược hẵn với mẹ, nam tính cứng cỏi. Ba tôi chỉ lo việc sở, việc nhà toàn bộ một mình mẹ tôi quán xuyến. Anh em tôi lúc nhỏ phải nói là theo ba nhiều hơn theo mẹ. Xin gì ba cũng cho, năn nỉ một tí là ba xiu lòng ngày. Mẹ thì đừng hòng, cho thì cho ngay, còn đã không thì thôi. Tuyệt đối không được cải lại. Mẹ có một câu nói mà đến bây giờ tôi vẫn nhớ: “ Mẹ bảo đi đường tắt là đường tắt, đi đường cong là cong, không “on đơ” gì cả”. Đúng ra mẹ nên là chồng, ba là vợ thì đúng hơn. Sợ nhưng không ai ghét mẹ. Cứng cỏi, trực tính nhưng mẹ rất thương người, thương con thương cháu. Những người bà con nghèo khổ từ dưới quê lên chơi mẹ không một lời nặng nhẹ, luôn luôn đối xử hết lòng và vui vẻ. Biến cố Mậu Thân, gần 20 người hàng xóm chạy giặc từ Huế vào tá túc. Mẹ lo lắng chỗ ăn chỗ ở cả tháng trời. Không một lần chau mày. Tối các bà còn tụ lại thành các sòng tứ sắc, chơi đến khuya.
Không có mẹ, chắc chắn gia đình tôi không được như hôm nay. Ba tôi ngoài việc sở về nhà là bạn bè. Khi thì đánh bài chược, khi thì đánh tài bàn. Khi thì dẫn con cái đi chơi, khi thì đi đánh tennis. Mọi chuyện còn lại, sinh hoạt, nhà cửa, kiếm sống chỉ mình mẹ. Chạy ngược, chạy xuôi, hết buông cái này, bắt cái kia. Cái đồng lương sĩ quan cảnh sát hồi đó, chắc là không đủ cho một gia đình mười mấy miệng ăn. Ba hiền nhưng vô tâm đóng vai ông thiện, mẹ nam tính cứng cỏi “dữ dằn” đóng vai bà ác. Mẹ là vậy. Người chỉ biết cho và chưa bao giờ biết nhận. Vợ tôi giống bà. Từ khi theo chồng, vui với cái vui của chồng, bạn bè của mẹ thì ít mà bạn của ba thì nhiều. Mẹ lặng lẽ sau lưng chồng chỏi với đời. Vừa nấu ăn khéo, vừa may vá tài. Mẹ học hành ít, chỉ mới hết cấp 2 nhưng xử lý mọi chuyện khôn khéo. Tôi nhớ có lần ba đi công tác Sài Gòn. Đẹp trai, có chức có quyền nên chắc cũng có léng phéng gì đó với cô nhân viên nha cảnh sát. Không biết là có thật hay chỉ là tin đồn. Mẹ chẳng nói chẳng rằng, đi với ông tài xế, đáp báy bay vào Sài Gòn, tới tận văn phòng của ba, rồi sang bàn cô nhân viên. Để khẩu súng một cái cụp lên bàn làm việc (chắc là súng không có đạn của ông tài xế). “Tôi là vợ của ông Đ. Ông đã có vợ và 5 con. Cô hãy liệu hồn. Nếu lần sau còn nghe được chuyện gì về cô với chồng tôi. Đừng trách tôi không nói trước.” Xong chuyện, đơn giản và dứt khoát. Cô đó sau đó êm re và ba tôi cũng êm re.
Mẹ chưa bao giờ làm gì cho riêng mình. Ba làm cảnh sát. Thay đổi chỗ ở như chong chóng. Lúc thì Đà Nẳng, lúc thì Huế. Mẹ đem con cái theo ba không một lời phàn nàn. Lấy chồng, mẹ đã không còn là cô gái quê xóm An Lăng dưới chân núi Ngự Bình năm nào. Một tay mẹ gìn giữ giang san nhà chồng. 9 anh em tôi tuy rất sợ mẹ nhưng chưa bao giờ hết yêu mẹ cũng như chưa bao giờ mẹ hết yêu chúng tôi. Sau 75, mất nước, ba bị đi cải tạo ngoài Bắc, căn nhà tại Đà Nẳng bị cộng sản chiếm. Căn nhà đang ở tại Sài gòn bị tịch thu vì thuộc diện ác ôn. Tay trắng, mẹ và anh em chúng tôi trải qua những ngày tháng vất vả đen tối. Các em còn nhỏ, là con đầu, dâu trưởng, vợ chồng tôi cùng mẹ bương chải đủ mọi ngành nghề, len lỏi để tồn tại trong cái thành phố từ ngày đó đã không còn thuộc về mình. Những con người bại trận. Những khó khăn, những bi thảm mà chỉ những ai có trải qua mới cảm nhận hết. Những ngày sắp hàng lãnh phần bo bo thay gạo, khoai mì cứng ngắt thay cơm. Những hôm bán hàng lề đường, bỏ chạy trốn công an. Những ngày lặn lội tìm cha, tìm chồng trong trại cải tạo biên giới phía Bắc xa xôi. Những ngày băng rừng, lội suối tìm thăm chồng, nhưng rồi chỉ để được ôm xác chồng còn ấm trên tay. Những đêm lén lút đào xác chồng đem về chôn lại trong vườn nhà ôn mệ. Không ai nghĩ là mẹ chịu đựng được. Những nỗi khổ đau cùng cực và những mất mát không thể nào quên. Nhưng mẹ vẫn kiên cường vượt qua. Mẹ là một người rất tình cảm nên nỗi đau càng thêm sâu đậm.
Nhớ hồi đó, quen hay lạ, ghét hay thương, mỗi khi có ngưới đến ở nhà, khi chia tay, mẹ đều khóc, khóc ngon khóc lành. Mất đi người chồng một cách tức tưởi, tôi không nghĩ là mẹ đã sống được những quãng đời sau đó. Đã có một thời gian điên dại, mẹ mỗi ngày đi từ nhà ra chợ. Vừa đi vừa khóc. Vừa đi vừa chửi chế độ. Cán bộ phường cũng không thể làm gì trước một người đã quên mất chuyện tử sinh. Những thời khắc vô cùng khó khăn ấy tưởng không thể vượt qua, nhưng rồi mẹ vẫn phải nguôi ngoai, tiếp tục sống vì những đứa con còn non dại. Tôi vẫn luôn bên mẹ trong suốt khoảng thời gian bi thảm đó. Cho đến 1992, hơn 17 năm sau ngày mất nước, mẹ qua Mỹ cùng các em. Đó là khoảng thời gian tôi xa mẹ lâu nhất. Cùng với một đứa em đi năm 75, 7 em đi năm 1992, mẹ và tất cả 8 đứa em định cư tại Mỹ. Vợ chồng tôi cùng ba đứa con còn phải sống với cộng sản thêm 6 năm nữa. Khoảng thời gian này, tôi có công việc đàng hoàng, kinh tế ổn định. Nhận được giấy bảo lãnh đi đoàn tụ theo diện ODP, tôi đã suy nghĩ, đắn đo thật nhiều. Có nhiều đêm thức trắng chỉ để tìm một câu trả lời. Nhưng cuối cùng tôi vẫn quyết định ra đi. Vì mẹ và vì nỗi hận mất cha không bao giờ phai.
Năm 1998, sau gần 7 năm xa cách, mẹ và 9 anh em chúng tôi cùng nhau đoàn tụ trên một đất nước xa xôi. Ba tôi vẫn còn nằm lại trên quê nhà bên cạnh ôn mệ. Qua bên này, mẹ không còn phải lo toan quá nhiều cho cuộc sống, nhà có chính phủ lo, con cái lần lượt ổn định, có công ăn việc làm, có gia đình riêng, nhưng nỗi nhớ chồng, nỗi nhớ quê nhà không hề nguôi ngoai trong mẹ. Chính sự rảnh rỗi, những an bình của hiện tại đã thôi thúc mãnh liệt trong mẹ một nhớ, một nỗi đau trong quá khứ. Vết thương trong lòng sống dậy mãnh liệt trong những ngày tháng xa quê. Bên này mọi chuyện không như mẹ nghĩ. Vì cuộc sống, những đứa con dần xa mẹ, mỗi đứa một nơi. Không còn những đêm 9 anh em quay quần bên mẹ. Những khoảng thời gian đoàn tụ bên nhau qúa ngắn ngủi. Và mẹ thấy mình cô đơn, vô dụng. Cái quyền uy của mẹ đã không còn. Mẹ thay đổi tính tình, dễ cáu gắt, quên trước, quên sau và thường xuyên bỏ nhà ra đi.
Mẹ bị Alzeithmer. Mẹ về ở với vợ chồng tôi khi căn bệnh trở nặng và đúng lúc tôi bị tai nạn tại sở làm, dưỡng bệnh tại nhà. Với sự giúp đỡ, thương yêu của vợ, hiếu để của con cái, trong cái khí hậu ấm áp của miền bắc Cali, chúng tôi đã cùng ở bên nhau những năm tháng hạnh phúc. Căn bệnh Alzheimer với mẹ cũng là một may mắn trong muôn vàn bất hạnh. Cái quên, cái lẫn sẽ làm mẹ có thể sống được với tôi, với con cháu thêm một thời gian. Chứ nếu không, chắc chắn, mẹ sẽ chết vì nỗi nhớ chồng và nỗi nhớ quê hương. . | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Sun Apr 26, 2020 4:20 pm | |
| . Nấu ăn Trong Đêm - Trần Mộng Tú
Chị ở trong bếp, một mình. Mới 3 giờ sáng, chị đã xuống bếp nấu nướng. Chị mở tủ lạnh tìm thịt, tìm rau, tìm bất cứ cái gì chị có thể đem ra cắt, thái, chặt, để nấu. Nấu món gì chưa biết, cứ mang hết cả ra đã, rồi tính. Cả tháng nay chị như người ghiền nấu ăn, có khi nửa đêm dậy, đọc sách mãi, mỏi mắt vẫn không ngủ lại được, chị xuống lầu, vào bếp và bắt đầu kiếm cái gì để nấu. Có thật chị ghiền nấu ăn đến thế hay không? Hay đây chỉ là một hành động để chị thoát ra khỏi cái trống rỗng giữa đêm.
Chị bắt đầu thái rau, đập những quả trứng ra tô.
Tính đến hôm nay Tiểu Bang Washington có 600 người chết, con số này thay đổi mỗi ngày, tăng lên từng ngày.
Chị tìm hành, tìm cà chua, rau. Cứ thái hết đã, rồi tính sau.
Bệnh Viện ở New York không đủ ống trợ thở. Xác người mang ra ngoài xếp vào những chiếc xe đông lạnh đậu sẵn trước cửa bệnh viện.
Chai nước mắm đâu rồi? Có cần hạt tiêu không nhỉ. Chị cúi tìm hoài sao không thấy, chiều qua mới nấu mà.
Cả nước Mỹ đã có hơn 40 Bang nhiễm vi khuẩn. Tiểu bang Washington có hơn 11,790 người nhiễm vi khuẩn- 643 người tử vong. Tổng Thống nói sẽ mở cửa để vực kinh tế. Nhà nước cho dân tiền để vực kinh tế. Thống Đốc New York nhất định vẫn muốn cách ly, con số tử vong đã làm ông sợ hãi cho dân chúng trong thành phố của mình.
Chị lục tung cái bếp lên, kéo ngăn tủ bếp, tìm cái muỗng gỗ, không thấy, ập cái ngăn lại, ập vào ngón tay, có đau không? Không biết.
Hơn 100 Linh Mục và Tu sĩ chết ở Ý khi làm công việc phục vụ bệnh nhân trong giây phút sinh tử không có người thân. Một số Bác Sĩ Linh Mục, bỏ áo dòng đen thay áo trắng y tế trở lại Bệnh Viện. Bàn Thờ của họ bây giờ là giường bệnh nhân. Thay vì bẻ Bánh Thánh thì họ bẻ chính mình ra để phục vụ.
Chai dầu ăn đâu, chị cần dầu làm gì, chiên hay xào thịt. Chị mang miếng thịt ở ngăn đá ra, cái lạnh ở miếng thịt trên những ngón tay làm chị tỉnh hẳn. Chị thấy mình khát nước, chị đi tìm nước uống. Cái ấm đâu rồi, tối qua còn ngay trên cái bàn này mà. Chị ngửa mặt nhìn lên trần bếp, cái trần lặng thinh, cả cái bếp lặng thinh.
Một vị linh mục đang làm việc trong Bệnh Viện ở New York nói: Có một ngọn đồi rộng, nơi chôn những xác không có người nhận, người ta đã đào một cái huyệt rất dài và rất rộng, chôn từng mười, hai mươi cái áo quan xuống đó.
Chị bắc cái ghế bậc thang nhỏ, trèo lên với lấy hộp bột mì. Hay là mình làm bánh bao?
Sao ở New York lại nhiều người chết, không có thân nhân đến thế?
Cái hộp bột lăn xuống vai chị, đổ tung tóe bột lên vai, lên quần áo, bột bay cả vào mắt mũi làm chị ho sặc sụa.
Trên toàn cầu có 1,4 triệu ca mắc covid.19 và hơn 165 ngàn ca tử vong. Con số mỗi ngày một tăng. Yêu cầu mọi người ở trong nhà.
Chị lại khua tung cái bếp lên, tìm, lục, nhưng tìm cái gì chị chưa biết rõ. Cái vòi nước vẫn chẩy, chị nhìn thấy nước đã mấp mé muốn trào ra khỏi cái bồn rửa chén. Tắt vòi nước xong, chị ngồi phịch xuống cái ghế, trên bàn bếp có sẵn ly trà nguội ngắt còn lại từ tối hôm qua, chị ngửa cổ uống cạn như uống một ly thuốc đắng, mặt chị nhăn lại. Chị nhìn qua cửa kính, ngoài kia trời vẫn tối, im lặng, chưa có dấu hiệu của bình minh. Chị nhắm mắt lại, nước mắt ứa ra lăn trên má.
Chị theo dõi từng ngày con số nạn nhân qua đời vì nạn dịch Virus này ở Seattle, mỗi lần nhìn thấy con số chị lại thấy ngay trong đầu: em chị là một con số trong những con số đó, ruột chị quặn thắt lại. Bây giờ hơn bẩy mươi năm làm người chị mới hiểu hết ý nghĩa, cái cảm giác của câu “Đứt ruột” là thế nào. Chị mất cả mấy tuần chân đi như không chạm mặt đất, lúc nào cũng vịn tay vào tường vì dễ mất thăng bằng, muốn ngã. Ăn thì ráng ăn được, uống thì ráng uống được nhưng ngủ thì không ráng ngủ được. Bất chợt tỉnh giấc trong đêm là tỉnh luôn, mang sách ra đọc cho thật mỏi mắt, nhưng khi bỏ sách xuống hai mí mắt cứ trừng bóng tối như mắt làm bằng thủy tinh không nhắm lại được. Mới hai, ba giờ sáng chị phải dậy ra khỏi giường, chị xuống bếp hâm cho mình một ly sữa nóng để hy vọng sữa nóng sẽ giúp chị ngủ lại, nhưng thường là không. Chị lại tìm xuống bếp mang rau, thịt ra nấu nướng. Nhưng chị lục tung cả lên, rồi vứt ngang vứt dọc, trong khi đầu óc quay cuồng với những tin tức đọc ban ngày. Những con số, những quốc gia, những thành phố. Bao nhiêu người mắc bệnh, bao nhiêu người chết và em mình là một trong những người đó. Cuối cùng chị vứt ngổn ngang nồi, chảo, rau, thịt chung quanh bếp, đợi sáng ngày sau thu dọn, nấu nướng.
Ngoài kia trời vẫn chưa sáng, chị chậm chạp leo bẩy bực thang lên lầu vào buồng ngủ. Trong bóng đêm, mắt chị như hai viên thủy tinh trong suốt, không nhắm vào được. Hai viên thủy tinh biết khóc.
tmt 4/20/2020 . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Sat May 02, 2020 12:42 pm | |
| . Đám Cưới - Trần Mộng Tú
Bà mẹ cô dâu đưa thêm người khách nữa vào bàn cho đủ mười người. Trong bàn đã có bốn cặp vợ chồng và một phụ nữ đi một mình. Bà tươi cười giới thiệu: Đây là chị Trang, mẹ đỡ đầu của cô dâu, em xin được đưa chị Trang ngồi đây với các anh chị. Bà Trang còn khá trẻ, so với những cặp đôi trong bàn, chỉ khoảng ngoài 40, khẽ cúi nhẹ đầu chào mọi người. Mắt bà chợt mở to hốt hoảng khi chạm vào cặp mắt của người phụ nữ ngồi đối diện với mình, người phụ nữ cũng đi một mình. Người này cũng chạc tuổi bà. Cả hai cùng như sững người lại trong một giây rất ngắn, rồi họ cũng nghiêm mặt lại, cười nhẹ như chưa hề biết nhau. Họ ngồi đối mặt nhau nên thỉnh thoảng lại nhìn nhau, rồi lại giả vờ như không nhìn thấy nhau. Người phụ nữ đó được cặp vợ chồng ngồi cạnh gọi là chị Hoa. Hoa nói trong đầu: Đúng là Trinh rồi, sao bây giờ lại là Trang. Người đàn bà tên Trang đó cũng hơi cau mày lại: người này tên là Hoa à? Hay mình nhìn nhầm. Cũng may họ không ngồi cạnh nhau nên không phải nói chuyện với nhau, nhưng họ lại đối mặt nhau nên khó lòng tránh cặp mắt của nhau. Những người khách cùng bàn nói cười vui vẻ, tiếp thức ăn cho hai người phụ nữ độc thân, cả hai chắc chắn cùng trẻ hơn họ.
Hai người đàn bà trẻ đó thỉnh thoảng vẫn nhìn trộm nhau, thỉnh thoảng bắt gặp ánh mắt nhau, cả hai cùng bối rối, họ như muốn nói với nhau một điều gì nhưng lại không nói được. Bỗng một ông khách trên bàn đang nói chuyện con cái, chuyện sắp về hưu đổi đề tài, hỏi hai người đàn bà độc thân: Hai chị sang đây từ năm nào? Bà Trang ngập ngừng: Dạ… dạ từ năm 1985, nói xong bà hạ mi mắt thật thấp xuống, tránh nhìn bà Hoa. Bà Hoa làm như không nghe thấy câu hỏi, nghiêng đầu sang nói khe khẽ điều gì với bà ngồi bên cạnh mình, không trả lời câu hỏi của ông khách. Ông khách nhấc ly rượu vang uống khà một cái, quên cả câu mình vừa hỏi, bắt sang chuyện khác.
Khi cô dâu chú rể đi chào bàn cùng cha mẹ thì cả bàn mới biết thêm là ngoài bà Hoa là mẹ đỡ đầu của cô dâu từ Okahoma tới, bà Trang lại là cô ruột của chú rể từ Kansas về. Cặp vợ chồng mới cưới ôm thắm thiết hai người phụ nữ khiến cả hai người đàn bà cùng ứa nước mắt cảm động. Cô dâu nói: Hôm nay con vui lắm vì cả hơn 20 năm nay mẹ đỡ đầu của con không có chịu đi gặp ai hết. Chú rể cũng hấp tấp nói theo: Cả con cũng mừng nữa, cô của con trốn gia đình lâu quá rồi, con phải nói bây giờ tìm được cô rồi, nếu cô không về ăn cưới con thì con không lấy vợ nữa đâu. Cả bàn ai cũng cười to vì biết anh chàng này nói dối.
Cô dâu chú rể bắt đầu cắt bánh, rồi khai mạc khiêu vũ, những người lớn tuổi khẽ chào nhau, kẻ trước người sau ra về. Bà Trang và bà Hoa không biết họ có thần giao cách cảm gì mà hai người phụ nữ cùng đi về phía cuối một hành lang khá vắng. Khi họ chạm vào vai nhau cả hai cùng đứng khựng lại, họ nhìn sững vào mắt nhau: - Trinh ơi! - Hân ơi! Rồi họ ôm choàng nhau cùng khóc nức nở. Cái thảm kịch vượt biên bị hải tặc hãm hiếp cả hai chị em cùng chịu đựng gần 30 năm về trước hiện ra trước mắt họ.
Trinh nói trước. - Khi ra trại và biết mình có mang em đã không tìm về với họ hàng, em đi trốn thật xa ở những nơi không có hoặc có rất ít người Việt. Em nhất định không cho ai biết em là nạn nhân của hải tặc. Em không muốn bị khinh bỉ hay được thương hại. Đứa bé sanh ra thì em bệnh gần chết, phải cho một gia đình không có con. Em yếu đuối quá, tai nạn ngoài sức chịu đựng của em. Con em bây giờ nó hạnh phúc có cả cha lẫn mẹ yêu thương, em xin cha mẹ nuôi nó nói là em đã bệnh chết rồi, để nó được sung sướng, không thắc mắc hay đi tìm. Em không muốn con em lớn lên biết cha nó là một hải tặc, mẹ nó bị hãm hiếp mới sanh ra nó. Em thay tên, đổi chỗ ở rất nhiều lần vì mỗi khi gặp người Việt em lại sợ, chỉ sợ họ biết em đã là nạn nhân hải tặc. Vài ba năm em mới liên lạc với gia đình một lần, nhưng nếu họ muốn thăm em thì em lại thay đổi địa chỉ. Lần này về em tính lại dọn đi nữa, nhưng chưa biết sẽ đi đâu.
