October 2024 | Mon | Tue | Wed | Thu | Fri | Sat | Sun |
---|
| 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | | | | Calendar |
|
| | Ngựa Trong Đời Sống & Trong Văn Thơ | |
| | Tác giả | Thông điệp |
---|
thanhdo Khách viếng thăm
| Tiêu đề: Ngựa Trong Đời Sống & Trong Văn Thơ Fri Jan 24, 2014 4:41 pm | |
| Ngựa Trong Đời Sống & Trong Văn Thơ
Nhựt Trọng
Hằng năm , cứ vào độ Xuân về Tết đến, tôi cố gắng viết một bài để đóng góp vào số Báo Xuân Viên Giác và Website chùa Viên Giác; Cũng là dịp để mong được gặp gỡ quý Độc giả, quý Văn Thi hữu trên Văn Đàn và xin gởi trao những lời Chúc Mừng Năm Mới thân thương nhứt.
Năm nay, con Ngựa lại quay về ngự trị thế gian. Nếu như năm trước, chúng tôi đã mượn 2 câu thơ trong Sấm Trạng Trình để đề tựa cho bài viết về năm con Rắn; thì năm nay, xin được phép mượn 2 câu tiếp theo cho trọn ý:
« Long Vỹ xà đầu khởi chiến tranh Can qua xứ xứ khổ đao binh Mã đề Dương cước anh hùng tận Thân Dậu niên lai kiến thái bình »
Rõ ràng từ năm con Rồng bước sang năm con Rắn vừa qua, đao binh, chiến cuộc đã xảy ra thảm khốc tại rất nhiều quốc gia và đang có mầm móng tràn lan đến khắp nơi trên thế giới! Tất cả đều do cái tâm tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến... cố hữu của con người! Rất mong rằng, khi vó Ngưa quay về cùng với cú đá của năm con Dê, sẽ làm cho những vị anh hùng không xứng danh, tham ô, nhũng lạm, độc tài... cùng tận ( Như cái lý Nhân Quả của Nhà Phật ), nơi nơi chào đón năm Thân, năm Dậu trong cảnh thái bình, an lạc!
Năm nay, cũng là năm « Đáo Tuế Lục Tuần » của quý Ông Bà Cô Bác, quý Đạo hữu sanh năm Giáp Ngọ 1954; Có thể xem là một năm rất trọng đại trong đời sống của chúng ta, vì 60 năm mới trở lại một lần ( Giáp Ngo 1954-Giáp Ngọ 2014 ) Tính theo Âm Lịch, quý Vị bước vào « tuổi thọ » 61. Chúng tôi thiển nghĩ, quý Vị có tuổi Giáp Ngọ, nên mừng sinh nhựt năm nay bằng một buổi tiệc dù đơn sơ hay long trọng hơn một chút cũng là để nhắc đến một niềm vui nhiều ý nghĩa, nhứt là để cho con cháu có dịp nhớ đến hiếu đạo, nhớ đến công ơn sanh thành, dưỡng dục của Ông Bà, Cha Mẹ.
Nhân dịp viết về vấn đề tuổi thọ, chúng tôi xin được phép cung kính giải thích về tuổi thọ của Sư Ông Thích Minh Tâm, Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội PGVNTN Âu Châu, Viện Chủ chùa Khánh Anh, Paris Pháp Quốc, vừa viên tịch ngày 08/08/2013; cũng để thành tâm tưởng niệm đến Ngài, trong khi chúng ta chào đón mùa Xuân đầu tiên vắng bóng một vị Ân Sư khả kính!
Sư Ông sanh năm 1940, đến năm 2013 nếu tính theo Dương Lịch là 73 và tính theo Âm Lịch là 74 tuổi, tại sao ghi thế thọ là 75? – Có người suy đoán: Hay là người tu khi mất được tính thêm 1 tuổi?
Chúng tôi đã giải thích cho một số bạn bè, Đạo hữu; nay xin được viết lên đây để chúng ta cùng chiêm nghiệm: -Sư Ông sanh ngày 18.01.1940, nhưng Âm Lịch, còn trong năm Kỷ Mão ( Năm con Mèo 1939 ) . Vì vậy đến năm Quý Tỵ đúng là 75 tuổi tính theo Âm Lịch, chớ không phải là người tu được tính thêm 1 tuổi.
Những người sanh năm 1940 là tuổi Canh Thìn; Một nguyên tắc đúng gần 100%, là vì những người sanh năm có số 1 cuối cùng có Thiên Can là Tân ( Ví dụ sanh năm 1941 là Tân Tỵ ) , có số 2 cuối cùng là Nhâm, 3 Quý, 4 Giáp, 5 Ất, 6 Bính, 7 Đinh, 8 Mậu, 9 Kỷ, 0 Canh.
Từ ngàn năm trước đến nay, các ngày sanh, các sự kiện lịch sử đều đúng như vậy. Chúng tôi xIn nêu lên vài ví dụ cụ thể:
- Hai Bà Trưng khởi nghĩa năm Canh Tý 40 CN - Ngô Quyền sanh năm Mậu Ngọ 898 - Chiến thắng Bạch Đằng Giang năm Mậu Tuất 938 - Lý Thường Kiệt sanh năm Kỷ Mùi 1019 - Nguyễn Ánh ( Vua Gia Long ) sanh năm Nhâm Ngọ 1762 v... & ... (Chỉ những ngày sanh, những sự kiện xảy ra vào khoảng Tháng Giêng hoặc có khi bước qua đầu Tháng Hai Dương Lịch thì có ngoại lệ, vì còn nằm trong năm cũ Âm Lịch, Cụ thể như trường hợp của Sư Ông Minh Tâm, nói trên hoặc Vua Minh Mạng từ trần ngày 20/01/1841, nhưng còn trong năm Canh Tý 1840, chưa qua năm Tân Sửu 1841 )
Trong đời sống, nhất là thời xa xưa, Ngựa là một con vật rất gần gũi với loài Người, lại có sức mạnh bền bỉ, khôn ngoan, trung thành. Chúng tôi sưu tầm và xin ghi lại vài đặc tính về loài Ngựa để góp tiếng chào mừng năm Giáp Ngọ đang về với chúng ta: Trung bình Ngựa sống khoảng 25-35 năm. Đặc biệt loài Ngựa Billy có thể thọ đến 62 năm. Thời gian mang thai từ 335-340 ngày ( Người mang thai 9 tháng 10 ngày, # 280 ngày ). Sinh ra, Ngựa Con có thể đứng lên, chạy nhảy ngay sau một thời gian ngắn; 4 tuổi đã trưởng thành. Loài Ngựa nhỏ con nhứt thế giới chỉ cao 35-40 cm, sống tập trung ở Carolina, nước Mỹ, sống 40-50 năm. Ngựa Hoang có nguồn gốc từ Trung Á, đã được thuần hoá. Người ta dùng Ngựa để cỡi , để chuyên chở, để ra trận... Ngựa ăn thực vật ( cỏ ), đặc biêt là gậm cỏ chớ không nhai; thích làm bạn với dê, hươu, lạc đà. Nghiên cứu về loài Ngựa Rằn ( Vằn ) cũng mang đến cho chúng ta nhiều thú vị:
- Ngựa Vằn sống nhiều nhất ở Phi Châu. - Thuộc nhóm động vật có ngón lẻ, khác với loài Người; nhờ đó Ngựa có khả năng chạy nhanh qua những địa hình đất đá cứng. - Khi Ngựa tập trung từng đàn, những bộ lông vằn họp vói nhau làm cho chúng ta khó phân biệt từng con. - Tuy nhiên, mỗi loài Ngựa Vằn có hình dạng sọc vằn khác nhau, cũng như dấu vân tay của chúng ta. - Cũng nhờ có bộ lông vằn mà Ngựa Vằn tránh được sự hút máu của côn trùng. - Ngựa Vằn cũng chỉ ăn cỏ, lá cây. - Tốc độ 55 Km/giờ, chậm hơn các loài Ngựa khác, nhưng bền bỉ và có thể chạy đường xa. - Nước là nhu cầu thiết yếu; vì vậy khi di chuyển, Ngựa Vằn luôn bám gần nguồn nước. - Ngựa Vằn thường sống chung với Linh Dương và họp quần gây sức mạnh. - Với đà tiến của Xã Hội ngày nay, loài Ngựa Vằn bị cướp dần nguồn nước và trên 2 thế kỷ qua, loài Người đã cố thuần hoá loài Ngựa Vằn, nhưng không thành công. Chúng ta chỉ thấy Ngựa Vằn được nuôi trong các Sở Thú.
Nói về loài Ngựa, chúng ta không thể quên nhắc đến một phương tiện chuyên chở rất phổ biến tại vùng Sài Gòn – Gia Định, Việt Nam trước đây; đó là những chiếc Xe Thổ Mộ đã xuất hiện từ khoảng thập niên 80/Thế kỷ 19, Mãi đến năm 1954-1960 khi học Trung Học, chúng tôi vẫn còn thấy những chiếc xe Thổ Mộ giữa Thủ Đô Sài Gòn. Xe Thổ Mộ có nguồn gốc từ những chiếc xe song mã sang trọng của Vua Chúa, của giới thượng lưu tại nước Pháp, Người dân Miền Nam Việt Nam đã cải tiến cho thích hợp với địa hình của miền quê sông nước. Xe Thổ Mộ có 2 bánh xe bằng cây rất lớn; thân xe trang trí rất đẹp, được kéo bởi một con Ngựa khoẻ mạnh. Xe song mã thì được kéo bằng 2 con Ngựa. Người ta phải đóng móng ngựa bằng sắt thì nó mới chạy xa được. Khi xe chạy phát ra âm thanh lọc cọc, lách cách và thỉnh thoảng nghe tiếng Ngựa hí cũng vui tai. Mắt Ngựa thường được che hai bên, con Ngựa chỉ nhìn về phía trước; không biết có phải là để cho con Ngựa không bị chi phối bởi những sự ồn ào ở chung quanh. Dù vậy, thỉnh thoảng cũng có những chú Ngựa « chứng », chòm lên cao hoặc kéo chiếc xe chạy thật nhanh, làm cho hành lý bị quăng tứ tung và hành khách một phen khiếp vía! Chiếc xe Thổ Mộ tuy nhỏ, nhưng đa dụng, có thể gồng gánh chở chuyên từ 5-7 người cùng với hành lý nặng nề. Đặc biệt, trên lộ trình, xe có thể dừng lại dễ dàng bất cứ chỗ nào. Hình bóng những chiếc xe Thổ Mộ là kỷ niệm thân thiết của người dân Nam Bộ; cũng là một nét Văn hoá bình dị của vùng đất Phương Nam . Trong lịch sử Việt Nam, Phù Đổng Thiên Vương đã cỡi Ngựa Sắt, đánh tan giặc Ân xâm lược, rồi phi Ngựa lên núi Sóc Sơn mà biến mất. Đây là một hình ảnh kỵ binh đầu tiên của nước ta . Ngày xưa, các Vị Tướng thường cỡi Ngựa Chiến xông pha vào trân mạc .Tại các nước Âu Mỹ, chúng ta đã có dịp chiêm ngưỡng những pho tượng đồng to lớn ghi tên thật trang trọng để tưởng niệm những vị tướng tài của Đất Nước và Dân Tộc. Alexander ( 356-323 TCN ), Hoàng Đế Macedonia đã chinh phục Ba Tư ; Thành Cát Tư Hãn ( 1162-1227 CN ) , một Đại Hãn của Mông Cổ đã có dã tâm xâm lược từ Á sang Âu ; Napoleon ( 1769-1821 ), Hoàng Đế nước Pháp, một tài năng quân sự, một nhà lãnh đạo phi thường, được xem là Thần chiến tranh... Tất cả đều có biệt tài cầm quân, bách chiến bách thắng và đã xử dụng những đoàn kỵ binh thần tốc, tinh nhuệ, Những tượng đài tưởng niệm, ghi công các vị nầy đều với hình tướng oai nghi trên lưng chiến mã. Con Ngựa gắn liền với những chiến công hiển hách! Những chiến sĩ dọ thám, liên lạc, truyền tin, vận chuyển, cũng dùng Ngựa để vượt qua hàng trăm cây số , ngược xuôi giữa các chiến trường . Ngày nay, binh chủng Thiết Giáp được gọi là Kỵ binh, mang ý nghĩa cỡi ngựa ( từ trên xe bọc thép ) mà chiến đấu; khác với bộ binh. Khi bạn bè , người thân thuộc làm lễ khánh thành một cơ sở kinh doanh, về nhà mới hoặc trước một chuyến đi xa... người ta thường tặng một bức tranh « Mã Đáo Thành Công » mang ý nghĩa cầu chúc tốt đẹp nhứt. Câu đầy đủ là: « Kỳ khai đắc thắng , Mã đáo thành công », có nghĩa: Khi cờ đã phất ( xuất quân hay bắt đầu làm một việc gì ) thì phải đại thắng và Ngựa quay về để báo tin thành công! Bức tranh thường vẽ hình 8 con Ngựa khoẻ mạnh, phi nước đại, cát bụi tung bay và tất cả đều chạy về một hướng, mang ý nghĩa của sự dũng mãnh , nhanh chóng, cùng một chí hướng, đạt sự thành công. Theo Hán văn, Tám là « Bát », cùng âm với « Phát », nên bức tranh có 8 con Ngựa. Năm 1789, sau khi đại thắng quân Thanh xâm lược vào đầu Xuân Kỷ Dậu, Vua Quang Trung đã cho kỵ sĩ đem về tặng Công Chúa Ngọc Hân một cành Đào và báo tin chiến thắng ; đây cũng là một hình ảnh mang ý nghĩa « Mã đáo thành công ». Dân Ca Nam Bộ thì có bài Lý Ngựa Ô, rất hay nhưng chưa biết tên tác giả.
Nhiều ban hợp ca nổi tiếng đã trình diễn và được sự ái mộ của khán thính giả khắp nơi, Chúng tôi cũng không quên bản nhạc « Ngựa Phi Đường Xa » của Lê Yên, một thời đã gắn liền với tên tuổi Ban hợp ca Thăng Long và lưu lại biết bao nhiêu kỷ niệm khó quên. Ở hậu phương thì có những Trường Đua Ngựa để vui chơi, giải trí, nhưng đôi khi, cũng vì lòng tham, người ta đã cá độ ăn thua rất lớn, đã có người vỡ nợ, phá sản, tự tử như một vài trường hợp đã xảy ra tại Trường Đua Ngựa Phú Thọ tại Sài Gòn hoặc rải rác đó đây. Trong mỹ nghệ tranh sơn mài, chúng ta thấy những bức tranh mang chủ đề « Vinh Quy Bái Tổ »: Một Thư sinh miệt mài kinh sử , sau khi thi đậu Trạng Nguyên được Vua ban cho bổng lộc, cỡi con Ngựa quý, chung quanh có cờ lộng, có quân hầu, trở về thăm quê hương, gia đình. Người vợ thương yêu từ thuở cơ hàn, đã từng tần tảo lo cho chồng ăn học, nay cũng được thơm lây, ra đầu làng đón chồng và được binh lính võng đi sau chồng; nên bức tranh còn có tên là « Ngựa anh đi trước, Võng nàng theo sau » và cũng mang ý nghĩa « Mã Đáo Thành Công »! Cá Ngựa là động vật sống ở biển nhiệt đới , mình dài khoảng 1,5 đến 3,5 cm , là một loại thuốc quý tại vùng Đông Á, Tàu Cộng, Việt Nam... Đặc biệt, cá Ngựa, cũng như cá chìa vôi, con đực mang thai và sinh con. Cá Ngựa còn có cái vòi dài để bắt mồi cũng như cái đuôi dài để quấn chặt vào tảo biển, không bị nước cuốn trôi đi. Mỗi năm, hàng chục triệu cá Ngựa bị đánh bắt để làm thuốc; vì vậy số lượng bị giảm lần và có thể bị xoá tên, nếu con người không có kế hoạch, không có những điều luật bảo vệ hợp lý!
Trong các trung tâm phố trên nưóc Đức, chúng tôi thường thấy vài người Cảnh Sát cỡi những con Ngựa rất cao lớn, khoẻ mạnh tuần hành chậm rãi để giữ an ninh cho mọi người và cũng tạo nên một hình ảnh đặc thù, một nét mỹ quan cho xứ sở của họ.
Người Đức còn tổ chức thường xuyên những cuộc biểu diễn, thi đua cỡi Ngựa vượt qua các chướng ngại vật, các hàng rào rất cao... Những người điều khiển con ngựa của mình thật khéo léo, tài ba.
Thời bình, chúng ta thử hình dung, nếu trong nhà có nuôi một hai con Ngựa, chiều chiều cỡi ngựa dạo chơi trong trang trại hoặc thăm viếng bạn bè, nhăm nhi vài chén trà, chung rượu... thì vô cùng hạnh phúc. Lại có thêm một chiếc xe Thổ Mộ để cả nhà di chuyển đó đây, đi chợ, đi mua sắm, chở chuyên vật dụng. Vừa thuận tiện, vừa vui và đở tốn kém cho ngân quỹ gia đình.
Đặc biệt hơn, trong lịch sử Phật Giáo, hình ảnh con Ngựa cũng rất gần gũi, thân thương: Khi quyết chí xuất gia, quyết tâm cắt ái lìa thân, giã biệt vợ đẹp, con xinh, giã biệt Vua Cha, triều đình và bao nhiêu quyền uy tột đỉnh... Thái Tử Tất Đạt Đa, giữa đêm khuya đã cùng với người hầu cận là Sa Nạc, cỡi con Ngựa Kiền Trắc rời hoàng cung lên tận rừng sâu ( Sau nầy có tên là Khổ Hạnh Lâm ) và tu hành khổ hạnh suốt 6 năm trường cho đến khi đạt thành Đạo quả:
« Bán dạ du thành xuất gia tầm Đạo Lục niên khổ hạnh trú tại thâm sơn Nhứt đỗ minh tinh chứng thành Phật quả » ( Trích bài Đảnh Lễ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật )
Trong hội hoạ, trong văn thơ, loài Ngựa cũng hiện diện trên nhiều tác phẩm rất nổi tiếng. Trước khi kết thúc bài nầy, người viết thân ái kính mời quý Anh Chị Em, bạn bè thân hữu, nhất là quý Vị có độ tuổi 60-70, xin hảy cùng chúng tôi hồi tưởng những năm tháng hồn nhiên, xuân trẻ dưới các mái trường Trung Học Đồng Nai, Văn Thanh, Văn Lang, Petrus Ký, Nguyễn Văn Khuê, Võ Trường Toản hoặc Gia Long, Trưng Vương... tại Thủ Đô Sài Gòn . Trong không khí của một đất nước tự do, thanh bình, với một nền giáo dục « nhân bản », « dân tộc » và « khai phóng »; nhằm mục đích phát triển toàn diện cho mỗi học sinh, mỗi cá nhân về tinh thần quốc gia, tinh thần dân chủ, khoa học... Ngoài các môn Sử, Địa, Toán, Lý, Hoá, Hình học, Âm nhạc, Sinh ngữ,... chúng ta đã được học Văn với các Vị Giáo Sư nổi tiếng như Thi sĩ Vũ Hoàng Chương, Trần Bích Lan, Lữ Hồ v... v... Chuyện Kiều của Nguyễn Du, Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đặng Trần Côn cùng với những bài thơ của Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ, của Cao Bá Quát, Trần Tế Xương, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan... đã ghi vào tâm tư của chúng ta đầy ắp những kỷ niệm, những vốn liếng Văn chương không bao giờ phai nhạt được! Phải không quý Vị.
Chào mừng năm mới Giáp Ngọ, cầm tinh con Ngựa, chúng tôi xin được ghi lại một vài đoạn thơ trong Chinh Phụ Ngâm Khúc ( Bản dịch của Bà Đoàn Thị Điểm ) Một kiệt tác mang nặng tâm tư, tình cảm, nỗi buồn thương ai oán của người Chinh Phụ:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên Xanh kia thăm thẳm từng trên Vì ai gây dựng cho nên nỗi nầy
Giữa cảnh thiên nhiên thật hữu tình, người vợ trẻ phải tiễn đưa chồng ra biên ải, đối diện với làn tên, mũi giáo hiểm nguy, lòng buồn dào dạt, than cho thân phận, không sánh bằng con Ngựa luôn được gần gũi bên người chồng thương yêu của mình:
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc Đường bên cầu cỏ mọc còn non Đưa chàng lòng dặc dặc buồn Bộ không bằng ngựa , thuỷ không bằng thuyền
Đâu đây trong tác phẩm nhiều lần tác giả đã vẽ lên hình ảnh của con chiến Mã, như người bạn đường thân thiết và đồng cam cộng khổ, sẵn sàng sống chết với người xông pha vào trận địa; đã có biết bao nhiêu người chiến sĩ trở về với « da ngựa bọc thây »!
