Tiêu đề: Cao Tần, Thơ Người Di Tản Buồn Sun Jan 27, 2013 10:41 am
Cao Tần, Thơ Người Di Tản Buồn
Nguyễn Mạnh Trinh
Cao Tần là một thi sĩ xuất hiện một cách bất ngờ trong thời điểm vô cùng đặc biệt. Lúc đó, là những năm đầu kế tiếp sau cuộc di tản của mấy trăm ngàn người Việt lưu lạc sang xứ người. Trong hoàn cảnh bắt đầu của một cuộc sống xa lạ, khởi đi từ những nỗi niềm mang theo, văn chương ở hải ngoại đã nảy mầm từ những tâm tư thương nhà nhớ nước của người Việt tị nạn sau một cuộc đổi đời. Cao Tần là một nhà thơ xuất hiện sớm nhất và cũng là một nhà thơ nổi bật nhất trong thời kỳ ấy. Vốn là một nhà văn đã thành danh ở Việt Nam và cũng là một ký giả có lối viết phiếm luận sắc bén, thơ Cao Tần đã được để ý từ những bài thơ đầu tiên.
Năm 1977, gần hai năm sau ngày 30 tháng tư năm 1975, trên tờ báo Bút Lửa có đăng mấy bài thơ của một thi sĩ danh tánh lạ hoắc ký tên Cao Tần. Những bài thơ ấy mới xuất hiện đã nổi bật ngay và gây một hiện tượng xôn xao cho độc giả. Nhiều người liên tưởng tới như những bài thơ của T.T Kh. đã tạo thành một nghi vấn cho văn học Việt Nam mà còn mù mờ chưa rõ ràng. Quả thực những bài thơ trên Bút Lửa ấy đã gây kinh ngạc cho độc giả. Mãi về sau này, mới biết Cao Tần là bút danh của nhà văn Lê Tất Điều hay nhà báo Kiều Phong, một người đã là một cây bút quen thuộc của hai mươi năm văn học miền Nam…
Ông sinh ngày 2 tháng 8 năm 1942 tại Hà Đông. Di cư vào Nam năm 1954 và di tản sang Mỹ năm 1975. Trước khi di tản ông là một nhà giáo và cũng là một ký giả ở Sài Gòn. Đã xuất bản truyện dài Đêm Dài Một Đời đã đoạt giải thưởng của Trung Tâm Văn Bút Việt Nam, và các tập truyện ngắn Khởi Hành, Kẻ Tình Nguyện, Quay Trong Gió Lốc, Phá Núi, Người Đi, Những Giọt Mực.
Lý do mà những bài thơ đầu tiên mang tên Cao Tần được chú ý thật là giản dị. Bởi tâm sự của Cao Tần khi làm thơ cũng là tâm trạng chung của những người Việt di tản lúc ấy. Với ngôn ngữ vừa bi hùng vừa tha thiết, diễn tả lại một tình trạng tâm lý của những người còn xa lạ với cuộc sống mới và tiếc nuối những tháng ngày của cuộc đời xưa cũ. Lúc ấy, một nền văn học lưu vong đang dần dần hình thành. Ở những ngoái nhìn quá khứ và băn khoăn từ những bước chân đi đến tương lai. Ai mà chẳng cùng chung suy tư và ở những câu thơ Cao Tần lại gợi lên từ tâm cảm yêu nước nhớ nhà và ngôn ngữ mẹ đẻ đã thành thân yêu vô cùng trong những ngày bắt đầu tạo dựng một cuộc sống mới ở xứ người...
Có lẽ hồi trước 1975, nhà văn Lê Tất Điều cũng không làm thơ và sau này khi loạt thơ Cao Tần chấm dứt ông cũng ngưng làm thơ. Tại sao ông chỉ làm thơ trong khoảng thời gian đó?
Có lẽ chỉ có một mình tác gỉa mới có thể trả lời câu hỏi khó này. Trong một cuộc phỏng vấn của đài phát thanh Á Châu Tự Do RFA do Mặc Lâm thực hiện thì ông giải thích “Tự nhiên tôi không có cảm hứng viết truyện ngắn nữa. Thế rồi thơ nó lôi cuốn bởi vì trong bài thơ công việc sáng tác nó ngắn hơn nó không đòi hỏi thời gian nhiều...”
Nhà văn Võ Phiến có viết đại ý là Cao Tần làm thơ như người kể chuyện và đó chính là một yếu tố để thơ ông gần gũi với cuộc sống hơn và tạo sự chú ý của độc giả.
Trong bài đề tựa tập thơ Cao tần do nhà xuất bản Văn Nghệ phát hành, nhà văn Võ Phiến nói rằng thơ của Cao Tần kết cấu như truyện và là những truyện ly kỳ nữa nên gợi được sự tò mò muốn tìm hiểu của người đọc. Và ông nêu ra vài thí dụ bài thơ Kho tàng kể về chuyện của một anh chàng tị nạn Cù Lần...
Nội dung của bài thơ cũng chỉ là một anh chàng tị nạn lúc nào cũng kè kè bên mình một cái túi không một phút nào rời xa. Bạn bè tưởng là anh chàng biển lận nên đè anh ta xuống để mở cái túi bí mật kia ra. Và cũng chẳng có gì ngoài một lạng vàng, chiếc khăn tay và những danh thiếp cũ. Nhưng là cả một kho tàng của một người di tản và nhắc lại người và cảnh đã xa. Vàng thì nhắc đến người mẹ:
“... miệng túi mở ra kho tàng rơi tung toé một lạng vàng trong giấy gói đơn sơ một đứa hét “vàng này thằng em bé không mại đi mày tính để đem thờ “Sư chúng mày, vàng đem theo bốn cục ông bán ba, bắt gọn mấy trăm đô còn cục này tàn đời ông cóc bán lúc lên đường bà cụ dúi tay cho”
Còn khăn tay thì nhắc đến người vợ bây giờ đã xa cách ngàn trùng:
“...một chiếc khăn tay cũ xì cũ xịt mầu nâu già thêu mấy chữ xanh xanh “giẻ rách gì đây hở thằng chết tiệt “Khăn vợ tao trao ngày khoác áo nhà binh”
và những tấm danh thiếp, ôi những tấm giấy làm nhớ lại những tên đường những tên người đã vào xa xưa:
”đáy túi nhỏ thì đầy danh thiếp cũ những tên người tên tỉnh đã xa xưa những dòng vội ghi hẹn hò gặp gỡ những đường quen không trở lại bao giờ …Với danh thiếp những tên đường đã đổi những số nhà chớp mắt đã tang thương những chốn hẹn ngàn năm không trở lại những tên đời tơi tả khắp quê hương.”
Đọc xong bài thơ này chúng ta thấy thế nào? Phải nói là rất xúc động anh Trinh à! Nhưng có khi chỉ cảm thấy thôi chứ diễn tả ra cái hay thế nào thì khó lắm. Phải có một lúc, đợi xúc cảm lắng xuống thì dễ dàng để thất bài thơ này độc đáo ra sao...
Chúng tôi cũng như những độc giả khác, chỉ cảm thấy rung động thôi và cũng phải loay hoay suy nghĩ để may ra có thể tìm được những điều mà mình cho là tâm đắc và tuyệt diệu. Bài thơ sống động quá với những ngôn ngữ đời thường mô tả những cuộc đối thoại chuyên chở được ý tình mà tác giả muốn đề cập đến. Có một chút diễu cợt nhưng chỉ là cảm giác thoáng qua để thay vào đó là sự thương cảm. Chỉ một túi nhỏ tầm thường của người di tản vỏn vẹn có thế mà sao lại coi như một kho tàng vô gia được ? Bởi vì những vật thể này không còn đơn thuần là vật thể nữa mà nó chứa đựng cả một trời quê hương và nhắc lại những người thân đã xa và những nơi chốn đã khuất biệt. Câu chuyện kể bằng thơ chỉ giản dị như thế nhưng lại gây ra sự xúc động đến vô bờ cho người đọc. Bởi nó đánh động đến tâm sự chung nên đầy ắp những chia sẻ…
Một bài thơ khác mà nhà văn Võ Phiến nhắc đến như một bằng chứng đơn cử cho lập luận của mình. Như bài ”Ta làm gì cho hết nửa đời sau”. Hình như đã có nhiều người lưu vong thốt lên lời nói đó mỗi khi bị ray rứt vì chuyện nước chuyện non...
“Dăm thằng khùng họp nhau bàn chuyện lớn gánh sơn hà toan chất thử lên vai chuyện binh lửa anh em chừng cũng ớn dọn tinh thần cưa nhẹ đỡ vài chai...”
như trong một cơn đồng thiếp, một chàng hào hùng;
“một tráng sĩ vung ly cười ngạo mạn nửa đời xưa ta trấn thủ lưu đồn nay đất khách léo lê đời rất nản ta tính sẽ về vượt suối trèo non sẽ có lúc rừng sâu bừng chuyển động những hùm thiêng cựa móng thét rung trời và sông núi sẽ vươn mình trỗi dậy và cờ bay trên đất nước xinh tươi...”
Và một chàng khác, thì lại muốn làm tượng thần tự do hỏa thiêu thân xác chính mình để làm đuốc soi đường cho những oan hồn bị trầm luân trong đáy nước bao la:
”Một tráng sĩ vô êm chừng sáu cối thần tự do giờ đứng ở nơi nào? Ta muốn đến leo lên làm đuốc mới Tự đốt mình cho lửa sáng xem sao Thần tự do giơ hoài cây đuốc lạnh Ta tiếc gì năm chục ký xương da Sẽ làm đuốc soi tìm trong đáy biển những oan hồn ai bỏ giữa bao la”
Và kết cuộc, chỉ là một cơn say, một tỉnh dậy giữa nỗi buồn của những người thấy mình bất lực giữa thế thời, mộng ước lớn mà bàn tay thì qúa nhỏ:
”... sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi Những hào hùng uất hận gối lên nhau Kẻ thức tỉnh ngu ngơ nhìn nắng mới Ta làm gì cho hết nửa đời sau.”
Thật là cảm khái. Thật là cay đắng với những nỗi niềm của những kẻ sinh bất phùng thời lớn lên và trưởng thành trong những nghiệt ngã của đất nước chiến tranh. Thực trạng sao buồn quá! Câu hỏi như một tiếng than… Ta làm gì cho hết nửa đời sau?… Những thân phận lưu vong. Những nỗi niềm nhược tiểu.
Mỗi người tị nạn đều mang theo những kỷ niệm trong ký ức. Có những người vẫn còn vương vấn đến tận bây giờ. Có những buồn phiền, có những ray rứt. Nhà thơ Cao Tần có bài thơ nào diễn tả tâm trạng ấy trong nhiều bài thơ. Chúng ta thử đọc bài thơ Chốn Tạm Dung xem. Bản thân tôi đã sống ở đây ba chục năm, thế mà có lúc cũng có những nỗi niềm trống vắng như thế. Thơ nói lên tâm cảm của những người nhiều khi thấy mình bơ vơ giữa cuộc sống và kỷ niệm của nơi chốn xưa của đời sống cũ vẫn cứ bàng bạc hiện hữu:
“nhà tôi ở toòng teng đỉnh đồi buổi mai đi làm thấy đời xuống dốc sau lưng sương ngập cao lưng trời trước mặt thông sầu reo đáy vực bắt đầu ngày bằng một chút vui hát nghêu ngao trong lòng xe rỗng tuếch bài ca quen bỗng chợt quên lời chút kỷ niệm còm lại mất khơi khơi tiếng Việt trong ta ngày bỗng héo hồn Việt trong ta ngày mỗi khô dốc mở như đời ta trước mặt sương kín như đời ta năm xưa...”
Một ngày qua một ngày. Ra đi khi lúc vừa mờ sáng và trở về khi phố đã lên đèn, khúc ca sầu xứ mãi mãi ám ảnh. Trải qua bao nhiêu cuộc đổi dời. Bao nhiêu là nỗi muộn phiền. bao nhiêu là ray rứt. Người tị nạn có một mẫu số chung, của khởi hành đi vào cuộc đời mới với tất cả năng lực của mình nhưng vẫn canh cánh bên lòng nhớ mong về quê hương đất nước:
“chiều về lên dốc thân tơi tả một quả hoàng hôn phủ kín trời mình mới ngoi lên ngày đã ngả đêm phờ lăn lóc ngủ thay chơi giữa đỉnh sương mù thông đáy vực ngược xuôi ngơ ngẩn một linh hồn còng lưng gánh nốt đời lưu lạc nặng trĩu nghìn cân nhớ nước non.”
Cái độc đáo của thơ Cao Tần là dùng những ngôn từ thật sống động, những ngôn ngữ tạo nhiều hình ảnh như: “kỷ niệm còm“, như “quả hoàng hôn”, như “mất khơi khơi”. Xử dụng những ngôn từ ấy thành thơ chính là một dụng công để thi ca có máu huyết xương thịt của đời sống thực, của suy nghĩ thực…
Người tị nạn tuy hôi nhập vào dòng chính nhưng vẫn còn ám ảnh bởi quê hương cũ của đất nước xưa. Có một lúc nào thơ Cao Tần biểu lộ tâm cảm ấy.
Đọc bài thơ Cảm Khái chúng ta nhận ra ngay lập tức. Tấm thẻ căn cước, tờ chứng chỉ tại ngũ nhắc lại một thời xa xưa. Một cách hóm hỉnh pha lẫn đau xót, tác gỉa nhận thấy hình như những tấm hình trên căn cước đều lam nhem xấu xí, không biết có phải là số phận tiền định xui khiến như vậy:
“hình căn cước anh nào mà chẳng xấu tên chụp hình như một lão tiên tri triệu mặt ngây ngô bàng hoàng xớn xác cùng đến một ngày gãy đổ phân ly nhìn hình chim in trên tờ chứng chỉ chợt nhớ câu thơ Gãy cánh đại bàng ngàn lẫm liệt tan trong chiều rã ngũ muôn anh hùng phút chốc hóa tang thương...”
và những câu cảm khái mà chúng ta trong những ngày lưu lạc thường hay thấm thía:
“Hỡi kẻ trong hình mặt xanh mày xám người sắp thành tên mọi Mỹ rồi ư hỡi thằng chiến binh một đời dũng cảm mày lang thang đất lạ đến bao giờ Ôi trong ví mỗi người dân mất nước Còn một oan hồn mặt mũi ngu ngơ Ôi trong trí mỗi anh hùng thuở trước Còn dậy trời lên những buổi tung cờ.”
Có người nhận xét rằng mỗi bài thơ của Cao Tần đều mang theo một thông điệp gửi gấm cho người cùng cảnh ngộ và gửi trả lại quê hương. Trong hai mươi bài của tập Thơ Cao Tần, hình như hầu hết các bài đều diễn tả được một tâm sự đặc thù của người bỏ xứ ra đi.
Thư Quê Hương là: “Gửi cho anh viên sỏi nhỏ bên đường Anh sẽ đọc ra trăm nghìn lối cũ Gửi cho anh vài nhánh cỏ quê hương anh sẽ đọc đất trời ta đã thở...”
Chuyện Thần Tiên là:
”Ta muốn điều chi cuối đời lưu lạc Này bà tiên vừa hỏi giấc mơ ta hãy đem hết những đổi đời tan tác gói giùm vào cơn mộng dữ đêm qua”
Chiều Bát Phố là:
”Chỉ gặp toàn Tây một chiều bát phố Tiếc sao xưa cả nước chẳng quen nhau Quen cả nước? Ra đường chào gẫy cổ Và chắc gì nay nghĩ lại không sầu Nhưng quen cả nước chắc lòng sẽ nhẹ Khi đi có chào may bớt xót xa Ôi xóm mưa ơi có khi nào đổi kiếp Tôi về thành chim hót trước hiên nhà.”
Mai Mốt Anh Về là:
”Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa Ông anh hùng ông cứu được quê hương Ông sẽ mở ra ngàn lò cải tạo Lùa cả nước vào học tập yêu thương Cuộc chiến cũ sẽ coi là tiền kiếp Phản động gì cũng chỉ sống trăm năm Bồ bịch hết không đứa nào là ngụy Thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng”
Và còn nhiều bài thơ khác với những ý tưởng khác, thông điệp khác. Giở từng trang thơ, để thấy những ngôn ngữ linh hoạt, những chữ lóng, những ngôn từ dân giã, tất cả làm nổi bật một phong vị có lúc như diễu cợt, có lúc như ngông nghênh, mà có lúc là tình cảnh “ở ngoài cười nụ ở trong khóc thầm”. Người tị nạn đã trải qua những đoạn đời, đã qua nhiều nghịch cảnh, sẽ thấy thấm thía biết bao nhiêu với tâm cảm người thơ. Nếu nói thơ Cao Tần là biểu hiện sống động một thời kỳ của người Việt di tản đầu tiên thì cũng chưa đầy đủ mà phải nói rằng thơ Cao Tần đã làm hồi sinh lại một thời đại văn học lưu vong ở hải ngoại…
.
tranvu Khách viếng thăm
Tiêu đề: Nhà văn Lê Tất Điều & Thơ Cao Tần Mon Jan 28, 2013 1:51 pm
Nhà văn Lê Tất Điều & Thơ Cao Tần
Lê Tất Điều là nhà văn nổi tiếng của Miền Nam. Ông viết thận trọng và có ý thức. Khởi Hành là tập truyện đầu tiên của ông được tạp chí Bách Khoa ấn hành. Có thể nói, Bách Khoa đã mở cửa cho ông bước vào văn nghiệp. Ông cũng là người viết về tuổi thơ. Còn nhớ, ông đã có một số truyện in trên loạt sách Truyện Thiếu Nhi của nhà sách Khai Trí rất được ưa thích. Ngoài ra Những Giọt Mực viết về tuổi nhỏ của ông là tác phẩm nổi tiếng. Trong nghiệp văn nghiệp báo của mình, Lê Tất Điều còn dùng bút hiệu Kiếu Phong cho nhiều bài báo có giọng sắc bén, đôi khi cay độc. Sang Mỹ, ông không viết truyện nữa mà làm thơ với bút danh Cao Tần rất nổi tiếng.
Lê Tất Điều và bước đầu văn nghiệp Trên đài RFA, trả lời phỏng vấn của Mạc Lâm, Lê Tất Điều cho biết:
“Từ khoảng 15, 16 tuổi tôi đã bắt đầu viết một số truyện cho các báo hàng ngày như là viết” Mỗi ngày một truyện” cho báo Ngôn Luận của ông Hồ Anh. Viết một số truyện cho bà Bút Trà trong phụ trương đặc biệt của báo Sài Gòn Mới.
Viết một cách nghiêm chỉnh là sau khi có một truyện ngắn đăng trên tạp chí Bách Khoa, sau đó có dịp gặp các nhà văn như là ông Võ Phiến, ông chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Bách Khoa là ông Lê Châu. Được sự khuyến khích của họ và bắt đầu quen thuộc với không khí văn chương, và lúc này là lúc bắt đầu vào khoảng 17, 18 tuổi gì đó...
Phải ghi nhận rằng Lê Tất Điều nổi tiếng ngay sau đó với nhiều tác phẩm văn chương qua nhiều thể loại, từ truyện ngắn đến tiểu thuyết. Truyện ngắn đầu tiên mang tên Cỏ Hoang được độc giả của báo Bách Khoa nồng nhiệt đón nhận đã tạo cơ hội cho ông chính thức bước vào giới văn chương Việt Nam mà lúc đó rất nhiều người mong ước. Tạp chí Bách Khoa có công phát hiện ra nhà văn Lê Tất Điều khi cho in tập truyện ngắn đầu tiên của ông: Tạp chí Bách Khoa có in cho tôi một tập truyện ngắn nhan đề là Khởi Hành. Đó là vào khoảng năm 1962-1963....
Lê Tất Điều và Thơ Cao Tần
Nhiều người, nhất là các bạn văn, lấy làm thắc mắc khi thấy Lê Tất Điều sau 1975 sang Mỹ đột nhiên làm thơ và nổi tiếng vang dội. Ông tâm sự với Mạc Lâm trên đài RFA: “Tự nhiên tôi không có cảm hứng viết truyện ngắn nữa. Thế rồi thơ nó lôi cuốn, bởi vì trong bài thơ công việc sáng tác nó ngắn hơn nó không đòi hỏi thời gian nhiều...”
Đúng như Mạc Lâm nhận định: “Tập Thơ Cao Tần nhanh chóng được độc giả hải ngoại nồng nhiệt đón nhận vào những ngày đầu tiên của người Việt tha hương, đặc biệt là những người từng phục vụ trong quân đội. Trong “Thơ Cao Tần”, người đọc thấm thía nỗi buồn của những kẻ chiến bại. Tâm lý thua cuộc là một tâm lý bi thảm nhất sau chiến tranh. Nỗi buồn đeo đuổi như bị ma ám cộng với đời sống mới lạ lẫm đã kéo người ta lại với nhau như một yếu tố khởi đầu của tính bầy đàn. Ngồi lại để chia sẻ mọi thứ, từ kỷ niệm cho đến buồn phiền. Từ đời sống thường nhật bấp bênh cho đến những ước ao hoang tưởng.
Thơ Cao Tần được nhiều người đón nhận bởi ngôn ngữ của nó thể hiện hơn là những gì chứa đựng bên trong. Ngôn ngữ trong thơ Cao Tần mang đậm tính tự trào lại phảng phất nét quyến rũ của chất anh hùng ca từ nhân vật Kiều Phong mà tác giả đã có cơ hội nhiều năm gần gũi. Có lẽ sự hòa trộn giữa ngôn ngữ chắt lọc thi ca và tính phán xét lạnh lùng, mạnh mẽ của loại văn chính luận đã khiến thơ Cao Tần có được sự hấp dẫn kín đáo nhưng ngấm ngầm dữ dội đã khiến người đọc khó thể bỏ qua khi đã đọc những dòng chữ đầu tiên trong thơ ông.”
***
Thơ Cao Tần
Gần 30 năm trước, một tập thơ mỏng của một tác giả hoàn toàn vô danh xuất hiện như một sự kiện giữa nền văn học vừa hình thành của người Việt hải ngoại: Thơ Cao Tần. Chúng tôi trân trọng giới thiệu lại tập thơ này với độc giả của ngày hôm nay, và nhân dịp này đăng lại bài viết về thơ Cao Tần của Nam Chi (bút hiệu của nhà phê bình Đặng Tiến) năm 1982, nhận định của Bùi Vĩnh Phúc năm 1988, cùng với bài phê bình mới nhất của Đặng Tiến tháng 8.2006. talawas
(Có bà tiên hiền hỏi chàng lưu lạc Con ước mơ chi cuối cuộc đời này?)
Ta ước khi không bừng tỉnh giấc Thấy bình minh muộn nắng đầy hiên Một khung cửa sổ trời xanh ngắt Đầu sân xao xác tiếng chim quen
Đường phố ngất ngây mùi bụi mới Những vòm cây biếc lá me tươi Quán cóc sở ta bè bạn đợi Rất tưng bừng đấu hót những buồn vui
Chợt nhớ lại, ồ đêm qua khiếp quá Mình đã mơ một giấc thật kinh hoàng Mơ thấy cả một quê hương đổ vỡ Mình lên đường ngơ ngẩn, lang thang
Sẽ vội vã trên đường lao tới sở Nghe xôn xao tiếng Việt ở quanh mình Giữa phố bụi mù lại mơ cây cỏ Xanh khắp quê hương giấc mộng thanh bình
Ta muốn điều chi cuối đời luân lạc? Này bà tiên vừa hỏi giấc mơ ta “Hãy đem hết những đổi đời tan tác Gói giùm vào cơn mộng dữ đêm qua”
6. Ta làm gì cho hết nửa đời sau?
Dăm thằng khùng họp nhau bàn chuyện lớn Gánh sơn hà toan chất thử lên vai Chuyện binh lửa anh em chừng cũng ớn Dọn tinh thần: cưa nhẹ đỡ ba chai
Rừng đất khách bạt ngàn màu áo trận Xong hiệp đầu mây núi đã bâng khuâng Hào khí bốc đủ mười thành chất ngất Chuyện vá trời coi đã nhẹ như không
Một tráng sĩ vung ly cười ngạo mạn Nửa đời xưa ta trấn thủ lưu đồn Nay đất khách kéo lê đời rất nản Ta tính sẽ về vượt suối trèo non...
Sẽ có lúc rừng sâu bừng chuyển động Những hùm thiêng cựa móng thét rung trời Và sông núi sẽ vươn mình trỗi dậy Và cờ bay trên đất nước xinh tươi
Một tráng sĩ vô êm chừng sáu cối Thần tự do giờ đứng ở nơi nào? Ta muốn đến leo lên làm đuốc mới Tự đốt mình cho lửa sáng xem sao...
Thần tự do giơ hoài cây đuốc lạnh Ta tiếc gì năm chục ký xương da Sẽ làm đuốc soi tìm trong đáy biển Những oan hồn ai bỏ giữa bao la...
Bình minh tới một chàng bừng tỉnh giấc Thấy chiến trường la liệt xác anh em Năm tráng sĩ bị mười chai quất gục Đời tha hương coi bộ vẫn êm đềm
Sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi Những hào hùng uất hận gối lên nhau Kẻ thức tỉnh ngu ngơ nhìn nắng mới: Ta làm gì cho hết nửa đời sau?
Tháng 3-77
8. Mai mốt anh trở về
Mai mốt anh về có thằng túm hỏi Mày qua bên Mỹ học được củ gì Muốn biết tài nhau đưa ông cây chổi Nói mày hay ông thượng đẳng cu li
Ông rửa bát chì hơn bà nội trợ Ông quét nhà sạch hơn em bé ngoan Ngày ngày phóng xe như thằng phải gió Đêm về nằm vùi nước mắt chứa chan
Nghệ thuật nói bỗng hóa trò lao động Thằng nào nói nhiều thằng ấy tay to Tiếng mẹ thường chỉ dùng chửi đổng Hay những đêm sầu tí toáy làm thơ
Ông học được Mỹ đất trời bát ngát Nhưng tình người nhỏ hơn que tăm Nhiều đứa hồn nhiên giống bầy trẻ nít Còn hồn ông: già cốc cỡ nghìn năm
Bài học lớn từ khi đến Mỹ Là ngày đêm thương nước mênh mang Thù hận bọn làm nước ông nghèo xí Hận gấp nghìn lần khi chúng đánh ông văng
Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa Ông anh hùng ông cứu được quê hương Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo Lùa cả nước vào học tập yêu thương
Cuộc chiến cũ sẽ coi là tiền kiếp Phản động gì cũng chỉ sống trăm năm Bồ bịch hết không đứa nào là ngụy Thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng
Tháng 3-77
16. Kho tàng
Chàng Cù Lần có cái túi nhỏ Suốt bốn mùa giấu giếm như điên Anh em sùng, nghĩ thằng này chơi khó Thủ cẳng tí tiền, len lén tiêu riêng
Hết chuyện chơi, một chiều đông lạnh cóng Đè thằng em ra cướp túi coi chơi Gác trọ rung rinh như thuyền biển động Thằng em kêu như sắp sửa xong đời
Miệng túi mở kho tàng rơi tung tóe Một lạng vàng trong giấy gói đơn sơ Một đứa hét: “Vàng này thằng em bé Không mại đi, mày tính để đem thờ?”
“Sư chúng mày, vàng đem theo bốn cục Ông bán ba, bắt gọn mấy trăm đô Còn cục này tàn đời ông cóc bán Lúc lên đường bà cụ dúi tay cho”
Một chiếc khăn tay cũ xì, cũ xịt Màu nâu già thêu mấy chữ xanh xanh “Giẻ rách gì đây hở thằng chết tiệt?” “Khăn vợ trao ngày khoác áo nhà binh”
Đáy túi nhỏ thì đầy danh thiếp cũ Những tên người tên tỉnh đã xa xưa Những dòng vội ghi hẹn hò gặp gỡ Những đường quen không trở lại bao giờ
Trả túi thằng em, cả bầy bỗng xệ Cù Lần xấu hổ chửi như ca Cái túi nhỏ tưởng đầy lòng ti tiện Hoá đem theo muôn vạn mảnh quê nhà
Cù lần dọa đêm nay đâm chết hết Ôi, ví dầu chú mở được tim anh Chú cũng thấy một kho tàng thắm thiết Với khăn tay nhàu nát chữ thêu xanh
Với danh thiếp những tên đường đã đổi Những số nhà chớp mắt bỗng tang thương Những chốn hẹn nghìn năm không trở lại Những tên đời tơi tả khắp quê hương
Tháng 10-77
18. Cảm khái
Trong ví ta này chứng chỉ tại ngũ Mất nước rồi còn hiệu lực hơi lâu Chiều lưu lạc chợt thương tờ giấy cũ Tái tê cười: giờ gia hạn nơi đâu?
Trong ví ta này một thẻ căn cước Hình chụp ngây ngô rất mực cù lần Da xám ngoét như bị đời nhúng nước Má hóp vào như cả tháng không ăn
Mười tám tuổi thành công dân nước Việt Tên chụp hình làm ta xấu như ma Thằng khốn nạn làm sao mà nó biết Ta sẽ thành dân mất nước tan nhà!
Hai mươi tuổi ta đi làm chiến sĩ Bước giày đinh lạng quạng một đời trai Vừa đánh giặc vừa lừng khừng triết lý Nhưng thằng này yêu nước chẳng thua ai...
Hình căn cước anh nào mà chẳng xấu Tên chụp hình như một lão tiên tri Triệu mặt ngây ngô bàng hoàng xớn xác Cùng đến một ngày gẫy đổ phân ly
Nhìn hình chim in trên tờ chứng chỉ Chợt nhớ câu thơ: “Gẫy cánh Đại Bàng...” Ngàn lẫm liệt tan trong chiều rã ngũ Muôn anh hùng phút chốc hóa lang thang
Quanh mình xôn xao chuyện thay Quốc tịch Ngậm ngùi bày dăm giấy cũ coi chơi Thời cũ ố vàng, rách rời mấy mảnh Xót xa đau như mình bỗng qua đời.
Hỡi kẻ trong hình mặt xanh, mày xám Ngươi sắp thành tên mọi Mỹ rồi ư Hỡi thằng chiến binh một đời dũng cảm Mày lang thang đất lạ đến bao giờ
Ôi trong ví mỗi người dân mất nước Còn một oan hồn mặt mũi ngu ngơ Ôi trong trí những anh hùng thuở trước Còn dậy trời lên những buổi tung cờ
Tháng 6–77
Nguồn: Bản đăng trên talawas thực hiện vào tháng 7.2006, do tác giả hiệu đính, bổ sung và bớt một số bài từ các lần in đầu tiên năm 1978 (Tạp chí Bút Lửa và Nhà xuất bản Người Việt của Trần Đình Long, California), tái bản lần thứ nhất năm 1984 (Nhà xuất bản Tin Yêu của nhóm Thanh Nam, Seattle), và tái bản lần thứ hai năm 1987 (Nhà xuất bản Văn Nghệ, California).
.
tamdtran Khách viếng thăm
Tiêu đề: Re: Cao Tần, Thơ Người Di Tản Buồn Wed Jan 30, 2013 7:52 pm
Nhìn lại thời làm tờ Bút Lửa , ngoài vài người bạn quen từ xa gửi bài về, như quý ông Giao Chỉ Vũ Văn Lộc (lúc đó lấy bút hiệu là già Bất), Hoàng Khởi Phong, Cao bồi già, Bồ Đại Kỳ, Hũ chìm (Ngô vương Toại) v...v... ở San Diego lúc đó tôi được anh Lê Tất Điều rủ vào phụ dịch một số bài và trước đó tôi rủ thêm một người bạn Mỹ vào phụ sửa một số bài viết bằng anh ngữ cho tờ "Alarm". Đúng là ..."dân chơi không sợ mưa rơi" , hai tên di tản buồn, tiếng Anh còn lạng quạng mà dám ra báo tiếng Mỹ; bây giờ nhìn lại vừa vui, vừa ... dựng tóc gáy ! Tâm (61-68)
tamdtran Khách viếng thăm
Tiêu đề: Re: Cao Tần, Thơ Người Di Tản Buồn Wed Jan 30, 2013 8:01 pm
Quên ! phải nói cho rõ ràng không lại bị ăn "búa" vỡ đầu . Những người quen đó là bạn anh Điều, chứ không phải bạn tôi . Tôi chỉ quen có anh Ngô Vương Toại, anh vợ một người bạn đã mất và là cựu đồng nghiệp ở bộ DV&CH !
P-C Khách viếng thăm
Tiêu đề: Re: Cao Tần, Thơ Người Di Tản Buồn Thu Jan 31, 2013 10:20 am
Một tráng sĩ vung ly cười ngạo mạn Nửa đời xưa ta trấn thủ lưu đồn Nay đất khách kéo lê đời rất nản Ta tính sẽ về vượt suối trèo non...
Sẽ có lúc rừng sâu bừng chuyển động Những hùm thiêng cựa móng thét rung trời Và sông núi sẽ vươn mình trỗi dậy Và cờ bay trên đất nước xinh tươi
Một tráng sĩ vô êm chừng sáu cối Thần tự do giờ đứng ở nơi nào? Ta muốn đến leo lên làm đuốc mới Tự đốt mình cho lửa sáng xem sao...
Cao Tần viết thơ hộ thế hệ đau thương Thời thanh niên, tráng sĩ cứu cả quê hương Tuổi trung niên, muốn cả gia đình đổi mới Bây giờ sửa mình thôi... cũng mệt quá rồi!
NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
Tiêu đề: Tiếc Thương (Thơ: Cao Tần-NS Anh Bằng) Như Quỳnh & LN Tiến Sun Feb 10, 2013 2:33 pm
Đầu xuân, tưởng nhớ những chiến sĩ VNCH đã hy sinh cho quê mẹ.
[youtube][/youtube]
Tiếc Thương (Nhạc: Anh Bằng, Thơ: Cao Tần) - Như Quỳnh & Lâm Nhật Tiến DVD Asia 58 Lá Thư Từ Chiến Trường
TamTran Khách viếng thăm
Tiêu đề: ĐÍNH CHÍNH thơ Cao Tần Wed Feb 13, 2013 4:50 am
ĐÍNH CHÍNH thơ Cao Tần
Nhân trong mục giới thiệu các bài posted trong FORUM Nguyễn Trãi, anh Chương có link vào một video clip của trung tâm Asia về bản nhạc "Tiếc thương" của Anh Bằng, phổ thơ Cao Tần do Như Quỳnh và Lâm Nhật Tiến trình bầy, vì tôi có biết một chút ít liên quan về bản nhạc này nên tôi thấy cần nói rõ về trường hợp bản nhạc này như sau :
Tình cờ xem được video clip này của Asia trên youtube khoảng 2, 3 tuần sau khi video phát hành, tôi có gọi phone cho anh Lê Tất Điều (nhà thơ Cao Tần) thắc mắc là bài thơ này anh làm bao giờ mà tôi chưa được đọc và bây giờ được nhạc sĩ Anh Bằng phổ nhạc . Tôi thú nhận là không thuộc nhiều thơ của Cao Tần, nhưng đôi khi được đọc thơ anh lúc anh vừa làm xong còn nóng hổi. Thành ra tôi rất quen thuộc với các bài thơ của anh. Anh Điều cũng hơi ngạc nhiên khi biết thơ mình được phổ nhạc mà anh lại không biết . Tôi email link cho anh vào xem và sau đó anh gửi email lại cho tôi xác nhận bài thơ "Tiếc thương" được nhạc sĩ Anh Bằng phổ nhạc không phải là thơ của anh (Cao Tần) . Anh có nhờ tôi viết email cho trung tâm Asia nhờ đính chính nhưng tôi không nhận vì tôi không đủ thẩm quyền. Sau đó anh có cho tôi biết là anh đã nhờ Hoàng Dược Thảo bên báo Saigon Nhỏ lên tiếng giùm.
Trước khi viết email này tôi có phone cho anh và hỏi thăm thêm là từ đó anh có nghe thấy ai bên trung tâm Asia hay MC giới thiệu lên tiếng đính chính, xin lỗi gì không thì anh nói là "... trực tiếp cho anh thì không, nhưng ở chỗ khác thì không biết ..." Thực tế thì sau đó tôi cũng có theo rõi thêm những bộ DVD tiếp theo của Asia nhưng cũng không thấy ai lên tiếng đính chính về sự sai nhầm này. Thật là tiếc cho sự làm ăn tắc trách của một trung tâm âm nhạc lớn ở hải ngoại.
Thấy việc sai trái mình biết rõ mà không lên tiếng tôi thấy cũng hơi ... khó chịu ; nhất là người liên quan lại là một niên trưởng cựu học sinh Nguyễn Trãi quen biết thân tình và video clip lại được posted trong FORUM Nguyễn Trãi.
Học sinh Nguyễn Trãi như Cao Tần đâu muốn ai "gắn nhầm" tên mình vào thơ của người khác !
Trần Đức Tâm NT 61-68
PS. Chuyện vui bên lề ... Anh Điều có kể cho tôi nghe là nhận được thư của một nhà xuất bản ở VN xin được phép in lại các tác phẩm viết cho thiếu nhi của anh, tiền bạc họ sẽ trả đàng hoàng nhưng anh tặng luôn chỉ vì nghĩ đến các trẻ em trong nước ngày nay không có các sách truyện thiếu nhi đứng đắn , trong sáng để đọc ...sau khi sách được tái bản rất nhiều phụ huynh và người đọc trong nước gửi thư ca tụng những tác phẩm viết cho thiếu nhi của anh trước 75, trong đó có cả văn giới trong nước ... Tôi cười cười hỏi... trời không nắng liệu anh có ngại "đội mũ" không ? Anh cười còn to hơn tôi ...
NTB Khách viếng thăm
Tiêu đề: ĐÍNH CHÍNH thơ Cao Tần Wed Feb 13, 2013 5:41 am
Anh Tâm thân mến,
Cám ơn anh đã viết bài đính chính về tác giả bài thơ "Tiếc thương". Tuy nhiên đáng trách đây là Trung Tâm Asia họ đã nêu sai tên tác giả bài thơ này là nhà thơ Cao Tần! còn anh NHViet (chứ không phải anh Chương) cũng chỉ làm công việc link một video clip để các ACE/NT thưởng thức mà thôi chứ làm sao anh ấy có thể kiểm chứng được ai mới đúng là tác giả của bài thơ đó. May mà anh Tâm có quen biết với anh Lê Tất Điều nên mới có cơ hội gọi cho anh ấy để xác định chứ dễ mấy ai biết được đích xác tác giả thực thụ của bài thơ này.