Hân quàng tay ôm chặt lấy bờ vai gầy của bạn mà nghe chính thân xác mình đang rung như cái cây bị gió. Mình cũng thế, mình may mắn không có mang nhưng cũng bị cướp mất sự trong trắng của tuổi xuân trong ký ức kinh hoàng đó. Ngay khi còn ở trong trại tỵ nạn mình đã tránh nhìn những cặp mắt thương hại của đám đàn ông và mình biết chắc rằng không ai trong đám đàn ông này dám yêu mình và những người đàn ông khác sau này chẳng ai muốn lấy mình làm vợ. Người yêu của mình đã bỏ đi sang khu khác trong trại, ngay sau khi mình tỉnh lại, đã dạy cho mình biết lòng dạ hẹp hòi của đàn ông. Nên khi ra trại là mình tách ngay ra khỏi gia đình người bà con mình đi chung và đi thật là xa cộng đồng người Việt. Mình cũng thay tên khi vào quốc tịch, không muốn ai nhận ra mình. Mình biết mình không thể yêu một người đàn ông nào được nữa. Cũng như Trinh, mình về ăn cưới cháu lần này rồi lại sẽ đi biền biệt.
Cả hai nói xong cùng im lặng. Họ như cùng quay ngược thời gian, nhớ lại cuộc hành trình l5 ngày trên biển, con tầu lạc trong mưa bão, sóng gió, nôn mửa. Kẻ chết vứt xuống biển, người sống nằm chồng lên nhau. Rồi hải tặc tới, một đám gần mười tên. Đàn ông trong tầu không có khí giới, lại đã yếu đi sau hơn 10 ngày trên biển, vài người chống lại, bị chém, quăng xuống biển. Tất cả phụ nữ già trẻ đều bị hãm hiếp, không phải chỉ một lần, mà hai ba lần với những tên hải tặc khác nhau. Tiếng thét, tiếng khóc, tiếng sóng hòa vào nhau. Trinh và Hân là hai cô gái ở tuổi mới ngoài hai mươi, làm sao chịu nổi cái định mệnh tàn khốc đó. Đau đớn là Hân lại đi với người tình, anh trốn được vào trong một khoang tầu, khi anh chui ra là lúc hải tặc đã bỏ đi, Hân nằm ngất với những vết thương không biết gọi tên là gì.
Im lặng, hai người đi bên nhau. Định mệnh nào đã thu xếp cho họ gặp lại nhau. Họ đã trốn đám đông, xa lánh cộng đồng hơn 20 năm nay. Họ đã thu mình khuất lấp, thay tên đổi họ, thay đổi chỗ ở luôn luôn, nhưng tối nay vì gia đình, họ gặp lại nhau, quá khứ tất cả bỗng lại quay trở về. Họ biết mình đã là nạn nhân của hải tặc và mãi mãi không bao giờ họ thoát ra được cái ám ảnh đó. Tiếng nhạc trong đám cưới vọng ra ngoài hành lang nghe lao xao như tiếng sóng va vào thành tàu.Trong bóng tối hành lang hai người đàn bà đứng ôm nhau, im như một bức tượng đá đặt ngoài nghĩa trang.
tmt Tháng 4 năm 2020 . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Sun May 10, 2020 7:00 am | |
| . Dung Nhan Thời Covid - Trần Mộng Tú
Lời Tòa Soạn - Độc giả sẽ gặp trong bài viết này những nhận xét tinh tế và cũng rất bình thường của một nhà văn nữ, sau hai tháng sống “cách ly” vì đại dịch Covid 19. Toàn là những nhận xét nho nhỏ về bản thân: trên đầu đã lộ ra những chỗ tóc bạc (à, đã lâu không nhuộm tóc!), thỏi son đã bắt đầu khô cứng trong ngăn kéo bàn trang điểm (dễ hiểu, hai tháng rồi có dịp nào tô son điểm phấn đâu?), tủ áo quần như trở nên xa lạ (dĩ nhiên, tối ngày ở nhà với ra vườn, ăn diện mà làm gì?) v.v… Thế nhưng, đó lại là những phát giác rất quan trọng trong đời sống của một phụ nữ. Gần như những thuộc tính của cả một đời người bỗng biến mất. Tác giả thảng thốt kêu lên: Liệu con người có cần tất cả những nhu cầu đó từ trước đến nay để được hạnh phúc hay không? Đây có thể là một câu hỏi rất lớn, mà để tìm câu trả lời, mọi người phải quay về các quan niệm rất căn bản của sự sống con người. DĐTK
*
Sáng nay, sau khi đánh răng, rửa mặt, chị nhìn mình trong gương, bỗng dưng chị thấy một phụ nữ lạ hoắc. Tóc chị, một đường ngôi trắng xóa như con đường nhỏ phủ sương muối giữa luống rau úa. Hai bên tóc đã quá dài, tóc đáng lẽ phải cắt từ cuối tháng hai, bây giờ gần cuối tháng tư, nên tóc đã chạm vai, so le, cái ngắn cái dài không như ý. Bất giác chị nhớ tới câu thơ:
Sáng hôm nay em thấy ở trong gương Đường ngôi lệch sợi tóc buồn vừa thức Chiếc lược mỏng vùi trong vùng tóc ấm Những hàng răng rẽ mãi một đường ngôi (Sợi Tóc-tmt)
Tóc mai của chị bây giờ không được nhuộm, đã trắng xóa hai bên thái dương. Kệ, trắng cứ việc trắng. Chẳng có đi gặp ai nên gội đầu xong cũng chỉ sấy cho khô, chẳng chú ý đến việc cuốn, chải. Da mặt thì hình như có thêm vài vết đồi mồi xuất hiện, cặp mắt bớt tinh anh, cái nhìn như nhòe đi, vết chân chim kéo gần tới mang tai, trán rõ ràng có nhăn thêm mấy nếp gấp. Chị thấy trong có hai tháng mà chị trông lạ hoắc. Mình đã quên hay đã không làm cái gì nhỉ. A, không nhuộm tóc. Đáng nhẽ 6 hay 7 tuần phải nhuộm lại nếu không muốn nhìn thấy đường ngôi trắng xóa và để tóc dài thêm nữa mà không nhuộm thấy mệt mỏi, chán nản lắm. Tóc đã đến lúc phải cắt (không có tiệm nào mở cửa). Hay nhuộm tóc lấy, cũng không thấy có hứng thú, vì tự cách ly trong nhà không đi đâu (ai nhìn?). Hóa ra từ trước tới giờ ta chăm sóc diện mạo là vì người khác nhiều hơn vì mình. Cá nhân mình thì chỉ cần giữ vệ sinh và sức khỏe. Chị mở ngăn kéo bàn phấn, mấy cây son khô lại vì cả hai tháng nay không đụng tới. Đã ít ra ngoài, mỗi khi ra ngoài lại đeo khẩu trang thì son phấn làm gì. Ngay như chồng chị, chắc không thắc mắc, chú ý tới chị, có son hay không có son dưới lớp khẩu trang đó.
Sáng nay em tô môi son đỏ Chỉ tại rặng phong đã thay màu (tmt)
Câu thơ nồng nàn đó bây giờ đọc cũng chẳng ai muốn nghe, mọi người còn bận theo dõi con covid nó lan tới đâu và lan nhanh như thế nào. Bất giác chị nghĩ tới các phụ nữ trong nhiệm vụ Bác Sĩ, Y Tá và Nhân viên Y Tế làm trong các bệnh viện trên thế giới. Trong hai tháng nay những phụ nữ này lúc nào cũng bịt mình từ đầu tới chân trong những y phục bảo hộ, xả thân ra cứu người. Họ có thời giờ đâu mà cắt tóc, chải đầu, son phấn như những ngày trước đây. Họ có thời giờ đi nhuộm tóc, trang điểm không? Có thời giờ nghĩ tới săn sóc, vỗ về cho chính bản thân mình không? Câu thơ: Ai điểm trang mà em phấn son của ai đó bỗng ngậm ngùi trong chị. Những thỏi son khô và những hộp phấn của họ, nằm co mình buồn trong ngăn trang điểm không biết đến khi nào. Cầu xin cho những phụ nữ này mau mau được quay lại đời sống bình thường, để những thỏi son lại được tay ai chạm vào.
Cái giường ngủ của chị đối diện với tủ treo quần áo, bỗng dưng cũng buồn bã lắm. Cánh tủ xếp gấp lại sang một bên được, nên luôn luôn mở cho tiện. Đây là quần áo để đi nhà thờ, đi ra ngoài với bạn hay đến nhà con cháu ăn uống tiệc tùng gia đình. Những cái áo không làm dáng quá, nhưng tươm tất lịch sự. Chị mỗi tối đi ngủ vào giường đọc sách xong, lơ mơ nhìn những cái áo đủ mầu treo trong tủ, tự nhiên thấy lòng chùng xuống. Đã hai tháng nay không chạm tới chúng, cảm giác như chúng không thuộc về mình, không từng ôm ấp hơi hướng mình. Đã có lúc chị viết những câu thơ lãng mạn cho những chiếc áo:
Áo rộng chẳng phải gầy đâu Bởi tim bỏ ngực đi lâu với tình Áo chật chẳng phải lên cân Bởi tim ai dọn vào gần tim tôi. (Áo Ca Dao-tmt)
Bao giờ thì mặc lại những chiếc áo này để đọc thơ và sống lại những ngày bình thường? Đã hai tháng nay, không tới nhà thờ, không đi gặp bạn, ngay cả tiệc tùng trong gia đình cũng không có, chị cứ áo vải, quần thô ở trong nhà, có chạy vội ra chợ, hay xuống đồi đi bộ thì thêm cái khoác mặc ngoài thôi. Chị buồn buồn nhớ tới câu thơ:
Sáng hôm nay hồn em như tủ áo Ý trong veo là lượt xếp từng đôi (Xuân Diệu) .
Cái cảm giác thơ mộng ngày trước mỗi khi vừa đọc thơ vừa dọn tủ xếp lại quần áo thấy không còn nữa. Cái tủ áo buồn hắt hiu vì bị bỏ quên. Những đôi giầy nữa, gót cao, gót thấp, màu sắc khác nhau để làm dáng thêm cho áo quần, đã nằm ngủ quên hai tháng nay trong hộp, giấu mình trong những góc tủ. Chị chắc chúng đang nhớ bàn chân của chị lắm. Nhưng làm sao được, hai tháng nay chị chỉ dùng một đôi giầy vải duy nhất mỗi khi đi ra ngoài một chút hay đi bộ trong xóm. Tất cả những tiện nghi và vẻ đẹp của vật chất bỗng dưng rủ nhau bốc hơi một lượt. Chị phân vân tự hỏi: Liệu con người có cần tất cả những nhu cầu đó từ trước đến nay để được hạnh phúc hay không? Chị không rõ ràng lắm, chỉ thấy mình đổi khác. Chị bâng khuâng, xa cách ngay với áo khăn, giầy dép, lạ lùng với phấn son đầu tóc và tưởng như mình đã thành một người khác trong chính ngôi nhà của mình.
Chị nhìn lại mình trong gương một lần nữa, tạm gọi đó là: Dung nhan thời Covid.
tmt 4/25/2020 . | |
| | | NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Mon May 11, 2020 12:28 pm | |
| .Tín Ngưỡng Thời Covid- Trần Mộng Tú
Bắt đầu đại dịch Covid tấn công, mọi người trên thế giới được khuyến khích ở trong nhà, Tiểu Thương, Đại Thương, Trường Học, Giáo Đường đều đóng cửa. Các Thánh Lễ được theo dõi trên màn ảnh nhỏ. Như mọi người Công giáo khác tôi mới đầu thấy tiện lợi, thấy đầy đủ, nhưng sau một thời gian hai tháng, tôi thấy hình như vẫn thiêu thiếu một điều gì. Tôi nhớ nhà thờ. Tôi nhớ mỗi sáng chủ nhật ăn mặc tươm tất trang nhã tới nhà thờ dự Thánh Lễ, nhớ tiếng hát tiếng đàn, nhớ sự hiện diện của giáo dân quen thuộc.
Bây giờ chủ nhật, ngồi ê a hát “Ngày chủ nhật buồn, ngồi trong căn gác đìu hiu, ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều - TCS.” Tôi nhớ Lễ, nhớ sân nhà thờ, nhớ tiếng chào hỏi nhau của linh mục và giáo dân khi tan Lễ ra, ngay khuôn viên trước cánh cửa nhà thờ, rót mời nhau ly cà phê nhỏ và chia nhau mỗi người một cái donut cắt làm hai, nói với nhau dăm câu thăm hỏi trước khi ra về. Cuối tuần là thế, Thánh Lễ chủ nhật trước, rồi sau đó mới yên tâm sinh hoạt với gia đình, bạn bè. Không tới nhà thờ dự Thánh Lễ được thì cũng có thể tới sân nhà thờ cho đỡ nhớ. Sáng nay, tôi đi mua hoa ở trại hoa của người Lào ngay gần nhà. Thành phố cho họ khai khẩn trồng hoa và rau trên một thửa đất bỏ không, để bán lẻ ngay trong khu phố của mình. Mùa này họ mới có hoa Kim Hương (Tulip). Hai mẹ con người Lào đeo khẩu trang bán hoa, khách tới mua cũng mặt mũi kín mít. Chỉ những đóa hoa thản nhiên khoe dung nhan đằm thắm của mình và dịu dàng tỏa hương thơm, không ngại người né tránh. Mua hoa xong tới Nhà Già, nơi chị tôi ở, đón chị. Mùa đại dịch, chị tôi hai tháng nay không đi ra khỏi nơi cư ngụ của mình. Các con hay em, cháu đi chợ, mang thức ăn cho chị đều dùng cửa sau. (Để không phải đi qua đại-sảnh) Tôi gọi trước nên chị sẵn sàng khi xe vừa vào bãi đậu. Hai chị em mang hoa tới nhà thờ để viếng tượng Đức Mẹ trong khuôn viên nhà thờ. Đặt hoa trước tượng Mẹ, để cầu xin cùng Mẹ cho nạn dịch thế giới này mau chấm dứt.
Cửa vào nhà Thờ đóng kín, sân nhà thờ im vắng, bên khu trường học các cánh cửa lớp im lìm, tiếng chim trên những ngọn cây ở trong sân trường nghe lạc lõng khi không có tiếng học trò cùng cất lên. Tội nghiệp những con chim, chúng gọi hoài không có tiếng trả lời. Chúng tôi ở trong sân nhà thờ trước tượng Đức Mẹ khá lâu, thì thầm lời nguyện trong đầu cho sự an bình sớm trở về cùng thế giới trong mùa đại dịch kinh hoàng này. Có độ ba, bốn chiếc xe cũng đậu cách xa nhau trong sân, mỗi cái xe một người ngồi, im lặng. Họ chắc cũng nhớ nhà thờ, vào sân, thì thầm với Chúa. Bên hông nhà thờ, những cây anh đào đang thời mãn khai, gió thổi cánh rắc hồng một góc sân. Mỗi cánh hoa như một lời kinh, rụng xuống hồn thất lạc. Cánh cửa nhà thờ im lìm, tôi áp tai vào không một tiếng động. Chúa còn ở trong nhà thờ, sau cánh cửa này không?
Hai cánh cửa im lặng Chúa có còn bên trong Con gõ lên mặt gỗ Tiếng kêu khô lạnh lùng Chính Chúa đã ở đây Sao bây giờ không thấy Chúa cách xa loài người Ẩn mình sau thánh giá Chúa có phải che miệng Chúa có nén cơn ho Vòng tay Chúa có mở Để ôm con vào lòng Con đứng đây bơ vơ Nhà thờ không mở cửa Con lầm lũi bước đi Những cánh hoa đào rụng Như lời kinh thầm thì Như giọt máu co-vi Loang xuống hồn thất lạc. (tmt)
Tôi nghĩ đến bao nhiêu linh mục, bao nhiêu tu sĩ đã chết vì lây lan trong mục vụ cuối cùng cho bệnh nhân trong bệnh viện hay ngoài nghĩa trang. Đức tin đã giúp họ thành những anh hùng thầm lặng. Chết cho người khác là chết cho Thiên Chúa.
Cha chọn con trong muôn vàn người thế Để cho con trong vẹn thuộc về Cha (*)
Các Y Tá nữa, họ là những người vất vả, đối diện với sinh tử gần nhất. Có người cả tháng không được ôm con mình vào lòng, cả tháng không được ăn chung bữa với gia đình. Họ đã phụng sự người khác tận tụy với công việc họ đã chọn. Họ hiểu rõ thế nào là “Y Đức” theo nghĩa đúng nhất của nó.
Tôi đọc được trên trang mạng NTD VIỆT-NAM. Tin và hình ảnh của những y tá thuộc trung tâm Y Tế Đại Học Vanderbilt cho chúng ta thấy sức mạnh của niềm tin tôn giáo đã giúp tâm hồn và thể xác họ cao đẹp và mạnh mẽ đến thế nào. Cùng với những nỗ lực không ngừng nghỉ, một nhóm 5 y tá từ đơn vị sản khoa của Trung tâm Y tế Đại học Vanderbilt thuộc tiểu bang Tennessee, Mỹ, đã tổ chức một buổi cầu nguyện để mong được sự che chở từ đấng tối cao trong cuộc chiến kéo dài với bệnh dịch. Các y tá tập trung tại sân đỗ trực thăng của bệnh viện để cầu nguyện cho bệnh nhân và gia đình trong bối cảnh dịch COVID-19 bùng phát. “Chúng tôi cầu nguyện cho các bệnh nhân và gia đình của họ trong khoảng thời gian thử thách này. Chúng tôi cũng cầu nguyện cho tất cả đồng nghiệp đang chăm sóc người bệnh mắc COVID-19 trên khắp thế giới”. "Chúng tôi có thể cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong gió"…
Kremer chia sẻ rằng lý do cô chọn sân đỗ trực thăng làm nơi cầu nguyện là để “phủ lên cả trung tâm này năng lượng bình yên”... Ericka Poore, LifeFlight coordinator - (Hết trích)
Trong khi đó, ở một nơi xa xôi nào đó, tận bên Trung Quốc, khi cơn dịch lắng xuống, người ta đến phá bỏ, đập vỡ những thánh giá trên nóc giáo đường. Các Linh Mục, các Mục Sư ở trong tình thế bắt buộc phải cho nhà nước hạ Thánh Giá xuống, nếu không nhà thờ sẽ bị tịch thu làm nơi sinh hoạt của thành phố. Các vị chủ chăn đau lòng nhưng phải chấp nhận còn hơn mất luôn cả nhà thờ. Để tránh sự chống đối của giáo dân, nhà nước cộng sản thường cho người tới hạ thánh giá vào những giờ thành phố chưa thức dậy. Sân nhà thờ im lặng vắng ngắt, thánh giá nằm cô đơn trên mặt đất còn đẫm sương đêm.
Trong buổi sáng mù sương Thánh Giá bị đập ngã Con người thay Siêu-vi Đến gậm mòn Thánh Giá (tmt)
Thánh Giá tại nhà thờ Guantou ở Ôn Châu, thành phố được gọi là Giêrusalem của Trung Quốc, bị chính quyền bí mật tháo xuống trong thời gian từ 3-6 giờ sáng. Ngay sau khi bãi lệnh phong tỏa thành phố. Cộng Sản Trung Quốc không bao giờ chấp nhận Kitô Giáo.
Khi những con siêu vi bỏ đi xa, hoạt động ở những vùng đất khác, Thánh giá bắt đầu bị ruồng bỏ trên từng nóc giáo đường.
tmt - Tháng 5/7/2020 (*) Khuyết danh .
| |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Mon May 18, 2020 2:58 pm | |
| . Những Đoạn Ngắn Mùa Corona Virus - Trần Mộng Tú
Có Nhà, Để Ở Nhà
Hai vợ chồng luống tuổi, giờ giấc thức ngủ khác nhau. Người thức khuya đọc sách, người dậy sớm đi nhà thờ nên mỗi người một buồng, một cái khung điện toán riêng. Mấy lúc này cả thế giới chao đảo về dịch Virus, mỗi ngày một trầm trọng. Chồng tôi không sợ hãi bằng tôi, anh vẫn thỉnh thoảng chạy ra chợ mua trái cây, thức uống. Anh lại có bổn phận đi bộ với người bạn thân đang bị cancer và anh không muốn bạn buồn vì sự cách ly này. Khi chồng tôi ra ngoài về, bước vào cửa là tôi phát hoảng như gặp phải con Virus khổng lồ đang tới gần, Tôi xua xua tay, chỉ anh vào ngay buồng tắm làm vệ sinh quần áo và rửa tay rửa mặt. Chúng tôi bây giờ không đứng gần nhau khi nói chuyện, không còn thỉnh thoảng ấm áp ôm ngang vai nhau nữa, đứng xa nhau và ngồi cũng xa nhau. Tôi có đưa nước đưa trái cây cho anh cũng để ở đâu đó trên bàn làm việc hay bàn bếp rồi nói cho anh biết chứ không đến gần đưa tận tay như trước nữa. Khi ăn cơm thì hai người cũng không ngồi gần nhau, dù là cái bàn tròn, mỗi người ngồi một phía đối diện nhau, bỗng nhớ câu Thơ cổ Trung Hoa: Quân tại Tương Giang đầu/Thiếp tại Tương Giang vĩ/ Tương tư bất tương kiến/ Đồng ẩm Tương Giang thủy/ Còn mình bây giờ được nhìn thấy nhau nhưng: Chàng ở bên kia bàn/Thiếp ở bên này bàn/Cùng ăn chung một mâm/ Nhìn nhau mà ngập ngừng. Bộ bàn ăn ở nhà ngoài dùng khi có khách thì bây giờ nằm buồn hiu. Nhớ lại khi các bạn tới thì chen chúc xếp đến 12 cái ghế vào để ngồi cho vui,không ai chịu chia làm 2 bàn. Bây giờ những cái ghế cô đơn đứng cái ra cái vào trông chẳng mỹ thuật gì cả, hay chúng sợ nhiễm virus nên không muốn gần nhau. Trong khi cái bàn thổn thức nhớ lại những tối Trung Thu, trên mình bàn đầy những tách trà rực rỡ. Bà chủ nhà trân trọng và ấm áp với mình đến thế nào. Bà lau chùi mình bằng một thứ dầu chỉ dành riêng cho gỗ, chọn cho mình một cái khăn vắt ngang bàn (Table runner) thật đẹp, rồi bày lên đó những hộp bánh nướng, bành dẻo và đặc biệt là những tách trà đủ kiểu, đủ màu khác nhau, bà chủ mang về từ các địa điểm du lịch xa xôi nào đó. Đấy là những tối Rằm Trung Thu hàng năm, bạn hữu tụ lại uống trà, ăn bánh và nghe Thơ.
HÌNH - Tiệc Trà Bánh Trung Thu
Bây giờ thì tất cả không còn nữa, những cái tách đẹp này nằm im trong tủ kính, những cái ghế rời rạc quay ngang quay dọc và cái bàn dài như tôi cũng trở thành vô dụng. Tôi chắc còn phải đợi lâu lắm mới nghe lại được tiếng cười của những người bạn tới nhà này vì họ thật sự cũng đang lẩn trốn tại gia.
Không Có Nhà, Để Ở Nhà
Mỗi ngày con Covid.19 càng hoành hoành trên khắp thế giới. Con số mỗi ngày mỗi tăng. Nước Mỹ cũng không thoát được cơn thịnh nộ của bầu Trời của mặt Đất này. Cho đến ngày hôm nay, Tháng 4 ngày 2/2020 tổng cộng cả thế giới có 1,014,673 ca nhiễm Covid.19. Riêng nước Mỹ có 244,646 người bị nhiễm bệnh. Các bang đã lần lượt đưa ra lệnh cách ly tại gia. Hạn chế tối đa việc ra khỏi nhà, chắc phải thêm một câu: “Trừ những người không nhà”. Con số thống kê trong năm 2019 cho những người vô gia cư toàn nước Mỹ là 567,715 người. Hơn nửa triệu người vô gia cư này rải rác khắp các tiểu bang, các thành phố, nhưng nhiều nhất vẫn là Los Angeles và San Francisco. Nhà nước cũng có cung cấp một số nhà Mobile Home cho họ nhưng số cung không đủ cho số cầu. Làm thế nào để bảo vệ những người vô gia cư này. Họ không có nhà, họ sống lang thang trên đường phố, làm sao có chỗ để họ trốn tránh được con vi trùng khủng khiếp này. Tội nghiệp nhất là những em còn nhỏ, nếu cha mẹ chúng nhiễm bệnh thì chúng biết đối phó thế nào?
HÌNH - Bing.com Images.
Lệnh ở trong nhà, nhưng không có nhà để ở. Họ biết đi đâu, Họ đâu có phải lá khô, củi mục mà hốt vào thùng được. Không có nhà làm sao mà “ở nhà”
Đi Bộ Trong Xóm
Nhà tôi và nhà con gái chung một xóm. Từ nhà tôi đi bộ sang nhà con mất mười phút. Hôm nay có nắng, tôi ra khỏi nhà, đi bộ. Không có tiếng xe nào trong xóm, cũng rất vắng xe từ đường chính rẽ vào. Đến trước cửa nhà con thấy có 5 tấm bảng mới cắm trên thảm cỏ. Tôi đứng tần ngần đọc.
Đây là nội dung 5 tấm bảng
1. Thank You Healthcare Workers 2. Thank You Restaurant Delivery and Grocery Workers 3. Thank You Teachers 4. Thank You Sanitation and Utility Workers 5. Thank You All who are working so we may STAY HOME
Tôi hình dung ra hình ảnh ba mẹ con líu ríu làm mấy tấm bảng này với lòng biết ơn.
Cánh cổng gỗ vào vườn sau bên hông nhà mở, khu vườn rất yên lặng. Chắc mấy mẹ con đang ở trong nhà.
Tôi vào vườn, cỏ xanh mùa xuân tĩnh lặng, mấy bụi hoa Kim Hương ngập ngừng nở. Green House của con rể hàng năm đã thành hình, những mầm xanh đã lên cả gang tay. Người bố trẻ này mỗi năm, từ tháng 2 khi thời tiết hãy còn lạnh, anh đã bắt đầu thắp những ngọn đèn nhỏ, ươm mầm rau củ ngay trong family room với các con. Đủ các loại rau xanh ăn hàng ngày, thêm dưa leo, cà chua, bí đỏ và xen kẽ là hoa Hướng Dương và Thược Dược. Suốt từ tháng Tư, tháng Năm cho đến hết tháng Tám vợ chồng có nhiều hoa và rau củ mang cho cả họ.
Tôi lên cầu thang vào cái balcony sau nhà. Đây là nơi tụ họp gia đình ăn uống trong những dịp cuối tuần vào những ngày nắng ấm áp. Hôm nay cũng nắng mà vắng vẻ quá. Sau khung cửa kính rộng, hai đứa trẻ và mẹ chúng đã nhìn thấy Bà. Chúng ríu rít đòi ra nhưng mẹ bắt đứng rất xa Bà. Cậu anh lên 9, cô em lên 7, tròn môi, khum tay gửi cho bà những nụ hôn gió. Con bé nói: - Hết virus con sang Bà ngủ hai tuần nhé. I love you Bà - Con yêu Bà, thằng anh nói tiếng Việt.
Tôi vẫy vẫy tay chào con cháu, xuống cầu thang ra về, một thăm viếng rất ngắn. Lòng rưng rưng đi qua khu vườn rau nhỏ đang vươn lên xanh mướt, hứa hẹn, đầy sức sống. Thượng Đế không hề bỏ loài người.
tmt Tháng 4-3-2020 . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Mon Jun 08, 2020 8:20 pm | |
| . SÔNG NƯỚC - Nguyễn Thanh Hiện
Cựu sự như xuyên trường phó hải… (Chuyện xưa như nước trôi về biển…) Ngô Thế Lân Sáng hôm đó tôi với nàng còn đang phân vân có nên đi đầu nguồn con sông đó hay không thì chợt thấy có con thuyền đang ngược về phía thượng nguồn. Nhánh phụ lưu đó phát nguyên tận vùng rừng núi phía tây nam, mãi gần tới quê nàng mới đổ vào con sông chính chảy qua quê nàng. Làm như biết trước mọi sự, người chèo thuyền chèo thẳng vào chỗ bờ sông chúng tôi đang đứng, hỏi có đi thượng nguồn thì hãy xuống thuyền mà đi. Ngay từ phút đó tôi đã thấy có gì hơi khác thường ở người chèo thuyền.
Nhưng nàng thì có lẽ vì mừng gặp được thuyền, cứ theo hỏi người chèo thuyền đủ thứ chuyện về sông nước, rằng ông từ đâu đến lại chẳng chở thứ chi, rằng đi đến đâu thì quay lại? Cốt yếu là nàng sợ không nhìn thấy được con nước đầu nguồn của dòng sông ấy. Sông nước hữu tình thì làm sao ta lại đi vô tình với người đời! Người chèo thuyền nói. Nàng chợt huých vào tôi, cú huých có phần khá mạnh, khiến con thuyền hơi lắc lư. Cứ sợ người chèo thuyền đọc được những ý nghĩ không mấy hay ở nàng, nên tôi phải nói đỡ là nàng không mấy quen đi thuyền.
Không sao… Người chèo thuyền nói, và ngước mặt nhìn trời. Tôi hỏi có phải ông vẫn thường qua lại trên con sông ấy hay không? Ông ta bảo nói thường cũng được, mà nói không thường cũng được. Tôi lại tiếp tục hỏi ông nhiều thứ nữa, về quê quán, nhà cửa, về chuyện kiếm sống trên sông, vì sợ nàng lại đi khiêu khích một người chèo thuyền thích ăn nói theo kiểu văn vẻ của một khách văn chương. Nhưng rồi tôi cũng không ngăn được nàng. Thường là sao? Mà không thường là sao? Nàng hỏi. Người chèo thuyền bảo, thường là như khi ông qua lại trên con sông quê nàng. Ta qua lại nơi ấy không biết bao nhiêu bận, sông nước thì có vẻ như đứng yên một chỗ, còn núi non tựa những áng mây sà xuống ruộng đồng. Ông nói. Tả sông núi quê nàng như thế là rất chính xác. Núi mọc ở trên đồng, còn con nước trên sông, chỉ trừ mùa bão lũ, lúc nào cũng lững lờ trôi. Tôi cảm thấy nghi hoặc trong lòng, và hỏi ông ta có phải là kẻ sĩ bất đắc dĩ ra kiếm sống hay không? Người chèo thuyền có vẻ cảm kích trước tra vấn của tôi. Và bảo cứ theo cách hiểu của con người thì ông là kẻ bất tử. Tôi hơi giật mình, vì một người chèo thuyền mà lại nói ra được những lời như thế. Còn nàng thì vẫn cái ý thích khiêu khích ấy, hỏi ông qua lại trên con sông quê nàng vào những giờ nào mà nàng chẳng bao giờ trông thấy? Và có phải người bất tử thì kẻ khác khó lòng nhìn thấy hay không?
Người chèo thuyền chợt cho thuyền rẽ vào bờ, rồi bảo chúng tôi chờ ông một lát. Tôi đoán là ông vào làng để tìm thêm thức ăn cho chuyến đi dài trên sông. Quả như tôi nghĩ, nàng trù tính sẽ tạo ra thứ không khí vui vẻ trên sông nước bằng cách bịa ra một câu chuyện cổ tích mà nhân vật chính là một người chèo thuyền bình dân thích ăn nói theo kiểu bác học. Không được đâu, em đã biết tung tích của người ta thế nào mà đi gây chuyện. Tôi cản. Nàng không cãi lại tôi, cũng không nói là chấp nhận ý kiến của tôi, chỉ cười. Nhưng không phải nàng, mà là người chèo thuyền đã tạo ra cổ tích. Ông ta trở lại thuyền với một thiếu nữ trẻ đẹp như người trong tranh. Cứ gọi em nó là cô gái đàn nguyệt. Ông nói. Theo lời giới thiệu này thì chúng tôi mặc nhiên hiểu thiếu nữ là một ca kỹ chơi đàn nguyệt, có điều chẳng thấy đàn cầm đâu cả. Nhưng liền sau đó thì một đứa bé, trông cũng có vẻ như người trong tranh, mang đàn tới. Chị với ông thượng lộ bình an. Đứa bé trao cây đàn nguyệt cho thiếu nữ, nói, rồi quay lại nẻo cũ. Cứ tưởng nàng cũng như tôi, là đang ngạc nhiên trước những gì đang diễn ra. Nhưng không phải. Chắc ca lâu cũng gần đây thôi? Nàng nhìn thiếu nữ, hỏi, mỉm cười đầy ẩn ý. Nói là gần cũng được, mà nói là xa cũng được. Người chèo thuyền đáp lời nàng. Còn cô gái đàn nguyệt thì ngồi xuống lòng thuyền, bắt đầu so giây. Tôi có cảm tưởng đang nghe thấy những âm vang vọng lại tự buổi khai sinh trời đất. Ta đi thôi. Người chèo thuyền nói, thọc mái chèo xuống nước, cho thuyền lướt nhẹ trên sông. Phải nói đây là lúc chúng tôi thực sự bước vào cổ tích. Cô gái đàn nguyệt tự đệm đàn cho mình hát. Tiếng đàn xé nát cỏ cây. Còn tiếng hát như có năng lực đánh thức những niềm lãng quên cổ kính nào đó. … Ta, một mình nơi sông nước, trần gian mấy nẻo đi về tự buổi hỗn mang. Dẫu là cư ngụ ở trên trời, hay dưới đất, là đều khấp khễnh, kỳ khu. Ai náu mình giữa trần tục, nghìn năm, triệu năm, trải mấy nỗi thăng trầm, cưu mang trời biển, nếu không phải là ta? Lúc loài giống con người chưa nhìn ra được những nét thực của đất trời thì ta là kẻ mang lại cho nhân gian những niềm vui lộng lẫy huy hoàng. Niềm kính ngưỡng thấm đẫm tận chốn cao sơn cùng cốc. Bất kể cơn mưa nào đến sau những nguyện cầu đều gán cho quyền năng sáng tạo của kẻ náu mình trên sông nước. Đôi khi những hốt hoảng lại được gọi to lên thành lời. Bất kể cơn mưa nào đến sau những hốt hoảng của nhân gian đều được coi là ân sủng. Ta lặng lẽ giữa đất trời đón lấy những tôn vinh thần thánh. Niềm kính ngưỡng là đồng nghĩa với phồn thực. Kính ngưỡng đối với ta là đồng nghĩa với sinh sản tràn đầy, đồng nghĩa với sự thêm ra. Con người thêm ra. Tiếng đùa giỡn của trẻ thơ thêm ra. Màu xanh hoa trái thêm ra. Ta, một mình nơi sông nước, nhìn thấy triệu triệu sinh linh mong ngóng về ta. Và làm sao ta lại khỏi nghe thấy những thầm trách. Đôi khi thì chẳng phải thầm trách, mà là oán giận òa vỡ thành tiếng kêu trầm thống. Cái chết là thường hay đến sau những tiếng kêu trầm thống. Ta còn nhớ tận mờ mịt xa xăm, thuở con người còn trò chuyện được với hươu nai trên rừng, thuở con người chưa biết cách thốt lên tiếng kêu trầm thống, thì cái chết đối với con người là lặng lẽ hơn hết thảy những lặng lẽ của trời đất. Ta vẫn còn nhớ thuở xa xăm mờ mịt ấy, khi những cơn mưa bất tận từ trời cao chảy xuống, từ trong đất tuông ra, con người cùng với cây cối trên rừng là lặng lẽ nằm xuống giữa trùng dương vô tận. Chẳng biết thốt nên tiếng kêu trầm thống, nhưng tri giác đọng lại thành ký ức ngọc bích kim cương, mà mãi triệu triệu năm sau đám hậu duệ thuộc các nền văn minh sớm nhất của con người vẫn còn nhớ được để thốt lên rằng thuở ban đầu của trời đất là nước… Tôi nghe như có trận đại hồng thủy đang tràn vào lời ca của kỹ nữ. Và thầm hỏi mình, rằng đây có phải là chuyện của trần gian? Khúc hát nói về một kẻ sống trên sông nước, mà sao như một vị thần? Còn nàng, có lẽ lời ca kỳ tuyệt kia đã làm tan hoang cái tính trời thích trêu chọc kẻ khác bấy lâu vẫn lẩn quẩn với nàng. Lần này là nàng cũng huých vào tôi, nhưng rất nhẹ, ý bảo là hãy lắng nghe. Quả chẳng còn có chỗ để cho tôi nói ra những băn khoăn của mình. … Nhưng chẳng phải mãi mãi là ngọc bích kim cương. Con người là biết lần dò ra ánh sáng từ những ký ức cổ xưa. Chiêm ngắm sắc màu của một áng mây trôi. Chiêm ngắm cách đi về của một bầy ong hút mật. Chiêm ngắm sự lặn ngụp của đám sao ở trên trời, của đám rong rêu ở dưới nước. Triệu năm nghìn năm trôi qua, ngọc bích kim cương bỗng hóa nên lời. Gọi được tên những cuộc hôn phối giữa ngày và đêm. Gọi được tên kẻ thủ phạm gây nên các cuộc rơi rớt, các cuộc trốn chạy, gây nên mưa sa bão táp. Ta rất vui khi con người bảo vẻ đẹp của các sự vật là nằm trong chiêm ngắm của trí tuệ con người. Quả là trăm hoa đua nở. Ta nhìn thấy đi lại bên bờ các con sông lớn trên mặt đất những con người có dáng đi của các vị thần. Chưa nghe thấu hết những tiếng nói của đất trời, nhưng quả con người đã nói ra được những lời ưu ái dường trời đất dành riêng cho con người. Và tri thức đã đẻ ra kiêu hãnh. Kiêu hãnh đẻ ra con đường dẫn đến tiêu ma. Phải nói, đến lúc con người không còn trò chuyện được với hươu nai trên rừng là lúc con người bắt đầu hục hặc nhau. Ta, một mình nơi sông nước, có lúc cảm thấy choáng ngợp vì các cuộc cãi vả dai dẳng của con người. Cãi vã về những tiếng nói của trời đất. Cãi vã về những tiếng nói của con người. Chẳng phải nói ra rồi thôi, mà còn chép thành kinh thành sách. Dường chẳng còn có chỗ cho sự kính ngưỡng đất trời. Những nguyện cầu xưa cũ đã đọng lại thành thời gian. Thời gian đọng lại thành niềm quên lãng. Ta chẳng buồn vì chẳng còn nhận được sự kính ngưỡng. Mà buồn vì con người không còn chỉ cãi vã nhau bằng lời. Trên các dòng sông ta đi lại đã bắt đầu nghe thấy mùi máu. Máu của các cuộc thể nghiệm về các cuộc cải vã. Lịch sử là biên niên sử về các cuộc thể nghiệm các cuộc cãi vã. Cho đến lúc nước trên các dòng sông pha màu máu, thì ta, kẻ náu mình trên sông nước, chỉ còn biết thở dài. Thì còn biết làm sao khi các cuộc thể nghiệm đã thuộc về cách thức tồn tại của con người. Thì chẳng phải đi tìm con nước đầu nguồn con sông quê của người yêu là cũng thuộc về cách thức tồn tại của con người hay sao? Cô gái đàn nguyệt chợt ngẩng nhìn chúng tôi, mỉm cười, rồi lại tiếp tục đàn hát. Phải nói là tôi cứ thấy hốt hoảng ở trong lòng. Thưa, có phải những kẻ trần mắt thịt này đã được gặp các vị thần? Tôi thốt lên như một cách chống đỡ nỗi sợ. Còn nàng, chắc là còn cảm thấy kinh dị hơn tôi, cứ bám chặt lấy người tôi. Gọi là thần cũng được, mà gọi là trí tuệ của nhân gian cũng được. Người chèo thuyền đáp lời tôi. Rồi lại cho thuyền cập vào bờ. Tôi hỏi sao không tiếp tục đi tiếp. Ông bảo là ông còn phải đến nhiều nơi trên mặt đất này. Ta cũng chẳng rõ là sau khi uống được con nước đầu nguồn con sông ấy thì các người có tìm thấy tình yêu vĩnh hằng hay không. Nhưng kể từ giờ phút này thì các người phải tự làm chủ con thuyền trên con đường thể nghiệm về tình yêu của mình. Ông nói. Và trao mái chèo cho tôi. Đến lúc ấy thì tôi lại cảm thấy cảm động như đang chia tay một con người. Tôi hỏi người chèo thuyền là ông định đến những nơi nào? Ta phải đi khắp hết mặt đất này để hát. Bởi vì hát là ký cho người đời sau hiểu những gì đã xảy ra trong quá khứ. Ông nói. Đợi cho đến lúc người chèo thuyền và cô gái đàn nguyệt khuất dạng, tôi mới dám rỉ tai nàng nói ra ý nghĩ có vẻ tư biện của mình, rằng những gì vừa diễn ra đều là hóa thân của thần sông nước. Nàng có vẻ như đang rơi vào trạng thái năng sản của kẻ sáng tạo. Đến khi tôi đã thay cho người chèo thuyền, cho con thuyền lướt về phía thượng nguồn của sông, nàng còn hỏi đấy có phải là chuyện thật hay không? Qui nhơn, Mùa thu, 2009 . | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Sat Jun 20, 2020 8:48 pm | |
| . "Trái Tim Bồ Tát" - Pha Lê
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ 2018. Bà tên thật là Ngô Phương Liên, học Trưng Vương thời trung học, vượt biển qua Mỹ năm 79. Đi học lại gần 6 năm mới ra trường với bằng BS engineer năm 85. Hiện là cư dân ở Lafayette, Louisiana, còn vài năm nữa sẽ ... ăn tiền gìà. Bút hiệu Pha Lê, theo chú giải vui của tác giả, không phải là trong veo như Pha Lê, mà là... Pha trò và Lê la! Sau đây là bài viết mới nhất của cô. Jenny, cô phóng viên Mỹ tuổi đời chưa quá 30. Ra trường đại học Stanford với số điểm khá cao, sau vài năm lăn lóc với những tờ báo địa phương, Jenny được thâu nhận làm phóng viên tại một tòa báo nổi tiếng tại Chicago. Chuyến đi xa làm phóng sự đầu tiên của cô là bay sang Nhật, để viết về sự hồi sinh và công cuộc trùng tu của thành phố Miyako, một thành phố đã phút chốc bỗng trở thành bình địa khi cơn sóng thần Tohoku Tsunami khủng khiếp ập tới vào tháng 3, 2011. Cô đã đi lòng vòng khắp nơi, điều làm cô sửng sốt nhất, là ở nhiều nơi, từ trong thư viện cho đến các nhà hàng, trên những bức tường, người ta vẽ hình một cậu bé Nhật với câu chuyện về nghĩa cử cao đẹp của cậu trong những ngày tang thương của thành phố. Jenny vẫn còn nhớ đó là chuyện một cậu bé khoảng trên 10 tuổi, trong khi cậu bé đang xếp hàng chờ đợi tới phiên mình được lãnh hàng cứu trợ thì bỗng một người lính cứu hỏa đến bên cạnh và đưa cho cậu một gói khá to với dấu Red Cross đóng bên trên, Đó là một gói hàng cứu trợ nhưng có đầy đủ những đồ gia dụng cần thiết và có cả một ít hiện kim cho một cá nhân. Khẽ nghiêng mình kính cẩn cám ơn và trước đôi mắt ngạc nhiên của người lính cứu hỏa, cậu bé bước tới góc phố, nơi người ta đã đặt sẵn một thùng giấy to để quyên góp những phẩm vật sẽ được gởi đi cho những người kém may mắn khác. Nhón chân đặt gói quà vào trong thùng, cậu bé lặng lẽ bước về chỗ cũ và kiên nhẫn sắp hàng chờ đợi. Câu chuyện thật đơn giản nhưng vô cùng xúc động đó đã nhanh chóng được loan truyền trên khắp thế giới. Hằng trăm hằng ngàn ý kiến, những lời cảm thông chia xẻ, cùng những câu ca ngợi nghĩa cử của cậu bé đã được gởi tới tấp trên internet, trên truyền thông truyền hình như những lời an ủi động viên trước những bất hạnh và khổ đau sau thảm họa sóng thần Tohoku Tsunami.
Sau một ngày lang thang trên đường phố Miyako, Jenny cảm thấy thật phí công khi cô phải viết bài phóng sự về sự hồi sinh và công cuộc xây dựng tái thiết của thành phố Miyako, Jenny thầm nghĩ: - Người Nhật rất quật cường và dũng cảm, họ là một dân tộc biết biến đau thương thành sức mạnh, viết lời ca ngợi hoặc tán dương họ cũng bằng thừa. Cho nên cô chợt nẩy ra ý tưởng mới là viết về tầm ảnh hưởng từ hành động cao cả của cậu bé đó với những người trẻ hôm nay. Kết quả: Bài viết của Jenny khi phổ biến làm người đọc xúc động, tòa báo hài lòng. Ông chủ bút vui vẻ gợi ý cô có thể viết thêm về những người trẻ ở khắp nơi trên thế giới. Wow, cô mừng rỡ và quyết định cô sẽ tới Việt Nam. Việt Nam, một đất nước tuy xa mà lại rất "gần" với cô. Rất gần vì Brittney Nguyen, người bạn thân nhất của cô trong 4 năm đại học, là người Việt Nam. Năm đầu tiên cô và Brittney cùng chia xẻ chung một phòng trong đại học xá. Brittney rất giỏi và rất lanh lẹ, nhưng điều mà Jenny cảm phục ở cô không phải sự thông minh mà chính là tinh thần lạc quan của Brittney. Trong bất cứ tình huống nào, cô bạn này luôn tin rằng: - Tomorrow will be better than today / ngày mai sẽ tốt hơn hôm nay! Lỡ tình trạng vẫn chưa "khá" hơn, thì Brittney lại cắt nghĩa hoặc bằng một câu khôi hài nào đó, hay bằng một câu chuyện tiếu lâm mà cô luôn có sẵn trong đầu. Brittney thì dễ thương như vậy, mà gia đình cô thì càng tuyệt vời hơn nữa. Những ngày cuối tuần Jenny vẫn theo Brittney về nhà cô, một căn hộ chung cư 3 phòng ngủ cho 5 người! Dù căn nhà khá chật chội và hơi thiếu tiện nghi nếu so với căn nhà rộng thênh thang của Jenny ở Chicago, nhưng chính nơi đây Jenny mới hiểu được thế nào là tình gia đình. Cô đã được thưởng thức những món ăn Việt Nam, được hưởng những sự thương yêu, chăm sóc, lo lắng từ những người thân của Brittney. Cô đã rưng rưng nước mắt khi gọi gia đình Brittney là gia đình thứ hai của cô. Khi nghe Jenny nói như thế, Brittney trả lời với một nụ cười tươi tắn trên môi: - Nếu đây là gia đình thứ hai, thì Jenny sẽ có thêm một đất nước thứ hai, đó là Việt Nam, right?
Đúng như vậy và bây giờ Jenny đang ngồi trên một chuyến bay, bay về Việt Nam, một đất nước tuy xa xôi, nhưng lại rất gần gũi với cô. Trước ngày đi, ông chủ bút tờ báo đã nhấn mạnh là cô chỉ có một tuần. Trừ ngày bay đi, bay về, chỉ còn đúng ba 3 ngày thôi đấy nhé ! Sau gần 2 tiếng đồng hồ chờ đợi thủ tục để lấy được hành lý, Jenny chậm chạp kéo lê chiếc vali bước ra phía cổng phi trường. Cô thắc mắc tại sao mọi người cứ phải xô đẩy, chen lấn không sắp hàng, chính điều này càng khiến mọi công việc trở nên phức tạp và mất nhiều thời gian hơn. Khi cánh cửa phi trường vừa bật mở, Jenny gần như dội ngược về phía sau bởi hơi nóng hừng hực từ bên ngoài như táp vào mặt cô. Ngần ngừ vài giây, cô bước ra, bên ngoài khung cảnh thật tấp nập, xô bồ, mọi người bước đi vội vã như ma đuổi!
Hình như 24 tiếng đồng hồ vẫn không đủ cho người Việt Nam, đó là cảm nhận đầu tiên của Jenny về đất nước này. Cảm thấy thật mệt mỏi vì chuyến bay quá dài, cộng với sự chờ đợi không cần thiết nơi cửa phi trường, Jenny giơ tay vẫy chiếc taxi, cô quyết định về nghỉ tại khách sạn đêm nay, ngày mai sẽ bắt đầu một ngày mới cho bài phóng sự của cô về những người trẻ Việt Nam. Bây giờ Jenny đang ngồi trong phòng ăn của khách sạn để dùng bữa điểm tâm với một người thông dịch. Trước khi lên đường sang Việt Nam, cô bạn Brittney đã khăng khăng bắt Jenny phải có một hướng dẫn viên vừa phải là người bản xứ, vừa phải biết tiếng Anh, để giúp cô đi thăm viếng thành phố, và Brittney đã giúp bạn tìm được người đó. Bà Hằng, một phụ nữ trung niên tuổi trên 50, khuôn mặt khả ái với nụ cười dịu dàng đằm thắm trên môi và nhất là cách phát âm tiếng Anh của bà khá chính xác khiến Jenny thật hài lòng. Khi Jenny nói điều này, bà Hằng chỉ mỉm cười khiêm tốn khẽ đáp: - Tôi là giáo sư Anh văn của một trường đại học thành phố. Jenny ngạc nhiên: - Giảng sư dạy đại học mà tại sao bà lại làm thêm công việc này? Hơi bất ngờ vì câu hỏi của Jenny, bà Hằng ngập ngừng vài giây rồi nói: - Thật ra đây là cơ hội cho những người dạy Anh văn như chúng tôi luyện giọng. Ngày xưa, khi tôi còn là học sinh, ngoài giờ học chính, chúng tôi thường ghi danh học thêm những course Anh Văn bên ngoài. Trước đây trung tâm Hội Việt Mỹ thường có những phòng thính thị cho chúng tôi luyện giọng, bây giờ thì không còn nữa. Rồi bà bỗng đổi giọng vui vẻ nói: - Dù sao đi nữa đây là một công việc vừa giúp tôi trau giồi nghiệp vụ, vừa được trả lương, còn gì bằng! Vừa nghe xong câu đó, Jenny bật cười thoải mái.
Khi nắng chiều đã nhạt dần và cái nóng đã bớt gay gắt, Jenny và bà Hằng đang ngồi nơi quán ăn ở một góc đường. Cô đã đi lang thang qua nhiều dãy phố, đã thu vào ống kính của cô nhiều hình ảnh của đất nước này. Là một phóng viên, cô đã đi nhiều nơi trên thế giới, nhưng điều làm cô kinh ngạc hơn hết là sự tương phản rất rõ nét giữa cái giàu và cái nghèo tại đây. Trên đường phố chật hẹp, cô luôn nhìn thấy vài chiếc xe hơi thật đắt giá sang trọng đang cố luồn lách, chèn lấn để vượt qua những dòng xe hai bánh, lẫn lộn cả những chiếc xe đạp trầy sơn cũ kỹ. Ở đây tất cả mọi người đều hối hả, hấp tấp, vội vàng khiến Jenny cảm thấy chóng mặt và cổ họng cô thật khô rát, Jenny quay lại nhờ bà Hằng gọi cho mình một "ly chanh đường". Cô phát âm bằng tiếng Việt 3 chữ đó khá rõ ràng khiến bà Hằng thoáng ngạc nhiên. Có gì đâu, Jenny mỉm cười kể: - Nhiều lần Brittney vẫn nói nếu có dịp trở về Saigon, cô sẽ gọi một ly chanh đường vì cô vẫn thường nghe các ông nhạc sĩ rên rỉ "... uống ly chanh đường, uống môi em ngọt..." nên cô muốn thử xem sao! Bà Hằng bật cười thành tiếng, nhưng hình như trong đáy mắt bà chợt thoáng hiện một chút tiếc nuối xót xa.
Jenny nhìn quanh quan sát, cũng vẫn chỉ là khung cảnh cũ với những cụ già hay những em bé mệt mỏi với xấp vé số trên tay đang cố mời chào mọi người mua giúp. Những người hành khất già nua, bệnh hoạn ngồi la liệt chờ sự bố thí của người qua lại, chợt Jenny bắt gặp hình ảnh khiến cô khựng lại. Nơi cuối dãy bàn sát tường, một cậu bé đang ngồi bó gối im lìm, cạnh cậu bé là một chú chó nhỏ. Hình ảnh này khiến Jenny chợt nhớ đến phim Charlie Chaplin cô vẫn coi ngày còn bé. Cái anh chàng Charlie này thường đóng cảnh nghèo khổ với một khuôn mặt rầu rĩ, thiểu não, bên cạnh cũng có một chú chó con. Đưa máy ảnh lên chụp cậu bé qua vài góc cạnh, Jenny quay sang bà Hằng ngỏ ý cô muốn gặp cậu bé. Khẽ gật đầu, bà Hằng lặng lẽ bước về hướng cậu nhỏ đang ngồi. Bước tới và đứng sát cạnh bàn Jenny, nhưng cậu bé vẫn cúi gằm mặt và hai tay buông thõng, chỉ có chú chó con vẫn hồn nhiên vẫy đuôi chạy loanh quanh. Jenny lặng lẽ kín đáo quan sát, cô thấy tim mình nhói đau khi nhìn thân hình gầy gò của cậu bé trong chiếc áo thun rộng thùng thình và rách lỗ chỗ. Cậu bé chắc chỉ khoảng trên 10 tuổi, Jenny thầm nghĩ, cô khẽ rút trong túi áo một khoản tiền và nhẹ nhàng nhét vào tay cậu bé. Cô nhờ bà Hằng nói với cậu những câu vỗ về an ủi. Bây giờ cậu bé mới ngẩng mặt lên lý nhí cám ơn, Jenny thoáng giật mình, vì trên khuôn mặt lem luốt xanh xao là đôi mắt sáng, trong veo, đen láy toát lên sự linh hoạt, thông minh. "Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn", Brittney thường hay đùa nói với cô như thế.
Sẵn trên bàn còn vài chiếc bánh bao, Jenny với tay đưa cho cậu bé hai chiếc bánh, đưa hai tay đón nhận, cậu cúi đầu thật thấp thay cho lời cám ơn và quay bước trở về góc tối nơi cậu ngồi lúc nãy. Jenny đưa máy hình lên, cô đã sẵn sàng chụp những bức hình cậu bé và chú chó nhỏ cùng ngẫu nghiến ăn chiếc bánh, nhưng ô kìa, Jenny bỏ máy hình xuống sững người nhìn. Cậu bé mở chiếc túi ny lông cậu vẫn đeo bên hông, bỏ một chiếc bánh vào. Tần ngần vài giây, cậu lại bẻ chiếc bánh còn lại làm đôi, bỏ trở lại bao và cột lại cẩn thận. Còn nửa chiếc bánh trên tay, cậu bé vừa ăn vừa đút cho chú chó nhỏ nãy giờ vẫn ngoan ngoãn đứng chờ. Bây giờ Jenny cảm thấy thật tức giận, tại sao cậu bé có thể "ăn chận" phần bánh của chú chó bé nhỏ như vậy. Cô nhớ tới bên Mỹ, nhà cô có hai chú chó, hằng tuần mẹ cô vẫn phải khệ nệ bưng về những bao thức ăn được biến chế đặc biệt cho từng loại chó khác nhau với những "khẩu vị" khác nhau, khi thì cá, lúc thì bò hay gà. Rồi cứ hai tuần một lần, mẹ cô phải chở hai chú chó nhỏ này đến những trung tâm để họ chăm sóc, o bế bộ lông và cắt tỉa bộ móng của chúng, "Pets are people too! Thú vật cũng là con người!" Jenny luôn đươc nhắc nhở và bảo ban như vậy. Nhìn chú chó vẫn đang liếm láp thèm thuồng, không dằn lòng nổi, Jenny cầm nguyên chiếc bánh bước về phía cậu bé, trước đôi mắt ngỡ ngàng của bà Hằng và cái nhìn sững sờ của cậu, cô đút cho chú chó trọn vẹn chiếc bánh, nhưng Jenny cũng kịp nhìn thấy đôi môi mím chặt của cậu bé, trước khi cậu quay mặt nhìn về hướng khác.
Trời đã bắt đầu tối đen, Jenny vẫn ngồi nói chuyện với bà Hằng, nhưng cô mơ hồ cảm thấy bà trở nên tư lự và khép kín hơn, giọng nói của bà không còn cởi mở, vồn vã như lúc ban đầu. Bây giờ cậu bé đang đứng trước mặt Jenny, cậu nhờ bà Hằng cám ơn cô về những cái bánh và nhất là cô đã cho chú chó nhỏ của cậu một bữa tối no nê, đêm nay chắc chắn nó sẽ ngủ yên không làm phiền cậu. Khẽ mỉm cười, Jenny giảng nghĩa cho cậu bé hiểu chó là người bạn vừa thân thiết, vừa trung thành với con người, cho nên cậu phải thương yêu và đối xử vừa đặc biệt, vừa công bằng với chúng. Bà Hằng thông dịch những câu nói đó cho cậu bé, nhưng đôi mắt bà xót xa như muốn nói thật nhiều những ý nghĩ trong đầu bà, nhưng bà đành khẽ thở dài cúi mặt. Cúi đầu chào Jenny, cậu bé và chú chó quay bước, hối hả băng qua đường. Chăm chú nhìn theo bóng dáng vội vã của cậu bé, bỗng Jenny nẩy ra một ý định táo bạo, cô quay sang vắn tắt nói với bà Hằng cô sẽ đi theo và tìm xem chỗ ở của cậu bé và chú chó nhỏ. Không kịp chờ ý kiến của bà, Jenny đã đứng bật dậy và phóng theo cậu bé. Khẽ thở dài, bà Hằng đành lật đật tất tả bước theo bóng Jenny. Không mấy khó khăn, Jenny đã bắt kịp cậu bé, nhưng không muốn cậu biết có người theo dõi, cô cố giữ một khoảng cách khá xa. Sau khi băng qua hai góc phố, vài con đường, cuối cùng cậu bé và chú chó nhỏ dừng lại dưới mái hiên của một tiệm sách đã đóng cửa. Jenny và bà Hằng vội ngồi thụp xuống bên lùm cây cách đó không xa, cô cố nhướng mắt nhìn về phía trước. Hình như cậu bé đang tìm ai, cậu nhớn nhác ngó quanh, chú chó cũng sủa lên vài tiếng. Bỗng từ trong góc tối một bóng người xuất hiện, đúng ra là một người đàn ông, nhưng ông lê "bước" ra bằng hai bàn tay, bởi đôi chân ông đã cụt qua quá khỏi đầu gối. Bên cạnh ông là một bé trai nhỏ khoảng 3, 4 tuổi. Cậu bé vội bước tới khẽ dìu ông và dắt tay người em trai nhỏ. Họ cùng ngồi xuống bên vệ đường, cậu mở vội chiếc túi và lôi ra chiếc bánh cậu để dành ban nãy đưa cho người đàn ông, xong cậu quay sang ôm người em nhỏ vào lòng, cậu từ tốn đút từng mếng bánh nhỏ cho em. Điều kỳ lạ là chú chó nhỏ vẫn đứng yên lặng vẫy đuôi, dường như đây là hình ảnh rất quen thuộc mà nó thấy mỗi ngày.
Jenny gần muốn như ngã khụyu khi nhìn hình ảnh đó, cô phải ngồi bệt ngay xuống bên vệ đường. Cô chợt nhớ lại lời khuyên của cô với cậu bé khi nãy là hãy thương yêu loài vật, rồi cô lại liên tưởng những tháng ngày cô còn bé. Chỉ một bữa ăn sáng không đúng ý, chỉ vì không có đôi giầy đồng mầu với chiếc váy, cô đã giận mẹ cô cả tuần, không nói năng, thậm chí có lúc cô còn muốn "run away from home", bỏ nhà đi bụi đời! Những lời cô vừa cao giọng giảng giải cho cậu bé thật lố bịch biết bao. So sánh với cậu bé, Jenny cảm thấy mình chỉ như là một giọt nước trước một đại dương bao la. Thò tay vào túi vét hết tất cả những đồng tiền cuối cùng, Jenny quay sang bà Hằng. Bà vẫn ngồi bó gối im lìm, đầu cúi thấp, bóng tối che khuất nên Jenny không thể nhìn thấy khuôn mặt bà cũng đang nhạt nhòa nước mắt. Vừa dúi vào tay bà những tờ tiền, có tờ còn hơi ướt vì thấm nước mắt của cô, Jenny thổn thức nói: - Hãy nói với cậu bé ấy là tôi xin lỗi, hãy tha thứ cho tôi. Trước khi bà Hằng kịp trả lời, cô đã vụt đứng lên và chạy ngược về phía khách sạn. Suốt ngày hôm sau, Jenny và bà Hằng đã ngồi chờ cậu bé tại quán ăn, cô cũng quay lại góc phố đêm qua, đi loanh quanh mong sao gặp lại được cậu bé và chú chó, nhưng cậu bé vẫn biệt tăm. Sáng nay khi chia tay với bà Hằng, cô đã dể lại số phone riêng của cô, hy vọng bà sẽ tìm ra cậu nhỏ và chú chó. Khi nghe Jenny hứa sẽ quay lại đây và sẽ ở lại lâu hơn, bà Hằng nhẹ nhàng nói: - Đến với Việt Nam, đôi khi một ngày cũng quá đủ, nhưng lắm lúc một trăm ngày vẫn cảm thấy thiếu! Nói xong bà khẽ xiết chặt tay cô và chúc lời thượng lộ bình an.
Đưa tay cột lại giây an toàn, Jenny khẽ tựa đầu vào ghế. Cô chợt nhớ đến hình ảnh cậu bé người Nhật của Miyako và cậu bé Việt Nam của Saigon. Cả hai đều có một tấm lòng vị tha bao la, nghĩ đến người khác hơn nghĩ đến mình, cả hai đúng là có trái tim thật nhân ái tuyệt vời. Nhưng rồi cô bỗng so sánh, cùng bằng nhau số tuổi, nhưng 2 hình ảnh, 2 cuộc đời sao quá khác biệt. Cậu bé người Nhật rất có thể ngay ngày hôm đó, cậu sẽ được đưa tới một nơi tạm trú, cậu có thể vẫn có những bữa ăn nóng sốt, chăn ấm nệm êm, từ những trung tâm cứu trợ, hay từ chính những người hàng xóm tốt bụng đầy lòng nhân ái. Có thể cậu phải hứng chịu những sự đau thương, mất mát những người thân yêu của cậu, nhưng chắc chắn Cậu bé vẫn được sống lại trong vòng tay che chở, ấp ủ thương yêu của những người thân còn lại trong gia đình. Cậu rồi sẽ vẫn chân sáo đến trường, những khổ đau rồi cũng sẽ chìm dần vào quá khứ. Cậu bé vẫn có một tương lai tươi sáng trước mặt.
Còn cậu bé Việt Nam đáng thương kia, đừng nói đến tương lai với cậu, với cậu chỉ có ngày mai là làm sao kiếm đủ thức ăn cho người cha già tàn tật và cho cậu em nhỏ dại. Cậu bé là cần câu cơm cho cái gia đình khốn khổ dù cậu chỉ mới hơn 10 tuổi, cái tuổi mà đáng lẽ cậu chỉ biết học hành vui chơi. Đôi mắt trong sáng đầy ắp tình thương kia liệu có biến đổi trước những tàn bạo khắc nghiệt của đường phố, hay những bầm dập của cuộc đời. Jenny cảm thấy như có bàn tay ai đang bóp nát trái tim cô. Nước mắt quanh vành mi, Jenny khẽ kéo tấm che cửa sổ máy bay lên, bên ngoài mặt trời vừa ló dạng, ánh lên những tia sáng ban mai trên những đám mây vàng rực rỡ, chợt Jenny nhớ đến một bài nhạc mà cô đã hát bao lần trong đại học: We are the World, We are the children , We are the ones who'll make a righter day, So let's start giving ... It's true we'll make a better day Just YOU and ME
Phải, chính bạn và tôi, chúng ta sẽ tạo nên những ngày tươi đẹp hơn . Jenny cảm thấy như chợt có một làn hơi ấm áp đang len nhẹ vào hồn cô. Cô chưa biết mình sẽ phải viết thế nào về cậu bé Việt Nam nhưng biết rõ đây là nơi cô sẽ còn trở lại. Chắc phải rủ cô bạn thân Brittney cùng trở lại và ở lại lâu hơn. Jenny nhè nhẹ khép đôi mắt và chìm dần vào giấc ngủ thật êm đềm có lẽ vì "con tim đã vui trở lại!"
Thật ra khi Jenny ca ngợi cậu bé người Nhật và cậu bé Việt Nam, cô gọi đó là những người có trái tim nhân ái tuyệt vời, nhưng cô đâu biết, chính cô cũng là người có trái tim thật từ bi. Cô cũng không biết người Việt chúng ta thường gọi những tấm lòng nhân ái, từ bi là "Trái Tim Bồ Tát".
Pha Lêhttps://www.youtube.com/watch?v=NEc3Y9ztvUsWe are the World (video with lyrics for children) . | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Mon Jul 13, 2020 8:06 pm | |
| . Người đàn bà may mắn - Minh Hoà
Người Lính Ấy Của Tôi Tôi quen anh năm 17 tuổi, khi còn cắp sách đến trường. Lúc ấy anh là sinh viên sĩ quan năm thứ ba, hai mươi tuổi đời, nhưng dạo đó trong mắt tôi anh thật chững chạc, lại tài hoa, và cũng không thiếu… si mê. Anh nhất định đòi cưới tôi ngay sau khi ra trường, nói rằng Thầy Mẹ anh sẽ ưng ý, không thể phản đối. Tôi hình như có hơi ngạc nhiên và hơi… sợ sợ, vì tuổi 18, 19 thời đó còn nhỏ lắm, chẳng biết gì, chỉ biết rằng tôi hình như cũng… yêu anh nhiều lắm. Tôi còn nhớ, tuy còn nhỏ và ngây thơ lắm, nhưng những ngày giữa năm thứ tư của anh, từng đêm tôi đã thổn thức một mình. Cảm giác lúc ấy là chỉ sợ mất anh vào nơi gió cát mịt mù mà biết bao người trai đã ra đi không hẹn ngày về. Và tôi nhất quyết lấy anh, tuy anh làm phiền lòng Ba Má tôi không ít, khi anh dứt khoát từ chối mọi công lao chạy chọt của song thân tôi ngay từ truớc ngày anh tốt nghiệp. Anh gần nổi giận cả với tôi, anh nhất định đi Nhảy Dù. Bao nhiêu giòng nước mắt cũng không cản được con người ấy. Gia đình tôi ngần ngại, nhưng tôi là con gái út, được cưng nhất nhà, vả lại cả nhà ai cũng quý mến anh…
Thế là tôi rời ghế nhà trường năm 19 tuổi, lên xe hoa mà tưởng như đang trong giấc mộng tình yêu thời con gái. Rồi thì giã từ quê huơng Đà lạt yêu dấu, giã từ những kỷ niệm yêu đương trên từng con dốc, từng vạt nắng xuyên cành trong hơi lạnh thân quen, từng hơi thở thì thầm trong ngàn thông thương mến, tôi theo anh về làm dâu gia đình chồng ở Sài Gòn. Tôi chưa hề được chuẩn bị để làm dâu, làm vợ, đầy sợ hãi trong giang sơn nhà chồng, còn chưa biết ứng xử ra sao, nhưng được cha mẹ và các em chồng hết lòng thương mến. Các chú em chồng nho nhã luôn luôn hoan hô những món ăn tôi nấu nướng. Tuần trăng mật thật vội vã nhưng vô cùng hạnh phúc, chỉ vỏn vẹn trong thời gian anh nghỉ phép ra trường, rồi trình diện đơn vị mới, Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù ở Tam Hiệp. Mùng sáu tết Tân Hợi 1971, Sư đoàn Dù của anh đi mặt trận Hạ Lào. Hôm ra đi anh vui tưng bừng như con sáo sổ lồng, trong khi tôi thẫn thờ… Anh siết tôi thật chặt, không cho tôi khóc, nói rằng ra đi trong giòng nước mắt vợ hiền là điều xui rủi.
Tôi vội vã gượng cười, để rồi từng đêm thổn thức một mình trong căn phòng lạnh vắng, run rẩy lắng nghe từng tin chiến sự miền xa... Thư anh từ mặt trận toàn những điều thương nhớ ngập tràn, pha lẫn những lời như những tràng cười say sưa của người tráng sĩ đang tung mình trên lưng ngựa chiến. Mẹ chồng tôi chẳng vui gì hơn tôi. Hai mẹ con buôn bán xong thường đi lễ chùa, khấn nguyện. Bà cụ bảo tôi “phải khấn cho nó bị thương nhẹ để mà về, chứ vô sự thì lại không được về, vẫn còn bị nguy hiểm”… Tôi càng hoang mang, thảng thốt, quỳ mãi trong khói hương với đầy nước mắt, chẳng khấn được câu nào… Má tôi trên Đà lạt cũng vội lặn lội lên tận cốc xa, thỉnh cho được tượng ảnh Bồ Tát Quán thế Âm để chồng tôi về sẽ đeo vào cổ. Sau trận đầu tiên ở Hạ Lào anh trở về với cánh tay trái treo trước ngực. Tôi run run dội nước tắm cho anh để nước khỏi vào vết thương, mà không dấu được nụ cười đầy sung sướng, pha lẫn… đắc thắng, cảm ơn Trời Phật linh thiêng… Rồi anh lại ra đi. Tây Ninh, Cam Bốt, cùng những địa danh trong các giòng tin chiến sự mà tôi thuộc nằm lòng. Trảng Bàng, Trảng Lớn, Suông, Chúp, Krek, Đam Be… Anh đi toàn những trận ác liệt một mất một còn với quân thù quái ác. Vừa lành vết thương là lại ra đi. Tôi thành người chinh phụ, thao thức từng đêm, vùi đầu vào gối khóc mùi trong lời khấn nguyện Phật Trời che chở cho sinh mạng chồng tôi. Còn anh, anh cứ đi đi về về trong tiếng cười vui sang sảng, hệt như các bạn chiến đấu trong cùng đơn vị, mà nay tôi vẫn còn nhớ tên gần đủ: các anh Tường, Hương, Trung, Dũng, Sinh, Chiêu, anh Sĩ, anh Tâm, anh Quyền….
Mỗi lần trở về bình an là một lần cả nhà mở hội, và mỗi khi nhận lệnh đi hành quân là một lần tôi thờ thẫn u sầu trong lúc anh hăng hái huýt gió vang vang khúc hát lên đường. Con người ấy không biết sợ hãi là gì, không cần sống chết ra sao, và không hề muốn nghe lời than vãn, chỉ thích nụ cười và những lời thương yêu chiều chuộng. Anh nói không biết tại sao anh có niềm tin kỳ lạ là không có việc hiểm nguy nào hại được thân anh. Tôi chỉ còn biết chiều theo ý chồng, không bao giờ dám hé môi làm anh buồn bực, vì thời gian gần nhau quá ngắn ngủi, tôi chỉ lo chiều chuộng và đem lại cho anh những phút giây hạnh phúc hiếm hoi của người lính chiến, không muốn để anh bận lòng vì những nỗi lo âu. Lấy chồng hơn hai năm sau mà tôi vẫn chưa có cháu, vì anh cứ đi, đi mãi đi hoài, những ngày gần nhau không có mấy. Rồi mùa hè đỏ lửa nổ ra lúc Tiểu Đoàn 5 Dù đang đóng quân ở vườn Tao Đàn. Anh nhảy vào An Lộc, lăn lóc đánh dập đánh vùi với địch quân đông gấp bội trong gần ba tháng trời, mất cả liên lạc bưu chính, ở nhà không hề nhận một chữ một lời. Người hạ sĩ quan hậu cứ mỗi tháng ghé lại gia đình thăm hỏi đều phải vẫy tay tươi cười ngay từ đầu ngõ. Anh về được đúng một tuần, thì lại lên đường đi Quảng Trị... Rồi anh lại bị thương ở cửa ngõ Cổ thành, trở về trong phòng hồi sinh Tổng y viên Cộng Hòa. Trên đường tới bệnh viện cùng với gia đình, tôi ngất xỉu trên xe của người anh chồng…
Nhưng rồi anh vẫn đứng dậy, lại khoan khoái cất bước hành quân. Ôi, không biết tôi mang nợ anh từ tận tiền kiếp xa xôi nào, mà tôi yêu thương đến thế cái con người dường như chỉ biết miệt mài say mê chiến trận. Tôi chỉ biết ước nguyện của anh là trở thành một tướng Patton của Việt Nam, “… Rồi nước mình sẽ phải tự chủ hơn lên, mấy năm nữa phải khác hẳn đi chứ. Nền nếp quân đội sẽ phải thay đổi. Anh muốn làm tư lệnh đại đơn vị, để anh điều động liên quân chủng, cả thiết giáp, máy bay, đánh giặc như Patton cho mà coi. Căm bốt, Hạ Lào Trung Thượng Lào ăn nhằm gì… Hà hà”. Tôi chỉ ậm ừ vì chẳng hiểu gì, khi anh thì thầm bên tai tôi vào một đêm tôi dần thiếp đi trong đôi cánh của hạnh phúc, một lần anh về phép hành quân... Sinh cháu gái đầu lòng năm 1973 ở Đà Lạt, anh về thăm mẹ con tôi và trường cũ, xong lại bay đi trấn thủ đường ranh giới ngưng chiến ở vùng Tây Nam Huế... Tháng tư năm 1975, đơn vị anh đóng quân ở Thủ Đức, chuẩn bị tử chiến với quân thù. Chú em chồng là sĩ quan chuyên vận tàu HQ505. Tàu ghé Sài Gòn để chuẩn bị đi công tác Phú Quốc. Chồng tôi bảo cả gia đình, gồm Thầy Mẹ, các chú và cả mẹ con tôi, xuống tàu đi Phú Quốc lánh nạn chiến sự, rồi khi yên sẽ lại trở về. Tôi tưởng anh cũng định ra đi, nhưng anh quắc mắt nói tại sao anh lại phải bỏ đi lúc quân lính của anh vẫn còn chưa nao núng, “bọn nó làm gì thắng nổi khi cả Sư Đoàn Dù đầy đủ bung ra phản công, cho nó ăn một cái Mậu Thân nữa thì mới hết chiến tranh, quân Dù đánh giặc một chấp bốn là thường, còn trận cuối này là xong.…” Anh hăng say như sắp xung trận, nhưng rồi anh quay lưng lại, run giọng bảo tôi hãy bế con theo xe của ông anh ra bến tàu. Đến nước đó tôi không còn gì sợ hãi, ôm con nhảy xuống, nhất định đòi ở lại. Vợ chồng sống chết có nhau...
Ba lần toan vượt thoát từ đầu đến giữa tháng 5 đều thất bại não nề. Anh lên đường đi trại tập trung vào tháng 6, khi tôi đang mang bầu cháu thứ nhì… Bé Dung ưỡn người đòi theo bố. Anh quay lại, vẫy tay cười với mẹ con tôi. Vẫn nụ cười ấy, anh vẫn chẳng nệ âu lo sống chết là gì, nhưng còn mẹ con em, anh ơi???… Gia đình nhà chồng tôi thiệt có phước, hầu hết đã theo tàu 505 đi Phú Quốc rồi sang Mỹ, kể từ hôm tôi ôm con ở lại với chồng. Gia đình tôi từ Đà lạt chạy về Sài Gòn, sống chen chúc quây quần đùm bọc lẫn nhau. Hàng quán của gia đình chồng tôi bị tịch biên hết. Tôi nhất định giữ chặt ngôi nhà của cha mẹ chồng để lại, đuổi mấy cũng không đi. Chị ruột tôi bỏ dấn vốn ra mua được ngôi nhà khác, vì ông chồng ôm vợ bé chạy mất, nhà cửa xe cộ bị tịch biên hết. Tôi và các anh chị em tôi chạy vạy đủ điều để lo sinh kế, nuôi con thơ cha già mẹ yếu. Chồng tôi mịt mù tăm tích, chỉ có đôi ba lá thư viết về từ trại Long Giao. Lên Long Giao cũng không gặp được, rồi anh bị đưa ra Bắc. Năm đó tôi tròn 25 tuổi, dung nhan tuy tiều tụy nhưng vẫn khiến nhiều kẻ phải suýt soa dòm ngó. Biết bao người mai mối thì thầm bên tai tôi, thôi hãy lo cuộc đời mới, sĩ quan ngụy đi Bắc chẳng có ngày về... Bao nhiêu nỗi khổ đau dồn nén đôt nhiên bùng phát. Tôi vùng lên như một con cọp cái: bác thử nghĩ coi cả bọn cả lũ tụi nó đó có đáng xách dép cho chồng tôi không!!! Rồi ba mẹ con tôi ôm nhau khóc vùi trong tủi hận. Không, không, một ngàn vạn lần không. Quanh tôi chỉ còn toàn rác rưởi. Toàn bọn cán ngố từ Bắc vào và từ trong khu ra, và không kể các bậc trưởng thượng cùng anh em chiến sĩ miền Nam đang khổ sở, thì đàn ông ở miền Nam khi ấy cũng chỉ còn bọn người không đủ điều kiện để phải đi tù cải tạo, dù chỉ có ba ngày. Vâng, những người đàn ông ở miền Nam mà đang đi tù Cộng Sản mới là những người xứng đáng với đàn bà con gái miền Nam ở lứa tuổi tôi. Chị em chúng tôi gọi đó là “tấm bằng tù cải tạo” của các ông để chọn gửi cuộc đời, dù là trao gửi vào một nơi bất định…. Còn gì nữa mà chọn lựa! Thà vậy, đành thôi. Tôi đã là vợ anh, tôi vẫn tôn thờ anh trong tim óc, làm sao khỏi lợm giọng trước bọn người lường lọc, bướm ong, hèn hạ bợ đỡ kẻ thù, thấp kém từ kiến thức đến tư cách.
Chị em tôi buôn bán từ thuốc lá đến bánh cuốn, bánh ướt, bánh mì, thuốc tây, thuốc nam, kiêm luôn cắt chải gội uốn tóc, làm móng tay … nhưng luôn tránh chỗ công quyền và nơi phồn hoa nhan nhản những con mắt hau háu của bọn cướp nước và bọn trở cờ. Mấy anh chị em tôi đồng lòng, đùm bọc lẫn nhau, nên áo rách nhưng một tấm lòng son tôi vẫn vẹn với câu thề… Vượt qua được thời gian khó khăn cực khổ nhất lúc ban đầu, sau ba mẹ con tôi được gia đình chồng từ Mỹ chu cấp, tuy không dư dả nhưng cũng đủ gửi quà ba tháng một lần, rồi lại dành dụm cho một chuyến thăm nuôi…. Anh từ miền cực bắc bị đưa về Thanh Hóa chừng một năm, thì tôi xin được giấy phép đi thăm nuôi. Tôi và chị tôi chạy đôn chạy đáo mua đủ một trăm năm chục ký quà để tôi đem ra Bắc cho chồng. Bà cụ buôn bán quen ngoài chợ lại nhờ đem thêm năm chục ký thăm dùm con trai, vì con dâu cụ đã vượt biên. Cháu Dung đã lên 6, em Long nó 4 tuổi và chưa lần nào thấy được mặt cha. Tôi đem cả hai con đi cho anh gặp đứa con trai. Xuống ga Thanh Hóa, cả đoàn quân khuân vác vây quanh gọi mời giục giã. Tôi và mấy chị cùng thăm chồng chia nhau giữ chặt hàng hóa không cho ai khiêng vác, rồi tự mình kéo lê kéo lết đi thuê nhà trọ. Không cho khiêng bọn chúng trở mặt chửi liền. Có người đã đi về kể rằng cứ sơ ý là bọn dân này vác hàng chạy mất. Chúng tôi cũng phải chia nhau ở lại nhà trọ coi chừng hàng và đi chợ. Tôi nhờ một chị mua thêm được ký mỡ, về rang tóp mỡ ngoài sân nhà trọ. Nghe con khóc, tôi vội vã chạy vô nhà. Chưa kịp dỗ con thì nghe tiếng ồn ào. Quay ra, hai kẻ cắp đã bưng chảo tóp mỡ ù té chạy, chị bạn rượt theo không kịp. Tôi khóc thầm tiếc hoài, cứ nghĩ những tóp mỡ kia đáng lẽ đã giúp chồng mình đỡ bao đói khát.
Xe đò đi Thanh Cẩm chật ních những bà thăm chồng. Chúng tôi năm người lớn và hai cháu xuống ngã ba Nam Phát để vô Trại 5. Tôi lê từng bao hàng rồi lại quay lui kéo lê bao khác, chừng hơn nửa cây số mới đến trạm xét giấy tờ vào trại, hai cháu còn quá nhỏ chẳng muốn chúng đụng tay . Cô Út thiệt giỏi, xong phần mình lại xông xáo giúp hết người nọ tới người kia. Xong giấy tờ, chờ một lát thì một người tù hình sự đánh xe trâu đến. Hàng hóa và hai con tôi được lên xe trâu, tôi và chị Phước, chị Điệp cùng hai mẹ con cô Út lẽo đẽo theo sau. Đường đi xuyên trại xuyên rừng dài tám cây số. Chúng tôi chưa biết lúc trở ra mới càng thê thảm. Chân tay rã rời, tới chiều tối mới thấy cổng trại 5 Lam Sơn. Đêm xuống bé Dung còn phải phụ tôi gom lá mía cho tôi vội nấu hết gạo thành cơm, nắm lại từng vắt, vì nghe nói công an không cho tù chính trị đem gạo sống vô, sợ các anh âm mưu trốn trại. Đêm chờ sáng để thăm chồng, nhìn hai con thơ ngây ngủ say sưa vì mỏi mệt, tôi rời rã vô cùng nhưng không sao ngủ được. Hằng trăm hình ảnh chồng tôi nhảy múa trong đầu… Chồng của tôi, người lính dù hăng hái húyt sáo mỗi khi nhận lệnh hành quân ấy, nay đã ra sao??? Sáng, đến lượt ra nhà thăm nuôi ngong ngóng chờ chồng, tôi không được phép ra khỏi cửa căn buồng nhỏ xíu, kê một bàn gỗ dài và hai ghế băng dọc hai bên. Đột nhiên một ông lạ hoắc đứng lù lù ngay cửa. Tôi ngỡ ngàng chưa biết điều gì. Cô nữ công an nhìn chòng chọc, hằn học, đợi chờ như con gà đá sắp tung đòn. Tôi không thể hiểu người con gái Bắc cỡ cùng tuổi tôi kia thù hằn tôi điều gì. Tôi ngó lại, lát sau cô ta coi sổ xong, mới nói đây là anh Đức mà bà cụ nhờ tôi đi thăm dùm. Mất nửa tiếng giao quà và kể chuyện gia đình cho anh Đức nghe, tôi được biết chỉ còn một tiếng rưỡi gặp chồng. Thế là tôi bắt đầu ôm mặt khóc, càng lúc càng nức nở vì tủi cực, không thể nào cầm được. Trên thế giới này có ai phải lặn lội hằng ngàn cây số để chỉ được gặp chồng có một giờ ba mưới phút không hả Trời?!! Hai cô công an lớn tiếng dọa dẫm, những là phải động viên học tập tốt, không lau sạch nước mắt thì không cho ra thăm… Nhưng kìa, ai như chồng tôi vừa bước ra khỏi cổng trại. Tôi không còn nhớ quy định luật lệ gì nữa, vùng đứng dậy chạy nhào ra như một tia chớp. Hai đứa nhỏ vừa khóc vừa chạy theo. Hai công an nữ bị bất ngờ không cản kịp, đứng nhìn. Tôi chạy tới ôm anh, và càng khóc dữ, đôi chân khụyu xuống, không còn sức lực. Trời ơi, chồng tôi ốm yếu đến nỗi tôi ôm không trọn một vòng tay. Người anh nhỏ thó hẳn lại, chỉ có đôi mắt sáng với tia nhìn ngay thẳng là vẫn hệt như ngày nào, nhưng nay đượm nét u buồn khiến tôi đứt ruột. Anh vẫn không nói được lời nào, chỉ bặm môi nhìn tôi nhìn con thăm thẳm. Tôi biết anh đang cố trấn tĩnh, vì không muốn rơi nước mắt trước mặt bọn công an. Anh dìu tôi và dắt con trở vào nhà thăm nuôi. Anh nắm chặt tay tôi, đưa vào chiếc ghế băng. Cô công an lạnh lùng chỉ anh bước sang chiếc ghế đối diện, rồi ngồi sừng sững ở đầu bàn, cứ chăm chăm nhìn vào sát tận mặt tôi. Anh khuyên tôi ở nhà ráng nuôi dạy con cho giỏi. Rồi thật nghiêm trang, anh bảo tôi phải đưa con đi vùng kinh tế mới, về tỉnh Mỹ Tho chỗ bác Chánh với chú Cương và cô Huyền đã xung phong đi khai khẩn rồi, đang chờ vợ chồng mình lên lao động sản xuất.
Tôi hơi sững sờ, rồi chợt hiểu, đang khóc lại suýt bật cười hân hoan, khi thấy nét khôi hài tinh anh của chồng tôi vẫn còn nguyên vẹn. Bác Chánh là tên gọi của Thầy mẹ chúng tôi, chú Cương và cô Huyền chính là chú Cường, chú em chồng đã đưa cả nhà xuống tàu HQ 505 đi lánh nạn. Cô công an có vẻ rất đắc ý, nhắc tôi: - Chị phải nói gì động viên anh ý đi chứ. Anh nhìn mắt tôi, cười thành tiếng. Tôi chợt cười, nhưng lại chợt giận hờn. Tôi cúi mặt giận dỗi: - Em không đi đâu hết, em chờ anh về đã rồi muốn đi đâu cũng được… Tôi lại khóc, hai tay nắm chặt tay anh, chỉ sợ phải xa rời. Cô công an cứ quay nhìn hết người nọ đến người kia, lên tiếng: - Chị này hay nhỉ! Phải đi kinh tế mới, lao động tốt thì anh ấy mới chóng được khoan hồng chứ! Trại giáo dục anh ý tiến bộ thế đấy, còn chị thì cứ…. Chỉ được cái khóc là giỏi thôi!! Anh không nhịn được, lại cười khanh khách và nói: - Đó em thấy chưa, cán bộ ở đây ai cũng sáng suốt như vậy hết, em phải nghe anh mới được… Em cứ thấy anh bây giờ thì biết chính sách Nhà nước ra sao, cũng đừng lo gì hết, ráng nuôi dạy con cho nên người đàng hoàng đừng học theo cái xấu, nghe…
Tôi dở khóc dở cười, chỉ nắm chặt tay anh mà tấm tức, dỗi hờn. Anh gọi hai con chạy sang ngồi hai bên lòng. Cô nữ công an do dự, rồi để yên, lại tiếp tục nhìn sững vào mặt tôi. Anh ôm hôn hai cháu, nói chuyện với hai cháu. Đôi mắt chúng tôi chẳng nỡ rời nhau. Mắt tôi nhòa lệ mà vẫn đọc được trong mắt anh những lời buồn thương da diết. Tội nghiệp hai con tôi đâu biết chỉ được gần cha trong giây lát nữa thôi. Tôi như một cái máy, vừa khóc vừa lay lay bàn tay anh, nhắc đi nhắc lại, em sẽ đợi anh về, anh đừng lo nghĩ gì nghe, em sẽ đợi anh về, em nhất định đợi anh mà... anh về rồi mình cùng đi kinh tế mới… anh ráng giữ gìn sức khỏe cho em và con nghe… Em thề em sẽ đợi anh về…. Em không sao đâu… Anh đừng lo nghĩ, cứ yên tâm giữ gìn sức khỏe nghe, em thề mà, anh nghe… Tôi chợt thấy chồng tôi nhòa nuớc mắt. Cô công an lúng túng đứng dậy, bỏ ra ngoài nhưng lại trở vào ngay, gõ bàn ra hiệu cho người ở ngoài. Người nữ công an kia chẳng biết núp ở đâu, lập tức xuất hiện, báo hết giờ thăm… Vợ chồng tôi lại ôm chặt nhau ở đầu bàn bên kia ngay trước cửa phòng, bất chấp tiếng gõ bàn thúc giục. Anh nắm chặt hai bàn tay tôi, chỉ nói được một câu: "Anh sẽ về đưa em và con đi, không thể quá lâu đâu, đừng lo nghe, cám ơn em… đã quyết đợi anh về… " Rồi anh nghẹn ngào… Tôi bị ngăn lại ngay cửa nhà thăm nuôi, cháu Dung chạy đại theo cha, cu Bi nhút nhát đứng ôm chân mẹ cùng khóc. Tôi ôm cây cột gỗ nhìn dáng anh chậm chạp buớc tới hai cánh cổng gỗ to sầm, mà không thể nào ngưng tiếng khóc. Anh ngoái đầu nhìn lại hoài, bước chân lảo đảo, chiếc xe cút kít một bánh mấy lần chao nghiêng vì hàng quá nặng…
Sáng hôm sau tôi như người mất hồn. Các chị bạn cũng chẳng hơn gì . Mây chị em và bà bác dắt díu nhau ra, mới biết không được về lối cũ, mà phải đi vòng bên ngoài trại cả gần hai chục cây số nữa để trở lại chỗ ngã ba Nam Phát. Đường xuyên rừng, rồi lại ra đồng trống, nắng hanh chang chang như muốn quật ngã ba mẹ con tôi. Cu Bi mệt lắm, có lúc ngồi bệt xuống, áo quần mồ hôi ướt nhẹp. Tôi phải đứng giữa nắng đem thân mình che nắng cho hai con, dỗ dành chúng, rồi lại bế cu Bi, lầm lũi bước thấp bước cao. Bà bác và hai chị cùng cô Út cứ phải đi chậm lại chờ mẹ con tôi. Bao nhiêu cơm gạo đã giao cho chồng hết, chúng tôi không còn gì ăn uống. Dọc đường mua được mấy cây mía, tôi róc cho các con ăn cho đỡ đói. Hai đứa không khóc lóc một lời. Bé Dung thiệt ngoan, luôn miệng dỗ em cố gắng. Bụng đói, chân mỏi rã rời trong lúc chiều cứ xuống dần. Đám người lang thang trong những cánh rừng tre nứa âm u, trên miền đất không một chút tình thương. Ai cũng lo sợ, dớn dác nhìn trước ngó sau, tự nhiên túm tụm lại mà đi, càng mệt lại càng như muốn chạy. Tôi bế cu Bi, mỏi tay quá lại xoay ra cõng cháu, vừa mệt vừa đói vừa sợ, lếch thếch vừa đi vừa chạy, không biết sẽ ngã gục lúc nào. Cháu Bi nhìn thấy mẹ mệt quá, đòi tuột xuống, rồi lại hăng hái tiến bước. May sao, đến hơn 6 giờ chiều, trời gần tối hẳn, thì trở lại được ngã ba Nam Phát. Hai công an dắt xe ra đạp về nhà, dặn chúng tôi ở đó đón xe đò ra Thanh hóa.
Đám người ngồi bệt xuống bên đường. Lâu lắm mới có một xe chất đầy người chạy qua, nhưng đều chạy thẳng, không ngừng. Đã hơn chín giờ đêm. Dáng cô Út cao mảnh rắn chắc đứng vẫy xe in lên nền trời đêm đầy sao như một pho tượng thần Vệ Nữ. Một xe lớn có hai bộ đội chở đầy tre nứa, từ xa chiếu đèn pha sáng lòa trên dáng người con gái đảm đang ấy, từ từ dừng lại. Chúng tôi xúm lại hứa trả thật nhiều tiền, rồi bà bác cùng hai con tôi được lên ngồi ca bin, còn tôi với hai chị và cô Út đẩy kéo nhau leo lên ngồi nghiêng ngả trên tre nứa, tay bám, chân đạp chặt vô thành xe, qua năm tiếng đồng hồ trên con đường đất dằn xóc kinh hồn, nhiều lần tưởng đã văng xuống đất. Ra đến Thanh hóa là hai giờ sáng. Các chị đi thăm chồng xuống tàu đêm thật đông, thăm hỏi tíu tít, trả lời không kịp. Khi ấy sao mà chị em chúng tôi thương nhau quá sức. Vé về Nam không có, phải mua vé ra Hà Nội rồi mới đi ngược trở về. Đêm hôm sau mới đến ga Hàng Cỏ, mấy bà con ra đường đang ngơ ngác thì các chị đằng xa đã đôn đáo vẫy chào, kéo chúng tôi tới chỗ… lề đường, đầy những chiếu với tấm ni lông, nơi tạm trú mà các bà “vợ tù cải tạo” gọi là… Hotel California. Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận chồng chúng tôi là “các ông cải tạo” như người miền Nam vẫn kêu với tấm tình trân quý, để phân biệt với những người tù hình sự. Cho nên danh từ thường đi theo với ý nghĩa nào mà người ta hiểu với nhau, không còn giữ được nguyên cái nghĩa mà nó được đặt cho vì mục đích chính trị xâu xa. Ngủ lề đường nhưng chẳng ai thấy khổ, vì gần nhau thấy ấm hẳn tình người đồng cảnh. Các chị em thì thầm trò chuyện suốt đêm, kẻ thì khóc rấm rứt, người lại cười khúc khích. Tôi vừa ôm con ngủ gật vừa quạt muỗi cho hai cháu, hình ảnh chồng tôi quay cuồng mãi trong đầu, khi anh nói, khi anh cười, lúc anh đầy nước mắt… Sau những nguồn cơn cực nhọc và xúc động mạnh này, về nhà tôi bị thương hàn nhập lý, rụng hết mái tóc dài, gần trọc cả đầu, tôi đã trối trăn cho bà chị nuôi dạy hai cháu, tưởng không còn được thấy mặt chồng tôi lần nữa… … Chín năm sau, đúng ngày giỗ đầu Ba tôi, anh đột ngột bước vô nhà. Tôi suýt té xỉu vì vui mừng, cứ ôm chặt anh mà... khóc ngất. Anh cười sang sảng: - Cái chị này chỉ được cái khóc là giỏi thôi, phải động viên cho chồng đi sang Mỹ đi chứ… Hà hà.
Các chị em tôi từ Đà Lạt tất bật xuống thăm. Vừa xong ngày đám giỗ thì cả nhà đã vui như hội. Tất nhiên tôi là người mừng vui nhất…. Hạnh phúc đã trở về trong vòng tay tôi. Tôi sẽ ôm thật chặt lấy nguồn hạnh phúc này, không bao giờ để cho đi đâu xa mất nữa…
MINH HÒA (Tác giả là phu nhân của CSVSQ/TVBQGVN Khóa 23 Nguyễn Tiến Việt) . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Sat Aug 08, 2020 9:42 am | |
| . BÀN CHÂN GỬI LẠI - Lê Nam Phương
(tặng Phan Xuân Sinh) - Thiếu úy! Thiếu úy! Em nghĩ chắc vùng này đây. - Tui xin ông, đừng có một thiếu úy hai thiếu úy. Bây giờ tui là công dân hạng ba. Ông có biết toa tàu hạng ba không? Người nhốt chung với súc vật. Thế đó. Quay về phía Nga, Sang hỏi: - Em mệt chưa? Nàng đang đứng tựa vào một gốc cây khô, dùng tay gạt gạt mồ hôi trên trán. Nàng mỉm cười, vừa nói vừa nhìn sâu vào cánh rừng. - Anh Tùy đừng gọi ảnh là thiếu úy nữa, phải gọi là ngài Đại tướng, phải không anh? Sang thầm nghĩ trong đầu: Ừ nhỉ, ngày xưa anh thường nói đùa với Nga là chắc phải lên đến Đại tướng thì cuộc chiến tranh này mới chấm dứt. Nhưng mới mang cái hàm thiếu úy chưa ấm ngực thì người anh em thân mến nào đó ở bên kia đã dành cho anh một trái mìn. Trái mìn oan nghiệt đó đã giữ lại của anh bàn chân phải. Cám ơn người anh em vô danh nào đó. Cám ơn nhà thiên tài nào đó đã sáng chế ra quả mìn. Anh giải ngũ với tỉ lệ thương tật 75%. Nga khóc một tuần. Anh nốc bia một tháng. Dm! Thế là ấm đời nghe con. Từ nay không còn chui nhủi từng đêm từng ngày trong rừng sâu, trong làng mạc hẻo lánh, không còn sợ người anh em thương mến nào đó giương súng nhắm vào ngực anh, nơi trái tim anh đang đập, nơi cất giấu đôi mắt của Nga.
Ô hô! Thế là tao nghỉ chơi nghe tụi bây. Hãy cố mà chơi cho hết mình nghe các con. Hỡi thằng Thi, thằng Kiếu, thằng Thao. Hãy tập làm người máu lạnh. Bắn không thương xót. Càng nhiều đứa chết tụi mày càng mau lên tướng. Hãy ngủ với muỗi rừng. Ngày mai về ngủ trên nệm êm. Caravel Continental. Hãy cố uống nước bùn có mùi nước đái trâu. Ngày mai về nốc Whisky. Hãy ôm xác bạn bè mà ngủ qua đêm vì trực thăng tải thương không tải kịp. Mai về tha hồ ôm mấy em, từ loại 10 đô la đến 100 đô la. Ô hô. Tao nghĩ chơi rồi. Từ giã tụi mày. Giã từ núi rừng Trung Việt. Giã từ giày trận, nón sắt. Giã từ bản làng xơ xác. Giã từ xác chết. Giã từ ngày khát cháy khô, đêm lạnh cóng bầm tím thịt da. Giã từ. Giã từ. Tao sẽ về ngồi trong ngôi từ đường của dòng họ, ngôi từ đường mà đạn pháo làm tung mất một mái. Ông bà tổ tiên không được ngồi yên trên bàn thờ, vung vãi bài vị các ngài. Tao sẽ về trong ngôi từ đường, nhặt từng mảnh gỗ có khắc những dòng chữ mà tao không thể đọc được, nhưng với tao đó là những dòng bí nhiệm. Tao sẽ khám phá theo cách của tao, sẽ trò chuyện với các ngài theo cách của tao. Hãy vui lên đi nghe các con. Tao đếch cần tụi mày thương hại. Mà tụi mày phải mừng cho tao chứ. Tao bây giờ buổi sáng nốc bia. Buổi trưa nốc bia. Buổi tối nốc bia. Có người yêu ôm trong tay. Có người yêu làm tình làm tội. Có người yêu đẩy xe lăn đi khắp phố phường. Hãy bắn giết thật nhiều mà lên tướng. Tự do nô lệ cái con khỉ khô! Đứa nào cũng ra rả, tao nghe mà lợm giọng. - Anh nhớ tới ai mà xa xôi thế? Nga dịu dàng đến bên anh, ấn vai anh ngồi xuống bên cạnh. Nàng mở xắc lấy chai nước. - Anh Tùy uống nước đã. Tùy đến bên một lùm cây còn ít cành xanh, ngồi xuống đó. Buổi trưa thinh lặng. Cây rừng thưa thớt và khô. Vài con chim thảng thốt bay lên kêu những tiếng kêu buồn rười rượi. - Chị với ông Sang uống đi, tui không khát. Ông Sang nè, ông phải cảm ơn cái thằng nào đó gài trái mìn cho ông giẫm lên, chỉ xin của ông có một bàn chân. Nếu không có quả mìn đó ông đã banh ngực vì một thằng kia ngay sau đó rồi. - Thì tui đã nói mà, vô cùng cảm ơn trái mìn ân huệ, vô cùng cảm ơn người anh em nào đó. Tui càng cảm ơn trời đất nữa. Ngày đó mà tôi xanh cỏ rồi thì bây giờ Nga đã tay bồng tay bế với một thằng nào đó trong đám bạn của tôi. Phải không em? Nga trừng mắt nhìn Sang: - Dĩ nhiên! Không biết chừng lại có vài chú nhóc đen như than hầm, bây giờ Nga đã tót sang Mỹ rồi, chứ đâu có lầm lủi theo cái anh chàng thương binh cụt giò này đâu. Sang bỗng cười ha hả. - Ông nghe không? Ấy, đời nó là thế. Mà em cũng phải cảm tạ đất trời nghe. May mà còn có anh để lầm lủi đi theo. Chứ không thì cũng có nước đi bán bia ôm thôi. Nga cấu nhẹ vào vai Sang: - Ừ nhỉ, biết đâu đấy. Tùy đưa mắt nhìn khắp khu rừng: - Ông nhận ra vùng này chưa? Hình như ông bị nơi kia kìa, gần cái mô đá tổ ong đó. Rồi! Đúng rồi! Như sực nhớ ra điều gì, Tùy bước đến bên Sang trong khi Nga dùng cành cây quạt quạt cho mát. - Ông có nhớ trước khi trực thăng bốc ông đi, ông nói gì với tôi không? - Nhớ chứ. Tùy quay về phía Nga đang mở to mắt chú ý nghe. - Chị biết không? Lúc ấy bàn chân anh ấy đứt lìa, máu ra nhiều lắm, người anh ấy xanh mét, nhưng vẫn còn tỉnh táo. Ảnh nắm tay em và dặn: “Tùy nhớ chôn dùm cái bàn chân của mình. Đừng để dòi bọ nó gặm nhấm, mình đau lắm. Nhớ giúp mình. Mình sợ lắm!” Lúc ấy em thấy buồn cười lắm nhưng cũng phải làm theo ý của anh Sang. Và em đã chôn cẩn thận. Sau này mỗi lần về phép em đều đến thăm anh Sang, lúc đó em cũng đã gặp chị rồi. Lúc nào ảnh cũng hỏi đã thật chôn cái bàn chân chưa. Ngừng một lát Tùy tiếp: - Thật ra thì em đã chôn rất cẩn thận, lại còn lấy một mảnh mìn chôn theo, và đúng là em chôn ngay mô đá tổ ong đó. Đúng rồi. Tùy mở ba lô lấy ra một cái xẻng cá nhân, loại xẻng trước kia quân đội Cộng Hòa dùng để đào hố cá nhân, anh nôn nao định bắt tay vào việc đào bới ngay nhưng Sang ngăn lại: - Khoan đã. Chúng ta nghĩ ngơi và ăn cái gì đi. Quay sang Nga anh nói: - Em trải tấm ni lông dưới bóng mát lùm cây kia, anh sẽ mang túi xách tới. Nga ngoan ngoãn làm theo, nhưng chân tay chị bỗng run run. Một cảm giác ớn lạnh chạy khắp người chị. Một người đi đào bới tìm kiếm chính một phần xương thịt của mình. Thật kinh khủng và bi thảm. Lại nữa, phần xương thịt đó mất đi mà được xem như là một may mắn, một sự may mắn làm chảy nước mắt. Mỉa may thay! Vừa bày thức ăn ra tấm ni lông. Sang nhìn Nga: - Anh không hiểu em nghĩ thế nào về việc này, nhưng với anh, anh thấy cần thiết vô cùng. Anh không thể mang cái ý nghĩ làm một con ma què cụt. Bàn chân của anh, anh phải đem về, sau này nếu phải đến lúc vĩnh biệt cõi trần gian, nó sẽ được nằm chung với xác thịt của anh trong một nấm mồ, anh mới an tâm. Dù khi sống, anh là một người què cụt, nhưng khi chết đi anh không thể làm con ma què cụt được. Làm người chưa trọn vẹn thì cố làm con ma cho trọn vẹn. - Anh nói chi nghe mà buồn quá. - Thiếu úy, à, anh Sang, khi anh nằm quân y viện có một ông chuẩn úy mới ra trường bổ sung, thay anh, anh biết sao không? Cầm quân chưa được một tuần, lãnh ngay quả B40. Tụi tôi phải trải tấm poncho ra nhặt từng mẫu thịt, xương, vung vãi khắp nơi, gom lại cũng gần đủ. Chỉ thiếu một cái chân. Nguyên một cái chân. Lạ thật. Chuẩn úy Hải. Anh biết ông này không? Trẻ măng. - Không. Nhưng không tìm thấy cái chân thật à? - Thật. Gia đình thân nhân không biết. Họ chỉ nhận được chiếc quan tài đã phủ cờ và hoa. Sang thở dài. - Tội nghiệp. Vậy là anh ta phải làm một con ma què cụt. Sao không kiếm cho anh ta một cái chân giả? Nga xen vào. - Anh kỳ thiệt. Ai lại đi lắp cái chân giả cho một xác chết. - Ừ nhỉ. Ai lại đi lắp cái chân giả cho một xác chết. Rồi anh nói như nói với chính mình. - Chắc tôi phải tìm cho anh một cái chân, anh bạn ạ. *** Vài ba người phụ nữ đi nhặt củi khô, theo đường mòn từ trong rừng đi ra, ngang qua chỗ ba người lạ đang ngồi, họ cũng dừng lại, đặt bó củi ở trên đầu xuống, dùng cái nón cời quạt quạt và tò mò nhìn. Một người trong họ trông còn trẻ lắm, nhìn cái xuổng và thức ăn bày trên tấm ni lông, rồi nhìn Nga chị hỏi: - Chị và hai anh đây ở đâu tới phải không? Sang nhanh miệng đáp: - Vâng. - Vùng này ít người qua lại – Người phụ nữ trẻ nói tiếp – quanh đây mìn nhiều lắm. Mới tháng trước đây có một người bị mìn đấy. Dưới kia kìa – Chị đưa tay chỉ về cuối cụm gai mắc cở cách chỗ ba người ngồi chừng trăm mét. Người phụ nữ lớn tuổi hơn ra vẻ biết rõ khu này, nói: - Chúng tôi ở đây chỉ đi trên những lối mòn, tránh những chỗ khả nghi có đánh dấu bằng những hòn đá. Nhưng cũng may may rủi rủi. Vô phúc thì: “Ầm!” Xong! Nga lấy nước mời ba người phụ nữ, họ từ chối. Người phụ nữ trẻ nói: - Chúng tôi có đủ nước rồi. Anh chị cẩn thận đó. Tụi tôi về. - Các chị về. Ba người đi nhặt củi vừa khuất, Nga lên tiếng trước: - Trời ơi, em sợ lắm. Đi tìm bàn chân của anh, biết có chưa, chưa biết chẳng may để lại thêm cái nữa… Sang trấn an: - Không có gì đâu. Bây giờ ăn xong, em ngồi đây. Anh với anh Tùy đến đào thử chỗ mô đá tổ ong kia. Nếu không có thì chúng ta về. Anh đành làm con ma què cụt vậy. - Anh Sang à. Tùy nói, thời buổi này tôi thấy nhiều người què cụt lắm. Què cụt chân tay đã đành, khối thằng què cụt cả cái đầu. Ấy thế mà chúng vẫn sống phè phởn đấy. - Ừ nhỉ. Cái đầu què cụt mà vẫn sống. Hay thật. Em có nhìn thấy anh bị què cụt cái đầu không? Nga? Nga tư lự: - Một cái đầu què cụt, gắn thêm một thân thể què cụt. Nó giống cái con gì nhỉ? - Một con người đấy chị Nga à. Không ai phủ nhận đó là một con người. Thế giới ngày nay xuất hiện nhiều con người như vậy. Anh Sang nghĩ mà xem. Từ Washington đến Moscow, từ Iran đến Iraq. Ôi thôi! Chúa phải ra tay thôi! Cái con người của Ngài không vẹn nguyên hình hài ban đầu rồi! - Em thấy nó lộn tùng phèo lên anh à. Đôi khi nằm mơ thấy mình mọc cái đuôi, lông lá đầy người. Hay là đến cái thời kỳ chúng ta trở lại con đười ươi như ông triết gia nào đó đã đưa ra cái thuyết biến hóa gì đó. Sang nhìn Nga đùa: - Như vậy em vừa công bố thuyết “lùi hóa” rồi đấy. - Thôi. Tiến hay lùi gì cũng được, chúng ta ăn trưa đi. Tôi đói lắm rồi – Tùy nói. Ba người ngồi quanh tấm ni lông dưới cái nắng trưa đã bắt đầu dịu lại để thời gian chảy vào buổi chiều. Nga cắt từng khoanh bánh mì và kẹp thịt đưa cho từng người. Sang cầm miếng bánh mì đưa lên mũi ngửi, rồi cắn một miếng, anh nói: - Tôi phục ông tác giả “Cái chuồng khỉ”. Hồi năm 67, 68 gì đó, tôi nghe nói về Blao thăm anh ấy. Một hôm, cùng vợ chồng anh ngồi ăn bánh mì, như chúng ta hôm nay. Thế là anh ấy nói về bánh mì. Tận ngọn nguồn. Qua từng thời kỳ. Chi tiết. Rõ ràng. Có dẫn chứng. Tuyệt. Một cái đầu siêu phàm. Bánh mì chỉ là một đề thi nhỏ thôi đấy. Anh ấy đi từ Hienghène, Karl Marx, Sartre, Chúa Trời, Thích Ca… Nhưng con người kỳ dị đó chẳng công nhận ai cả. Thiên hạ nhìn anh thấy anh có một cái đầu què quặt. Nhưng để tìm một cái đầu như thế cũng khó lắm đấy. Nga nhìn Sang: - Anh ăn đi. Nói hoài không biết chán. Còn phải đào bới tìm cái bàn chân của anh nữa chứ. Tùy nói: - Ăn xong, hai người ngồi đó mà mơ mộng. Để tôi đào. Nghe người phụ nữ khi trưa nói chưa? Đừng có mà đi lang thang. - Không. Tôi đi với ông. Em ngồi đây, cố chợp mắt một tí – Sang nhìn Nga âu yếm – Em lận đận với anh nhiều rồi. Đừng để anh phải ngồi mà khóc em. Chúng ta sẽ cố xong việc, về sớm để còn nhìn cho rõ đường mòn mà đi. Ra tới đường cái cũng mất vài tiếng chứ không ít. Nga nguýt Sang một cái rõ dài: - Anh mà cũng biết khóc à? Gớm! Nghe mà cảm động. Thôi em chết cho rồi để còn được nghe anh khóc. Ôi chao! Cái thời buổi này sao em thấy tìm một giọt nước mắt cho tình yêu khó quá. Anh Tùy có bao giờ khóc cho tình yêu chưa chứ anh Sang nói em nghi ngờ quá. - Nói thật với chị, nước mắt của loài người đã khô cạn lâu rồi. Mấy mươi năm chiến tranh dằng dặc, con người đã khóc triền miên qua bao đổ nát. Người ta khóc lúc mặt trời vừa mọc ngoài ruộng đồng. Người ta khóc lúc hoàng hôn khi chưa kịp ăn bữa cơm chiều. Người ta khóc trên nền nhà cháy rụi. Người ta khóc dọc đường tản cư. Người ta khóc trên rừng. Người ta khóc dưới biển. Khóc người thân, bạn bè. Khóc trước kẻ thù. Ôi nước mắt loài người đã tuôn cạn lâu rồi. Tuổi trẻ chúng ta đâu có khoảnh khắc nào yêu đương. Mà có đi nữa thì nước mắt cũng khô cạn rồi chị ạ. - Anh nói chi nghe mà rầu thúi ruột. Nga trầm ngâm, nhìn Sang rồi nhìn xuống ngực mình nơi hai bầu vú của nàng đang rung lên thổn thức như ngầm nói với trái tim nàng: Không! Vẫn còn có TRÁI TIM. Trái tim con người. Trái tim nhân loại. Không thể khô cằn như thế. Nga ngồi buồn rười rượi. Hai người đàn ông mang dụng cụ đi về phía mô đá tổ ong cách đó non trăm mét. Nàng nói vói theo: - Đi cẩn thận nghe hai anh. Nhìn kỹ chỗ nào có dấu mòn mà đi. Sang quay lại: - Cảm ơn em. Đừng căng thẳng quá như thế. “Anh không chết đâu em”. Sang vừa hát vừa khập khiễng bước theo Tùy. Mặt trời đã dịu hẳn. Tùy đến bên mô đá tổ ong, xác định lại vị trí. Dấu vết hơn ngần ấy năm vẫn chưa bị thời gian làm thay đổi nhiều. Chỉ có mô đá tổ ong hình như nhô cao hơn. Có lẽ do đất bị xói mòn. - Thấy có gì lạ không anh Tùy? Anh có ngại gì không? Hay để tôi đào cho. Anh đến chỗ Nga ngồi nghĩ đi. Lỡ có nổ thì một người lãnh. Dại gì mà hai thằng cùng lãnh. Sang tần ngần nhìn Tùy và nói thế nhưng Tùy cương quyết: - Không có gì đâu, thiếu úy, à, anh Sang à. Chẳng lẽ mìn rải trên từng phân vuông sao? Tôi chỉ nghe người ta nói đi tìm xác đồng đội, thân nhân chứ chưa bao giờ nghe người ta nói về một người đi tìm chính thịt xương của mình, như ông, ông Sang à. - Anh Tùy biết không, tôi thường nằm mơ thấy mẹ tôi, bà nói với tôi: “Con có cái bàn chân giống bàn chân bố con lắm!” Rồi bà khóc. Tỉnh giấc, tôi co chân lên sờ vào cái chân bị cụt, và không thể nào ngủ lại được. Trầm ngâm một lát rồi anh tiếp: - Mẹ kiếp, vào cái lúc mà trên sống dưới chết, vào cái thời con người luôn đi trong bóng đêm của thần chết, cụt mất cái chân để được ra khỏi bóng đêm đó. Mẹ kiếp, lúc đó tưởng mình may mắn. Mình lại cảm tạ đất trời, cảm ơn cái thằng ôn dịch nào đó đã gài trái mìn. Để rồi bây giờ đi đứng trong thế giới của những con vượn hai chân này mình lại thấy khổ sở. Thôi thì, như tôi đã từng nói với ông: ĐÃ LÀM MỘT NGƯỜI CHƯA TRỌN VẸN THÌ CỐ MÀ LÀM CHO TRỌN VẸN MỘT CON MA, đừng làm một con ma què cụt. Tùy cặm cụi đào. Bỗng anh la lên: - A! Đây rồi! Còn đây ông Sang ơi. Tôi thấy nó rồi. Sang vội vồ tới, chụp cái xẻng nơi tay Tùy: - Để tôi. Để tôi. Rồi anh bỏ cái xẻng sang bên. - Không được, phải dùng tay mà bới. Anh dùng mười ngón tay của mình bới từng bụm đất nhỏ, từ từ, thong thả, nhè nhẹ, như sợ kinh động xương cốt người chết. Hai ngón tay anh chạm phải mảnh thép, chảy máu, máu nhỏ xuống trộn vào lớp đất nâu đen có phần xương thịt anh tan hòa trong đó. Anh nhón tay lấy mảnh thép lên, vài lóng xương ngón chân vướng theo màu vàng đục. Tùy đưa anh mảnh vải đỏ đã cẩn thận mang theo. Anh trải mảnh vải lên mặt đất, nhặt từng mảnh xương, đặt cẩn thận lên đó. - Mẹ ơi đây là xương thịt của con. Anh đưa một lóng xương nhỏ cuối cùng lên hôn, cẩn thận gói toàn bộ xương bàn chân lại, bọc thêm một lớp giấy báo rồi bỏ vào một túi ni lông. Anh ôm nó vào người, ngồi nhìn về phía Nga, nàng cũng đang gióng mắt về phía hai người. Sang nghe tim mình nhói đau và nhịp yếu ớt, như bao nỗi bi thương dồn về làm trương những mạch máu, dồn nén, ứ đọng, cơ hồ sắp bung vỡ ra, những giây thần kinh nơi chóp cái bàn chân cụt giật giật nôn nao niềm khao khát được nối liền với bàn chân đã mất. Thế là về với ta hỡi xương thịt của ta, về với ta hỡi một phần cơ thể của ta, một phần nhỏ bé nhưng lớn lao vô cùng, nó đã giúp ta đi đứng đàng hoàng những bước đi của con người. Sang chợt nhớ tới một người bạn đã không may mắn như anh: Mai Đình Hanh! Tao vẫn còn may mắn hơn mày hỡi Mai Đình Hanh. Hai mươi tuổi mày đã bỏ cả hai chân nát bấy bầy nhầy nơi cánh rừng nào đó của miền Thượng du Trung Việt. Bây giờ tao biết mày vẫn còn sống, sống cơ cực và bi đát ở một vùng quê nào đó. Mày không còn đủ hai chân để đi về cõi chết. Mày bò lê trên mặt đất như một con thú già nua bệnh tật không nhớ nỗi tên mình, không biết mình là ai thì làm sao biết còn có con người trên trần gian này. Tao may mắn hơn mày bởi vì tao vẫn còn cà thọt trên nạng gỗ, tao vẫn tìm thấy xương thịt tao cho dù đã mục rã. Tao chưa hy sinh cho ai, nhưng mày, mày đã hy sinh cho ai? Tuổi thanh xuân và máu thịt thanh xuân. Bắn bỏ mẹ nó đi bọn đầu cơ chính trị, bọn đầu cơ chiến tranh. Bọn ra rả nhân danh tự do, công bằng nhân ái. Bây giờ mày bỏ đi như một con thú già bệnh tật có đứa nào đứng cúi đầu trước mày gắn cho cái chiến thương bội tinh và cho mày mấy đồng trợ cấp? Mẹ kiếp! Tao đếch cần! Cũng chỉ là trò đểu! Ba người lần theo con đường mòn xuyên qua mấy đám cỏ dại tới những vạc ruộng mùa này đã khô và nứt nẻ. Chạy dọc theo mấy đám ruộng là con đường rải đá, con đường giao thông chính dẫn tới quốc lộ I. Hai bên nhà cửa thưa thớt lụp xụp, mái lợp tranh thấp lè tè. Con người ở đây lầm lì, cặm cụi làm việc, chẳng ai quan tâm tới ba người khách lạ vừa đi vừa quan sát họ. Một vài đứa nhỏ, quần cộc, ở trần, da đen nâu, ngồi vắt vẻo trên lưng trâu im lặng chăm chú nhìn một cánh diều bằng giấy đang lơ lững cô độc trên cao. Sang bước từng bước gập ghềnh, hai chân không cân đối nên dáng đi của anh nghiêng nghiêng và hơi đổ về phía trước. Nga ái ngại: - Anh ổn chứ? - Được, không sao. Đi đứng trong đời bằng cái chân giả thì phải cố làm ra vẻ cho nó không giả. - Sao lại phải rắc rối vậy ông Sang? Tùy nói. Ông đang bước đi bằng cái chân giả nhưng là những bước đi rất thật của cuộc đời còn lại. - Anh Sang thì lúc nào cũng cay đắng thế. Ngày xưa em yêu anh thế nào thì bây giờ vẫn thế. Không ai nhìn anh khác đâu. - Có thể. Có thể không ai nhìn anh khác đi. Nhưng anh? Anh nhìn quá rõ mình đã khác đi rất nhiều, em ạ. Thí dụ thế này nhá. Khi anh lên giường với em, vâng, thì không thể nào lại mang theo cái bàn chân giả. Và em, em có thấy hứng thú không khi thấy cái mỏm chân cụt của anh đang ngo ngoe như cái đầu của một quái vật kỳ dị Nga chùng xuống: - Thôi anh đừng nói nữa, anh cứ mãi khổ sở thế này thì làm sao mà sống. Mà bây giờ anh cũng đạt cái tâm nguyện của anh rồi, và bên anh lúc nào cũng có em, có bạn bè. Sang đọc lẩm bẩm: “May mà có em đời còn dễ thương”. Ôi Vũ Hữu Định, mày đã nói thế sao mày bỏ đi? Đời còn dễ thương quá sao mày bỏ đi? Nga ơi! Bạn bè ta ơi! Ta đang bước đi khập khiễng bên các người. Bàn chân ta què cụt hay tâm hồn ta què cụt? Nhân danh điều gì để ngợi ca một con người què cụt đã hy sinh vì những tham vọng của những quái thai lịch sử. - Anh Sang ơi. Nghe tiếng Tùy, Sang quay lại, không đợi Tùy hỏi điều gì, anh nói: “Chúng ta đón xe về Cẫm Hải chiều nay, trước để anh và Nga thăm mộ má tôi, và tôi gởi bàn chân này lại cho má giữ hộ. Quay về thành phố vẫn kịp, đừng lo. Đó không phải là một nghĩa trang rộng lớn, chỉ là một khu đất lồi lõm lỗ chỗ những gò và hố. Mồ mả cũng không nhiều và chôn cất bình thường, không xây gạch đá như những nghĩa trang lớn, thường chỉ đắp một mô đất và có đặt một tấm bia ghi rõ họ tên, ngày sinh, ngày chết của người quá cố. Một khu chôn cất như bao khu chôn cất của làng xã Việt Nam từ bao đời nay. Mồ mả chen lẫn với vườn cây, ruộng rẫy, đôi khi nằm ngay sau nhà. Người sống và người chết không muốn xa nhau. Dù người chết đã vĩnh viễn về cõi bên kia, nhưng trong lòng người còn lại vẫn cảm nhận họ còn ở đâu đó trong từng ngóc ngách của ngôi nhà. Họ còn ở đâu đó ngắm, dõi theo đời sống của cháu con. Và người còn sống nghĩ rằng họ sẽ được người chết phù hộ độ trì, bởi vậy họ càng ăn ở theo đạo lý nhân đức. Họ không bao giờ quên những ngày giỗ kỵ. Sang không biết má anh có biết anh luôn thương nhớ bà, niềm thương nhớ vô bờ đó đã giúp anh bước đi những bước khập khiễng trong quãng đời còn lại của mình bình an hơn. Anh tìm thấy mộ mẹ mình nhanh chóng, bởi anh rất thường về đây đốt nhang cho bà. Sau khi thắp nhang khấn lạy trước mộ, anh bảo Tùy đưa cái xẻng và tự tay đào một cái hố nhỏ bên cạnh phần mộ của mẹ, hơi dịch về phía dưới một chút. Không tháo cái bọc ra, anh cẩn thận đặt bọc vào cái hố con rồi lấp đất lại. Xong anh nhờ Tùy khiêng một tảng đá gần đó đặt đè lên. Lấy bó nhang Nga đã đốt sẵn, anh một lần nữa, trước mộ mẹ mình: - Lạy má, đây là một phần thân thể của con, một phần nhỏ trong hình hài con mà má đã mang nặng đẻ đau, con gởi nó đây, bên cạnh má. Mai kia chắc chắn có ngày con sẽ về đây, vĩnh viễn bên má, còn có cái bàn chân này, con sẽ được ở bên má trọn vẹn hình hài, má sẽ thấy con đầy đủ chân tay, không còn là một con người què cụt nữa. Anh cắm hết bó nhang trước mộ, quày quả bước đi. Tùy và Nga vội vã bước theo anh. Ở đâu đó gần đây, vang lên tiếng chuông mõ và tiếng kêu khóc. Hình như có một đám tang. Lê Nam Phương (tức Lê Văn Trung). | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian Fri Jan 15, 2021 12:30 am | |
| . Chanh Cốm - Trần Yên Hòa
Hoạt lái xe theo đường Garden Grove rồi quẹo vào khu giặt đồ công cộng. Hai tuần một lần anh đến đây giặt quần áo. Nhà anh ở là khu apartment nhỏ phía bên kia đường, ở đó cũng có phòng giặt sấy áo quần nhưng anh không thích, vì máy giặt nhỏ và sấy lâu khô. Với lại, ra chỗ giặt áo quần công cộng cũng có những niềm vui nho nhỏ. Ở đây anh thường gặp một số người Việt Nam, dù không quen biết nhưng là đồng hương, nên trong lúc rảnh rỗi chờ đợi sấy áo quần, anh thường góp chuyện cho vui, khi thì chuyện cộng đồng gió tanh mưa máu, khi thì chuyện Việt Nam ngày chưa rời đất nước. Nhiều lúc không nói chuyện với ai nhưng đứng nhìn mọi người sinh hoạt anh cũng thấy vui vui.
Xe chạy qua trạm xăng Mobil là tới chỗ giặt đồ. Đèn bắt đầu thắp sáng cả khu vực. Hôm nay anh đến hơi trễ vì có vài chuyện, cũng là chuyện tầm phào, làm mất của anh suốt một ngày chủ nhật. Buổi sáng đi uống cà phê với vài người bạn ở Factory, ngồi nói chuyện văn nghệ văn gừng trên trời dưới đất, trưa về có điện thoại của người bạn cùng khóa sĩ quan, kêu “mày đến nhà tau uống bia chơi.” Anh định từ chối vì anh cần phải ngồi vào computer viết tiếp cái truyện dang dở, nhưng khi anh ngồi vào bàn thì thấy toàn màu trắng của màn hình. Không có một ý nghĩ gì, không có một chữ gì trong đầu. Anh đành khép máy lại và lái xe đi. Những lúc thế nầy anh thường đi loanh quanh, hoặc vào tiệm sách hoặc vào các Mall. Nhưng đang lái xe anh nghĩ mình vô lý quá, xăng càng ngày càng lên giá mà lái xe đi loanh quanh hoài. Thôi mua thùng bia lại thằng bạn ngồi lai rai mà có lý. Anh lái xe đến nhà Đức thì đã có hai ba người bạn đã ngồi ở đó và mặt người nào người nấy đã đỏ gay. Thấy Hoạt xách thùng bia vào, Đức nói: “ Tưởng mày không tới chớ.” Hoạt đáp: “ Định không tới nhưng sợ mầy giận tau, lại có uống bia bỏ qua rất uổng.” Nhật nói: “ Mày tới sau bị phạt, mày vô hết chai nầy đi.” “ Vô thì vô, sợ gì.” Hoạt uống liên tiếp ba chai Heineken, nhưng anh kịp dừng ở đó vì biết mình còn phải lái xe về.
Những lần trước có Ngọc, Ngọc thường lái xe chở anh đi, bây giờ mất Ngọc, anh phải lái xe về một mình . Ngồi cà kê dê ngỗng đủ mọi chuyện. Có một lúc Nhật hỏi: “Ê, chuyện mày với ‘bả’ ra sao rồi?” Anh cười trả lời: “ Không có chi quan trọng lắm, người đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn người.” Hào lên tiếng: “Mày văn nghệ văn gừng lang bang cho lắm vào, bả ghen chứ gì?” Hoạt không muốn trả lời những người bạn không hiểu mình gì hết, anh đọc nhỏ một câu thơ: “Chí ta ta biết lòng ta ta hay.” Đức ngắt lời: “Thôi uống đi, nói chuyện nhiều bia bay hơi hết.” Ba đứa lại cầm ly giơ lên cao cụng nhau rồi nốc. Hoạt uống từ từ. Anh cảm thấy hơi buồn vì chuyện của anh không đâu vào đâu mà mấy đứa bạn cũng làm ầm ĩ. Yêu thương. Giận hờn. Chia cách. Đó cũng là chuyện thường tình. Anh lặng lẽ uống trong lúc mấy người bạn tiếp tục “dô, dô.”
Anh lái xe về mà cái đầu còn sật sừ. Anh biết mình không say nhưng cũng sợ cảnh sát chận bắt giữa đường. Anh lái xe đi trên những con đường nhỏ cho an toàn. Về đến nhà anh ngủ vùi, đến lúc thức dậy thấy trời gần tối nên anh phải lái xe đi giặt đồ. Không giặt đồ không có áo quần mặc đi làm ngày mai. Anh nghĩ đến công việc trong hãng, ngồi bên Thảo, Thảo sẽ nói: “Anh Hoạt hôm nay mặc đồ mới giặt ha?” Vì Thảo biết anh sống một mình, biết anh đã xa Ngọc, mà đàn ông sống một mình thường hay bừa bãi, làm biếng, luộm thuộm, nên Thảo thường hay nhắc khéo để anh siêng năng lên. Thảo là single mom, anh nói với Thảo “Em làm em gái anh nhe,” Thảo gục gục cái đầu làm bộ hờn dỗi. “Gì? Anh nói gì, trên đời nầy không có anh em giữa trai và gái.” Anh cười cầu hòa, “Vậy em muốn anh là gì của em?” Thảo đỏ mặt lên không nói, nhưng anh biết Thảo có cảm tình với anh. Anh cũng nghĩ, em gái gì khi Thảo chỉ nghỉ vacation một tuần, anh làm việc một mình, không có Thảo, anh thấy buồn tênh. Lúc đó, anh chưa bước qua ngưỡng cửa tình yêu với Thảo vì còn “bả,” chứ bây giờ còn đợi gì nữa đây. “Bả” là danh từ tụi bạn hay dùng để chỉ Ngọc. Ngọc với anh như sương khói, tràn đầy trong một sớm mai nào đó, nhưng khi mặt trời lên là biến mất.
Hoạt dừng xe trước Laundry, buổi tối mà cũng còn đông người giặt sấy, đông nhất là Mễ rồi tới Việt Nam. Anh hay nhìn những cô gái Mễ bận quần ngắn cũn cỡn để lòi ra cái lỗ rún. Có cô đeo tòn teng cái khoen. Anh nhìn cho vui, vô thưởng vô phạt, như là nhìn một vật lạ, nó không gây trong anh nỗi hưng phấn nào. Gái Mễ trong TV, Video, DVD, nhiều cô đẹp lắm, nhưng ngoài đời anh toàn thấy những cô gái Mễ màu da nâu bóng, thân thể mập thù lù, anh không có một cảm giác nào, nhưng dù sao cũng có cái để nhìn hơn là nhìn vào khoảng trống không. Hoạt ra ngồi trên chiếc ghế trống đợi, sau khi đã bỏ áo quần vào trong máy. Anh lấy cuốn truyện của người bạn vừa tặng ra đọc. Những lúc như thế nầy anh thấy cô đơn dễ sợ, anh muốn khỏa lấp những trống vắng bằng cách đọc một cái gì đó. Những lúc đó anh thấy nhớ Ngọc và cần Ngọc ghê gớm, nhưng Ngọc đã quay đi xa rồi.
Khi anh đem đồ đã giặt xong bỏ vào máy sấy là lúc anh thấy người đàn ông Việt Nam đi vào. Anh đoán ông ta khoảng sáu tám, bảy mươi gì đó. Chắc ông ta đi vào giúp đỡ con hay cháu đang giặt đồ ở đây. Nhưng không phải vậy, ông đi thẳng vào chỗ dành cho nhân viên của tiệm. Ông nhìn quanh quất, rồi vào mở khóa phòng restroom, ông vào trong đem ra cây chổi lau nhà, rồi ông ra lau sàn nhà, những chỗ trống không có người đứng. Hoạt nhìn ông, cười chào xã giao rồi hỏi: “Anh làm ở đây hả, mấy lần giặt đồ không thấy anh?” “Tôi chỉ làm thứ bảy chủ nhật. Ra phụ với ông bạn kiếm chút tiền uống cà phê. Với lại mấy tháng trước tôi ở Việt Nam.” Hoạt nhìn ông. Ông bận cái áo sơ mi màu xám đen đã sờn, áo tay dài mà không cài khuy nút nên trông luộm thuộm, cái quần tây màu xanh đậm, đôi dép nhựa đã mòn trông cũ kỹ. Hoạt nghĩ ông là người chăm việc siêng làm. Chắc bây giờ con cháu đề huề, nên chủ nhật buồn ra làm thêm cho vui. “Làm ở đây cũng vui chứ anh, chứ ở nhà đi ra đi vào, chán chết.” Ông cười rồi nói: “Vui, nhất là ngắm mấy em Mễ để bụng trắng hếu lòi cái lổ rún ra.” Hoạt hơi ngạc nhiên vì mới quen mà ông ăn nói bạo mồm bạo miệng. Vốn “kính lão” nên anh cũng cười phụ họa theo: “Con gái bây giờ ăn mặc trông ghê quá.” “Ghê gì, ăn mặc thế nhìn mới đã con mắt.” Ông vừa nói vừa dựa cái chổi lên trên cái máy giặt, rồi ngồi xuống cái ghế cạnh Hoạt. Ông thì thầm: “Con gái ở đây chỉ nhìn thôi, chứ ở Việt Nam muốn gì được nấy.” Hoạt ngỡ mình nghe lầm lời nói của ông già nầy quá. Định chào hỏi ông cho qua thời gian chờ đợi, không ngờ lại gặp ông già dân chơi, “ông già gân” hết chỗ chê. Hoạt hỏi lại: “Anh về Việt Nam có vui không?” Ông nhíu mày: “Hết sẩy, tôi về ở bên đó mười năm, mới qua lại đây năm ngoái. Mấy đứa con tôi sợ tôi bịnh hoạn nên kêu qua, chứ tôi thích ở luôn bên đó.” Rồi ông nhìn Hoạt, đôi mắt ông nháy nháy, đôi mắt như muốn nói với Hoạt rằng, đây là điều bí mật của đàn ông, chỉ có đàn ông mới nói với nhau mà thôi. Hoạt nghĩ, chắc đây là chuyện ăn chơi như rượu chè, cờ bạc hay đàn bà, mà hai chuyện kia, cờ bạc và rượu chè, nói ra cũng không đáng ngại, chắc chỉ có chuyện đàn bà thôi.
Hoạt cười đáp lại người đàn ông như biểu đồng tình. Hoạt lại nhìn ông, cái áo sơ mi dài tay, cái quần xanh đậm, cái mũ lưỡi trai che sập hết cái đầu, mái tóc. Dáng người nầy là thuộc dạng lao động. Gương mặt ông trông chất phác, ngờ nghệch, không lanh lợi, không đểu cáng, không lưu manh, Hoạt nghĩ, chắc thế. Hoạt bước lại chỗ để máy sấy, định coi thử áo quần đã khô chưa. Trước mặt anh là một đứa con gái Mễ, khoảng mười ba, mười bốn tuổi, bận chiếc quần jean ngắn cũn, đề lòi ra cả khoảng bụng và hông. Cái eo bắt đầu mập, đã có ngấn, cô bé bận cái áo hở cổ rộng, để lộ một mảng vú săn cứng, chắc nịch. Đứa con gái Mễ bước qua chỗ Hoạt lúc anh cúi xuống mở cửa máy sấy, cặp vú tròn lướt qua mắt anh, Hoạt tự dưng thấy ngợp. Có tiếng cười dòn phía sau. Thì ra ông bạn đồng hương coi máy giặt. Ông đứng gần Hoạt lúc nào không hay. Thấy Hoạt né tránh cái mông của cô gái Mễ, ông nói: “Gái ở đây sao bằng gái ở Việt Nam, em Mễ thì mập và hôi mồ hôi dầu, em Mỹ thì đắt giá nhưng nhão nhoẹt, và rộng thinh thang... Chỉ có em Việt Nam ở tuổi ‘chanh cốm’ là hết sẩy.” Hoạt nghĩ lời nói đó phát ra từ miệng một chàng thanh niên hay trung niên nào đó thì đúng hơn là của một ông già. Tự nhiên Hoạt muốn tìm hiểu thêm ở ông một chút, coi thử ra sao. Hoạt chỉ ra ngoài hàng ghế đợi, rồi nói nhỏ với ông: “Đồ sao sấy lâu khô quá, mình ra ngoài kia nói chuyện chơi đi anh.” Ông cười nói theo: “Anh ra trước đi, để tôi cất cái chổi.”
Hoạt ra ngồi ở hàng ghế dành cho khách, nhìn ông đang loay hoay cất dọn đồ đạc vào trong phòng vệ sinh. Từ xa nhìn ông, trông ông thật lam lũ, ông có dáng dấp của một ông nội, ông ngoại, ở nhà quê miền nam Nam bộ. Ông nội, ông ngoại, dắt cháu đi chơi trên đồng cỏ xanh tươi mát hay trên đường làng đầy cây giăng bóng, rợp cả một khoảng trời. Các cháu sẽ đu trên vai ông để ông cõng trên lưng mà tha hồ dung dăng dung dẻ. Hoạt nhìn khu giặt đồ về đêm đã vơi bớt người. Những người Mễ, Việt Nam, Đại Hàn cũng lục tục dọn dẹp áo quần trong những cái làn nhựa hay những cái bao bằng vải lớn. Hoạt giặt hai tuần một lần, nhiều đồ quá nên máy sấy lâu khô, thôi thì đợi ông bạn ra nói chuyện tầm phào cho vui. Ông bạn trở ra ngồi xuống ghế gần Hoạt: “Trời mấy ngày nầy nóng nực quá, tối ngủ phải mở máy lạnh mới chịu nổi.” Hoạt hỏi: “Anh qua đây hồi bảy lăm hay vượt biên?” “Bảy lăm chứ, hồi đó ít người Việt, cũng trầy vi tróc vãy lắm mới sống được, hồi mới qua, nhớ nhà lắm.” Hoạt cười: “Gia đình anh qua hết bên nầy mà nhớ cái chi.” “Thì nhớ cây cau, gốc mít, chiếc xe đạp, hoa bằng lăng, nhớ hết anh à.” “ Anh về Việt Nam ở mười năm lận hả?” “ Ừ, mười năm.”
Hoạt nghĩ đến mười năm, đó cũng là thời gian Hoạt sống trên đất Mỹ. Hoạt qua Mỹ mười năm, anh đã vô quốc tịch. Nhiều khi anh cũng muốn về thăm quê nhà một chuyến nhưng Hoạt cứ ngần ngại. Mười năm Hoạt đã làm gì được trên đất Mỹ nầy, đi cày ở hãng, làm suốt từ sáng đến tối mịt, lãnh lương cũng chỉ ba cọc ba đồng. Định để dành tiền về xây lại cái nhà từ đường cho có chỗ hương khói ông bà, xây cái mộ cha, mộ mẹ. Nhưng tính toán hoài, cũng chưa đâu đến đâu. Hoạt nghĩ, ông bạn về ở lại bên đó mười năm chắc là có vấn đề. Ông đến ngồi bên Hoạt, trông gương mặt ông rất hỉ hả. Cái gương mặt của sự thỏa mãn, bằng lòng với cuộc sống. Ông nói: “Tôi qua đây đã ba mươi năm, hai mươi năm đi cày thì tôi phải có mười năm hưởng thụ chứ. Con cái đề huề, có nhà có cửa, đứa nào cũng công ăn việc làm vững chắc, tôi còn lo lắng gì nữa đâu.” Rồi ông trở giọng nhỏ xuống, thầm thì: “Về Việt Nam mình phải biết chỗ chơi, chứ lang bang ở những quán bia ôm, karaokê hay mấy động đĩ là mình dính ngay, không bị mấy em lừa thì cũng bị sida. Ghê lắm.” “Vậy anh ăn chơi bằng cách nào?” Ông nhíp nhíp đôi mắt: “Thì bỏ tiền mua mấy em ‘chanh cốm,’ mấy em nhỏ ở vùng quê, cha mẹ nghèo, mình hứa giúp đỡ, cho tiền ông bà già, là mình được.”
Hoạt cũng biết chuyện nầy qua sách báo, những bài phóng sự đăng về chuyện mấy ông già Việt Kiều, có tiền, có bạc thừa mứa, đi mua trinh mấy em bé nhà quê nghèo khổ, hay chuyện những người đàn bà chuyên môn đẻ thuê. Xã hội đã chuyển qua màu đen xám. Nhưng trong trí óc Hoạt cứ nghĩ đến những ông già lái xe láng cóng, quần áo bảnh bao, bụng phệ, tóc chải mượt, da trắng bóng, mới làm những chuyện đó. Không ngờ người đàn ông nầy trông có vẻ lam lũ, dáng dấp của một người lao động chân tay, mà cũng có món ăn chơi dữ dội vậy. Hoạt tò mò: “ Anh kể nghe đi, ở đâu mà anh tìm ra món ‘chanh cốm’ ngon vậy?” “ Tôi về Việt Nam làm cái nhà để an dưỡng, tôi sống bằng tiền retire non gần một ngàn một tháng, ở Việt Nam, có tiền thì muốn cái gì không được.” “ Nhưng anh cũng biết mối manh chứ.” “ Thì nhờ bạn bè, mình có tiền đãi bạn bè thì bọn nó kéo tới ùn ùn, ăn nhậu thả dàn thì mình nhờ họ giúp đỡ mình là được. Có một chuyện với một con bé bây giờ tôi còn nhớ mãi.” “ Chuyện thế nào?” “ Anh biết không, từ hồi có phong trào gái Việt Nam gã cho người ngoại quốc, nhất là gã cho dân Đài Loan, Trung Quốc hay Hàn Quốc thì chuyện mai mối dễ ẹt. Ít ra mình là Việt Kiều Mỹ, mình có giá hơn chớ, vì ai cũng nghĩ mình chi tiền sộp hơn. Anh biết không, một ông già Đài Loan già hơn tôi nữa kia, mà cưới cô gái Việt Nam mười bảy tuổi, tổn phí tất cả chưa quá ba ngàn Mỹ kim, mà lại bị ổng bắt về Đài Loan làm tôi mọi, huống hồ gì mình, ‘em’ chỉ sống với mình một tuần, hai tuần thôi mà mình chi cho em một, hai ngàn, em mừng thấy mẹ.”
Hoạt ngẩn người. Thì ra những ông “Việt kiều hồi hộp” về Việt Nam mua vui là chính những ông như thế nầy đây. Không phải những người có bộ mã bên ngoài mới ăn chơi, những người trông dáng vẻ khù khờ như thế nầy mà có tiền còn ăn chơi gấp bội. Ông lên tiếng tiếp: “ Có một lần tôi được giới thiệu một cô ở huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp, cha mẹ cô ấy đã già mà nghèo lắm, cô còn một đàn em sáu đứa. Tôi bảo trợ cho tụi nó đi học, cũng ít thôi, rồi tôi lo thuốc thang cho ông già bịnh nặng. Sau đó tôi nói với ông già để đưa cô lên thành phố học nghề. Thế là mấy tháng sau tôi ‘bùm’ con nhỏ. Tuổi ‘chanh cốm’ ngon tuyệt.” “ ‘Chanh cốm’ là mấy tuổi?” “ Mười sáu.” Hoạt giật mình thực sự, mười sáu tuổi. Lớn hơn đứa cháu ngoại Hoạt sáu tuổi. Hồi anh mười sáu tuổi, đi học trường quận xa nhà, nhớ cha nhớ mẹ cứ khóc rấm rứt. Em nầy mười sáu tuổi đã bị ông già lấy tiền ra nhử, lấy đi đời con gái. Nhưng Hoạt đâu có quyền gì để lên mặt đạo đức lên lớp ông. Chuyện đàn ông ăn chơi, ai lại không muốn ăn miếng ăn ngon. Cái gì cũng là món hàng. Anh có tiền ít mà anh mua được hàng tốt, hàng rin, là anh trúng mánh, còn anh lơ tơ mơ, bị gài bẫy, dính hàng dỏm, hàng mả, thì anh phải chịu thôi. Cuộc sống biến đổi khôn lường. Ai cũng thủ về mình. Khi con gái, đàn bà, trở thành món hàng, thì người mua có quyền chọn lựa, kỳ kèo bớt một thêm hai.
Thấy Hoạt im lặng, tưởng anh tâm đắc, ông liền triết lý: “ Mình già rồi, ai nói mình chơi trống bỏi, mình chịu. Nhưng mình đâu ra đó, không lừa gạt ai, thuận mua, vừa bán. So với mấy thằng Đài Loan mình còn tốt hơn nhiều, mình còn chơi ngon gấp bội. Chỉ trong hai tuần, em lấy hai ngàn đô về làm nhà cho ông bà già, còn lại, em mua xe gắn máy và mở cửa hàng tạp hóa. Cái giá ‘chanh cốm’ của em được quá chớ.” Hoạt nghĩ người đàn ông nầy cũng có lý của ông. Ông lại tiếp: “ Chứ anh cũng biết đó, ở Mỹ, mình để dành hai ngàn đâu phải dễ, với hạng tôi, hai mươi năm làm assembler, để dành hai ngàn cũng trầy vi tróc vảy, mình làm ra tiền khó thì mình cũng kiếm miếng ngon mình ăn, chứ dại gì ăn đồ dở, ăn thừa của thừa người khác.” Ông cười hắt hắt lên, trông gương mặt ông rạng rỡ như là cái lý thuyết của ông là đúng tuyệt đối. Ông đổi giọng: “ Nhưng mà trong cái không hay lại có cái hay. Tôi sống với em hai tuần, tôi bắt đầu thấy quyến luyến em, tôi ngỏ ý với em là lấy tôi luôn để tôi bảo lãnh em đi Mỹ, thế mà em không chịu. Tôi đành buông em ra thôi. Trước khi qua Mỹ lại, tôi có ghé thăm huyện Tam Nông, quê em đấy, em đã có chồng, có con, sống rất hạnh phúc. Tôi nghĩ với hai ngàn của tôi mà gia đình em sung sướng là tôi cũng mãn nguyện.”
Trời bên ngoài đã tối lắm rồi, đèn sáng choang ở phía ngoài cây xăng kế cận. Hoạt lo thu dọn áo quần để về. Anh đứng lên nói với người đàn ông: “ Đồ tôi khô rồi, tôi vào trong lấy nhe.” Ông cười, đứng lên bắt tay anh: “ Hôm nay tự nhiên gặp anh, thấy vui, tôi kể chuyện tôi, anh đừng để bụng. Hãy xem như chuyện ‘xe cán chó’ vậy mà.” Hoạt bước vào trong, vừa mở cửa máy sấy, vừa nói với ông, giọng đùa vui: “Nghe anh nói tôi cũng ham, chắc mai mốt về Việt Nam, tôi ghé tìm anh quá.” Ông vừa cười vừa bước vô restroom. Bóng ông khuất sau cánh cửa, ông đưa tay lấy cái mũ lưỡi trai xuống, để lộ ra cái đầu bạc trắng phau.
. | |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian | |
| |
| | | | Tập Truyện Ngắn: Người ở lại thế gian | |
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |