Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon

Diễn Đàn của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  GalleryGallery  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Keywords
quynh trong Nhung Trung chẳng chuyen hoang Nguyen ngam truyện bich Chung ngắn quang sáng Saigon VNCH quan thuoc nguyet phải không quốc chất linh nhac
Latest topics
» "Chinh Phụ Ngâm & Vườn hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng"
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeThu Apr 04, 2024 12:38 am by Admin

» "Chinh Phụ Ngâm & Vườn hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng"
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeThu Apr 04, 2024 12:09 am by Admin

» "Chinh Phụ Ngâm & Vườn hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng"
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeThu Apr 04, 2024 12:09 am by Admin

» qua đi thôi bão nổi
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeSat Mar 11, 2023 3:11 am by Admin

» Cụ Hoang Xuân Hãn
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeSun May 08, 2022 10:37 pm by Admin

» Giáo dục VNCH - Giáo dục con đường khai phóng
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeMon Jan 10, 2022 4:06 am by Admin

» Suy tư về kiếp người - Về Cùng Cát Bụi
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeSun Jan 09, 2022 4:25 am by Admin

» AI ĐÃ HẠ GỤC CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN?
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeSat Jan 08, 2022 2:41 am by Admin

» NHẠC THIỀN - Cõi Thiền trong Âm Nhạc
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeThu Jan 06, 2022 4:11 am by Admin

April 2024
MonTueWedThuFriSatSun
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
2930     
CalendarCalendar
Affiliates
free forum

Affiliates
free forum


 

 Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

Go down 
2 posters
Tác giảThông điệp
P-C
Khách viếng thăm




ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeWed Sep 05, 2012 2:10 pm

.
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Akutagawa

SỢI TƠ NHỆN
- Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)


Akutagawa Ryunosuke (Giới Xuyên Long Chi Giới) sinh ở Tokyo ngày 01-3-1892, uống thuốc độc quyên sinh và mất ở Tokyo sáng sớm ngày 24-7-1927. Trong ba mươi lăm năm, ông hầu như sống hoàn toàn ở Tokyo, khoảng mười tám năm ở nhà trường và chừng mười một năm hầu như ở bàn viết với độ 200 truyện ngắn.

Theo truyền thuyết, sở dĩ cha ông (Niihara Toshizo) đặt tên ông là Long Chi Giới (giữa loài rồng) vì ông sinh vào giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Nhâm thìn.
Lúc còn thơ, ông được đem giao cho người bác (Akutagawa Shodo) không con nuôi dưỡng. Mới học lớp Ba, Ryunosuke đã tìm được tập phác thảo của Tokutomi Roka, nhan đề Shizen to Jinsei (Tự nhiên tô nhân sinh – Thiên nhiên và con người). Ông đọc say mê và từ đó có lòng ham thích văn chương. Ông được giới thiệu vào trường trung học ở Tokyo không phải qua thi tuyển, rồi tốt nghiệp hạng danh dự và vào Đại học Hoàng gia Đông Kinh (Tokyo). Tại đây, ông học văn chương Anh, tốt nghiệp năm 1916. Ông đã khước từ chức giáo sư tại Đại học Hoàng gia Cửu Châu (Kyushu). Cửa nhà ông luôn luôn treo bảng cáo bệnh để tạ khách, vì ông muốn dành nhiều thời gian đọc sách.
Năm 1914, ông đăng truyện ngắn đầu tiên trên tạp chí Shinshicho, nhưng không được chú ý lắm. Năm sau (1915), ông đăng hai truyện ngắn trên tạp chí Teikoku Bungaku, mà truyện thứ hai nhan đề Rashomon (Lã Sinh Môn) nổi tiếng gần như gắn liền với tên tuổi ông (truyện này còn được quay thành phim). Tháng 5-1917 ông xuất bản tập truyện đầu tay, nhan đề chung cho cả tập là Rashomon.

Truyện Sợi tơ nhện được ông đăng trên một tạp chí dành riêng cho thanh niên. Năm 1930, Glenn W. Shaw chọn trong 200 truyện của A. Ryunosuke, tuyển lấy 11 truyện và cố dịch sát nguyên tác, rồi giao cho nhà xuất bản Hokuseido ấn hành với nhan đề Tales grotesque and curious (Truyện truyền kỳ). Sợi tơ nhện (The spider’s thread) là truyện thứ sáu trong tập này, được kể bằng giọng văn giản dị, nhưng bố cục rất có chủ ý. Truyện thể hiện một trong những triết lý căn bản của đạo Phật là Nghiệp (Karma). – LAD

I.

Hôm ấy đức Phật một mình nhẹ gót bên bờ ao sen ở cõi Niết bàn.
Những đóa sen rộ nở trong ao, tất cả đều trắng ngần như châu ngọc, và ở tâm hoa cánh nhụy vàng không ngừng tỏa hương thơm bát ngát khung trời.
Ở cõi Niết bàn bấy giờ là buổi sáng.
Giờ đây đức Phật đứng yên lặng bên bờ ao, và qua một khoảng hở giữa đám lá che phủ mặt nước, Ngài chợt nhìn thấy cảnh quan ở dưới.
Bởi lẽ Địa ngục nằm ngay bên dưới ao sen của cõi Niết bàn, con sông Tam đồ [1] và ngọn núi Đao [2] có thể nhìn thấy rõ qua làn nước trong suốt như pha lê, như qua ống viễn kính.

Rồi đức Phật nhìn thấy một người tên Kandata, đang quằn quại cùng các tội nhân khác ở tận cùng Địa ngục.
Gã Kandata này là tướng cướp, xưa kia đã làm nhiều điều ác, sát sinh hại mạng và phóng hỏa đốt nhà, tuy nhiên y được ghi công đức một việc thiện. Có lần trên đường xuyên qua rừng sâu, y chú ý tới một con nhện bé nhỏ đang bò dọc theo vệ đường.
Giở chân lên thật lẹ làng, y sắp sửa dẫm chết con vật thì bất chợt nghĩ rằng: “Thôi đừng, nhỏ nhít như nó cũng có linh hồn; giết bừa nó đi thì thật xấu hổ.” Và y đã tha chết cho con nhện.
Khi nhìn xuống cõi Địa ngục, đức Phật nhớ lại cái cách Kandata tha mạng con nhện. Và đức Phật nghĩ rằng, nếu có thể được, để báo đền cho việc thiện ấy, Ngài muốn đưa y thoát ra khỏi Địa ngục. May sao, lúc nhìn quanh, Ngài bắt gặp một con nhện của cõi Niết bàn đang giăng sợi tơ như bạc xinh đẹp trên đám lá sen ánh một màu thanh bình yên ả.
Đức Phật nhẹ nhàng nâng lấy sợi tơ nhện trên tay. Và Ngài thả cho sợi tơ buông thẳng xuống tận cùng Địa ngục xa tít bên dưới, xuyên qua khoảng trống giữa những đóa sen trắng ngần như ngọc.

II.

Kandata đang ngụp lặn cùng các tội nhân khác trong ao Máu [3] ở nơi tận cùng Địa ngục.
Khắp chốn tối đen như mực, và thỉnh thoảng khi thoáng có gì hiện lên trong chỗ tối om ấy, hóa ra lại là ánh chớp lập loè của đầu mũi gươm, mũi kiếm trên ngọn núi Đao rợn người, thế nên hãi hùng khôn xiết. Hơn nữa, sự im lìm mộ địa đang ngự trị khắp nơi, và cái duy nhất thỉnh thoảng còn có thể nghe thấy là tiếng thở dài yếu ớt của các tội nhân.
Ấy bởi vì tội nhân khi xuống đến chốn này đều đã kiệt lực do muôn vạn cực hình của cõi Địa ngục và họ không còn hơi sức nào để kêu gào.
Thế nên, dù là tướng cướp dữ dằn chăng nữa, Kandata cũng ngạt thở vì máu, chẳng thể làm gì khác hơn là giãy giụa trong ao Máu như một con nhái đang giãy chết.
Nhưng thời cơ của y đã đến. Một hôm khi tình cờ ngẩng đầu lên nhìn vòm trời bên trên ao Máu, Kandata trông thấy từ trên cao, mãi tận các tầng trời thăm thẳm, thòng xuống chỗ y một sợi tơ nhện trắng như bạc, lấp loáng lờ mờ trong bóng tối âm u tịch mịch dường như thể nó cũng sợ bị người ta bắt gặp.
Nhìn thấy sợi tơ, y vỗ tay vui mừng. Nếu bám vào sợi tơ này mà leo lên đến tận chỗ nó xuất phát thì chắc chắn y có thể  thoát khỏi Địa ngục.
Và hơn thế nữa, nếu mọi sự suôn sẻ, thậm chí y còn có thể vào được cõi Niết bàn. Vậy thì y sẽ không bao giờ bị xô lên núi Đao hay đắm chìm trong ao Máu.
Ngay khi trong đầu nảy ra những ý nghĩ này, y nắm chặt lấy sợi tơ bằng cả hai tay và bắt đầu dốc toàn lực leo riết lên.
Vốn là tướng cướp, y quá đỗi thành thạo với những việc leo trèo như thế.

Nhưng Địa ngục cách Niết bàn hàng hà sa số dặm và có nỗ lực như y thì cũng không dễ gì thoát ra được. Sau khi leo được một lúc, cuối cùng y kiệt sức và không thể nhích thêm được lấy một phân.
Thế là, vì chẳng thể làm được gì khác hơn, y dừng lại dưỡng sức và đu mình vào sợi tơ, nhìn xuống, nhìn xuống tận bên dưới. Ngạc nhiên biết bao, nhờ y đã leo tận lực, ao Máu nơi y từng lặn hụp trong đó bấy giờ đã khuất chìm tận bên dưới trong bóng tối hun hút. Và ngọn núi Đao rợn người thì lấp loáng lờ mờ bên dưới y. Nếu cứ leo lên với tốc độ này, y có thể ra khỏi Địa ngục dễ dàng hơn y tưởng.
Xoắn bàn tay vào sợi tơ nhện, Kandata cười ha hả và bằng cái giọng mà y chưa hề thốt lên trong ngần ấy năm, kể từ khi xuống Địa ngục cho tới nay, y hét to: “Thành công rồi! Thành công rồi!”
Nhưng bỗng dưng y chú ý thấy rằng ở bên dưới sợi tơ nhện cơ man tội nhân khác cũng đang hăm hở leo lên theo sau y. Họ nhích lên, nhích lên, giống hệt như một đàn kiến diễu hành.
Mục kích cảnh tượng này, Kandata chỉ biết chớp chớp mắt một lúc, miệng há hốc ra một cách ngốc nghếch trong nỗi thảng thốt kinh hãi.
Sợi tơ nhện mỏng manh dường ấy, tưởng đâu chỉ với riêng một mình y thôi cũng phải đứt phựt rồi, cớ sao nó chịu đựng nổi sức nặng của cả ngần ấy thân hình kia chứ?
Nếu sợi tơ đứt phựt giữa lưng trời, thì kể cả chính y, sau bao công lao khó nhọc mới leo tới được chỗ này, y cũng sẽ phải cắm lộn đầu rơi ngược xuống Địa ngục trở lại. Nếu xảy ra sự việc như thế thì khiếp đảm quá.
Nhưng trong thời gian đó hàng trăm hàng ngàn tội nhân vẫn đang giãy giụa thoát ra khỏi ao Máu tối tăm và đang tận lực leo lên thành hàng trên sợi tơ mỏng manh lấp loáng. Nếu y không mau lẹ có hành động gì, sợi tơ chắc chắn sẽ phải đứt lìa, rớt xuống. Bởi thế, Kandata hét toáng lên:
“Nè lũ tội nhân chúng bay! Sợi tơ này là của tao. Ai cho phép chúng mày leo lên đây? Xuống đi! Xuống đi!”

Ngay đúng lúc ấy, sợi tơ nhện cho tới bấy giờ vẫn chưa có dấu hiệu gì là sẽ đứt, thình lình phựt lìa ngay tại chỗ Kandata đang đeo bám vào.
Thế là y vô phương cứu rồi. Chẳng kịp kêu lấy một tiếng nào, y cắm lộn đầu lao vút xuống rơi vào bóng tối, người y quay tít như cái bông vụ.
Sau đó, chỉ còn sợi tơ nhện của cõi Niết bàn, mỏng manh và lấp lánh, lơ lửng treo giữa khung trời chẳng ánh trăng sao.

III. 

Đứng trên bờ ao sen của cõi Niết bàn, đức Phật chăm chú theo dõi mọi sự diễn ra, và khi Kandata như một hòn đá chìm lỉm xuống đáy ao Máu, Ngài lại thong thả bước đi với nét buồn buồn trên khuôn mặt.
Hẳn nhiên trái tim lạnh lùng của Kandata không sao cứu được y thoát khỏi Địa ngục, và y đã nhận lấy sự trừng phạt đích đáng mà rơi trở xuống chốn đọa đày. Ánh mắt đức Phật bộc lộ nỗi xót thương, nhưng trong ao kia những đóa sen trắng ngần của cõi Niết bàn chẳng hề quan tâm chi những việc như thế cả.
Những đoá sen trắng ngần như châu ngọc đang đung đưa mơn man đôi bàn chân Phật. Khi hoa lắt lay qua lại, từ những cánh nhị vàng ở tâm hoa, hương thơm ngào ngạt không ngừng tràn ngập khung trời.
Ở cõi Niết bàn bấy giờ là gần trưa.

LÊ ANH DŨNG dịch
(Bà Chiểu, 21-5-1993)

Chú thích:

[1] sông Tam đồ (Tam đồ xuyên, Sanzu-no-Kawa): Con sông có ba chỗ phải vượt qua – chỗ cạn, chỗ sâu, và chỗ sâu nhất. Sau khi chết bảy ngày, hồn người chết phải vượt qua con sông này. Hồn nào xấu xa, tội lỗi nhất sẽ phải vượt sông ở chỗ sâu nhất. (Theo Japanese-English Buddhist dictionary, Daito Shuppansha – Từ điển Phật giáo Nhật-Anh, Đại đông xuất bản xã, 1965, tr. 261.)
Tam đồ còn được giảng là ba đường khổ: (1) Hỏa đồ: đường đưa tội nhân tới ngục lửa; (2) Huyết đồ: đường đưa tội nhân tới ngục máu, ở đó tội nhân xâu xé nhau như thú vật; (3) Đao đồ: đường đưa tội nhân tới ngọn núi trên đó mọi ngọn cỏ hay lá cây đều là lưỡi đao, lưỡi kiếm bén ngót. (Theo A dictionary of Chinese Buddhist terms. Buddhist culture service – Trung-Anh Phật học từ điển, Phật giáo văn hóa phục vụ xứ. Đài Bắc, Đài Loan: 1962, tr. 62.)

[2] Núi Đao (Đao sơn, Hari-no-Yama): Xem chú thích 1.
[3] Ao Máu (Huyết trì): tại ngục máu, còn gọi Huyết ô trì. (Theo Trung-Anh Phật học từ điển, tr. 221.) 
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeSat Jan 04, 2020 8:10 am

.
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) 1quan%20am

Mẹ Quán Thế Âm

– Akutagawa Ryùnosuke (1892-1927)


Trên con đường đi đến Nam Hải Phổ Ðà Sơn (*) có một anh chàng làm nghề đồ tể sống hẩm hiu với bà mẹ góa. Anh chàng này tính tình nóng nảy, hung hãn, không hiếu thuận và thường hay sinh sự gây gỗ với mẹ. Những lúc quá chén anh còn thậm chí ra tay đánh đập bà già.

Người mẹ là một bà lão hiền lành, bà cho rằng nghiệp chướng của bà còn nặng cho nên kiếp này mới nhận chịu những sự trừng phạt, vì vậy bà thành tâm thờ phụng Nam Hải Quán Âm. Mỗi ngày bà quì hàng giờ trước tượng Quán Thế Âm Bồ Tát để sám hối, mong rằng như vậy sẽ giảm được tội nghiệp và hy vọng là đứa con ngỗ nghịch kia sẽ hồi tâm để cho bà có chỗ nương tựa vào lúc tuổi già.
Hằng năm cứ đến ngày 19 tháng 2 là thiên hạ chen chúc nhau đi dâng hương nhân ngày vía Phật Bà. Người đồ tể này thấy thiên hạ sùng kính đấng Bồ Tát như vậy thì tỏ vẻ hiếu kỳ. Anh cho rằng nhiều người không ngại đường xa vạn dặm đi đến dâng hương chắc chắn phải có một thần tích nào khiến cho họ tin. Anh lại nghe những người dâng hương trở về cho biết nếu như ai thành tâm đảnh lễ, thì họ sẽ thấy Quán Thế Âm hiện thân. Anh chàng đồ tể nghe nói như vậy thì quyết định làm một chuyến hành hương.

Một năm nọ, anh theo đoàn người dâng hương lên núi Phổ Ðà. Lên đến nơi, anh ta đi khắp mọi hang động, chùa chiền,nhưng vẫn không thấy bóng dáng của đấng Từ Bi. Anh ta tỏ vẻ thất vọng và có lòng oán trách những người khách dâng hương đã gạt gẫm khiến anh tốn một chuyến đi vô ích. Khi đến trước cửa động Triều Âm, anh thấy một lão hòa thượng râu dài trắng xóa đang ngồi tham thiền, anh ta chạy đến hỏi rằng:
– Sư phụ ơi, tôi nghe người ta nói rằng trên núi Phổ Ðà này có đấng Quán Thế Âm hiển linh, nhưng tôi tìm hoài không thấy, vậy ông làm ơn chỉ cho tôi được không?
Lão hòa thượng từ từ mở mắt trả lời:
– Ngươi muốn gặp đấng Quán Thế Âm hả? Dễ lắm, ngài hiện đang đi đến nhà ngươi đó, nếu ngươi chạy gấp về nhà thì sẽ gặp ngài.
– Nhưng tôi không biết dáng dấp của Quán Thế Âm, thì làm sao tôi có thể nhận ra ngài được.
– Khi ngươi trông thấy một bà lão mặc áo trái, mang dép ngược, thì đó chính là đấng Quán Thế Âm. Khi gặp ngài, ngươi nên quì xuống thành tâm đảnh lễ, ngài sẽ chỉ cho ngươi được nhiều điều hay.

Anh chàng đồ tể nghe lão hòa thượng nói vậy thì vội vàng lên đường về nhà. Anh ta về đến nhà vào đúng lúc nửa đêm. Trong khi đó, bà mẹ anh ta từ lúc đứa con rời khỏi nhà đã hằng đêm khấn vái trước tượng Bồ Tát, bà cầu đấng Từ Bi cảm hóa cho đứa con ngỗ nghịch. Nhiều đêm bà chân thành tụng niệm cho đến gần sáng mới chợp mắt.
Ðêm hôm đó, khi nghe tiếng đập cửa thình thịch, bà giật mình trở dậy vừa hồi h
p lo âu là đứa con ngỗ nghịch sẽ đến kiếm chuyện với bà. Trong lúc hấp tấp nên bà tròng áo trái, xỏ dép ngược mà vẫn không hay. Khi cửa được mở ra, anh chàng đồ tể hơi ngẩn người một chút rồi sụp xuống lạy lấy lạy để:
– Ðệ tử bái kiến Quán Thế Âm Bồ Tát.
Bà lão ngây người kinh ngạc:
– Con nhận lầm rồi, chính là mẹ đây, chứ có phải Quán Thế Âm Bồ Tát nào đâu?
– Con không lầm đâu, vì chính lão hòa thượng tại Nam Hải Phổ Ðà Sơn nói cho con biết là bà lão mặc áo trái, mang dép ngược chính là hiện thân của Bồ Tát. Bà chính là Bồ Tát đây mà.

Bà lão sau khi hoàn hồn, nhìn kỹ lại thì rõ ràng bà đang mặc áo trái, mang dép ngược. Bà nghĩ là có lẽ đấng Quán Thế Âm hiển linh đã giáo hóa đứa con ngỗ nghịch nên bà mạnh miệng nói rằng:
– Con là đứa con ngỗ nghịch, ở nhà ngay chính mẹ ruột cũng không tròn đạo hiếu thì làm sao có duyên gặp được đấng Từ Bi. Ông lão hòa thượng mà con gặp mới chính là hiện thân của Quán Thế Âm. Ngài vì thương mẹ cho nên mới dạy con trở về đây giữ tròn chữ hiếu. Nếu như không nghe theo thì ngày sau con sẽ gặp phải nhiều quả báo. Từ rày về sau nếu con một lòng một dạ thờ kính mẹ thì công đức đó cũng như gặp được đấng Bồ Tát vậy.
Anh chàng đồ tể nghe bà mẹ nói xong, lương tâm anh phát hiện. Từ đó anh thay đổi hẳn thái độ, một lòng cư xử hiếu thuận với mẹ, và cũng từ bỏ luôn nghề đồ tể, chuyển sang làm nghề tiểu thương. Tính tình anh hòa dịu trở lại, nhã nhặn với mọi người chung quanh và nổi danh là người hiếu thuận nhất trong vùng.

(*) Nam Hải Phổ Ðà Sơn: Thuyết Pháp Ðạo Tràng của Quán Thế Âm Bồ Tát, trong kinh Phật thì ghi là ở vùng Nam Hải, có ngọn núi Phổ Ðà Lạc Gia Sơn là nơi mà ngài tu hành. Trên thực tế thì đạo tràng này nằm trên một ngọn núi giữa biển, thuộc về quần đảo Châu Sơn ngoài khơi cửa sông Tiền Ðường, tỉnh Chiết Giang, thuộc vùng Ðông Hải của Trung Quốc.

Phạm Huệ dịch
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeTue Jan 07, 2020 11:16 am

.
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Images?q=tbn:ANd9GcQ6_8B4Ke58svifCdXAlv7cAxlVxKFZnhRi2vIxeB_YxA5d5F-3&s

Cổng Rashomon
– Akutagawa Ryùnosuke (1892-1927)


Chuyện vào một ngày nọ lúc trời đã về chiều. Có một gã nô bộc đang chờ tạnh mưa dưới cổng Rashomon.
Dưới chiếc cổng lớn, ngoài gã đàn ông này ra chẳng có ai khác. Trên chiếc cột lớn sơn son đỏ mà nước sơn đã bị bong loang lổ đó đây, chỉ có mỗi một con dế mèn đang đậu ở đấy. Cổng Rashomon ở ngay trên đại lộ Suzaku cho nên ngoài gã đàn ông này bình thường lẽ ra cũng có thể có thêm vài ba người khác, đàn bà thì đội nón lá ichimegasa hay đàn ông đội mũ momieboshi đứng tránh mưa. Thế nhưng ngoài gã ra không có ai cả.

Số là vì mấy năm gần đây kinh thành Kyoto cứ bị hết hoạ này lại đến nạn kia, hết động đất, giông bão, hoả hoạn, lại đến nạn đói kém. Vì thế mà chốn kinh sư tiêu điều xơ xác thật khác thường. Cổ thư còn ghi chép lại những chuyện như tượng Phật và đồ thờ tự bị chẻ ra, gỗ sơn son hay thếp bạc cũng bị chất đống bên đường để bán làm củi đốt. Chốn kinh thành mà còn như thế, huống hồ cổng Rashomon này, chẳng ai ngó ngàng đến chuyện trùng tu sửa sang. Cổng bị bỏ mặc tiêu điều hoang phế, chỉ tổ cho chồn cáo cùng quân trộm cắp thừa cơ đến dùng làm nơi trú ẩn. Thậm chí cả những xác chết đường chết chợ không người tới nhận cũng được đem vứt ở đây, như đã thành một cái lệ. Vì thế hễ trời chạng vạng tối là mọi người đều ghê sợ, chẳng một ai dám bén mảng đến gần.
Thay vào đó, vô số quạ không biết từ đâu kéo cả về đây. Ban ngày nhìn về phía cổng thấy không biết bao nhiêu là quạ bay thành vòng tròn, vừa kêu vừa lượn lờ quanh miếng ngói phù điêu trên cùng. Nhất là hễ đến lúc ráng chiều nhuộm đỏ khoảng trời phía trên cổng, thì nom cứ như là nền trời có rắc vừng đen. Dĩ nhiên lũ quạ đến rỉa xác người chết vứt nơi cổng.
Thế nhưng hôm nay, có lẽ kể về giờ giấc thì cũng đã muộn, chẳng thấy bóng dáng một con quạ nào cả. Chỉ thấy đó đây lốm đốm màu bạc phếch của phân quạ dính vào những bậc đá chỉ chực lở và cỏ mọc um tùm từ nhũng kẽ nứt. Gã nô bộc ngồi ở bậc trên cùng của bậc đá có bảy bậc, đặt mông trên vạt sau của chiếc áo xanh lam đã giặt đến bạc màu, vừa mân mê mụn trứng cá to tướng mọc trên má bên phải vừa lơ đãng nhìn mưa rơi.

Tác giả vừa viết ở trên rằng "gã nô bộc đang chờ tạnh mưa". Nhưng dù trời có tạnh mưa đi nữa, gã nô bộc này cũng chẳng có việc gì để làm. Thông thường dĩ nhiên là gã sẽ đi về nhà chủ. Nhưng gã lại mới bị chủ cho thôi việc từ bốn năm hôm nay. Như đã viết ở trên, lúc bấy giờ Kyoto đã suy tàn lắm rồi. Gã nô bộc này bị người chủ mà gã hầu hạ lâu năm cho thôi việc, thật ra cũng là ít nhiều do sự suy tàn ấy mà ra chứ chẳng phải gì khác. Vì thế thay vì viết "gã nô bộc đang chờ tạnh mưa", phải viết là "gã nô bộc không đi đâu được vì trời mưa, và gã đã đến bước đường cùng chẳng biết về đâu nữa" mới đúng. Hơn nữa, bầu trời u ám hôm nay chẳng nhiều thì ít cũng đã khiến gã nô bộc thời Heian (*) này chạnh lòng. Cơn mưa đổ xuống từ giờ thân đến giờ vẫn chẳng có vẻ gì là muốn ngớt. Vì thế trước mắt, gã chưa biết ngày mai sẽ phải làm gì để sống qua ngày, từ nẫy đến giờ gã vẫn vừa miên man nghĩ ngợi tìm cách xoay sở làm sao ra khỏi bước đường cùng, vừa lơ đãng nghe tiếng mưa rơi trên đại lộ Suzaku .
Mưa rào rào từ xa tới bao trùm lên cổng Rashomon. Bóng chiều như kéo màn trời sa xuống thấp, ngẩng nhìn lên thấy hàng ngói chênh chếch đầu hồi trên mái cổng như đang đỡ cả một màn mây nặng trĩu u ám.
Một khi đã không còn cách nào khác, không làm sao hơn được, thì đâu còn có thể kén chọn nữa. Nếu còn kén chọn, thì chỉ có mà chết đói, không chết trong nhà thì cũng chết đường chết chợ, rồi sẽ bị đem ra vứt trên cổng này như người ta vứt xác của một con chó mà thôi.
Nếu đừng kén chọn nữa - gã nô bộc cứ nghĩ tới nghĩ lui quanh quẩn mãi không biết bao lần để rồi cuối cùng ngừng lại ở chỗ đó. Tuy vậy ngay cả khi đã nghĩ tới "nếu đừng kén chọn" rồi, nhưng quanh đi quẩn lại vẫn còn dừng lại ở chỗ "nếu đừng kén chọn." này, thì rút cuộc vẫn mãi mãi chỉ là một chữ "nếu". Dù gã nô bộc đã nhủ lòng sẽ không kén chọn - không từ bất cứ điều gì -, thế nhưng gã vẫn không có can đảm tiến thêm đến chỗ khẳng định cái điều đương nhiên phải đến tiếp theo sau câu "nếu đừng kén chọn" - để ngã ngũ cho xong chuyện -, tức là " thì chẳng còn cách nào khác là đành làm quân trộm cắp vậy."

Gã nô bộc hắt hơi thật mạnh, rồi uể oải đứng dậy. Hơi lạnh buổi chiều ở Kyoto đã đến độ cần có lò than để sưởi ấm. Gió luồn giữa những hàng cột, cùng với bóng chiều đang dần xuống, lồng lộng thổi. Con dế mèn đậu trên chiếc cột loang lổ nước sơn đã bò đi đâu mất.
Gã nô bộc vừa kéo cao cổ áo màu lam mặc bên ngoài chiếc áo cánh màu vàng, rụt cổ lại, vừa đưa mắt nhìn quanh cổng. Gã nghĩ bụng nếu có chỗ nào không sợ bị mưa gió, không ngại có người trông thấy, để đánh một giấc ngon lành, thì gã sẽ ngủ ở đó cho qua đêm nay. Tức thì, may đâu chiếc cầu thang cũng sơn son đỏ, bề ngang khá rộng, bắc lên tầng gác của chiếc cổng đã lọt vào mắt gã. Ở trên ấy thì dù cho có người chăng nữa, chắc cũng chỉ toàn là người chết. Gã nô bộc bèn vừa cẩn thận giữ cho thanh đao đeo bên hông khỏi tuột ra khỏi vỏ, vừa đặt bàn chân mang đôi dép rơm lên bậc dưới cùng của cầu thang.
Thế rồi, một vài phút sau đó. Trên bậc giữa của cầu thang bắc lên gác cổng Rashomon, một gã đàn ông đang co người lại như con mèo, nín thở nghe ngóng động tĩnh trên gác. Một ánh lửa leo lét chập chờn trên gác lờ mờ soi xuống gò má bên phải của gã, gò má có một cái mụn trứng cá mưng mủ sưng đỏ lên ở giữa đám râu ria lởm chởm. Thoạt đầu gã nô bộc cứ đinh ninh rằng ở trên ấy chỉ toàn là người chết. Nhưng chỉ mới bước lên được hai ba bậc thang và nhìn xem thử, gã thấy ở trên đó có ai đang thắp lửa, mà ánh lửa ấy hình như đang chuyển động về phía này. Đó là một ánh lửa đục tối và vàng vọt, chập chờn chiếu lên trần nhà có giăng đầy mạng nhện đến khắp mọi xó xỉnh, thoạt nhìn đã nhận ra ngay. Một kẻ dám đốt đèn trên gác cổng Rashomon trong đêm mưa như thế này ắt chẳng phải là người bình thường.
Gã nô bộc rón rén lần bước như một con thạch sùng, mãi mới lên đến bậc trên cùng của chiếc cầu thang dốc dác. Thế rồi gã cố nằm bẹp xuống bám mình vào sàn gác, cần cổ thì cố vươn về phía trước, rụt rè dòm vào trong gác.
Gã nhìn thử thì thấy trong lòng gác, quả đúng như lời đồn đại, có một vài xác chết bị vứt nằm ngổn ngang. Chỗ có ánh lửa soi tới hoá ra không rộng lắm nên cũng không rõ là trên ấy có bao nhiêu xác chết. Chỉ có điều là lờ mờ trông thấy trong đó có xác thì trần truồng, có xác thì có mặc quần áo. Dĩ nhiên hình như trong đó cũng có cả xác đàn ông lẫn với xác đàn bà. Và tất cả những xác chết ấy đều như những hình nhân nặn bằng đất sét, miệng há hốc, tay thò ra, nằm lăn lóc trên sàn, thật không ngờ trước đó đã từng là những con người có sự sống. Hơn nữa những phần thân thể nhô cao như vai và ngực phản chiếu ánh lửa mơ hồ đổ bóng xuống làm cho những phần thân thể thấp hơn càng thêm u tối, lặng thinh câm nín ngàn đời.

Gã nô bộc vội bịt mũi vì mùi hôi thối của những xác chết đã rữa nát ấy. Nhưng chỉ trong một phút sau đó, bàn tay ấy đã quên cả bịt mũi lại. Đó là vì một cảm xúc vô cùng mãnh liệt đã cướp trọn khứu giác của gã đàn ông này.
Lúc ấy lần đầu tiên mắt gã nô bộc mới nhìn thấy có bóng người lom khom giữa đống xác chết. Một bà lão mặc chiếc áo kimono màu nâu vỏ dà, thấp bé, gầy gò, đầu tóc bạc phơ như một con khỉ. Bà lão ấy tay phải cầm một mẩu gỗ thông để đốt lửa, đang nhìn như soi vào mặt một trong những cái xác chết. Mái tóc dài cho thấy có lẽ đấy là xác của một người đàn bà.
Hết sáu phần là hoảng sợ, bốn phần còn lại là tò mò, nên lúc ấy gã nô bộc đã quên cả thở. Nếu mượn lời cổ thư thì đó là gã nô bộc cảm thấy như tóc trên đầu mình đang dựng đứng cả lên. Bấy giờ bà lão đặt mẩu gỗ thông xuống sàn gác, rồi đưa hai tay lên đầu của xác chết mà nẫy giờ bà vẫn nhìn chầm chập, làm như thể khỉ mẹ đang bắt chấy cho khỉ con, bà bắt đầu nhổ từng sợi của mái tóc dài ấy. Những sợi tóc dường như cứ thế rụng ra theo bàn tay của bà lão.
Nhìn từng sợi tóc rụng dần, nỗi kinh hoàng cũng biến dần trong lòng gã nô bộc. Và cũng đồng thời, dần dần mỗi lúc gã cảm thấy căm giận bà lão này hơn. Ồ không, nói rằng đó là lòng căm giận đối với bà lão này thì có lẽ là không đúng. Mà đúng ra đó là mối ác cảm đối với tất cả những điều ác trên đời, cứ mỗi lúc một bùng lên mãnh liệt trong lòng gã. Lúc này nếu có ai lại đem chuyện nên chịu chết đói hay nên thành kẻ trộm mà gã đàn ông này đã nghĩ đến khi còn ở dưới cổng lúc nẫy ra hỏi lại gã, thì có lẽ gã đã trả lời ngay không một chút nuối tiếc rằng gã sẽ chịu chết đói. Lòng căm ghét cái ác của gã đang bùng lên mãnh liệt như thế đó, giống như mẩu gỗ thông đang cháy mà bà lão để trên sàn kia.
Dĩ nhiên gã nô bộc không biết vì sao bà lão lại nhổ tóc của xác chết. Vì thế không biết có thể quy kết rằng đây là một việc thiện hay ác, một cách rạch ròi phân minh hay không. Thế nhưng đối với gã nô bộc này thì, chỉ nội chuyện nhổ tóc của xác chết trên gác cổng Rashomon trong đêm mưa hôm nay cũng đã đủ thành một điều ác không thể nào tha thứ được. Dĩ nhiên, gã nô bộc cũng đã quên bẵng rằng mãi cho đến lúc nẫy thì chính gã cũng đã có ý định trở thành quân trộm cắp đấy thôi.

Thế là gã nô bộc bỗng bước thật mạnh trên chiếc cầu thang và leo lên gác. Rồi vừa đặt tay lên thanh đao, gã vừa bước sải mấy bước đến trước mặt bà lão. Đương nhiên là bà lão hết sức ngạc nhiên.
Bà lão nhìn thấy gã nô bộc thì giật bắn cả người, như thể tên vừa bị bật khỏi nỏ.
- Mụ kia, mụ định chạy đi đâu?
Gã nô bộc chận đường bà lão đang bị vấp phải xác chết khi bà hớt hải tìm đường chạy trốn, và quát mắng như thế. Bà lão vẫn cố gạt gã ra để chạy đi. Gã nô bộc lại đẩy bà lão lui lại, cố không cho bà chạy thoát. Hai người chẳng nói chẳng rằng cứ giằng co xô đẩy nhau như vậy giữa đống xác chết. Nhưng thắng bại thì đã rõ ngay từ đầu. Cuối cùng gã nô bộc nắm lấy cánh tay bà lão bẻ vặn sang một bên, cánh tay chỉ còn đúng có da bọc xương như một cái chân gà.
- Mụ làm gì ở đây nẫy giờ. Nói, nói ngay không thì mụ biết tay ta!.
Gã nô bộc bỗng thình lình gạt bà lão ra, tay rút đao ra khỏi vỏ, khua thanh đao bằng thép sáng loáng trước mắt bà lão. Thế nhưng bà lão vẫn làm thinh. Hai tay bà run lẩy bẩy, vai co lại thở dốc, hai mắt mở trừng trừng tưởng chừng con ngươi sắp văng ra ngoài, và bà vẫn một mực nín thinh như thể một người câm. Thấy thế, gã nô bộc chợt hiểu rõ rằng mạng sống của bà lão này giờ đây hoàn toàn ở trong tay mình. Nghĩ đến đấy sự căm ghét đang bừng cháy trong lòng gã nẫy giờ chẳng mấy chốc đã dịu xuống. Và rồi sau đó chỉ còn lại sự đắc ý dễ chịu, hài lòng vì làm được một việc, và đã hoàn thành công việc ấy thật mỹ mãn. Gã nô bộc cúi nhìn bà lão, hạ giọng nói:
- Ta chẳng phải là sai nha coi việc xét xử gì cả, mà chỉ là khách đi đường qua dưới cổng này chiều nay. Vì vậy ta không trói mụ hay làm gì mụ đâu. Thế nhưng, mụ làm gì trên gác này nẫy giờ, mụ chỉ cần kể cho ta nghe là đủ rồi.

Bấy giờ đôi mắt đã mở to của bà lão lại càng trợn lên nhìn chòng chọc vào mặt gã nô bộc. Vành mắt đỏ lòm, bà lão nhìn gã bằng đôi mắt sắc như của loài cú vọ chuyên ăn thịt. Thế rồi đôi môi nhăn nheo và hầu như đã dính liền với mũi khẽ động đậy như đang nhai cái gì. Cục yết hầu xương xẩu nhọn hoắt chạy lên chạy xuống trên cổ trông thấy rõ. Đúng lúc đó, từ trong cái cổ họng ấy phát ra một thứ âm thanh nghe như tiếng quạ kêu, hổn hển lọt vào tai gã nô bộc.
- Ta định nhổ những sợi tóc này, nhổ những tóc này, để kết tóc giả.
Gã nô bộc thất vọng vì câu trả lời của bà lão không ngờ lại tầm thường quá. Trong lúc thất vọng như thế thì đồng thời, lòng căm giận lúc nẫy cùng với sự lạnh nhạt khinh bỉ lại ùa vào lòng gã. Bà lão có vẻ cũng nhận ra được điều đó. Một tay vẫn còn cầm mớ tóc dài mới nhổ vừa đoạt từ xác chết, bà lão lẩm bẩm, nghe như một con cóc gớm ghiếc đang ộp oạp trong miệng như sau
- Ừ, thì cho là nhổ tóc của xác chết như thế này có lẽ ác lắm cũng không chừng đấy. Nhưng lũ người chết đang nằm đây cũng toàn là một bọn đã làm những chuyện đáng để bị như thế. Như con đàn bà mà ta đang nhổ tóc của nó đây, nó đã bắt rắn chặt ra thành từng khúc đem phơi khô mà bảo đó là cá khô, đem bán cho bọn lính gác ở Đông Cung. Nếu nó không bị bệnh dịch mà chết thì bây giờ có lẽ nó cũng đang đi bán đấy. Ấy thế mà cá khô của nó bán lại có tiếng là ngon, không lần nào mà bọn lính tráng không mua về ăn. Ta không nghĩ rằng việc con đàn bà này làm là điều ác. Vì không làm thế thì chết đói, chẳng qua là bất đắc dĩ thôi. Đã vậy, thì bây giờ cũng thế, ta cũng không cho rằng điều ta đang làm là điều ác. Vì nếu không làm như vậy sẽ phải chết đói, đó chẳng qua chỉ là một điều bất đắc dĩ mới phải làm đấy sao. Vì thế con đàn bà này cũng đã biết rõ rằng có những điều bất đắc dĩ mới phải làm, cho nên có lẽ nó cũng bỏ qua cho việc mà ta đang làm.
Bà lão nói đại khái như thế.

Gã nô bộc tra đao vào vỏ, vừa chận tay trái lên chuôi đao, vừa nghe câu chuyện của bà lão với vẻ lãnh đạm. Tai nghe mà bàn tay phải vẫn mân mê mụn trứng cá lớn đang mưng mủ đỏ lòm trên má. Thế nhưng, trong lúc nghe bà lão nói như thế, lòng gã dần dần trở nên can đảm hơn. Đó là sự can đảm mà lúc nẫy khi còn ở dưới cổng gã còn thiếu. Và đó là sự can đảm hoàn toàn trái ngược với lòng dũng cảm khi gã leo lên gác của chiếc cổng này và đã tóm lấy bà lão. Gã nô bộc không chỉ không còn phân vân không biết nên đành chịu chết đói hay trở thành kẻ trộm cắp nữa. Trong bụng của gã lúc này, nói thẳng ra là, cái ý nghĩ đành chịu chết đói gì đó hầu như đã bị xua đi mất tiêu, khiến gã như không còn bận tâm gì về điều ấy nữa.
-Ra thế! Chắc phải thế!
Bà lão vừa kể xong, gã nô bộc cười khẩy nói như tự nhủ. Và rồi, gã bước tới một bước, tay phải bỗng rời cái mụn trứng cá trên má, gã nắm lấy cổ áo bà lão gằn giọng nói:
- Vậy ta có lột áo của mụ thì mụ cũng đừng có oán trách gì nhé. Vì ta mà không làm thế này thì cái thân ta cũng chết đói thôi.
Gã nô bộc lột phắt cái áo của bà lão. Đoạn gã tàn nhẫn đá bà lão, còn đang cố ghì lấy chân gã, khiến bà ngã lăn ra trên những xác chết. Chỉ độ dăm bước là đến miệng cầu thang. Gã nô bộc cắp chiếc áo kimono màu nâu vỏ dà vừa tước đoạt của bà lão vào nách, chỉ trong chớp mắt gã đã theo chiếc cầu thang dốc dác tuột xuống đất, rồi mất hút vào bóng đêm.

Một lát sau, bà lão bị ngã tưởng suýt chết ngóc được dậy, trần truồng giữa những xác chết. Bà cất giọng vừa như lẩm bẩm vừa như rên rỉ, lần theo ánh lửa vẫn còn leo lét bò ra đến miệng cầu thang. Và rồi, từ miệng cầu thang ấy, một cái đầu tóc trắng ngắn ngủn thò ra dòm xuống cánh cổng. Bên ngoài chỉ có bóng đêm tối đen như mực.
Chẳng ai biết gã nô bộc ấy đã đi đâu.

(Tháng 9 năm Taisho thứ 4)

DTTM (Quỳnh Chi) dịch
(Tokyo, 1993-3/2005)
Bản dịch theo nguyên tác Rashomon trong Tuyển tập Akutagawa Ryunosuke của nhà xuất bản Chikuma Shobo năm 1984.

Chú thích: (*) Heian: Tên gọi thời đại dài khoảng 400 năm của Nhật bản, từ khi kinh đô được dời về Heiankyo (Kyoto ngày nay) vào năm 794.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeFri Jan 10, 2020 7:14 pm

.
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) 4649764890a1897e7a90150a824e90be

Tu Tiên
- Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)


Thưa quý bạn,
Hiện nay tôi đang ở Osaka, xin để tôi kể hầu quý bạn một câu chuyện truyền tụng ở đây.

Ngày xưa, có một gã ra tỉnh Osaka làm việc. Không ai biết tên thật của gã là gì, chỉ biết gã đến đây làm bếp, nên người ta chỉ gọi gã là Gonsuke (1).
Thiên hạ kể rằng khi Gonsuke vén bức rèm bước vào trong cửa tiệm chuyên môi giới công ăn việc làm, thì gã nhờ ngay người coi tiệm, đang ngồi ngậm ống điếu, tìm giúp công việc bằng một câu như thế này:
- Dạ thưa bác, tui muốn tu cho thành tiên, xin bác làm ơn giới thiệu giùm chỗ nào để tui vô làm rồi ở tu luôn trong đó.
Người coi tiệm chưng hửng, không biết trả lời sao cho phải, đành nín thinh.
- Bác ơi, tui nói bác không nghe sao bác? Tui muốn thành tiên, bác làm ơn giới thiệu giùm cho chỗ nào để tui vô làm rồi ở đó tu luôn.
- Thật tội nghiệp cho cậu, nhưng...
Người coi tiệm lại bập bập hút ống điếu, rồi nói tiếp.
- Tiệm tui xưa nay chưa nhận giới thiệu cho ai đi tu tiên, cậu cảm phiền đi kiếm chỗ khác.
Nghe bảo vậy, Gonsuke tỏ ngay vẻ bất bình, hắn lết hai đầu gối quần lót nhuộm xanh sặc sỡ, xích lại gần chỗ người coi tiệm, nói lý sự:
- Nè, nè bác nói vậy đâu được. Rèm trước tiệm, bác quảng cáo gì ngoài đó... hở? Rõ ràng là trên đó có đề mấy chữ: Tiệm môi giới VẠN, có đúng không nào? Đã là VẠN thì có nghĩa là vạn sự, việc gì cũng giới thiệu. Hay là, bác tính viết điều dối trá trên bức rèm hay sao?
Lời gã nói, nghe như đinh đóng cột. Gonsuke nổi giận có cái lý của gã.
- Không không, bức rèm tiệm tôi không có đề điều gì dối trá đâu, nếu cậu muốn tìm chỗ đi tu cho được, thì ngày mai cứ trở lại, để hôm nay tôi đi hỏi dợm trước mấy chỗ, xem có được không đã.

Người coi tiệm nhận lời Gonsuke như vậy, vì muốn tránh chuyện lôi thôi ngay lúc ấy. Tình thật chàng ta làm gì biết cách nào tìm ra chỗ tu tiên. Cho nên, sau khi xua được Gonsuke ra khỏi tiệm, chàng ta liền lật đật sang nhà ông thầy thuốc gần đấy, thuật lại đầu đuôi câu chuyện của Gonsuke, rồi lo lắng hỏi:
- Thưa thầy câu chuyện đầu đuôi như thế, thầy có biết muốn thành tiên, thì đi đâu tu mau thành nhất thầy?
Cớ sự thế này thì ngay cả ông thầy thuốc cũng bí. Ông ta chỉ biết lơ đãng khoanh tay, xoay mặt ngó ra ngoài vườn, ngắm cây tùng. Nhưng mụ vợ của ông thầy thuốc nghe xong câu chuyện thì xía miệng vô ngay. Mụ vợ xảo quyệt này, thiên hạ giễu cợt gán cho cái tên, mụ cáo già.
- Chuyện ấy à, cứ dắt nó lại đây cho tui. Ở với tui hai ba năm thì tui dạy thành tiên liền hà.
- Thiệt hả bà? Thế này thì tôi hỏi đúng chỗ quá. Vậy xin nhờ hai ông bà đấy nhá. Xưa nay tôi vẫn ngờ ngợ cái nghề bốc thuốc nó có dính líu với các ông tiên.
Người coi tiệm chẳng hiểu ất giáp gì, nhưng cũng kính cẩn gập mình chào đi chào lại mấy lần, rồi ra về, bụng mừng khôn xiết
Ông thầy thuốc mặt mày ngượng nghịu, tiễn khách xong thì xoay sang mụ vợ, càu nhàu:
- Nè bà, sao bà nói năng gì tầm bậy như thế? Lỡ cái tên nhà quê kia, đến đây ở cả mấy năm liền mà không được dạy thuật tiên, thế nào nó cũng bất bình, lúc ấy bà tính sao đây?
Nhưng mụ vợ không những không chịu lỗi, ngược lại còn hếch mũi cười, bô bô nói lấn át chồng:
- Này, im cái mồm ông đi, chớ cái tướng của ông, thẳng như ruột ngựa, thì kiếm đâu cho ra miếng cơm trong cái thời buổi cực khổ này.

Ngày hôm sau, đúng như đã hẹn, người coi tiệm dắt tên nhà quê Gonsuke đến nhà ông thầy thuốc. Gonsuke cũng khôn, gã nghĩ được hôm nay là ngày ra mắt, nên gã đóng cả bộ áo khoác có in hoa văn dòng họ của gã. Nhưng rốt cuộc trông gã cũng không khác gì hơn một tên nhà quê quèn. Ăn mặc trịnh trọng như thế chỉ làm ông thầy thuốc cứ chòng chọc nhìn mặt gã, như ngắm nghía một con xạ hương mới đem từ bên Thiên trúc sang, rồi ông ta thắc mắc hỏi:
- Người ta bảo mi muốn thành tiên, mi nói thử xem, từ đâu mà mi nẩy ra cái ước vọng đó?
Gonsuke trả lời:
- Thiệt ra cũng không có lý do gì đặc biệt, nhưng khi thấy cái thành quách Osaka thì tui lại nghĩ, ngay cả như cái ngài Taikosama (2) người đạt quyền cao tước trọng đến như thế, tới lúc cũng chết, thế thì trên cái thế gian này, dù có đạt được vinh hoa phú quý cho đến mấy, tui nghĩ chẳng qua đó cũng chỉ là chuyện bèo bọt.
Mụ vợ xảo quyệt của ông thầy thuốc không do dự nói xen vào ngay:
- Thế thì miễn là được thành tiên, chuyện gì mi cũng chịu làm phải không?
- Dạ vâng, miễn là thành tiên được, thì chuyện gì tôi cũng xin làm.
- Thôi được, từ ngày hôm nay trở đi, mi vô đây ở, giúp việc cho ta trong vòng hai mươi năm. Mãn hạn hai mươi năm, ta sẽ truyền phép tiên cho.
- Dạ thiệt không? nếu được như vậy thì tui muôn vàn đội ơn Bà.
- Bù lại trong hai mươi năm đó, ta không trả cho mi một xu nào đâu đấy.
- Dạ vâng, dạ vâng, tui xin chịu.

Từ đấy, Gonsuke vào ở hầu hạ hai vợ chồng ông thầy thuốc ròng rã hai mươi năm trường. Nào là gánh nước, bửa củi, nấu cơm, lau chùi quét dọn nhà cửa. Thêm vào đó, khi nào ông thầy thuốc ra phố đi chẩn bệnh, Gonsuke phải vác cả hòm thuốc theo hầu ông ta. - Thế mà gã không hề hé môi xin lấy một xu. Một kẻ hầu hạ quý giá như gã, tìm khắp nước Nhật này chắc cũng không kiếm đâu cho ra được.
Nhưng rồi cũng tròn hai mươi năm. Cũng như hôm mới đến đây, Gonsuke lại thắng bộ áo khoác có in hoa văn dòng họ gã, cung kính đến trước mặt Ông Bà chủ, lạy tạ ơn chủ nhân đã cho phép gã hầu hạ chu đáo suốt hai mươi năm trời.
- Như Ông Bà chủ đã có hứa rành rành, vậy hôm nay xin Ông Bà chủ truyền cho tiên thuật, trường sinh bất tử.
Bị Gonsuke thúc hối, ông thầy thuốc cứng miệng. Bắt người ta hầu hạ đủ điều, hai chục năm trời không trả một xu, bây giờ không lẽ lại mở miệng nói không biết phép tiên; ông thầy thuốc buộc lòng nói:
- Tiên thuật thì chỉ có vợ ta mới biết, mi cứ xin vợ ta dạy đi.
Ông thầy thuốc nói thế rồi quay mặt làm ngơ.
Nhưng mụ vợ thì vẫn điềm nhiên, mụ nói một mạch:
- Ờ thì để ta dạy phép tiên cho. Nhưng dù có thấy khó đến đâu, mi cũng phải làm y như lời ta bảo đấy nhé. Nếu không thì không những mi chẳng thành tiên được, mà mi còn phải làm không công cho ta thêm hai mươi năm nữa đấy nhé, bằng không ta sẽ phạt tội chết, mi có chịu không?
- Dạ vâng, chuyện dù khó đến đâu, tôi cũng xin làm.
Gonsuke khấp khởi mừng rỡ, thấp thỏm đợi mụ vợ dạy phép tiên.
- Được rồi, đây này mi hãy ra trèo lên cây tùng ở ngoài vườn kia.
Mụ vợ liền ra lệnh như vậy. Số là chuyện phép tiên thì mụ có biết quái gì, mụ chỉ cốt bày chuyện thật khó để Gonsuke không cách nào làm được, rồi nhân đó bắt gã làm công không thêm hai mươi năm nữa. Nhưng Gonsuke sau khi nghe điều mụ dạy, liền ra ngoài vườn, trèo ngay lên cây tùng.
- Leo lên cao hơn nữa, cao hơn nữa.
Mụ vợ ra ngoài hiên đứng, ngước nhìn Gonsuke đang trèo cây tùng. Gonsuke bây giờ đang ở tít trên ngọn đại thụ, chiếc áo khoác của gã căng gió.
- Bây giờ mi hãy thả tay mặt ra.
Gonsuke tay trái vịn chặt vào một cành to của cây tùng, chẩm rãi thả tay mặt ra.
- Mi thả luôn tay trái cho ta xem nào.
- Ối, ối, thả luôn tay trái thì tên nhà quê sẽ té ngay đó bà. Dưới này toàn là đá, té xuống đây thì chết toi mạng nó.
Ông thầy thuốc cầm lòng không nổi, vội ra ngoài đầu nhà, mặt mày lo lắng.
- Này chưa tới phiên ông phải ra tay đâu, ông để mặc tui. - Nào hãy bỏ tay trái ra, nào.
Không đợi mụ vợ nói hết câu, Gonsuke thả phắt luôn tay trái. Gã đang leo cây mà thả hết hai tay, tất nhiên phải té. Trong khoảnh khắc, Gonsuke, cả thân người lẫn chiếc áo khoác, lìa khỏi ngọn cây tùng. Lìa khỏi ngọn cây, nhưng không rớt. Một điều kỳ diệu đang xảy ra giữa ban ngày, thân người ấy đứng nguyên giữa không trung như một con hình nhân tuồng múa rối.
- Cho ta tạ ơn, nhờ bà mà nay ta đã thành tiên.
Gonsuke trịnh trọng nghiêng mình chào, rồi thong thả đạp trời xanh, lên tầng mây cao, biến mất.

Còn hai vợ chồng ông thầy thuốc sau này ra thế nào? Không ai biết. Chỉ biết cây tùng thân to bốn người ôm không xuể ấy, nghe người ta nói, vẫn còn sống rất lâu về sau. Người ta đồn rằng hình như có một người tên là Yodoya Tatsugoro đã cho người đem bứng cây đại thụ ấy về trồng trong vườn của mình, để vào tiết đông ngồi ngắm cảnh tuyết phủ cành tùng.

Tokyo, Hino 10-3-2004
Người dịch: Đinh văn Phước  
Dịch từ nguyên tác trong Shincho Bunko

Chú Thích

1. Gonsuke: Tên gọi chung những người giúp việc làm bếp dưới thời đại Edo (Mạc phủ Tokugawa). Nhật bản có thành ngữ “thật thà như Gonsuke”
2. Taikosama: Một cách gọi tôn kính Tướng Quân Toyotomi Hideyoshi (thế kỷ 16), lãnh chúa thống nhất Nhật Bản, chấm dứt thời đại tranh hùng giữa các sứ quân.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeThu Jan 16, 2020 12:05 am

.
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Z

Cái mũi
- Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)


Lời người dịch: Là một nhà văn nổi tiếng nhưng Akutagawa Ryunosuke không bao giờ viết truyện dài. Tuy vậy, hầu hết tác phẩm của ông rất độc đáo, đưa ông lên vị trí cao trong văn đàn Nhật Bản. Văn ông giàu điển tích chỉ thấy được trong những tác phẩm nổi danh của Nhật Bản thời cổ. Ngòi bút ông phân tích chi ly tình cảm, niềm vui nỗi buồn, những lo âu, dằn vặt hay ham muốn, những khía cạnh tế nhị của tâm hồn con người. Khi đọc tác phẩm Cái mũi, văn hào Natsume Soseki, một bậc đàn anh trong giới văn học Nhật Bản đã đưa ngay ra nhận xét: “Cứ viết cho được vài chục bài như vậy đi, tên tuổi con người này sẽ lẫy lừng ngay trong giới văn học”.
Tâm lý con người thật phức tạp! Cứ muốn tìm cách thay đổi hoàn cảnh cho thuận lợi hơn. Nhưng chẳng ngờ kết quả ngược lại. Cuối cùng cái gì đã có tự nhiên vẫn quý. Biết thế mà mấy ai chịu như vậy! Ít người yên vui được trước mọi hoàn cảnh.
Bài này được dịch theo nguyên tác Hana của nhà xuất bản Kadokawa bunko tái bản lần thứ 33 năm 1984.


Nói đến cái lỗ mũi của sư Thiền Trí cả xóm Đuôi Ao không ai là không biết. Nó dài hơn một tấc rưỡi, nằm lòng thòng từ trên môi cho đến dưới cằm, đầu đuôi đều to như nhau, chẳng khác gì một khúc xúc xích treo lủng lẳng trên mặt.
Từ khi còn là sa-di để chỏm cho đến nay hơn 50 tuổi, đã thành cao tăng được chọn vào cung vua giữ việc tu hành mà trong lòng sư lúc nào cũng canh cánh một nỗi khổ tâm vì cái lỗ mũi của mình. Dĩ nhiên, ngoài mặt vẫn cố làm ra vẻ như chẳng có gì lo nghĩ. Nhưng đó chẳng phải vì mình đã là vị sư hết lòng tu hành cho kiếp sau nên lo cho cái lỗ mũi thì hóa ra không hay, mà chính vì rất sợ người ta biết tâm trạng mình cứ lo lắng cho cái lỗ mũi.
Có hai nguyên do khiến sư luôn rầu rĩ về cái lỗ mũi. Thứ nhất là nó dài quá, rất bất tiện. Ăn cơm chẳng ăn một mình được. Ăn một mình thì lỗ mũi sẽ đụng cơm trong bát mất. Cho nên mỗi khi ăn, sư cho đệ tử ngồi kế bên dùng miếng gỗ lớn, bề ngang cỡ 3 phân, dài cỡ 6 tấc để mà nâng cái lỗ mũi lên giùm. Việc này thật ra chẳng phải đơn giản đối với sư lẫn đệ tử. Mọi người ở Kyoto đều biết chuyện, có lần một người nâng lỗ mũi thay cho đệ tử nhà sư bị hắt xì một cái làm rung tay, khiến cho lỗ mũi rớt luôn vào bát cháo. Tuy nhiên, đó cũng không phải là lý do chính khiến cho nhà sư khổ tâm vì cái lỗ mũi. Mà thật ra nhà sư đau khổ vì cái lỗ mũi đã làm tổn thương lòng tự trọng của mình.

Dân chúng xóm Đuôi Ao cho rằng với cái lỗ mũi như thế, chắc hẳn nhà sư hạnh phúc vì mình không phải là người thường. Bởi vì chẳng có cô gái nào chịu làm vợ người có lỗ mũi như vậy. Thậm chí có người còn suy luận chắc vì có lỗ mũi như vậy nên sư mới xuất gia. Tuy nhiên, nhà sư thì lại chẳng mảy may nghĩ rằng nhờ đi tu mà giảm bớt được phần nào nỗi sầu muộn do cái lỗ mũi gây nên.
Nhà sư tìm đủ cách khôi phục lại lòng tự trọng bị tổn thương, tích cực lẫn tiêu cực. Trước hết, nhà sư cố làm sao để cho lỗ mũi thấy ngắn hơn thực tế. Những lúc chẳng có ai, sư nhìn vào kiếng, quay qua quay lại đủ kiểu để ngắm. Rồi có lúc cảm thấy không yên tâm lắm nếu chỉ có thay đổi vị trí khuôn mặt, nhà sư còn tìm nhiều cách khác như chống tay vào má, tỳ ngón tay vào cằm,… để ngắm nghía. Thế nhưng chưa lần nào nhà sư thoả mãn là thấy lỗ mũi mình ngắn hơn. Thậm chí vì phiền muộn quá, đôi khi ngược lại thấy lỗ mũi lại dài hơn. Những lúc đó, nhà sư cất kiếng vào hộp, lặng lẽ thở dài rồi miễn cưỡng trở lại bàn tụng kinh Quan Âm.
Từ đó, nhà sư luôn để ý đến lỗ mũi người khác. Ngôi chùa ở Đuôi Ao thường xuyên có thuyết pháp. Trong chùa nhà ở san sát nhau, các vị sư luôn nấu nước hàng ngày. Do đó đủ mọi hạng người ra vào chùa từ tăng lẫn tục. Sư Thiền Trí kiên nhẫn quan sát khuôn mặt từng người, những mong sẽ gặp được ai đó có cái lỗ mũi giống mình để tự an ủi phần nào. Con mắt nhà sư chẳng thèm để tâm đến quần áo của mọi người, nhất là mũ áo của sư sãi thì đã thường quá, chẳng lọt vào mắt. Tóm lại sư không nhìn người mà chỉ nhìn lỗ mũi. Trong số người qua lại, cũng có người mũi quặp như mũi két, thế nhưng tuyệt nhiên không ai có mũi giống như của mình. Cứ thế, ngày qua ngày, sư lại càng buồn thêm. Chính nỗi buồn miên man đó đã khiến cho lúc nói chuyện với người khác sư cứ vô tình rờ vào đầu lỗ mũi mà đỏ mặt thẹn thùng thấy chẳng xứng với cái tuổi đã ngoại ngũ tuần.
Cuối cùng, sư cố tìm trong kinh điển và cả sách vở ngoài đời xem có ai có lỗ mũi giống mình không để gọi là đỡ buồn đôi chút. Nhưng không thấy kinh điển nào ghi Mục Kiền Liên hay Xá Lợi Phất có lỗ mũi dài cả. Long Thọ, Mã Minh cũng là bồ tát có lỗ mũi bình thường. Khi nghe chuyện Lưu Huyền Đức của nhà Thục Hán có lỗ tai dài, sư thầm nghĩ phải chi đó không phải là lỗ tai mà là lỗ mũi thì đỡ khổ cho mình biết bao nhiêu.
Không cần phải nói cũng biết rằng ngoài các biện pháp tiêu cực như vừa kể, sư còn tích cực tìm cách làm cho mũi ngắn đi. Về mặt này, sư cũng đã làm hết cách. Từ nấu trái bình bát để uống cho đến lấy nước đái chuột quẹt lên mũi. Nhưng dù làm cách nào đi nữa, cái lỗ mũi vẫn nằm dài lủng lẳng trên mặt hơn một tấc rưỡi.

Thế rồi vào mùa thu năm nọ, có một đệ tử đi lên kinh đô làm công việc cho nhà sư đã được một y sĩ quen biết chỉ cách làm cho lỗ mũi ngắn đi. Y sĩ đó nguyên là người từ Trung Quốc đến tu ở chùa Trường Lạc. Tuy nhiên, sư Thiền Trí cố tình không thử ngay phương pháp đó, giả bộ như mọi khi là làm như chẳng quan tâm đến cái lỗ mũi của mình. Mặt khác, mỗi khi ăn cơm, sư đều nhẹ nhàng nói rằng thật khổ tâm vì đã làm phiền đệ tử quá. Đương nhiên trong lòng thì vẫn chờ đệ tử thuyết phục mình dùng thử phương pháp đó. Phía đệ tử cũng chẳng phải không biết tâm trạng của sư. Thế nhưng đệ tử không ghét mà còn thương tình khi thấy sư phải cố tình làm như thế. Đệ tử bèn đem ba tấc lưỡi ra khuyên sư hãy thử phương pháp vừa học được. Thế là cuối cùng sư đã nghe theo lời khuyên nhiệt tình của đệ tử. Phương pháp này thật ra vô cùng đơn giản: dùng nước nóng trần lỗ mũi rồi cho người đạp lên. Nước nóng thì đã có sẵn, hàng ngày vẫn được đun trong bếp. Vị đệ tử bèn đi vào bếp lấy chậu nước nóng mang ra. Nước nóng đến nổi không thể cho ngón tay vào được. Do đó, nếu cho lỗ mũi thẳng vào trong nước này thì không khéo hơi nóng bốc lên sẽ làm phỏng mặt. Vị đệ tử bèn lấy nắp đục lỗ đậy lên chậu rồi đút lỗ mũi sư vào chậu qua cái lỗ đó. Chỉ cho lỗ mũi vào chậu nước nóng như thế thì sẽ chẳng thấy nóng. Được một lúc vị đệ tử lên tiếng:
- Chắc là đã trần xong rồi?
Sư cười đau khổ nghĩ rằng nếu ai có nghe hỏi như thế thì cũng chẳng làm sao biết được đó là câu chuyện cái lỗ mũi. Lỗ mũi hấp trong nước nóng cảm giác rất nhột nhạt giống như bị rận cắn. Sư nhấc lỗ mũi còn ngút khói ra khỏi chậu nước nóng để lên sàn cho đệ tử co hai chân đạp lên. Sư nằm nhìn cặp chân đệ tử co lên đạp xuống ngay trước mắt mình. Vị đệ tử nhìn xuống cái đầu hói của nhà sư, thỉnh thoảng thoáng vẻ tội nghiệp hỏi:
- Thầy có đau lắm không? Y sĩ bảo là đạp cho mạnh. Chắc là đau lắm phải không?
Sư định lắc đầu ra dấu không đau. Thế nhưng lỗ mũi bị đạp nên cái cổ chẳng nhút nhích được. Sư bèn nhướng mắt lên nhìn cái chân nứt nẻ của đệ tử vừa trả lời như giận dữ:
- Chẳng có đau.
Thật ra lỗ mũi ngứa mà được đạp như thế thì thay vì đau, nó lại có cảm giác dễ chịu hơn. Đạp một lúc thì xung quanh lỗ mũi xuất hiện những đốm như hạt kê, trông giống như con chim bị vặt lông mà quay. Thấy thế, đệ tử thôi đạp, lẩm bẩm như thầm nói với mình:
- Y sĩ biểu dùng cây nhíp để vặt bỏ.
Sư bèn phùng má lên như có vẻ không bằng lòng, để mặc cho đệ tử muốn làm gì thì làm. Không phải là không biết đệ tử tử tế với mình nhưng sư không vui khi thấy lỗ mũi mình bị xem như một thứ đồ vật. Gương mặt sư giống như bịnh nhân không tin tưởng bác sĩ mà phải chịu giải phẫu, bất đắc dĩ ngắm nhìn đệ tử dùng chiếc nhíp vặt lấy các mụt mỡ ở lỗ chân lông trên mũi. Mụt mỡ vặt ra dài hơn một phân, giống như cộng lông chim.
Một lúc xong, đệ tử nói như thở phào nhẹ nhõm:
- Trần thêm một lần nữa mới được.
Gương mặt sư vẫn lộ vẻ bất mãn, mặc cho đệ tử muốn làm gì thì làm. Trần xong lần nữa lấy ra thì thấy lỗ mũi đã ngắn lại hơn mọi khi. Thế này thì chẳng khác gì lỗ mũi quặp vẫn thấy. Sư Thiền Trí vừa vuốt mũi vừa đưa mắt bẽn lẽn nhìn vào kính do đệ tử mang tới với vẻ ngượng ngùng. Lỗ mũi, cái lỗ mũi dài tận dưới cằm trước kia giờ đây đã rút ngắn lại như chuyện không tưởng, chỉ còn hơi cao hơn môi trên một chút. Những đốm đỏ rải rác trên mũi có lẽ là dấu vết do bị đạp mà ra. Thế này thì chắc chắn không còn ai cười nữa. Gương mặt trong kính của sư nhìn gương mặt bên ngoài kính mà nháy mắt cười như mãn nguyện. Tuy nhiên, đó mới là hôm đầu tiên thôi, sư vẫn còn lo âu không biết lỗ mũi có dài ra lại không. Cho nên dù tụng kinh hay ăn uống, mỗi khi có chút rảnh rổi là sư đưa tay lên rờ lỗ mũi thăm chừng. Nhưng lỗ mũi vẫn ngoan ngoãn nằm phía trên môi, hoàn toàn không có vẻ gì dài ra. Từ đó, mỗi lần ngủ dậy, điều đầu tiên là sư đưa tay lên rờ lỗ mũi. Nó vẫn ngắn. Thế là lòng sư thanh thản như đã tạo được công đức chép kinh Pháp Hoa.

Tuy nhiên, chỉ hai ba hôm thôi, nhà sư lại phát hiện một điều lạ lùng. Đó là những võ sĩ thường đến chùa Đuôi Ao lại không nói năng gì cả, chỉ lom lom nhìn lỗ mũi của sư với vẻ mặt càng lạ lùng hơn trước. Chẳng những thế, chú tiểu từng làm rớt lỗ mũi của sư vào trong chén cháo, lúc gặp mặt sư ngoài giảng đường đầu tiên còn cúi mặt xuống ráng nhịn cười, nhưng rồi kiềm chế không được phải bật ra thành tiếng. Các chú tiểu lúc nhận chỉ thị trước mặt còn nghiêm túc nghe, nhưng hễ sư vừa quay lưng đi là cứ cười lên khúc khích. Lúc đầu, nhà sư nghĩ rằng đó là do mặt mình thay đổi. Nhưng dần dần thấy rằng giải thích như thế không không đủ. Đúng là các chú tiểu hay sa di cười là vì thế. Nhưng cũng một cái cười mà nó có gì đó khác với lúc lỗ mũi còn dài. Có thể bảo vì lỗ mũi ngắn trông lạ lùng hơn so với lỗ mũi dài mà họ đã quen thấy. Nhưng mà nó còn cái gì nữa ấy.
- Trước kia mọi người đâu có cười ra mặt như vậy đâu.
Thỉnh thoảng sư ngừng tụng kinh, nghiêng nghiêng cái đầu hói mà nói lầm bầm. Mỗi lần như thế, nhà sư dễ mến lại đưa mắt lơ đễnh nhìn tấm hình bồ tát Phổ Hiền treo kề bên, nhớ lại lúc mũi còn dài vào bốn năm hôm trước mà âu sầu, giống như cảnh người lâm vào bước túng cùng, tưởng nhớ lại thuở giàu sang sung sướng trước kia. Rất tiếc là sư Thiền Trí không đủ trí tuệ để trả lời được câu hỏi này.

Tâm hồn con người luôn luôn có hai thứ tình cảm mâu thuẫn nhau. Dĩ nhiên không ai lại không cảm thông với nỗi bất hạnh của người khác. Nhưng khi người đó thoát ra khỏi cảnh bất hạnh thì tự nhiên trong lòng lại cảm thấy có cái gì đó không muốn như thế. Nói cường điệu hơn là thậm chí còn muốn cho người đó bị lâm vào cảnh bất hạnh tương tự thêm một lần nữa. Rồi đến lúc nào đó trở nên thù ghét họ, dù không phải cố ý. Mặc dù không hiểu rõ nguyên nhân, nhưng sư lại buồn vì cảm thấy thái độ bàng quan, ích kỷ của những người tăng lẫn tục trong xóm Đuôi Ao này.
Thế là càng ngày sư càng gắt gỏng, khó chịu. Gặp ai cũng la rầy. Làm cho đến nỗi đệ tử đã giúp chữa lỗ mũi cho sư cũng nói xấu rằng:
- Sư Thiền Trí thế nào cũng bị mang tội.
Đặc biệt chú tiểu nghịch ngợm kể trên đã làm cho sư vô cùng giận dữ. Một hôm nọ nghe tiếng chó sủa vang rân, sư bước ra ngoài xem thì thấy chú tiểu đang cầm tấm gỗ dài khoảng 6 tấc đuổi theo con chó xù ốm nhom. Không những chỉ đuổi thôi, chú tiểu còn vừa đuổi vừa la lên: “Đừng để bị đập lỗ mũi nghen. Nè, đừng để bị đập lỗ mũi”. Sư bèn giựt lấy tấm gỗ trên tay chú tiểu, đập thẳng tay vào mặt chàng ta. Thì ra đó là tấm gỗ đã được dùng để nâng lỗ mũi của sư lúc trước.

Thế là sư lại lấy làm hận vì cái lỗ mũi ngắn lại. Rồi một hôm nọ, khi màn đêm buông xuống, gió từ đâu đột nhiên thổi đến làm cho các chuông nhỏ trên tháp reo vang vọng đến bên gối nghe nhức óc. Thêm cái lạnh cắt da nên người già như sư Thiền Trí muốn ngủ cũng không thể nào chợp giấc được. Sư nằm trằn trọc trên giường một hồi thì bỗng thấy cái mũi trở nên nhột nhạt khác thường. Đưa tay rờ thì thấy nó hơi sưng lên như ngậm nước, và dường như chỉ riêng có chỗ đó nóng lên thôi.
- Chắc là mình đã bị bịnh vì cố quá sức làm cho mũi ngắn lại.
Sư vừa lẩm bẩm vừa đưa tay lên đè mũi với vẻ kính cẩn như dâng hoa cúng Phật.
Sáng hôm sau sư thức dậy sớm như mọi khi thì thấy cây bạch quả và những cây khác trong sân chùa đã rụng sạch lá trong một đêm. Sân vườn sáng chói như lát vàng. Những giọt sương đêm đọng lại trên hiên tháp làm cho vầng cửu luân trên nóc càng toả sáng chói lọi dưới ánh nắng ban mai yếu ớt. Sư mở cửa ra đứng ngoài hiên hít một hơi thật sâu. Đúng lúc đó, có một cái cảm giác gần như sắp sửa bị quên bẵng đi lại trở về với sư. Sư lật đật đưa tay lên mũi. Đó không còn là cái mũi ngắn đêm hôm trước nữa, mà là cái lỗ mũi dài hơn một tấc rưỡi nằm lòng thòng xuống đến tận cằm như trước kia. Lúc này sư mới hiểu ra rằng lỗ mũi đã dài ra như xưa trong vòng một đêm thôi. Đồng thời cái cảm giác phơi phới giống như khi làm cho lỗ mũi ngắn lại được lại trở về trong lòng nhà sư.
- Như thế này thì chắc không còn ai cười nữa.
Sư tự nhủ thầm trong lòng, vừa để cái lỗ mũi dài đong đưa theo gió thu ban mai.

Việt Châu dịch từ nguyên tác tiếng Nhật Hana
Tokyo tháng 4/2004
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeSun Jan 19, 2020 8:48 am

.
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) VnExpress-vuonquytLaiVung-DongThap8_680x0

Mấy trái quýt
- Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)


Vào lúc chạng vạng một ngày mùa đông mây mù. Tôi ra ga Yokosuka lên chuyến xe lửa đi Tokyo, ngồi một góc  trên toa hạng nhì, lơ đãng chờ tiếng tu huýt báo tàu chạy. Trong toa, đèn đã bật sáng từ lâu, nhưng lạ thay, ngoài tôi ra chẳng có hành khách nào khác. Nhìn ra ngoài sân ga lờ mờ tối, hôm nay lạ thật, sao không thấy bóng người tiễn đưa, chỉ có một con chó con bị nhốt trong cũi, chốc chốc cứ sủa ăng ẳng, nghe buồn thảm. Cảnh vật sao giống lòng tôi lúc ấy một cách kỳ lạ. Một cảm giác mệt mỏi rã rời khó tả như bị bầu trời u ám đầy mây tuyết đè nặng trong đầu. Tôi thọc nguyên hai tay trong túi ngoài của chiếc măng tô, ngay cả tờ báo chiều bỏ trong túi ấy cũng không buồn lôi ra đọc.

Rồi tiếng tu huýt rúc lên. Tôi thấy dễ chịu ra một tí, ngả đầu dựa vào khung cửa sổ, trong lòng hờ hững chờ cảnh sân ga sắp chầm chậm lùi về phía sau. Bỗng, từ phía cửa soát vé có tiếng guốc ầm ĩ, tiếp đó tôi nghe thấy tiếng la ó của người theo xe soát vé, rồi cửa toa xe tôi đang ngồi bỗng mở toang, một đứa con gái trạc mười ba, mười bốn lật đật leo lên vừa đúng lúc chuyến xe lửa nặng nề lắc mạnh, từ từ chuyền bánh. Hàng cột trên sân ga cắt quang cảnh chạy trước mắt tôi thành từng khung một, chiếc xe rải nước nằm trơ như bị bỏ quên, tiếng người phu khuân vác cảm ơn ai đó cho tiền nước - tất cả lùi dần, lẫn vào trong làn khói tàu tạt vào cửa sổ toa xe, như còn luyến tiếc. Bây giờ tôi mới thấy thanh thản, châm điếu thuốc quấn tay hút, lần đầu tiên tôi nhướng cặp mi buồn ngủ, thoáng nhìn mặt con bé ngồi ở ghế trước.

Con bé bối tóc kiểu ichogaeshi (1), mái tóc khô không xức dầu, hai gò má đỏ gay đầy những lằn nứt nẻ ngang dọc, thấy dễ sợ. Đây đúng là một đứa con gái nhà quê. Nó quàng một chiếc khăn len màu lá vàng nhạt cáu bẩn, thả xuống tận đùi, trên đấy đặt một tay nãi lớn. Tay nó thâm tím vì sương giá, nó vừa ôm tay nải, vừa nắm chặt cái vé đỏ hạng ba (2). Tôi không thể ưa bộ mặt quê kệch của con bé. Quần áo nó dơ dáy càng làm tôi thêm khó chịu. Sau cùng, tôi hết sức bực con bé đần độn không biết thân phận, không phân biệt nổi đâu là toa hạng ba, đâu là toa hạng nhì. Tôi châm điếu thuốc hút, cốt để quên nó. Tôi lôi tờ báo chiều trong túi ra, giở trên đùi mà đọc. Ánh sáng bên ngoài đổ tràn trên tờ báo, đột nhiên đổi thành ánh điện của bóng đèn trong toa, chữ in tồi tệ trong các cột báo không ngờ lại nổi bật lên thật rõ trước mắt tôi. Thì ra con tàu đã vào hầm đầu tiên của đường xe Yokosuka, đường xe có rất nhiều hầm.

Nhưng các trang báo chiều dưới ánh đèn tàu, toàn những chuyện không đâu, không làm tôi bớt chán nản. Tin về hòa ước, tin đám cưới, tin tham nhũng, các cột phân ưu cáo phó -- chuyến xe lửa lại lao vào hầm, trong khoảnh khắc, tôi có cảm tưởng như con tàu đang chạy ngược, và trong cái ảo tưởng ấy tôi đọc lướt qua, như cái máy, các cột báo khô khan vô vị hết bài này đến bài khác. Nhưng suốt cả thời gian ấy, không một giây phút nào tôi lại quên được con bé với tất cả vẻ quê mùa cục mịch, ngồi trước mặt. Chuyến xe lửa chạy trong hầm, đứa con gái nhà quê này và những trang báo chiều đầy chuyện tầm phào - những cái đó tượng trưng cho gì đây? Nếu đấy không phải là biểu tượng của cuộc sống tẻ nhạt, thấp hèn, vô nghĩa này, thì là gì? Tôi thấy chán ngắt, hất tờ báo chiều đang đọc dở qua một bên, lại dựa đầu vào khung cửa sổ, nhắm nghiền mắt ru dần vào giấc ngủ.

 Vài phút sau, bất giác cảm thấy như có gì đe dọa, tôi chợt mở mắt nhìn xung quanh. Không biết tự hồi nào, con bé đã bỏ chỗ ngồi trước mặt, sang bên cạnh tôi, nó cố hết sức mở cửa sổ toa. Nhưng có lẽ tấm cửa kính quá nặng nên con bé không làm sao nâng nổi. Hai má đầy những lằn nứt càng đỏ gắt. Thỉnh thoảng tiếng hít mũi lồng trong tiếng thở hổn hển đứt đoạn của nó, dồn dập vào tai tôi. Dĩ nhiên tôi cũng thấy ít nhiều thương hại cho con bé. Nhưng đây chính là lúc con tàu lại sắp chạy vào hầm, cỏ khô mọc hai bên sườn núi, phất phơ trong ráng chiều chỉ chực ập vào cửa toa, và đó là một trong những lý do để người ta đóng kín cửa tàu. Thế mà con bé lại cứ muốn nâng cửa sổ lên - tôi không thể nào hiểu nổi. Không, thực ra tôi chỉ đơn giản nghĩ là nó muốn mở cửa sổ chơi mà thôi, vì thế tôi càng bực bội khó chịu. Tôi lạnh lùng nhìn cảnh con bé đang khó nhọc lôi kéo tấm cửa kính với hai bàn tay thâm tím vì sương giá, trong bụng cứ cầu cho con nhỏ sẽ không bao giờ mở được. Tiếng con tàu chạy, bỗng gầm lên dữ dội, chuyến xe lửa lại lao vào hầm, và đột nhiên tấm cửa con bé muốn mở, rơi xuống đánh ầm. Qua cái khoảng trống vuông vức, khói lẫn bụi than đen kịt ập vào khắp toa, khói mù mịt làm tôi nghẹt thở. Tôi vốn yếu cuống họng, lại không kịp lấy khăn tay ra che; khói táp vào mặt vào mũi; tôi ho sặc sụa, thở không được. Nhưng con bé không hề màng đến tôi, nó thò đầu ra ngoài cửa sổ, mặc cho hai mái tóc hai bên mang tai bị gió lay giật trong bóng tối, mắt đăm đăm về hướng tàu chạy. Khi tôi ngước mặt nhìn con bé trong màn khói dưới ánh đèn, thì ngoài cửa sổ toa, trời mỗi lúc một sáng ra. Từ bên ngoài, mùi đất, mùi cỏ khô, hơi nước mát lạnh tràn vào giúp tôi dứt được cơn ho, nếu không chắc tôi sẽ mắng phủ đầu con bé không quen biết này, bắt nó phải đóng cửa sổ lại.

 Nhưng lúc ấy cũng chính là lúc con tàu đã êm ả ra khỏi hầm, sắp chạy qua một cổng xe lửa ngoài bìa một xóm nghèo nằm xen giữa hai ngọn đồi mọc toàn cỏ khô. Gần cổng xe lửa, mấy cái nhà cất chen chúc nhau, nhà nào cũng lụp xụp tồi tàn, cái thì mái rạ cái thì mái ngói. Một lá cờ trắng nhạt lay động trong ráng chiều, có lẽ người canh cổng xe đang phất cờ. Tôi nghĩ, như thế là tàu đã qua hết các đường hầm -- ngay lúc ấy, bên kia thanh cổng xe vắng vẻ ấy, tôi thấy ba đứa con trai, má hây hây đỏ, xếp hàng chen nhau đứng. Đứa nào cũng bé thấp loắt choắt như bị bầu trời đầy mây đè bẹp xuống. Quần áo chúng nó bạc màu, tồi tàn không khác gì cái xóm nghèo. Ba đứa bé ngước đầu nhìn chuyến xe lữa đang chạy, vừa đưa tay lên vẫy nhanh, vừa ngưỡng cổ hét to gì đó, tôi nghe không ra. Đúng lúc đó, con bé đang thò nửa thân người ra ngoài cửa sổ toa, đưa tay tím bầm, ra sức vẫy lại. Và bỗng từ trên trời năm sáu trái quýt vàng, màu vàng của nắng ấm, màu vàng gây rộn ràng, rớt xuống đầu ba đứa bé đang đứng tiễn chuyến xe lửa. Tôi bất giác nín thở, chợt hiểu được mọi điều. Thì ra chắc con bé này phải lên tỉnh đi ở đợ, nó cất kỹ mấy trái quýt trong tay áo, bây giờ đem liệng ra ngoài cửa sổ xe, đền công cho ba đứa em đứng đợi ngoài cổng, chờ chuyến tàu để tiễn nó.

 Cổng xe bên xóm nghèo chìm trong ráng chiều mờ nhạt, tiếng ba đứa nhỏ hò reo tíu tít nghe như tiếng chim non và mấy trái quýt màu vàng rực rỡ, tung rơi trên đầu chúng - trong nháy mắt, tất cả vụt lướt qua nhanh ngoài cửa sổ con tàu. Nhưng cảnh tượng ấy ăn sâu vào lòng tôi làm tim tôi thắt lại. Và từ đó, không hiểu vì sao, lòng tôi rạt rào sung sướng. Tôi thấy hân hoan phấn khởi, ngẩng đầu lên chăm chú nhìn con bé, bây giờ trông như một người hoàn toàn khác. Con bé đã trở về chỗ cũ trước mặt, vẫn khuôn mặt đầy những lằn nứt ngang dọc dấu trong chiếc khăn quàng len màu lá vàng nhạt, hai tay vẫn ôm cái tay nải lớn, trong tay vẫn nắm chặt cái vé hạng ba...

Giây phút này, lần đầu tiên tôi quên đi được dù chỉ một thoáng cái mệt rã rời và cuộc đời thấp hèn, tẻ nhạt, vô nghĩa này.

Người dịch: Đinh văn Phước
Tokyo, Hino 12 - 2003
  
Chú Thích:
(1)   Ichogaeshi: Một kiểu tóc của thiếu nử Nhật.
(2) Vào thời ấy vé xe lửa Nhật có 3 hạng: hạng nhất màu trắng, hạng nhì màu xanh và hạng ba màu đỏ.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeTue Jan 28, 2020 9:16 am

.
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) 9k=

Bốn Bề Bờ Bụi

- Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) 


Dịch giả: Phạm Vũ Thịnh
Lời người dịch: Truyện ngắn sau đây là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Akutagawa Ryunosuke, bày tỏ hoài nghi về tính tuyệt đối của Sự Thật. Có Sự Thật phổ quát không, hay chỉ là ảo ảnh của Sự Thật khúc xạ qua tâm lý của mỗi người?

Truyện ngắn nầy, phát biểu năm 1922 trên tạp chí Shinchô, năm 1950 đã được đạo diễn Kurosawa Akira dựng thành cuốn phim "Rashomon" (thêm vài chi tiết trong truyện ngắn "Rashomon - Lã Sinh Môn" cũng của Akutagawa), với các tài tử Mifune Toshiro, Machiko Kyo, Mori Masayuki. Phim nầy thành công rực rỡ ở cả trong lẫn ngoài nước Nhật, thế giới biết tiếng Kurosawa và Akutagawa từ đó.
Điện ảnh Mỹ mô phỏng phim Rashomon để tạo ra phim "The Outrage" năm 1964, đạo diễn Martin Ritt, tài tử Paul Newman, Claire Bloom, Laurence Harvey, rồi phim "Iron Maze" năm 1991, đạo diễn Yoshida Hiroaki, tài tử Jeff Fahey, Bridget Fonda, Murakami Hiroaki.
Và năm 1996, đạo diễn Sato Hisayasu đã dựng nên phim "Yabu No Naka" sát với nguyên tác Akutagawa hơn, với các tài tử Hosokawa Shigeki, Sakagami Kaori, Matsuoka Shinsuke. Bản sau đây dịch từ nguyên tác tiếng Nhật công bố trên trang mạng "Aozora Bunkô - Kho sách ngoài trời" www.aozora.gr.jp ngày 09/03/2004.

***

Nhà văn Nhật Bản Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) là tác giả trên một trăm truyện ngắn và tiểu thuyết Kappa. Ông được coi là một trong những bậc thầy truyện ngắn của văn chương Nhật Bản và thế giới. Một trong những giải thưởng văn chương có uy tín nhất của Nhật Bản hiện nay mang tên ông. Truyện ngắn dưới đây từng được dịch sang tiếng Việt nhiều lần với các tựa đề khác như Trong rừng trúc, Trong hẻm núi... Tuy nhiên, hầu hết các bản dịch trước đều qua một ngôn ngữ trung gian (Anh, Nga...) Trong bản dịch này, dịch giả Phạm Vũ Thịnh cố gắng dịch sát với nguyên tác tiếng Nhật, dùng phương âm và vài lối nói có phần thiếu thanh lịch để gần với lối nói và trình độ văn hóa của các nhân vật.

Lời khai của người đốn củi với quan kiểm-sát
Đúng đó, thưa quan lớn. Thấy được xác chết đó chính là tui đây chớ ai. Sáng nay tui lên rừng sâu đốn củi như mọi ngày, thì thấy có xác chết trong bụi cây khuất sau núi đó. Quan hỏi ở đâu hả? Thì cách chừng 4, 5 thôi đường (1) từ con đường lớn qua trạm thơ ở Yamashina đó mà. Chỗ đó vắng người, có nhiều cây tuyết-tùng (2) nhỏ lẫn trong bụi tre. Xác chết nằm ngửa, mặc áo bào màu xanh lơ, đầu vẫn còn đội mũ xếp kiểu nhà quan trên kinh đô. Nói là chỉ bị đâm một dao thôi, chớ thiệt ra, vết thương nhằm ngay ngực, cho nên lá tre rụng chung quanh xác chết thấm đầy máu thâm tím. Không, máu đã hết chảy rồi, mà vết thương ngó bộ cũng đã khô rồi, thưa quan lớn. Lại có một con ruồi trâu bám riết trên vết thương, như thể không nghe cả tiếng chân tui bước tới nữa.
Quan hỏi có thấy đao kiếm chi không hả? Không, tui chẳng thấy có đao kiếm chi hết. Chỉ thấy có một đoạn dây rớt ở gốc cây tuyết-tùng gần đó. À, ngoài đoạn dây, còn có cái lược nữa. Chung quanh xác chết chỉ có hai vật đó thôi, thưa quan lớn. Nhưng mà, một vùng cỏ và lá tre rụng quanh đó thì bị giẫm đạp tan hoang, nên chắc chắn là anh ta trước khi bị giết chết, cũng đã chống chọi dữ lắm. Còn ngựa hả? Chỗ đó thì ngựa không vô lọt được. Lối cho ngựa chạy thì phải cách đó một cánh rừng mới có.

Lời khai của nhà sư lữ hành với quan kiểm sát
Người chết đó thì quả thật tôi đã gặp hôm qua. À, có lẽ vào khoảng trưa, thưa quan lớn. Chỗ gặp là khoảng đường tôi đang đi từ Sekiyama tới Yamashina đó. Anh ta đi bộ, cùng với người đàn bà cỡi ngựa, hướng về phía Sekiyama. Người đàn bà đội mũ có phủ khăn che mặt nên tôi không biết mặt mũi ra sao, chỉ thấy cái áo màu tím. Con ngựa màu hung đỏ… À, hình như đã cắt sạch bờm.
Quan hỏi ngựa bao lớn à? Con ngựa nầy có lẽ cao hơn ngựa thường đến 4 tấc (3). Người tu hành nên tôi không rành chuyện đó, thưa quan lớn. Anh ta mang gươm, và có cả cung tên nữa. Đặc biệt, bao đựng tên sơn đen, cắm hơn hai chục mũi tên đánh trận, thì tới bây giờ tôi cũng còn nhớ rõ. Tôi đâu có ngờ anh ta rồi ra thân thể như vậy. Quả thật là đời người như sương như điện chớp. Chao ôi, thảm thương đến thế nầy thì còn lời nào mà nói nữa.

Lời khai của sai nha (4) với quan kiểm sát
Quan hỏi cái thằng mà tôi bắt được là ai ạ? Thưa quan lớn, thằng nầy chính thật là tướng cướp khét tiếng Tajomaru đó. Quả thật là tôi đã tóm được lúc hắn đã ngã ngựa, đang rên hừ hừ trên cầu đá ở Awadaguchi. Quan hỏi vào giờ nào ạ? Khoảng canh đầu đêm hôm qua đó, thưa quan lớn. Lần tôi bắt hụt hắn trước đây, hắn cũng mặc áo bào màu xanh đậm, mang gươm dài như vậy. Lần nầy, như quan lớn thấy đó, lại mang thêm cung tên nữa. Dạ, quan dạy là người chết đã mang cung tên đó? Vậy thì giết chết người đàn ông đó chính là tên Tajomaru nầy rồi, chẳng sai chạy vào đâu được nữa. Cây cung bọc da, bao đựng tên sơn đen, tên đánh trận đuôi lông ó 17 cây, tất cả các thứ nầy hẳn là của người bị hắn giết rồi. Ngựa thì đúng như quan phán, là ngựa màu hung đỏ, cắt hết bờm. Tên cướp nầy mà bị con vật đó hất ngã xuống thì hẳn là tiền duyên nghiệp báo chi đây. Con ngựa lúc đó vẫn còn kéo theo dây cương dài, đứng gặm cỏ bên đường, một đoạn phía trước cầu đá.
Trong đám mấy tên cướp hay lai vãng chốn kinh kỳ, thằng Tajomaru nầy nổi tiếng là háo sắc. Năm ngoái đây, trên núi phía sau chùa Toribedera thờ La Hán Binzuru, có một bà đi lễ chùa đã bị giết chết cùng với đứa con gái nhỏ, nghe đâu là thủ đoạn của thằng nầy. Nếu đúng thật là tên nầy đã giết người đàn ông đó, thì người đàn bà cỡi con ngựa hung đỏ đã đi đâu, ra sao rồi, thật không còn biết nói sao nữa. Sợ quan mắng cho là dám nói leo, nhưng xin quan lớn xét cả việc ấy cho.

Lời khai của bà già với quan kiểm sát
Dạ phải, người chết đó là người đã cưới con gái của già nầy. Nhưng cậu ta không phải là người chốn kinh kỳ, mà là vũ sĩ nhà Kokufu ở xứ Wakasa. Tên cậu ta là Takehiro giòng Kanazawa, 26 tuổi. Dạ không, cậu ta tính tình hiền lành, đâu có gây thù oán chi với ai. Còn con gái tôi à? Con gái của già tên là Masago, 19 tuổi. Tuy tính tình có cứng cỏi không thua đàn ông con trai, nhưng mà ngoài cậu Takehiro ra, nó chưa hề biết tới đàn ông nào khác. Khuôn mặt nhỏ trái xoan, nước da bánh mật, đuôi mắt bên trái có một nốt ruồi đen.
Hôm qua, cậu Takehiro đã cùng con gái tôi lên đường đi Wakasa. Nhân quả chi mà ác đức đến ra nông nỗi nầy. Rể tôi phần số như vậy đã đành, nhưng con gái tôi ra sao thì già nầy lo lắng không sao ở yên được. Lạy quan lớn xét cho lời van xin cuối đời của người già cả nầy, mà cho dù phải vạch từng lá cỏ, kiểm từng gốc cây, cũng xin tìm cho ra con gái của già. Dù gì đi nữa, già cũng căm hận tên cướp mà quan nói là Tajomaru gì đó. Đã giết chết con rể tôi, mà cả con gái của tôi cũng… (sau đó khóc ròng, không nói gì được nữa).

Lời thú của Tajomaru
Giết chết người đàn ông đó chính là tui đây. Nhưng tui không giết người đàn bà. Vậy thì cô ta đi đâu? Cái đó thì tui cũng không biết. Mà khoan đã, có tra tấn bao nhiêu đi nữa, chuyện tui không biết thì làm sao mà nói gì được chớ. Hơn nữa, đã tới nước nầy thì tui cũng quyết không dấu giếm hèn nhát đâu.
Hôm qua, khoảng sau trưa một chút, tui đã gặp hai vợ chồng đó. Đúng lúc gió thổi lật cái khăn che mặt trước mũ của cô đó lên, tui thoáng thấy được khuôn mặt cô ta. Mà chỉ một thoáng thôi. Tui vừa tưởng là thấy được mặt cô ta, thì đã không còn thấy nữa. Một phần có lẽ cũng vì chỉ thấy lướt qua nên tui thấy khuôn mặt cô đó giống như khuôn mặt nữ-bồ-tát. Chỉ trong chớp nhoáng đó, tui đã quyết sẽ chiếm đoạt cô ta, dù có phải giết người chồng đi nữa.
Ôi, có gì đâu. Giết người có phải là chuyện gì ghê gớm như các người nghĩ đâu. Thế nào cũng phải chiếm đoạt đàn bà, thì phải giết đàn ông đi thôi. Chỉ khác là tui giết người thì dùng đao kiếm, còn các người thì thay vì đao kiếm, lại dùng quyền lực, tiền bạc, hay có khi chỉ cần lời nói xảo quyệt là đủ để giết người ta rồi. Giết kiểu đó thì máu chẳng đổ, mà đàn ông đó vẫn thấy như còn sống đàng hoàng. Nhưng chung quy cũng là giết người đó thôi. Giết người kiểu nào đáng kết tội nặng, các người đáng tội nặng, hay tui đáng tội nặng, thật khó mà phán quyết được (mỉm cười mai mỉa). Nhưng mà, tất nhiên nếu không cần giết đàn ông mà vẫn chiếm đoạt được đàn bà thì tốt hơn. Quả thật, lúc đó lòng tui đã nghĩ là nếu được thì chiếm đoạt người đàn bà mà tránh giết người đàn ông. Nhưng khổ là ngay trên đường lớn qua trạm thơ ở Yamashina thì không cách nào làm được việc đó. Cho nên tui đã phải dàn xếp để dụ hai vợ chồng đó vô sâu trong núi.
Chuyện nầy cũng chẳng khó khăn chi. Tui giả bộ đi cùng đường với họ, rồi đặt chuyện rằng trong núi phía trước có phần mộ cổ, tui đào lên thấy có vô số gương và kiếm, nên đã dời đi, chôn ở một bụi rậm khuất sau núi để không ai tìm thấy được, nếu có ai muốn mua thì tui sẽ để lại với giá rẻ. Người đàn ông nghe tui nói, dần dần cũng động lòng ham. Thấy chưa, lòng ham muốn là thứ đáng sợ như thế nào. Vậy là, không đầy nửa khắc sau, vợ chồng họ đã theo tui, rẽ ngựa vào rừng. Tới chỗ ngay trước bụi rậm, tui nói là kho tàng chôn ở trong đó, gọi họ tới xem. Anh chồng trong lòng đã ham muốn quá rồi, chẳng có gì phải phản đối. Nhưng cô vợ thì không chịu xuống ngựa, nói là muốn ngồi đợi ở đó. Mà nhìn thấy bụi rậm cây cối um tùm kiểu đó thì cô ta nói như vậy cũng là chuyện đúng thôi. Tui thì thật tình lúc đó đã chắc mẫm là thú săn lọt bẫy rồi, chạy đâu cho thoát, nên cứ để mặc cô ta ở đó, chỉ đưa anh chồng vô sâu trong bụi rậm.
Lúc đầu thì chỉ toàn là bụi tre dày. Nhưng đi chừng nửa thôi đường (1) thì tới chỗ thấy phía trước có đám cây tuyết-tùng, có phần thưa hơn. Không còn chỗ nào tốt hơn chỗ đó, cho tui ra tay. Tui vừa rẽ bụi rậm bước tới, vừa kiếm lời lọt tai mà nói gạt rằng kho tàng chôn ở dưới đám cây tuyết-tùng đó. Anh chồng nghe tui nói, hăm hở rẽ bụi rậm tiến về phía đám cây đó. Một hồi thì tới chỗ chỉ có ít tre, có vài cây tuyết-tùng mọc thành hàng. Vừa tới chỗ đó, tui thình lình nhào tới vật anh ta xuống. Là một tay dùng đao kiếm, anh ta quả là có sức mạnh lắm chớ, nhưng bị đánh thình lình nên không làm gì được, tức thì bị trói chặt vô một gốc cây tuyết-tùng.
Quan hỏi dây trói à? Dây đó là thứ đồ tiện lợi cho kẻ cướp, phòng khi cần có để vượt qua rào tường, nên lúc nào tui cũng cột sẵn ở thắt lưng. Tất nhiên là để anh ta khỏi la lên, chỉ cần tọng đám lá tre khô vô miệng là khỏi phải lo lắng chi nữa. Lo xong phần anh chồng, tui quay trở lại chỗ cô vợ, nói là anh ta có vẻ phát bệnh thình lình, biểu vợ tới coi sóc cho. Chắc khỏi cần nói là chuyện nầy cũng song suốt như ý tui. Cô ta vất mũ, mặc cho tui nắm tay, tất tả bước sâu vô bụi rậm. Nhưng, tới nơi lại thấy chồng mình bị trói vô gốc cây tuyết-tùng. Vừa thấy vậy, không biết đã lấy từ trong túi ra từ lúc nào mà cô ta đã tức thì rút lưỡi dao ngắn ra, sáng loáng trên tay. Cho tới bây giờ, tui chưa hề thấy một người đàn bà nào cường ngạnh như cô nầy. Lúc đó, tui mà dễ ngươi một chút là đã bị đâm một nhát lủng hông rồi. Tui tràng người né tránh được, nhưng cô ta cứ đâm chém túi bụi nên tui mà có bị thương tích cũng chẳng có chi lạ. Nhưng mà, tui đây, đường đường là Tajomaru, cho nên không đến nỗi phải dùng tới đao kiếm, cuối cùng rồi cũng đánh rớt được con dao. Tính khí cương cường đến đâu đi nữa mà trong tay không có vũ khí thì cũng phải chịu phép thôi. Vậy là đúng như ý định, cuối cùng tui đã chiếm đoạt được người đàn bà mà không cần phải giết người đàn ông.
Khỏi phải giết người đàn ông. Đúng đó. Tui đâu có ý định giết anh ta làm chi nữa. Nhưng, lúc tui định rời thoát khỏi bụi rậm đó, bỏ lại cô ta đang nằm khóc lóc, thì thình lình, cô ta nắm cánh tay tui, rồi như điên cuồng, cứ ôm chặt lấy tui. Mà nghe những lời thổn thức đứt quãng đó thì ra là cô ta nói: hoặc là chồng cô ta phải chết, hoặc là tui phải chết, một trong hai người phải chết đi, chớ cô ta đã làm chuyện nhục nhã đó trước mắt cả hai người đàn ông, thì đau khổ còn hơn chết nữa. Ai cũng được, người nào sống sót thì cô ta sẽ đi theo mà cung phụng người đó. Cô ta năn nỉ thảm thiết vậy đó. Riết rồi tui cũng phát khởi ý muốn giết chết anh chồng đi. (có vẻ xúc động buồn rầu). Chuyện nầy nói ra như vậy, chắc là người ta thấy tui tàn nhẫn hơn các người. Nhưng các người đâu có nhìn thấy vẻ mặt cô ta. Nhất là trong thoáng chớp đó, đôi mắt cô ta bốc lửa như thế nào. Lúc đó, nhìn đôi mắt cô ta, tui đã nghĩ là cho dù có bị sấm sét đánh chết đi nữa, cũng phải lấy cô ta làm vợ mới thoả lòng. Phải, lấy cô ta làm vợ, trong lòng tui lúc đó chỉ có một ý nguyện đó mà thôi. Điều đó không phải như các người nghĩ là chuyện sắc dục bỉ ổi đâu. Lúc đó, nếu thật chỉ chuyên niệm chuyện sắc dục mà thôi, thì dù có phải đạp ngã cô ta, tui cũng đã bỏ đi rồi. Mà như vậy thì người chồng cũng khỏi phải đổ máu dưới lưỡi gươm của tui. Nhưng mà, trong bụi rậm mờ tối, trong thoáng chớp khi tui nhìn đăm đăm khuôn mặt cô ta, tui hiểu rằng nếu không giết chết anh chồng thì không thể rời chỗ đó mà đi được.
Nhưng có giết anh ta đi nữa, tui cũng không muốn giết bằng thủ đoạn đê hèn. Tui cởi trói cho anh ta, rồi biểu anh ta tuốt gươm ra. (Dây trói cởi bỏ lúc đó, sau nầy còn sót lại bên gốc cây tuyết-tùng). Sắc mặt giận dữ, anh ta mới tuốt cây gươm to bản ra, không nói một lời, tức thì hầm hầm bay tới chém tui. Trận đấu gươm đó cuối cùng ra sao thì khỏi nói các người cũng đã rõ. Tới thế thứ 23 thì lưỡi gươm của tui đã xuyên thấu ngực kẻ địch. Thế thứ 23 đó, xin các người nhớ cho. Điều nầy, cho tới bây giờ tui vẫn còn nể phục. Đấu gươm với tui mà đỡ được hơn 20 thế thì khắp thiên hạ chỉ có một mình anh ta mà thôi. (mỉm cười khoái trá).
Anh ta vừa ngã xuống, thì tui hạ mũi gươm nhuộm máu, quay lại nhìn cô vợ. Thì, các người nghĩ coi, cô ta chẳng còn ở đó nữa. Tui cố tìm kiếm trong mấy đám cây tuyết-tùng coi cô ta trốn đi đâu. Nhưng trên đám lá tre khô chẳng còn gì là dấu vết của cô ta cả. Có lắng tai nghe cũng chỉ nghe tiếng hấp hối trong cổ họng người chồng mà thôi. Theo chuyện mà đoán thì ngay khi tui chém nhát gươm đầu, có lẽ cô ta đã luồn qua bụi rậm, trốn đi để kêu người tới cứu rồi. Nghĩ vậy nên đến phiên tính mạng mình bị nguy, tui bèn đoạt lấy gươm dài và cung tên, lập tức chạy trốn về phía đường rừng đã vô lúc trước. Ở đó vẫn còn con ngựa của cô ta đang yên lặng gặm cỏ. Chuyện từ đó về sau thì chẳng cần phải nói ra làm chi nữa. Có điều, trước khi vô kinh đô, chỉ có thanh gươm thì tui đã vất đi rồi. Lời cung khai của tui chỉ có chừng đó. Đàng nào thì cũng một lần, côn trượng hay bêu đầu treo cổ, thôi thì xin chịu nhục hình cho rồi. (tỏ thái độ ngạo mạn).

Lời sám hối của người đàn bà đến chùa Shimizu
Tên đàn ông mặc áo bào màu xanh đậm đó, sau khi đã dày vò tôi xong, hắn nhìn chồng tôi mà cười chế diễu. Chồng tôi khổ tâm biết là dường nào. Nhưng dù cho chồng tôi có vặn vẹo bao nhiêu đi nữa, cũng chỉ làm cho các vòng dây trói khắp trên thân người càng siết chặt vào thêm mà thôi. Tội nghiệp quá, bất giác tôi lăn về phía chồng tôi. Không, tôi mới định lăn lại thì ngay lúc đó tên cướp đã đạp tôi ngã chúi tới chỗ chồng tôi. Rồi trong thoáng chốc nhìn thấy tia sáng không sao diễn tả được loé lên trong mắt chồng tôi, tôi hiểu ra được điều gì chứa đựng trong ánh mắt ấy. Ánh mắt không lời nào diễn tả được. Cho đến bây giờ, nhớ lại ánh mắt ấy, tôi còn không khỏi rùng mình. Dù miệng không nói ra được lời nào, nhưng trong khoảnh khắc ấy, chồng tôi đã truyền đạt được tất cả tâm tình anh ấy. Nhưng chiếu toả ra từ ánh mắt ấy không phải là cơn giận dữ, mà cũng không phải là nỗi buồn rầu. Mà chỉ là tia sáng lạnh lẽo của lòng khinh miệt đối với tôi. Hơn cả nỗi đau đã bị tên cướp kia đạp đá, tôi đã bị ánh mắt ấy tống mạnh vào tâm thần, bất giác thét lên lời gì không rõ, rồi ngã xuống bất tỉnh. Đến lúc tỉnh lại được thì tên đàn ông mặc áo bào màu xanh đậm đó đã đi đâu mất. Chỉ còn lại chồng tôi bị trói ở gốc cây tuyết-tùng. Tôi gượng ngồi dậy được trên đám lá tre khô, nhìn chăm chú vẻ mặt của chồng tôi. Nhưng ánh mắt của chồng tôi vẫn không thay đổi chút nào. Cũng vẫn biểu lộ một màu thù ghét từ dưới đáy lạnh băng của lòng khinh miệt. Hỗ thẹn, đau buồn, tức giận,… tôi không còn biết lòng tôi lúc ấy là như thế nào nữa. Tôi lảo đảo đứng lên, lết lại gần chồng tôi :
- "Thưa anh. Đã đến nông nỗi nầy thì em không còn có thể cùng sống với anh được nữa. Em chỉ muốn chết ngay cho rồi. Nhưng mà, xin anh cũng chết đi. Bởi anh đã chứng kiến nỗi ô nhục của em. Em không thể nào để mặc anh sống như thế nầy được". Tôi gượng hết sức mình để tỏ bày điều ấy. Thế mà chồng tôi vẫn chỉ nhìn tôi trừng trừng kinh tởm. Tôi gắng dằn lòng mình đang muốn xé toang ra, vừa tìm kiếm thanh gươm của chồng tôi. Nhưng có lẽ tên cướp kia đã đoạt lấy mất rồi. Thanh gươm đã đành, mà cung tên nữa, cũng không còn thấy đâu trong bụi rậm ấy. Nhưng may thay, lưỡi dao ngắn thì còn rớt lại dưới chân tôi. Tôi giương con dao ấy lên, nói với chồng tôi một lần nữa:
- "Thôi thì xin anh giao mạng cho em. Rồi em cũng xin chết theo anh". Nghe thế, chồng tôi mới mấp máy môi. Tất nhiên là vì miệng ngậm đầy lá tre khô, nên tiếng nói không sao nghe được. Nhưng nhìn đôi môi mấp máy, tôi cũng hiểu ngay lời anh nói. Chồng tôi cũng vẫn khinh miệt tôi, chỉ nói một lời: "Giết ta đi". Tôi, như hoàn toàn trong mộng dữ, đã đâm phập một nhát dao xuyên thấu ngực chồng tôi, qua lớp áo bào màu xanh lơ ấy. Và rồi, có lẽ tôi đã bất tỉnh một lần nữa. Hồi lâu sau, khi tỉnh lại nhìn quanh, thì chồng tôi, vẫn còn bị trói như cũ, đã tắt thở từ lâu rồi. Ánh nắng chiều xuyên qua kẽ lá tuyết tùng lẫn trong đám lá tre, rọi lên khuôn mặt người chết tái xanh. Tôi cố nén tiếng khóc, lần mở dây trói tử thi mà vất đi. Rồi, còn thân tôi thì ra thế nào? Tôi chẳng còn sức nào mà nói nữa. Chỉ biết là, tôi không có đủ nghị lực để chết đi. Tôi đã kề dao lên cổ, đã gieo mình xuống hồ nước bên triền núi, đã thử chết nhiều cách, nhưng cuối cùng cũng không chết được, mà còn sống sót như thế nầy, thì có gì để tự hào đâu. (mỉm cười buồn bã). Một kẻ hèn nhát như tôi, có lẽ đến Đức Quan Thế Âm Bồ Tát cũng chẳng muốn đoái hoài cho nữa. Nhưng là kẻ đành phải giết chồng, là kẻ đã bị tên cướp kia dày vò nhục nhã, tôi biết làm thế nào được chứ? Trời ơi, tôi phải làm thế nào bây giờ? (thình lình nức nở thảm thiết).

Lời kể lể của người chết qua miệng người ngồi đồng
Tên cướp dày vò vợ ta xong còn ngồi đó mà an ủi vợ ta đủ điều. Tất nhiên, ta không thể thốt ra được lời nào. Thân thể lại bị trói vào gốc cây tuyết-tùng. Nhưng ta đã đưa mắt ra hiệu cho vợ nhiều lần. Đừng tin những gì tên cướp nói, cứ nghĩ tất cả những điều hắn nói đều là láo khoét cả. Ta muốn truyền đạt như thế. Thế nhưng, vợ ta cứ ngồi trên đám lá tre khô, buồn rầu nhìn xuống đầu gối. Ta thấy có vẻ cô ấy đang lắng tai nghe tên cướp nói. Ta rúng động cả người vì ghen. Nhưng tên cướp đã khéo léo kiếm lời nói nầy nói nọ. Những là, đã thất tiết với người khác một lần rồi thì không thể nào còn sống chung êm đẹp với chồng nữa. Đi theo người chồng như thế, chi bằng theo làm vợ hắn còn hơn. Chính vì hắn đem lòng yêu thương cô, nên mới làm chuyện táo tợn như thế. Tên cướp ấy thật là lớn mật, dám đặt điều đến cả chuyện như thế.
Vậy mà nghe tên cướp nói, vợ ta lại ngước khuôn mặt đờ đẫn lên. Ta chưa bao giờ thấy vợ mình đẹp đến như lúc ấy. Nhưng, người vợ tuyệt đẹp ấy, ngay trước mặt chồng là ta đây đang bị trói chặt, đã nói gì với tên cướp? Ta, dù lúc nầy đang thất thểu chờ dịp đầu thai, mà mỗi lần nhớ đến lời nói của cô ta, lại không thể không bốc lên lửa hận. Vợ ta quả thật đã nói như thế nầy: "Vậy thì, xin ông cứ cho tôi theo, bất cứ nơi đâu". (im lặng một hồi lâu).
Tội của vợ ta không phải chỉ có thế. Nếu chỉ có thế thì trong cõi tối tăm nầy, ta đâu đến nỗi đau khổ như thế nầy. Vợ ta, như trong cơn mộng mị, đã để cho tên cướp nắm tay dắt đi, dợm bước ra khỏi bụi rậm ấy, đột nhiên, mặt mày tái nhợt, chỉ tay vào ta đang bị trói vào gốc cây tuyết -tùng mà nói:
- "Giết chết người đó đi. Người đó mà còn sống thì tôi không thể nào đi theo ông được". Vợ ta như điên cuồng, đã thét lên nhiều lần: "Giết chết người đó đi". Lời thét ấy như trận cuồng phong, cho đến bây giờ vẫn còn chực cuốn ngược đầu ta xuống đáy vực sâu tăm tối. Lời nói đốn mạt đến như thế mà có thể lọt ra từ miệng con người được sao, dù chỉ một lần đi nữa? Lời nói quỷ ám đến như thế mà có thể chạm tai con người được sao, dù chỉ một lần đi nữa? (thình lình phì cười như chế giễu). Nghe lời nói ấy, chính tên cướp kia, mặt mày cũng tái mét. -"Giết chết người đó đi". Vợ ta vừa thét lên vừa nắm kéo cánh tay tên cướp. Hắn nhìn vợ ta đăm đăm, chẳng trả lời được là giết hay không giết. Rồi đột nhiên, vợ ta ngã xuống đám lá tre khô; chỉ một đạp, tên cướp đã đạp ngã cô ta xuống đấy. (lại phì cười như chế diễu một lần nữa).
Tên cướp khoan thai khoanh tay, nhìn về phía ta mà nói:
- "Ngươi định làm gì con đàn bà nầy? Chỉ cần gật đầu trả lời. Nào, giết nhé?" Chỉ cần một câu nói nầy thôi, ta đã muốn tha tội cho tên cướp ấy rồi. (lại im lặng hồi lâu). Vợ ta, trong lúc ta đang do dự, đã thét lên một tiếng rồi lập tức vùng chạy vào sâu trong bụi rậm. Tên cướp cũng nhanh nhẹn phóng tới chụp lại, nhưng không kịp nắm được dù là một chéo áo. Ta chỉ nhìn khung cảnh ấy như trong cơn mơ.
Sau khi vợ ta đã chạy trốn mất, tên cướp thu nhặt thanh gươm và cung tên, xong cắt một chỗ dây trói trên mình ta. - "Đến phiên tao phải lo lấy thân đây". Ta nhớ tên cướp đã lẩm bẩm như thế trước khi chạy ra khỏi bụi rậm, mất dạng. Sau đó, bốn bề chung quanh đều im vắng. À không, còn có tiếng ai khóc. Ta vừa tự cởi trói, vừa lắng tai nghe ngóng. Nhưng mà, tiếng khóc đó, nghĩ lại, chẳng qua là tiếng khóc của chính mình đó thôi. (lại im lặng hồi lâu, lần thứ ba).
Cuối cùng, ta đã nhấc thân mình mệt đến kiệt sức lên từ gốc cây tuyết-tùng. Trước mặt ta là con dao ngắn vợ ta đã làm rớt lại, loé sáng. Ta nhặt con dao đó lên, đâm một nhát vào ngực mình. Có gì như một khối tanh tưởi cuộn dâng lên trong miệng. Nhưng, chẳng nghe đau đớn gì. Chỉ khi ngực ta lạnh băng đi rồi thì chung quanh như càng lặng im thêm một bậc nữa. Ôi, sao mà tĩnh mịch đến như thế. Khoảng trời trong bụi rậm khuất sau núi nầy, đến một cánh chim nhỏ cũng không thấy. Chỉ thấy ánh nắng chiều phiêu lãng buồn rầu trên những thân tre và tuyết tùng. Mà ánh nắng chiều cũng dần dần nhợt nhạt đi, rồi tuyết tùng và tre cũng không còn thấy nữa. Rồi ta ngã xuống đó, bao phủ trong tĩnh mịch sâu thẳm.
Lúc ấy, có tiếng chân ai rón rén đến bên ta. Ta cố nhìn về phía ấy. Nhưng chung quanh ta, bóng tối mịt mùng bao phủ. Ai đó… bàn tay không thấy được của ai đó đã nhè nhẹ rút lưỡi dao ra khỏi ngực ta. Cùng lúc ấy, trong miệng ta, dòng máu lại trào lên, dâng đầy tràn một lần nữa. Từ đó, ta vĩnh viễn chìm mất vào tăm tối hư vô.

Sydney 06/2004
Phạm Vũ Thịnh dịch từ nguyên tác tiếng Nhật Yabu No Naka.

Chú thích:
(1) chô: khoảng 119 yards, chừng 100m, xin dịch là "thôi đường". 5 chô khoảng 500m.
(2) sugi: cedar, cây tuyết-tùng. Tự điển Hán Việt Thiều Chửu ghi là "cây sam".
(3) ki: (thốn) khoảng 3 cm, xin dịch là "tấc". Ngựa thường chừng 4 shaku (1 shaku - thước: 30.3 cm), tính ra thân con ngựa nầy cao chừng 1m3 - 1m4.
(4) hômen: người phạm tội nhẹ, được tha, cho theo quan kiểm-sát để đi bắt tội phạm.


ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Z
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeSun Feb 02, 2020 12:04 am

.

Niềm tin (Bisei no shin)
- Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) 
- Nguyễn Nam Trân dịch


Lời người dịch:
Năm 1919, khi viết Bisei no Shin (Chữ tín của Vĩ sinh) mà ở đây chúng tôi dịch là Niềm Tin, lần đầu tiên, người ta chợt nhận ra Akutagawa không giật giây nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử của mình như vẫn thường làm mà để cho chính nhân vật giật giây ông.
Nhân vật Vĩ sinh đã thấy trong tác phẩm của Trang Tử cũng như trong Sử Ký Tư Mã Thiên. Vĩ sinh không ai khác hơn là anh chàng hẹn gái dưới chân cầu, gái không tới, thủy triều lên, anh ta vì giữ chữ tín không bỏ đi nên chết đuối. Ông Tư Mã theo thầy Khổng nên khen "Phải giữ cho được chữ tín như thế!", ông Trang mắng "Chết vì chữ tín kiểu đó là ngu!".
Chữ tín là qui phạm đạo đức do xã hội đặt để nhưng niềm tin là tình cảm tự phát của cá nhân. Hơn hai nghìn năm sau, Akutagawa mở lại "hồ sơ" của Vĩ sinh và trình bày cách nhìn mới của ông về anh chàng "ngu ngốc và dại gái" nầy, nhưng không đưa ra chút phán đoán có tính đạo đức nào.Hãy xem "thuật luyện kim" của Akutagawa trong hai trang giấy ngắn ngủi sau đây.

Xuất xứ của nguyên tác là tập 29 nói về Akutagawa trong Văn Học Nhật Bản Toàn Tập (A Treasury of Japanese Literature) của nhà Chuô-Koron (ấn bản 1964). Ngoài ra, người dịch cũng học tập phong cách dịch của bà Edwige de Chavanes qua bản Pháp văn La Foi de Wei Cheng, in trong Les Noix, La Mouche, Le Citron, tập truyện dịch các tác giả Nhật Bản đời Taishô (1912-26) do nhà Le Calligraphe (Paris) xuất bản năm 1986.

*

Đã một đỗi lâu, Vĩ sinh đứng lặng dưới chân cầu, đợi người con gái đến.
Ngẩng lên nhìn hàng lan can cao của chiếc cầu đá có những sợi giây leo buông chùng, chàng thấy giữa khe hở chốc chốc có bóng người qua lại, tay áo trắng của họ lay động theo làn gió dưới ánh nắng lấp loá của buổi chiều tà. Thế nhưng người con gái vẫn chưa thấy tới.

Vĩ sinh vừa huýt sáo nhè nhẹ, thong dong đưa mắt nhìn quanh bãi sông dưới chân cầu.
Bãi bùn vàng nhạt dưới gầm cầu chỉ rộng có mươi thước dư là đã tiếp giáp với mặt nước. Có lẽ vùng lau sậy trên bờ nước là nơi cư ngụ của lũ cua lớn hay sao mà có vài cái lỗ tròn thật to. Mỗi lần sóng vỗ vào chỗ đó là nghe thoảng như có tiếng óc ách. Thế nhưng người con gái vẫn chưa thấy tới.
Vĩ sinh bắt đầu cảm thấy sốt ruột, mới tản bộ xuống phía bờ nước và đưa mắt ngắm suốt dải sông chiều không có lấy một bóng thuyền.
Lau sậy trên dòng mọc xen khít. Chẳng những thế, đôi chỗ trong rặng lau lại có vài chòm liễu nước với tán lá hình tròn xanh tốt. Vì một phần dòng sông luồn vào cả đám cây cối nên mặt sông tưởng như hẹp lại chỉ còn là dải nước trong leo lẻo in mỗi một áng mây trời như vân mi ca, lượn lờ len giữa ngàn lau. Thế nhưng, người con gái vẫn chưa thấy tới.
Vĩ sinh không men theo bờ nước nữa. Lần nầy. dưới vạt nắng chiều, chàng dạo đôi chỗ trên cái bãi bùn không mấy rộng, lắng tai nghe động tĩnh chung quanh.

Trên cầu, chẳng biết tự lúc nào, đã ngớt người qua lại. Không còn nghe tiếng chân đi, tiếng vó ngựa hay tiếng bánh xe nữa. Có chăng là tiếng gió, tiếng lau lách, tiếng nước chảy, thế rồi không biết từ đâu vọng ra vài tiếng cò xám gáy the thé. Vĩ sinh vừa dừng chân chưa kịp nghĩ ngợi thì đã thấy thủy triều dâng lên không biết tự lúc nào. Màu nước liếm lên bãi bùn vàng đã ánh lên gần hơn khi nãy. Thế nhưng người con gái vẫn chưa thấy tới.
Vĩ sinh chau mày lấy làm lạ. Dưới chân cầu tối mờ mờ, chàng bắt đầu nhanh chân bước lên bãi. Trong lúc đó thì thủy triều bò dần từng phân một, tấc một. Cùng một lúc, mùi rong và mùi nước dậy lên, gây lạnh trên da thịt. Nhìn phía trên thì nắng chiều đã tắt lịm, chỉ còn bóng hàng lan can của chiếc cầu đá cắt thành những vệt đen kịt trên nền trời hoàng hôn xanh mờ. Thế nhưng, người con gái vẫn chưa thấy tới.

Vĩ sinh đứng thừ người một chỗ.
Nước sông đã bắt dầu thấm gót giày.
Nước lóng lánh một thứ ánh sáng lạnh lẽo thư ánh thép, bắt đầu tràn lan dưới chân cầu. Thế rồi, chắc chắn chỉ trong khoảnh khắc thôi, mực nước của ngọn triều đầy sẽ ngập hết đầu gối, đến bụng rồi cả ngực. Mới nghĩ vậy mà mực nước đã dâng thêm lên làm hai ống chân chàng cũng bị nước bủa vây. Thế nhưng, người con gái vẫn chưa thấy tới.
Vĩ sinh cứ đứng dưới nước, chỉ còn nương vào một tia hy vọng mong manh, bao nhiêu lần ngước nhìn lên không trung phía chiếc cầu.
Phía trên làn nước đang bao phủ thân chàng, là màu chiều từ lâu đã trải rộng ngang vòm trời. Từ những hàng liễu, hàng lau xa gần, chỉ nghe vọng lại tiếng lá xào xạc xuyên qua làn sương đục. Một con cá, có lẽ cá vượt, vụt phóng người khoe cái bụng trắng ngay trước mũi Vĩ sinh. Trong khoảng không trung mà con cá vừa nhảy lên, lúc đó đã thấy tản mác dăm vì sao lấp lánh. Hình ảnh của mấy sợi giây leo buông trên thành cầu đá rồi cũng chìm lẫn vào bóng tối. Thế nhưng, người con gái vẫn chưa thấy tới.
Đến nửa đêm, khi ánh trăng đã ngập tràn một bờ đầy lau liễu suốt cả dải sông, làn nước và làn gió nhẹ cùng thì thào với nhau, dịu dàng dìu thi thể của Vĩ sinh từ dưới chân cầu đi về phía biển. Không chừng vì hồn của Vĩ Sinh ao ước nhìn lại ánh sáng của vầng trăng đang treo giữa không gian tịch mịch nên nó đã thoát ra khỏi thể xác để bay lên bầu trời mờ ảo. Như thể, cả mùi nước và mùi rong cũng lặng lẽ rời khỏi mặt sông một lượt cùng về với vầng sáng trên cao.

Rồi cách đó một vài nghìn năm, hồn của Vĩ sinh sau khi lưu lạc qua không biết bao nhiêu đời kiếp, lại phải chịu số phận làm người thêm lần nữa. Linh hồn đó đã đến ngụ trong thân xác của tôi. Cho nên tuy tôi sống giữa thời hiện đại nầy mà chưa làm được dẫu một việc gì có ý nghĩa. Hết sáng lại chiều, tôi như anh chàng đắm chìm trong mơ mộng mông lung, chỉ sống để trông mong một điều kỳ diệu chắc chắn sẽ xảy ra. Tôi là Vĩ sinh, dưới chân cầu trong ánh sáng nhạt buổi hoàng hôn, mãi mãi đợi chờ bóng một người yêu vĩnh viễn không bao giờ tới.

(Năm Taishô thứ 8 (1919), tháng 12)
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeTue Feb 11, 2020 9:30 am

.
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) 9780804806930-us

Chiếc Mùi-Soa Hankechi
- Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)  


Người Dịch: Nguyễn Nam Trân
Lời Người Dịch: Người dịch được đọc Hankechi bằng tiếng Việt lần đầu tiên khoảng năm 1963 ở Sàigòn trên tạp chí Văn Học của nhóm các nhà văn Phan Kim Thịnh, Dương Kiền... dưới cái tựa "Chiếc Khăn Tay" nhưng không nhớ tên dịch giả. Năm 1972, người dịch đã thử dịch từ bản tiếng Nhật và đăng trên một nội san sinh viên ở Paris. Sau vài lần dọn nhà, bản đó cũng mất. Bản dưới đây dịch lại từ nguyên tác đăng trong Văn Học Nhật Bản Toàn Tập (A Treasury of Japanese Literature) của nhà Chuô-Kôron (1964), tập 29 nói về Akutagawa. Trong khi dịch, đã tham khảo bản tiếng Pháp do giáo sư Mori Arimasa (Le Mouchoir, in Rashômon et autres contes, Gallimard, Unesco, Paris, 1965).

Vũ sĩ đạo (Bushidô) được xem như một qui phạm đạo đức của giới quân nhân hình thành từ cuộc chiến tranh giữa hai họ Taira và Minamoto (cuối thế kỷ 11 đến cuối thế kỷ 12) thời trung cổ Nhật Bản, phát triển với mạc phủ Kamakura (1185-1333). Đến thời Tokugawa (1600-1868), nó kết hợp với tư tưởng Nho Giáo và trở thành một định chế chặt chẽ nhằm củng cố chế độ phong kiến. Trung thành, hy sinh, tín nghĩa, liêm sỉ, giữ lễ, kiệm ước, đơn sơ, trong sạch, trọng danh dự, yêu vũ nghệ, không sợ chết... là những đức tính cần thiết của người vũ sĩ được nhắc trong Hagakure (Diệp Ẩn, 1716), tác phẩm có tính cách kinh điển của vũ sĩ đạo do đệ tử của Yamamoto Jôchô (Sơn Bản Thường Triều, 1659-1719) chép lại lời ông giảng. Từ nhiều thế kỷ, dù đúng hay sai, vũ sĩ đạo được nhiều người coi như đồng nghĩa với lối sống Nhật Bản. "Chiếc mùi-soa" là tác phẩm tiêu biểu của Akutagawa Ryuunosuke, trong đó, ông đặt lại vấn đề giá trị đích thực của vũ sĩ đạo từ một câu chuyện giản dị.

*

Ngả lưng trên chiếc ghế mây dưới hàng hiên, Hasegawa Kinzô (1), giáo sư luật khoa Đại Học Đế Quốc Đông Kinh (2), đang đọc quyển Nghệ Thuật Viết Kịch (3) của Strindberg.
Lãnh vực nghiên cứu chuyên môn của giáo sư là chính sách thuộc địa nên chắc độc giả không khỏi chưng hửng khi thấy ông ta đang đọc quyển sách về thuật viết kịch. Tuy nhiên, giáo sư vừa có tiếng là một học giả kiêm nhà giáo dục nên sách vở dẫu không liên quan tới phạm vi nghiên cứu của mình, miễn nó ảnh hưởng đến lề lối suy nghĩ và tình cảm của đám sinh viên là giáo sư muốn liếc qua một lần cho biết. Dạo nầy, chỗ trường Cao Đẳng Chuyên Khoa nơi giáo sư vừa nhậm chức hiệu trưởng, đám sinh viên đang mê đọc Từ Hố Thẳm (4) và Ý Hướng Nghệ Thuật (5) của Oscar Wilde (6). Chừng đó lý do cũng đủ làm giáo sư bỏ công ra đọc mấy cuốn trên. Tính giáo sư thế đấy nên bây giờ có kể là sách ông đang cầm đọc vốn trình bày về các vở tuồng và diễn viên làng kịch Âu Châu cận đại thì chẳng có gì khiến ta phải lạ lùng. Nếu muốn rõ nguồn cơn thì xin thưa trong đám học trò giáo sư đào tạo, ngoài những cậu viết khảo luận về Ibsen (7), Strindberg hay Maeterlinck còn có cả nhiều cậu hăm hở theo dấu các nhà soạn kịch cận đại để sinh sống bằng nghề viết kịch nữa kia.
Cứ mỗi lần đọc xong một chương thấm thía, giáo sư lại để quyển sách bìa bọc vải màu vàng lên trên đùi, lơ đãng đưa mắt về phía chiếc lồng đèn Gifu (8  ) treo dưới mái hiên. Lạ cái là mỗi lần như thế, dòng suy nghĩ của giáo sư bỗng rời khỏi Strindberg lúc nào không biết. Thay vào đó, hình ảnh bà vợ, người đã cùng ông đi mua chiếc lồng đèn, lại hiện ra trong trí. Ông kết hôn trong thời gian du học Hoa Kỳ và dĩ nhiên (9) bà nhà là người Mỹ. Thế nhưng tình yêu đối với đất nước và con người Nhật Bản của bà chẳng thua gì kém chồng. Đặc biệt bà hết sức yêu thích đồ mỹ nghệ khéo léo của người Nhật. Do đó, chiếc lồng đèn Gifu treo dưới hiên nhà chính ra thể hiện sở thích cá nhân bà giáo chứ không phải khiếu thẩm mỹ của giáo sư Hasegawa.
Mỗi lần đặt sách xuống, dòng suy tưởng của giáo sư hết hướng về người vợ, về chiếc lồng đèn Gifu, rồi đến nền văn minh Nhật Bản tiêu biểu bằng chiếc lồng đèn nầy. Theo chổ ông nhận xét, trong vòng năm mươi năm nay, văn minh Nhật Bản đã có những bước tiến rõ rệt về phương diện vật chất. Thế nhưng về mặt tinh thần mà nói, hầu như không có tiến bộ nào đáng kể. Chẳng những thế, ở một ý nghĩa nào đó, nó còn tụt dốc nữa. Thế thì nhiệm vụ của nhà tư tưởng thời nay là phải tìm cách chỉ bảo đường lối thế nào giúp cho Nhật Bản thoát khỏi nguy cơ tuột dốc. Theo ông nhận định, không có cách gì khác hơn là dựa vào vũ sĩ đạo, một truyền thống lâu đời. Không nên xem vũ sĩ đạo như một thứ đạo đức hẹp hòi và cứng nhắc của một giống dân ở đảo. Ngược lại, trong vũ sĩ đạo đã có những giá trị giống y tinh thần Cơ Đốc Giáo của các quốc gia Âu Mỹ. Nếu làm mọi người chấp nhận được là với vũ sĩ đạo, có thể chấn chỉnh lại trào lưu tư tưởng Nhật Bản hiện đại thì coi như đã cống hiến lớn lao cho văn minh tinh thần của Nhật Bản rồi. Nhân đó tiến xa hơn mà giúp sự giao cảm giữa người Nhật và dân tộc các quốc gia Âu Mỹ thêm dễ dàng, chưa nói đến lợi ích đóng góp cho hòa bình thế giới. Điều này phù hợp với ước mơ đóng vai trò chiếc cầu nối hai bờ Đông Tây mà từ lâu giáo sư vẫn thường ôm ấp. Suy nghĩ đến đó, giáo sư không khỏi cảm thấy dễ chịu khi nhận ra có một sự cân đối hài hòa giữa ba yếu tố: bà vợ, chiếc lồng đèn Gifu và nền văn minh Nhật Bản tượng trưng bằng chiếc lồng đèn ấy.
Sự sung sướng mà giáo sư cảm nhận cứ trở về liên hồi làm ông tuy tiếp tục đọc sách mà chợt thấy tâm trí mình đã lãng đãng rời khỏi Strindberg. Ông bực bội lắc đầu và lại chăm chú cúi xuống dán mắt vào những hàng chữ li ti. Vừa vặn lúc đó, đoạn ông đọc tới có viết như thế nầy:
"Khi diễn viên tìm ra được một kỹ thuật diễn xuất thích hợp để diễn tả một tình cảm thường thức nào đó và thành công với lối diễn xuất ấy rồi, họ có thói quen cứ dùng đi dùng lại bất kể trong tình huống nào, có khi vì chuộng sự dễ dãi, có khi vì thành công nó đem đến. Đó là cái mà người ta gọi là "kiểu cọ (10)"...

Xưa nay, giáo sư vốn không phải là người rành rẽ về nghệ thuật. Kịch đối với ông như đàn gảy tai trâu. Ngay cả sân khấu truyền thống, từng tuổi nầy mà ông đã đi xem mấy lần đâu! Có lần một cậu sinh viên, khi viết tiểu thuyết, nhắc đến cái tên Baikô. Một người tự phụ học rộng nhớ dai như giáo sư mà cũng chịu, không biết nhân vật nầy là ai. Sau đó, giáo sư có dịp gọi anh chàng sinh viên ấy đến hỏi:
- Nầy em, Baikô là ai vậy?
- Thưa thầy, Baikô (11) à? Ông nầy là kép thường trực của rạp kịch Đế Quốc khu Marunouchi, hiện đóng vai Misao trong hồi thứ mười vở Taikôki (12) đấy ạ.
Anh học trò, mặc cái hakama (có sọc) của vùng Kokura kính cẩn trả lời thầy.
Do sự kém hiểu biết đó, giáo sư không thể có ý kiến gì về các loại kỹ thuật diễn xuất mà Strindberg đã phẩm bình với một ngòi bút sắc cạnh. Nó chỉ đem đến cho giáo sư chút đỉnh thích thú trong phạm vi những vở kịch mà ông nhớ đã được xem ở phương Tây thời còn du học. Nói cách khác, trường hợp của giáo sư không khác chút nào cảnh một như ông thầy Anh Văn bậc trung học, nhân vì đi kiếm vài thành ngữ mà bắt buộc phải đọc kịch bản của Bernard Shaw (13). Tuy cái ích lợi quyển sách đem đến không phải thứ ông muốn tìm nhưng dù sao nó cũng là một thứ ích lợi.
Chiếc lồng đèn Gifu treo lửng trên trần hàng hiên vẫn chưa ai thắp. Và trên chiếc ghế mây, giáo sư Hasegawa Kinzô nhà ta vẫn đang xem giở cuốn "Thuật Viết Kịch" của Strindberg. Người viết chỉ cần tả như vậy thiết tưởng cũng đủ giúp độc giả hình dung một cách dễ dàng đó là một buổi xế trưa đầu hạ ngày còn dài lê thê. Tuy nhiên khi nói thế, tác giả không có ý bảo giáo sư chán ngán cái gì đâu. Nếu có vị nào giải thích kiểu đó là cố ý đem ý nghĩa câu văn của tác giả bóp méo để mỉa mai đấy.
Và bây giờ, cho dù là Strindberg đi nữa, giáo sư cũng đành cho rơi nửa chừng. Tại sao ấy à, vì cô bé giúp việc vào báo có khách đến thăm làm giáo sư chợt mất đi cái hứng thanh tao. Cho dù ngày có dài đến đâu, coi bộ người đời không tìm đến quấy quả giáo sư là họ không chịu được hay sao ấy!
Giáo sư đặt quyển sách xuống, cầm tấm danh thiếp cô bé giúp việc vừa mới đưa vào, liếc qua một lượt. Tấm thiệp mầu ngà có ghi mấy chữ Nishiyama Atsuko xinh xắn. Thật tình giáo sư không nhớ đã gặp người mang tên nầy bao giờ cả.Vừa đứng dậy khỏi cái ghế dựa bằng mây, con người giao thiệp rộng như giáo sư đã thử soát lại cuốn sổ trong đầu ghi tên tuổi tất cả những người quen biết một lần cho chắc. Thôi chịu, không có khuôn mặt nào trùng hợp với cái tên ấy. Giáo sư bèn xen tấm danh thiếp vào giữa quyển sách thay cho thẻ đánh dấu trang, đặt quyển sách lên trên chiếc ghế mây, xong, với thái độ hơi bồn chồn, ông vừa sửa lại tấm áo bằng tơ Meisen mặc trên người cho ngay ngắn, vừa thoáng ngước nhìn lần nữa chiếc lồng đèn Gifu treo ngang tầm mắt. Thói thường, trong trường hợp như thế nầy, kẻ nôn nóng không phải là người khách bị bắt chờ mà là chủ nhân bắt khách phải chờ. Huống chi giáo sư là người xưa nay vẫn hết sức cung kính đối với khách dầu lạ hay quen, nên ông không thể lấy cớ người đàn bà hôm nay không quen mà cố ý làm khác đi cho được.

Xem chừng giờ, giáo sư mở cửa phòng khách. Khi tay ông vừa buông khỏi nắm đấm cửa thì hầu như cùng một lúc, khách, một người đàn bà tuổi trạc bốn mươi đang ngồi trên ghế bỗng bật dậy. Khách mặc một chiếc kimono lụa xám ánh lục thật sang trọng mà phẩm chất vượt ngoài cả tầm hiểu biết của giáo sư. Ở chỗ khép lơi lơi trước ngực áo haori choàng ngoài bằng sa đen, ánh lên một viên bích ngọc hình củ ấu để giữ chiếc thắt lưng, trông thật mát mắt. Một người không mấy tinh tế như giáo sư mà cũng nhận ra ngay bà khách búi tóc theo kiểu marumage(14). Bà ta có khuôn mặt bầu bầu và nước da đỏ thắm, đúng là dáng dấp tiêu biểu của bậc mẹ hiền dâu thảo trong xã hội Nhật cổ truyền. Mới nhìn thoáng thôi mà giáo sư có cảm tưởng đã thấy gương mặt nầy ở đâu rồi.
- Thưa tôi là Hasegawa.
Giáo sư vui vẻ cúi đầu chào. Tự giới thiệu đi thì nếu là người mình đã gặp rồi, thế nào phía kia cũng thông báo chuyện đó trước.
- Dạ tôi là mẹ cháu Nishiyama Kenichirô. Người đàn bà xưng tên bằng một giọng rõ ràng. Xong, lễ phép cúi đầu chào trả giáo sư. Ai chứ Nishiyama Ken-ichrô thì giáo sư có biết. Chính anh ta là một trong những cậu sinh viên đã viết bình luận về Ibsen và Strindberg. Nếu không lầm thì anh ta chuyên môn về luật Đức nhưng từ khi lên đại học tới nay thường hay đem mấy vấn đề tư tưởng đến thỉnh ý giáo sư. Thế rồi mùa xuân nầy, anh mắc chứng viêm màng bụng phải vào nằm nhà thương của đại học. Giáo sư nhân dịp cũng đã vào thăm anh ta một hai lần. Suy ra, điều ông nghĩ rằng khuôn mặt của bà khách nầy mình đã có lần gặp ở đâu đó rồi cũng không phải thiếu căn cứ. Người con trai có cặp mày rậm và năng nổ kia với người phụ nữ nầy quả đúng như cách ví von của người Nhật, dung mạo hệt như "một quả dưa bổ đôi ". Giống nhau đến mức sửng sốt được.
- À, chú Nishiyama à. Ra thế!
Giáo sư vừa gật gù, chỉ tay về phía cái ghế đối diện bên kia chiếc bàn nhỏ:
- Xin mời bà ngồi.
Người đàn bà trước tiên xin lỗi đã đường đột đến gặp, lại cúi đầu thi lễ, rồi mới ngồi xuống chiếc ghế giáo sư vừa trỏ. Trong lúc làm động tác như thế, bà lấy trong ống tay áo ra một vật gì màu trắng, có lẽ là một chiếc mùi soa. Thấy vậy, giáo sư mau mắn mời bà dùng cây quạt Triều Tiên trên bàn rồi đến lượt mình ngồi xuống chiếc ghế trước mặt bà.
- Thưa nhà giáo sư trông đẹp quá ạ. Người đàn bà có vẻ cố tình đảo mắt nhìn quanh căn phòng một vòng.
- Dạ chỉ được cái rộng chớ bừa lắm.
Giáo sư vốn đã quen lối chào hỏi kiểu cách như thế.
Vừa vặn lúc đó, cô giúp việc mang trà ướp lạnh ra, giáo sư bảo cô ta để cho ngay ngắn trên bàn trước mặt khách, xong đổi hướng câu chuyện qua mục đích của cuộc thăm viếng.
- Thế chú Nishiyama thế nào? Bệnh tình chú ấy có khá ra không?
-... Vâng.
Người đàn bà đặt hai bàn tay lên đầu gối như đang băn khoăn điều gì. Tiếng của bà đứt ngang, xong mới tiếp tục bằng một giọng trầm tĩnh, thong thả:
- Thực ra, hôm nay tôi đến gặp giáo sư cũng là để thưa chuyện của cháu. Từ dạo đó trở đi, bệnh vô phương cứu chữa. Lúc còn sinh tiền, cháu đã làm phiền giáo sư quá đỗi...
Cho rằng người đàn bà chưa đưa tay ra đụng vào tách trà vì còn ngại ngùng, nên lúc đó, giáo sư định nhấc tách trà của mình đưa lên môi. Ông nghĩ thay vì mời mọc lôi thôi chi bằng cứ cho khách thấy mình uống trước thì họ sẽ làm theo. Thế nhưng tách trà chưa chạm vào bộ râu mép mềm mại của ông thì câu nói bà khách đã đập thốc vào tai. Uống trà hay là không uống trà? Câu hỏi nầy thực ra hoàn toàn độc lập với cái chết của người sinh viên kia nhưng trong một khoảnh khắc nó làm ông bối rối. Chẳng lẽ cứ nhấc tách lên như thế nầy, chẳng nhẽ chưa nhấp mà đặt xuống. Nghĩ đến đó, giáo sư không dùng dằng nữa, hớp một hớp cạn đến nửa tách, lòng dàu dàu se lại và giọng nói nghèn nghẹn.
- Ôi chao ôi!
- Lúc nằm bệnh viện, cháu nó vẫn hay nhắc đến giáo sư cho nên dù biết thời giờ giáo sư quí báu chúng tôi vẫn đánh bạo đến để xin phép báo tin cháu và tỏ lòng tri ân...
- Thưa, tôi đâu dám. Giáo sư đặt tách trà xuống, tay cầm cây quạt Triều Tiên có những cái nan đánh bóng mầu xanh, thừ người:
- Thế không cứu chú ấy được à. Khổ thân chưa! Đường tương lai còn dài. Lúc sau nầy tôi không có dịp ghé đằng bệnh viện nên cứ ngỡ chú ấy khá ra rồi... Thế chú ấy mất từ hồi nào vậy?
- Hôm qua vừa đúng một tuần ạ.
- Trong bệnh viện à?
- Thưa phải.
- Chết chửa! Thật ai mà ngờ!
- Dù sao thì việc gì trong tầm tay chúng tôi cũng đã làm hết sức, chỉ biết cúi đầu trước số mệnh. Nhưng mỗi khi nhớ đến cuộc đời của cháu, thật tôi không khỏi than trời trách đất.
Trong khi hai bên đang trao đổi câu chuyện, giáo sư chợt để ý đến một điều kỳ lạ. Nhìn thái độ và cử chỉ của người phụ nữ nầy, không thấy bà có vẻ gì đang nói về cái chết của con trai mình. Mắt không rưng một giọt lệ, giọng nói cũng bình thường. Không những thế, bên khoé miệng như còn điểm một nụ cười. Nếu không nghe bà ta nói chuyện mà chỉ nhìn dáng dấp bên ngoài thôi, ta chỉ có thể nghĩ bà đang nói chuyện cơm canh trà nước trong nhà. Giáo sư thấy đó là điều không tưởng tượng nỗi.

Ngày xưa, giáo sư có thời du học ở Berlin. Lúc đó nhằm khi Kaizer (15) William I tức là bố của Kaizer bây giờ, băng. Giáo sư nghe tin đó ở một quán cà phê ông hay lui tới và chẳng thấy cảm động gì cho lắm. Thế rồi cũng như mọi ngày, ông tươi tỉnh cắp gậy dưới nách trở về nhà trọ. Đến nơi vừa kịp mở cửa thì đã thấy hai đứa bé con nhà chủ chạy ùa ra bá cổ ông bù lu bù loa. Một đứa là con gái độ 12 tuổi, mặc cái áo len màu nâu, đứa kia là trai mới lên 9, quần xanh nước biển. Giáo sư vốn yêu trẻ con nên tuy không hiểu ất giáp gì cũng vò mái tóc nhàn nhạt của hai đứa vỗ về an ủi chúng: "Sao vậy mấy em? Sao vậy hở?". Bọn trẻ vẫn không ngừng khóc. Sau một hồi như vơi đi nỗi sầu khổ, chúng mới bảo "Đức vua ông nội chết rồi, chú ơi!"
Đối với giáo sư, cái chết của một nguyên thủ quốc gia khiến cho cả trẻ con cũng buồn bã như thế là một điều khó tưởng tượng. Thế nhưng không chỉ có liên hệ tình cảm của thần dân đối với vị hoàng đế của họ khiến giáo sư kinh ngạc. Từ khi đặt chân lên các quốc gia phương Tây, qua nhiều dịp tai nghe mắt thấy, giáo sư đã xúc động vì lối bộc lộ rõ ràng xung động tình cảm của người dân bản xứ, và lần ấy, sự bày tỏ nơi mấy đứa trẻ đã làm một người Nhật tin tưởng vào vũ sĩ đạo như ông phải sửng sốt. Ông không bao giờ quên được sự ngạc nhiên pha lẫn đồng tình đã dậy lên cùng một lượt trong lòng ông lúc đó. Hôm nay, ngược lại, ông cũng ngạc nhiên biết bao thấy người phụ nữ nầy không có lấy một giọt nước mắt.
Thế nhưng sau phát hiện đầu tiên nầy, ông lại phát hiện thêm một điều thứ hai. 

Câu chuyện giữa chủ khách sau khi xoay quanh mối hoài niệm về chàng thanh niên đã khuất, đến chỗ mấy chi tiết về cuộc sống hằng ngày của anh ta, xong lại quay về với nỗi tiếc thương. Vừa vặn lúc ấy, không biết sái nhịp thế nào mà cây quạt Triều Tiên bất chợt tuột khỏi tay giáo sư rơi xuống mặt sàn lát gỗ vân. Câu chuyện đang nói dĩ nhiên chẳng phải gấp gáp đến nỗi không thể cắt ngang trong giây lát cho nên giáo sư mới hơi nhoài người ra khỏi ghế, cúi xuống duối tay về hướng mặt sàn. Dưới chân cái bàn nhỏ, lá quạt đang nằm bên cạnh bàn chân mang tất tabi trắng ẩn trong chiếc dép của bà khách.
Khi đó, mắt giáo sư tình cờ nhìn lên khoảng đầu gối của người đàn bà. Hai bàn tay cầm chiếc mùi soa của bà đang đặt trên đầu gối. Chỉ thấy chừng đó chi tiết thì chưa đáng nói là phát hiện gì cả. Thế nhưng cùng một lúc giáo sư nhận ra rằng hai bàn tay ấy đang run lẩy bẩy. Không biết bà khách đang dồn hết sức lực để đè nén trào lòng đang dậy lên mãnh liệt hay sao mà hai bàn tay bà ghì chiếc mùi-soa chặt đến nỗi thiếu điều làm nó muốn rách. Thế rồi, từ giữa những ngón tay mềm mại đang nắm chiếc mùi-soa lụa vò nhàu kia thoảng ra một âm thanh nhẹ như gió thoảng làm lệch chỗ viền thêu xanh lục. Người phụ nữ kia, ngoài mặt như thể tươi cười nhưng từ khi nãy đến giờ, chính ra toàn thân bà đang nức nở.
Sau khi nhặt xong chiếc quạt và ngẫng đầu lên, vẻ mặt giáo sư khác hẳn từ đầu buổi gặp gỡ đến giờ. Một phần vừa ngượng ngùng vừa kính cẩn vì đã nhìn thấy một điều gì đáng lẽ mình không nên thấy, hai là vui thoả về điều vừa bắt gặp đã mang đến cho mình. Tuy hơi đóng kịch một chút nhưng đó là gương mặt biểu lộ cái tình cảm phức tạp bên trên kèm theo ý thức muốn phô bày sự hài lòng về điều đã cảm nhận.
- Thưa bà, tuy không có con nhưng tôi cũng thông cảm được với sự đau xót của bà. Như người đang nhìn phải cái gì làm lóa mắt, giáo sư ngẫng đầu lên cao và hất cần cổ đằng sau, thốt ra câu nói với một giọng nhè nhẹ u buồn.
- Tôi xin hết sức cảm tạ lòng quí hóa của giáo sư. Nhưng nay chuyện đã qua rồi, còn biết thưa gì với giáo sư bây giờ....
Bà khách cúi đầu ngỏ lời. Thế nhưng trên khuôn mặt thanh thản kia vẫn điểm một nụ cười nhẹ nhàng.

*

Thế rồi hai tiếng đồng hồ sau, giáo sư khi đã đi tắm, dùng cơm chiều và nhón mấy quả anh đào tráng miệng xong, lại thủng thỉnh ra buông người lên chiếc ghế mây kê dưới hàng hiên.
Buổi chiều một ngày hạ dài, ánh sáng sâm sẩm vẫn còn đọng không đi. Trên hàng hiên rộng mà cửa kính nhìn ra ngoài vườn mở toang, trời chưa dễ dàng chịu tối hẳn. Trong ánh nắng yếu lịm, giáo sư, chân trái gác tréo lên chân phải, dựa đầu vào thành ghế mây lơ đãng ngắm tua giây đỏ kết dưới chiếc lồng đèn Gifu. Quyển Strindberg kia, giáo sư cầm trên tay tự nãy giờ nhưng chưa buồn giở ra xem lấy một trang. Chuyện cũng dễ giải thích! Đầu óc của giáo sư bây giờ hãy còn đầy ắp hình dáng và cử chỉ của bà Nishiyama Atsuko.
Trong lúc dùng bữa chiều, giáo sư có kể cho phu nhân nghe một phần câu chuyện xảy ra. Nhân đó ông tỏ ra tán thưởng tinh thần vũ sĩ đạo của người đàn bà Nhật Bản. Phu nhân vốn yêu nước Nhật và người Nhật, dĩ nhiên chỉ biết đồng ý với chồng. Về phần giáo sư, ông cũng mãn nguyện vì có một người sốt sắng chịu lắng tai nghe mình như bà giáo. Cả phu nhân, bà khách ban nãy và chiếc lồng đèn Gifu, bây giờ đã hiện ra trong trí giáo sư như một tổng hợp ba phần lồng trong một khung cảnh đạo lý.
Không biết giáo sư đã chìm đắm trong dòng hồi tưởng như thế một khoảng thời gian dài đến bao lâu nhưng sau đó ông chợt nhớ ra việc một tạp chí mời ông viết bài. Tạp chí đó đưa ra đề tài dưới hình thức "Thư gửi cho lớp người trẻ hôm nay" để các vị có tên tuổi khắp nơi có thể trình bày quan điểm của mình về vấn đề đạo đức nói chung. Giáo sư vừa gãi đầu vừa nghĩ chi bằng ta lấy ngay tư liệu từ câu chuyện xảy ra hôm nay mà trình bày cho độc giả cảm tưởng của mình.
Bàn tay gãi dầu của giáo sư lại chính là bàn tay đang cầm quyển sách. Bây giờ ông mới để ý đến quyển sách bỏ quên từ hồi nãy và mở ra đọc tiếp trang có xen tấm danh thiếp đánh dấu chỗ đang đọc. Cũng nhằm lúc đó, cô giúp việc bước vào thắp chiếc lồng đèn Gifu nên có đủ ánh sáng cho ông. Dù chữ trong sách in nhỏ, đọc cũng không khó lắm. Chả có hứng thú bao lăm, ông vẫn để cặp mắt lướt bâng quơ trên những hàng chữ mà Strindberg viết như sau:
"Khi tôi còn trẻ, người ta có kể cho nghe câu chuyện về chiếc khăn tay của bà Heiberg, có lẽ bắt nguồn từ Paris. Đó là một kỹ thuật diễn xuất hai tầng: mặt thì vẫn mỉm cười mà đã xé rách chiếc mùi-soa cầm trong tay làm đôi. Diễn xuất lối đó thì người ngày nay cho là khôi hài đen".
Giáo sư lại đặt quyển sách lên đùi. Chỗ ông đang mở, tấm danh thiếp của bà Nishiyama Atsuko vẫn nằm giữa hai trang nhưng cái còn đọng lại trong tâm trí ông, chẳng phải là hình ảnh người đàn bà ấy nữa. Cả hình ảnh của phu nhân lẫn nền văn minh Nhật Bản cũng không tuốt. Có một vật gì kỳ lạ không rõ hình thù đã phá vỡ sự hòa hợp và bình lặng của ba yếu tố nói trên. Cái lối diễn xuất mà Strindberg phê phán dĩ nhiên không liên quan tới vấn đề đạo đức trong cuộc sống. Tuy vậy, sau khi tiếp nhận gợi ý đến từ trang sách vừa đọc, có một cái gì đã làm rối loạn sự thoải mái mà ông cảm thấy lúc từ bồn tắm bước ra. Vũ sĩ đạo, rồi cái "kiểu cọ" của nó!
Giáo sư lắc đầu hai ba lần với vẻ khó chịu. Thế rồi, ông nhướng mắt nhìn lên và bắt đầu chăm chú ngắm nghía ánh sáng của chiếc lồng đèn Gifu có vẻ hình mấy cọng cỏ thu.

Taishô thứ 5 (1916) tháng 9
Akutagawa Ryunosuke
Người dịch: Nguyễn Nam Trân

Chú thích
(1) Nhân vật hư cấu tạo theo mẫu Nitobe Inazô (1862-1933), học giả Nhật Bản, từng dạy các đại học Sapporo, Kyoto và Tokyo, sau chết ở Canada. Nitobe chịu ảnh hưởng tư tưởng Ki-Tô Giáo, nổi tiếng với tác phẩm Bushidô (Vũ Sĩ Đạo) viết bằng tiếng Anh.
(2) Một trong 8 đại học hàng đầu lúc Nhật còn tự xưng là đế quốc.
(3) Thuật Viết Kịch (Dramaturgie, 1907-1910), tác phẩm của August Strindberg (1849-1912), nhà soạn kịch Thụy Điển, một trong những người tiên phong của kịch nghệ hiện đại.
(4) De Profundis (1905) trong đó, Wilde kể lại hai năm sống trong ngục tối của mình.
(5) Intentions (1891), tập bình luận với quan điểm "nghệ thuật trên hết" của Wilde.
(6) Oscar Wilde (1854-1900), người Anh, nhà văn tiêu biểu của trường phái duy mỹ.
(7) Henrik Ibsen (1828-1906), người Na Uy, nhà viết kịch thuộc trường phái tự nhiên, phê phán xã hội thị dân, đề nghị một phong cách mới cho kịch cận đại.
(8   ) Gifu Chôchin, một loại đèn lồng nan nhỏ phết giấy mỏng của vùng Gifu, trung bộ Nhật Bản, trang trí cây cỏ chim chóc rất trang nhã, có tính nghệ thuật dân gian. Dùng để treo bên hiên trong những chiều mùa hạ để đón gió mát hay đặt bên ban thờ Phật dịp lễ Vu Lan, đưa đường cho người chết về nhà.
(9) Thời đó, phụ nữ Nhật sống ở Mỹ rất hiếm hoi nếu không nói là không có.
(10) Nguyên văn Manieru (Manière theo tiếng Pháp)
(11) Kép hát Kabuki nổi tiếng Onoue Baikô (Vĩ Thượng, Mai Hạnh) tập danh đời thứ sáu (1870-1934). Từng là giám đốc rạp hát Đế Quốc dưới thời Meiji.
(12) Tuồng dựa trên hành trạng của tể tướng Toyotomi Hideyoshi (1536?-1598), một trong ba danh tướng có công thống nhất Nhật Bản.
(13) Bernard Shaw, nhà soạn kịch người Anh, giải Nobel Văn Chương.
(14) Một kiểu búi tóc của người đàn bà có chồng.
(15) Hoàng đế nước Đức.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeSat Feb 22, 2020 9:26 am

.
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Z

Ảo thuật
– Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

 
Chuyện xảy ra vào một đêm trời đổ mưa. Chiếc xe kéo chở tôi đã bò lên tuột xuống không biết bao nhiêu đường dốc gập ghềnh trong khu phố Ômôri này, cuối cùng mới hạ được tay đòn xuống trước cửa một căn nhà nhỏ xây kiểu tây phương ở giữa một vườn trúc. Chiếc cổng hẹp màu xám đã bị bong nước sơn loang lổ, dưới ánh đèn lồng nơi tay của người phu xe thì thấy có một tấm bảng tên bằng sứ, và chỉ có cái bảng tên này là còn mới, có ghi bằng tiếng Nhật tên anh Matiram Misura người Ấn độ.

Nói đến Matiram Misura, trong quý vị có lẽ số người biết anh không phải là ít. Anh Misura sinh quán ở Calcutta, là một người yêu nước, đã nhiều năm tranh đấu giành độc lập cho Ấn độ. Đồng thời anh đã theo học phép bí truyền từ Hassan Kan một người Bà la Môn nổi tiếng, tuy còn trẻ mà đã là một nhà ảo thuật tài ba. Tôi quen Misura là nhờ có một người bạn giới thiệu cho được chưa đầy một tháng nay, thế nhưng tuy chúng tôi đã bàn luận về nhiều đề tài như chính trị, kinh tế, nhưng mà cái chính là tài làm ảo thuật của anh, thì tôi lại chưa một lần nào được chứng kiến. Vì thế tôi đã viết thư xin anh làm ảo thuật cho tôi xem, rồi đêm nay mới cho xe kéo hối hả trực chỉ đến cuối phố Ômôri hẻo lánh nơi anh đang ở.
Tôi đội mưa, theo ánh đèn chập chờn trên tay người phu xe đưa tay bấm chiếc chuông ở phía dưới tấm bảng ghi tên trước cổng nhà. Lát sau cửa mở và một khuôn mặt thò ra, đó là một bà vú già người Nhật dáng thấp bé ở đây hầu hạ anh Misura.
– Ông Misura có nhà không ạ?
– Xin mời ông vào. Ông ấy đang đợi ông từ nẫy đến giờ đấy ạ.
Vú già niềm nở nói vậy rồi liền đưa tôi vào căn phòng của anh Misura ở ngay cuối chiếc hành lang ngắn đi thẳng từ cửa vào.
– Chào ông, trời mưa gió mà ông đã chịu khó lặn lội tới đây.
Anh Misura có nước da đen nhẻm, mắt to, bộ ria mềm mại. Anh vừa nâng bấc của ngọn đèn dầu để trên mặt bàn lên, vừa cất tiếng chào sang sảng.
– Ồ có gì đâu, miễn là đựơc xem phép ảo thuật của ông thì mưa gió thế này nào có hề gì.

Tôi ngồi xuống ghế đoạn nhìn quanh khắp căn phòng mờ tối dưới ánh đèn dầu lửa leo lét. Căn phòng của anh Misura bài trí đơn sơ theo kiểu tây phương, ở giữa kê một chiếc bàn lớn, sát tường có một cái tủ sách vừa vặn. Rồi bên cạnh cửa sổ lại có một cái bàn. Ngoài ra chỉ có một dẫy mấy chiếc ghế mà tôi đang ngồi. Hơn nữa, mấy thứ bàn ghế này đều cũ mèm, ngay cả đến chiếc khăn trải bàn lộng lẫy có dệt hoa màu đỏ rực rỡ quanh đường viền cũng đã bợt bạt, để lộ rõ cả sợi vải, tưởng chừng như khăn đã dùng lâu ngày đến sắp rách tã đến nơi.
Chúng tôi chào hỏi nhau xong, ngồi lơ đãng nghe tiếng mưa rơi trong bụi trúc bên ngoài một lát, thì người vú già giúp việc lại đem bộ ấm pha trà vào phòng. Anh Misura mở hộp đựng xì gà mời tôi
– Mời ông một điếu.
– Cảm ơn ông.
Tôi điềm nhiên lấy một điếu xì gà, vừa châm lửa nơi que diêm, vừa hỏi:
– Nghe đâu là vị thần mà ông vẫn sai khiến tên là Jin phải không ạ? Còn phép ảo thuật mà tôi sắp được ông cho xem cũng là mượn phép của thần Jin đó phải không ạ?
Anh Misura châm lửa vào điếu xì gà của mình, đoạn nhếch miệng cười, phà ra một làn khói có mùi thơm dễ chịu
– Tin rằng có thần thánh như thần Jin là chuyện đã cũ cả trăm năm rồi. Có thể nói đó là những truyện từ thời của Chuyện nghìn lẻ một đêm. Còn phép ảo thuật mà tôi học từ Hassan Kan thì ngay cả ông, nếu ông muốn làm, cũng làm đựơc thôi. Vì đó chẳng qua chỉ là một phép thôi miên ở một trình độ cao, thế thôi. Ông xem đây, chỉ cần khoa tay như thế này là đủ rồi.
Anh Misura đưa tay lên, vẽ một hình giống như hình tam giác trước mắt tôi hai ba lần, đoạn đưa bàn tay ấy lên bàn, nhón hình hoa dệt màu đỏ từ đường viền của chiếc khăn bàn lên. Tôi sững sờ, bất giác đã nhích cả chiếc ghế lại gần để nhìn bông hoa ấy cho rõ. Song quả thật đó đích thị là một đoá hoa trước đó nằm trong tấm khăn trải bàn dệt hoa, không trệch đi đâu được. Khi anh Misura đưa đoá hoa đến gần chóp mũi tôi, thì đúng lúc ấy có một mùi gì nằng nặng như mùi xạ hương thoảng qua. Thấy điều lạ kỳ quá tôi đã cất tiếng trầm trồ không biết bao lần, mỗi lần như vậy anh Misura vẫn chỉ tủm tỉm cười, lại điềm nhiên thả đoá hoa ấy rơi xuống mặt khăn bàn. Tất nhiên, khi buông ra thì nó lại thành một mẫu hoa dệt trên nền vải như trước, bấy giờ nói gì đến muốn nhón lên, mà ngay cả nếu muốn làm cho chỉ một cánh hoa có thể tự do lay động, cũng còn không được nữa là.
– Ông thấy thế nào, có khó gì đâu. Bây giờ ông hãy nhìn chiếc đèn này.
Anh Misura vừa nói vừa khẽ đặt chiếc đèn dầu lên mặt bàn. Thế rồi, chẳng hiểu sao, làm như thế nào mà chiếc đèn lại bắt đầu xoay tít cứ như con vụ. Hơn nữa chiếc đèn vẫn đứng yên một chỗ mà xoay, phần bóng đèn như một cái trục bắt đầu tự xoay tròn. Lúc đầu tôi còn sợ đến suýt vỡ mật, hớt hơ hớt hải chỉ sợ lỡ sinh cháy nhà. Thế nhưng anh Misura vẫn điềm nhiên uống trà, chẳng có vẻ gì là lo lắng. Thấy thế cuối cùng tôi cũng thành ra gan góc tợn, cứ thế trân trối nhìn chiếc đèn mỗi lúc một quay nhanh hơn.
Hơn nữa thực sự là trong lúc chao đèn quay vù vù như cái quạt quạt gió, chỉ có một ngọn lửa màu vàng duy nhất cứ hừng hực cháy như bất động nom mới đẹp làm sao, mới là một quang cảnh hết sức kỳ diệu. Chiếc đèn mỗi lúc một xoay nhanh dần lên, đến nỗi thành trong suốt không còn biết là đèn đang xoay nữa, thì không biết từ lúc nào ngọn đèn đã lại đứng yên một chỗ trên bàn mà bóng đèn không có vẻ bị lệch đi một tí nào cả.
– Ông thấy lạ à. Đây mới chỉ là trò vặt phỉnh phờ con trẻ một tí thôi. Nếu ông muốn mời ông xem thêm trò nữa nhé?

Anh Misura quay lại nhìn chiếc tủ sách kê sát tường rồi đưa tay về phía đó, co duỗi mấy ngón tay như thể đang mời gọi. Tức thì lần này sách xếp trong tủ lần lượt từng quyển một bắt đầu nhúc nhích, rồi cứ thế bay ra trên mặt bàn. Những quyển sách này còn bay theo kiểu mở cả hai bìa trước bìa sau ra mà chập chờn bay lên không như những con dơi liệng qua liệng lại vào những buổi chiều hè. Tôi há hốc mồm ra nhìn, điếu xì gà vẫn còn dính nơi miệng. Những quyển sách cứ thế, không biết là bao nhiêu cuốn, bay liệng tự do trong ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu, rồi lần lượt xếp lên nhau gọn gàng thành hình kim tự tháp trên mặt bàn. Hơn nữa đúng lúc mình cứ tưởng tất cả những quyển sách ấy đều sẽ di chuyển ra đây, thì chúng lại chuyển động ngay về vị trí ban đầu, chúng chẳng đang bay trở về, xếp tuần tự trở lại trong tủ sách là gì kia.
Thế nhưng thú vị nhất là có một quyển sách mỏng đóng bằng chỉ khâu ở gáy sách, cũng mở bìa sách ra như là đang giang cánh, nhẹ bay lên không, lát sau lại như vẽ một vòng tròn trên mặt bàn, bỗng lật nhanh qua từng trang một, đoạn như bị buông cho rớt thẳng xuống đất, đã rơi xuống nằm ngay trên đùi tôi. Tôi cầm lên coi thử mới nhớ ra đây là quyển tiểu thuyết mới ra của Pháp mà tôi đã cho anh Misura mượn một tuần trước.
– Xin cảm ơn ông đã cho tôi mượn quyển sách này lâu nay.
Anh Misura cảm ơn tôi, vẫn với giọng nói như đang mỉm cười. Dĩ nhiên tới lúc đó có khá nhiều sách đã từ trên mặt bàn bay trở lại về tủ sách. Tôi như vừa từ trong giấc mơ mới bước ra, thậm chí lúc ấy còn không nhớ phải nói một câu gì đáp lại nữa. Nhưng sau đó tôi nhớ lại lời anh Misura đã nói với tôi lúc nẫy, đó là ”Ảo thuật của tôi là một phép thuật mà ngay cả đến ông, nếu ông muốn thì cũng dùng được.”
– Quả thật tôi đã nghe tiếng ông từ lâu, nhưng thực tôi không ngờ phép thuật của ông lại lạ lùng như thế. Thế nhưng khi bảo hạng người như tôi nếu muốn cũng làm phép thuật được, có phải ông định nói đùa đấy không ạ?
– Làm được chứ sao không. Ai cũng làm được dễ dàng thôi. Chỉ có điều là…
Anh Misura bỏ dở câu nói, nhìn chằm chằm vào mặt tôi, đoạn tiếp lời bằng một giọng nghiêm nghị khác thường
– Chỉ có điều là, người có lòng tham thì không làm ảo thuật được. Nếu muốn học phép thuật của Hassan Kan thì trước hết phải vứt bỏ lòng tham. Ông có làm như thế được không?
– Tôi nghĩ là tôi làm được.
Tôi đáp lại như vậy, nhưng vẫn cảm thấy không yên tâm làm sao ấy, nên ngay sau đó vội vàng nói thêm.
– Miễn là ông dậy cho tôi phép ảo thuật ấy.
Thế mà anh Misura vẫn lộ ánh mắt nghi ngờ, tuy nhiên có lẽ anh cũng nghĩ rằng nếu còn căn vặn tiếp là thất lễ. Anh bèn vừa gật đầu thật mạnh vừa nói.
– Vậy thì tôi sẽ truyền cho ông. Thế nhưng cho dù là dễ đến mấy đi nữa, muốn học cũng phải mất một ít thì giờ, vì thế tối nay ông hãy ở lại đây với tôi.
– Xin cảm ơn ông lắm ạ.
Tôi mừng rỡ vì sắp được dậy cho phép làm ảo thuật, rối rít cảm ơn anh Misura mãi. Anh Misura không có vẻ gì là để tâm đến chuyện ấy, từ tốn đứng dậy, cất tiếng gọi
– Vú già ơi vú già, tối nay qúy khách ở lại đây, vú dọn giường sẵn cho nhé.
Tôi thấy lòng rộn ràng, quên cả gạt tàn điếu xì gà, bất giác ngửng lên nhìn chăm chú vào khuôn mặt có vẻ ân cần đang sáng lên dưới ánh đèn dầu của anh Misura.

***

Chuyện xẩy ra sau khi tôi đã được anh Misura dậy cho cách sử dụng phép ảo thuật được độ một tháng. Cũng là vào một tối trời mưa tầm tã, tôi và năm sáu người bạn đang ở trong căn phòng của một câu lạc bộ nọ trong phố Ginza, quây quần trước lò sưởi, đang mải tán gẫu đủ thứ chuyện phiếm.
Chả gì thì cũng đang ở giữa thành phố Tokyo nên tiếng mưa ào ạt bên ngoài cửa sổ, có lẽ vì mưa rơi trên mái xe hơi và xe ngựa qua lại không ngớt nên đã không có cái âm thanh buồn bã rì rào như trong bụi trúc ở xóm Ômôri.
Dĩ nhiên, từ không khí nhộn nhịp trong nhà, ánh sáng của bóng đèn điện sáng trưng, cho đến chiếc ghế lớn bọc da của xứ Ma rốc hay là sàn nhà lát gỗ ghép hình kỷ hà học bóng loáng, tất cả đều hoàn toàn khác với căn phòng mới thoạt nhìn đã tưởng chừng sắp có thần linh hiện ra của anh Misura.
Chúng tôi vừa hút thuốc lá vừa nói chuyện về nào thú săn bắn, nào chuyện đua ngựa, nhưng rồi sau đó một người trong đám bạn tôi đã ném điếu xì gà đang hút dở vào lò sưởi, quay nhìn về phía tôi nói.
– Dạo này nghe đồn là cậu có tài làm ảo thuật. Thế nào? Tối nay cậu hãy làm một phép thuật cho bọn tớ xem nào.
– Được thôi.
Tôi tựa đầu vào lưng ghế đáp lại một cách kênh kiệu, ra vẻ ta đây đã là một nhà ảo thuật nổi tiếng.
– Vậy thì tuỳ cậu muốn làm sao cũng được. Hãy trổ tài cho bọn tớ xem một trò ảo thuật mà các tay ảo thuật gia trên đời này không ai có thể làm nổi đi nào.
Bè bạn xem ra ai cũng tán thành, vội kéo ghế ngồi lại gần, nhìn về phía tôi như hối thúc. Tôi bèn đứng dậy nói – Hãy nhìn kỹ mà xem. Vì trò ảo thuật mà tớ đang làm đây không phải dùng mưu mẹo gì cả.
Tôi vừa nói vừa xăn hai cổ tay áo lên, thản nhiên lấy hòn than đang cháy rực trong lò sưởi ra lòng bàn tay. Chỉ mới chừng đó thôi, bạn bè chung quanh tôi có lẽ đã táng đởm kinh hồn. Mọi người mặt nhìn mặt bất giác cùng né cả sang một bên, thậm chí còn có vẻ kinh hãi, co rúm cả lại như thể sợ lỡ bị bỏng thì nguy to.
Lúc đó tôi bèn làm ra vẻ thản nhiên, chìa hòn than đang cháy trên lòng bàn tay ra trước mắt mọi người một lát, rồi lại thoắt một cái hất mạnh xuống sàn nhà lát gỗ. Đúng lúc ấy, một tiếng mưa thứ hai nghe khác thường từ dưới nền nhà bỗng nổi lên át cả tiếng mưa rơi ngoài cửa sổ. Đó là khi hòn than đỏ rực vừa rời lòng bàn tay tôi nó đã liền biến thành vô số những đồng tiền vàng đẹp đẽ rơi như mưa trên khắp nền nhà.
Mấy người bạn cứ như thể đang nằm mơ, ngẩn cả người ra mà quên cả vỗ tay tán thưởng.
– Ấy mới chỉ là một chút gọi là thôi đấy nhé!
Tôi cười đắc ý, lại điềm tĩnh đặt mình xuống chiếc ghế vừa nẫy.
– Tất cả đều là tiền vàng hết đấy ư?
Phải đến năm phút sau mới có một người trong đám bè bạn đang ngơ ngác ấy lên tiếng hỏi tôi câu này.
– Tiền vàng thật chứ! Nếu nghĩ là giả thì cứ cầm lên tay mà xem!
– Chắc là không có chuỵên ngộ nhỡ lại bị bỏng tay đấy chứ nhỉ?
Một người trong đám bạn rụt rè lấy đồng tiền vàng trên sàn nhà lên xem.
– Hoá ra là tiền vàng thật. Này, anh bồi ơi, anh lấy cho cái chổi với cái xẻng, vun hết chỗ này lại hộ cho.
Người bồi liền làm y theo lời, vun hết tiền vàng trên sàn nhà lại, xếp thành đống trên chiếc bàn. Bạn bè xúm lại cả chung quanh chiếc bàn này.
– Dễ cũng có đến 20 vạn yên đấy nhỉ.
– Không đâu, có vẻ nhiều hơn đấy. Nhiều đến nỗi nếu phải cái bàn mảnh dẻ hơn thì có mà gẫy rồi ấy chứ.
– Hắn học được phép thuật gì mà ghê gớm thật. Ai lại than hồng mà biến thành tiền vàng ngay được.
– Cứ cái điệu này thì chỉ không đầy một tuần, sẽ thành tỷ phú không thua gì Iwasaki với Mitsui đâu.
Mọi người đều trầm trồ khen ngợi phép ảo thuật của tôi. Nhưng tôi vẫn cứ ngồi yên, tựa lưng vào ghế, điềm nhiên nhả khói xì gà.
– Không đâu, phép ảo thuật của tớ là cái mà hễ một khi đã nổi lòng tham lên rồi thì không còn được dùng đến lần thứ hai. Vì vậy những đồng tiền vàng này cũng thế, các cậu xem xong rồi thì tớ định sẽ lại ném ngay trở lại vào lò sưởi thôi.

Bè bạn nghe tôi nói thế, liền bắt đầu nhao nhao phản đối. Họ nói số tiền lớn thế này mà biến thành than trở lại thì phí đi. Nhưng cũng vì tôi đã hứa với anh Misura, nên tôi cương quyết cãi lại với các bạn rằng nhất định sẽ ném cả vào lò sưởi. Lúc đó một người có tiếng là ranh mãnh trong đám bè bạn cười khẩy mà nói rằng
– Cậu bảo định sẽ biến những tiền vàng này thành than. Còn bọn tớ bảo không muốn thế. Cứ thế này mãi thì chắc là còn cãi nhau chán chả đi đến đâu cả. Vì vậy theo tớ hãy dùng số tiền này làm tiền cọc để cậu với bọn tớ đánh bài nhé. Nếu cậu thắng thì cậu muốn cho biến thành than trở lại hay làm gì là tùy cậu. Nhưng nếu bọn tớ thắng, thì cậu phải để y nguyên tiền vàng như thế mà đưa cho bọn tớ. Làm như vậy là vừa lòng cả đôi bên, chẳng phải là chúng ta ai cũng hỉ hả hết sao.
Tuy thế xong tôi vẫn lắc đầu, không dễ gì mà chấp thuận đề nghị ấy. Thế nhưng người bạn này lại cười ra vẻ nhạo báng, đôi mắt soi mói hết nhìn tôi lại nhìn sang đống tiền vàng trên bàn.
– Cậu không muốn đánh bài với bọn tớ, đó là vì cậu không muốn bọn tớ lấy mất đống tiền vàng kia chứ gì. Nếu vậy thì như cậu nói, nào là đã vứt bỏ lòng tham để làm phép ảo thuật, nhưng như thế chẳng hoá ra là cái quyết tâm mà cậu đã mất công có được ấy cũng thành ra... đáng ngờ vực lắm sao!
– Không phải thế, không phải là vì tớ tiếc những đồng tiền vàng này mà định biến nó thành than đâu.
– Nếu vậy thì hãy đánh bài đi!
Sau bao lần cứ bị hỏi dồn như thế mãi, cuối cùng tôi đã bị dồn đến nước phải làm theo lời chúng bạn, thế nào cũng phải dùng món tiền vàng trên bàn làm tiền cọc mà đánh bài với họ. Dĩ nhiên các bạn tôi mừng rơn, liền lấy ra một cỗ bài, ngồi vây quanh chiếc bàn dùng để chơi bài ở góc phòng, hối thúc tôi mau mau lên trong lúc tôi còn đang lưỡng lự.
Thế là tôi không có cách nào khác, đành phải miễn cưỡng đánh bài với chúng bạn một lát. Thế nhưng chẳng hiểu vì sao, chỉ trong đêm ấy thôi, cái thằng tôi ngày thường vốn không phải là đứa giỏi cờ bạc, không ngờ lại cứ thắng tràn. Và lạ lùng thay là tuy lúc đầu tôi chẳng thiết gì cả, ấy thế mà dần dà lại cảm thấy thích thú, chỉ trong vòng chưa đầy mười phút sau, không biết tự lúc nào tôi đã quên hết mọi chuyện, bắt đầu mê mải rút bài.

Bạn bè lúc đầu định bụng sẽ cuỗm sạch của tôi món tiền vàng kia, nên mới bày ra trò đánh bài, vì thế đã đến nước này, bọn họ mỗi lúc một bồn chồn nóng nảy, mặt mày ai nấy tưởng chừng như đang đằng đằng sát khí mê mải vùi đầu vào cuộc đỏ đen. Thế nhưng, mặc cho họ gắng sức quật lại, chẳng những tôi không bị thua một ván nào, mà cuối cùng tôi còn thắng một số tiền lớn tương đương với món tiền vàng dùng làm tiền cọc. Tức thì người bạn có vẻ xấu bụng lúc nẫy, chừng như đã điên tiết, sừng sộ chìa cỗ bài ra trước mặt tôi, bảo
– Nào! Rút bài đi nào! Tớ đặt hết tất cả tài sản của tớ đấy. Cả đất,cả nhà, cả ngựa, cả xe… đặt tất, không chừa một thứ nào. Ngược lại, ngoài món tiền vàng này cậu cũng phải đặt tất cả chỗ tiền mà cậu vừa thắng đựơc. Nào rút bài đi!
Chỉ trong một sát na này lòng tham của tôi chợt nổi lên. Không chỉ món tiền vàng chất thành đống trên bàn kia, mà ngay cả số tiền tôi đã may mắn thắng được ấy, tôi không thể chỉ vì rủi ro trong lần này mà cuối cùng để cho đối thủ là các bạn tôi lấy mất. Chẳng những thế, mà chỉ cần thắng một lần này nữa thôi, tôi sẽ có được trong tay tất cả tài sản của đối phương. Nếu không đem phép ảo thuật ra dùng vào lúc này thì ai hoài công đi tìm thầy học phép ảo thuật để làm gì chứ nhỉ. Nghĩ vậy tôi bồn chồn nóng nảy, vội vừa lén dùng phép ảo thuật, vừa hùng hổ nói như thể sắp xông vào so kiếm tỉ thí
– Được! Thì cậu hãy rút bài trước đi.
– Lá chín.
– Ông già!
Tôi đắc thắng hô to, tay chìa lá bài vừa rút ra trước mặt đối thủ mặt mày đang xanh mét. Tức thì lạ lùng thay, ông già trong lá bài như thể có hồn, ngửng cái đầu có đội vưong miện lên, thoắt một cái đã từ trong lá bài bước ra, tay vẫn cầm gươm nghiêm chỉnh như trong hình, nhếch mép mỉm cười đến rợn người, thốt lên lời bằng một giọng nói mà tôi đã từng có lần nghe rồi:
- Vú già, vú già ơi, ông khách về bây giờ, vú không phải dọn giường ngủ cho khách nữa đâu nhé.

Mới đó mà không hiểu sao tiếng mưa rơi ngoài cửa sổ bỗng lại bắt đầu nghe như tiếng mưa rì rào buồn bã trong bụi trúc ở Ômôri.
Định thần nhìn quanh, hoá ra tôi vẫn còn ngồi đối diện với anh Misura, trong ánh đèn mờ tối của ngọn đèn dầu lửa, anh đang nhếch mép mỉm cười giống hệt như ông già trong lá bài.
Tàn thuốc của điếu xì gà mà tôi đang kẹp trên tay vẫn còn chưa kịp rơi xuống đất, hoá ra một tháng trời mà tôi tưởng vừa trôi qua chỉ mới dài chừng vài ba phút, chắc chỉ là một giấc mộng thôi. Nhưng chỉ trong một thoáng vài ba phút ngắn ngủi ấy, cả tôi lẫn anh Misura đều đã nhận ra một điều là, con người như tôi không đủ tư cách để học phép ảo thuật của Hassan Kan. Tôi ngượng ngùng cứ cúi gầm mặt xuống, mãi một lúc lâu sau vẫn không nói được một lời nào.
– Muốn dùng phép ảo thuật của tôi thì trước hết phải vứt bỏ lòng tham. Ông còn chưa tu tập được ngay cả điều đó.
Anh Misura chống khuỷu tay lên chiếc khăn bàn có dệt hình hoa màu đỏ ở đường viền nhìn tôi ra chiều ái ngại, khẽ quở trách tôi như vậy.

(Ngày 10 tháng 11 năm Taisho thứ 8 )
DTTM (Quỳnh Chi) dịch (1993-2005) Theo nguyên tác Majutsu, trong Akutagawa Ryunosuke toàn tập, nhà xuất bản Iwanami Shoten,1934.

Chú thích
Hassan Kan và Matiram Misura đều là những nhân vật hư cấu trong truyện Hassan Kan no Yojutsu (Yêu thuật của Hassan Kan) xuất bản năm 1917 của Tanizaki Junichiro.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeFri Feb 28, 2020 12:12 am

.

MỘNG MỊ (Yume)

- Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)
Người dịch: Đinh văn Phước


Lời người dịch:
Tác phẩm này được đăng lần đầu tiên trên Tạp chí Phụ Nữ Fujin Koron, vào tháng 11 năm 1926, tám tháng trước khi Akutagawa uống thuốc ngủ tự kết liễu cuộc đời mình. Nguyên nhân của cái chết là những nỗi bất an triền miên ám ảnh ông, hay đó chỉ là kết quả tất yếu của căn bệnh thần kinh di truyền từ người mẹ điên? Trong tác phẩm này ông đã viết những chữ "chết cũng được" và "thuốc ngủ". Có thể xem đây là dấu tích báo hiệu sự lựa chọn cái chết của chính ông trong năm sau.
Người hoạ sĩ bệnh hoạn trong câu chuyện này, từ lúc còn bé đã không phân biệt được đâu là mộng đâu là thực, có phải là hình bóng của chính ông không? Người hoạ sĩ đam mê hội hoạ nhưng tự đáy lòng lại thiếu tự tin về tài năng của mình có phải là tâm trạng của ông không? Nếu người hoạ sĩ là hiện thân của tác giả, thì cô người mẫu là biểu tượng của gì đây? Có phải ông muốn dùng cô người mẫu để ám chỉ cái xã hội hiện thực đầy cám dỗ, thô lỗ...? một đề tài bất tận, ông muốn bóc trần nhưng cảm thấy mình bất lực. Nếu đó là sự tự thú nhận thì điều đó không nhất thiết ăn khớp với thực tế. Bằng cớ là ông cũng có một cụm tác phẩm nổi tiếng xây dựng trên cuộc sống hiện thực như: Chiếc khăn mùi-soa, Mấy trái quýt, Tiệc khiêu vũ, Mùa thu, Chiếc xe goòng, Trinh tiết, Cục đất, Ảo ảnh cuộc đời v.v... Người hoạ sĩ ngồi xem tập tranh của Gauguin, lầm bầm "Phải như vầy mới được". Có phải ông muốn diễn tả cái thèm thuồng trong tiềm thức về sự chọn lựa của Gauguin không?
Gauguin đã ly khai đời sống văn minh vật chất bằng cách đi tìm cái đẹp mộc mạc, man dại nơi những nàng con gái thổ dân trên đảo Tahiti. Akutagawa ly khai cuộc đời bằng cái chết.


Tôi mệt đừ người. Không những vai và cổ cứ mỏi cứng ra, tôi còn bị chứng mất ngủ hành rất dữ. Vậy mà lúc nào chợp mắt được tôi lại hay mộng mị. Tôi nhớ có lần nghe ai đó nói, nằm mơ mà thấy màu sắc thì đó là triệu chứng trong người không khoẻ. Nhưng có lẽ vì cái nghề họa sĩ của tôi, nên không lúc nào nằm mơ mà tôi không thấy có màu. Tôi cùng với một người bạn vô trong một quán ở cuối phố có vách kính giống như quán cà phê. Bên ngoài vách kính đầy bụi bặm có một cây liễu mới ra lá non, mọc ngay bên cạnh cổng xe lửa. Chúng tôi ngồi ở bàn trong góc, ăn một món gì đó đựng trong chén. Ăn xong thì thấy dưới đáy chén còn lại cái đầu rắn dài khoảng 3 phân - trong một giấc mơ như thế tôi cũng thấy màu sắc rất rõ ràng.

Nhà tôi trọ nằm ở ngoại ô Tokyo, mùa đông rất rét. Khi nào lòng thấy u sầu, tôi thường ra đứng trên con đê phía sau nhà, nhìn xuống dưới. Trên nền đá, sỏi lấm lết dầu mỡ và sét rỉ, mấy con đường sắt sáng loé. Phía bên kia đê, có một cây cổ thụ giương cành nghiêng nghiêng. Nói là cảnh buồn thiu thì thật không sai nhưng nó hợp với lòng tôi hơn cảnh phố xá nhộn nhịp ở Ginza hay ở Asakusa. "Dĩ độc trị độc" - một mình trên con đê, tôi ngồi xổm phì phà điếu thuốc lá và đôi lúc tôi bâng quơ nghĩ như thế.
Không phải tôi không có bạn. Bạn tôi là một hoạ sĩ trẻ, con nhà giàu, chuyên vẽ tranh theo kiểu tây phương. Thấy tôi không khoẻ, anh khuyến khích tôi nên đi du lịch. "Chuyện tiền nong lo thì cũng xong thôi." - anh tử tế đề nghị với tôi như thế. Nhưng dù có đi du lịch, cái bệnh u sầu này cũng không thể lành được. Hơn ai hết chỉ có mình tôi mới biết rõ điều này. Thực ra ba bốn năm về trước tôi cũng đã rơi vào tình trạng như vầy và để khuây khoả tôi đã đi du lịch xuống tận Nagasaki. Đến Nagasaki, tìm khách sạn nhưng không thấy chỗ nào vừa ý. Sau khi bỏ công kiếm được một nơi thì tối đến, mấy con thiêu thân lọt vào trong phòng quấy rầy tôi cả đêm. Chưa đầy một tuần thì tôi quyết định quay trở về Tokyo
Một hôm vào khoảng xế trưa trời lạnh, đất hãy còn sương đóng băng, tôi đi lãnh tiền về thì bỗng thấy hứng muốn vẽ. Chắc đó là vì tôi có tiền trong tay, có thể mướn người mẫu, nhưng quả thật cũng có cái hứng sáng tác đột nhiên dâng lên trong lòng tôi. Tôi không về ngay nhưng tạt qua hãng M hỏi mướn người mẫu để vẻ một bức chân dung cỡ lớn, khung cỡ số 10. Trong cơn u sầu, quyết ý này làm tôi thấy sảng khoái hẳn ra, điều mà lâu nay tôi không có. "Vẽ xong bức tranh này thì chết cũng được" - Tôi thật tình nghĩ như vậy.
Người mẫu bên hãng M gửi sang không đẹp nhưng thân thể cô nàng - nhất là bộ ngực thì thật là đầy đặn. Tóc cô rậm, chải tóm hết về phía sau. Tôi rất hài lòng, để cô ta ngồi trên ghế mây rồi lo sửa soạn đồ vẽ ngay. Người mẫu đã loã thể. Thay vì để cô nàng cầm một bó hoa, tôi vò nhàu một tờ báo tiếng Anh cho cô ta cầm, bắt cô ta ngồi hai chân khép lại và đầu để nghiêng sang một bên. Nhưng khi tôi bắt đầu đối diện với cái giá vẽ, cái mệt mõi chán nản vì cứ phải vẽ hoài, lại xâm chiếm tôi. Căn phòng này ở bên phía bắc, nhưng trong phòng chỉ để một cái bồn than làm lò sưởi. Tôi đã đốt thật nhiều than cháy đỏ hực trong đó, nhưng vẫn không sưởi ấm nổi căn phòng. Cô người mẫu ngồi trên ghế mây, lúc lúc mấy bắp thịt trên đùi cứ run lên một cách phản xạ. Tôi đưa cọ lên vẽ và cứ mỗi lần cô ta run là mỗi lần tôi thấy bực. Không phải tôi bực cô ta, nhưng tôi bực với chính tôi. Tôi đã không mua nổi một cái lò sưởi đốt bằng dầu, đồng thời tôi bực vì ngay cả một chuyện như thế này cũng bắt tôi phải khổ tâm lo nghĩ.
- Nhà cô ở đâu?
- Nhà tui hả? Tui ở dưới xóm Yanaka Sansaki.
- Cô ở một mình?
- Đâu có, tui ở với con bạn, hai đứa mướn chung.
Tôi vừa nói vừa đưa cọ phết màu dần lên khung vải, vẽ cô ta như vẽ một tĩnh vật. Cô nàng ngồi, đầu vẫn để nghiêng, mặt trơ trơ không biểu lộ một tình cảm nào. Không những lời cô ta mà cách cô ta nói cũng thẳng trơn một giọng. Đối với tôi, có lẽ từ lúc sinh ra tính cô ta đã như vậy. Nhưng tôi thấy ở đó như có cái gì thoải mái, nên ngay cả sau khi vẽ xong tôi thường bắt cô ta cứ ngồi nguyên như vậy. Tuy mắt cô ta nhìn yên một chỗ không hề lay động, thế mà tôi không khỏi không cảm thấy một sự khiêu khích kỳ lạ toát ra từ thân thể của cô nàng.

Việc sáng tác không tiến triển như ý muốn của tôi. Mỗi ngày sau khi vẽ xong, tôi thường nằm lăn ra trên tấm thảm trải trên sàn, nắn bóp sau ót, trên đầu và lơ đãng nhìn quanh căn phòng trọ. Căn phòng này vỏn vẹn chỉ có cái giá vẽ và chiếc ghế mây. Chiếc ghế mây mặc dù không có ai ngồi, thế mà có khi nó bật ra tiếng nghiến. Có lẽ đó là do sự thay đổi của độ ẩm trong phòng. Những lúc như thế tôi thấy rờn rợn, bỏ ra ngoài đi dạo. Nói là đi dạo nhưng thật ra tôi chỉ quanh quẩn trong cái xóm nhà quê nhiều chùa chiền nằm dọc theo con đê đàng sau nhà trọ.
Tuy vậy tôi không hề nghỉ làm việc, ngày nào tôi cũng ngồi trước giá vẽ. Ngày nào cô người mẫu cũng đến đây. Tôi cảm thấy càng về sau này, thân thể cô nàng càng khêu gợi tôi hơn. Chắc chắn trong tôi có xen chút tình cảm thèm thuồng với vóc dáng khỏe mạnh của cô ta. Cô nàng vẫn giữ thái độ lạnh lùng, ngả mình nằm dài trên tấm thảm màu đỏ nhạt, mắt nhìn yên về một góc phòng. "Đứa con gái này không phải là giống người, nó không khác gì một con vật " - Tôi vừa vẽ, vừa nghĩ như thế.
Một hôm vào buổi chiều, gió ấm thổi về, tôi hì hụi cầm cọ vẽ. Hôm nay cô người mẫu trông càng đẫy đà hơn mọi khi. Tôi chợt nhận ra tôi bị sức khêu gợi man rợ của thể xác người con gái lôi cuốn. Và tôi ngửi thấy một mùi hăng nồng toát ra từ dưới nách cô nàng hay từ đâu đó, giống như cái mùi hôi hăng hắc của da người da đen.
- Cô quê quán ở đâu?
- Quê tui ở ... tỉnh Gunma.
- Làng ... hả? Làng này nghề dệt thịnh lắm mà.
- Dạ phải.
- Cô không làm thợ dệt sao?
- Hồi nhỏ có làm chớ.
Trong khi trò chuyện như thế, không biết từ hồi nào tôi đã chú ý đến cái núm vú mỗi lúc một căng to lên của cô ta. Cái núm vú to lên như một nụ cải sắp nở. Dĩ nhiên cũng như mọi khi, tôi cố dồn hết chú ý vào việc vẽ mà thôi. Nhưng cái núm vú - cái núm vú đẹp đến dễ sợ của cô nàng cứ ám ảnh tôi một cách kỳ lạ.
Đêm hôm ấy, trời vẫn không ngừng gió. Tôi bỗng thức giấc muốn đi tiêu. Nhưng khi tỉnh táo ra thì rõ ràng tôi thấy cửa phòng đã mở thế mà tôi chỉ đi vòng quanh trong phòng. Tôi chợt dừng lại, ngơ ngác đứng yên giữa phòng. Tôi nhìn xuống tấm thảm màu đỏ nhạt ngay dưới chân, rồi đưa mấy ngón chân trần mơn trớn mặt tấm thảm. Nó cho tôi cái cảm giác gần giống như một tấm da của con thú có lông. "Mặt trái tấm thảm này màu gì nhỉ?" - tôi tự hỏi và áy náy về câu hỏi đó, nhưng không biết vì sao tôi lại sợ không dám lật tấm thảm lên xem là màu gì. Sau khi làm xong việc bài tiết, tôi chui vào chăn ngủ trở lại.

Ngày hôm sau tôi tiếp tục vẽ, nhưng càng thấy nản. Bây giờ ở lâu trong phòng phút nào, tôi thấy bồn chồn thêm phút ấy. Vì vậy tôi bỏ ra ngoài con đê đàng sau nhà. Cả vùng, trời sắp tối. Những hàng cây, những trụ điện không còn hứng chút ánh nắng nào, thế mà chúng hiện lên rất rõ trước mắt tôi. Tôi đi dọc theo con đê, muốn hét thật to lên. Dĩ nhiên tôi đã nén lại được. Tôi cảm thấy như chỉ có cái đầu của tôi đi tới phía trước và tôi rảo bước xuống khu xóm tồi tàn nằm dọc theo con đê.
Xóm nhà quê này, lúc nào cũng ít thấy người qua lại. Có một con trâu bị cột nơi góc trụ điện bên lề đường. Con trâu vẫn giữ tư thế vươn cổ tới trước, chằm chằm nhìn tôi, mắt nó ưon ướt mơ màng giống hệt như mắt một đứa con gái. Nó như đang trông chờ tôi đến với nó. Và trong ánh mắt con trâu tôi cảm thấy như có cả sự khiêu khích âm thầm. "Khi nó đâu mặt với tên đồ tể, chắc nó cũng có cái nhìn như thế này". Cảm giác ấy làm tôi thấy khó chịu, rốt cuộc tôi quành sang ngõ khác, không đi qua chỗ con trâu đứng.
Rồi đến một buổi chiều hai ba hôm sau, tôi ngồi trước giá vẽ, hị hụi cầm cọ vẽ. Cô người mẫu nằm yên trên tấm thảm màu đỏ nhạt, ngay cả lông mày cô ta cũng không hề động đậy. Tôi vẽ cô người mẫu trước mặt đã được nửa tháng mà vẫn chưa xong. Và trong khi trò chuyện, hai đứa cũng không thấy thông cảm nhau. Hơn thế nữa, tôi cảm thấy càng ngày thân xác cô ta càng khiêu khích tôi mạnh hơn. Ngay cả vào giờ nghỉ, dù chỉ một chiếc áo sơ-mi, cô ta cũng không chịu khoác. Nói chuyện thì cô ta chỉ trả lời qua loa các câu hỏi của tôi. Nhưng hôm nay, trong khi vẫn nằm duỗi chân trên tấm thảm màu đỏ nhạt, xoay lưng về phía tôi (tôi chợt khám phá ra cô ta có một nút ruồi đen trên vai bên mặt), không biết ví cớ gì mà cô ta mở miệng bắt chuyện với tôi.
- Nè thầy, con đường vô nhà trọ này có dựng mấy cột đá, phải không thầy?
- Ừ...
- Đó là mấy cái cột làm dấu mả chôn nhau của đàn bà đẻ.
- Mả chôn nhau?
- Thiệt đó a, mấy cột đá là dấu hiệu đó nghen.
- Sao cô biết?
- Tại tui thấy rõ ràng mấy chữ viết trên cột đá đó a.
Cô nàng vẫn nằm yên, ngoái cổ nhìn tôi qua bờ vai, miệng cười mỉm.
- Khi đẻ, ai chun ra mà lại không đội một bọc nhau.
- Cô cứ ăn nói nhảm nhí.
- Thầy nói vậy chớ cứ nghĩ ai cũng chun ra theo cái nhau...
- ? ...
- Thì người ta cũng giống như mấy con chó con thôi à.
Tôi vẫn ngồi trước cô người mẫu, đưa cọ vẽ một cách miễn cưởng? - nhưng điều đó không có nghĩa là tôi thấy chán không muốn vẽ. Lúc nào tôi cũng muốn lột trần cái thô lỗ từ trong cơ thể của cô nàng ra. Nhưng để bốc trần được cái thô lỗ ấy tôi lại không đủ tài năng. Hơn thế, chính tôi cũng muốn tránh. Có lẽ vì tôi không muốn dùng cọ vẽ và sơn dầu để biểu hiện những cái thô lỗ ấy. Còn nếu nói lấy phương tiện gì thì có thể diễn tả được nó...vừa giơ cọ lên vẽ, đôi lúc tôi liên tưởng đến cái gậy đá hay cây gươm đá trưng bày trong một bảo tàng viện nào đó.

Sau khi cô nàng đã ra về, tôi ngồi dưới ánh sáng mù mờ của bóng đèn điện, giở tập tranh lớn của Gauguin vẽ thời ở Tahiti ra xem từng tấm một. Một lúc sau, tôi mới sực ý thức được là chính mình đang lầm bầm trong miệng "Phải như vầy mới được". Tại sao tôi lại lập đi lập lại một câu như vậy. Chính tôi cũng không hiểu lý do. Nhưng tôi bỗng thấy rờn rợn, bèn bảo bà giúp việc về đi, rồi tôi uống mấy viên thuốc ngủ, xong tôi đi ngủ.
Khi thức dậy thì đã gần mười giờ. Đêm hôm qua nhờ trời ấm, tôi đã nằm lăn ra ngủ ngay trên tấm thảm. Nhưng, hơn cả chuyện ấy, giấc mơ tôi thấy trước lúc thức giấc mới là điều làm tôi lo. Tôi thấy tôi đứng ngay giữa gian phòng này một tay bóp cổ muốn giết cô người mẫu (mà tôi biết chắc rõ ràng đây là chuyện nằm mơ). Mặt cô nàng hơi ngước lên, vẫn không lộ một chút tình cảm nào, mắt dần dần khép lại. Đồng thời cặp vú cô ta vẫn căng phồng tròn trịa thật đẹp. Cặp vú trắng nõn nổi những lằn gân máu nhợt nhạt. Tôi đã không ngần ngại bóp cổ giết cô ta. Hơn thế, tôi thấy có khoái cảm sau khi làm xong cái việc đương nhiên ấy là đàng khác. Cô ta nhắm mắt như đã chết đi trong yên lặng - tôi thức dậy sau một giấc mơ như thế, nốc cạn hai ba cốc nước trà thật đậm, nhưng càng thấy u sầu hơn. Tự đáy lòng, tôi không hề muốn giết nàng, nhưng bên ngoài cái ý thức của tôi thì sao? - tôi rít một hơi thuốc lá dài, sống trong những giây phút nôn nao lạ lùng, trông ngóng cô nàng. Nhưng đã một giờ trưa rồi mà vẫn chưa thấy cô ta đến. Tôi muốn bỏ đi dạo, không đợi nữa, nhưng ngay cả việc đi dạo này cũng làm tôi thấy lo sợ. Nội cái việc bước ra khỏi ngưỡng cửa căn phòng này - một chuyện chẳng có gì cả như thế, mà tôi cũng thấy không chịu nổi.
Ngày sắp hết, bóng tối dần dần ập xuống. Tôi sống trong chờ đợi, đi đi lại lại trong phòng. Cô người mẫu chắc không bao giờ trở lại. Một lúc sau tôi nhớ lại ký ức của mười hai, mười ba năm về trước - hồi tôi còn bé. Cũng một buổi chiều như hôm nay, tôi ngồi ngoài hiên, đốt mấy cây nhang pháo bông. Dĩ nhiên lúc ấy không phải tôi ở Tokyo mà tôi đang sống với cha mẹ ở nhà quê. Bỗng tôi nghe có tiếng la to "Ê, sao vậy mày!" hơn thế nữa tôi cảm thấy như vai tôi, có ai lay. Trong đầu, tôi chỉ nghĩ là tôi đang ngồi ngoài hiên nhưng khi mơ hồ lấy lại được ý thức thì mới biết tôi đang ngồi ở ngoài cánh đồng trồng hành sau nhà. Đốt hết cây hành này đến cây hành khác, sạch bách cả hộp diêm tự lúc nào mà tôi không hay - tôi rít một hơi thuốc dài và suy nghĩ, chắc tôi phải để ý đến những giờ khắc tôi sống hoàn toàn bên ngoài ý thức của tôi. Đó không phải chỉ là nỗi lo âu nhưng chính là nỗi lo sợ trong lòng tôi. Đêm hôm qua, tôi nằm mơ thấy tôi bóp cổ giết cô nàng, nhưng nếu đó không phải ở trong mộng thì sao...

Cô người mẫu ngày hôm sau vẫn không thấy tới. Tôi buộc phải đến hãng M để hỏi âm tín của cô nàng. Nhưng ông chủ hãng M cũng không có tin tức gì cả. Tôi càng thấy lo, nên xin họ chỉ chỗ cô ta ở. Chính cô ta nói cô ta ở dưới xóm Yanaka Sansaki. Nhưng theo lời ông chủ hãng M thì cô ta ở trên xóm Hongo Higashikata. Khi tôi đến đấy thì đèn đường đã thắp sáng. Nhà cô ta thuê là một căn tiệm giặt ủi trong ngõ hẻm, vách sơn màu đỏ nhạt. Mặt tiền lộng kiếng, bên trong có hai người thợ chỉ mặc áo thun đang đứng chăm chú ủi đồ. Tôi định thủng thẳng đẩy cửa bước vào, thế nhưng không biết làm sao, tôi lại cụng đầu vào cửa kiếng. Tiếng động làm cho cả hai người thợ lẫn chính tôi giật mình.
Tôi lúng túng bước vào, hỏi một trong hai người thợ:
- Có cô ... ở nhà không?
- Cô ... đi từ hôm kia chưa thấy về.
Mấy tiếng trả lời ấy làm tôi lo. Nhưng tôi nghĩ không nên hỏi thêm, phải cẩn thận, vì nếu có gì thì họ sẽ nghi tôi.
- Cái cô ấy khi nào bỏ nhà đi thì đi mất biệt có khi cả tuần không thấy về.

Người thợ có nước da mặt mét mét, tay vẫn không ngừng ủi, thêm thắt vào. Trong lời nói của anh ta, rõ ràng có giọng khinh miệt, tôi thấy giận vội bỏ ra ngay. Nhưng điều đó còn đỡ, bởi vì trong khi tôi đang đi trong xóm Higashikata đông đúc nhà cửa, tôi lại sực nhớ ra, có lần tôi đã nằm mơ thấy cái xóm này trong mộng. Cũng tiệm giặt ủi có vách sơn đỏ, kiến trúc kiểu tây phương. Cũng mấy người thợ có nước da mặt mét mét. Cũng bàn ủi cháy hực than. Việc đến đây tìm cô nàng thì mấy tháng trước (hay mấy năm trước đây), tôi cũng đã thấy y hệt như vậy trong mộng. Và dĩ nhiên cũng ở trong mộng, sau khi bỏ căn tiệm ra, tôi cũng một mình đi trên con đường vắng vẻ của khu xóm này. Thế rồi - thế rồi... sao các ký ức mộng mị ấy biến đi đâu mất cả, chẳng còn lại một chút nào trong trí não tôi. Và bây giờ dù có chuyện gì xảy ra cho tôi đi chăng nữa, tôi cũng nghĩ chẳng qua đó chỉ là chuyện xảy ra trong mộng...

11-1926
Tokyo, Hino 10-3-2005
Nguyên tác trên mạng Aozora Bunko (www.aozora.gr.jp)
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeWed Mar 11, 2020 12:10 am

.
ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Images?q=tbn%3AANd9GcS3F8isG_Zs1VmVy6xvCvcgvIroL2vsmEVc3myWK8Oi2-WoP1vM

Đàn bà (Onna)

- Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)


Người dịch: DTTM

Nhện cái đang nằm yên tắm ánh nắng hè dưới đáy bông hoa hồng kép màu đỏ, trầm ngâm nghĩ ngợi. Tức thì lúc bấy giờ trên không có tiếng đập cánh, rồi chẳng mấy chốc có một con ong mật lao đầu sà xuống đoá hoa hồng. Nhanh như chớp nhện ngước mắt nhìn lên. Bầu không khí tĩnh mịch của buổi trưa như vẫn còn sót lại gợn sóng dư âm tiếng đập cánh của ong mật.

Không biết tự lúc nào, từ đáy hoa hồng, nhện cái đã bắt đầu âm thầm lặng lẽ cựa mình. Đúng  lúc ấy ong cũng đang thò vòi vào hút mật ẩn dấu phía dưới nhụy hoa, mình dính đầy phấn hoa
Vài giây im lặng đến tàn nhẫn trôi qua.
Từ trong cánh hoa hồng đỏ bỗng nhô lên bóng dáng của nhện cái đang quờ quạng theo sau ong đang say mật. Nhưng mới đó nhện đã nhanh như cắt, chồm lên vồ lấy đầu ong. Ong ra sức rung cánh, hai ba bận toan dùng vòi chích lại kẻ thù. Phấn hoa bị đôi cánh của ong quạt bay tung lên, từng hạt phấn như đang nhẩy múa trong ánh nắng. Nhưng nhện cái nhất định không đời nào chịu nhả cái miệng đã ngoạm được mồi ra.

Cuộc đọ sức thật là chóng vánh.
Chẳng mấy chốc ong không còn rung cánh được nữa. Thế rồi chân bắt đầu bị tê. Cuối cùng chiếc vòi vươn dài quơ vào khoảng không vài cái như thể đang bị co giật.  Đó là những phút cuối thật bi thảm. Một hồi kết cuộc bi thảm, tàn nhẫn và bạc bẽo chẳng khác gì cái chết của con người. Chỉ một lát sau, ong đã nằm sóng soài dưới đáy của hoa hồng kép, vòi ngay đơ không còn co lại được nữa, chân và cánh vẫn còn dính đầy phấn hoa thơm phức...
Nhện cái nằm im ru, bắt đầu từ tốn hút máu ong mật.

Ánh mặt trời không hề biết ngượng ngùng đã xé rách sự tĩnh lặng của buổi trưa đang trở lại với hoa hồng, lại soi trên bóng dáng ngạo nghễ đắc thắng của nhện sau cuộc tranh giành cưỡng đoạt đầy sắt máu. Cái bụng giống hệt như vải sa tanh màu tro, hai mắt làm ta liên tưởng đến hai viên bi, và rồi những cái chân xấu xí khòng khoèo như mắc phong hủi, nhện hầu như là hiện thân của cái ác, cứ chễm trệ ở trên xác ong một cách ghê rợn không biết đến bao giờ.
Cái màn kịch tàn ác này sau đó vẫn còn lập đi lập lại mãi. Thế mà hoa hồng đỏ tươi đẹp vẫn nở rộ mỗi ngày trong cái nắng và nóng ngột ngạt.

Thế rồi có một buổi trưa, làm như chợt nghĩ ra điều gì, nhện cái bèn chui mình giữa kẽ lá hoa hồng, bò lên cành cây ở phía trên. Đầu cành có một nụ hồng bị héo vì hơi đất bốc lên hừng hực, cánh hoa bị hấp hơi nóng toả ra một mùi thơm nhẹ. Nhện cái bò lên đến tận đó rồi thì bây giờ tới lượt cứ đi đi lại lại mãi không ngừng nghỉ giữa nụ hoa và cành cây. Cũng cùng lúc ấy, vô số những sợi tơ trắng ngần, óng ánh, một đầu mắc vào nụ hoa héo úa, và dần dần giăng khắp đầu cành.
Một lát sau, ở đó đã có một cái túi bằng lụa hình ống màu trắng sáng loà đến chói mắt phản chiếu lại ánh nắng giữa ban trưa.
Nhện giăng tơ xong, đã đẻ vô số trứng dưới đáy của cái túi mỏng mảnh ấy. Thế rồi nhện lại đan một miếng đệm bằng sợi thật dầy ở miệng túi, rồi chính mình vừa chiếm chỗ ở trên cái đệm ấy, vừa giăng thêm một cái trần nhà mỏng như vải the. Tấm mạng như thể một mái vòm chỉ chừa lại có mỗi một cái cửa sổ, đã ngăn con nhện màu tro dũng mãnh như một con thú dữ này với bầu trời xanh giữa buổi trưa. Tuy vậy, nhện - nhện cái sau khi sinh - gầy gò ốm yếu vẫn nằm yên trong căn phòng trắng nuốt ấy, một mình đơn chiếc đắm chìm vào giòng suy tưởng, dường như đã quên hẳn hoa hồng, mặt trời và cả tiếng đập cánh của ong mật.

Một vài tuần lễ như thế trôi qua.
Trong thời gian đó, trong cái túi của nhện, những sự sống mới say ngủ trong vô số trứng đã mở mắt chào đời. Nhận ra điều ấy trước tiên, trước bất cứ một ai, chính là nhện mẹ, nay đã già và kiệt sức, nằm yên bỏ cả ăn, trong căn phòng màu trắng ấy. Nhện mẹ đã nhận ra được dưới tấm nệm bằng tơ những sinh mệnh mới đã cựa mình không biết từ bao giờ, bèn lê những cái chân đã yếu dần quờ quạng xé rách trần nhà che trên túi  ngăn cách mẹ với con. Vô số nhện con lục tục từ đó tràn ra khắp phòng. Hay nói dúng ra là chính cái đệm đã tự phân tán ra thành hàng trăm vi phân tử nhỏ li ti cùng chuyển động một lúc thì mới đúng.

Nhện con liền chui ra ngoài cửa sổ trên mái vòm, qua nắng và gió, tràn ra cành hoa hồng. Cả một lũ chúng nó chen chúc nhau trên những lá cây hồng nặng trĩu vì hứng cái nóng như lửa. Và cả lũ lại hiếu kỳ chui vào giữa hoa hồng nơi có ủ không biết bao nhiêu tầng mật ngọt. Thế rồi cả lũ lại còn nhanh nhẹn bắt đầu chăng những sợi tơ mỏng đến nỗi mắt thường không trông thấy, giữa những cành hoa hồng ngang dọc đang xé nát cả khoảng trời xanh. Nếu chúng có thể thốt lên lời, thì chắc hẳn là bông hoa hồng giữa ngày nắng hạ đã lên tiếng gọi chiếc đàn viôlông mắc trên ngọn cây hãy cất tiếng ca cùng gió.

Thế nhưng trước khung cửa sổ trên chiếc mái vòm, nhện mẹ gầy gò chỉ còn như cái bóng vẫn buồn rầu cuộn mình ủ rũ. Chẳng những thế, cứ như thế mãi, nhện có vẻ như chẳng buồn động đậy nữa, cho dù là một cái cẳng chân. Ở nơi vừa để sinh con vừa là mộ địa, dưới bức màn mỏng như the buông trên trần nhà, trong tĩnh lặng của căn phòng trắng nuốt, và hương thơm của nụ hồng đã héo, nhện mẹ - con nhện đã sinh ra vô số nhện con - đang nằm tận hưởng niềm vui vô hạn của người mẹ đã làm xong thiên chức và một lúc nào đó sẽ về tới cõi chết --- Đó là một người đàn bà hầu như là hiện thân của cái ác, từng ăn sống nuốt tươi ong mật, đã sống cùng thiên nhiên vào giữa một mùa hè.

(Tháng 4 năm Taisho thứ 9)
DTTM (Quỳnh Chi) dịch
(Tokyo, 3/2005)

Theo nguyên tác Onna trong Akutagawa Ryunosuke toàn tập, nhà xuất bản  Iwanami Shoten,1934.

.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeTue Mar 17, 2020 7:14 am

.


Chiếc Xe Goòng
- Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

Người dịch: Đinh văn Phước

Tác giả: Akutagawa Ryunosuke sinh năm 1892 (Meiji/Minh Trị năm thứ 25) ở Tokyo. Cha có nông trại nuôi bò sữa. Lúc mới đầy bảy tháng thì mẹ phát cuồng, nên được gia đình người anh của mẹ nhận về nuôi. Năm lên 10 thì mẹ mất trong bệnh viện người điên. Năm 12 tuổi mới chính thức lấy họ ngoại là Akutagawa. Ông tự sát năm 1927.
Vào được Đông Kinh Đại học (Tokyo Daigaku), ông cùng với bạn học là Kikuchi Kan, Kumei Masao những cây bút đương thời nổi tiếng, tích cực hợp tác lập văn đàn và sáng tác. Năm 1916 ông viết truyện ngắn Hana (Cái Mũi), được đại văn hào Natsume Soseki khen không tiếc lời; tháng 9 cùng năm sáng tác truyện Imogayu (Cháo khoai). Năm sau đó 1917, ông cho in tập Rashomon (La Sinh Môn) gom góp một số truyện ngắn nổi tiếng, tự đó tạo được một chỗ đứng riêng trong văn đàn Nhật bản. Ông là một trong những cây bút đại diện cho văn học Nhật thời đại Taisho (Đại Chính). Ông còn là một nhà văn tích cực sáng tác truyện ngắn cho Thanh thiếu niên chẳng hạn như Kumo no ito (Sợi tơ nhện 1918), Majutsu (Ảo thuật 1919), Toshishun (Đỗ tử Xuân 1920), Sennin (Ông tiên 1922) v.v...
Ngày nay một giải thưởng văn chương rất có uy tín mang tên ông, hàng năm phát cho cây bút nào có giá trị sáng tác cao.
Tác phẩm Chiếc xe goòng được sáng tác vào năm 1922, mô tả ký ức của một đứa bé mới lên tám, kỷ niệm ấu thơ của một con người bình thường như bất cứ ai trong chúng ta. Nhưng kỳ diệu thay, những tình tự tầm thường ấy lại có sức lôi cuốn người đọc vào câu chuyện cho đến dòng cuối. Và người đọc bỗng tự khai thông đường về với những kỷ niệm khó quên của mình.


Công trình đặt đường sắt giản tiện nối Odawara (1) với Atami (2) được bắt đầu khi Ryohei lên tám. Ngày nào Ryohei cũng ra ngoài bìa làng xem cảnh đặt đường -- nói là đặt đường nhưng đó chỉ là việc chở đất bằng xe goòng -- thế mà Ryohei lại thấy hay, hôm nào cũng đi.
Hai người phu đứng ở phía sau xe goòng chở đầy đất. Chiếc xe goòng chạy từ trên đồi xuống chẳng cần ai đẩy. Chiếc xe lao nhanh chao qua chao lại, vạt áo khoác hanten (3) của người phu phần phật, con đường rầy hẹp vẹo xuống -- Ryohei lặng ngắm quang cảnh ấy, có lúc muốn thành người phu, hay ít ra cũng được đứng chung một lần với người phu trên xe. Xe goòng chạy tới vùng đất bằng phẳng ở bìa làng thì tự nhiên ngừng hẳn. Các người phu nhanh nhẹn nhảy xuống, đổ ào đất xuống ngay cuối con đường sắt. Xong, lại đẩy xe lên đồi. Ryohei nghĩ dù không được leo lên xe, nhưng nếu được đẩy xe thì cũng đủ mãn nguyện

Một buổi chiều -- khoảng đầu tháng hai, Ryohei cùng với đứa em nhỏ hơn mình hai tuổi và đứa nhỏ ở nhà bên cùng tuổi với đứa em, ra ngoài bìa làng chỗ bãi xe đậu. Mấy chiếc xe goòng dính đầy bùn, nằm xếp hàng trong ánh sáng mờ nhạt. Nhưng nhìn quanh không thấy bóng dáng người phu nào cả, ba đứa bé lén lại gần, hồi hộp đẩy chiếc xe goòng nằm ngoài bìa. Khi ba đứa ùa nhau ra sức đẩy, thì đánh rột, xe goòng bỗng lăn bánh. Tiếng rột đầu tiên làm Ryohei lạnh toát người. Nhưng tiếng thứ hai không còn làm nó hoảng hốt nữa. Rột, rột -- dưới sức đẩy của ba đứa bé, xe goòng từ từ chuyển bánh ngược đường rầy.
Đẩy xe được khoảng hai mươi thước thì đường rầy bỗng lên dốc gấp. Ba đứa dù cố hết sức đẩy cũng không làm sao nhúc nhích được chiếc xe. Có lúc ba đứa và chiếc xe còn bị đẩy ngược lại. Ryohei nghĩ như thế là đủ, liền ra hiệu cho hai đứa nhỏ:
- Nè, leo lên mau.
Ba đứa cùng ngừng đẩy nhảy ngay lên xe. Chiếc xe goòng ban đầu chạy từ từ, nhưng mỗi lúc một bắt trớn, lao xuống dốc. Tức khắc, quang cảnh trước mặt Ryohei vùn vụt mở ra hai bên. Gió chiều tạt vào mặt mát, chiếc xe goòng dồng, lắc mạnh duới chân Ryohei -- Ryohei thấy sung sướng ngây ngất.
Nhưng chỉ hai ba phút sau thì xe goòng ngừng lại ở điểm cuối.
- Nè, đẩy thêm một lần nữa nghen.
Ryohei và hai đứa nhỏ định đẩy xe goòng đi, nhưng chiếc xe chưa kịp lăn bánh thì ba đứa đột nhiên nghe có tiếng chân ai phía sau lưng, rồi bỗng có thêm tiếng quát giận dữ:
- Ê đồ quỷ sứ, ai cho tụi bây động tới xe đó.
Khi nhận ra dạng người phu to lớn mặc chiếc áo khoác hanten công nhân cũ, đầu đội nón rạ trái mùa, đứng ở phía đằng kia, thì Ryohei và hai đứa nhỏ liền bỏ chạy khoảng mươi thước.
Từ dạo đó, đi công việc về, dù thấy mấy chiếc xe goòng ở chỗ làm đường vắng vẻ ấy, Ryohei cũng không còn dám nghĩ đến việc leo trèo lên xe nữa. Hình ảnh người phu hôm ấy tưởng chừng như đã hằn sâu vào trí nhớ của Ryohei -- chiếc mũ rạ màu vàng lờ mờ trong ánh sáng đã nhạt -- Nhưng ngay cả cái hình ảnh ấy, mỗi năm như một phai dần.

Mươi ngày sau, một hôm vào khoảng xế trưa, Ryohei một mình lại lảng vảng ra chỗ đặt đường xem mấy chiếc xe goòng đến đổ đất. Ngoài các xe chở đất, lần nầy Ryohei thấy một chiếc xe goòng chở toàn những cây đà lót đường rầy đang được hai người phu xe hãy còn trẻ, đẩy trên con đường rầy rộng hơn, chắc sau này sẽ trở thành con đường rầy chính. Chỉ mới thấy họ Ryohei đã thấy dễ làm quen, "Có lẽ mình sẽ không bị hai người nầy la " -- Nghĩ vậy, Ryohei chạy nhanh đến bên cạnh chiếc xe goòng.
- Hai chú, cho tui đẩy với!
Một trong hai người phu, mặc áo rằn, vẫn cúi gầm người đẩy xe, trả lời dễ dãi đúng như Ryohei đã đoán:
- Ờ, mầy đẩy đi.
Ryohei liền chen vào giữa hai người phu, ra sức đẩy.
- Mầy nhỏ mà mạnh quá hả!
Người phu khác -- bên mép tai có vắt điếu thuốc quấn tay, khen Ryohei.
Được một lúc, đường rầy bớt dốc, xe đẩy nhẹ hẳn. Ryohei thấp thỏm lo sẽ bị người phu bảo "Thôi khỏi cần đẩy nữa". Song, hai người phu trẻ chẳng ai nói rằng, thẳng lưng lên tiếp tục đẩy. Ryohei không nhịn nổi, lo lắng hỏi:
- Đẩy được đến bao lâu nữa?
- Bao lâu cũng được.
Hai người phu trẻ cùng trả lời một lượt. Ryohei nghĩ trong bụng: "Hai người này hiền thật!".
Đẩy thêm năm, sáu trăm thước thì con đường rầy lại lên dốc gấp. Chỗ này hai bên toàn là vườn trồng quít, bao nhiêu là quít vàng ửng đang hứng nắng.
"Đẩy xe lên dốc thì hay hơn, người ta cho mình đẩy hoài mà" -- Ryohei miên man nghĩ và hết sức đẩy chiếc xe goòng.
Qua giữa vườn quít, đường rầy bỗng xuống dốc, người phu mặc áo rằn giục Ryohei: "Leo lên mau". Ryohei phóc lên xe. Ba người vừa đứng gọn trên xe thì chiếc xe goòng dong xuống dốc giữa mùi thơm của vườn quít. "Đẩy xe không sướng bằng đứng trên xe." -- Ryohei để mặc cho gió thổi căng chiếc áo khoác haori (4), trong đầu nghĩ về chuyện đương nhiên ấy. "Lần đi càng đẩy thì lần về càng được đứng trên xe" -- Ryohei nghĩ thêm.
Đến khoảng khu rừng có những lùm tre thì xe chạy chậm lại rồi ngừng hẳn. Như những lần trước, ba người lại xuống đẩy chiếc xe goòng nặng trịch. Rồi những lùm tre đã khuất, đây toàn là cây rừng. Dưới chân, đây đó lá rụng đầy, che lấp cả mặt con đường sắt bị sét ăn đỏ. Lên hết con dốc cao thì bên kia vực thẳm mặt biển lạnh lờ mờ hiện ra, mênh mông. Đấy cũng là lúc Ryohei thấy rõ nó đã đi quá xa.
Ba người lại lên xe. Chiếc xe goòng chạy dưới những tàn cây trong khu rừng, dọc theo biển trải ra phía bên phải. Nhưng Ryohei giờ đây hết thấy thích thú. Nó miên man nghĩ: "Thôi, về thì hơn". Dĩ nhiên Ryohei cũng biết, phải đến nơi định tới thì xe và người mới có thể quành về.
Chiếc xe dừng lại lần thứ hai nơi quán nước có mái lợp bằng rạ, trước vách núi mới xẻ. Hai người phu vào trong quán, thong thả ngồi uống trà với bà hàng quán. Bà đang cõng một đứa nhỏ chưa bỏ bú. Còn lại một mình, Ryohei bực dọc, loay hoay xoay quanh ngắm chiếc xe. Chiếc xe goòng với thân thùng chắc nịch, bùn bắn đầy, khô quánh.

Một lúc sau, hai người phu xe từ trong quán ra. Người phu có điếu thuốc vắt mép tai (lúc này không còn thấy điếu thuốc đâu nữa) đến chỗ Ryohei đang đứng đợi bên cạnh chiếc xe goòng, đưa cho Ryohei một cái bánh gói trong giấy báo. Ryohei lạnh nhạt: "Cảm ơn", nhưng sau đó hắn nghĩ lại, nói như vậy nghe không được lễ phép, Ryohei bèn bóc bánh ra ăn một miếng. Cái bánh ẩm giấy báo, hôi mùi dầu
Ba người lại tiếp tục đẩy xe, leo con dốc thoải. Ryohei tay đẩy nhưng lòng nghĩ chuyện khác.
Khi xuống hết con dốc phía bên kia đồi thì lại thấy một quán nước giống hệt như cái quán trước. Đợi cho hai người phu vào trong quán, Ryohei ngồi lên bục xe, chỉ tính chuyện đi về. Nắng chiếu từ phía tây sắp lịm hẳn trên những đóa hoa mơ nở trước quán. "Trời tối mất!" -- Ryohei nghĩ vậy, không thể ngồi yên, chốc chốc lấy chân đá cái bánh xe goòng, hoặc ra tay thử đẩy chiếc xe mặc dù biết một mình không thể đẩy nổi -- Ryohei làm vậy chỉ để khuây khỏa.
Hai người phu trong quán ra, đặt tay lên mấy cây đà lót đường rầy, hững hờ nói với Ryohei:
- Mầy về đi, hôm nay tụi tao ngủ lại đằng này.
- Mầy mà về muộn thì nhà mầy lo đó.
Ryohei bất giác ngẩn người ra. Trời đã bắt đầu tối, cuối năm ngoái Ryohei có theo Mẹ đến tận làng Iwamura rồi về, nhưng lần này đường xa gấp ba bốn lần năm ngoái, mà bây giờ lại phải về một mình suốt cả con đường này -- Ryohei bỗng hiểu ra mọi sự. Nó suýt bật khóc. Nhưng nó nghĩ khóc cũng chẳng ích gì, và cũng không phải là lúc để khóc. Ryohei khúm núm cúi đầu chào hai người phu, rồi nương theo con đường rầy mà chạy.

Ryohei cắm đầu chạy một lúc dọc theo đường rầy, bỗng nó cảm thấy gói bánh trong áo lấn cấn khó chịu, liền móc ra liệng bên đường. Cùng lúc ấy, nó hất bỏ luôn đôi dép itazori (5). Chân nó chỉ còn lại có mỗi một lớp tabi (6) mỏng. Lòng bàn chân bị những viên đá nhỏ đâm thẳng vào đau, nhưng nó thấy hai chân nhẹ hẳn ra. Rồi nó cảm được biển nằm phía bên tay trái, nhưng cứ một mực chạy vút nhanh lên con dốc cao. Chốc chốc nước mắt cứ ứa lên làm nó phải nhăn mặt -- Ryohei cố nhịn khóc, nhưng cứ phải hít mũi sụt sịt.
Chạy qua khỏi khu rừng tre, thì ráng chiều ửng trên nền trời bên triền núi Higane sắp tắt hẳn. Ryohei càng quýnh lên. Quang cảnh lúc về bây giờ trông khác hẳn lúc đi, càng làm cho nó lo. Ryohei thấy khó chịu với cả chiếc áo khoác ngoài đã ướt đẫm mồ hôi. Để cố chạy cho nhanh, nó cởi vất luôn chiếc áo khoác bên đường.
Chạy đến vườn quít thì xung quanh trời càng tối. "Chỉ cần còn sống..." dù có bị trợt, bị vấp, Ryohei cũng không màng, chỉ một mực cắm đầu chạy.
Khi Ryohei thấy cái bãi xe goòng ngoài bìa làng hiện ra ở đằng xa trong bóng tối, thì nó muốn khóc òa lên. Mặt thì như dở khóc, nhưng nó dằn lại được, cứ cắm cổ chạy.
Vào đến trong làng thì hai bên đường mọi nhà đã lên đèn. Trong ánh sáng lù mù, Ryohei thấy rõ hơi mồ hôi trên đầu nó bốc khói. Mấy người đàn bà đang đứng bên giếng múc nước, mấy người đàn ông đi làm vườn về, ai thấy Ryohei hồng hộc chạy, đều cất tiếng hỏi "Có chuyện gì vậy mầy?" Nhưng nó vẫn nín thinh, một mực cắm đầu chạy, băng qua nào tiệm bán tạp hóa, tiệm hớt tóc rồi những căn nhà có đèn sáng.
Khi chạy lọt vào trong cổng nhà thì Ryohei không còn nhịn được nữa, nó òa lên khóc tức tưởi. Nghe tiếng khóc của Ryohei, bố mẹ nó xúm lại. Nhất là mẹ nó, bà ôm chặt lấy nó vào lòng, nói dỗ dành gì đó. Nhưng, Ryohei tay chân cứ vùng vẫy, khóc rống lên. Tiếng khóc, hét dữ dội của Ryohei kéo ba bốn bà hàng xóm tụ tập trước cái cổng tối mờ. Bố mẹ nó và cả các bà hàng xóm ai cũng cố gạn hỏi sao nó khóc. Nhưng càng bị gạn hỏi, nó càng khóc rống lên. Cứ nhớ lại quãng đường xa mới chạy về, tất cả nỗi lo sợ còn lại cho đến giây phút này, thì dù có khóc lớn đến bao nhiêu cũng không hả dạ...

Năm hai mươi sáu tuổi, Ryohei cùng vợ con lên Tokyo. Ryohei giờ này, đang cầm bút son ngồi sửa bản thảo trên lầu hai của một nhà xuất bản tạp chí. Chẳng có lý do gì cả, thế mà có lúc hắn nhớ lại hắn ở cái ngày xa xưa ấy. Chẳng có lý do gì cả? -- Ryohei mệt mỏi, rã rời, trước mặt hắn bây giờ thì ra, cũng giống như cái thủa ngày xưa ấy, vẫn con đường mòn hẹp với những lùm cây, những con dốc tranh sáng tranh tối cứ đứt đoạn, rồi lại cứ tiếp nối nhau chạy dài...

Tokyo, Hino 26- 2-2003
Dịch từ nguyên tác trong Shincho bunko của nhà xuất bản Shincho sha.

Chú Thích:
(1) - Odawara: Một thị trấn ở phía nam, cách Tokyo khoảng 80 cây số. Vào thế kỷ 16 có thành Odawara chu vi hơn 9 cây số, do Sứ quân Hojo xây. Tháng 5 năm 1590 Sứ quân Hideyoshi ở phía nam Nhật bản, trong cuộc tranh hùng thống nhất lãnh thổ, động viên 22 vạn quân, vây 5 vạn quân Hojo thủ trong thành. Đến tháng 7 thì Hojo phải ra hàng. Chiến thắng của Hideyoshi ở Odawara mở màn cho thời đại thống nhất dưới quyền cai trị của một Shogun (Tướng quân). Tiếp theo đó là thời đại Mạc phủ của Tokugawa Shogun (thế kỷ 17-19).
(2) - Atami: Một thắng cảnh có nhiều suối nước nóng, cách Tokyo khoảng 120 cây số về phía Nam. 
(3) - Hanten: Một kiểu áo khoác Haori (xem dưới) ngắn đến mông, có cấu tạo và cách may đơn giản hơn, không có giây buộc ở giữa thân áo. Hanten thường được dùng làm đồng phục cho giới phu, thợ ngày nay, hay các tổ chức trong xã hội Nhật ngày xưa, thí dụ như các tổ chữa cháy v.v...
 (4) - Haori: Aïo khoác ngắn dùng cho cả nam lẫn nữ, mặc khoác lên bên ngoài bộ áo Kimomo dài. Có rất nhiều loại, kiểu mẫu khác nhau.
(5) - Itazori: Dép cố hữu của Nhật, loại rẻ tiền, không có đế, làm bằng gỗ.
(6) - Tabi: Vớ cố hữu của Nhật có phần bao riêng ngón chân cái và phần bao chung bốn ngón chân còn lại. Như thế vớ có chỗ xẻ giữa ngón chân cái và ngón chân chỉ kẹp vào đai guốc.

.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeTue Mar 31, 2020 6:25 am

.


Nước Dòng Sông Cái
- Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)


Nguyên Tác: Ôkawa no Mizu
Người dịch: Nguyễn Nam Trân
Lời Người Dịch: Người dịch dùng nguyên tác Nhật ngữ của nhà Kadogawa, bản bỏ túi in lại năm 1989.

Akutagawa hoàn tất Nước Dòng Sông Cái vào tháng giêng năm 1912 lúc ông hãy còn là cậu sinh viên 20 tuổi. Bài được đăng trên tạp chí thi văn Kokoro no hana (Hoa Tim). Những nhà nghiên cứu thường xem Rônen (Tuổi Già, 1914) mới là tác phẩm đầu tay của ông nên ít người để ý đoản văn này (vốn có tính cách tùy bút hoặc trường ca nhiều hơn là truyện ngắn). Tuy nhiên, những ai sành Akutagawa đều nhận thấy trong mấy trang sau đây đã ngưng đọng tất cả cái tinh anh và tươi tắn nhất của tâm hồn ông, ở thời điểm mà yếu tố trữ tình và mỹ cảm của tuổi hoa niên chưa bị những hoài nghi và mệt mỏi trong cuộc sống làm cho phai nhạt.

Nước Dòng Sông Cái có nhiều chi tiết khiến người ta nghĩ nó là thiên tự truyện nhưng thật ra cái duyên dáng của đoản văn hàm chứa trong sự mơ hồ bàng bạc của những chi tiết ấy. Cái mơ hồ bàng bạc ở đây ta từng tìm được trong Tôi Đi Học của Thanh Tịnh, Phấn Thông Vàng của Xuân Diệu hay Chơi Giữa Mùa Trăng của Hàn Mặc Tử, đọc thuở thiếu thời.
Ngoài hai thi nhân ngoại quốc Grabriele d’Annunzio (Ý) de Hugo von Hofmansthal (Áo) mà Akutagawa nhắc đến tên, dịch giả Edwige de Chavanes trong lời chú dẫn cho bản dịch tiếng Pháp (L’eau du Fleuve, trong La vie d’un idiot et autres nouvelles, Unesco, Gallimard, Paris, 1987) đã nhận ra ảnh hưởng Kitahara Hakushu (1885-1942) qua một số chữ dùng, mượn từ tác phẩm Chuổi Ngày Thơ Ấu (Waga Oitachi) của nhà thơ.
Sông Cái ngầm chỉ khúc hạ lưu của Sumidagawa, con sông xiết bao gần gũi đối với người dân Tokyo, đã đưa cậu bé Niihara (về sau sẽ thành Akutagawa của chúng ta) vào một dòng sông lớn hơn, dòng văn học.

Như tiên tri về số phận mình, trong đoản văn đầu tay nầy, Akutagawa đã nói đến cảm tưởng mơ hồ trực diện Thần Chết đang nổi lềnh bềnh trên mặt nước, khi dòng sông của đời ông đang rong ruổi về miền Vĩnh Cữu "vô thủy vô chung". Khi chuyển ngữ, người dịch không khỏi xúc động liên tưởng đến những dòng sông thân yêu trong đời mỗi một chúng ta, tự thời Lý Bạch (Dao liên cố viên thủy, Vạn lý tống hành chu) tác giả hai câu thơ mà một người thầy học cũ, nhà mô phạm Trần Trọng San, đã dịch:
Thương sao dòng nước quê nhà,
Tiễn đưa muôn dặm thuyền ra xứ người.

***
 
Tôi sinh ra ở một xóm kề Ôkawabata, Vùng Bãi Sông. Ra khỏi nhà, chỉ cần len lỏi xuyên mấy con hẻm khu Yokoami (Lưới Ngang) san sát phên giậu đen điu nấp dưới những tàng lá dẻ xanh non là đã ra đến ven bờ Happongui (Trăm Cọc) để được nhìn mặt nước mênh mông. Từ hồi thơ dại cho đến khi học hết cấp hai, hầu như mỗi ngày tôi đều có dịp đứng ngắm con sông. Nào nước, nào thuyền, nào cầu, nào cồn cát, nào cuộc đời tất tả ngược xuôi của những người sinh ra và sống trên mặt nước. Cho đến bây giờ, dù bao năm đã trôi qua, tôi vẫn còn nhớ da diết cái mùi nồng chưa ngửi mà đã cảm thấy của nước sông vào những trưa giữa hè nắng gắt, khi chân tôi giẫm lên cát bỏng trong những lần đến lớp học bơi.

Cớ sao tôi yêu con Sông Cái nầy đến thế! Phải chăng vì cảm thấy trong cái hâm hẩm của làn nước ngầu bùn có gì dễ thương vô hạn. Thật tình đến tôi cũng không thể nào giải thích lý do. Chỉ biết, tự ngày xưa, mỗi lần cứ nhìn dòng nước là trong lòng tôi không khỏi dậy một nỗi trống vắng và một nguồn an ủi đến ứa nước mắt. Tôi thấy mình như hoàn toàn tách ra khỏi thế giới đang sống, tâm hồn bay vút vào một cõi đất trời đầy nhớ nhung, luyến tiếc. Nhờ có dòng sông mà mang được cái tâm tình ấy, thưởng thức được nguồn an ủi và thú cô đơn ấy, nên tôi đâm ra yêu nó hơn mọi thứ trên đời.
Làn sương xám bạc, dòng nước như vệt dầu xanh, âm hưởng còi tầu mơ hồ tựa tiếng thở dài, cánh buồm nâu hình tam giác của con thuyền chở than đá… mỗi chi tiết của phong cảnh trên sông đều khơi dậy trong tôi nỗi buồn khó nén, khiến cho chút lòng thơ dại của tôi cũng không khỏi lao xao như ngàn liễu bên bờ.
Ba năm sau nầy, tôi dành thời giờ chăm chú đọc sách trong phòng văn cất giữa một vùng lùm bụi thanh u ngoại ô khu Yamanote sang trọng nhưng vẫn không quên tìm ngắm giòng sông lớn ấy mỗi tháng hai ba lần. Màu sắc của nước sông di động lại tựa hồ đứng yên, trôi mà như lười chảy, làm tan biến những căng thẳng trong tâm trí tôi, vốn đang chịu áp lực và kích thích của bầu không khí quá tịch mịch của phòng văn và nhịp làm việc dồn dập không đương nổi. Nước dòng Sông Cái mang đến cho tôi niềm tiếc nuối buồn thương và giải thoát của kẻ đi hành hương lâu ngày mới về đến quê nhà, giúp cho cái tâm hồn xao động trong tôi tìm ra thanh thản. Cũng nhờ nó mà lần đầu tiên tôi mới sống được những tình cảm không thoáng gợn và thực sự của mình.
Biết bao lần tôi đã được nhìn những cánh hoa keo trắng toát nghiêng mình xuống dòng nước xanh, bay lả tả trước cơn gió nhẹ một ngày đầu hè. Biết bao lần tôi đã được nghe tiếng chim di se sắt lạnh tầng không ngang tầm mặt nước tối của những đêm tháng mười một trời thường làm sương giá. Những điều nghe thấy như thế đã làm tình yêu trong tôi đối với giòng sông mỗi ngày một mới. Cũng run rẩy như cánh chuồn đen sinh ra từ nước sông mùa hạ, tấm lòng niên thiếu của tôi lúc đó mở thật to để thu biết bao đổi thay mới mẻ cho đầy đôi ngươi kinh ngạc. Nhớ nhất là lúc tựa mạn thuyền thả lưới đêm, trôi theo dòng, ngắm mặt nước đen không gây mảy may tiếng động, để khi nghe tiếng thở phập phồng của Thần Chết đang lềnh bềnh giữa khoảng đêm khuya và mặt nước, mới cảm thấy một nỗi buồn bơ vơ xâm chiếm tâm hồn.
 
Mỗi lần nhìn dòng Sông Cái, tôi không thể nào quên được cái kinh thành của sóng nước mãi bên trời Ý vẫn đón buổi chiều về với tiếng hát thiên nga và hồi chuông tu viện, nơi mà giữa hàng lan can rợp bóng hồng bóng huệ được tô vẽ bằng những tia sáng xanh từ vầng trăng đang chìm dưới nước hắt lên, có những chiếc thuyền gondola đen tựa quan tài lướt đi như trong một giấc chiêm bao từ vòm cầu này sang vòm cầu nọ theo nhịp chèo lơi – tất cả làm tôi bây giờ càng chạnh lòng nhớ tới tâm tình nồng nàn tha thiết mà D’Annunzio (1)  đã để tuôn trào vì cảnh sắc của Venezia.
Những xóm ven bờ được nước dòng Sông Cái yêu dấu vỗ về đối với tôi đều khó quên và rất đỗi thân thương. Từ phía cầu Azuma xuôi về hạ lưu, nào là Komakata, Namiki, Kuramae, Daichi, cầu Yanagi hay Yakushimae ở Tada, Umebori, Yokoami, chốn nào cũng thế. Khách bộ hành qua lại các thôn xóm này đều được nghe từ giữa những bức tường trắng bằng đất nện của các kho hàng nằm hong nắng, từ giữa những ngôi nhà tối nhờ nhờ có khung cửa chấn song, hay từ giữa những lối đi rợp hàng liễu hàng keo mà lá chỉ mới nhú mầm nâu bạc, vọng vào tai âm hưởng quen thuộc của giòng nước xanh loang loáng mà con Sông Cái, sáng như tấm kính mới mài, đã mang đến cho họ cùng một lượt với mùi nước triều lành lạnh trong chuyến xuôi Nam, cuộc hành trình mà dòng sông đã quen làm từ một thuở xa xưa.
Ôi, cái tiếng nước sông thân thuộc kia, như thì thào, như van lơn, như chậc lưỡi, giòng nước màu xanh vắt ra từ ngọn cỏ, hết ngày đến đêm, gột rửa những kè đá hai bên bờ. Còn nhớ bi kịch của nàng Hanjo (2) hay chàng Narihira (3) chứ nhỉ? Tôi không ngược lên đến tận thời (khi Tôkyô còn là) giải bình nguyên Musashi, nhưng kể đã từ lâu, đã có những thầy tuồng kịch múa rối Jôruri ở Edo, gần đây là Kawatake Mokuami (4), bậc đại sư Kabuki, thường đưa tiếng chuông thiền viện Sensô (5) cũng như âm hưởng trầm buồn của nước dòng Sông Cái vào các pho tuồng nói về nhân tình thế thái của họ để làm nổi bật cái die Stimmung (6), không khí căng thẳng trong một lớp lang xảy ra án mạng. Lúc Izayoi và Seishin (7) gieo mình xuống nước, khi cu cậu Gen.nojô (8 ) mải mê nhìn người đẹp Okoyo trong bộ áo người săn chim (9) hay ngay cả khi anh chàng bán đồ đồng nát Matsugorô (10) gánh đôi quang thúng đi qua cầu Ryôgoku khi chiều hè sụp tối và bầy dơi liệng đầy, thì dòng Sông Cái, như đến tận giờ, vẫn chây lười thì thầm vỗ sóng vào cầu tàu của hàng quán cho thuê thuyền, bên ngàn lau xanh, dưới lườn những con thuyền mũi nhọn đỗ hai bên bờ.

Muốn nghe cho được âm thanh ngùi nhớ của nước sông, phải leo đò làm một chuyến sang ngang. Nếu tôi không lầm, từ phía cầu Azuma đổ xuống cầu mới Ôhashi, có tất cả năm cái bến. Trong số đó thì bến Komakata, bến Fujimi và bến Ataka, cả ba đã lần hồi biến mất, bây giờ chỉ có bến ở cầu Ichi để qua xóm Hamachô và cái nữa từ cầu Mikura sang xóm Sugachô là hãy còn lưa. So với hồi tôi còn bé tẹo, con sông cũng đã đổi dòng, những cồn cát điểm xuyết lùm lau bãi sậy như bị lấp vùi không còn hình tích. Thế nhưng hai bến cũ còn nguyên bóng dáng con đò đáy nông, vẫn ông lái đò già mỗi ngày chèo chống bao nhiêu bận đưa khách qua dòng nước xanh rờn tiệp màu cùng rặng liễu ven sông.
Lắm lúc chẳng có việc gì, tôi cũng ra bến theo đò qua sông, sung sướng để mặc sóng nước bồng bềnh đu đưa thân thể mình như trong một chiếc nôi. Đi mấy chuyến đò càng trễ bao nhiêu thì mới thưởng thức những niềm vui và nỗi buồn thấm thía bấy nhiêu. Kề bên ngoài mạn thuyền thấp chỉ có làn nước xanh lục trải dài. Ném một cái nhìn đã thấy trọn mặt sông mượt mà, đang ánh lên chút màu đồng nhạt nếu tầm mắt không vướng mỗi cái cầu mới Ôhashi mãi đằng xa. Nhà cửa hai bên bờ sông giờ ấy đã tuyền một màu tro, đèn đóm cư dân hắt vàng vọt lên những khung cửa phết giấy, thấp thoáng đôi nơi trong sương. Theo ngọn triều lên, thỉnh thoảng lại có một hai chiếc bè lớn chở hàng, buồm xám buông nửa vời, bơi ngược dòng nhưng chiếc nào chiếc nấy yên ắng lạ lùng, chả biết có người cầm lái hay không nữa. Không hiểu sao cảnh mấy lá buồm trôi trong lặng lẽ và cái mùi của ngọn triều xanh rộng đã gợi trong tôi một nỗi buồn không nói được nên lời, tương tự khi đang đọc những vần Erlebnis của Hofmannsthal (11) và cùng lúc, trong lòng tôi, một tình cảm dịu ngọt như thể đang khẽ muốn cất lên lời hát để hòa nhịp cho bằng được với tiếng nước của dòng Sông Cái đang chìm giữa đáy trời sương.
Không chỉ riêng cái âm hưởng của dòng nước mới lôi cuốn tôi đâu. Mầu sắc của nó nữa, vừa mềm mại vừa ấm áp, cái màu mà tôi nghĩ khó tìm được ở nơi nào khác.

Nước ngoài biển giống như ngọc bích, vì sâu nên đọng thành khối nặng trong khi nước trên thượng nguồn không bị ảnh hưởng triều lên triều xuống, giữ một màu xanh cánh trả nhàn nhạt, lại quá nhẹ, quá mỏng và quá sáng. Duy có nước của khúc Sông Cái, chảy giữa bình nguyên, nơi nước ngọt và nước mặn giao hòa, mới dung hợp được màu xanh lạnh lẽo và màu vàng đục ấm áp, để có vẻ thế nhân hơn, khơi được trong ta cái hoài cảm lifelike (12) một tình cảm hết sức đời thường. Nhất là khi con sông đã rong ruổi hết vùng bình nguyên Kantô nhiều đất sét nâu đỏ, bình lặng chảy về Tôkyô đô hội, cái màu nước vốn đục ngầu và nhăn nhó như một lão Do Thái già khó tính, mồm thích cằn nhằn lầu bầu, giờ đây đã có cái gì thong thả, nuột nà, dễ thương. Và tuy cùng chảy ngang một thành phố, nhưng có lẽ nhờ trao đổi thường xuyên với đại dương thần bí, nước con Sông Cái không hề đen ngòm như các kênh lạch nối những dòng sông lại với nhau. Sông Cái không hề ngủ. Tôi có cảm tưởng nó luôn luôn di động nhưng chỉ để chấm dứt cuộc hành trình ở đích đến nhất định: một miền Vĩnh Cửu "vô thủy vô chung". Dĩ nhiên vui là khi thấy dòng nước xanh như vệt dầu thơm trôi dưới những cây cầu Azuma, Umaya, Ryôgoku, ôm ấp mấy chân cầu lớn xây bằng gạch hay đá hoa cương. Có khi nó nép vào bờ, in bóng những ngọn đèn giấy màu trắng các của cửa hiệu cho mướn thuyền cũng như những chòm lá liễu nghiêng ngả khoe mặt trái bạc phấn. Có khi, tắc nghẽn vì cái đập chắn nước, nó lặng lờ lấp lánh bên dưới những chái bếp không bóng người, than thở hộ cánh phù dung đỏ một trưa quá ngọ có tiếng đàn samisen (13) rời rạc uể oải, để rồi giật mình bối rối vì tiếng đập cánh bất chợt của một chú vịt trời. Cái màu phải gọi là nằng nặng của dòng nước như thế cũng chan chứa ấm áp, hồn hậu. Cho dù khi dòng sông về đến gần cầu Ryôgoku, cầu mới Ôhashi, cầu Eitai và vùng cửa sông lúc nước của nó được hòa với cái màu xanh đậm của ngọn triều ấm hay phản chiếu ánh nắng lấp lóa của mặt trời trắng bạch tựa như tấm kim loại trải rộng dưới một tầng không ồn ào đầy bụi khói, nó vẫn tiếp tục lười biếng đong đưa đoàn thuyền khẳm lừ than đá và những con tàu kiểu cũ chạy bằng hơi nước mà lớp sơn trắng đã bong đi. Thiên nhiên với con người như chung nhịp thở, cái màu ấm áp mà dòng sông không biết thâu nhận được lúc nào khi chảy qua thành phố đâu dễ gì mất đi cho được.

Đặc biệt lúc chiều xuống, con sông bỗng đổi sắc theo lớp mù do hơi nước vựng lên và màu nắng càng ngày càng phai nhạt trên nền trời, để thành một thứ màu huyền hoặc khó tả. Mình tôi, gối hai tay lên thành đò, lơ đãng lướt nhìn mặt sông chiều nắng xế mù dâng, và khi thấy từ bên kia bờ giòng nước lục đậm, trên không trung chỗ mấy nóc nhà sẫm tối, một vầng trăng to và đỏ ló ra, thì tôi không tài gì cầm được nước mắt, điều mà có lẽ suốt đời, tôi chẳng thể nào quên.
Theo Meljukovski (14), "Mỗi thành phố đều có cái mùi cố hữu của nó. Mùi của Florence là hương huệ trắng, mùi bụi bặm, sương mù và mùi véc-ni những khung tranh cổ quyện vào nhau". Nếu ai hỏi tôi về cái mùi của Tôkyô, tôi sẽ xin phép trả lời ngay đó là cái mùi của dòng Sông Cái. Không riêng gì cái mùi! Màu sắc của dòng sông, âm hưởng của dòng sông chính là mầu sắc và tiếng động của Tôkyô mà tôi yêu dấu. Nhờ có dòng sông, tôi mới biết yêu Tôkyô, và nhờ có Tôkyô, tôi mới biết yêu đời.
(tháng giêng năm 1912)

Tái bút: Dạo sau này, tôi nghe nói bến đò ngang cầu Ichi đã mất đi rồi, bến đò cầu Mikura cũng sắp sửa bị dẹp.
 
Chú thích:

(1) - G. D’Annunzio (1863-1938) thi nhân ngưới Ý thuộc trường phái duy mỹ (aestheticism).
(2) - Hanjo, tên một ca kỹ, nhân vật trong tuồng Nô của tác giả nổi tiếng Zeami (1363?-1443?), bị người yêu phụ bạc mà phát cuồng.
(3) - Ariwara No Narihira (825-880), vương tử và thi nhân có tiếng đẹp trai, bị đầy về miền Đông (Tôkyô ) vì dan díu với Hoàng Hậu. Sự tích được đem vào các vở tuồng Nô, Kabuki và Jôruri.
(4) - Kawatake Mokuami (1816-1898), nhà soạn tuồng Kabuki có tiếng.
(5) - Sensôji (Thiển Thảo Tự) , chùa thuộc phái Tendai (Thiên Thai Tông) ở xóm bình dân Asakusa, gần sông Sumida.
(6) - Không khí (tiếng Đức trong nguyên văn)
(7) - Nhân vật tuồng Kabuki của Kawatake Mokuami, ca kỹ Izayoi tự trầm trên giòng Sumida với người yêu, nhà sư Seishin.
(8 ) - Gen.nojô là vũ sĩ hầu cận Shôgun yêu nàng con gái hát dạo Okoyo nhưng duyên không thành vì vấn đề giai cấp.
(9) - Torioisugata, quần áo giả trang của người hát dạo.
(10) - Matsugorô cũng là nhân vật tuồng Kabuki của Kawatake Mokuami, hận đời vì sống nghèo túng, vứt đồ nghề xuống sông Sumida, đi làm giặc cướp, sau tự tử.
(11) - Hugo von Hofmannsthal (1874-1920) thi sĩ trữ tình người Áo, đã viết Erbelnis năm 1892, lúc 18 tuổi.
(12) - Lifelike, sống động (tiếng Anh trong nguyên văn)
(13) - Đàn ba giây truyền từ Okinawa, dụng cụ âm nhạc bình dân.
(14) - Có thể là phiên âm Nhật ngữ của Dimitrii Merezhkoskii (1865-1941), tiểu thuyết gia Nga trường phái ấn tượng, sau lưu vong ở Pháp.

Dịch xong ngày 17/06/2003
Nguyễn Nam Trân
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeThu Apr 09, 2020 11:30 am

.


Trích sổ tay của Yasukichi
- Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)


Yasukichi no techo kara
Nguyễn Nam Trân dịch


Lời người dịch:
Trong bức thư gửi cho một người bạn vào khoảng đầu năm 1919, Akutagawa đã có ý định đi tìm tự do trong diễn tả nghĩa là chọn một lối viết mới, khác với loại văn kể truyện mà ông thường sử dụng cho đến thời điểm đó. Ông không còn đóng khung tác phẩm trong bối cảnh thời trung cổ mà hướng về cuộc sống thường nhật chung quanh mình. Bắt đầu với “Mấy Trái Quít” (1923) (xin xem bản dịch từ nguyên tác Mikan của Đinh Văn Phước), ông đã bước hẳn qua một thể loại khác bằng cách sử dụng những đoạn trích từ cuốn sổ tay của một nhân vật mang tên Yasukichi mà thân thế và phong cách vốn có nhiều điểm tương đồng với bản thân tác giả.

Đây là một chuyển biến quan trọng trong đời viết văn của ông. Có thể nói ông đã bước qua thể loại tiểu thuyết tự thuật (shi-shôsetsu) nhưng đặt mình ở ngôi thứ ba thay vì ngôi thứ nhất. Từ đấy, ông khai thác thủ pháp này và đã thành công với hai tác phẩm “Sổ Điểm Danh Những Người Đã Khuất” (Tenkibo, Lê Ngọc Thảo dịch) và “Ảo Ảnh Cuộc Đời” (Shinkiro, Phạm Vũ Thịnh dịch).
Nhân vật Horikawa Yasukichi, giáo sư Anh Văn trường Hải Quân chỉ có thể là Akutagawa vì vừa thông minh lại có cái nhìn lạnh lùng, trào lộng giống hệt ông. Tất cả những đặc tính cao ngạo đó phải chăng chỉ là lớp vỏ ngoài dùng để che dấu nỗi tuyệt vọng sâu sắc bên trong con người trí thức hoài nghi?
Bản dịch gồm năm tiểu phẩm mang nhan đề sau đây: Gâu, Hai Người Âu, Giờ Nghỉ Trưa, Nỗi Thẹn Thùng, Chú Gác Dan Dũng Cảm.

Nguyên tác in trong loại sách bỏ túi của nhà xuất bản Kadogawa, bản năm 1969. Độc giả tiếng Pháp có thể tham khảo bản dịch của Edwige de Chavanes “Extraits du Carnet de Notes de Yasukichi” (in La vie d’un idiot et autres nouvelles, Unesco, Gallimard, 1987).
Ngoài ra, “chùm truyện về Yasukichi”(Yasukichi-mono) trong đó nhân vật Yasukichi đóng vai chính, còn có những tác phẩm khác như Cúi chào (Ojigi) và Bà à à à (Obaaaa), Cuốn tiểu thuyết ái tình (Ren-ai shosetsu) vv… không thuộc “Trích đoạn từ sổ tay của Yasukichi”.

Gâu!
Wan


Một chiều mùa đông, trên tầng hai của cái tiệm ăn cáu xỉn, Yasukichi ngồi nhai miếng bánh mì nướng hoi mùi dầu. Đằng trước bàn của anh ta là một bức tường trắng đầy vết nứt. Ai đó đã dán lên trên tường mảnh giấy hình chữ nhật với dòng chữ “Đây có xăng-uýt nóng (hot)”(một người đồng nghiệp của Yasukichi vốn thực thà nên không hiểu ý nghĩa câu đó khi đọc trại chữ Hot thành Hotto theo âm Nhật thành ra “Xăng uýt nóng hú hồn!”) .Từ chỗ đó về phía trái có cầu thang đi xuống tầng dưới, còn bên tay mặt là một cánh cửa sổ bằng kính. Yasukichi vừa gặm bánh mì nướng, lâu lâu đưa mắt nhìn lơ đãng về phía cửa sổ. Ngoài đó, phía bên kia đường là một cửa hàng bán quần áo cũ, mái lợp tôn, treo lòng thòng mấy bộ đồ xanh công nhân và vài tấm áo khoác màu ka-ki.

Theo nguyên tắc, lớp đêm dạy tiếng Anh nầy bắt đầu từ sáu giờ rưỡi chiều ở trường [1]. Yakukichi bắt buộc phải có mặt mà khổ nỗi, anh ta lại sống ngoài thành phố nên sau khi dạy xong lớp ban ngày, không có cách nào hơn là phải ngồi chịu trận ở đây cho đến sáu rưỡi. Chắc là thơ của Toki Aika [2] chứ không ai khác - nếu nhớ lộn thì đừng có chấp nghe - có câu:
Mỏi răng nhai cơm dọc đường,
Bíp-tếch như cứt. Anh thương nhớ mình.
Cứ mỗi lần đến quán là mỗi lần bài tanka của Aika lại hiện ra trong đầu. Ngay từ cái thuở anh ta hãy còn chưa cưới cô vợ [3] rất đổi yêu thương bây giờ. Thế nhưng, hễ ngồi nhai miếng bánh mì nướng hoi dầu, ngắm cái tiệm bán quần áo cũ, nhìn mảnh giấy quảng cáo “xăng-uýt nóng (hot) ” thì cái câu “anh thương nhớ mình” không biết từ đâu bỗng trào dâng lên đầu môi.

Lúc nầy Yasukichi chợt để ý sau lưng anh ta có hai sĩ quan hải quân trẻ tuổi đang ngồi uống bia. Một trong hai người là chủ sự phòng lương bổng ngôi trường anh dạy và anh có nhớ mặt. Vốn không hay giao thiệp với bọn lính tráng, anh ta không biết tên viên sĩ quan là gì. Kể cả những chi tiết khác về người ấy. Có thể người ấy mang lon thiếu úy hay trung úy gì đó. Yasukichi chỉ biết mỗi một điều là hằng tháng khi đi lãnh lương thì tiền bạc phải đến từ tay sĩ quan nầy mà thôi. Còn nhân vật thứ hai thì anh mù tịt. Mỗi lần hai người sĩ quan muốn kêu thêm bia thì chỉ dùng “Ê” với “Nè” để sai khiến. Cô hầu bàn lại không có vẻ gì bực bội mà còn cố gắng leo lên leo xuống cầu thang, hai tay mang mấy cốc bia đến. Chẳng bù lúc Yasukichi gọi một tách trà đỏ, khó lòng thấy cô sốt sắng phục vụ như thế. Chuyện nầy xảy ra không chỉ riêng nơi đây. Đi đến các quán cà phê và tiệm ăn khác trong thành phố nầy, chỗ nào cũng xử sự giống nhau.
Hai người sĩ quan vừa nốc bia vừa bàn tán cái gì mà có vẽ hoạt náo. Yasukichi không hơi đâu lắng tai xem họ kháo nhau điều chi. Nhưng anh bỗng giật nẫy khi nghe “Gâu cái coi!”. Yasukichi không thích chó và là người từng thích thú khi nghĩ thầm trong số những nhà văn không thích chó có cả Goethe lẫn Strindberg. Cho nên khi lỗ tai bắt được câu nói đó, anh ta nghĩ ngay đến một con chó tây to cao mà người ta có thể nuôi ở những chỗ như thế nầy. Cùng một lúc Yasukichi có cảm tưởng ơn ớn như thể con chó đó đang lởn vởn sau lưng mình.
Yasukichi lén nhìn phía đằng sau. Mừng quá trời ạ, chẳng có bóng con vật nào giống như chó cả. Chỉ thấy viên sĩ quan phòng lương bổng đang nhìn ra ngoài cửa sổ, nhe răng cười. Yasukichi phỏng đoán phải có con cho nào ở dưới cửa sổ nhưng anh cảm thấy có điều gì hơi khác thường. Thế rồi, anh thấy người sĩ quan phát lương ấy tiếp tục:
- Ê, gâu cái coi! gâu đi nào!”
Yasukichi hơi rướn người nhoài ra nhìn xuống phía dưới cửa sổ. Đèn quảng cáo cho Masamune gì gì[4] vẫn chưa bật, treo ở một cửa hiệu nào đó là cái đập vào mắt anh ta trước nhất, rồi đến tấm bạt che nắng được cuộn lên với mấy miếng da làm quai guốc ai phơi và bỏ quên trên mấy phuy bia cũ nay dùng hứng nước mưa.Sau đó là dăm vũng nước còn đọng trên phố người qua lại. Rồi gì nữa nhỉ, mà dẫu là gì cũng chẳng thấy bóng chó chiếc nào đâu. Thay vào đó là một đứa trẻ ăn mày tuổi độ mười hai, mười ba. Nó vừa đứng với dáng co ro trong cái lạnh, vừa ngước mắt nhìn cánh cửa sổ trên lầu.
- Ê, gâu cái coi! gâu đi nào!
Sĩ quan phát lương lập đi lập lại như thế.Câu nói đó xem ra có mãnh lực điều khiển được tâm trí đứa bé ăn mày. Nó hầu như đang ở trong trạng thái mộng du, bước một hai bước về hướng cánh cửa sổ, mắt thì dĩ nhiên là vẫn nhìn lên. Lúc đó Yasukichi mới khám phá ra cái trò chơi ác độc của người sĩ quan phát lương xấu xa kia. Chơi ác? Hay có thể không phải như thế? Nếu không phải một trò chơi ác thì có lẽ là một cuộc thí nghiệm để xem con người ta khi bụng lép có thể nào vứt bỏ cả lòng tự trọng hay không đây thôi.Theo chỗ suy nghĩ của Yasukichi, giữa thời này có ai hơi đâu còn đi thí nghiệm để kiểm chứng điều đó. Xưa Esau [5] nhượng đứt quyền trưởng nam để đổi lấy miếng thịt rô-ti và nay Yasukichi cũng vì mẫu bánh mì mà đi làm nghề giáo. Xem hai ví dụ đó đã đủ vỡ lẽ. Thế nhưng coi bộ nhà nghiên cứu tâm lý học kia vẫn chưa chịu thỏa mãn dù có từng ấy bằng chứng. Nếu thế thì đúng phóc cái câu hôm nay Yasukichi vừa dạy cho học trò: De gustibus non est disputandum [6]. Mỗi người một thích, cấm sao cho được. Muốn thí nghiệm à? Cứ việc! Yasukichi vừa suy nghĩ như thế, vừa mãi nhìn đứa bé ăn mày dưới cửa sổ.

Sĩ quan phát lương im đi trong giây lát. Thằng bé bỗng đâm ra lo lắng, bắt đầu đảo mắt nhìn trước nhìn sau suốt con đường. Tuy việc bắt chước tiếng chó sủa không có gì khác thường nhưng hẳn là nó ngại người qua kẻ lại bắt gặp. Trong khi mắt nó còn đảo quanh thì sĩ quan phát lương thò cái bộ mặt đỏ gay ra ngoài cửa sổ, lần nầy tay lại phất phất một vật gì:
- Ê, gâu cái coi! mầy gâu thì tao cho cái nầy!
Trong khoảnh khắc, gương mặt của đứa bé ăn mày chợt bừng lên một vẻ thèm thuồng. Đôi khi Yasukichi cũng để tâm đến kiếp sống của những người ăn mày với những tình cảm đượm màu lãng mạn nhưng chưa bao giờ anh ta tỏ ra đồng tình hay thương hại họ. Anh nghĩ nếu có kẻ nào mang thứ tình cảm như thế thì chắc chỉ là bọn ương gàn hay giả dối mà thôi. Nhưng nay đứng trước đứa bé ăn mày với cái đầu ngửa ra sau ngẩng lên nhìn với cặp mắt long lanh, Yasukichi không ngăn được một thoáng thương cảm. Nhưng sự thương cảm đó không vượt qua giới hạn của «một thoáng». Có lẽ không hẳn là lòng thương cảm mà chỉ là sự yêu thích cái hình ảnh đứa bé ăn mày với những nét đẹp từng thấy trong tranh của Rembrandt [7].
- Gâu chứ hả? Ê, gâu đi nào!
Đứa bé ăn mày hơi nhăn mặt:
- Gâu!
Tiếng nó lí nhí không rõ.
- To hơn chút coi!
- Gâu! gâu!
Rốt cục đứa bé sủa hai lần liền. Vừa lúc đó thì một quả cam Navel [8] được ném ra ngoài cửa sổ. Còn việc gì xãy ra sau chắc không cần phải viết thêm. Đứa bé ăn mày dĩ nhiên phóng theo quả cam còn sĩ quan phát lương thì cười hả hê.

Một tuần sau khi câu chuyện xảy ra, Yasukichi lại đi đến phòng lương bổng để lãnh tiền. Hôm ấy, người sĩ quan phát lương nói trên coi bộ bận rộn, hết mở quyển sổ nầy đến quyển sách kia. Viên sĩ quan đó dòm mặt Yasukichi và chỉ nói cộc lốc «Lương hả?». Anh ta cũng đáp lại vỏn vẹn «Vâng, đúng!». Thế nhưng viên sĩ quan lại quá bận rộn hay sao mà không có vẻ muốn đem lương phát cho anh. Chẳng những thế, người ấy rốt cục còn đứng chắn trước mặt, chìa cái mông trong lớp quân phục về phía anh và mãi miết sử dụng bàn toán.
- Thầy kế toán! Sau khi đứng chờ một đỗi lâu, Yakukichi gọi viên sĩ quan như kêu nài. Người ấy nhìn ngoái qua vai, như muốn nói «Sắp xong rồi!». Thế nhưng Yasukichi không để câu nói của viên sĩ quan phát ra thành tiếng, anh ta bắt tiếp ngay vào một câu mà mình đã sửa soạn sẵn:
- Thầy kế toán! Tôi có cần phải gâu không? Hở, thầy kế toán!
Nếu ta tin lời của Yasukichi kể lại thì lúc nói câu đó, giọng của anh ta nghe còn ngọt ngào dễ thương hơn cả tiếng của thiên sứ nữa.

---------------
[1] Akutagawa dạy học ở trường Hải Quân Yokosuka phía nam Tokyo từ năm 1915 đến 1919. Gia đình vẫn cư trú ở Kamakura và có thời ông phải ở trọ ở chỗ đi dạy.
[2] Toki Aika (Thổ Kỳ, Ai Quả) tên thật Toki Zenmaro (Thổ Kỳ, Thiện Lữ, 1885-1980), tốt nghiệp khoa Anh văn đại học Waseda, sau viết báo, làm thơ tanka khuynh hướng hiện thực và viết tùy bút. Thiện nghệ về lối thơ cắt 31 âm thành ba hàng.
[3] Người vợ nhà mà Akutagawa liên tưởng đến khi đọc thơ Aika tên là Tsukamoto Fumiko, cưới nhau năm 1918, lúc ông 26 tuổi và bà 18.
[4] Tên một hiệu rượu sake vốn có nhiều loại cùng tên, ví dụ Kiku Masamune, Sakura Masamune...
[5] Theo Cựu Ước trong Kinh Thánh, Esau, con trai Isaac đã bị em sinh đôi là Jacob dùng mưu đoạt mất quyền trưởng nam
[6] Tiếng La Tinh có nghĩa là «Người ta không thể bàn cải về sở thích của nhau» (vì nói đến sở thích là nói đến chủ quan).
[7] Rembrandt Harmenszoon van Kijin (1606-1669), họa gia Hòa Lan, cùng với P. Rubens và D. Velazquez tiêu biểu cho hội họa phương Tây thế kỷ 17. Bậc thầy về tranh chân dung cũng như cách sử dụng ánh sáng, đối chọi sáng tối và bố màu.
[8 ] Loại cam to, ngọt và đẹp, đáy quả hình cái rốn lồi.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeSat Apr 11, 2020 7:26 pm

.

Trích sổ tay của Yasukichi
- Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)


Yasukichi no techo kara
Nguyễn Nam Trân dịch



Hai Người Âu
Seiyôjin


Trường này có mướn hai ông giáo người Âu đến để dạy đàm thoại và tác văn bằng tiếng Anh. Ông người Anh tên Townsend, ông người Mỹ tên Starlet.
Ông Townsend giỏi tiếng Nhật là một ông già đầu hói, tính nết dễ thương. Nói chung, mấy ông giáo người Âu có thói quen là đem cho bằng được Shakespeare với Goethe của họ ra để thao thao bất tuyệt dù khi đề tài câu chuyện chỉ là những thứ tầm phào. May thay, ông Townsend nầy là người không dám tự phụ chút nào về hiểu biết của mình đối với văn chương. Có lần bàn luận với nhau về Wordsworth [9] thì ông ta phát biểu:
“Tôi chả hiểu tí gì về thơ. Còn tự hỏi thơ Wordsworth hay ở đâu mới được chứ!”
Yasukichi cư ngụ cùng một tỉnh nghĩ mát ven biển như ông Townsend nên mỗi ngày hai lần họ lấy chung chuyến xe lửa để đi và về. Đáp xe lửa đến trường mất chừng ba mươi phút, hai người có thời giờ phì phèo ống vố Glasgow và trao đổi với nhau hết chuyện thuốc lá, chuyện nhà trường đến chuyện ma quỉ. Bởi vì ông giáo Townsend là một người tin về tâm linh, không hứng thú gì đối với nhân vật Hamlet nhưng ông lại quan tâm đến hồn ma của bố Hamlet cơ. Tuy vậy, hể đụng tới vấn đề bùa phép hay thuật luyện đá thành vàng, những khoa học thần bí[10], thì dường như lúc nào nét mặt ông cũng ủ dột, đầu và ống vố cùng lắc đi lắc lại. Ông bảo:
“Những cánh cửa của cõi thần bí cũng không phải khó mở như người thường vẫn nghĩ đâu. Ngược lại, điều đáng sợ là không tài nào khép nó lại được. Mấy thứ đó chớ có rớ vào!”

Ông giáo Starlet người Mỹ kia trẻ hơn nhiều và lúc nào cũng đỏm đáng. Chẳng hạn mùa đông thì ông mặc áo khoác ngoài màu xanh ô-liu đậm và choàng khăn quàng cổ màu đỏ đi làm. Khác với ông Townsend, hình như ông nầy đôi khi còn chịu nhòm qua mấy quyển sách mới ra. Gần đây, ông đã diễn giảng về đề tài “Những nhà viết tiểu thuyết mới nhất ở Mỹ” ở học hội về Anh ngữ của nhà trường. Khổ cái là trong bài giảng ấy, ông cho biết những cây viết tiểu thuyết lớn nhất của Mỹ bây giờ là Robert Louis Stevenson [11] và O’Henry [12]!
Ông Starlet không ở cùng thành phố nghĩ mát với Yasukichi nhưng vì cũng sống ở một thị trấn ven đường tàu nên đôi khi họ có dịp lấy chung một chuyến. Yasukichi chẳng còn nhớ đề tài những mẩu đối thoại của mình với ông ta, trừ một dịp, lúc họ cùng ngồi trước lò sưởi trong phòng đợi để chờ tàu. Yasukichi đang nén một cái ngáp vừa than thở kiếp nhà giáo nhàm chán. Thì lúc đó, ông Starlet với cặp kính không gọng gắn trên sống mũi và dáng dấp điển trai, bỗng đổi sắc mặt mà bảo:
- Dạy học không phải là một cái nghề. Tôi nghĩ đó là thiên chức. Ông không thấy Socrates và Platon là hai nhà giáo vĩ đại hay sao?[13].
Khẳng định Robert Luis Stevenson là dân Mỹ [14], chẳng hề chi. Thế nhưng bảo Socrates và Platon là những nhà giáo thì... kể từ ngày đó, Yasukichi chỉ còn biết dành cho ông Starlet nầy một tình bạn giới hạn trong vòng xã giao.


Giờ Nghỉ Trưa - Một Cơn Mộng Huyễn
Hiruyasumi – Aru Kuusô


Yasukichi ra khỏi phòng ăn ở lầu hai. Các nhà giáo dân sự ăn trưa xong thường qua phòng bên dành cho người hút thuốc. Hôm nay Yasukichi không qua đó mà bước xuống mấy bậc thang để ra ngoài vườn. Vừa vặn, một hạ sĩ quan nhanh nhẹn nhảy ba bậc một tiến lên. Vừa nhìn mặt Yasukichi, chàng ta đột nhiên đưa tay chào nghiêm chỉnh lối nhà binh và tiếp tục phóng về phía trước. Yasukichi nhẹ nhàng chào trả nhưng cái chào của anh hụt mất đối tượng, rơi vào chỗ không người. Anh tiếp tục lửng thững bước xuống thang.

Trong vườn, giữa lùm tuyết tùng và thủy tùng, một cây ngọc lan đang ra hoa. Vì cớ gì không biết, dù đã nở đầy cành nhưng hoa của loại ngọc lan nầy không hướng về phía nam đầy nắng. Hoa tân di cũng cùng họ mộc lan như nó lại hướng về phía nam. Yasukichi châm lửa vào điếu thuốc lá và thầm khen cây ngọc lan cũng có cá tính. Một con chim chìa vôi từ trời cao liệng xuống như hòn đá rơi. Chìa vôi là loại chim chẳng xa lạ gì với Yasukichi. Con chim ngoáy ngoáy cái đuôi nhỏ như thể mời mọc Yasukichi đi theo mình.
- Tới đây, tới đây. Không phải đằng đó đâu! Đây, đây mà!
Yasukichi rảo bước trên lối mòn rải sạn theo sự hướng dẫn của con chim. Không hiểu sao, tự dưng con chìa vôi lại bay vút lên trên nền trời. Thay vào đó, một chú lính thợ máy người to cao đang men theo còn đường nhỏ lừng lửng tiến về phía Yasukichi. Anh nghĩ mình có lần gặp chú lính thợ máy nầy ở đâu rồi. Dĩ nhiên sau khi chào Yasukichi đúng phép tắc, chú ta đi lướt nhanh qua. Yasukichi vừa hút thuốc vừa tiếp tục suy nghĩ xem người lính đó là ai. Hai, ba, năm... rồi mười bước sau, Yakukichi bỗng thấy trong đầu loé ra tia sáng. Người lính đó là Paul Gauguin [15] chớ ai! Hay Gauguin đầu thai trở lại.Chắc hiện nay anh chàng sắp sửa buông cái xẻng để cầm cây cọ vẽ. Và rốt cục sẽ có một thằng bạn điên khùng cầm súng lục nhả đạn vào lưng anh ta. Tội nghiệp thật nhưng làm gì khác được. Hết lối mòn nầy đến lối mòn khác, cuối cùng Yasukichi đã đi đến quảng trường trước cổng ra vào. Nơi đây, giữa đám cây tùng và mấy bụi trúc, có trưng bày hai khẩu đại bác chiến lợi phẩm. Yasukichi áp tai lên một thân pháo, anh ta có cảm tưởng nghe tiếng thở của khẩu súng từ bên trong. Đại bác chắc cũng biết ngáp hay sao ấy. Yasukichi lại ngồi xuống dưới chân pháo, rồi châm lửa điếu thuốc lá thứ hai. Trên đường vòng rải sạn để cho xe chạy quanh, ánh lên màu xanh một con tắc kè. Con người nếu bị chặt chân thì không thể mọc ra chân khác nhưng giống tắc kè nếu có bị chặt đuôi thì lại mọc đuôi khác Ngay. Ngậm điếu thuốc bên mép, Yasukichi nghĩ rằng bọn tắc kè còn tin tưởng về tiến hóa luận của Lamarck hơn chính cả Lamarck [16] nữa. Thế nhưng ngắm một hồi thì mới thấy con tắc kè kia đã biến thành một vệt dầu nhớt lan ra trên mặt sỏi.

Rốt cục,Yasukichi cũng đứng dậy. Men theo dãy nhà sơn xanh dùng làm phòng học, Yasukichi đi trở lại bên kia khu vườn một lần nữa, ra đến sân vận động trước mặt biển. Trên mấy cái sân ten-nít đất nện màu đỏ, một vài thầy giáo nhà binh đang hăng hái so tài cao thấp. Trong khoảng không trung trên sân chơi, có những tiếng động khô và đều đặn giao nhau với những vệt trắng mờ lướt qua bên mặt và bên trái tấm lưới. Nhưng đó không phải là những đường bóng đang bay mà chỉ là bọt của những chai rượu sâm banh vô hình người ta vừa mở nút, một thứ sâm banh mà các vị thần mặc sơ mi trắng kia đang nhấp ngon lành. Vừa suýt soa ngưỡng mộ các vị thần, lần nầy Yasukichi lại đi vòng về phía cái sân bên trong dãy phòng học.
Cái sân nầy đầy hồng nhưng chưa có cây nào đơm hoa. Khi Yasukichi đang tản bộ anh bỗng để ý có một con sâu đầy lông trên cành hồng mọc chìa ra phía lối đi. Chưa chi đã thấy một con sâu khác đang bò trên chiếc lá bên cạnh. Hai con sâu gật đầu chào nhau rồi nói chuyện gì như có liên quan tới Yasukichi. Anh quyết định đứng lại để nghe điều chúng đang bàn với nhau [17].
Con Sâu Số Một: Cái anh thầy giáo nầy bao giờ hóa bướm ấy nhỉ? Từ đời ông cố ông xơ chúng mình tới giờ, lúc nào cũng cứ phải bò quanh trên mặt đất.
Con Sâu Thứ Hai: Giống người có khi không hóa bướm được đâu!
Con Sâu Số Một : Hình như hóa được đấy chứ. Coi, chẳng có người đang bay trên kia là gì?
Con Sâu Thứ Hai: Ừ nhỉ. Đang bay thật. Thế nhưng bay kiểu gì mà xấu thế. Cái anh con người nầy chẳng có ý thức thẩm mỹ chút nào!
Yasukichi đưa bàn tay ngang trán, đưa mắt nhìn chiếc phi cơ đang bay ngang đầu mình.

Chính lúc ấy ác quỉ mới lợi dụng thời cơ đội lốt một người bạn đồng liêu, bước về phía Yasukichi. Hắn ta đang có vẽ khoái trá về một việc gì. Con quỉ nầy ngày xưa chuyên môn dạy thuật luyện kim, nay phụ trách môn Hóa Học Ứng Dụng ở nhà trường. Hắn bắt chuyện với Yasukichi:
- Ê, tối nay đi chơi nghen?
Trong nụ cười của ác quỉ, Yasukichi có cảm tưởng đọc được rành rành hai vế sau đây của Faust [18]: “Mọi lý luận chỉ tuyền mầu tro xám. Duy cây đời sinh quả vàng là mãi mãi tươi xanh”. Sau khi bỏ con ác quỉ ở lại, Yasukichi bước vào bên trong dãy nhà. Phòng học vắng hoe. Đi ngang qua ghé mắt nhìn vào chỉ thấy trên bảng đen trong một lớp có một hình vẽ hình học ai để quên chưa xóa. Khi cái hình trên bảng đen biết có người nhòm nó, nó có vẻ sợ rằng người ta sẽ lấy giẻ chùi đi nên mới duỗi ra duỗi vào và ngõ lời với Yasukichi:
- Người ta còn cần tôi cho giờ học tới!
Yasukichi lại leo lên bậc thang vừa đi xuống khi nãy, bước vào gian phòng dành cho các giáo sư dạy ngôn ngữ và toán học.Trong phòng, ngoài ông Townsend với cái đầu sói, không có ma nào.Thế nhưng ông nầy có vẽ như đang buồn không biết làm gì nên mồm vừa huýt sáo vừa đi vài bước khiêu vũ một mình. Yasukichi rán nhịn cười, đi về phía phòng vệ sinh để rửa tay. Lúc đó, bất chợt nhìn vào trong kính, Yasukichi ngạc nhiên thấy không biết tự hồi nào ông Townsend đã biến thành một cậu trai trẻ đẹp, còn chính mình thì đã thành ông lão lưng còng với mái tóc bạc trắng như tuyết. 


-----------------------
[9] William Wordsworth (1770-1850) thi nhân lãng mạn, yêu thiên nhiên Anh, sống ở vùng hồ (Lake District) miền trung nước Anh, nổi tiếng cùng với S. Coleridge, PB Shelley, Lord Byron vv...
[10] Occult sciences (nguyên văn viết bằng tiếng Anh).
[11] Robert Louis Stevenson (1850-1894), tiểu thuyết gia người Anh (Tô Cách Lan), tác giả Đảo Kho Tàng, Bác sĩ Jekyll và ông Hyde.
[12] O’Henry (1862-1910), nhà văn Mỹ chuyên về truyện ngắn, viết nhiều nhưng không mấy đặc sắc.
[13] Nguyên văn viết bằng tiếng Anh: You know, Socrates and Platon are two great teachers, etc…
[14] Yankees (Nguyên văn viết bằng tiếng Anh)
[15] Họa sĩ người Pháp, thuộc phái ấn tượng, Paul Gauguin (1848-1903) cuối đời sống ở Tahiti.
[16] Lamarck (1744-1829), nhà động vật học người Pháp chủ trương các giống động vật tự nó có khả năng tiến hóa khác nhau.
[17] Đoạn này tác giả mô phỏng theo ý của nhà văn Pháp Jules Renard (1864-1910)
[18] Câu nói mà ác quỉ Mephistopheles đội lốt Faust dạy cho học trò (xem Faust, quyển 1, dòng 2038-2039).
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeThu Apr 16, 2020 4:26 pm

.

Trích sổ tay của Yasukichi
- Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)


Yasukichi no techo kara
Nguyễn Nam Trân dịch


Nỗi Thẹn Thùng
Haji


Trước khi Yasukichi lên lớp, lúc nào anh ta cũng cẩn thận xem lại giáo án. Không chỉ vì lương tâm nhà nghề bắt buộc anh không được dạy láo lếu một khi đã nhận đồng lương của người. Tại một lý do nữa: trong sách giáo khoa, vì là trường chuyên môn của hải quân, đầy đặc những chữ phải hiểu theo nghĩa đặc biệt. Chẳng hạn Cat’s paw, nếu không chịu tra cứu thì có thể dịch một cách tai hại thành ra là bàn chân mèo nhưng không đúng đâu, nó chỉ là thuật ngữ để chỉ một làn gió nhẹ.

Có lần Yasukichi đem một đoạn văn ngắn nói về hàng hải dạy cho sinh viên năm thứ hai. Đoạn văn đó hết sức hắc búa. Nó tả gió hú trên cánh buồm và sóng đánh ầm vào cánh cửa bên hông tàu nhưng chẳng thấy bóng mấy chữ sóng và gió chỗ nào trên mặt giấy cả. Yasukichi bắt học trò vừa đọc vừa dịch mà chính mình lại cảm thấy chán ngán trước tiên. Những lúc như thế nầy Yasukichi thấy thèm bàn cãi với sinh viên những vấn đề khác như triết học hoặc là thời sự. Các nhà giáo thường vẫn thích dạy những môn học ngoài các môn bắt buộc có trong chương trình. Dù môn đó mang tên là đạo đức, sở thích hay nhân sinh quan... thì cũng mặc. Tóm lại, nhà giáo thường muốn dạy cái gì ông ta cảm thấy thiết thân hơn là những gì có trong sách giáo khoa hay trên mặt bảng đen. Tuy nhiên bọn học trò là thứ không muốn học thêm cái gì ngoài chương trình bắt buộc cả. Không, không phải họ chỉ không muốn học cái khác mà còn thù ghét cả chuyện đó. Yasukichi chắc chắn thế nên dù khi chán ngấy như lúc nầy, anh thấy không có cách nào hơn là bắt họ tiếp tục đọc.
Thế nhưng ngay cả lúc lắng tai nghe sinh viên đọc và dịch, rồi cẩn thận sửa chữa từng chút những sai lầm của họ, nghĩa là lúc không có gì phải chán, Yasukichi vẫn cảm thấy có gì bó buộc làm sao ấy. Khi vừa xong ba mươi phút trên một tiếng đồng hồ của xuất dạy, Yasukichi bảo họ ngừng việc đọc và dịch. Thay vào đó, đến lượt chính Yasukichi đọc từng đoạn một trong bài và bắt đầu dịch. Chuyến hành trình trên biển tả trong sách giáo khoa sao chán ơi là chán. Đồng thời, cả cách dạy của Yasukichi cũng đáng chán không kém. Có lúc quên các thì của động từ, có lúc nhầm những quan hệ đại danh từ, Yasukichi như một chiếc tàu khó nhọc lê qua vùng biển đứng gió.

Bất chợt lúc đó Yasukichi mới để ý đoạn dịch mà mình soạn sẵn chỉ còn bốn, năm hàng nữa là hết veo. Đi hết phần nầy thì anh ta sẽ vào một vùng biển sóng gió mà không cẩn thận là không được vì nó đầy thuật ngữ hiểm hóc của hải quân, chúng nhan nhản như những lớp đá ngầm. Yasukichi liếc nhìn đồng hồ. Mấy cây kim báo cho biết từ đây đến hồi kèn tan lớp còn những hai mươi phút. Yasukichi cố gắng dịch hết bốn, năm hàng đã chuẩn bị còn sót lại một cách càng từ tốn càng tốt. Dịch xong đoạn đó rồi mà nhìn kim đồng hồ thì chỉ mới có ba phút trôi qua.
Yasukichi cảm thấy kẹt quá rồi. Bây giờ chỉ còn mở được đường máu bằng cách cho học trò hỏi và mình giải đáp thắc mắc. Nếu làm thế mà hãy thừa thời giờ thì cho họ tan sớm vậy. Yasukichi đặt sách xuống, định mở mồm: «Có câu hỏi nào không?» thì tự nhiên mặt bỗng đỏ bừng. Mắc mớ gì mặt lại đỏ bừng như thế nhỉ? – Anh không tài nào giải thích lý do. Tại sao mặt Yasukichi phải đỏ bừng khi anh là người trên nguyên tắc vẫn xem chuyện lừa dối lũ học trò là điều không có gì phải bận tâm. Dĩ nhiên đám sinh viên không tài nào đoán được ý nghĩ trong đầu anh. Họ chỉ ngước mắt chăm chú nhìn thầy. Yasukichi bèn nhìn đồng hồ lần nữa rồi cầm quyển sách giáo khoa lên và đọc như bay như biến.

Đoạn sau của chuyến hành trình đường biển tả trong sách giáo khoa hình như cũng không thú vị hơn đoạn trước. Thế nhưng cái cách thức dạy học của Yasukichi thì... bây giờ anh vẫn chắc mẫm: nó hùng tráng oanh liệt còn hơn cả cuộc chiến đấu của chiếc tàu buồm đang chống trả bão táp.

 
Chú Gác Dan Dũng Cảm
Isamashii Shuei


Không nhớ rõ trời vào cuối thu hay đầu đông, chỉ biết lúc đó đi đến trường đã phải mặc thêm áo khoác dày. Đến giờ Yakukichi vào bàn cơm trưa, ông giáo nhà binh trẻ ngồi bên cạnh mới tiết lộ cho một chuyện hiếm có vừa xảy ra. Số là mấy hôm trước, vào giữa khuya, hai ba tên ăn trộm thép đã dùng thuyền để vào ngõ sau nhà trường. Phát giác ra chuyện đó, một người gác dan trong lúc tuần đêm đã một mình một thân định vây bắt chúng. Thế nhưng sau một trận ẩu đả kịch liệt, ngược đời là bọn trộm lại ném được người bắt trộm xuống biển. Chú gác dan ướt như chuột lột, loay hoay mãi mới bò lên tới bờ. Trong khi ấy thì thuyền của bọn trộm đã tếch ra khơi và khuất vào bóng đêm.
- Chú gác dan Ôura đấy! Hôm ấy nằm nhà phải sướng hơn không!
Người sĩ quan miệng đang nhồm nhoàm bánh mì, cười một cách chật vật.

Yasukichi biết Ôura là ai: một trong những người gác dan đóng đô ở các trạm gác ở lối vào trường để thay nhau canh phòng. Khi gặp các giáo sư ra vào, bất luận quân sự hay dân sự, các người gác đều đưa tay lên chào đúng phép nhà binh. Yasukichi vốn không thích được ai chào và chẳng thích chào trả lễ nên lần nào cũng cố tình đi thật nhanh qua khỏi trạm gác, không cho họ có đủ thời giờ đứng nghiêm chào. Thế nhưng mỗi cái chú gác dan Ôura nầy thì Yasukichi không cách chi đánh lừa mắt cho được. Chú ta trấn ở trạm gác đầu tiên, mắt đăm đăm nhìn không chớp một khoảng mươi, hai mươi thước từ trong ra ngoài cửa trường cho nên khi Yasukichi mới vừa xuất hiện và chưa đi đến gần thì chú ta đã ở trong tư thế nghiêm chào rồi. Yasukichi rốt cuộc chỉ còn biết phục tùng số mệnh. Không những nghĩ thế thôi, hễ thoáng thấy Ôura thì Yasukichi đã giở nhanh mủ ra chào trước, như con thỏ bị rắn rung chuông hớp hồn.
Theo như câu chuyện vừa nghe thì người gác dan đó bị bọn trộm ném xuống biển. Yasukichi tuy thấy tội nghiệp chú ta nhưng không khỏi buồn cười.

Thế rồi năm sáu hôm sau, Yasukichi chợt thấy Ôura trong phòng đợi của nhà ga. Ôura vừa nhận ra Yasukichi thì không cần biết là mình đang đứng ở đâu, đột ngột đứng nghiêm và đưa tay lên chào đúng phép nhà binh. Yasukichi có cảm tưởng đang thấy sau lưng chú ta cánh cửa ra vào của trạm gác.
Sau một đỗi im lặng, Yasukichi lên tiếng hỏi:
- Hôm trước có phải chú...
- Vâng, suýt nữa cháu bắt được trộm.
- Khổ thân cho chú quá nhỉ!
- May là không bị xây xát gì cả ạ.
Ổura nở một nụ cười cay đắng và nói như thể tự trào:
- Nếu thực tình muốn bắt thì cháu cũng tóm được ít nhất một thằng. Thế nhưng bắt được chăng nữa, mình cũng chẳng xơ múi gì!
- Sao, cái gì mà chẳng xơ múi?
- Thưa nghĩa là chẳng được thưởng thiếc gì cả. Bởi vì trong luật lệ ngành gác dan của tụi cháu, không có câu nào rõ ràng cho biết có được gì không.
- Trường hợp chết vì công vụ cũng thế hử?
- Vâng, có chết vì công vụ cũng vậy thôi.

Yasukichi đưa mắt nhìn trộm Ôura. Cứ theo cách ăn nói của người gác dan, chú ta không phải là một con người can trường, xả thân bắt trộm tí nào. Chú ta chỉ tính toán tùy theo có tiền thưởng hay không và đã để vuột đi mấy tên trộm lý ra chú có khả năng tóm được. Thế nhưng... Yasukichi vừa kéo ra điếu thuốc, vừa làm đủ cách vui vẻ để biểu đồng tình với chú ta.
- Nếu chú nói thế thì vô lý quá. Ai đời chỉ gánh nguy hiểm mà không có lợi lộc gì.
Ôura trả lời « Vâââng » hay một chữ gì giống như vậy nhưng gương mặt không dấu được vẻ thất vọng.
- Phải chi có chút đỉnh tiền thưởng nhỉ!
Yasukichi nói với một giọng rầu rầu.
- Thưa, hễ có tiền thưởng thì ai cũng dám lãnh nguy hiểm sao, thầy? Điều đó thật cháu cũng còn ngờ.
Hết câu, Ôura giữ im lặng. Tuy nhiên khi Yasukichi đặt điếu thuốc lá lên môi mình thì chú ta vội vàng đánh diêm và đưa mồi lửa đến trước mặt anh. Áp mặt mình sát vào mồi lửa đỏ tươi đang tỏa sáng đầu điếu thuốc, để khỏi lộ ý nghĩ của mình, Yasukichi nén một nụ cười sắp nở trên môi.
- Cám ơn chú!
- Thưa không dám.

Sau câu trả lời bình thường như vậy, Ôura lại cho hộp diêm vào túi. Tuy vậy, hôm nay Yasukichi tin chắc mình vừa khám phá được sự bí mật của người gác dan. Chú ta không chỉ đánh que diêm kia mồi lửa cho mỗi Yasukichi thôi đâu. Thật ra, Ôura đã đánh diêm cho tất cả những vị thần ở dưới đáy cõi u minh đang ngầm quan sát xem chú ta có giữ đúng tác phong của vũ sĩ đạo hay không.

Tháng 3 năm 1923
.

Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeSat May 02, 2020 10:36 am

.


Tiệc khiêu vũ
- Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)


1.
Đêm mồng ba tháng mười một, năm Minh Trị thứ mười chín. Công nương Akiko, lúc ấy vừa được mười bảy tuổi, đi với ông cha hói đầu của mình, bước lên thang lầu Rokumeikan (1), ở đây đêm nay có tiệc khiêu vũ. Những cụm hoa cúc to lớn được tay người uốn nắn từ lúc mới trồng, xếp thành ba lớp hàng rào dọc hai bên cầu thang rộng rãi dưới ánh đèn khí chiếu sáng. Ba màu hoa cúc, hồng nhạt, vàng đậm và trắng bạch từ phía sau, hỗn loạn đua nhau xòe ra những cánh hoa giống như những chùm chỉ len. Từ trong phòng khiêu vũ trên đầu cầu thang, cuối hàng rào hoa cúc, những âm thanh vui tươi của giàn nhạc ồ ạt tràn đến không ngớt, tựa như những tiếng thở dài sung sướng không nén được.
Akiko đã được đi học tiếng Pháp và khiêu vũ từ lúc còn thơ. Nhưng đêm nay, đây là lần đầu tiên trong đời, cô được đi dự một buổi tiệc khiêu vũ chính thức. Vì thế ngay lúc còn ở trong xe ngựa, đôi lúc cha cô gợi chuyện, cô chỉ có toàn những câu trả lời bâng quơ. Một loại cảm giác thấp thỏm, có lẽ phải hình dung đó là một nỗi lo lắng, hồi hộp đến độ sung sướng, đã bám chặt lòng cô. Trước khi xe ngựa dừng lại trước Rokumeikan, cô đã đưa cặp mắt thấp thỏm nhìn không biết bao nhiêu lần những ngọn đèn leo lét của đường phố Tokyo chạy qua bên ngoài cửa xe.

Nhưng khi vào bên trong Rokumeikan, chẳng bao lâu tình cờ cô gặp được một vài chuyện khiến cô quên đi những lo lắng kia. Khi hai người vừa đến khoảng giữa thang lầu, thì đã kịp chân một ông quan lớn người Tàu đang đi lên trước. Ông quan lớn vừa lách tấm thân mập phì để hai người đi qua, vừa nhìn Akiko với cặp mắt chưng hửng. Bộ dạ phục khiêu vũ màu hồng mới mẻ, miếng băng vải màu xanh buộc ngang cổ lộ vẻ cao quí, lại còn có mùi thơm của một cành hoa hồng trên vầng tóc xanh đen - thật tình đêm nay diện mạo của Akiko có đầy đủ vẻ đẹp của một thiếu nữ Nhật bản tân tiến, đủ làm kinh ngạc đôi mắt của ông quan lớn người Tàu còn để bím tóc đuôi sam dài lòng thòng này. Cũng vừa lúc đó, một người Nhật trẻ mặc áo đuôi én đang nhanh chân xuống thang lầu, giữa chừng khi vừa qua mặt hai người, anh ta chợt quay mặt lại một cách phản xạ, đổ dồn cặp mắt sửng sốt vào lưng Akiko. Rồi như đã nghĩ ra được lý do tại sao, anh ta đưa tay sửa lại chiếc cà vạt trắng, nhanh chân luồn qua đám cúc, xuống hành lang.
Hai người đi dứt cầu thang đến lầu hai. Trước cửa vào phòng khiêu vũ ở lầu hai, ngài bá tước chủ tiệc, ngực cài huân chương, có râu quai nón hoa râm, đã cùng với phu nhân có vẻ lớn tuổi hơn, kiểu cách trong bộ trang phục đời Louis thứ mười lăm, ung dung đón khách. Akiko đã không bỏ sót rằng ngay chính ngài bá tước nầy, khi nhìn dáng điệu của nàng, đâu đó trên gương mặt lão luyện của ngài đã chớp hiện ra một vài nét kinh ngạc ngây ngô. Ông cha hiền lành của Akiko, mỉm cười vui thích, liền ngắn gọn giới thiệu con gái mình với bá tước và phu nhân. Akiko hưởng được cái cảm giác vừa thẹn thùng vừa sung sướng hãnh diện lẫn lộn trong lòng. Nhưng, chỉ trong khoảnh khắc rảnh rang đó, nàng cũng có thừa thời giờ để ý đến một điểm có vẻ hạ cấp trên gương mặt quyền quí cao ngạo của bá tước phu nhân.
Hoa cúc nở đẹp khắp nơi trong phòng khiêu vũ. Và ở khắp nơi, những cánh quạt ngà, những cành hoa, những vành ren của các phu nhân đang chờ người mời, lay động trong mùi hương khoan khoái, giống như những làn sóng thầm lặng. Akiko liền rời cha, nhập bọn với một đám phu nhân đẹp đẽ lộng lẫy. Đó là những thiếu nữ có lẽ tuổi cũng xấp xỉ nhau, tất cả đều mặc dạ phục màu hồng nhạt hoặc màu xanh dương giống nhau. Những người nầy khi đón nhận nàng, miệng ai cũng líu lo khen ngợi tới tấp vẻ đẹp của nàng đêm nay.

Nhưng, khi nàng vừa vô đám, liền có một sĩ quan hải quân người Pháp lạ mặt, từ chỗ nào không biết, đã lặng lẽ đến cận bên nàng. Hai tay buông thẳng, chàng trịnh trọng cúi chào nàng theo kiểu Nhật bản. Akiko cảm thấy có chút máu hồng ửng lên má mình. Nhưng cái chào ở đây có ý nghĩa gì, không cần phải hỏi cũng đã rõ. Cho nên nàng đã quay lại phía công nương mặc dạ phục màu xanh đứng bên cạnh, nhờ giữ giùm chiếc quạt đang cầm tay. Cùng lúc đó, không ngờ chàng sĩ quan hải quân người Pháp nầy, thoáng hiện nụ cười trên má, và bằng một thứ tiếng Nhật với dấu nhấn lạ lùng, đã rõ ràng nói với nàng.
- Xin hân hạnh mời cô nhảy một bản.
Liền đó, Akiko đã ra nhảy với chàng sĩ quan hải quân người Pháp vũ khúc “Dòng sông xanh” (2) điệu valse. Chàng sĩ quan nhảy với cô là một người đàn ông có đôi má rám nắng, có mắt mũi đẹp đẽ, râu mép đậm. Nàng quá thấp bé nên không thể đặt bàn tay mang găng dài lên vai trái trên bộ quân phục của người cùng nhảy. Nhưng người sĩ quan hải quân thành thạo này đã khéo léo dìu nàng nhẹ nhàng lướt khắp nơi trong đám đông. Đôi lúc lại còn thì thầm bên tai nàng những lời ca ngợi nhã nhặn bằng tiếng Pháp.
Nàng vừa tủm tỉm thẹn thùng đáp lại những lời nói êm ái đó, đôi lúc đưa mắt nhìn quanh phòng khiêu vũ nơi họ đang nhảy. Dưới lá cờ Tàu có con rồng xanh uốn mình vươn móng, và dưới những băng nhiễu tím nhuộm nổi huy hiệu hoàng tộc, những đóa hoa cúc trong bình thấp thoáng giữa làn sóng người, màu trắng sáng láng nhẹ nhàng, nhưng có lúc lại là màu vàng kim tối sẫm. Ngoài ra, vì bị cuốn đi trong làn gió âm điệu hoa lệ bùng lên sùng sục như rượu sâm banh của giàn nhạc Đức, làn sóng người lũ lượt đó triền miên di động đến độ chóng mặt. Akiko khi giao mắt với một người bạn đang nhảy khác, trong lúc bận rộn này, cũng đã gởi cho nhau cái gật đầu tỏ vẻ vui sướng. Nhưng, ngay trong khoảnh khắc đó, có một tay nhảy khác, không biết từ đâu, giống như một con nhậy điên to lớn, đã hiện ra nơi đó.
Nhưng Akiko đã biết rằng ánh mắt của chàng sĩ quan hải quân người Pháp đang theo dõi từng hành động của nàng. Điều nầy đã nói lên rằng một người ngoại quốc hoàn toàn chưa quen thuộc với nước Nhật nầy đã hết sức quan tâm đến cách nhảy thanh lịch của nàng. Một công nương đẹp đẽ như thế này cũng sống trong ngôi nhà làm bằng tre và giấy, giống như một búp bê sao? Và với đôi đũa kim loại nhỏ nhắn, cũng đã gắp những hạt cơm trong cái chén nhỏ chỉ bằng bụm tay có vẽ hoa xanh để ăn sao? Những nghi vấn nầy kèm theo nụ cười tủm tỉm thân thiện đã hiện lên trong ánh mắt chàng không biết bao nhiêu lần. Những điều đó đối với Akiko vừa tức cười đồng thời lại vừa làm nàng hãnh diện. Thế nên đôi lúc khi ánh mắt của người cùng nhảy nhìn xuống gót chân nàng với vẻ hiếu kỳ, mỗi lần như vậy đôi giày nhảy màu hồng nhạt yểu điệu của nàng càng lướt nhẹ hơn trên sàn nhà trơn tru.
Nhưng rồi viên sĩ quan nhận thấy công nương mảnh mai như con mèo con nầy có vẻ mệt, nên nhìn vào mặt nàng với vẻ lo lắng.
- Tiếp tục nhảy thêm có được không?
Akiko vừa thở hổn hển, lần nầy trả lời lại rõ ràng.
- Non, merci.
Chàng sĩ quan hải quân người Pháp vừa tiếp tục nhịp bước điệu valse, vừa lách qua những vành ren và hoa lũ lượt di động xung quanh, chậm rãi đưa nàng đi về phía mấy chậu hoa cúc ở bờ tường. Và sau khi quay một vòng sau cùng, đã khéo léo để nàng ngồi xuống trên chiếc ghế ở chỗ đó. Vừa xong, chàng ta ưỡn ngực quân phục ra một lần rồi cũng giống như lúc nãy, trịnh trọng nghiêng mình chào theo kiểu Nhật.

Sau đó, khi đã nhảy xong những điệu polka (3) và mazurka (4), Akiko cặp tay chàng sĩ quan hải quân người Pháp, đi ngang qua ba lớp hàng rào hoa cúc trắng, vàng và hồng nhạt, đi xuống phòng rộng ở dưới thang lầu. Ở đây, trong đám người mặc áo đuôi én và những người mặc áo vai trắng đi đi lại lại không ngớt, có một dãy bàn ăn để đầy bát đĩa bằng bạc hoặc bằng thủy tinh. Có đĩa chất thịt và núm tùng lộ (5) thành núi, có đĩa chất xăng-quít và kem thành tháp cao nghều nghệu, có đĩa lại chất lựu và sung thành kim tự tháp. Đặc biệt, trên một bức tường của căn phòng không trang hoàng hoa cúc, có một hàng rào tréo màu vàng kim đẹp có dây nho do tay người uốn nắn khéo léo, bò chằng chịt xanh tươi. Giữa lá nho, những chùm nho tím đỏ giống như tổ ong, buông xuống đầy cành.
Akiko gặp ông cha đầu hói của mình đang bập thuốc xì gà, đứng với một thân sĩ cùng lứa tuổi trước hàng rào tréo màu vàng kim. Ông cha nhìn thấy dáng của Akiko, khẽ gật đầu với vẻ mãn nguyện, nhưng sau đó đã hướng mặt sang người đi chung, và lại bắt đầu thả hồn trong khói thuốc.
Chàng sĩ quan hải quân người Pháp cùng đi với Akiko đến một bàn ăn, cùng nhau lấy kem ăn. Nàng để ý rằng trong lúc đó, cặp mắt ông bạn kia vẫn thỉnh thoảng nhìn chăm chú vào tay, tóc, hoặc cần cổ buộc băng vải xanh của nàng. Việc đó đối với nàng dĩ nhiên không có gì khó chịu. Nhưng, nhất thời điều đó làm nẩy ra nỗi nghi ngại trong lòng nàng, một loại nghi ngại mà phụ nữ thường có. Vừa lúc đó, khi một phụ nữ trẻ, có lẽ là người Đức, cành hoa trà đỏ cài trên ngực nhung đen, đi qua bên cạnh hai người, nàng đã nghĩ ra lời khen ngợi như sau, như để nói bóng gió nỗi nghi ngại kia.
- Phụ nữ tây phương, đẹp thật ạ.
Chàng sĩ quan hải quân khi nghe câu nầy, không ngờ đã nghiêm nghị lắc đầu.
- Phụ nữ Nhật bản cũng đẹp đấy chứ. Đặc biệt, tỉ dụ như cô…
- Không có chuyện đó đâu.
- Không, không phải tôi nịnh đâu. Ngay bây giờ, y như vầy, cô cũng có thể đi dự những tiệc khiêu vũ ở Paris đấy chứ. Chắc chắn mọi người sẽ sửng sốt. Vì cô giống như công nương trong tranh của Watteau (6) đấy.
Akiko không biết Watteau là ai. Vì thế câu nói của chàng sĩ quan hải quân đã gợi đến ảo ảnh xinh đẹp của thời quá khứ, có lẽ là kỹ niệm về những bồn phun nước trong cánh rừng âm u với những cụm hoa hồng dần dần tàn úa, một phút sau đó, cũng đã phải biến mất đi, không để lại một dấu vết gì đối với nàng. Nhưng, Akiko vẫn còn đủ nhanh trí hơn người, vừa lay động thìa kem, nàng đã không quên bám vào một chủ đề khác còn lại.
- Tôi cũng muốn dự tiệc khiêu vũ ở Paris xem sao.
- Đâu. Tiệc khiêu vũ ở Paris cũng hoàn toàn giống như đây thôi.
Viên sĩ quan hải quân vừa nói như thế vừa nhìn đám hoa cúc và làn sóng người đi quanh bàn ăn của hai người, và khi chợt thấy nụ cười mỉa mai của nàng chìm xuống đáy mắt, chàng dừng thìa kem lại, nói thêm, nửa như lầm bầm với chính mình:
- Không phải chỉ Paris. Tiệc khiêu vũ ở đâu cũng giống nhau cả.

Một giờ sau, Akiko và chàng sĩ quan hải quân người Pháp, vẫn cặp tay nhau, cùng với nhiều người ngoại quốc và nhiều người Nhật tập hợp ở bao lơn ngoài phòng nhảy, dưới trời sao. Bên kia bao lơn cách một lan can, những cây tùng bách trồng ở hoa viên rộng, âm thầm chen cành lẫn nhau. Ánh đèn lồng tròn nhỏ màu đỏ, treo rải rác trên các ngọn cây. Dưới bầu không khí lành lạnh, mùi lá khô và mùi rêu nhẹ nhàng bốc lên từ hoa viên phía dưới, bồng bềnh như hơi thở của mùa thu buồn man mác. Ngay phía sau trong phòng nhảy, làn sóng của hoa và những vành ren vẫn tiếp tục lay động không ngừng dưới băng nhiễu tím nổi hình hoa cúc mười sáu cánh (7). Những cơn lốc âm thanh chói tai của giàn nhạc vẫn cứ ra tay roi vọt không một chút dung tha trên biển người nầy. Dĩ nhiên, từ trên bao lơn nầy, cũng có tiếng cười nói ồn ào không dứt lay động bóng đêm. Thêm vào đó, khi ngọn pháo bông tuyệt đẹp bay lên bầu trời trên đầu đám tùng bách tối đen, mọi người bỗng náo động hẳn lên. Đứng lẫn trong đám người đó, Akiko từ nãy đến giờ cũng đã vui vẻ trò chuyện với các công nương hợp ý ở nơi đó. Để ý thì thấy chàng sĩ quan hải quân người Pháp kia vẫn choàng tay Akiko, im lìm đưa mắt nhìn lên trời sao trên hoa viên. Dưới mắt nàng, điều đó không biết sao làm nàng cảm thấy như chàng đang nhớ nhà. Cho nên Akiko từ dưới nhìn lên mặt chàng khẽ hỏi, với giọng nửa nũng nịu.
- Chắc là đang nghĩ đến việc nước phải không?
Sĩ quan hải quân vẫn với đôi mắt đượm vẻ mỉm cười, lẳng lặng quay mặt về phía Akiko. Rồi thay vì trả lời là “Non”, thì lại chỉ lắc đầu như đứa con nít.
- Nhưng ông có vẻ đang nghĩ điều gì kia mà.
- Thử đoán xem là điều gì đi.
Lúc đó trong đám người tập hợp ở bao lơn, có tiếng rít dài như tiếng gió. Akiko và viên sĩ quan hải quân không hẹn cùng nhau ngừng trò chuyện, cả hai nhìn về phía trời đêm đang đè ép đám tùng bách trong hoa viên. Ở đó, vừa đúng lúc pháo bông có màu xanh và màu đỏ, búng màn đêm tung ra như tay nhện, sắp biến mắt. Akiko không biết tại sao lại nghĩ rằng, chùm pháo bông đó đẹp đến nỗi làm cho lòng mình buồn.
Một khoảng lâu sau, chàng sĩ quan hải quân người Pháp âu yếm nhìn xuống gương mặt của Akiko, nói với một giọng có vẻ triết lý.
- Tôi đang nghĩ đến chuyện pháo bông. Pháo bông giống như cuộc đời của chúng ta.

2.
Mùa thu năm Taisho thứ bảy (1918). Akiko của năm nào đang trên đường đi đến biệt thự gia đình ở Kamakura, tình cờ ngồi chung chuyến xe lửa với một nhà văn trẻ quen biết. Chàng thanh niên lúc đó đã để lên kệ xe một bó hoa cúc để tặng người quen ở Kamakura. Akiko của năm nào, bây giờ là lão phu nhân H. nói mỗi lần nhìn thấy hoa cúc là lại có chuyện để hồi tưởng, và đã kể lại chi tiết kỷ niệm của buổi tiệc khiêu vũ ở Rokumeikan cho chàng trai nghe. Chàng thanh niên tỏ ra hết sức hiếu kỳ khi được nghe chính miệng người nầy kể lại một kỷ niệm như thế.
Khi câu chuyện chấm dứt, chàng thanh niên đã lơ đãng hỏi lão phu nhân H. - Bà có biết tên của vị sĩ quan hải quân người Pháp ấy không?
Phu nhân H. đã có một câu trả lời hết sức bất ngờ.
- Biết chứ. Ông nói ông tên là Julien Viaud đấy.
- Vậy à. Vậy ông ấy là Loti đấy rồi. Đúng là Pierre Loti, người viết truyện “Phu nhân hoa cúc” đấy. Chàng thanh niên cảm thấy vui vẻ hứng thú. Nhưng phu nhân H. vừa nhìn mặt chàng trai với vẻ lạ lùng, vừa lầm bầm trong miệng không biết bao nhiêu lần.
- Đâu, không phải là người có tên là Loti đâu. Ông ấy tên là Julien Viaud kia mà.

Shincho hiệu tháng giêng năm Tai-sho thứ 9.
Lê Ngọc Thảo dịch từ nguyên tác tiếng Nhật.

Chú thích:
(1) Rokumeikan: Dinh thự được xây cất vào năm Minh Trị thứ 16, tại Yamashita cho, Kojimachi ku, Tokyo, theo kiểu Condole, tây phương. Đây là nơi hoàng tộc dùng để tổ chức những buổi dạ hội, những tiệc khiêu vũ… để tiếp đãi sứ thần ngoại quốc trong những cuộc đàm phán sửa đổi điều ước v.v…
(2) Dòng sông xanh: nhạc khiêu vũ, điệu valse của nhà soạn nhạc Johann Strauss ngườI Áo (1804-1849), cha đẻ của nhạc valse kiểu Vienna.
(3) Polka: nhịp 2/4, có nguồn gốc từ Bohemia (nước Séc ngày nay) với điệu nhảy nhẹ nhàng.
(4) Mazurka: nhịp 3/4 có nguồn gốc từ những vũ khúc dân ca Poland.
(5) Núm tùng lộ: núm “truffe” tây phương, có màu đen.
(6) Watteau (1684-1721): họa sĩ người Pháp, thường vẽ tranh của những bữa tiệc ngoài trời, rất tao nhã.
(7) Cúc mười sáu cánh: cúc biểu hiệu dành riêng cho hoàng tộc Nhật Bản.
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitimeFri May 15, 2020 9:45 am

.

Lòng đã trót yêu

- Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)


Dịch giả: Văn Lang Tôn Thất Phương

Màn 1:
Đêm yên lặng, con trăng chênh chếch. Morito rảo bước bên gò đất thấp, tiếng lá khô nghe xào xạc dưới chân. Anh suy nghĩ miên man, rồi nói một mình nho nhỏ:
Trăng lên rồi ư! Thường ta vẫn hay chờ đợi, sao đêm nay lại sợ cả ánh trăng? Mà không run sao được. Chỉ đêm nay thôi, trước khi trời sáng ta đã trở thành kẻ giết người. Cứ tưởng tượng xem, đôi bàn tay này sẽ nhuốm đầy máu, lúc đó chắc ta sẽ trông khủng khiếp vô cùng. Giá như đi giết một người mình ghét thì cũng đành, nhưng khổ tâm thay, đêm nay ta lại phải giết một kẻ mà mình hoàn toàn không thù ghét!
Người này cũng chả phải ai xa lạ: Wataru Saemon-nojo! Tên của y bây giờ ta mới nhớ rõ, nhưng cái mặt đó thì có quên được đâu - đàn ông gì mà cứ mịn màng trắng trẻo! Khi biết được y là chồng của Kesa, quả thực là ta có thấy ghen tức, nhưng mà sau đó thì thôi, nào ta có suy nghĩ gì thêm! Ừ, thì y cũng là tình địch, nhưng ta chả oán ghét căm hận gì y, còn cảm động với những việc y làm là đằng khác. Nghe bà Koromogawa kể chuyện y đã lao tâm khổ tứ để chinh phục Kesa, ta cũng thấy cảm kích. Ôi chao, y đã ráng tập làm thơ để lấy lòng Kesa! Chỉ tưởng tượng đến cảnh chàng võ sĩ Wataru, bình thường vốn ngây ngô chân chỉ, nay đi cắm cúi làm thơ tặng gái là đã không nhịn cười được. Dĩ nhiên không phải cười để chế nhạo, vì những chân tình của y rất đáng cảm động. Đúng ra có thể nói những nhiệt tình của y dành cho người đẹp Kesa mà ta yêu quí, còn làm cho ta đây người yêu thực sự của nàng thấy tự ái rất được vuốt ve là đằng khác.

Nói thì như thế, nhưng ta có yêu Kesa thật không? Chuyện với nàng phải chia ra làm hai thời kỳ: lúc trước và bây giờ. Trước khi Kesa lấy chồng, ta đã rất mực yêu nàng hay ngỡ là rất yêu nàng. Thực ra, giờ nghĩ lại thấy chẳng đơn thuần như thế. Ta mơ ước nàng chỉ vì thưở ấy chưa biết đến đàn bà, cho nên đúng ra là ta mơ ước thân thể của nàng. Nói có thể hơi quá một chút, nhưng tình yêu đó chỉ là dục vọng được tình-cảm-hóa cho đẹp ra, thế thôi. Sau khi không còn gặp Kesa nữa, suốt ba năm tròn ta không thể quên nàng nhưng nếu thưở đó đã biết được thân thể của nàng rồi, chắc gì ta mãi nhớ nhung đến thế? Thực tình ta không dám khẳng định được điều này ngay với cả chính mình, nghĩ cũng đáng thẹn! Về sau, Kesa có chồng rồi, lòng ta vẫn khôn nguôi, tuy lòng thiết tha đó chỉ đầy những luyến tiếc ấm ức là đã chưa từng được cùng nàng chung đụng. Rồi với cái tình cảm đam mê cuồng nhiệt đó, ta được gần nàng, một điều ta vừa sợ, mà cũng hằng mong. Và hiện tại thì sao? Ta muốn hỏi lòng mình lần nữa: ta có thực sự yêu Kesa, hay không? Trước khi trả lời, mặc dù không thích thú gì khi nhớ tới, nhưng cũng nên ôn lại một lượt những gì ta đã trải qua.
Nhân dịp lễ cầu siêu ở gần cầu Watanabê, ta tình cờ gặp lại Kesa sau ba năm xa cách. Từ đó, cũng trong khoảng nửa năm, ta đã xếp đặt đủ mưu mô để có được một lần hò hẹn với nàng và ta đã thành công, không phải chỉ ở việc gặp gỡ không thôi, mà còn thoả được ước mơ là cùng nàng chung đụng. Không cần phải nói lại, động cơ thúc đẩy ta lúc đó là những ấm ức nuối tiếc chất chứa trong bao nhiêu năm về việc chưa biết được thân thể của nàng. Nhưng khi có được những phút riêng tư cùng nàng trong căn phòng ở nhà bà Koromogawa, tự nhiên cái nuối tiếc ấy sao bỗng vơi đi rõ rệt. Ta cũng vẫn tự hỏi: Phải chăng vì lúc đó, ta đã biết được thế nào là thân thể một người đàn bà, cho nên cái đam mê ngun ngút có bớt đi chăng? Đúng hơn là vì nhan sắc của nàng đã phôi pha đi. Kesa bên cạnh ta không còn là một Kesa của ba năm về trước. Chỉ có đôi mắt đen nháy long lanh ấy là không khác bao nhiêu, nhưng da nàng đã hết láng, dưới mắt đã có quầng thâm, chung quanh gò má và dưới cằm, cái trẻ trung mơn mởn cũng đã biến đi đâu mất; làm cho những đam mê sôi nổi của ta bỗng biến thành hụt hẫng. Suốt ba năm nhung nhớ, nhưng tự nhiên ta đã phải liếc đi nơi khác khi cùng nhìn tận mặt nhau. Cái bàng hoàng ấy, bây giờ ta vẫn còn nhớ rõ.
Rồi bây giờ, những ấm ức về việc chưa chiếm được thân thể nàng đã hết, sao ta phải còn gắn bó với Kesa? Dễ hiểu thôi, vì ta khoan khoái với cảm giác của kẻ đi chinh phục. Kesa vẫn bảo rằng nàng rất được chồng thương, nhưng với ta, điều này vô nghĩa. Nàng chỉ muốn khoe khoang, hay có thể chỉ vì mặc cảm sợ ta thương hại. Không hiểu sao lắm lúc ta muốn vạch trần những lời dối trá đó, nhưng nàng có dối trá hay không, thực tình ta chả biết. Có ai vặn hỏi, ta cũng không cắt nghĩa được. Nhưng ta tin là nàng nói dối, bây giờ vẫn còn tin. Cũng còn một lý do nữa, nhưng nói ra thì quá mắc cỡ: Ta chỉ tìm nhục dục, không hẳn phải là nàng mà ta chỉ cần một thân thể đàn bà, để thoả mãn, để dâm dục. Chắc những người cần đến gái buôn hương bán phấn cũng không ai quá thèm nhục dục như ta. Chỉ vì thế mà ta tìm tới Kesa, và cưỡng ép nàng, để dâm dục. Cho nên với câu hỏi “ta có yêu Kesa không” lúc nãy, chắc khỏi cần phải trả lời. Thực ra đôi khi ta còn thấy ghét nàng là đằng khác. Lần đó, khi mọi sự xong xuôi, nàng nằm khóc rấm rức, và ta ôm lên, thấy nàng còn khát khao thèm muốn hơn cả chính ta. Cứ nhìn mái tóc rối ren ấy, gương mặt phấn son ướt lấm mồ hôi ấy, có thể bảo rằng về cả hai mặt tâm hồn và thể xác, hẳn không người phụ nữ nào lại có thể xấu xí và đọa lạc hơn. Thành ra giá lúc trước ta có yêu nàng đi nữa, cái tình yêu cũng đã lịm chết ngay từ hôm ấy. Hay nếu ta đã không yêu nàng gì cả, ai có bảo từ ngày đó trong lòng ta đã nảy sinh ra mầm chán ngán thì cũng chẳng sai. Oái ăm thay, đêm nay, vì một người mà mình chẳng thương yêu, ta phải đi giết một kẻ mà mình không thù ghét!

Ai gây ra việc này ư? Ta đâu trách ai được, vì chính ta đã bày ra, đã thì thầm bên tai Kesa bảo “phải giết Wataru”. Chắc lúc ấy ta hóa điên, vì rõ ràng là với đôi hàm răng nghiến chặt, chính miệng ta đã rủ nàng phải giết. Mà tại sao? Thực tình ta chả hiểu! Ráng nghĩ cho kỹ thì lúc đó, càng ghét nàng, càng khinh bỉ nàng, ta lại càng thấy cần phải làm nhục nàng và cách đích đáng nhất là xúi cho nàng muốn giết người chồng mà nàng cứ khoe khoang là vẫn thương yêu nàng rất mực. Ta như sống trong ác mộng, lý trí thì bảo đừng mà miệng lại cứ thì-thầm mãi để thúc dục nàng. Trước sau là vậy, nhưng đã bảo thế mà còn chưa giải thích được tại sao ta muốn giết chồng nàng thì chỉ có thể nói là do ma xui quỷ ám, hay có một sức huyền bí nào đó đã thúc đẩy ta mà thôi.
Nào ngờ, Kesa nằm im một lát rồi vụt ngẩng lên, và bảo là nàng cũng muốn vậy. Ánh mắt của nàng thực kỳ lạ, xưa nay ta chưa từng thấy như thế bao giờ. Ôi, sao mà dễ vậy? Ta bàng hoàng, không kềm được ý nghĩ “đồ gái lăng loàn!”. Trong thất vọng chơi vơi, ta bỗng thấy ra mưu đồ của ta thực quá khủng khiếp. Nhìn nàng lúc đó, dáng điệu dâm đãng, mặt mày nhợt nhạt khó coi, ta thực như muốn chết đi vì chán ngán, đau khổ.
Lúc đó, giá có thể được, ta cũng muốn dẹp ngay chuyện giết người, và dìm cho thanh danh con người không tiết hạnh đó xuống tận tột cùng của nhục nhã như thế, lương tâm ta sẽ đỡ bị cắn rứt, dù chính ta đã kéo nàng vào chuyện ô danh. Nhưng hình như đọc được ý nghĩ của ta, Kesa bỗng đổi thay nét mặt và nhìn vào mắt ta chằm chặp. Thành ra, phải thú thực là ta đâm ra sợ nàng trả thù, nên đành hẹn với nàng ngày giờ nhất định để giết Wataru. Nỗi sợ này, chao ôi, giờ đây vẫn còn đầy ắp! Có ai cười ta hèn nhát, ta cũng đành cam chịu. Nào các người có thấy được Kesa lúc đó để hiểu đâu! Khi thấy nàng ngồi khóc mà không có một giọt nước mắt, ta biết không lùi được nữa. Nếu ta không chịu giết Wataru, chắc chắn nàng sẽ giết ta bằng cách này hay cách khác! Đành phải ráng thôi! Nghe ta hứa xong, nàng cúi đầu nhìn xuống, mỉm cười. Nụ cười làm hiện lên núm đồng tiền trên gò má trắng, rất lặng lẽ, mà sao ta thấy lạnh cả mình.
Ôi thôi, chỉ vì lời hứa oan nghiệt ấy, giờ đây ta mang tấm lòng nhơ nhuốc, dấn thân đi làm kẻ sát nhân. Cứ nghĩ, giá ta bỏ hết đi vào giờ phút chót, chắc cũng không thể được. Vì ta đã thề thốt, nhưng đúng hơn - điều này ta nói thực ta sợ nàng sẽ trả thù. Còn lý do gì khác nữa không nhỉ? Cái gì lại có thể làm cho một kẻ hèn nhát như ta phải đi giết một người vô tội? Cái gì mà mãnh liệt thế, thực tình ta không hiểu. Tuy nhiên... Tuy nhiên... Nhưng không! Không thể thế được! Ta khinh bỉ người đàn bà đó! Ta sợ nàng, ta ghét nàng. Nhưng biết đâu, tất cả chỉ vì ta... thực sự yêu nàng! Morito vẫn tiếp tục đi đi lại lại, nhưng không nói thêm một lời nào. Trăng đã lên cao, sáng tỏ. Có tiếng hát vọng lên từ một nơi nào đó, rất xa xăm:
Lòng người ta quả thực
Là tăm tối u mê
Cháy theo dục vọng gớm ghê
Phút giây tàn lụi một bề, thế thôi.

Màn 2:
Trời đêm tĩnh mịch. Bên chiếc giường thấp, Kesa đứng quay lưng lại với ngọn đèn, miệng cắn vào tay áo rộng, đắm mình theo bao ý nghĩ bồn chồn:
Sao lại chưa tới? Thế nào đêm nay cũng phải tới, nhưng trăng đã quá đỉnh đầu mà chẳng thấy tăm hơi gì cả, hay anh ta bỗng đổi ý rồi chăng? Chao ôi, anh ta mà không tới thì chết mất! Tôi sẽ phải mặt dày mày dạn để sống thêm những ngày tủi hổ, như thân phận gái lầu xanh! Cứ nghĩ lúc đó, nếu tội lỗi phơi bày ra ánh sáng, thân tôi sẽ đẫn đờ tiều tụy như xác chết, bị lôi ra bên đường cho người ta chà đạp, nhục mạ, rồi đám đông bu vào sỉ vả, nhưng vẫn phải lặng câm hứng chịu, làm sao tôi kham được! Ôi, với bao nhiêu đọa đày nhục nhã đó, có chết đi chắc cũng không đành lòng mà nhắm mắt. Không! Không! Anh ta nhất định phải tới! Nhìn vào mắt anh ta lúc chia tay hôm đó, tôi biết chắc anh ta sẽ phải giữ lời, vì sợ tôi! Phải, ghét tôi, khinh bỉ tôi, nhưng phải tới, vì sợ tôi! Dĩ nhiên nếu chỉ vì tôi mà thôi thì chắc anh ta không tới. Nhưng tôi biết nắm được anh ta, dựa vào lòng ích kỷ của anh ta, hay nói đúng hơn là dựa vào sự sợ sệt đến hèn hạ của anh ta. Thành ra dù trời có sập đi chăng, chắc chắn anh ta cũng phải ráng mà tìm tới.
Nhưng nghĩ đến thân tôi, bây giờ không tin được vào mãnh lực quyến rũ của chính mình nữa thì quả thực đáng thương. Ba năm trước đây, mọi sự mọi việc tôi đều trông cậy vào chính tôi, vào sắc đẹp của tôi. Bảo là ba năm, nhưng thực sự phải nói là mãi từ trước cho đến ngày hôm ấy thì đúng hơn. Hôm hẹn với anh ta, chỉ nhìn thoáng qua ánh mắt, tôi hiểu ngay mình hết còn được xem là một người đẹp, xấu xí là đằng khác. Tuy anh ta ráng trấn tĩnh và nói ra toàn những lời thiết tha êm ái, nhưng với một người đàn bà đã nhận ra được mình hết còn son trẻ, những lời ngọt ngào còn mang lại được điều chi nếu không nói là chỉ làm tôi thêm buồn, thêm tiếc nuối và lo sợ cho những tháng ngày sắp tới - khi nhan sắc dần phai mà mình không thể nào níu kéo. Ôi, nỗi buồn lúc ấy sao bao la đến thế? So với nỗi lo buồn sợ hãi mà tôi cảm thấy lúc còn bé khi đang được bế trong tay người nhũ mẫu và giương mắt lên nhìn trời đất âm u trong một đêm nguyệt thực không biết cái nào mạnh mẽ hơn? Chỉ trong phút giây ngắn ngủi thôi, tất cả những mơ mộng tự hào mà tôi hằng ấp ủ bỗng biến đi đâu mất, nhường chỗ cho một cảm giác mênh mang và lạnh lẽo như lúc trời mới mưa xong. Tôi chơi vơi trong biển buồn sâu rộng, nên đâm ra ngẩn ngơ thờ thẫn nửa sống nửa chết, và đem thân mình dâng hiến cho anh ta, một người mà tôi chẳng yêu thương, một người mà tôi biết đang ghét tôi, khinh bỉ tôi, tìm đến với tôi chỉ vì nhục dục!

Tại sao tôi để cho ra như thế nhỉ? Có phải vì tôi không kham được nỗi buồn quá lớn khi nhận ra giờ đây mình chẳng còn đẹp, nên vô tình muốn vớt vát tình cảm, để thấy mình vẫn còn được say mê? Hay tại tôi cố ý viện ra đủ thứ lý do để có thể quên đi tất cả trong phút nhiệt cuồng của thân xác, khi được anh ta ôm sát trong vòng tay? Nếu quả như vậy thì tôi nào khác gì anh ta, cũng kiếm tìm vật dục, cũng để cho lòng khát khao sôi nổi lôi kéo mình đi! Trời ơi, đúng rồi, chỉ nhớ lại mà thẹn, thật mắc cỡ, thấp hèn, nhục nhã! Nỗi nhục này đầy ắp khi anh ta xong việc và buông ra. Tôi được tự do trở lại, nhưng thấy tủi thẹn xác thân mình, và khinh ghét chính mình đến cùng cực. Nước mắt tôi trào ra, mặc dù tôi cứ nhủ mình đừng khóc. Tôi không khóc vì thanh danh hay xác thân đã thành ô uế, nhưng đau vì tự ái bị thương tổn, vì tôi đã bị coi rẻ, cứ như một con chó cùi ghẻ lở, đã chịu khinh khi ghê tởm mà còn bị hành hạ dày vò.
Hôm ấy ra sao nhỉ? Bây giờ tất cả hầu như đã lu mờ như một ký ức xa xôi, nhưng tôi còn nhớ được cảm giác của râu anh ta chạm vào bên tai, khi tôi đang nằm khóc. Anh ta hạ thấp giọng, và thì thào qua hơi thở nóng hổi, bảo phải giết Wataru. Lạ lùng thay, khi nghe được câu này cả người tôi như có sinh khí trở lại. Sinh khí? Vâng, nếu bảo ánh trăng là sáng thì đó cũng là sinh khí, tuy không được như ánh mặt trời. Nhưng tôi thấy nguôi ngoai, vì tình cảm của tôi được an ủi bởi những lời khủng khiếp đó. Chao ôi, có phải lòng người đàn bà là thế, khi biết ra mình được yêu thương thì cảm thấy sung sướng, dù là đến nỗi phải giết cả chồng mình?
Tôi vẫn cứ nằm khóc, trí óc ngổn ngang với nỗi buồn tê tái trong khi lòng mình nhẹ hẳn xuống. Hai cảm giác đó xen lẫn nhau, mông lung man mác như ánh sáng trăng. Rồi sao nữa? Lúc nào tôi đã đưa tay ước hẹn cùng anh ta để giết chồng tôi? Chồng tôi! Lúc đó tôi mới chợt nhớ đến. Đúng thế, vào giây phút ấy tôi mới bắt đầu nhớ đến chồng tôi. Trước đó thì tôi hoàn toàn chỉ nghĩ đến tôi, đến chuyện bản thân tôi bị nhục nhã. Hình ảnh của chồng tôi, con người hiền lành nhỏ nhẹ ấy... Nhưng không, lúc ấy tôi không nhớ chồng, tôi chỉ nghĩ đến gương mặt vẫn thường tươi cười mỗi khi có chuyện gì nói với tôi, thế thôi. Và có phải trong thoáng phút giây khi nghĩ đến gương mặt tươi cười đó, trong trí tôi bỗng nảy ra được một quyết định chăng? Tôi nghĩ rằng mình sẽ chết, và thấy hài lòng sung sướng với lựa chọn này. Tôi thôi khóc, nhưng khi ngẩng mặt lên, thấy được trong mắt anh ta lại hiện ra hình ảnh xấu xí của tôi, niềm sung sướng ngắn ngủi trong tôi vụt biến mất. Tự nhiên những u ám hãi hùng của đêm nguyệt thực mà tôi cảm được lúc ấu thơ khi còn được bế ẵm trong tay bỗng kéo về đầy ắp, cứ như có đám yêu quỷ gớm ghê độc ác đang lẩn trốn dưới đáy của niềm sung sướng bỗng lao vút ra cùng một lúc, phủ vây và chế ngự cả trí óc tôi.
Tuy nhiên, có phải vì yêu chồng mà tôi chọn lựa sẽ chết thay? Không đâu, đó chỉ là bề ngoài. Thực ra tôi chỉ muốn chuộc lại lỗi mình đã để cho anh ta kéo vào chuyện nhuốc nhơ, nhưng không can đảm đến độ có thể tự sát nên phải khéo lựa chọn để người ta ngỡ là tôi đã làm việc tốt. Lòng tôi nhỏ mọn xấu xa, tôi muốn điều tốt của tôi được nhiều người nhìn thấy, xa gần ai cũng biết tin. Thực tình, khi nhìn vào mặt anh ta, mọi cảm giác tươi lành kỳ diệu như ánh trăng thanh bỗng tự dưng tắt hết trong tôi, chỉ có buồn tê tái. Cho nên dưới danh nghĩa thế mạng cho chồng, tôi sẽ trả thù được việc anh ta đã dám ghét tôi, khinh bỉ tôi, đã xâm phạm thân thể tôi, và lấy lòng dạ gian tà mà đối xử với tôi. Tôi không phải vì chồng. Tôi chết vì tôi, vì cảm thương cho mình đã bị vết thương lòng và căm giận việc tấm thân đã thành ô uế. Than ôi, tôi chả có gì vinh để sống, mà chết đi thì cũng chẳng vì chuyện gì vinh!

Dù sao thì chết không vinh đi nữa vẫn còn hơn sống. Hơn được bao nhiêu, tôi chẳng biết, nhưng đã lựa chọn một cách chết cho mình. Nên tôi nén nỗi buồn, và mỉm cười để ước hẹn với anh ta về việc giết chồng tôi. Anh ta vốn tâm cơ linh mẫn, qua lời tôi hẳn hiểu được nếu không giữ lời hứa thì tôi sẽ làm gì. Lại còn thêm đã thề thốt nặng lời, cho nên đêm nay chắc chắn thế nào anh ta cũng đến. Ôi, có phải vừa rồi là tiếng gió thổi đó không? Cứ nghĩ sau đêm nay thì những khổ tâm tôi mang mãi từ ngày đó sẽ thôi day dứt mà thấy sao lòng thật nhẹ. Ngày mai khi bình minh đến, hẳn trên tấm thân không đầu của tôi ánh nắng lạnh của mặt trời mới mọc sẽ chiếu lên? Nhìn vào đó, chồng tôi sẽ... nhưng không, không nên nghĩ đến chồng tôi lúc này. Chồng tôi thật thương tôi, nhưng tôi nào đã bao giờ đáp lại tình yêu ấy? Trước sau tôi chỉ yêu có một người, và đêm nay, người ấy sẽ đến đây để kết liễu đời tôi! Ôi, ngọn đèn này sao mà sáng quá! Nhưng mà... thế nào đi nữa, với tôi, một người đã quá mỏi mòn khổ sở vì anh ấy... bây giờ ...
Kesa thổi tắt ngọn đèn. Chỉ trong chốc lát, giữa cơn tịch mịch của đêm thâu có tiếng then cửa kêu nhè nhẹ. Ánh trăng lạnh lách theo cửa mở, chiếu thẳng vào nhà.

Tháng 3/1918

Văn Lang Tôn Thất Phương dịch từ nguyên tác tiếng Nhật.
Canberra, 6/2004
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)   ngắn - Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Tập Truyện Ngắn: SỢI TƠ NHỆN - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Truyện ngắn: LÀM ĐĨ
» Truyện ngắn: Vợ hay Mẹ? Mẹ hay Vợ?
» Bia Ôm - Truyện ngắn: P. Nguyên
» VÁN CỜ - Truyện Ngắn của Lê Tất Điều
» Thiền và Truyện thật ngắn - Lê Tấn Tài

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon  :: ĐỀ TÀI :: Văn Hóa, Nghệ Thuật :: Văn-
Chuyển đến