Tiêu đề: Tây Thi chỉ là nhân vật hư cấu? Wed Apr 03, 2013 12:04 pm
Tây Thi chỉ là nhân vật hư cấu?
Nếu như nói rằng Mỹ nhân Tây Thi thực ra chỉ là một nhân vật không có thực, chỉ là sự hư cấu của các truyền thuyết dân gian thì có lẽ nó sẽ gặp phải sự phản ứng dữ dội. Tuy nhiên, điều đó lại hoàn toàn có thực.
Ai cũng biết Tây Thi là người đứng đầu trong Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa thời cổ đại Trung Hoa. Những huyền thoại về nhan sắc của Tây Thi từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng cho không ít những tác phẩm văn chương.
Lật giở tất cả sử sách từ cổ chí kim, người ta không hề tìm thấy bất cứ ghi chép nào về nàng mỹ nhân họ Thi này…
Truyền thuyết Tây Thi
Vào cuối những năm thời Xuân Thu, bên bờ suối Nhã Na, dưới chân núi Trữ La của nước Việt, có một người con gái đẹp nổi tiếng cả vùng. Người trong vùng gọi cô là Tây Thi. Tây Thi vốn họ Thi tên gọi là Di Quang là con một người kiếm củi. Ở núi Trữ La có hai thôn: thôn Đông và thôn Tây, Tây Thi là người ở thôn Tây vì vậy mới gọi là Tây Thi để phân biệt với cô họ Thi ở thôn Đông, gọi là Đông Thi.
Tây Thi đẹp tới mức nào?
Người ta kể rằng, khi Tây Thi đi hái củi ở ngọn núi gần làng, những con chim ưng bay trên trời nhìn thấy Tây Thi quên mất cả vỗ cánh nên bị rơi xuống đất. Khi Tây Thi ra bờ suối giặt quần áo, những con cá dưới lòng suối nhìn thấy sắc đẹp của Tây Thi xấu hổ phải lặn sâu xuống dưới đáy nước. Chính vì thế, người đời sau mới gọi Tây Thi là người đẹp có nhan sắc “chim sa cá lặn”.
Tây Thi trên phim
Ngày nay, “chim sa cá lặn” cũng trở thành một thành ngữ chỉ nhan sắc của một người phụ nữ. Nhất động nhất tĩnh của Tây Thi đều đẹp. Tới mức, ngay cả khi bệnh đau tim của Tây Thi phát tác, nàng ôm ngưc, chau mày người ta cũng thấy nàng đẹp. Cô gái họ Thi ở thôn Đông, nhan sắc đã xấu lại cũng học cách nhăn mặt như Tây Thi, nghĩ rằng làm như vậy mình sẽ đẹp hơn. Tuy nhiên, mọi người nhìn thấy Tây Thi nhăn nhó, ngày thường đã xấu xí, giờ lại càng xấu xí hơn.
Có người nhìn thấy Tây Thi đi qua liền đóng cửa lại, có người nhác nhìn thấy Đông Thi nhăn nhó vội lôi tuột vợ con chạy dạt vào ngõ hẻm tránh xa. Từ đó, người Trung Quốc cũng có câu thành ngữ “Đông Thi nhăn mặt” để châm chọc những người đã xấu lại còn học đòi làm duyên, làm dáng, nhưng càng làm duyên làm dáng thì lại càng xấu xí hơn.
Thời bấy giờ, ở khu vực hạ du sông Trường Giang và sông Tiền Đường, Việt và Ngô là hai quốc gia không đội trời chung với nhau. Nước Việt ở phía Nam còn nước Ngô thì nằm ở phía Bắc. Giữa Ngô và Việt không ngừng xảy ra chiến tranh, lúc thắng, lúc thua.
Năm 494 trước Công nguyên, trong trận chiến quyết tử diễn ra ở Phu Tiêu, quân Việt đại bại, vua nước Việt là Câu Tiễn cùng hơn 5.000 tàn quân bị vây hãm trên núi Cối Kê. Một là tử chiến tới cùng để có danh dự, hai là đầu hàng để giữ lại mạng sống chờ cơ hội báo thù, Việt Vương Câu Tiễn đã lựa chọn phương án thứ hai. Để chứng tỏ lòng thành của mình, Câu Tiễn dắt theo vợ và cận thần thân tín của mình là Phạm Lãi, mặc quần áo của người hầu, ngoan ngoãn tới nước Ngô làm con tin.
Sang tới nước Ngô, Việt Vương Câu Tiễn được Ngô Vương tên là Phù Sai giao cho chức vụ chuyên chăn nuôi ngựa trong hoàng cung nước Ngô. Mỗi khi Ngô Vương Phù Sai có việc phải đi ra ngoài, Câu Tiễn lại đi trước, dắt cương ngựa, hô hào dẹp đường, thực hiện xuất sắc vai trò của một kẻ nô lệ.
Có lần, Phù Sai mắc bệnh nặng, Câu Tiễn tự mình nấu thuốc, dâng lên cho Phù Sai. Đồng thời, để thể hiện rằng mình “một lòng một” trung thành với Phù Sai, Việt Vương Câu Tiễn còn tự mình nếm phân của Ngô Vương, còn hàng ngày cầu khấn mong Ngô Vương mau chóng khỏi bệnh.
Hai năm nhọc công hầu hạ Phù Sai, cuối cùng, Câu Tiễn cũng đã lựa được Ngô Vương. Cho rằng, Câu Tiễn đã trở thành một bề tôi trung thành, không còn có ý chống lại nước Ngô nữa nên Phù Sai quyết định cho Câu Tiễn trở về nước, không phải ở lại Ngô làm con tin nữa.
Sau khi Câu Tiễn trở về nước, tìm mọi cách để cải cách, giúp nước Ngô ngày một giàu mạnh hơn. Để nhắc mình nỗi nhục ở Cối Kê, hàng ngày, Câu Tiễn nằm ngủ trên chiếc giường bằng gỗ, lồi lõm rất khó chịu. Ngoài ra, trước mỗi bữa ăn, Câu Tiễn lại nếm một ít mật đắng rồi tự hỏi mình: “Câu Tiễn, nhà người quên nỗi nhục ở Cối Kê rồi chăng?” Cùng lúc với việc cải cách làm giàu mạnh nước Mình, Câu Tiễn cũng nghe theo lời của hai quân sư là Văn Chủng và Phạm Lãi thực hiện kế sách ngọt ngào nhưng cũng độc ác nhất trong số 36 kế của người xưa: Mỹ nhân kế.
Phạm Lãi tìm kiếm khắp nơi trong lãnh thổ nước Việt và cuối cùng tìm được Tây Thi. Trải qua ba năm đào tạo, cuối cùng Việt Vương Câu Tiễn mới cung kính dâng Tây Thi cho Ngô Vương Phù Sai hưởng thụ.
Trong thời gian ba năm đào tạo này, Phạm Lãi và Tây Thi đã nảy sinh tình cảm với nhau. Vì vậy, trên đường đưa Tây Thi sang nước Ngô, trong lòng Phạm Lãi rất mâu thuẫn, suốt cả chặng đường dài không ngừng buồn bã, thở ngắn than dài. Tây Thi trên suốt chặng đường cũng lộ rõ vẻ buồn phiền, ủ dột.
Người ta nói rằng, Phạm Lãi và Tây Thi đã định nhân cơ hội trên đường sang Ngô không có ai ngăn cản, bỏ tất cả mọi sự, trốn đi một nơi nào hoang vắng không ai biết để chung sống với nhau. Tuy nhiên, khi hai người vẫn còn đang dùng dằng không quyết thì, một ngày, một cụ già râu tóc bạc phơ khoong rõ từ đâu tới gặp Phạm Lãi và Tây Thi rồi chậm rãi nói: “Việc nước là việc lớn, việc của bản thân chỉ là việc nhỏ. Toàn bộ trách nhiệm khôi phục đất nước đều phó thác cả cho hai con”.
Tây Thi qua tranh vẽ
Nói rồi đưa cho Phạm Lãi và Tây Thi một giỏ mận vừa to vừa đỏ. Tây Thi và Phạm Lãi nghe câu nói của cụ già nọ mới như tỉnh ngộ, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Phạm Lãi nói với cụ già rằng: “Lời của cụ ngàn vàng khó mua được. Chúng con nguyện sẽ không bao giờ quên”. Người đời sau gọi chỗ cụ già tặng cho Tây Thi và Phạm Lãi giỏ mận là Huề Lý (nghĩa là cầm mận).
Ngô Vương Phù Sai vừa gặp Tây Thi thì như bị hớp mất hồn vía, vì vậy vô cùng sủng ái Tây Thi. Tây Thi được ở đài Cô Tô với Phù Sai, mỗi khi đi chơi đâu thì nghi vệ chẳng khác gì phi hậu. Để chiều lòng người đẹp, Ngô Vương không tiếc công sức và tiền của, xây dựng rất nhiều cung điện, đền đài cũng như những chốn căn chơi hưởng lạc.
Vua sai Vương Tôn Hùng lập ra cung Quán Khuê ở núi Linh Nham, trang sức toàn bằng châu ngọc để làm chỗ cho Tây Thi ra chơi. Ở đấy có lập ra Hưởng Điệp lang. Tại sao lại gọi là Hưởng Điệp? Điệp là chiếc guốc. Nguyên là người ta đào hầm ở dưới đất chỗ hành lang, đặt ở đấy rất nhiều chum, bên trên lát ván, để Tây Thi và cung nhân đi guốc lượn ở đấy, tiếng kêu leng keng, cho nên gọi là hưởng điệp.
Trên núi có hồ Ngoạn Hoa, ao Ngoạn Nguyệt. Lại có giếng gọi là giếng Ngô Vương, nước trong suốt, Tây Thi thường đứng ở trên mà soi mặt, Phù Sai đứng ở bên cạnh, sẽ lấy tay vuốt tóc cho Tây Thi.
Lại có động gọi là động Tây Thi, Phù Sai và Tây Thi cùng ngồi ở đấy, đá ở ngoài cửa động có nhiều chỗ sụt, nay người ta gọi là vết chân Tây Thi. Trên núi lại có Cầm Đài, Phù Sai thường cùng với Tây Thi gẩy đàn ở đấy. Phù Sai lại sai người trồng hoa ở Hương Sơn, để Tây Thi và cung nhân chở thuyền đi hái hoa. Nay vẫn còn một dãi nước ở phía nam núi Linh Nham, đó tức là chỗ Tây Thi hái hoa ngày xưa. Lại có Thái Liên hình ở phía đông nam thành đô, đó là chỗ Phù Sai cùng Tây Thi hái sen.
Phù Sai lại bắt đào một con sông nhỏ ở trong thành, từ nam sang bắc, rồi làm cái buồm gấm để đi chơi thuyền, gọi là Cẩm Phàm hình. Phía nam đô thành có Trường Châu uyển, để làm nơi săn bắn. Lại có Ngư Thành để nuôi cá, Áp Thành để nuôi vịt, Kê Bi để nuôi gà, Tửu Thành để nấu rượu. Lại thường cùng với Tây Thi ra nghỉ mát tại Nam Loan ở Tây động đình, đó là một cái vịnh độ hơn mười dặm, ba mặt đều là núi, chỉ có mặt nam trông như cửa khuyết. Phù Sai cho chỗ ấy là một nơi có thể qua mùa hè được, mới đặt tên là chỗ Tiên.
Phù Sai là một vị vua anh hùng, nhưng từ khi Tây Thi xuất hiện thì lại lơi lỏng việc nước, bỏ bê chính sự. Tây Thi theo kế của Văn Chủng và Phạm Lãi ra sức mê hoặc khiến vua Ngô ngày đêm cùng nàng chìm đắm trong xa hoa, hưởng lạc, dần dần mất hết ý chí. Những cung điện đền đài liên tiếp được Phù Sai ra lệnh xây dựng khiến nước Ngô ngày một suy yếu hơn.
Trong khi đó, ở nước Việt, Câu Tiễn ngày đêm “nếm mật nằm gai”, cải cách đất nước, luyện tập binh mã chờ cơ hội báo thù. Đúng 10 năm sau ngày thất bại ở Cối Kê, Câu Tiễn cho rằng thời cơ đã chín muồi, ra lệnh mang quân bắc phạt. Quân Ngô bị quân Việt đánh cho tan tác, Phù Sai ra mặt cầu hòa nhưng Câu Tiễn không cho, cuối cùng đành phải tự sát.
Sau khi tiêu diệt nước Ngô, Việt Vương Câu Tiễn ra lệnh cho Tây Thi theo ông ta về nước Việt. Khi hai người còn chưa lên đường thì vợ của Câu Tiễn vì sợ một khi Tây Thi về tới nước Ngô sẽ được Câu Tiễn lập làm hoàng hậu, do vậy đã vu cho Tây Thi là loại hồ ly tinh làm mất nước, bí mật hạ lệnh cho đại tướng quân là Tần Trạch buộc Tây Thi vào một tảng đá rồi ném xuống sông cho chết đi. Tuy nhiên, cha của Tần Trạch lại chính là cụ ông đã tặng cho Tây Thi và Phạm Lãi giỏ mận năm nào. Vì vậy, Tần Trạch đã giả vờ chấp hành mệnh lệnh nhưng lại bí mật nhờ cha mình đem Tây Thi giấu đi.
Thông tin về cái chết của Tây Thi cũng giúp Phạm Lãi thấy được con người thật của Việt Vương Câu Tiễn. Phạm Lãi cho rằng, Câu Tiễn là người có thể chung hoạn nạn nhưng không thể chung hưởng phú quý được, mới quyết định bỏ triều đình nước Ngô về ở ẩn. Phạm Lãi đã viết thư từ biệt Câu Tiễn, nói: “Tôi nghe: ‘Vua lo thì tôi phải khó nhọc, vua nhục thì tôi phải chết!’ Hồi xưa nhà vua chịu nhục ở Cối Kê, tôi sở dĩ chưa chết là vì còn phải trả thù. Nay đã rửa được nhục rồi, tôi xin chết theo tội ở Cối Kê”.
Phạm Lãi cũng gửi thư cho đại phu Văn Chủng nói: “Chim đã hết thì cung tốt phải cất, thỏ đã chết thì chó săn bị nấu. Vua Việt là người cổ dài, miệng diều hâu có thể cùng lúc lo hoạn nạn, nhưng không thể cùng vui sướng với ông ta. Sao ông lại không bỏ đi?” Văn Chủng nhận được thư nhưng đã không tin.
Sự việc sau này chứng tỏ Phạm Lãi đã đúng. Một hôm, Câu Tiễn cầm theo kiếm đến gặp Văn Chủng và nói: “Nhà ngươi dạy quả nhân bảy thuật để đánh Ngô, quả nhân mới dùng có ba mà nước Ngô đã thua. Còn bốn thuật nữa ở nhà ngươi. Nhà ngươi hãy giúp ta dùng những thuật ấy với tiên vương xem sao”. Câu Tiễn ra về, Văn Chủng biết ý vua Việt muốn sát hại nên đã dùng gươm tự sát.
Lại nói về Phạm Lãi, sau khi quyết định về ở ẩn đã tới gặp cha của đại tướng quân Tần Hoài để từ biệt. Tại đây, Phạm Lãi biết được thông tin Tây Thi vẫn còn sống thì vui mừng khôn xiết. Kể từ sau đó, Phạm Lãi và Tây Thi cùng nhau ngao du bốn biển, sống cuộc sống tự do tự tại. Cuối cùng hai người định cư ở vùng Tề Lỗ, kinh doanh buôn bán kiếm sống rồi trở thành giàu có nổi tiếng khắp vùng, người đời gọi là Đào Chu Công.