Chí làm trai dậm nghìn da ngựa Gieo Thái Sơn nhẹ tợ hồng mao Giã nhà đeo bức chiến bào Thét roi cầu Vị ào ào gió Thu
Như một bức tranh thuỷ mạc, tác giả Đặng Trần Côn đã mô tả hình ảnh chiến trường hiểm nguy bằng 2 câu thơ đầy thi vị:
Xông pha gió bãi trăng ngàn Tên reo đầu ngựa giáo lan mặt thành
Hình ảnh người Chinh Phu mang võ phục màu đỏ tợ như ánh nắng chiều, oai nghi trên lưng con tuấn mã màu trắng tinh anh như tuyết; buồn mà rạng rở làm sao:
Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử Tới Man Khê bàn sự Phục Ba Áo chàng đỏ tựa ráng pha Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in
Đặng Trần Côn , như là một hoạ sĩ tài ba, ông đã dùng những vần thơ tuyệt tác gợi cho người đọc thấy hiện lên trước mắt một bức tranh thật sống động: Một đoàn quân với cờ xí tung bay, với tiếng nhạc ngựa hoà trong tiếng trống và nơi đây hai người thương yêu phải chia rẽ, cách xa...
TIếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống Giáp mặt rồi phút bổng chia tay Hà Lương chia rẽ đường nầy Bên đường trông bóng cờ bay bùi ngùi
Người Chinh Phụ tiễn đưa chồng vạn dậm lên đường; nỗi sầu thương cao ngất , không biết ai buồn hơn ai! Cú pháp so sánh ý nhị của tác giả Đặng Trần Côn, qua tài chuyển dịch điêu luyện của Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã nói lên tấm lòng tha thiết của người vợ chiến binh trong tuyệt phẩm Chinh Phụ Ngâm Khúc.
Quân trước đã gần ngoài doanh liễu Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương Đưa chàng vạn dậm lên đường Lòng chàng ý thiếp ai buồn hơn ai !
Lỡ sinh ra và lớn lên trong thời chinh chiến, bản thân người viết, từ thời xuân trẻ và trong suốt cuộc đời, đã trải qua biết bao nhiêu lần phải giã biệt vợ con, thân nhân gia đình, để lên đường nhập ngũ, phải đi xa, hay những năm dài vào tù ra khám... Chúng tôi cảm thông sâu sắc với những cuộc chia ly!
Trước thềm năm mới, chúng tôi tha thiết mong rằng, Xuân Giáp Ngọ quay về, móng ngựa cứng cáp sẽ xua tan cường hào ác bá, dẹp tan tham nhũng, độc tài, chiến tranh, khủng bố, để cho nhân loại khắp nơi trên thế giới « Thân Dậu niên lai kiến thái bình » và được sống trong cảnh đoàn viên, an lành, hạnh phúc.
Nhựt Trọng . |
| | | thanhdo Khách viếng thăm
| Tiêu đề: Re: Ngựa Trong Đời Sống & Trong Văn Thơ Sun Jan 26, 2014 9:34 am | |
| Ngàn Lẻ Một Chuyện Lạ Về Ngựa
Mường Giang
Nhìn những con ngựa đẹp đẽ và kiêu hùng ngày nay, không mấy ai có thể tin được là tổ tiên của chúng ngày xưa bé nhỏ như một con cáo với cái tên gọi Echiput, sống trong những khu rừng ẩm ướt ở Bắc Mỹ, cách đây hơn 50 triệu năm. Trải qua bao nhiêu lần tiến hóa, loài ngựa mới có được bộ dạng hiện tại. Nhưng trên hết cũng nhờ sự thuần hóa sớm sủa của con người, nên ngựa đã trở nên một nhân vật hữu dụng, đồng hành với thế nhân suốt các đoạn đường lịch sử. Tại Đông Phương cách đây khoảng 2000 năm trước Tây Lịch, ngựa đã dùng để kéo chiến xa, rồi trở thành chiến mã và kỵ binh, là lực lượng chủ yếu trong tất cả quân đội trên thế giới, suốt thời trung cổ. Ngựa cũng là một trong sáu con vật thân thương rất gần gũi với con người, là phương tiện giao thông hữu hiệu khi tàu bè, phi cơ, xe cộ chưa được phát minh. Cũng do sự gắn bó quá mật thiết giữa người và ngựa, nên trong kho tàng văn chương nhân loại, qua các thời đại, đã tiềm tàng không biết bao nhiêu chuyện lạ về ngựa.
Viết về con vật thân quý này, làm sao chúng ta có thể quên được những ngày binh đao lửa khói, làm vỡ nát da thịt quê hương. Chiến địa đạn bay, ly bồ đào mỹ tửu trên tay những người lính trẻ, chưa kịp cạn thì ngựa đã hý vang từng hồi giục giã; Ôi “Túy ngọa sa trường quân mạc vấn, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Thương thay bầy ngựa Hồ sa cơ, bao nhiêu mỏi mòn hý gió bấc, chờ ngày quay về tàu ngựa cũ. Quay về, hãy nhắc nhau đi hỡi những con chiến mã của một thời ngang dọc
ta là con ngựa trận xông xáo khắp mười phương từ miền trung hỏa tuyến đến tận nước non cùng
1- PHẢ HỆ CỦA NGỰA:
- Akhal-Teke: Là chúa tể trong sa mạc Karakoum. Nó chính là tổ tiên của tất cả những ngựa giống trên thế giới. Ngày xưa, những cuộc trường chinh từ Âu sang Á hay ngược lại, Xerxès, Alexandre và Mogho… đều dùng nó làm kỵ binh xung trận. Thánh địa của loài ngựa trên, hiện là trại ngựa giống của quốc gia Turkméniatan, nằm ngoài thủ đô nước này là Achkhalan chừng vài chục cây số, gần biên giới Ba Tự chỉ có sa mạc cát và những rặng núi trùng điệp của Kopei và Khorassan. Nhờ tuyết tan vào mùa hè đã tưới bón những cánh đồng cỏ, nuôi sống những con ngựa hoang quen sống đời tự do bay nhảy. Những lúc thiếu cỏ, bầy ngựa hoang trên đã vượt biên giới sang nước láng giềng để kiếm ăn, và lúc trở về, với vó câu của hơn 200 con hoang mã phi nước đại, sức mạnh có thể bạt núi, xô thành, khiến cho con người và xe cộ ngược chiều phải nhào xuống hai bên vệ đường để khỏi bị chết bẹp. Akhal-Teke là một sáng tạo tuyệt vời của tạo hóa, có dáng điệu nhanh lẹ như một con chó săn với các bắp thịt ngực cuồn cuộn nở, mặt nhô ra còn đôi mắt như có hào quang luôn nẩy lửa khi đối diện với kẻ thù. Nhưng theo các nhà nghiên cứu thì chính cái cổ mềm mại như cổloài Thiên Nga, mới chính là yếu tố đưa nó lên ngôi chúa tể của loài ngựa. Cảcái tên ngựa cũng mang tính huyền thoại, nó mang tên ốc đảo Akhal và bộ tộc Teke, là địa danh và tên người cư ngụ tại đây từ ngàn đời. Tóm lại hầu hết các dân tộc miền Trung Á như Turkménistan, Massagètes, Paarthes, Alains, Pghouzs, Qarlougs …kể luôn cả người Ba Tư nói rằng nó là hóa thân của Thượng Đế. Chứng tích huyền thoại trên, ngày nay đã được tìm thấy trong những bản thánh ca sơ khai của Avesta, thuộc Ba Tư cổ, hiện được Turkménistan viết lại.
- Ngựa Nisa: Là tổ tiên của giống Akhal-Teke mà quân đội Xerxes rất lấy làm hãnh diện. Nisa là tên thủ đô của vương quốc cổ Parthes, cách Achkhabab ngày nay không bao xa. Từ thời xưa, Nisa được người đời xưng tụng là ngựa vàng, vì màu vàng là điểm độc đáo nhất, của giống ngựa hoang Akhal-Teke và dân tôc Turkménistan. Ngày xưa, các vua chúa tôn sùng ngựa Nisa đến độ khi chết phải đem ngựa theo xuống nhà mồ. Những vị anh hùng như Karkara Ahmed và Allaouddin Pacha mà huyền thoại là những người đầu tiên của miền Trung Á đã cùng với đoàn Kỵ binh Nisa, vượt rặng Caucase và biển Caspienne để chinh phục Constantinople, khi chết đã chôn chung với ngựa, giống như các danh tướng đời nhà Hán như Ban Siêu, Mã Viện … gần trọn đời bôn ba trên lưng tuấn mã, đến khi chết thì da ngựa bọc thây. Đó mới chính là thanh khí của bậc đại trượng phu, quân tử mà Đông, Tây thời nào cũng có. Riêng con ngựa giống của quốc vương Osman 2, thì sống quãng đời còn lại của nó tại lăng miếu của ông ta cho tới lúc chết.
- Loài Ngựa Hoang Cuối Cùng: Hiện nay có thể nói là gần hết ngựa hoang còn sót lại của thời hồng hoang mấy chục năm về trước, đã bị con người thuần hóa. Thếnhưng loài ngựa giống nổi tiếng Przewalskii, vẫn là loài ngựa thời tiền sử cuối cùng còn lẩn trốn và tồn tại trong thiên nhiên, qua sự săn đuổi tận tuyệt của con người. Sự phát hiện về con vật tiền sử trên vào năm 1878, khi Đại tá Nikolai Przewalskii thuộc quân đội của Sa Hoàng, khi đến công tác tại cánh đồng cỏ vùng Ngoại Mông, đã nhìn thấy ở đó có một con ngựa chưa hề thấy bao giờ. Nó thấp và có thân hình ngắn kể cả bốn chân, còn bờm thì dựng đứng lên trên gáy. Con ngựa này đã làm giới khoa học thời đó bàng hoàng vì chính họ cũng không thể xác nhận được lý lịch và nguồn gốc của nó. Qua bao nhiêu năm ròng rã theo gót ngựa hoang, giờ đây bí mật đã được vén, và nó qua cái tên khoa học là Equus Przewalskii, nhóm ngựa hoang cuối cùng trong loài ngựa, chưa hề bị con người chinh phục. Nó sống thành từng đàn tự do trong thiên nhiên và dĩ nhiên bị săn đuổi khủng khiếp, chẳng những từ các nhà khoa học, sở thú mà ngay những gánh xiếc cũng muốn có một con ngựa như vậy để minh chứng hùng hồn với nhân loại về nguồn gốc của loài ngựa. Hiện đàn ngựa trên gần như biến mất tại Mông Cổ, nhưng khắp nơi trên thế giới còn tồn tại được 52 con ngựa giống trong các sở thú. Điều bất nhẫn cho số phận nhóm ngựa quý này là những con ngựa tuy được mang tên Przewalskii nhưng các thế hệ sau đã bị con người lai giống nên đã không còn thuần chủng nữa. Cuối cùng sự bất lực vẫn làm giới khoa học điên đầu như thuở nào, nên chỉ còn biết thả chúng về lại cánh đồng hoang cựu tổ tiên từ triệu triệu năm về trước, may ra đàn ngựa hoang nguyên thủy mới có cơ hội không bị tuyệt diệt.
- Ngựa Vằn: Quan sát kỹ bầy ngựa vằn đang gặm cỏ trên cánh đồng, nhiều người đã hoa mắt vì không biết chúng nó vằn màu trắng hay màu đen. Tóm lại chẳng có con nào giống con nào, nhưng điều khám phá lý thú nhất của giới khoa học, khi phát hiện chính những hoa văn trên đầu, mới chính là căn cước cá nhân của giống vật này, để bọn chúng tìm về phả hệ. Theo nhà khoa học Đức Josef Reichholj, giải thích về lý do tại sao ngựa lại có vằn. Khi chúng từ Á-Âu di cư sang lục địa Phi Châu, đó là những vùng da có chứa sắc tố sẫm, hay còn gọi là chất lẳng Mélanine xuất hiện để chúng ứng phó hợp thời khi sinh sống tại vùng đất mới. Ngoài ra, sự xuất hiện những vằn đen trắng trên da ngựa, cũng là sự kỳ diệu của tạo hóa, vì nhờ sự xen kẽ của những giải sọc đối chọi nhau, ngựa vằn ít khi bị sát hại bởi loại ruồi Tsé-tsé, gây cho con vật căn bệnh ngủ thiên thu. Cũng có nhiều giả thuyết khác cho rằng, những vằn trên lưng ngựa, chính là hình thức ngụy trang để trốn lánh các thú dữ, nhất là sư tử. Các vằn còn là cái máy điều hòa không khí, để ngựa luôn luôn có một thân nhiệt thích hợp nơi sa mạc nóng bỏng ban ngày và buốt giá về đêm. Tuy nhiên, sự đồng nhất trong nhiều giả thuyết, vẫn là lý do ngựa vằn có vằn, cốt để phân biệt sự lẫn lộn giữa ba loài trên hiện còn tồn tại. Tóm lại, qua bao triệu năm đời đổi, tiến hóa, hiện nay phả hệ nhà ngựa (Equidate) còn gồm 6 loại tồn tại:
- Ngựa Nhà: (Equus Domesticus) Hiện nay có mặt khắp nơi trên thếgiới, gồm chừng 100 nòi khác nhau, được dùng trong mọi công việc từ kỵ binh, kéo xe, thể thao, làm xiếc, đồng áng…Nhiều nòi ngựa nhà nổi tiếng từ cổ chí kim mà ai cũng biết tới như : *Ngựa Mông Cổ : Có tầm vóc trung bình cao 1m4, thân hình cân đối, bụng thon, ngực nở, bốn chân rất khỏe, màu lông đỏ hay nâu sẫm. Đặc biệt nòi ngựa này rất dai sức, có thể phi nước kiệu trong vòng 10 giờ liền, với tốc độ tối đa là 40km/giờ. Cũng do yếu tố trên, mà thuở xưa nó đã trở thành Thiên Lý Mã và giúp cho đoàn quân viễn chinh Mông- Nguyên, trở thành bá chủ từ Á sang Âu, trong suốt thế kỷ 8 tới 13 sau Tây Lịch.
* Ngựa Ả Rập: Đây cũng là những con chiến mã vang danh thiên hạ có tầm vóc trung bình cao từ 1m35 tới 1m4, dai sức khỏe mạnh không thua kém ngựa Mông Cổ. Vì ngựa có sắc lông màu nâu điểm đốm trắng nên còn được gọi là ngựa hoa mai. Ngựa rất thích nghi với khí hậu khô hạn của miền sa mạc cát gió tại bán đảo Ả Rập miền Trung Cận Động . Cũng nhờ đoàn kỵbinh hùng dũng này, mà đế quốc Hồi Giáo Ả Rập đã bành trướng mạnh mẽ trong suốt thời trung cổ. Ngày nay, ngựa này vẫn là những con ngựa đua nổi tiếng rất được nhiều người ưa chuộng.
* Ngựa Anh: Nòi ngựa này có tầm vóc cao lớn, từ 1m4 tới 1m5, nặng tới 400 ký, gồm Hồng Mã (màu nâu đỏ) và Bạch Mã (màu lông trắng). Vóc dáng cũng khỏe mạnh cân đối như các nòi ngựa chiến trên, nên thuở xưa, nước Anh giữ ngôi vị bá chủ thế giới trong hằng bao thế kỷ cũng nhờ đoàn kỵ binh kiêu hùng và thiện chiến. Hiện nòi Bạch Mã Anh rất quý hiếm, luôn được sử dụng trong các cuộc thi tài thế vận .
* Ngựa Cabardin: Sinh sống tại các nước Bắc Âu và Nga La Tư, cao và nặng như loài ngựa Anh, chịu được khí hậu băng giá miền Bắc Cực, lại rất hữu dụng trong mọi công việc, từ ngựa trận, ngựa đua cho tới thồ hàng và kéo xe. Ngựa Cabardin hiện lai giống gồm 2 nhánh, ngựa Buclionnui có bộ vóc nhanh khỏe dung trong quân đội tại miền rừng núi hiểm trở, không sử dụng được cơ giới và phi cơ, nhánh Vladimia có bộ vóc thô kệch nhưng giỏi chịu đựng, dùng thồ hàng, kéo xe có trọng tải tới 2 tấn .
* Ngựa Việt Nam: Hiện nay cả nước có chừng 180.000 con ngựa các loại, 70% tập trung tại miền thượng và trung du Bắc Việt, dùng để cưỡi, kéo xe, thồ hàng và sử dụng trong quân vụ. Từ năm 1977, VN nhập cảng nòi ngựa Cabardin của Liên Xô để lai giống với nòi ngựa cũ, vốn có vóc dáng nhỏ bé so với các loài ngựa khác trên thế giới, cao không quá 1m2, nặng chừng 170 ký, tốc độ chỉ đạt được 18km/giờ, thồ chừng 50kg và kéo tối đa 700kg. Trước kia, VN có trại lai giống ngựa tại Nước Hai (Cao Bằng), hiện nòi ngựa mới, qua sự lai giống giữa ngựa VN, Mông Cổ và Cabardin gồm 2 nhánh F1 (50% VN+50% Cabardin) và F2 (75%VN+25% Cabardin), có vóc dáng cao lớn và cân đối hơn ngựa VN, lại thích hợp trong mọi điều kiện hoàn cảnh và khí hậu nhìn rất đẹp nhờ có màu lông đồng đều .
- Ngựa Rừng: Gồm các loại ngựa đã kể trên.
- Ngựa Vằn: (Hippotigris Zbeea) Có tầm vóc như ngựa nhà, lông có các vằn trắng xen nâu đen, sống thành từng đàn nơi hoang dã tại rừng núi sa mạc thuộc các nước Đông Châu Phi . Hiện còn tồn tại ba nhóm ngựa vằn : Hartmannn dễ nhận biết nhờ cái yếm dưới họng, Ngựa Vằn Tai Lừa (Equus Grevyi) có nhiều vằn hẹp và tai thẳng giống tai lừa, phủ đầy lông dầy,đây là loài ngựa vằn dễ dạy hơn cả được thuần hóa như ngựa để cỡi hay kéo xe tại các nước Abyssini, nam Sydan, Đông Phi, Somali. Nhóm ngựa vằn cuối cùng đông đảo hơn cả và ở rải rác khắp Châu Phi, đó là Grant, có các vằn đen trắng rất đẹp, đặc biệt trên mõm có một đóm nâu, sống lẫn lộn với Linh Dương và các loài thú ăn cỏ.
- Lừa Rừng Châu Phi: Gồm 2 loài Asinus Africannus và Asinus Somaliensis, hiện sống tại miền rừng núi Nigeria, Somali và Congo.
- Lừa Nhà: (Asinus Asinus) Được thuần hóa từ lừa rừng, phát xuất ở Á Châu, và ngày nay cũng như ngựa có mặt khắp hoàn cầu. Lừa cao khoảng 1m4, nhìn giống ngựa nhưng từ thân hình tới 4 chân rất thô kệch, lại chậm chạp và khó dạy, nên chỉ dùng để kéo xe và cày bừa. Ngoài ra còn có La là một loài lai giữa cha Ngựa, mẹ Lừa. Cả La cũng như Boodo chạy chậm nên chỉ dùng để kéo xe mà thôi. Đặc biệt hai loài trên không sinh sản được.
2- CÁC LOẠI TƯƠNG CẬN VỚI NGỰA:
Cùng nhóm thú móng guốc, ăn cỏ rất gần gũi với ngựa hiện nay, ta thấy còn có Heo Vòi (Tapiradae), Tê Giác (Rhinocertidae), Lợn Lòi Phi Châu (Phacochaerus Aethiopcus) và Hà Mã (Hippopotamiedae).
- Heo Vòi: Có tên khoa học là Tapiridae, dù bộ dạng nhìn hơi giống lợn nhưng thực ra giữa 2 loài không có huyết thống họ hàng gì cả. Loài thú móng guốc này có một cái mũi được kéo dài thành một cái vòi ngắn, nên được gọi là Heo vòi. Trong thời kỳ đệ tam địa chất, họ hàng heo vòi sinh sôi nẩy nở khắp địa cầu. Ngày nay chỉ còn 3 loài sống tại Châu Mỹ La Tinh và một loài khác tại Ấn Độ. Đó là Heo Vòi Đất (Tapirus Terrestris), cao chừng 1m và dài 2m, hoạt động ban đêm, màu da xám nâu nhạt, lông ngắn và thưa …hiện sống thành đàn tại miền rừng núi nhiệt đới, thuộc các vùng đông bắc Nam Mỹ, ăn hoa quả và các cành cây nhỏ. Heo Vòi Đất hiền lành nên là mồi ngon của Báo bờm, Báo sư tử. Heo cũng được các thổ dân trong vùng thuần hóa khi còn nhỏ, để sử dụng như ngựa.
- Tê Giác: Là loài thú sắp bị diệt chủng, hiện chỉ còn một số rất ít trong họ này tồn tại gồm 21 loài. Trong số 5 loài sống sót tại Trung và Đông Phi chờ xóa tên trong thế giới động vật, dù được bảo vệ tại các vườn thú quốc gia. Có loài Tê Giác hai sừng (Diseros Bicornis), loài này có chiều dài tới 3m4, đuôi 0m7 và cao 1m6. Có hai sừng, cái trước dài 1cm hơn cái sau. Thường Tê Giác có màu da xám nâu nhạt nhưng lại đổi màu theo bùn đất trong các ao lạch mà chúng dầm mình hàng ngày, ăn lá và cành cây, rất dễ bị phát hiện vì thói quen và mùi hôi đặc biệt. Tê Giác hiền lành, chỉ chống trả khi bị người và các loại thú khác tấn công. Trong rừng, sư tử là chúa tể sơn lâm, nhưng vẫn ngán sợ voi, hà mã và tê giác.
Ở loài này, cái sừng nhọn là biểu tượng của sức mạnh long trời lở đất, nhưng cũng chính cái sừng này làm cho nó bị diệt chủng. Khởi đầu và kết thúc cũng đều là người Hoa khi dùng bột sừng Tê Giác làm thuốc kích dục, cường dương. Bởi thế, giá một ký sừng hiện nay lên tới 100.000 phật lăng. Tê giác mẹ mang thai từ 450 đến 490 ngày mới sinh nở, và thú con đã nặng trên 20kg. Mẹ con sống với nhau cho tới khi Tê Giác mẹ mang thai tiếp, thời gian này thường kéo dì tới 4 năm . Một bất hạnh khác của chúng là số phận đã bị vua chúa, quý tộc và bọn trưởng giả Tàu từ thời phong kiến, chọn làm thức ăn trong thập trân, đó là món “Da Tê Giác Tây Tạng”. Ai cũng biết da loại thú này dày hơn một tấc, cứng gần như sắt thép, các vũ khí thông thường không thể sát hại nỗi. Nhưng cay nghiệt thay, lớp da nơi nách và háng lại mềm, đây chính là phần được dùng để chế món thập trân. Da được cạo hết lông, lọc bỏ hết phần mỡ, ban ngày phơi nắng, tối đốt lửa sấy đúng 100 ngày, đoạn đem tẩm rượu Mai Quế Lộ một tháng, rồi lại phơi khô, sau đó mới đem cất vào hộp vàng hay bạc, để giữ nguyên hương vị. Lúc ăn lại đem da ngâm vào nước tro thảo mộc trong một tuần, sau đó rửa sạch rồi đem hấp cách thủy. Món này ăn rất ngon, giòn và trân quý như Nem Công Chả Phượng. Từ năm 1973, một hội nghị quốc tế tại Hoa Thịnh Đốn, quy định việc mua bán, bảo vệ cho loài thú này, nhưng thật là điều khó khăn vì giá thú càng lúc càng cao, theo túi tiền đầy ắp của các xì thẩu đang no cơm ấm cật.
- Hà Mã: Là con vật xuất hiện từ thời tiền sử, đầu tiên sống tại Âu Châu, có trọng lượng và hình dáng to lớn như voi và tê giác. Hà Mã cao tới 1m5, dài 4m5 và nặng từ 2 đến 3 tấn, sống thành đàn tại các vùng đầm lầy hiểm trở thuộc Trung Phi, ăn thực vật, da dày như tê giác không có lông, thường mang các màu hồng nhạt, nâu và xanh lam. Ngoài thời gian kiếm ăn vào ban đêm, chúng chỉ ngâm mình dưới nước trong suốt thời gian còn lại.
- Zebroid, Con thú lai Ngựa Vằn và Ngựa: Zebroid là kết quả phôi giống giữa vằn và ngựa, một con vật thuộc họ ngựa, lừa. Thông thường khi lai giống, người ta chọn cha là ngựa vằn, mẹ là ngựa nhưng đôi khi cha là lừa, mẹ là ngựa thì kết quả cũng thế thôi tuy rất hiếm. Những con vật lai này có sọc vằn ở chân và vài nơi trên cơ thể.
3- ĐẶC TÍNH TÂM SINH LÝ CỦA LOÀI NGỰA:
Trong 6 con vật gần gũi và thân thương nhất của loài người, như trâu, bò, ngựa, chó... ngựa ghé vai gánh vác chuyện thiên hạ nhiều đến nỗi không kể hết. Cũng vì vậy nên đừng ngạc nhiên, khi thấy tên ngựa hầu như hiện diện khắp nơi kể cả trong giấc mơ, chẳng hạn như ngủ thấy ngựa múa, đá, hay ta đang cỡi ngựa là điềm cực hung, nếu không bị tan gia bại sản thì cũng mất mạng. Ngược lại, thấy ngựa đi ngàn dậm hay cắn là hỷ sự thắng lớn. Tóm lại vì quá đặc biệt, nên con vật này như có ngàn lẽ một câu chuyện để nói mãi không ngán.
Người đời thường nói: “Thẳng như ruột ngựa” là đúng vì ruột ngựa dài tới 22m, chỉ thua ruột trâu bò, nhưng manh tràng lại là một cái túi bịt đáy, dài chừng 1m và đường kính 0,2m, có thể chứa được 30 lít nước. Nhờ các vi khuẩn trong manh tràng, giúp sự lên men thức ăn, làm cho ngựa tiêu hóa dễ dàng. Ngựa không thuộc loại nhai lại dù cũng ăn cỏ như trâu bò, vì không có dạ dày 4 ngăn, còn manh tràng thì được xếp thành một túi thẳng trong khoang bụng, nên thường gọi là thẳng như ruột ngựa. Trước khi được thuần hóa, loài ngựa sống tại các thảo nguyên trống trải, nên trời cho đôi mắt thật tinh để phát hiện kẻ thù kịp thời, xa hàng trăm mét, tuy nhiên chỉ phân biệt được 4 màu đỏ, vàng, xanh lá cây và da trời. Mũi cũng thính, có thể tìm được mạch nước ngầm sâu dưới mặt đất, hay mùi cách xa cả km.
Ngựa sống từ 30-40 năm, có con thọ tới 60 tuổi. Ngựa cái mang thai 11 tháng 10 ngày, đẻ mỗi lứa 1 con. Là con vật có trí nhớ tốt, chỉ cần sống hay qua lại địa điểm nào một lần thì sẽ không bao giờ quên. Cũng do thân cận hằng ngày, nên giữa người và ngựa gần như có một tình cảm thiêng liêng khó giải thích. Tất cả những cử động đều là biểu tượng của ngựa, thay tiếng nói, để trực tiếp làm việc với chủ. Nhờ vậy mà người và vật ít khi có sự hiểu lầm đáng tiếc, ngoại trừ những kẻ bất nhân cố tình hành hạ con vật .Đặc biệt các con ngựa khỏe mạnh, có thể ngủ đứng mà không cần nằm nhờ 4 xương tứchi được bao bọc bằng một lớp gân vững chắc, không hề mệt mỏi.
- Ngựa Trong Đời Sống Con Người : Qua hằng nghìn năm nay, người và ngựađã đồng hành suốt trên các chặng đường lịch sử. Có lẽ vì sự liên hệ quá mật thiết cho nên trong kho tàng văn chương nhân loại, ngựa chiếm hàng đầu. Ngựa trung thành, dũng mãnh nhưng không kém phần bướng bỉnh, nếu không gặp được người chủ tướng tương xứng và chinh phục được nó. Chính yếu tố tâm lý và tri âm, đã tạo nên những huyền thoại lịch sử về những con hảo mã, gắn liền tên tuổi các danh tướng rền vang thiên hạ, như A Lịch Sơn Đại Đế, Hốt Tất Liệt, Thành Cát Tư Hãn… Bên cạnh những Châu Liệt Vương đời Đông Chu với tám con hảo mã, dùng để kéo xe khi giao chiến với kẻ thù . Ngựa được mang những cái tên rất trang trọng và hoa mỹ như Tuyệt Địa, Phiêu Võ, Bôn Tiêu, Siêu Kiềng, Du Huy, Siêu Quang, Đằng Vũ và Quái Độc. Qua thời Hán, chuyện ngựa lại càng lâm ly hơn với Hạng Vũ-Ô Mã, Quan Công, Tào Tháo, Lữ Bố, Lữ Mông với con ngựa Xích Thố, Lưu Bị, Bàng Thống ngựa Đích Lô… Bước sang đời nhiễu nhương Tùy Đường, anh hùng lập sự nghiệp trên lưng chiến mã, đã lưu lại trang sử xanh nhiều vĩ nhân như Đường Thái Tôn (Lý Thế Dân) và Kim Mã, Thượng Sư Đồ-Tần Thúc Bảo với ngựa Hồ Lôi Báo, ngựa Bảo Nguyệt, Ô Chùy của Uất Trì Cung, nhờ nó mà bao lần cứu chúa .
Còn có con ngựa già của Thầy Tam Tạng, nhờ quen đường, chịu đựng nên đã đưa được Thánh Tăng từ Trung nguyên đến Thiên Trúc thỉnh kinh Phật. Đời Tống, Mạnh Lương trung cang, nghĩa đảm, tên tuổi gắn liền qua các điển tích “Thiên lý mã, Vạn Lý Vân của Bác Hiền Vương. Nhựt Nguyệt Tiêu Sương Mã của Đại Khánh Lương Vương” làm rạng danh Dương Gia Tướng. Cuối đời Tống mạt, có Nhạc Phi, nửa đời sống trên lưng Huỳnh Biêu Mã, với hoài bão đuổi giặc Kim ra khỏi Trung Nguyên, đến sa mạc rước Nhị Thánh hồi cố quốc, nhưng chí lớn vỡ tan vì tên gian thần Tần Cối, cuối cùng chết thê thảm nơi Phong Ba Đình trong một đêm trừ tịch, trời buồn đất thảm. Sự cảm động của người xưa lưu lại cho hậu thế là niềm thủy chung son sắc của ngựa đối với quê hương và chủ của mình.
Trong cuộc chiến chống khủng bố ở Afghanistan vào cuối năm 2001 đầu năm 2002, nhằm tiêu diệt Taliban, Al-Qaeda và trùm khủng bố Osama Bin Laden. Trong cuộc chiến này, qua nhiều địa thế núi non hiểm trở, quân đội Hoa Kỳ và Liên Minh Bắc A Phú Hãn phải dùng đến những con Chiến Mã thay thế cơ giới và máy bay. Do đó ta thấy các vận tải cơ khổng lồ C17 của Hoa Kỳ thường thả dù xuống các căn cứ nhiều ngũ cốc, rơm rạ và ngựa cho các đơn vị hành quân tại sơn cước.
Làm sao có thể ngăn được giọt lệ tủi đời khi đọc lại “Việt Điểu Quy Nam, Hoa Lưu Hướng Bắc”?, về câu chuyện của những con chim Việt, Ngựa Hồ, xót cảnh ly hương, cất giọng thiết tha trùng trùng ảo não . Nỗi thê lương trên bãi chiến trường đã kết thúc, càng bùi ngùi bi đát hơn, khi bóng những con ngựa lẻ loi đi tìm xác chủ, ngửi cọ và nhịn đói cho tới chết bên cạnh người thân. Loài người có được bao nhiêu kẻ như ngựa, hay chẳng qua chỉ là ăn chén đá bát, đứng núi này trông non nọ, coi đạo lý và tình non nước không hơn một nụ cười.
Như để thưởng công và vinh danh con vật trung thành bậc nhất thiên hạ, người ta đã cho xây đắp, đúc nhiều tượng ngựa. Nhưng hiện nay kỷ lục về tượng người cỡi ngựa lớn nhất thế giới, vẫn là bức tượng đồng của vị anh hùng dân tộc Tiệp Khắc Dideca, đã cùng với thuộc hạ mình đẩy lui được ngoại xâm vào năm 1420. Tượng ông cỡi con chiến mã cao 9m, dài 10m, nặng 16,5 tấn, đứng trên một ngọn đồi tại thủ đô Praha. Trong nghệ thuật, suốt 150 năm qua, môn cỡi ngựa gần như chiếm lĩnh các sân khấu xiệc nổi tiếng của Pháp-Đức. Còn hình ảnh nào dễ thương hơn khi được chứng kiến cảnh một nữ kỵ sĩ mặc áo đuôi tôm, đầu đội mũ cao, ngồi vắt vẻo hai chân một bên trên lưng ngựa, mặt che mạng hồng, ve áo có cài một chùm hoa tím. Đây là biểu tượng của sự hào hoa phong nhã trong giới thượng lưu trí thức Âu Tây vào cuối thế kỷ trước. Chính diễn viên nhào lộn người Anh Phillip (1742-1814) là người đầu tiên đem môn cỡi ngựa lên sân khấu nghệ thuật nổi tiếng qua bộ trang phục thời danh Lecadrenoir.
Ngựa cũng dự phần trong lãnh vực đông y, nhiều tên và bài thuốc VN-Tàu mang tên ngựa trứ danh như Mã Nhục, Cao xương Ngựa, Mã Đề, Bọ ngựa, Mã Tiêu, Mã Tiêu Thảo… nhưng nổi tiếng nhất vẫn là thang Cá Ngựa, với tên khoa học là Hippocampus, sống ở vùng nước mặn. Cá Ngựa còn có tên Hải Mã, Hải Long, Hải Thủy, loài cá nhỏ có đầu giống ngựa, dài không quá 0,30cm, màu trắng, vàng hay xanh đen. Tất cả đều được dùng làm thuốc kích dục, tráng dương, trị các chứng bệnh về sản khoa của phụ nữ.
Ôi! Còn gì ý nghĩa cho bằng, khi nghe những lời Ngựa, con vật được nhân cách hóa cho những người lính trận, một đời dấn thân vì non sông, đất nước …để trả lời sự công kích của trâu, chó, hay đúng hơn là nỗi thờ ơ, bạc bẽo của thế nhân. Với lòng ích kỷ, ty tiện, ăn chén đá bát, phần lớn nghĩ rằng trong cuộc sống bình thường, con ngựa hay người lính có hay không, cũng chẳng mấy ai lao đao vất vả. Tệ hơn nữa, nhiều người còn nghĩ:
“Dại không ra dại, khôn chẳng nên khôn, ngất ngư như ốc mượn hồn” (LSTC câu 204-206).
Bài học lịch sử đã minh chứng rõ ràng trong cuộc đổi đời ngày 30-4-1975 và trên hết là thực trạng yếu hèn của VN hiện tại, khi lòng dân, lòng lính không còn muốn dấn thân vì lý tưởng quốc gia đã hiện hình là chủ nghĩa cộng sản. Thế mới biết, dù trong thời nào chăng nữa, con ngựa vẫn là con ngựa hữu dụng muôn đời, hay nói khác hơn đó chính là sự hiện diện của người lính trong mọi thời đại, vì sự hùng mạnh của họ bảo đảm để lân bang không dám lấn chiếm non sông gấm vóc của dân tộc. Rượu bồ đào, đàn tỳ bà, lưng chiến mã, giờ không còn chờ ta nơi chiến địa, mà đợi ta trở lại với quê xưa. Có phải thế không? Hỡi những con ngựa trận của thời nào, giờ thở hoài hơi thở mệt, gục đầu chờ bỏ thây.
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di Tháng Chạp 2013 MƯỜNG GIANG
.
|
| | | thanhdo Khách viếng thăm
| Tiêu đề: Re: Ngựa Trong Đời Sống & Trong Văn Thơ Wed Jan 29, 2014 11:43 am | |
| Năm Ngọ nói chuyện ngựa
Trong số mười hai con vật biểu tượng của mười hai con giáp thì ngựa (ngọ) là một trong những con vật được con người coi trọng và sử dụng nhiều nhất. Không chỉ có dáng vẻ đẹp đẽ, oai vệ mà ngựa còn có những tác phong thanh nhã, dũng mãnh và oai phong cũng như được đánh giá cao về sự thông minh, trung thành. Có rất nhiều giai thoại về con giáp này nên cũng rất thú vị khi mạn đàm về ngựa khi Tết Giáp Ngọ đã cận kề.
Xuất hiện cách đây 60 triệu năm, con ngựa đầu tiên được gọi là Eohippus (Con ngựa Bình minh) và rất nhỏ, chỉ nặng khoảng 5,4kg và cao khoảng 35,5 cm. Trái với ngựa hiện đại chỉ có 1 guốc, Eohippus có 4 ngón ở chân trước và 3 ngón ở chân sau.
Sau khi ngựa được thuần hóa vào năm 4000 trước Công nguyên, nhiều nền văn hóa Ấn – Âu xem đây là vật cúng tế thượng hạng cho các vị thần và thường tống táng ngựa theo lễ nghi. Ngựa trắng đôi khi được hiến tế để tôn vinh Poseidon, vị thần biển cả và là người tạo ra loài ngựa trong thần thoại Hy Lạp. Các sắc tộc ở Caucasus (Nga) vẫn cúng tế ngựa cho đến tận cuối thập niên 1800.
Theo “Từ điển bách khoa về ngựa” xuất bản tại New York (Mỹ) và năm 1994, có gần 160 giống ngựa trên khắp thế giới, nhưng ngựa Ả Rập được xem là giống ngựa thuần chủng nhất trong các giống ngựa.
Ngựa vằn grevy ở châu Phi là loại chạy nhanh nhất, đạt tới vận tốc 72km/h lúc bị săn đuổi. Còn với ngựa nhà, vận tốc kỷ lục khi cự ly 5000m là 41km/h, 2500m là 54km/h, 150m là 64km/h. Chú ngựa Arrơ của ông David Stuart hiện đang giữ tốc độ nhanh nhất ở cự ly ngắn 150m với cự ly là 69,24km/h năm 1998 tại trường đua London (Anh).
Sở Đúc tiền Hoàng gia Anh vừa phát hành đồng tiền xu bằng vàng và bạc cho năm Giáp Ngọ với hình ảnh chính là một con ngựa đang nhảy lên với dáng vẻ dũng mãnh, thể hiện những đặc tính của những người tuổi Ngọ như thân thiện, quyến rũ, sôi nổi và mạnh mẽ. Đây là lần đầu tiên Sở Đúc tiền Hoàng gia Anh phát hành đồng tiền xu mang thiết kế của một trong 12 con giáp. Mỗi đồng xu đặc biệt này có giá từ 82,5 bảng ( gần 2.800.000 đồng) đến 1.950 bảng (hơn 67 triệu đồng).
Đa số các con ngựa sống được khoảng 20 -30 năm, con ngựa già nhất được công nhận kỷ lục là Old Billy, một con ngựa kéo ở Anh được xác nhận sống thọ đến 62 tuổi. Theo cuốn sách có tựa đề Horse Facts của tác giả McBane và Helen Douglas – Cooper xuất bản ở London (Anh) năm 1992, năm đầu tiên trong cuộc đời của một con ngựa tương đương với 12 năm ở người, năm thứ 2 tương đương 7 năm, mỗi năm trong 3 năm tiếp theo tương đương với 4 năm ở người, và những năm sau đó tương đương với 2,5 năm. Điều đó có nghĩa Old Billy thọ đến 173,5 năm theo tuổi người.
Tuy nhiên, con ngựa một tuổi có giá cao nhất từ trước đến nay là một ngựa cái đua thuần chủng được vương tử Sheikh Joaan al-Thani của Qatar mua với giá 8,4 triệu USD tại phiên đấu giá ở Anh hồi tháng 10/2013, từ giá khởi điểm gần 800.000 USD. Đây là giá mua ngựa cao kỷ lục trong lịch sử đấu giá ở Châu Âu và là giá cao nhất từ trước tới nay đối với ngựa một tuổi trên thế giới, theo Đài CNBC. Chú ngựa này được đưa sang Pháp để huấn luyện ngựa đua nổi tiếng thế giới Andre Fabre đào tạo.
Ngựa có 2 kiểu ngủ, ngủ sóng chậm (tức ngủ sâu) và ngủ với mắt đảo nhanh, và chúng cũng có thể mơ. Ngựa cần ngủ khoảng 4 tiếng và có thể ngủ đứng nhờ kết cấu đặc biệt của các khớp. Con vật này thích âm nhạc nhưng có thị hiếu rất chọn lọc. Chúng thích nhạc không lời êm dịu và vui vẻ, nhưng bị kích động với nhạc ồn ào chẳng hạn như rock.
Việt Nam có rất nhiều câu thành ngữ, tục ngữ ẩn dụ dưới hình ảnh của con ngựa như “Đầu trâu mặt ngựa”, “Ngựa chạy có bầy - Chim bay có bạn”, “Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ” hay “Ngựa hay không thay dáng chạy, người tốt không đổi thay lời”.
Còn người Nga thì khuyên, ở đời đừng để cảnh “Ngựa mù phải kéo xe, trong lúc người sáng ngồi xe”. Và cũng đừng bao giờ kiêu căng tự mãn vì: “Ngựa hoàng đế cũng sa chân lỡ bước”.
Còn triết lý sống của người Nhật là phải tự thân vận động đi lên bằng chính đôi chân và khối óc của mình, chứ: “Không cưỡi ngựa bằng mông của người khác”.
Cao Bá Nhạ từng có câu nói đi vào lịch sử; sống ở đời đừng như “Ngựa hươu thay đổi như chơi/Giấu gươm đầu lưỡi thọc dùi trong tay”.
Và người Ấn Độ thì quan điểm rằng ngày mai bao giờ cũng bắt đầu từ hôm nay, vì thế “Hãy: chăm sóc tốt ngựa con. Nó sẽ thành tuấn mã đẹp”. . |
| | | letran Khách viếng thăm
| Tiêu đề: Re: Ngựa Trong Đời Sống & Trong Văn Thơ Thu Jan 30, 2014 3:49 pm | |
| Kiếp tằm và con ngựa
Quỳnh Giao
Trung Hoa là nơi đầu tiên có bí quyết trồng dâu nuôi tằm để kéo thành tơ. Họ tìm ra nghệ thuật ấy từ hơn bốn ngàn năm trước, nhưng giữ bí mật trong hai mươi thế kỷ cho tới khi bị tiết lộ qua Tây Vực vào đời nhà Hán, rồi mở ra Con Ðường Tơ Lụa nổi tiếng trong lịch sử. Ngày nay thì cả thế giới đều ưa thích tơ lụa và các cô gái thì được nghe truyện Hoàng Hậu Luy Tổ.
Là vợ của Hiên Viên Hoàng Ðế vào đời thái cổ hoang đường, bà Luy Tổ đang uống trà thì có cái kén rơi vào tách nước nóng. Lấy móng tay kéo ra thì bà được sợi tơ óng mịn, nhờ vậy mà phát minh ra nghề tằm tơ. Truyền thuyết ấy của Trung Hoa một lúc nói về hai khám phá rất đẹp của nhân loại là tơ và trà.
Chờ đón Xuân Giáp Ngọ, người viết lại xin kể một truyện cổ tích về con ngựa, có khi giải thích vì sao người ta giữ bí mật về con tằm qua sự tích bà Luy Tổ.
Trung Hoa là xứ hay gặp chiến tranh nên truyện này có thể ứng vào nhiều đời vua khác nhau. Vì nạn binh đao, có người phải tòng quân và được gửi ra chiến trường. Ở nhà chỉ còn bà vợ, cô con gái và một con ngựa quý, được cô gái chăm sóc từ khi còn bé. Vắng bóng cha, nàng chỉ nghe thấy tin dữ ngoài biên ải và hàng ngày tâm sự với con ngựa về nỗi lo lắng của mình.
Một hôm đó, nàng ứa lệ thủ thỉ với con vật chung thủy. Ngựa ơi, phải chi mi biết tìm ra biên thùy mà đón cha về. Lạy trời, ai mà cứu được cha thì ta nguyện suốt đời làm vợ.
Chuyện không ngờ là con ngựa lại lồng lên hý vang trời, bứt phá cổng trại và phi như bay vào cõi bạt ngàn. Ðợi mãi chẳng thấy ngựa về, cô gái đành kể cho gia đình truyện mất ngựa nhưng giấu kín lời nguyện của mình.
Nàng không ngờ là nhiều ngày sau đó con ngựa đã tìm ra biên ải và nửa đêm vượt rào bay vào trại lính, nơi người cha đang đóng quân. Thấy con ngựa quý, ông đoán là ở nhà có chuyện dữ nên lặng lẽ đóng cương trốn khỏi trại. Khi về đến nhà thì thấy mọi người vẫn bình an và gia đình mừng ngày đoàn viên. Con ngựa được thưởng công ngàn dặm tìm chủ bằng cỏ non và thóc quý.
Nhưng lạ thay. Nó không ăn gì cả, cứ nằm im trong chuồng, đôi tai đôi mắt thì hướng ra ngoài. Ở bên ngoài, qua một sân trại, cô gái cũng lầm lì trong phòng kín tránh đi ra ngoài. Vài ngày sau, cả người và vật đều như mắc bệnh.
Người cha buồn lòng về tình trạng của con ngựa và thấy nó chỉ thoáng nét tinh anh khi có tiếng cô gái văng vẳng ở nhà trên. Hỏi gặng thì cũng chẳng hiểu tại sao vì ban đầu cô con gái vẫn tránh nói thật.
Mãi rồi nàng mới kể, rằng con đã nguyện lấy bất ai có thể đón cha về!
Giận dữ về sự vô tâm của con gái khi thề thốt như vậy với một con ngựa, ông cũng thấy cảm động về nỗi lòng của con. Ông thương con ngựa đã quyến luyến cô tiểu chủ từ bé và còn thông minh vượt qua ngàn dặm để tìm ra mình. Nhưng làm sao có thể gả con gái cho ngựa?
Sau nhiều ngày phân vân về tình trạng éo le này, ông cầm gươm bước vào tàu ngựa nhìn con vật gầy gò nằm bẹp dưới đất, và lấy một quyết định đau lòng. Ðến lúc cuối, con vật phì phò ngước mắt nhìn ra cánh cổng xưa kia vẫn có cô gái thắt bím bước vào thủ thỉ.
Người cha giữ lại bộ da ngựa làm kỷ niệm về con vật chung thủy và chôn xác ở một gò hoang nơi góc vườn. Cô gái thì mừng rỡ và sáng hôm sau bước ra ngoài chào đón ánh nắng mặt trời.
Chuyện không ngờ là khi nàng đến góc vườn thì có cơn gió nổi lên từ gò hoang, thành con lốc xoay tròn quanh cô gái. Nàng bị bốc khỏi mặt đất và thất thanh gọi cha. Người cha chạy ra thì chỉ thấy con gái cuộn trong gió lốc bay về cõi xa. Ông rượt theo bóng con mất nhiều ngày cho đến khi tới một ruộng dâu.
Nơi đó chỉ có một con tằm màu trắng nõn như màu áo của cô gái.
Người cha đem tằm về nhà, cùng bà vợ nuôi nấng chiều chuộng như con gái. Từ đấy, họ có những sợi tơ vàng óng mịn mà. Và xứ Trung Hoa có một báu vật nổi danh trên thế giới. Không còn mấy ai nhắc đến con ngựa. Nhưng phải chăng, cô gái vẫn nhả tơ theo đúng lời nguyền năm xưa?
Trong các truyện tích về kiếp tằm nhả tơ, có lẽ truyện này còn lãng mạn mà oan nghiệt hơn nhiều bi kịch Hy Lạp. Và chắc chắn là có ý nghĩa hơn truyện bà Luy Tổ. . |
| | | thanhdo Khách viếng thăm
| Tiêu đề: Re: Ngựa Trong Đời Sống & Trong Văn Thơ Sun Feb 09, 2014 10:18 am | |
| Ngựa trong tục ngữ thế giới Là loài vật rất phổ biến và hiện diện từ lâu trên khắp thế giới, con ngựa đi luôn vào ngôn ngữ của nhiều vùng miền, nhiều dân tộc, nhiều quốc gia. Hình dáng, cấu tạo, đặc tính, sinh hoạt, ảnh hưởng… của ngựa cũng trở thành các hình tượng ẩn dụ tiêu biểu cho những câu tục ngữ độc đáo, đắt nghĩa.
Anh: Đừng đặt chiếc xe trước con ngựa
Armenia: Hãy chọn bạn bằng đôi mắt của người già cả và chọn ngựa bằng đôi mắt của người trẻ
Ba Lan: Hãy đánh con ngựa khi nó được gắn yên
Berber: Người đàn bà góa nói: “Tôi không muốn cột con lừa vào chỗ con ngựa”
Bulgaria: Ngựa chết là ngựa không đá
Czech: Trước khi ca ngợi một con ngựa hãy chờ qua một tháng; trước khi ca ngợi một người đàn bà hãy chờ qua một năm
Đan Mạch: Con ngựa mà bạn thương yêu thì kéo xe hơn hẳn bốn con bò
Đức: Kẻ muốn bán một con ngựa mù thì luôn ca ngợi chân cẳng của nó
Haiti: Con lừa đổ mồ hôi đến nỗi con ngựa được đeo dây ren (Kẻ làm người hưởng)
Hoà Lan: Thà được cưỡi con ngựa hay trong một năm còn hơn suốt đời phải cưỡi con lừa
Hàn Quốc: nếu người bộ hành trông thấy con ngựa, ông ta sẽ mong ước được cưỡi nó
Hoa Kỳ: Con la dẫu có bị cắt tai cũng chẳng có thể là con ngựa
Hy Lạp: Không gì liều lĩnh bằng con ngựa mù
Ireland: Tuổi trẻ thay da đổi thịt. Con ngựa không giữ mãi tốc độ của nó
Mexico: Biết cưỡi ngựa không thôi thì chưa đủ - ta cần phải biết cách té ngã nữa
Mông Cổ: Cưỡi ngựa què không đi được xa, lời kẻ khó không đến được tai chúa
Nga: Hãy cẩn thận khi đứng phía trước con dê, cẩn thận khi đứng phía sau con ngựa và với con người thì đứng bất cứ phía nào cũng phải dè chừng
Nhật Bản: Biết ngựa qua bước đi, biết người qua giao thiệp
Nauru: Nếu con ngựa là tài sản chung thì anh cưỡi nó. Nếu con ngựa là tư hữu thì nó cưỡi anh
Niger: Với một con ngựa rẻ tiền thì anh đừng trông mong tốc độ; tốt hơn là bạn nên hài lòng với tiếng hí của nó
Panama: Phụ nữ lớn tuổi lấy chồng trẻ, như con ngựa già mặc váy hoa
Pháp: Con mắt của bậc thầy vỗ béo con ngựa
Romania: Ai chưa cưỡi ngựa thì chưa từng bị té ngã
Serbia: Nếu không giữ được bờm ngựa thì đừng tìm cách túm đuôi nó
Tây Ban Nha: Với một ông lớn tuổi thì một phụ nữ trẻ là con ngựa mà ông ta cưỡi về địa ngục
Thổ Nhĩ Kỳ: Hãy chăm sóc con ngựa như một người bạn và cưỡi nó như cưỡi kẻ thù
Trung Quốc: Một con ngựa có hai chủ thường là con ngựa gầy ốm, con tàu có hai thuyền trưởng sẽ phải chìm
Việt Nam: Mồm chó vó ngựa
Zulu: Ngựa đến sớm thì uống nước trong
Sưu tầm
.
|
| | | leminh Khách viếng thăm
| Tiêu đề: Re: Ngựa Trong Đời Sống & Trong Văn Thơ Mon Feb 10, 2014 8:38 pm | |
| Ngựa thần huyền bí trong văn hóa Á Đông
Sơn Hải
Thiên lý mã Chollima, Long Mã, thần ngựa Hayagriva... gắn liền với những câu chuyện thần kỳ, hấp dẫn được ghi nhận hàng ngàn năm trước.
Ngựa hiện diện từ sớm trong văn hóa Đông-Tây và là một trong những loài vật được con người thuần hóa, sử dụng trong đời sống hàng ngày vào khoảng năm 4000 - 4500 TCN.
Chính vì thế, nó là chủ đề cho các môn nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, thơ văn và đặc biệt là một biểu tượng không thể thay thế trong đời sống tâm linh thông qua nhiều câu chuyện thần kì hấp dẫn…
1. Thiên lý mã Chollima của Triều Tiên
Ngựa thần Chollima được ghi nhận trong nhiều văn bản lịch sử ở thế kỷ 3 TCN với biệt hiệu “Thiên lý thần mã” và được cho là linh vật của người dân Triều Tiên.
Với đôi cánh trên vai, Chollima có thể bay hơn 400km chỉ trong một ngày. Lúc bấy giờ, con người vì muốn thuần hóa ngựa thần đã bày ra rất nhiều cạm bẫy độc ác, nhưng Chollima đều dũng cảm vượt qua tất cả và bay lên trời trong sự bất lực của những kẻ tham lam. Chính vì điều này, biểu tượng ngựa thần Chollima xuất hiện khắp nơi trên đất nước Triều Tiên. Nó tượng trưng cho chủ nghĩa anh hùng, tinh thần chiến đấu bất khuất của người dân nơi đây. Đặc biệt hơn, người dân tại thủ đô Bình Nhưỡng còn làm ra một bức tượng khổng lồ cao hơn 46m về loài ngựa thần đáng khâm phục này.
2. Ngựa thiên Burag ở Tây Nam Á
Ngựa Burag là một chiến mã thần thoại, được ghi chép lại như một sinh vật thần kì sống trên trời cao và được người dân thuộc khu vực Tây Nam Á (bộ phận lục địa rộng lớn bao gồm vùng núi Caucasus, bán đảo Ả-rập và các sơn nguyên Tiểu Á, Armenia, Iran) rất sùng bái. Linh vật này là một con ngựa nhưng có cánh có thể bay hàng ngàn dặm một ngày.
Đầu của Burag không phải ngựa mà là một khuôn mặt thanh niên đẹp trai, tuấn tú, đặc biệt đôi tai của Burag rất to, có thể nghe được âm thanh cách đó rất xa.
Câu chuyện nổi tiếng nhất về ngựa Burag là cuộc hành trình với nhà tiên tri Đạo Hồi Muhammad. Khi ấy nhà tiên tri đang nằm nghỉ tại đền thờ Kappa trong thành phố quê nhà Mecca. Thiên thần Gabriel đột ngột xuất hiện và bên cạnh là ngựa thần Burag.
Thiên thần đề nghị Muhammad viếng thăm đền Jerusalem, ông liền đồng ý. Ngay lập tức, thần mã Burag đưa nhà tiên tri tới Jerusalem nơi cách Mecca cả ngàn dặm. Sau đó, thiên mã Burag lại đưa Muhammad lên các tầng trời, gặp các thánh đời trước như tổ Adam, Chúa Jesus, Thánh Moses và Thánh Abraham rồi được vào bái kiến Thiên Chúa.
Sau khi trở về Muhammad kể lại truyện thần kì này cho các giáo đồ. Nhiều người tỏ ý ngờ vực nhà tiên tri, cho rằng làm sao có thể đi được một quãng đường xa như vậy. Nhưng Muhammad bình tĩnh miêu tả đầy đủ một đoàn thương nhân ở Syria mà ông đã thấy khi cưỡi ngựa thần.
Ít lâu sau, một đoàn thương nhân tới thăm Thánh địa Mecca và điều bất ngờ là họ giống hệt những gì Muhammad miêu tả. Từ đây, mỗi năm, người dân Hồi giáo đều nghỉ lễ kỷ niệm chuyến đi lên thượng giới thần kì của Muhammad.
3. Long Mã của người Trung Quốc
Long Mã là linh vật xuất hiện phổ biến trong thần thoại Trung Quốc, thường là điềm báo cho những vị vua, anh hùng đất nước sắp xuất hiện. Long Mã có vẻ ngoài oai hùng, là sự kết hợp đặc biệt giữa rồng, lân và ngựa. Đó là một linh vật có sừng và bờm của rồng; mình, chân, móng của con ngựa; đuôi bò; trán sói; thân có vảy của kỳ lân.
Theo truyền thuyết, Long Mã xuất hiện lần đầu tiên là trên sông Hoàng Hà, dưới thời vua Phục Hy. Ông là một trong ba vị vua huyền thoại của người Trung Quốc, sống vào khoảng năm 2800 TCN.
Khi ấy, con người còn chưa có quy định về đạo đức xã hội. Khi đói, người ta tìm thức ăn, khi thỏa mãn, người ta vứt đồ còn lại. Họ ăn thịt cả lông, uống máu, và che thân bằng da thú, vỏ cây.
Khi ấy, Phục Hy đi đánh cá thì thấy một con vật hình ngựa, mình xanh, vằn đỏ, trên lưng có mang bức thư do trời ban cho vua để trị nước. Phục Hy theo thư của trời mà dạy cho con người đạo đức, nấu ăn, săn bắn, tiết kiệm, sắp đặt ngũ hành và đề ra luật lệ cho con người.
Sau này, ông gọi văn bản trên là Hà Đồ, tiền thân để cho ra đời cuốn sách Kinh Dịch vĩ đại của văn hóa Trung Hoa. Ngoài ra, theo đạo Phật, Long Mã còn cõng trên lưng Luật Tạng, một trong nhiều văn bản quan trọng của nhà Phật. Trong nghệ thuật Trung Hoa cổ điển, Long Mã thường được trang trí phối hợp với mây và sóng nước, hoặc trang trí kết hợp với các linh vật trong tứ linh.
4. Thần ngựa Hayagriva của Tây Tạng
Hayagriva là một vị thần được thờ cúng ở Tây Tạng. Phần đông người Tây Tạng sùng bái vị thần này bởi họ tin rằng, ông luôn dùng tiếng hí vang trời để đe dọa và xua đuổi ma quỷ.
Nhưng khi giáng lâm cứu người, Hayagriva cũng hí vang, báo hiệu cho mọi người biết mình giáng lâm. Đó là lý do vì sao mà ngài thường xuất hiện với hình người đầu ngựa.
Tiếng hí của Hayagriva có khả năng xuyên thủng màn không, đem lại ánh sáng của tự do. Một số tài liệu ghi lại rằng, thần chú của ngài Hayagriva gồm những câu thơ như sau: “Nguyện cầu ngài bảo vệ đàn ngựa. Tăng thêm số lượng ngựa cái. Từ những con ngựa này sẽ sinh thêm nhiều chú ngựa con siêu phàm. Xin ngài hãy dẹp hết những chướng ngại trên đường và hướng cho chúng con đi đúng hướng".
Vì thế, những người nuôi ngựa ở Tây Tạng luôn thờ phụng Hayagriva với lòng tôn kính bởi họ tin rằng, ngài sẽ "độ" cho ngựa nhà mình sinh sôi nảy nở thật nhanh chóng.
5. Ngựa Kiền Trắc trung thành
Kiền Trắc là một con ngựa màu trắng yêu thích của thái tử Tất Đạt Đa, người sau này trở thành Đức Phật Thích Ca. Và chính con ngựa này đã giúp cho hoàng tử quyết tâm chân tu, dứt duyên với bụi trần.
Tương truyền kể lại rằng, Kiền Trắc được sinh ra trong nhà của Đề-Bà-Đạt-Đa ích kỷ, gian dối và tham lam. Để thể hiện quyền lực của mình, Đề-Bà-Đạt-Đa đánh đập, khổ sai những con vật, cho chúng ăn gạo đục, uống nước bẩn. Các con vật trong hoàng cung vì thế sợ Đề-Bà-Đạt-Đa vô cùng, chỉ cần thấy bóng dáng thì liền cúi đầu, im lặng.
Duy chỉ có chú ngựa Kiền Trắc thì vẫn hí vang, chạy nhảy mỗi khi thấy Đề-Bà-Đạt-Đa. Quá tức giận, ngài ra sức hành hạ chú ngựa tội nghiệp. Đòn roi không làm khuất phục chú ngựa thần, Kiền Trắc còn dữ dằn hơn, giơ chân đe dọa những kẻ dám đánh mình. Đề-Bà-Đạt-Đa cuối cùng phải nhốt chú ngựa tội nghiệp vào hầm không cho ăn uống.
Tình cờ, Thái tử Tất Đạt Đa nghe tin đồn về một chú ngựa bị hành hạ. Quá thương xót, thái tử liền tìm đến cầu xin Đề-Bà-Đạt-Đa giao cho mình chú ngựa này. Kiền Trắc được đưa về phủ của thái tử và nuôi dưỡng trong tình yêu, sự quý trọng. Điều này làm Kiền Trắc cảm động lắm, nên rất nghe lời Tất Đạt Đa và chỉ có thái tử mới có thể sai bảo được nó.
Khi Tất Đạt Đa rời bỏ cung điện để tu hành, ngựa Kiền Trắc cũng quyết theo tới cùng và phụng sự không ngừng nghỉ. Sau cùng khi chết đi, vì nhiều công đức, ngựa Kiền Trắc được tái sinh là một đạo sĩ, được ngộ đạo và nhập niết bàn.
* Bài viết sử dụng tư liệu tham khảo từ các nguồn: Sri Lakshmi Hayagreeva, Wikipedia... . |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Ngựa Trong Đời Sống & Trong Văn Thơ | |
| |
| | | | Ngựa Trong Đời Sống & Trong Văn Thơ | |
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |