November 2024 | Mon | Tue | Wed | Thu | Fri | Sat | Sun |
---|
| | | | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | | Calendar |
|
|
| Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro | |
| | Tác giả | Thông điệp |
---|
PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Fri Jan 19, 2018 12:20 am | |
| TUYẾT TRÊN ĐỈNH KILIMANJARO Ernest Hemingway (Nobel 1954)
Kilimanjaro là một ngọn núi phủ tuyết cao gần 5850 mét và nghe nói đó là ngọn núi cao nhất ở Châu Phi. Đỉnh phía tây của nó gọi là Masai "Ngã je Ngài", ngôi nhà của Thượng đế. Ở gần kề đỉnh phía tây, có xác một con báo đã khô và đông cứng lại. Con báo tìm kiếm gì ở độ cao ấy, nào đã có ai giải thích cho ra nhẽ.
- Cái kỳ diệu là nó chẳng có đau gì hết - Hắn nói, - Chính như thế mà người ta biết khi nào nó bắt đầu. - Có thật thế không? - Hoàn toàn thật. Dù sao anh cũng lấy làm ân hận ghê gớm về cái mùi tỏa ra từ anh. Chắc hẳn nó làm phiền em. - Đừng nói thế! Em xin anh đừng nói thế! - Em nhìn chúng kìa - Hắn nói - Giờ thì do nhìn thấy hay do ngửi mùi mà chúng kéo đến thế kia? Chiếc giường nhỏ trên đó người đàn ông nằm, đặt dưới bóng râm tỏa rộng của một cây mimoza, và phóng mắt vượt quá bóng râm đó nhìn ra vạt đồng bằng chói chang, hắn thấy ba con chim to tướng ngồi chồm chỗm, nom đến là dâm tục, trong khi một tá con khác liệng trong bầu trời, đổ những vệt bóng vùn vụt khi chúng bay qua. - Chúng đã lượn quanh đó từ hôm chiếc cam-nhông bị gục - Hắn nói - Hôm nay là lần đầu tiên có con đậu xuống đất. Thoạt đầu, anh đã quan sát rất cẩn thận cách chúng liệng, ngộ nhỡ có khi muốn tả chúng trong một truyện ngắn. Bây giờ, cái đó đâm buồn cười. - Em mong anh đừng nói thế. - Nàng nói. - Anh chỉ chuyên gẫu thế thôi - Hắn nói - Anh thấy dễ chịu hơn nhiều nếu anh nói chuyện. Nhưng mà anh không muốn phiền lòng em. - Anh biết đấy, cái đó đâu có làm em phiền lòng, - Nàng nói - Chỉ tại em quá đỗi bồn chồn bực dọc về nỗi không thể làm được bất cứ cái gì đấy thôi. Em nghĩ chúng mình có thể ráng hết sức thu xếp êm ả mọi sự cho đến khi máy bay tới. - Hoặc cho đến khi máy bay không tới. - Xin anh bảo cho em có thể làm gì. Chắc phải có một điều gì đó em có thể làm được chứ! - Em có thể phăng-teo cái chân này đi, và biết đâu làm thế lại chả chấm dứt được cơ sự ấy, mặc dầu anh chả tin mấy. Hoặc giả em có thể bắn anh. Bây giờ, em là tay súng cừ rồi. Anh đã dạy em bắn mà, đúng thế không? - Em xin anh đừng có nói năng kiểu ấy. Em đọc cho anh nghe nhé, được không? - Đọc gì? - Bất cứ cái gì trong cặp đựng sách mà chúng mình chưa đọc. - Anh không thể nghe đọc sách được - Hắn nói - Chuyện gẫu vẫn là dễ dàng nhất. Chúng mình cãi vã, cái đó làm thời gian qua mau. - Em không cãi vã. Em không bao giờ muốn cãi cọ. Chúng mình đừng cãi nhau nữa. Dù chúng mình có đâm bực bội đến thế nào đi nữa. Có thể hôm nay, họ sẽ mang về một cái cam-nhông khác cũng nên. Cũng có thể là máy bay sẽ tới. - Anh không muốn di chuyển - Người đàn ông nói - Bây giờ, di chuyển chẳng có nghĩa gì hết, ngoại trừ để làm em yên tâm thanh thản hơn. - Thế là hèn nhát. - Em có thể để cho một thằng đàn ông chết yên ổn mà không nhiếc móc nó không? Xỉ vả anh thì ích gì. - Anh không phải là sắp chết. - Đừng có ngớ ngẩn. Anh đang ngắc ngoải đây. Em hỏi những cái con khốn kiếp kia xem. - Hắn nhìn ra chỗ lũ chim dơ dáy to đùng đang ngồi, những cái đầu trần trụi rụt vào trong bộ lông uốn vồng lên. Một con thứ tư sà xuống, chân thoăn thoắt chạy, rồi từ đi lạch bạch về phía những con kia. - Bọn nó thì ở quanh chỗ cắm trại nơi nào mà chẳng có. Đừng có để ý đến chúng. Người ta không thể chết, nếu không nhắm mắt buông trôi. - Cô đọc được cái ấy ở đâu vậy. Cô thật ngu hết chỗ nói. - Anh có thể nghĩ về một người nào khác. - Lạy Chúa, - Hắn nói - trước nay đó vẫn là nghề của tôi mà.
Thế rồi hắn nằm và yên lặng một hồi, nhìn qua ánh nhiệt lung linh của dải đồng bằng đến tận bìa rừng. Có mấy con linh dương hiện ra nhỏ bé và trắng tinh trên nền vàng và ở đằng xa, hẳn thấy một bầy ngựa vằn, trăng trắng trên nền xanh lục của rừng. Đó là một chỗ cắm trại thú vị dưới những cây to sát một quả đồi có nước trong lành, và kề bên là một hố nước đã gần cạn khô, nơi sáng, gà gô trắng bay từng đàn. - Anh muốn em đọc cho anh nghe không? - Nàng nói. Nàng đang ngồi trên một chiếc ghế bố cạnh giường hắn - Có gió hây hẩy lên đấy. - Không, cảm ơn. - Có thể xe cam-nhông sẽ tới. - Tôi đếch cần xe cam-nhông. - Em thì em cần. - Cô cần biết bao thứ mà tôi không cần. - Đâu mà bao nhiêu thứ, Harry. - Anh uống một ly, được không? - Em nghĩ cái đó có hại cho anh. Từ điển Black 1 nói rằng phải tránh mọi thứ rượu. Anh không nên uống. - Malo! - Hắn gọi to. - Dạ, thưa Bwana 2 - Mang uýtxki-xôđa lại đây. - Vâng, thưa Bwana. - Anh không nên uống - Nàng nói - Vừa rồi em nói nhắm mắt buông trôi là có nghĩa như thế đấy. Người ta bảo cái đó có hại cho anh. Em biết cái đó có hại cho anh. - Không - Hắn nói - Cái đó tốt cho anh. Thế đấy, mọi sự đến đây là hết - Hắn nghĩ - Vậy là bây giở hắn tuyệt không hòng gì làm tròn được cái ấy. Vậy đây là cái cách nó kết thúc bằng một cuộc đôi co vặt vãnh về một ly rượu.
Từ khi chân phải hắn bắt đầu bị hoại thư, hắn chẳng thấy đau gì và nỗi khiếp sợ cũng biến mất cùng với cái đau, và giờ đây hắn chỉ cảm thấy mệt ghê gớm và giận dữ về nỗi nó chấm dứt như thế này. Về cái hiện đang tới, hắn chẳng mấy quan tâm muốn biết. Hàng bao năm, nó ám ảnh hắn; nhưng giờ đây tự bản thân nó chẳng có ý nghĩa gì nữa. Thật kỳ lạ là cái mệt lại khiến cơ sự đâm dễ chịu biết bao. Giờ đây hắn sẽ không bao giờ viết những điều mà hắn đã để dành đến khi nào đủ điêu luyện để viết cho hay thì mới viết. Ở mặt khác, hắn cũng sẽ không phải chịu thất bại khi thử viết những điều ấy. Có thể là mày không bao giờ đủ sức viết những điều đó, và chính vì thế mà mày gác lại và trì hoãn mãi không dám bắt đầu hạ bút cũng nên. Thôi nhé, bây giờ thì hắn chả còn mong gì viết được nữa. - Giá chúng mình đừng bao giờ tới đây - Người đàn bà nói. Nàng đang nhìn hắn cầm cốc rượu và nàng cắn môi - Cứ ở Paris thì đâu đến nỗi anh bị một cái gì như thế này. Anh vẫn luôn nói là anh yêu Paris mà. Đáng lẽ chúng mình có thể cứ ở lại Paris hoặc đi bất cứ đâu. Em sẵn sàng đi bất cứ đâu. Em đã báo em sẵn sàng đi bất cứ nơi nào anh muốn. Nếu lúc ấy anh muốn đi săn thì chúng mình đã có thể đi săn ở Hungari và tha hồ thoải mái. - Cái đồng tiền chết tiệt của cô. - Hắn nói. - Nói vậy là không đúng - Nàng nói - Tiền của em cũng là của anh, xưa nay vẫn vậy. Em đã bỏ tất cả và em đã đi bất cứ đâu anh muốn đi, và em đã làm những gì anh muốn làm. Song ước sao giá chúng mình đừng bao giờ đến đây. - Trước cô bảo là cô thích nơi này kia mà? - Em có nói thế, khi anh không sao cả. Nhưng bây giờ thì em căm ghét cái chốn này. Em không hiểu tại sao cái chứng ấy lại xảy ra đến với chân anh. Chúng mình đã làm gì để xảy ra nông nỗi này. - Tôi đồ rằng cái tôi đã làm là quên không bôi i-ốt ngay khi bị xước da. Thế rồi tôi đã chẳng để ý gì đến nó bởi lẽ tôi chả bao giờ bị nhiễm trùng. Rồi sau đó, khi nó dở chứng, chắc là tại đi dùng cái dung dịch cácbôlic loãng ấy thay vì các chất khử trùng khác đã hết, nên mới đâm ra liệt các mạch máu nhỏ và chứng hoại thư bắt đầu. - Hắn nhìn nàng - Còn gì khác nữa? - Em không định nói chuyện ấy. - Nếu chúng ta thuê một gã thợ cơ khí tốt thay vì cái thằng cha tài xế non tay nghề người kikuyu ấy, thì ắt gã đã kiểm tra lại xăng dầu và chả bao giờ để cháy "biên" trong cam-nhông. - Em không định nói chuyện ấy. - Nếu cô không bỏ gia đình cô, bỏ cái lũ lĩ chết tiệt nhà cô ở Old Westbury, Saratoga, Palm Beach mà theo tôi thì... - A, vì em đã yêu anh. Nói vậy thật bất công đấy. Bây giờ, em vẫn yêu anh. Em sẽ yêu anh mãi mãi. - Anh có yêu em không? - Không - Người đàn ông nói - Tôi không nghĩ thế. - Tôi chưa bao giờ yêu cô. - Harry, anh nói gì vậy. Anh quẫn trí rồi. - Không. Tôi làm gì có trí mà quẫn. - Anh đừng uống cái ấy - Nàng nói - Anh yêu, xin anh đừng uống cái ấy. Chúng mình phải làm tất cả những gì chúng mình có thể làm. - Để cô làm - Hắn nói - Tôi mệt chán rồi.
Giờ đây, trong tâm trí hắn, hiện lên một cái ga xe lửa ở Karagatch, hắn đang đứng với bọc hành lý và đèn pha đằng đầu đoàn tàu Simplon-Orient xẻ dọc bóng đêm; hắn đang rời khỏi miền Thrace sau cuộc rút lui. Đó là một trong những điều hắn dành lại để sau này sẽ viết, và cũng sáng hôm ấy, vào lúc điểm tâm, hắn nhìn ra ngoài cửa sổ, trông thấy tuyết trên những ngọn núi ở Bungari, cô thư ký của Nansen hỏi lão già có phải tuyết đấy không, và lão già cũng nhìn ra mà rằng, không, đấy không phải là tuyết, và cả bọn cùng nói. Đấy không phải là tuyết, chúng mình nhầm rồi. Nhưng mà đấy đúng là tuyết thật và khi thực hiện trao đổi cư dân, hắn đã tống các cô ra lội tuyết. Và chính là lê bước trong tuyết mà các cô đã lang thang đến khi chết gục mùa đông năm ấy. Cũng chính là tuyết rơi suốt cả tuần Nôen cái năm ở trên vùng cao Gauertal, cái năm họ ở nhà bác tiều phu, căn nhà có cái lò sứ vuông to tướng chiếm nửa gian buồng, họ ngủ trên những chiếc nệm nhồi lá gồi, cữ ấy có anh chàng đào ngũ đến, đôi chân nhỏ máu trên tuyết. Anh ta bảo cảnh sát đuổi theo sát anh ta, họ đã cho anh ta đôi bít tất len và giữ bọn cảnh binh lại nói chuyện cho đến khi lấp hết dấu chân.
Ở Schrunz, hôm Nôen, tuyết sáng chói cả mắt khi ta ngồi trong tiệm rượu nhìn ra và trông thấy từng người từ nhà thờ đi về nhà. Chính tại đó, họ đã leo lên con đường vàng màu nước tiểu được xe trượt qua lại bào nhẵn thín, men theo bờ sông với những trái đồi thông dốc đứng, ván trượt tuyết mang nặng trên vai, và cũng tại đó, họ đã lao cái chặng xuống dốc băng cực kỳ ấy bên trên Madlener-haus, tuyết nom mượt như kem bánh gatô và như bột, và hắn nhớ lại cái đà lao nhanh mà êm ru không tiếng động khi toàn thân liệng xuống như một con chim. Đêm ấy, họ bị tuyết làm nghẽn đường một tuần, lưu lại Madlener- haus trong bão tuyết, đánh bài dưới ánh đèn lồng khói mù và Her Lenifn 3 càng thua cay, tiền đặt cược càng cao lên mãi. Cuối cùng ông ta thua sạch sành sanh. Nhẵn nhụi tất cả, nào tiền quỹ của trường dạy trượt tuyết, nào toàn bộ lãi trong mùa, rồi vốn liếng của ông ta nữa. Hắn có thể mường tượng lại ông ta với cái mũi dài, tay bốc bài và mở xòe ra "sans voir" 4 . Dạo ấy lúc nào cũng có sát phạt, không có tuyết, cũng đánh bạc, tuyết nhiều quá cũng đánh bạc. Hắn ngẫm nghĩ về tổng số thời gian hắn đã tiêu phí vào việc đánh bạc trong cả đời mình.
Nhưng hắn chưa bao giờ viết lấy một dòng về cái đó cũng như về cái ngày Nôen giá rét, sáng sủa với rặng núi in bật lên nơi cuối dải đồng bằng, cái ngày Barker bay qua chiến tuyến ném bom chuyến tàu chở bọn sĩ quan Áo về Pháp, xả súng máy vào họ khi họ chạy tán loạn. Hắn nhớ lại Barker sau phi vụ ấy bước vào phòng ăn sĩ quan và bắt đầu kể chuyện. Và không khí mới ắng lặng đi làm sao chứ, rồi một tay nào đó nói: "Mày là thằng sát nhân chó đẻ khốn kiếp". Cũng vẫn là người Áo, bấy giờ họ giết, ít lâu sau lại trượt tuyết với hắn. Không, không phải vẫn những người ấy. Hans, bạn trượt tuyết với hắn trong cả năm ấy, đã từng ở đội săn của nhà vua, và khi họ cùng đi săn thỏ ở con thung nhỏ, mé trên nhà máy cưa, họ đã chuyện trò về chiến sự ở Pasubio, về trận đánh ở Pertica và Asalone, và hắn chưa bao giờ viết lấy một chữ về cái đó. Cũng như về Monte Corno, cũng như về Siete Commun, cũng như về Arsiedo. Hắn đã sống bao nhiêu mùa đông ở vùng Voralberg và vùng Aclberg nhỉ? Tính ra là bốn, và hắn nhớ đến anh chàng có con cáo đem bán, cái lần họ đi bộ vào Bludenz để mua quà tặng, nhớ đến cái vị anh đào của loại rượu anh đào ngon, tuyết bụi trút nhanh ào ạt trên mặt băng mỏng, họ vừa hát: "Hi! Hô! Rolly kêu!" vừa lao nốt đoạn cuối xuống đến quãng dốc đứng, tuột thẳng một lèo, rồi băng qua vườn cây ăn quả, quặt ba lần, và vượt quãng hào đâm ra con đường băng giá đằng sau quán trọ. Tháo tung dây buộc, hắt chân một cái cho rời ván trượt tuyết và dựng nó lên dựa vào vách gỗ quán trọ. Có ánh đèn từ cửa sổ, mé bên trong, người ta đang chơi phong cầm trong cái ấm cúng ám khói và nồng nồng mùi rượu vang mới.
- Ở Paris, chúng mình trọ tại đâu nhỉ! - Người đàn bà hỏi, giờ đây nàng đang ngồi trên một chiếc ghế bố cạnh hắn ở châu Phi. - Tại khách sạn Crillon. Cô biết thừa đi rồi còn hỏi. - Tại sao lại biết thừa đi rồi? - Bởi vì bao giờ chúng mình cũng trọ ở đấy. - Không, không phải bao giờ cũng vậy. - Tại đó và tại Lầu Henry IV ở St. Germain. Anh bảo anh yêu chỗ đó mà. - Yêu, yêu, tình yêu là một đống phân - Harry nói - Và tôi là con gà trống nhảy lên trên đó mà gáy. - Nếu số phận buộc anh phải ra đi - Nàng nói - thì có nhất thiết là anh phải hủy hoại tất thảy những gì anh để lại trên đời không? Em muốn nói là anh có phải mang đi tất cả không? Anh có nhất thiết phải giết ngựa của anh, vợ của anh và đốt yên cương cùng áo giáp của anh đi không? - Có chứ - Hắn nói - Đồng tiền đáng nguyền rủa của cô là áo giáp của tôi. Tuấn Mã và Chiến Bào của tôi. - Đừng nói thế. - Thôi được. Tôi sẽ im. Tôi không muốn xúc phạm cô. - Bây giờ thì hơi muộn mất rồi. - Thế cũng được. Tôi sẽ lại tiếp tục xúc phạm cô. Thế lại vui hơn. Điều duy nhất tôi thực tình muốn làm với cô, bây giờ tôi không đủ sức làm nữa rồi. - Không, nói thế không đúng. Trước đây anh muốn làm bao nhiêu thứ và tất cả mọi thứ anh muốn làm em đều đã làm. - Ôi, Christ, lạy Chúa tôi, cô có thôi huênh hoang đi không? - Hắn nhìn nàng và thấy nàng khóc. - Nghe đây em - Hắn nói - Em tưởng anh làm thế là vui thú lắm sao? Anh không biết tại sao mình lại làm thế. Đó là cái lối cố giết để giữ cho mình sống sót, anh ngờ vậy. Anh đã cảm thấy dễ chịu khi chúng mình bắt đầu trò chuyện. Anh đâu có định gây sự, thế mà bây giờ anh đâm điên điên khùng khùng như chó dại và hết sức phũ phàng với em. Em yêu, em đừng có để ý đến những gì anh nói. Anh yêu em, thực tình. Em biết đấy, anh yêu em. Trước đây anh chưa từng yêu ai khác như cách anh yêu em. Hắn lại tự thả mình vào sự dối trá quen thuộc vốn là mánh khóe kiếm cơm của hắn. - Anh thật dịu ngọt với em. - Cô là con đĩ - Hắn nói - Đĩ tĩ vàng 5 . Thơ đấy nhé. Giờ đây, trong tôi đầy chất thơ. Sự thối mục và chất thơ. Thối và thơ. Thơ thối. - Im đi, Harry, tại sao giờ đây anh lại phải tự biến mình thành con quỷ như vậy? - Tôi không thích để lại cái gì - Người đàn ông nói - Tôi không thích để lại các thứ trên đời.
° ° °
Bây giờ là buổi chiều, và hắn đã ngủ. Mặt trời đã khuất sau núi, một vùng bóng đen trải dài suốt cánh đồng bằng và những con vật nhỏ đang kiếm ăn gần chỗ cắm lều, đầu chúi nhanh và đuôi vắt ve, hắn quan sát thấy giờ đây chúng đã tách ra khỏi rừng cây bụi. Lũ chim thôi không rình đợi ở dưới đất nữa. Chúng tót cả lên một cái cây, nặng nề đậu trên đó. Chúng đông thêm nhiều. Gã bồi riêng của hắn đang ngồi cạnh giường. - Memsahib 6 đi săn - Gã bồi nói - Bwana cần gì ạ? - Không cần gì cả. Nàng đi giết tí thịt và, vốn biết hắn rất thích theo dõi thú săn, nàng đã đi thật xa để khỏi quấy rối cái khoảng đồng bằng nằm ngay trước mặt hắn. Cô ta bao giờ cũng lo xa, hắn nghĩ. Lo lắng đến bất cứ điều gì cô ta biết hoặc đã từng đọc được hay nghe thấy. Khi hắn đến với nàng, đời hắn đã bỏ đi rồi, cái đó đâu phải lỗi tại nàng. Làm sao một người phụ nữ có thể biết được trong những điều anh nói ra chẳng có gì là thực bụng; rằng anh nói chỉ do thói quen và chỉ cốt cho mình được thoải mái? Từ sau khi hắn thôi không chân thành nữa, những lời dối trá của hắn lại có tác dụng chinh phục phụ nữ hơn là hồi hắn nói thật với họ. Kể ra bảo hắn là không có gì thật để mà nói, thì đúng hơn là hắn nói dối. Trước đó, hắn đã có một cuộc đời và cuộc đời ấy đã chấm dứt, thế rồi hắn lại tiếp tục sống trở lại cuộc đời ấy với những người khác, với nhiều tiền bạc hơn, với những gì hay ho, tốt đẹp nhất ở những chốn cũ và một số nơi mới nữa.
Ta tránh không suy tư và như thế thật là tuyệt. Bên trong ta là gang, là thép cứng rắn, nên ta thấy không sụp tan tành như số đông người khác, và ta tỏ thái độ bất cần cái công việc xưa nay ta vẫn làm, giờ đây khi ta không còn khả năng tiếp tục nữa. Nhưng trong thâm tâm, ta vẫn tự nhủ rằng rồi đây ta sẽ viết về những con người ấy, về những kẻ giàu sụ; rằng thực ra, ta không thuộc giới họ, mà chỉ là một tên gián điệp chui vào trong bọn họ; rằng ta sẽ từ bỏ cái thế giới ấy và sẽ viết về nó, và sẽ đến lúc cái đó được viết ra bởi một người thấu hiểu những gì mình viết. Nhưng mà hắn sẽ không bao giờ làm điều ấy, bởi vì mỗi một ngày không viết, mỗi một ngày sống đầy đủ tiện nghi, mỗi một ngày là cái đồ mà hắn khinh bỉ, cứ làm cùn khả năng của hắn và làm mềm những ý chí làm việc của hắn, đến nước là, cuối cùng, hắn chẳng làm gì hết. Những người hắn quen biết hiện nay đều cảm thấy thoải mái hơn nhiều khi hắn không làm việc. Châu Phi là nơi hắn từng thấy mình hạnh phúc nhất trong thời kỳ tốt đẹp của đời hắn, cho nên hắn đã đến đây để bắt đầu lại lần nữa. Họ đã tiến hành cuộc xafari 7 này với tiện nghi tối thiểu. Không gian khổ, thiếu thốn nhưng cũng chẳng chút xa hoa, và hắn đã nghĩ có thể dày dạn trở lại bằng cách ấy. Hắn đã nghĩ rằng, cách nào đó, hắn sẽ có thể khử đi lớp mỡ bao quanh tâm hồn hắn như kiểu một võ sĩ vào rừng làm việc, tập tành để làm tiêu mỡ khỏi cơ thể vậy.
Nàng đã lấy đó làm thú vị. Nàng bảo nàng yêu thích cái đó. Nàng yêu thích bất cứ cái gì náo nức hồi hộp, kéo theo một thay đổi cảnh trí, ở đó có những bộ mặt mới và sự vật đều thú vi. Và hắn đã có cái ảo tưởng là ý chí làm việc đang hồi sức. Giờ đây, nếu cơ sự kết thúc như thế này, - và hắn biết rằng đúng là thế, - thì hắn cũng chả nên bắt chước con rắn ngoắt lại tự cắn mình vì nỗi lưng bị gãy. Đâu phải lỗi tại người đàn bà này. Nếu không có cô ta thì cũng nên có một ả khác. Nếu hắn sống trong dối trá, thì cũng cố mà chết trong dối trá. Hắn nghe thấy một tiếng súng bên kia núi. Nàng bắn rất cừ, cái cô ả tốt bụng ấy, cái con đĩ tĩ vàng ấy, người bảo vệ nhiệt thành mà cũng là kẻ hủy hoại tài năng của hắn. Tầm bậy. Chính hắn đã hủy hoại tài năng của mình. Tại sao hắn lại đổ tội cho người đàn bà này chỉ vì cô ta bao hắn chu tất? Hắn đã hủy hoại tài năng mình bằng cách không sử dụng đến nó, bằng những lần tự phản bội bản thân, phản bội những điều mình tin, bằng rượu chè vô độ đến nỗi cùn mòn cả cảm quan, bằng lười nhác, ẽo ợt, bằng đua đòi điệu dàng, bằng hợm hĩnh và định kiến, bằng mưu kế giảo hoạt. Gì vậy nhỉ? Một bản liệt kê các sách cũ chăng? Mà tài năng của hắn là gì mới được chứ? Thì đúng là hắn có tài thực, nhưng đáng lý sử dụng nó thì hắn lại đem buôn bán nó. Nó không khi nào thể hiện ra những gì hắn đã làm, mà bao giờ cũng ở những gì hắn có thể làm. Và hắn đã chọn cách kiếm sống bằng một cái gì khác, chứ không phải bằng ngòi bút. Cũng thật là kỳ lạ, ờ, đúng thế, một lần hắn phải lòng một người đàn bà khác, thì bao giờ cũng vớ được một nàng lắm tiền nhiều của hơn nàng trước, cái đó chẳng kỳ lạ sao? Nhưng khi hắn thôi không yêu nữa, khi hắn thấy chỉ toàn nói dối, như đối với người đàn bà này, bây giờ đây, người giàu có nhất trong tất cả, người có tất cả tiền bạc trên thế gian, đã từng có chồng và mấy con, đã từng bồ bịch và không thỏa mãn với những người tình ấy, hiện yêu hắn tha thiết như một nhà văn, như một đấng nam nhi, như một bạn đời và như một tài sản quý báu, phải, thật kỳ lạ là khi hắn chẳng yêu gì nàng và chỉ dối trá, thì hắn lại có thể làm cho nàng sung sướng, bõ với đồng tiền nàng bỏ ra, hơn là khi hắn yêu chân thành.
Tất cả chúng ta, ai làm công việc gì, ắt hẳn đã được phú bẩm từ lúc lọt lòng, hắn nghĩ. Anh kiếm sống như thế nào, thì tài năng của anh ở chỗ đó. Hắn đã suốt đời bán sinh lực dưới hình thức này hay hình thức khác, và chính khi không quá nặng tình nặng nghĩa, người ta lại cho đi những cái giá trị gấp bội số tiền bạc nhận được. Hắn đã khám phá ra điều đó, nhưng bây giờ cả cái đó, hắn cũng chả bao giờ viết ra nữa. Không, hắn sẽ không viết cái đó, mặc dầu nó rất đáng viết. Kìa, nàng đã xuất hiện, nàng đang đi ngang qua bãi trống về phía cắm lều. Nàng mặc Jodphur 8 và mang súng săn. Hai gã bồi khiêng một con linh dương tommic đi theo sau nàng. Cô ta còn đẹp, hắn nghĩ, và cô ta có một thân hình khả ái. Nàng có biệt tài trên giường và thích thi thố tài năng đó trên giường; nàng không xinh, nhưng hắn ưa bộ mặt nàng; nàng đọc rất nhiều, thích cưỡi ngựa, săn bắn, và rành là nàng uống rượu quá nhiều. Chồng nàng chết khi nàng còn là một thiếu phụ tương đối trẻ và trong một thời gian, nàng đã dốc hết mình vào hai đứa con vừa mới lớn (chúng chẳng những không cần đến nàng, mà còn thấy vướng víu khi có mẹ ở bên cạnh là đằng khác), vào chuồng ngựa của nàng, vào đọc sách, vào be lớn be nhỏ. Nàng thích đọc vào buổi tối trước bữa ăn và uống rượu Scotch pha xôđa trong khi đọc. Đến bữa thì nàng đã ngủ ngà ngà và sau một chai vang trong khi ăn, nàng thường đủ say để sụp vào giấc ngủ. Đó là trước thời kỳ bồ bịch. Sau khi đã có nhân tình nhân bánh, nàng không uống nhiều đến thế nữa, vì nàng khỏi cần say mới ngủ được. Song đám bồ bịch này làm nàng phát ngán. Nàng đã từng lấy một người đàn ông không bao giờ làm nàng ngán, mà cái đám này thì khiến nàng quá ớn. Thế rồi một trong hai đứa con nàng chết trong một vụ máy bay rơi, và sau khi mọi việc đã kết thúc, nàng chẳng thiết bồ bịch nữa, và bởi rượu không đủ để gây tê, nàng buộc phải làm lại cuộc đời. Đúng cái, nàng bỗng sợ cảnh cô đơn, một nỗi sợ hãi nhói buốt. Nàng muốn có ai đó bạn bầu, nhưng phải là người mà nàng kính trọng.
Mọi sự đã mở đầu rất đơn giản. Nàng thích những gì hắn viết và xưa nay nàng vẫn thèm muốn lối sống của hắn. Nàng ngỡ hắn làm đúng những điều hắn muốn. Những bước nàng tiến hành để chiếm được hắn và cái cách như thế nào mà rốt cuộc, nàng đâm yêu hắn, đều nằm trong một tiến trình quy củ mà qua đó nàng đã xây dựng cho mình một cuộc đời mới, và hắn đã bán chác nốt những gì còn sót lại từ cuộc đời cũ của hắn. Hắn đã đánh đổi nó lấy an ninh, lấy tiện nghi nữa, cái đó hiển nhiên không chối cãi được. Và lấy gì khác nữa? Hắn cũng không biết. Bất kỳ cái gì hắn muốn, nàng đều sẵn sàng mua cho hắn. Hắn biết vậy. Hơn nữa, nàng còn là một phụ nữ cực kỳ dễ thương. Hắn ưng ngủ với nàng như bất cứ ai; dễ thương là ưng hơn cả, vì nàng giàu, vì nàng rất dễ chịu, biết trân trọng và vì nàng không bao giờ gây chuyện cãi cọ om xòm. Và giờ đây cuộc đời mà nàng đã ra công xây dựng lại này sắp đến chỗ kết thúc, chỉ vì cách đây hai tuần, hắn không chịu bôi i-ốt khi một cái gai cào xước đầu gối hắn trong lúc họ tiến lên định chụp ảnh một bầy trâu nước đang đứng nghển đầu ngó nghiêng, đồng thời hách mũi đánh hơi, vểnh tai nghe ngóng, sẵn sàng lao vào rừng ngay từ tiếng động đầu tiên. Chúng đã vụt đi khi hắn kịp chụp. Kìa, nàng đã đến.
Hắn xoay đầu trên giường nằm để nhìn về phía nàng. "Chào", hắn nói. - Em bắn được một con linh dương đực - Nàng khoe với hắn - Đem nấu xúp cho anh thì tuyệt. Và em sẽ sai nghiền với khoai tây ăn kèm món Klim. Anh thấy trong người thế nào? - Đỡ nhiều. - Tuyệt diệu! Anh biết đấy, em vẫn nghĩ là có lẽ anh sẽ đỡ mà. Lúc em đi thì anh đang ngủ. - Anh đã ngủ một giấc ngon lành. Em đi có xa không? - Không xa. Chỉ quành ra sau núi thôi. Em đã bắn con linh dương một phát ra bắn. - Em bắn tuyệt vời, em biết đấy! - Em mê bắn. Em mê châu Phi. Thật đấy. Nếu anh khỏe mạnh, thì đây là dịp vui thú nhất em từng được hưởng. Anh không biết là đi săn với anh thú vị nhường nào đâu. Em yêu cái xứ sở này. - Anh cũng yêu nó. - Anh yêu, anh không hình dung được là em cảm thấy tuyệt diệu nhường nào khi thấy anh đỡ đâu. Em không sao chịu đựng nổi khi anh bực bội như thế kia. Anh sẽ không nói với em như thế nữa chứ? Anh có hứa với em không? - Không - Hắn nói. - Tôi không nhớ tôi đã nói những gì. - Anh không nhất thiết phải hủy hoại em chứ, phải không anh? Em chỉ là một con đàn bà đứng tuổi yêu anh và muốn làm những gì anh muốn làm. Đời em đã bị hủy hoại hai, ba lần. Anh không muốn hủy hoại em lần nữa chứ? - Tôi những muốn hủy hoại cô vài ba lần trên giường. - Hắn nói. - Ừ. Đó là một sự hủy hoại tốt. Trời sinh chúng ra là để được hủy hoại theo cách ấy. Ngày mai, máy bay tới đây. - Làm sao em biết? - Em chắc chắn thế. Nó nhất định phải tới. Bọn bồi đã chuẩn bị sẵn củi và cỏ khô để đốt làm hiệu. Hôm nay, em đã xuống kiểm tra lần nữa. Có khối chỗ để hạ cánh và chúng ta chuẩn bị đốt lửa cả hai đầu. - Cái gì khiến em nghĩ rằng mai nó sẽ tới? - Em chắc chắn là nó sẽ tới mà. Đáng lẽ nó đã phải ở đây rồi. Thế rồi, vô thành phố, họ sẽ chữa lành chân anh và chúng mình sẽ tiến hành những cuộc hủy hoại tốt lành. Chứ đừng hủy hoại bằng cái kiểu nói năng dễ sợ nọ. - Ta làm một ly chăng? Mặt trời lặn rồi. - Anh thấy có nên không? - Anh uống một ly. - Chúng mình cùng uống mỗi đứa một ly. - Molo, letti dui whitskey-soda 9 ! - Nàng gọi. - Em nên đi ủng chống muỗi vào. - Hắn bảo nàng. - Em đợi khi nào tắm xong mới đi.
Họ uống với nhau trong khi trời tối dần, và ngay trước lúc tối mịt, không còn đủ ánh sáng để bắn, thì một con linh cẩu đi ngang qua bãi trống trước khi quành ra sau núi. - Cái con khốn khiếp này đêm nào cũng qua đó, - Người đàn ông nói - Hai tuần nay, đêm nào cũng thế. - Chính nó là cái con vẫn làm ồn ban đêm. Nhưng em mặc kệ. Dù sao nó cũng là một giống vật ghê tởm. Giờ đây cùng uống rượu với nàng, chẳng thấy đau đớn gì ngoài cái bất tiện là phải nằm mãi trong một tư thế duy nhất, trong khi đám bồi nhóm một đống lửa, ánh sáng bập bùng nhảy nhót trên các bạt lều, hắn có thể cảm thấy sự trở lại chấp nhận cuộc sống đầy khước từ êm ái này. Nàng rất tốt với hắn. Ban chiều, hắn đã tàn nhẫn và bất công với nàng. Quả là một phụ nữ cao đẹp, phải, thực sự là tuyệt diệu. Và đúng lúc ấy, hắn chợt nghĩ ra mình sắp chết. Ý nghĩa ấy ào ập tới, không phải như mưa trút, cũng chẳng như gió cuốn, mà xịch tới bất thần như một trống rỗng tanh tưởi, và điều kỳ lạ là ở ngoài rìa lại thấy lẩn quất bóng con linh cẩu. - Gì thế, Harry? - Nàng hỏi hắn. - Chả có gì cả - Hắn nói - Em nên chuyển sang mé bên kia thì hơn. Phía có gió ấy. - Molo đã thay băng chưa? - Rồi. Anh chỉ cần bôi boric nữa thôi. - Anh thấy trong người thế nào? - Hơi choáng váng một tí. - Em đi tắm đây - Nàng nói - Em sẽ trở ra ngay, cùng ăn với anh rồi chúng mình sẽ dọn giường vào trong lều.
Thế đấy, hắn nghĩ thầm, chúng mình thôi cãi vã là tốt. Hắn chưa bao giờ cãi cọ nhiều với người đàn bà này, trong khi với những người phụ nữ hắn yêu thì hắn lại cãi cọ nhiều đến nỗi rốt cuộc bao giờ cũng vậy, với những eo xèo cãi vã gặm mòn, họ đã giết chết những gì từng có với nhau. Hắn đã yêu quá mãnh liệt, đòi hỏi quá nhiều và cuối cùng hắn đã làm mòn xác mòn xơ tất cả. Hắn nhớ lại lần ấy hắn lủi thủi một mình ở Constantinople, hắn đã cãi nhau ở Paris trước khi ra đi. Hắn đã chơi đĩ suốt, rồi đến lúc tàn cuộc, thay mình chẳng những không giết được nỗi cô đơn, mà còn làm cho nó tệ hơn, hẳn bèn viết cho nàng, người tình đầu tiên, người đã bỏ hắn, một bức thư kể lể với nàng rằng hắn chẳng bao giờ đủ sức giết được nỗi cô đơn... Rằng có lần ngỡ trông thấy nàng trước cửa hiệu Regence, hắn đã thấy nôn nao trong người và xuýt té xỉu như thế nào. Rằng thấy người phụ nữ nào hao hao giống nàng là hắn theo liền, dọc suốt Đại lộ, sợ thấy ra rằng đó không phải là nàng và sợ mất cái cảm giác nó tạo cho hắn. Rằng tất cả những lần ngủ với ai khác chỉ làm cho hắn càng tiếc nhớ nàng thêm. Rằng những gì nàng đã làm chẳng mảy may hệ trọng, bởi lẽ hắn biết mình không thể nào khỏi được bệnh yêu nàng. Hắn viết lá thư đó tại Câu lạc bộ, hoàn toàn chay tịnh không uống một giọt và gửi qua bưu điện đến New York xin nàng viết cho hắn về địa chỉ văn phòng ở Paris. Như thế xem ra cũng đúng mức. Và đêm hôm ấy, nhớ nàng đến trống trếnh, nôn nao cả ruột gan, hắn lang thang qua hiệu Taxim, vớ được một cô gái và đưa cô ta đi ăn đêm. Sau đó, đến một tiệm nhảy, cô ta nhảy tồi, và hắn bỏ cô ta để chuyển sang một ả người Armeni hừng hực nhục dục, ả cứ cọ bụng hoài vào người hắn đến mức hắn gần như bỏng rát lên. Hắn đã nẫng ả từ tay một gã pháo thủ quèn người Anh sau một trận ẩu đả. Tay pháo thủ yêu cầu hắn ra ngoài và họ đánh nhau trong bóng tối, trên lớp sỏi giữa phố. Hắn nện trúng gã kia hai lần vào quai hàm, mạnh ra dáng, và khi gã ta không ngã, thì hắn biết là phải quạng ra trò đây. Gã pháo thủ đánh trúng người hắn, rồi vào cạnh mắt. Hắn quai tay trái lần nữa, trúng, và gã pháo thủ ngã lên hắn, túm lấy áo vét-tông của hắn, xé đứt tay áo và hắn choảng hai cú vào sau tai gã, rồi vừa đẩy vừa thôi tay phải vào mặt gã. Khi gã pháo thủ đổ gục, đầu gã nện xuống trước, hắn kéo ả kia chạy vì nghe thấy tiếng quân cảnh tới. Họ nhảy vào một chiếc tắcxi và phóng ra Rimmili Hissa, dọc theo Bosphorus, đi quanh quanh, và trở về trong đêm lành lạnh, lên giường ngủ và thân thể ả cũng chín nẫu như vẻ ngoài của ả... Hắn rời khỏi ả trước khi ả thức giấc, coi bộ khá phờ phạc trong ánh ban mai, và xuất hiện ở nhà hàng Pera Palace với một bén mi mắt tím bầm, áo vét-tông vắt trên cánh tay vì mất một ống. Cũng đêm ấy, hắn đi Anatolia và hắn nhớ lại là, về sau trong chuyến đi ấy, hẳn đã phi ngựa suốt ngày qua những cánh đồng trồng cây thuốc phiện (rút cục, nó gây một cảm giác đến là kỳ cục, mọi khoảng cách đều như sai lạc đi), phóng miết tới chỗ đánh úp bọn sĩ quan mới chân ướt chân ráo từ Constantine đến, chả hiểu mô tê gì cả, và pháo binh đã nã vào đoàn quân, và tay quan sát người Anh đã khóc như con nít. Ngày hôm ấy lần đầu tiên, hắn trông thấy những xác lính mặc váy balê màu trắng, đi giày mũi cong, có ngù ở trên. Bọn Thổ Nhĩ Kỳ cứ ùn ùn kéo đến. Hắn đã trông thấy những gã mặc váy chạy và hắn với tay quan sát người Anh cũng chạy cho tới khi phổi hắn đau nhói và miệng đắng nghét như ngậm xu. Họ dừng lại sau mấy tảng đá và kia, bọn Thổ vẫn kéo đến đông nghìn nghịt như trước, về sau, hắn đã thấy những điều hắn không bao giờ tưởng tượng nổi và về sau nữa, hắn còn chứng kiến những điều tệ hơn nhiều. Cho nên khi trở về Paris lần ấy, hắn không bụng dạ nào nói chuyện về cái đó, thậm chí không chịu nổi khi nghe nhắc đến nó. Và kia, trong tiệm cà phê, khi hắn đi ngang qua, là cái anh chàng thi sĩ Mỹ với chồng đĩa để trước mặt, cái bộ mặt củ khoai mang một vẻ ngây ngô đần độn, đang nói chuyện về trào lưu Đađa với một người Rumani xưng tên là Tristan Tzara 10, lúc nào cũng đeo chiếc kính một mắt, lúc nào cũng đau đầu, và về tới phòng riêng với vợ mà bấy giờ hắn lại yêu, tạnh hết cãi cọ, tạnh hết điên khùng, sung sướng được trở lại tổ ấm, thì văn phòng đã chuyển thư từ giấy má về tận nhà. Thành thử, một buổi sáng, bức thư trả lời bức hắn viết hồi nọ được mang vào trên một cái khay và khi nhận ra nét chữ, hắn lạnh toát cả người và toan nhét nó xuống dưới một cái thư khác. Nhưng vợ hắn đã hỏi: "Thư ai gửi thế mình?" và thế là kết thúc sự mở đầu của cái đó.
Hắn nhớ lại những giờ phút vui thú đã trải qua với tất cả những người đàn bà của hắn cùng những cuộc cãi lộn. Bao giờ họ cũng chọn những nơi thú vị nhất để gây sự cãi nhau. Và tại sao bao giờ họ cũng nhè những lúc hắn khinh khoải nhất để cãi nhau nhỉ? Hắn chưa bao giờ viết gì về cái đó, vì thoạt đầu, hắn không muốn làm người nào tổn thương và sau đó, xem chừng không cần cái đó cũng đủ đề tài để viết rồi. Song hắn luôn luôn nghĩ rằng, cuối cùng, hắn sẽ viết về nó. Có biết bao chuyện cần viết. Hắn đã chứng kiến thế giới đổi thay; không phải chỉ đơn thuần sự kiện; mặc dầu hắn đã thấy nhiều sự kiện và quan sát con người song hắn còn thấy được sự biến đổi tinh tế hơn và hắn có thể nhớ lại những biểu hiện con người ở những thời kỳ khác nhau. Hắn đã ở trong cuộc, hắn đã theo dõi, quan sát và bổn phận của hắn là phải viết về cái đó: nhưng giờ đây, hắn vĩnh viễn không làm được việc đó nữa rồi.
- Anh thấy trong người thế nào? - Nàng hỏi. Lúc này, nàng đã ra khỏi lều sau khi tắm xong. - Tốt thôi. - Bây giờ anh có thể ăn được không? Hắn trông thấy Molo mang chiếc bàn gấp đằng sau nàng, và gã bồi kia mang thức ăn tới. - Anh muốn viết. - Hắn nói. - Anh phải ăn tí xúp cho lại sức chứ. - Anh sẽ chết đêm nay - Hắn nói - Anh không cần lại sức. - Đừng có lâm ly thế, Harry, em xin. - Nàng nói. - Mũi em để đâu nhỉ. Giờ đây anh đã bị thối hoại tới nửa đùi rồi. Anh ăn xúp làm cái cóc khô gì mới được chứ? Molo, mang whiky-soda lại đây. - Xin anh ăn xúp đi. - Nàng dịu dàng nói. - Thôi được. Xúp nóng quá. Hắn phải cầm bát chờ cho nguội để có thể húp được, và ngay cả bây giờ, hắn cũng phải cố mới nuốt trôi mà không nhổ ra. - Em thật là một phụ nữ tuyệt vời - Hắn nói - Đừng để ý đến anh.
Nàng nhìn hắn với bộ mặt nàng đã quen thuộc, xiết bao thân thương, được miêu tả trong Đinh thúc ngựa và Thành thị và nông thôn, có điều hơi tàn phai hơn vì rượu, có điều hơi tàn phai hơn vì chiếc giường ân ái, nhưng Thành thị và nông thôn không hề phô bộ ngực chắc mẩy kia, cặp đùi ân cần kia và đôi bàn tay nây nây ve vuốt kia, và trong khi hắn nhìn, nàng mỉm cười, nụ cười khả ái quen thuộc của nàng, thì hắn lại cảm thấy cái chết lại đến. Lần này thì không ào ạt, mà chỉ thoảng một hơi, như một cơn gió làm ngọn nến chập chờn rồi lại bốc cao lên. - Bảo chúng lát nữa mang màn của anh ra, mắc vào cây và khơi lửa to thêm. Đêm nay, anh không vào lều đâu. Chả việc gì phải di chuyển. Đêm sáng thế này chắc không mưa đâu.
Vậy ra người chết như thế đấy, thành những tiếng thì thào không nghe rõ. Ờ, sẽ chẳng có cãi cọ gì nữa. Hắn có thể hứa vậy. Lẽ nào bây giờ hắn lại đi làm hỏng cái điều duy nhất hắn chưa từng kinh qua bao giờ? Hắn có thể làm hỏng. Mày đã làm hỏng đủ mọi thứ. Nhưng có lẽ lần này thì không. - Em có ghi tốc ký được không? - Em chưa bao giờ học. - Nàng trả lời hắn. - Thôi được, không sao. Cố nhiên, chẳng còn thì giờ nữa, mặc dầu hắn có cảm giác như mọi sự dồn lại đến mức có thể thu gọn trong một đoạn văn ngắn nếu biết cách.
Có một căn nhà gỗ, với những kẽ trát vữa trắng, trên một trái đồi ven hồ. Trên một cái cột cạnh cửa ra vào, có chuông để gọi mọi người về dùng bữa. Đằng sau nhà là những cánh đồng và đằng sau những cánh đồng là rừng cây to. Một hàng bạch dương Lombardy chạy từ nhà đến bến. Những cây dương khác viền quanh mỏm. Một con đường dẫn lên đồi, men theo bìa rừng và hắn thường hái quả mâm xôi dọc theo con đường ấy. Thế rồi căn nhà bằng gỗ súc ấy bị cháy rụi và tất cả những khẩu súng treo ở những giá chăn hươu phía trên lò sưởi trống đều cháy và sau đó, những nòng súng, với lớp chì chảy ra trong ổ đạn và báng cháy mất tiêu, nằm chỏng trơ trên đống tro dùng làm nước kiềm cho vào những nồi sắt to nấu xà phòng, và mình hỏi ông nội là có lấy những nòng ấy đem chơi được không, thì ông bảo không được. Mình biết đấy vẫn còn là những khẩu súng của ông và ông không bao giờ mua khẩu nào khác nữa. Ông cũng chằng đi săn nữa. Bây giờ căn nhà được xây dựng lại bằng gỗ xẻ, vẫn ở nguyên chỗ cũ, quét vôi trắng, và từ cổng nhà, có thể trông thấy rặng bạch dương và quá nữa là khu hồ, nhưng chẳng bao giờ còn có những cây súng nữa. Những nòng súng từng treo ở các chân hươu trên tường căn nhà bằng gỗ súc, nằm ngoài kia, trên đống tro và không ai đụng tới chúng.
Ở vùng Rừng Đen, sau chiến tranh, chúng tôi thuê một con suối cá hồi. Có hai lối đi tới đó. Một lối từ Triberg xuống thung lũng rồi theo đường thung dưới bóng của hàng cây chạy dọc con đường trắng, và tiếp đó, vào một con đường nhánh leo lên đồi, qua nhiều trại nhỏ với những ngôi nhà lớn của Schwarzwald 11 cho đến chỗ con đường ấy vắt qua suối. Đó là chỗ chúng tôi bắt đầu câu cá. Đi lối kia thì phải leo dốc tới bìa rừng, rồi vượt đỉnh đồi qua những rừng thông, sau đó đâm ra ven cánh đồng cỏ và đi ngang đồng cỏ tới cầu. Dọc con suối có những cây bulô. Suối hẹp, không to, nhưng trong và chảy xiết, với những vũng lặng ở chỗ nước khoét vào dưới đám rễ bulô. Tại khách sạn ở Triberg ông chủ được một mùa kinh doanh tốt đẹp. Thật là thú vị, và tất cả chúng tôi đều là bạn bè thân thiết. Năm sau, xảy ra nạn lạm phát, số tiền ông ta kiếm được năm trước không đủ mua trữ thực phẩm để mở khách sạn, và ông ta đã treo cổ tự vẫn.
Những điều ấy thì có thể đọc cho người khác ghi hộ song không thể làm thế với đoạn nói về Quảng trường Contrescarpe, ở đó những người bán hoa đem nhuộm hoa trên đường phố, thuốc nhuộm chảy lênh láng trên hè nơi các xe buýt khởi hành, và các ông bà già lúc nào cũng say rượu vang và rượu bã nho tồi; và lũ trẻ thò lò mũi xanh trong giá rét: mùi mồ hôi bẩn thỉu, mùi nghèo khổ và mùi say khướt ở quán Café des Amateurs 12 và những ả giang hồ ở tiệm Bal Musette 13 mà họ ở ngay tầng trên đó. Chị gác cổng tiếp đãi anh lính thuộc đội Vệ binh Cộng hòa trong phòng thường trực của mình, chiếc mũ sắt có chùm tua lông ngựa của anh chàng đặt trên ghế. Người phụ nữ ở thuê căn phòng trước mặt có chồng là một tay đua xe đạp và nỗi hân hoan của nàng buổi sáng hôm ấy tại cửa hàng đồ sữa khi giở tờ báo "L’Auto" 14 , thấy tin chồng về thứ ba trong cuộc đua Paris - Tua, cuộc đua lớn đầu tiên của anh ta. Nàng đỏ bừng mặt và cười vang, rồi vừa chạy lên gác vừa khóc, với tờ báo thể thao màu vàng trong tay. Tay chồng bà chủ tiệm Bal Mussette lái tắc xi, và khi hắn, Harry đây, cần đáp một chuyến máy bay sớm, tay chồng ấy đến gõ cửa đánh thức hắn và họ uống mỗi người một cốc vang trắng tại quầy trước khi khởi hành. Hồi ấy, hắn quen biết những người hàng xóm trong khu phố đó, bởi vì tất cả đều cùng cảnh nghèo... (xem tiếp phía dưới)
Được sửa bởi PVChuong ngày Tue Jan 23, 2018 7:46 pm; sửa lần 2. | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Fri Jan 19, 2018 12:30 am | |
| (tiếp theo - hết)
TUYẾT TRÊN ĐỈNH KILIMANJARO Ernest Hemingway
Ở quanh khu Quảng trường có hai loại người: cánh say rượu và cánh thể thao. Đám say rượu tìm cách giết cánh nghèo của mình bằng hơi men; đám thể thao thì cố tống khứ nó bằng tập tành. Họ là con cháu những chiến sĩ Công xã Paris, và họ hiểu rõ chính kiến của mình không vất vả gì. Họ biết ai đã bắn cha chú, anh em, họ hàng và bạn bè của họ khi toán quân Versaille vào chiếm thành phố sau thời kỳ Công xã và hành quyết bất kỳ ai chúng bắt được mà có đôi tay sần chai, hoặc đội mũ cát-két, hoặc mang bất kỳ dấu hiệu gì tố cáo nguồn gốc xuất thân công nhân của họ. Chính trong khung cảnh nghèo khổ ấy và trong cái khu bên phố trước cửa một hiệu bán thịt ngựa và một hợp tác xã rượu vang, hắn đã khởi bút mở đầu tất cả những gì hắn sẽ làm sau này. Chẳng có nơi nào khác ở Paris mà hắn yêu như thế, những cây tỏa lan man cành lá, những ngôi nhà cổ trát vữa trắng, mé dưới quét vôi náu, cái dãy dài xe buýt màu xanh lục ở quảng trường tròn đó, dòng đỏ tía thuốc nhuộm hoa chảy trên hè, quãng phố Giáo chủ Lemoine đột ngột dốc tuột xuống tận bờ sông, và mạn kìa là cái thế giới chật chội chen chúc của phố Mouffetard. Con phố ngược lên về phía điện Pantheon và con phố kia mà bao giờ hắn cũng rong ruổi qua bằng xe đạp, đường phố duy nhất được rải nhựa trong toàn khu, nhẵn thín dưới bánh xe, với những ngôi nhà cao hẹp và cái khách sạn rẻ tiền, nơi Paul Verlaine 15 đã chết. Căn hộ họ ở chỉ có hai buồng, và hắn thuê một phòng ở tầng trên cùng của cái khách sạn ấy với giá sáu mươi phrăng một tháng làm chỗ viết lách, và từ chỗ đó hắn có thể nhìn ra các mái nhà, các ống khói và tất cả những điểm cao ở Paris.
Từ căn hộ, chỉ có thể nhìn thấy cửa hiệu của lão bán gỗ và than. Lão cũng bán cả rượu nữa, rượu tồi. Cái đầu ngựa óng vàng ngoài cửa hàng bán thịt ngựa, ở đó lủng lẳng những bộ xương ngựa vàng vàng đỏ đỏ giữa khung cửa sổ mở và cái hợp tác xã quét vôi màu xanh lá cây, nơi họ vẫn mua rượu vang; rượu vang ngon và rẻ. Còn lại là tường trát vữa và cửa sổ của hàng xóm. Những người hàng xóm ấy, ban đêm, khi có kẻ say rượu nằm ềnh ra phố rên rẩm và rền rĩ theo cái kiểu "bét nhè" 16 điển hình Pháp mà người ta tuyên truyền là không có thật, thường mở cửa sổ ra ngó, và liền sau đó là tiếng xì xào bàn tán. - Chà, cảnh sát đâu nhỉ? - Cái đồ chó chết, khi người ta không cần đến nó thì bao giờ nó cũng có mặt. - Hắn lại đang ngủ với một mụ gác cổng nào rồi! - Tìm "agent" 17 đến đây! Cho đến khi có người nào đó hắt một xô nước từ một cửa sổ và tiếng rên ngừng bặt. - Cái gì đấy? - Nước. - À, thông minh đấy. Và các cửa sổ đóng lại. Marie, người đàn bà giúp việc của hắn phản đối chế độ ngày làm tám tiếng: "Nếu anh chồng làm việc đến sáu giờ, trên đường về nhà, anh ta chỉ say ti tí thôi; và không vung phí quá nhiều tiền. Nếu anh ta chỉ làm đến năm giờ thì đêm nào anh ta cũng sẽ say mèm và nhà không có tiền. Chính vợ người công nhân chịu thiệt vì việc rút ngắn giờ làm việc".
- Anh có muốn húp thêm tí xúp nữa không? - Lúc này, người đàn bà hỏi hắn. - Không, cảm ơn em. Xúp ngon lắm. - Thử tí nữa thôi. - Anh muốn uống thêm một ly whisky-soda. - Cái đó không tốt cho anh đâu. - Phải. Nó có hại cho tôi. - Anh thừa biết rằng em thích anh uống rượu. - A phải. Có điều là nó có hại cho tôi.
Để cho cô ta đi khỏi đã, hắn nghĩ. Mình sẽ uống thỏa thích. Không phải lả thỏa thích, mà là uống hết chỗ rượu hiện có ở đây. Ôi, hắn mệt. Quá mệt. Hắn sẽ ngủ một lúc. Hắn nằm im và cái chết không thấy đến. Chắc nó đang đi tua ở một chỗ khác. Nó đi xe đạp thành từng cặp và di động lặng lẽ trên đường phố. Không, hắn chưa bao giờ viết về Paris. Chưa bao giờ viết về cái Paris mà hắn yêu thương. Nhưng còn tất cả những cái khác mà hắn chưa viết thì sao? Thế còn cái trại nuôi súc vật và cái màu xám bạc của bụi cây ngải đắng, dòng nước trong veo chảy xiết trong những con mương và màu xanh lục rậm rì của cỏ linh lăng thì sao? Con đường mòn leo lên đồi và trâu bò về mùa hè thì nhút nhát như hươu nai. Tiếng trống và tiếng rậm rịch liên tục đều đặn vào mùa thu cả một khối từ từ di chuyển bụi mù lên khi người ta lùa chúng xuống. Và đằng sau rặng núi, ngọn cao nhất nổi bật lên sắc nét trong ánh chiều, và những phút ruổi ngựa xuôi theo con đường mòn đi xuống, trong ánh trăng vằng vặc tràn ngập thung lũng. Giờ đây, hắn nhớ lại cái lần nắm đuôi ngựa xuyên qua rừng mò mẫm đi xuống trong bóng tối bưng mắt cùng tất cả những chuyện hắn định viết.
Còn cả chuyện về cái thằng nhỏ dở ngây dở dại mà bận ấy họ để lại coi trại, dặn không được cho ai lấy cỏ khô và cái lão già khốn kiếp ở Ngã Ba dạo xưa vẫn đánh đập thằng nhỏ, hồi nó còn làm cho lão, ghé vào xin ít thức ăn cho ngựa. Thằng nhỏ từ chối và lão già dọa lại đánh nó. Thằng nhỏ vớ lấy cây súng trên bếp và bắn lão khi lão định vào kho, và khi họ trở về trại thì lão đã chết được một tuần, cóng lạnh trong ràn, xác đã bị chó ăn mất một phần. Còn lại bao nhiêu, cậu đem bó chăn, chất lên một cái xe trượt chằng dây thật chặt và bảo thằng nhỏ giúp cậu một tay kéo đi, rồi hai thầy trò cậu lướt ván trượt tuyết đưa xe ra đến đường cái đi tiếp sáu mươi dặm tới tận tỉnh để giao thằng nhỏ cho cảnh sát. Nó thì không ngờ mình sẽ bị bắt. Nó ngỡ mình đã làm tròn bổn phận và nó sẽ được thưởng cơ. Nó đã giúp một tay kéo xác lão già về tỉnh để mọi người thấy là lão xấu xa như thế nào, và khi tay quận trưởng cảnh sát còng tay thằng nhỏ, nó không thể tin đó là sự thật. Thế rồi nó òa lên khóc. Đó là một câu chuyện hắn đã để dành định viết: Hắn biết chí ít là hai mươi câu chuyện lý thú ở vùng ấy mà hắn chưa hề viết một chuyện nào. Tại sao? - Nào biết tại sao? - Hắn nói. - Tại sao cái gì, mình? - Chả tại sao cái gì cả.
Từ khi có hắn, nàng không uống dữ như trước nữa. Nhưng nếu hắn sống, hắn sẽ không bao giờ viết về nàng, bây giờ thì hắn biết chắc điều đó. Cũng chẳng viết về bất kỳ ai trong số các cô nàng. Cái bọn giàu thật chán ngắt, và họ uống rượu quá đáng, cờ bạc quá đáng. Họ vừa chán phèo vừa hay lặp đi lặp lại. Hắn nhớ đến anh chàng Julian tội nghiệp, cậu ta kính sợ họ một cách lãng mạn, có lần cậu ta đã khởi thảo một truyện ngắn, mở đầu như thế này: "Những người rất giầu có vốn khác anh, khác tôi". Và ai đó đã bảo Julian; Phải, vì họ có nhiều tiền hơn. Nhưng Julian không thấy đó là hài hước. Cậu ta nghĩ họ là một nòi giống đặc biệt, lộng lẫy, mê hồn và khi cậu ta thấy ra rằng họ không phải thế, cậu ta sụp xuống y hệt như khi gặp bất kỳ điều gì khác làm cậu ta sụp xuống. Xưa nay hắn vẫn khinh những kẻ suy sụp. Đâu phải cứ hiểu rõ cái gì thì phải ưa thích cái ấy. Hắn có thể bất chấp tất, hắn nghĩ vậy, bởi vì không gì có thể làm hắn tổn thương, nếu hắn không thiết. Được lắm. Giờ đây hắn sẽ dửng dưng với cái chết. Có một điều bao giờ hắn cũng khiếp hãi, đó là cái đau. Hắn có thể chịu đau như bất kỳ người đàn ông nào khác, miễn là đừng quá kéo dài và đừng làm hắn kiệt sức, nhưng ở đây, hắn bị một cái gì đó đã làm hắn đau, khủng khiếp và đúng lúc hắn cảm thấy mình sắp quỵ thì cái đau bỗng dứt hẳn.
Hắn nhớ lại hồi đã lâu, khi Williamson, sĩ quan giật bom, bị thương vì một quả lựu đạn chày do một tên trong một đội tuần tra Đức ném khi đêm hôm ấy cậu ta mò vào qua hàng rào dây thép gai, và cậu ta đã gào thét xin mọi người giết mình đi cho rồi. Đó là một gã béo, rất dũng cảm, một sĩ quan tốt, mặc dầu nghiện những trò trưng trổ ngông nghênh. Nhưng đêm ấy, cậu ta bị kẹt trong hàng rào dây thép gai, pháo sáng soi rõ mồn một, và ruột lòi ra lòng thòng vướng vào dây thép gai đến nỗi phải cắt rời mới mang được cậu ta sống sót trở về. Bắn tao đi, Harry! Lạy Chúa, mày bắn tao đi cho rồi! Có một lần họ đã từng tranh luận về chuyện Thượng đế không bao giờ giáng xuống chúng sinh cái gì mà con người không chịu nổi, và ai đó nêu ra cái thuyết là đến một lúc nào đó, cái đau sẽ tự khắc làm cho người ta ngoẻo. Nhưng hắn không bao giờ quên Williamson cái đêm ấy. Không gì làm cho Williamson tịch đi được, cuối cùng hắn đã phải cho cậu ta tất cả những viên moóc phin hắn vẫn để dành riêng cho mình, và mặc dù vậy, vẫn không công hiệu ngay tức thì. Tuy nhiên, cái mà hắn hiện đang phải chịu, vẫn rất nhẹ nhõm; và nếu có cứ tiếp tục, không tệ hơn, thì chả việc gì mà lo. Có điều, hắn vẫn ưng có người tâm đắc hơn để bạn bầu. Hắn ngẫm nghĩ một chút về tâm hồn bầu bạn mà hắn muốn có. Không, hắn nghĩ, khi mà mọi điều mày làm, mày đều làm quá rề rà và quá muộn, thì mày đừng trông mong gì mọi người. Mọi người đã đi cả rồi. Cuộc vui đã tàn và giờ đây chỉ còn có mày với nữ chủ nhân. Mình đâm ớn luôn cả cái chết như ớn tất cả mọi thứ khác, hắn nghĩ.
- Thật phát ớn. - Hắn nói ra thành tiếng. - Ớn cái gì, mình? - Bất cứ cái chết tiệt gì mà người ta làm bôi ra quá lâu. Hắn nhìn bộ mặt nàng xen giữa hắn và đống lửa. Nàng ngả người trên chiếc ghế và ánh lửa soi tỏ những nếp nhăn dễ thương trên mặt nàng, và hắn thấy nàng đã buồn ngủ. Hắn nghe thấy con linh cẩu lục xục ngay bên ngoài tầm chiếu sáng của đống lửa. - Anh vừa viết - Hắn nói - Nhưng thế mà hóa mệt. - Liệu anh có thể ngủ được không? - Chắc chắn được. Sao em không vào lều nằm? - Em thích ngồi đây với anh. - Em có cảm thấy gì lạ không? - Hắn hỏi nàng. - Không. Chỉ hơi buồn ngủ thôi. - Anh thì có. - Hắn nói. Hắn vừa mới cảm thấy cái chết lại lướt qua lần nữa. - Em biết đấy, cái duy nhất anh không bao giờ mất, là tính tò mò. - Hắn nói với nàng. - Anh chả bao giờ mất cái gì cả. Anh là người đàn ông hoàn hảo nhất em từng biết. - Jesus - Hắn nói - Đàn bà chả biết gì mấy. Đó là cái gì nhỉ? Trực giác của em à? Bởi vì đúng lúc ấy, cái chết đã đến dựa đầu lên chân giường, và hắn có thể ngửi thấy hơi thở của nó. - Em đừng bao giờ tin những sự mường tượng ấy, nào lưỡi hái, nào đầu lâu - Hắn bảo nàng - Nó cũng có thể là hai gã cảnh sát đi xe đạp hay một con chim. Hoặc giả nó có thể là một cái mõm bè bè như một con linh cẩu.
Giờ đây, nó đã tiến lên người hắn, nhưng nó không còn hình thù gì nữa, chỉ choán không gian mà thôi. - Em bảo nó đi đi. Nó không đi khỏi mà còn xáp lại gần hơn. - Hơi thở mày gớm quá - Hắn bảo nó - Đồ con hoang tanh hôi. Nó nhích lại gần hắn hơn nữa, và bây giờ hắn không đủ sức nói với nó, và khi nó thấy hắn không thể nói được, nó bèn tiến sát hơn chút nữa, và lúc này hắn cố đuổi nó đi mà không phải lên tiếng, nhưng nó sấn lên người hắn đến độ toàn bộ sức nặng của nó đè lên ngực hắn, và trong khi nó ngồi thu lu đó khiến hắn không cựa quậy, nói năng gì được, hắn nghe thấy tiếng người đàn bà: "Bwana ngủ rồi. Nhấc giường lên thật nhẹ nhàng và khiêng vào trong lều". Hắn không lên tiếng được để bảo nàng đuổi nó đi, và giờ đây, nó thu mình đè nặng hơn, khiến hắn không thở được. Thế rồi, khi họ nhấc bổng chiếc giường lên, mọi sự đột nhiên ổn định đâu vào đó và cái trọng lượng nó biến khỏi ngực hắn.
Đó là buổi sáng, và sáng được một lúc thì hắn nghe thấy tiếng máy bay. Mới đầu hiện ra một chấm rất nhỏ rồi nó lượn một vòng rộng và đám bồi chạy ra đốt lửa bằng dầu hỏa rồi chất cỏ khô lên thành hai đống to ở hai đầu bãi phẳng, gió sớm tạt khói về phía lều. Chiếc máy bay lượn hai vòng nữa, lần này thấp hơn, rồi là là xuống và hạ cánh êm ru, và kìa lão Compton quần thụng, áo vét tuýt, mũ phớt nâu, đang đi về phía hắn. - Làm sao vậy, chú gà trống già? - Compton nói. - Chân tôi, - Hắn đáp - ông dùng điểm tâm nhé? - Cảm ơn. Tôi chỉ xin tí trà thôi. Đây là loại máy bay Puss Moth, ông biết đấy. Tôi không chở cả Memsahib được. Chỉ có chỗ cho một người thôi. Xe cam-nhông của ông bà đã lên đường. Helen kéo Compton ra một chỗ, nói riêng với ông ta. Compton quay trở lại, vui vẻ hơn bao giờ hết. - Chúng tôi sẽ đưa ông lên máy bay ngay lập tức - Ông ta nói - Tôi sẽ quay lại đón Memsahib. Tôi e là phải ghé Aruha để tiếp nhiên liệu. Tốt hơn là ta đi luôn thôi. - Thế ông không dùng trà ư? - Ông biết đấy, tôi cũng không mê trà lắm.
Đám bồi nhấc cái giường, khiêng đi vòng qua những lều bạt màu xanh lục, dọc theo vách đá xuống khoảng đồng bằng, qua chỗ những đống lửa lúc này đang cháy sáng rực, ngốn hết chỗ cỏ, được gió quạt bùng lên, tới chỗ máy bay. Đưa hắn lên được kể cũng khó khăn chật vật, nhưng khi đã vào được trong máy bay, hắn nằm ngủ trên chiếc ghế da, cái chân đau duỗi thẳng tựa vào một bên của chiếc ghế Compton ngồi. Compton mở máy và vào khoang lái. Ông ta vẫy Henlen và đám bồi, và khi tiếng đì đạch chuyển thành tiếng nổ giòn quen thuộc, chiếc máy bay quành góc (Compton quan sát đã tránh những hố do lợn rừng khoét), kêu ro ro, chồm chồm trên quãng mặt bằng giữa hai đống lửa, rồi sau cái xóc nẩy cuối cùng, bay lên khỏi mặt đất và hắn trông thấy cả bọn đứng ở dưới vẫy theo, cụm lều trại bên sườn núi lúc này bẹt xuống, cánh đồng bằng trải rộng, những lùm cây và khu rừng cũng bẹt xuống, với những dấu đường thú chạy nhẵn lì dẫn đến những hố nước đã cạn và lại thấy một điểm nước mới toanh mà hắn chưa từng biết đến. Lũ ngựa vằn, lúc này chỉ là những cái lưng tròn nhỏ, và những con linh dương đầu bò, giờ là những vật phình đầu, như đang leo lên, trong khi chúng di chuyển thành hàng dài qua cánh đồng, thấy bóng máy bay lướt lướt tới, lại chạy tản ra, bây giờ chúng bé tí tẹo, di động đều, không phóng nhanh, và cánh đồng giờ đây xám vàng hút tầm mắt, còn ngay đằng trước là cái lưng của lão Compton mặc áo vét tuýt và cái mũ phớt nâu. Thế rồi họ bay trên những ngọn đồi đầu tiên với những con linh dương đầu bò trèo lên theo vệt đường mòn, sau đó họ bay trên những ngọn núi với những quãng rừng đột ngột sâu thẳm màu xanh diệp và những dốc mọc đầy tre chắc khỏe, rồi lại rừng rậm nữa in bật nét điêu khắc trồi lên, lõm xuống cho đến khi họ vượt qua, và đồi núi thoải xuống thấp dần, rồi lại một dải đồng bằng giờ đây nóng thiêu và nâu tía, họ lắc lư vì nóng và Compton ngoái lại xem hắn có chịu đựng tốt chặng đường bay hay không. Rồi lại thấy những ngọn núi khác đen sẫm trước mặt.
Thế rồi đáng lẽ tiếp tục bay đến Aruha thì họ lại rẽ trái, hắn nghĩ bụng hiển nhiên là họ đủ xăng, và nhìn xuống, hắn thấy một đám mây hồng như bột rây bay là là mặt đất, và trên không tựa hồ tuyết đầu mùa trong một cơn bão lốc không biết từ đâu tới. Hắn biết là châu chấu đang từ phương Nam bay tới. Rồi họ bắt đầu vọt lên cao, hình như họ bay về phía đông, thế rồi trời tối sầm lại, và họ mắc vào một cơn dông, mưa dày đến nỗi tưởng như bay qua thác, thế rồi họ thoát ra và Compton ngoảnh đầu lại, nhe răng cười, đưa tay chỉ và kìa, ở đằng trước, tất cả những gì hắn nhìn thấy, rộng như cả thế gian, mênh mông, cao ngất và trắng xóa dưới ánh mặt trời, trắng đến độ không tin được, là cái chóp vuông của ngọn Kilimanjaro. Và hắn biết rằng đó chính là nơi hắn đang đi đến.
Đúng lúc ấy, con linh cẩu ngừng rền rĩ trong đêm và bắt đầu phát ra một âm thanh kỳ lạ gần như tiếng người khóc. Người đàn bà nghe thấy và cựa mình, không thoải mái. Nàng không thức giấc. Trong giấc mơ, nàng thấy mình đang ở ngôi nhà tại Long Ailen, và đó là đêm trước hôm con gái nàng ra mắt giới thượng lưu, không hiểu làm sao cha nó lại có mặt và ông ta rất thô bạo. Thế rồi tiếng con linh cẩu to đến độ làm nàng thức giấc và trong một lúc, nàng không biết mình đang ở đâu và nàng hốt hoảng. Rổi nàng cầm lấy đèn bấm rọi vào cái giường nhỏ kia mà đám người hầu đã khiêng vào lều sau khi Harry ngủ thiếp đi. Nàng nhìn thấy hắn nằm lù lù trong màn, nhưng không hiểu sao một chân lại tòi ra, thõng xuống lủng lẳng cạnh giường. Băng đã tuột hết và nàng không dám nhìn vào đó. - Molo - Nàng gọi - Molo! Molo! Rồi: - Harry, Harry! Giọng nàng cất cao lên: - Harry! Em xin mình. Ôi Harry! Không thấy trả lời, nàng không nghe thấy hắn thở.
Bên ngoài, con linh cẩu vẫn phát ra cái tiếng kỳ lạ, đã làm nàng thức giấc. Nhưng nàng không nghe thấy vì tim nàng đang đập mạnh.
Dương Tường dịch
-------------------------------- 1. Một loại từ điển y khoa thông dụng (N.D) 2. Thổ ngữ Phi: Ông chủ (N.D). 3. Tiếng Đức trong nguyên bản: ông (N.D). 4. Tiếng Pháp trong nguyên bản: không buồn xem. - N.D. 5. Nguyên văn: You rich bitch (Cô là con điếm giàu có). Rich vần với bitch. 6.Thổ ngữ Phi: Bả. 7. Chuyến đi săn xa. 8. Quần đi ngựa, chẽn ống từ đầu gối đến mắt cá. 9. Bồi, mang uytxki-xorfa lại đây. 10. Nhà thơ và nhà văn nổi tiếng gốc Rumani, quốc tịch Pháp (1896-1938), kiện tướng của phong trào Đađa. 11. Tiếng Đức: Rừng Đen. 12. Tiếng Pháp: Tiệm cà phê của những người nghiệp dư. 13. Tiếng Pháp: Vũ hội đồng quê. 14. Tiếng Pháp: Xe hơi - một tờ báo thể thao của Pháp. 15. Một trong những nhà thơ tiêu biểu của phái tượng trưng Pháp, thế kỷ XIX. 16. Tiếng Pháp trong nguyên bản: ivresse. 17. Tiếng Pháp: nhân viên cảnh sát. .
| |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Sun Jan 21, 2018 9:25 pm | |
| . Nhạc và Phim "TUYẾT TRÊN ĐỈNH KILIMANJARO"https://www.youtube.com/watch?v=LQvLOUYtijkThe Snows of Kilimanjaro (1952)Actors: Gregory Peck, Susan Hayward, Ava Gardner https://www.youtube.com/watch?v=Mf1vBzl6ei4 Nhạc phẩm “Kilimandjaro”, đôi khi còn được biết đến dưới tên “Les Neiges Du Kilimandjaro”, là một nhạc phẩm nổi tiếng của Pháp do Pascal Danel phát hành năm 1966. Nó được cho rằng là một nhạc phẩm tiêu biểu của Pháp thập niên 1960s. Đây là hit song thành công nhất của Pascal Danel và là bài được truyền thanh nhiều nhất trên các đài radio thời đó.
Lời bài hát được viết bởi Michel Delancray, hòa âm bởi Laurent Voulzy, và do chính Pascal Danel soạn nhạc. “Kilimandjaro” chiếm vị trí #1 trên bảng sắp hạng của “French Charts” và là nhạc phẩm được nhiều danh ca quốc tế thu âm bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau.“Kilimandjaro” du nhập vào Việt Nam cuối thập niên 1960s, được nhạc sĩ Nguyễn Duy Biên đặt lời Việt dưới tựa đề “Đỉnh Tuyết” do hai ca sĩ Jo Marcel và Elvis Phương trình diễn trước tiên từng làm thổn thức bao trái tim của giới yêu nhạc Pháp tại thành phố Hòn Ngọc Viễn Đông – Sài Gòn.
https://www.youtube.com/watch?v=I3gCqzWe2YY&feature=emb_logo ** Jo Marcel - Đỉnh Tuyết (Kilimanjaro)
https://www.youtube.com/watch?v=0FGHaluVf7I&feature=emb_logo ** Les Neiges Du Kilimanjaro ĐỈNH TUYẾT CAO - ELVIS PHƯƠNG
Nhạc phẩm “Kilimandjaro” Tác giả: Pascal Danel, Michel Delancray, Laurent Voulzy
Il n’ira pas beaucoup plus loin La nuit viendra bientôt Il voit là-bas dans le lointain Les neiges du Kilimandjaro
Elles te feront un blanc manteau Où tu pourras dormir Elles te feront un blanc manteau Où tu pourras dormir, dormir, dormir
Dans son délire il lui revient La fille qu’il aimait Ils s’en allaient main dans la main Il la revoit quand elle riait
Elles te feront un blanc manteau Où tu pourras dormir Elles te feront un blanc manteau Où tu pourras dormir, dormir, dormir
Voilà sans doute à quoi il pense Il va mourir bientôt Elles n’ont jamais, jamais, été si blanches Les neiges du Kilimandjaro
Elles te feront un blanc manteau Où tu pourras dormir Elles te feront un blanc manteau Où tu pourras dormir, dormir, dormir, dormer, bientôt.
Nhạc phẩm “Đỉnh Tuyết” “Kilimandjaro” – Lời Việt: Nguyễn Duy Biên
Nào xa chi vẫn nhớ tới chốn này Khi đêm buốt giá dâng đầy Nhìn nơi xa bát ngát núi rừng Non cao bóng tuyết trắng bao trùm
Phủ quanh thân ai như áo choàng xinh Phủ trong miên man tuyết rơi Phủ quanh thân ai như áo choàng xinh Cho người còn giấc nồng say Miên man, miên man
Từ trong hoang vắng giá buốt thoáng về Em xưa quá yêu kiều Ta rủ nhau đi ngước mắt nhìn Nghe như nơi đây chiếu những u buồn
Phủ quanh thân ai như áo choàng xinh Phủ trong miên man tuyết rơi Phủ quanh thân ai như áo choàng xinh Cho người ngon giấc triền miên Trong vang, trong vang
Dù trong hoang vắng với giá buốt này Ai kia khép mắt xa đời Rồi mưa bay khép kín lấp vời Nhưng sao bóng tuyến vẫn ơ thờ
Phủ quanh thân ai như áo choàng xinh Phủ trong miên man tuyết rơi Phủ quanh thân ai như áo choàng xinh Cho người ngon giấc triền miên Trong vang, trong vang, triền miên…
(Nguồn: dotchuoinon.com) . | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Sat Feb 10, 2018 12:14 am | |
|
Một Nơi Chốn Khang Trang Vừa Sạch Vừa Đẹp
Ernest Hemingway (Nobel 1954) Doãn Quốc Sỹ dịch
Thời gian đã trễ, mọi người đã đứng dậy rời tiệm cà phê trừ một ông già còn ngồi dưới bóng một vòm lá cây che ánh điện. Vào ban ngày đường phố bụi bậm nhưng ban đêm sương xuống đã phủ dày, và ông già sở dĩ còn ngồi lại trễ kia vì ông bị điếc, hơn nữa vào giờ tĩnh lặng này của đêm khuya ông cảm thấy có điều gì khác lạ. Hai người hầu bàn ngồi phía bên trong nhìn biết ông già đã hơi xỉn rồi. Họ biết dù ông là một khách hàng tốt nhưng khi quá say ông sẽ rời tiệm mà quên trả tiền, họ đành ngồi nán canh chừng ông vậy.
Một anh hầu bàn nói: "Ấy tuần trước ông ta định tự vẫn đấy." "Vì sao vậy?" "Vì tuyệt vọng!" "Tuyệt vọng cái gì?" "Chẳng vì cái gì cả!" "Sao cậu biết là chẳng vì cái gì cả?" "Ông ta dư dật tiền bạc mà!" Cả hai chàng cùng ngồi bên chiếc bàn kê sát vách tường ngay gần cửa ra vào nhìn ra khoảng thềm trống bên ngoài với những bàn trống vắng, trừ bàn có ông già ngồi dưới bóng lá đu đưa theo gió. Một cô gái và một chàng quân nhân đương đi ngang trên đường phố sát đó. Ánh đèn đường phản chiếu lấp lánh trên cổ áo có chữ số bằng đồng của chàng quân nhân. Người con gái rảo bước bên anh, trên đầu không có gì che.
"Nhân viên tuần hành có ý muốn bứng ông ta đi" - một chàng hầu bàn nói. "Việc gì sẽ xảy ra nếu ông ta được thỏa mãn điều yêu cầu." "Tốt hơn hết ông ta hãy rời khỏi phố lúc này. Nhân viên tuần hành muốn bắt giữ ông ta đó. Họ đã đi quanh năm phút trước đây rồi!" Ông già ngồi dưới bóng cây gõ nhanh đáy ly lên mặt chiếc đĩa phía dưới. Chàng hầu bàn trẻ tuổi hơn tiến tới: "Thưa ông muốn gì ạ?" Ông già ngẩng nhìn và nói: "Cho tôi một ly rượu mạnh nữa!" Chàng hầu bàn nói: "Ông sẽ bị say đó!" Ông già ngẩng nhìn, hắn vội đi ngay và nói với anh bạn đồng nghiệp: "Ông ta sẽ ngồi đó suốt đêm cho mà coi. Tao buồn ngủ rồi. Chẳng bao giờ được ngủ trước ba giờ sáng. Giá như tuần trước ông già thành tựu trong việc tự vẫn."
Chàng hầu bàn cầm chai rượu và một chiếc dĩa nhỏ để đặt ly tự phía trong quầy hàng rồi bước ra ngoài tiến về phía bàn của ông già. Chàng đặt chiếc tách xuống rót rượu đầy ly và nói với ông già điếc: "Lẽ ra ông nên ra đi vĩnh viễn dịp ông tự vẫn tuần trước!" Ông già ra hiệu với một ngón tay và nói: "Rót thêm chút nữa đi!" Chàng hầu bàn tiếp tục rót rượu vào ly, rượu đầy tràn chảy ào xuống lòng tách bên dưới. Ông già nói: "Cám ơn!"
Chàng hầu bàn mang chai rượu để lại chỗ cũ bên trong quầy cà phê, rồi tới ngồi cạnh anh bạn đồng nghiệp và nói: "Trông kìa, ông ta say rồi!" "Thì đêm nào ông ta chẳng say như vậy." "Điều gì làm ông ta muốn tự sát?" "Làm sao tôi biết được!" "Ông ta đã tự sát như thế nào?" "Tự treo cổ bằng một dây thừng." "Ai đã cắt giây cứu ông ta?" "Cháu gái ông." "Vì sao họ làm vậy?" "Vì họ e ngại cho linh hồn ông." "Ông ta tiền nhiều chừng nào?" "Nhiều lắm!" "Ông ta cỡ tám chục tuổi chứ gì?" "Mong cho ông ấy đi về. Tôi chẳng bao giờ được lên giường trước ba giờ sáng. Giờ nào mới được lên giường đây?" "Ông ta cứ ngồi nán vậy vì thích vậy." "Ông ta sống một mình chứ tôi có sống một mình đâu. Bà xã tôi hiện đương nằm chờ tôi trên giường đó!" "Ông ta cũng đã một thời có bà xã đấy chứ." "Một bà vợ với ông giờ đây cũng chẳng ích gì." "Không thể nói thế được. Giá như có một bà vợ ngay bên ông cũng hơn chứ." "Đứa cháu gái săn sóc ông ta. Cậu nói là cô ta đã cắt giảm nhiều thứ chứ gì." "Tôi biết." "Tôi chẳng muốn sống già như vậy! Đời sống người già thật chán ngấy!" "Không hẳn thế đâu. Ông già này sạch sẽ đấy chứ. Ông ta uống rượu có để rơi vãi giọt nào đâu. Kể cả vào lúc ông đương say như lúc này. Hãy trông ông ta kìa." "Tôi không thích ngắm ông ta. Tôi muốn ông ta cuốn xéo cho rồi. Ông ta phải biết là người khác còn việc phải làm chứ."
Ông già nhìn qua khung vuông chiếc ly cạn của mình và nói với người hầu bàn: "Một ly vang nữa đi" - ông vừa nói vừa chỉ vào ly. Chàng hầu bàn đương nóng lòng muốn về gấp, chạy đến nói chẳng cần cú pháp, cứ như thể cách nói của một người ngoại quốc: "Thưa hết rượu rồi! Không còn rượu cho đêm nay nữa. Tiệm đã đến giờ đóng cửa." "Rót cho một ly nữa đi" - ông già nói. "Không! Hết rượu rồi." Anh chàng vừa nói vừa lau mép bàn bằng một chiếc khăn lau. Ông già đứng lên, đếm những dĩa nhỏ, rút chiếc ví da trong túi, trả tiền và có để lại tiền típ.
Anh chàng hầu bàn bèn nhìn ông theo đường xuống phố, dáng một ông già bước đi không vững nhưng vẫn giữ được vẻ đàng hoàng. Anh chàng hầu bàn không muốn về gấp nêu câu hỏi: "Sao cậu không để ông ta ngồi nhẩn nha chút nữa uống tiếp? Chưa quá hai giờ rưỡi mà!" "Tôi muốn về lên giường ngủ!" "Chậm một giờ có đáng là bao." "Nhưng với tôi thời gian vào lúc này đáng quý hơn với ông ấy." "Thì một giờ cũng là một giờ thôi." "Cậu nói như thể cậu là ông già đó vậy. Ông ta có thể mua một chai vang mang về uống ở nhà." "Đâu có giống nhau!" "Đúng, không giống nhau thật!"
Chàng hầu bàn có vợ chờ ở nhà biểu đồng tình với bạn vì chàng không muốn tỏ ra bất công, chàng chỉ muốn lẹ một chút thôi. "Còn cậu, cậu không sợ về nhà trước giờ như thường lệ chứ?" "Cậu định thóa mạ tôi sao?" "Không đâu bạn ơi, rỡn mà!"
Chàng hầu bàn vội vã vươn tay kéo cánh cửa chớp bằng kim khí xuống và nói: "Không. Tôi có niềm tin mà. Tôi hoàn toàn giữ vững niềm tin." "Cậu có tuổi trẻ, có niềm tin, và có một việc làm. Cậu có đủ tất cả." "Vậy bạn, bạn thiếu điều gì nào?" "Thiếu đủ mọi thứ, trừ việc làm." "Bạn có tất cả những thứ tôi có." "Không đâu. Tôi chẳng bao giờ có được niềm tin và cũng không còn trẻ nữa." "Thôi đi cậu ơi, đừng nói tào lao, khóa cửa lại đi!" "Tôi giống những kẻ thích ngồi lại muộn nhất trong tiệm cà phê" - chàng hầu bàn nhiều tuổi hơn nói - "ngồi lại muộn nhất với những người không muốn về ngủ, với những người cần được thấy ánh sáng trong đêm." "Tôi thì muốn về nhà, lên giường nằm đây." "Chúng ta thuộc hai loại người khác nhau" - chàng nhiều tuổi hơn đáp. Chàng đã khoác xong áo chuẩn bị ra về. "Đây không phải là vấn đề còn trẻ hay không, có niềm tin hay không, mặc dầu đó là những thứ ai cũng quý. Mỗi đêm tôi vẫn chần chừ vào lúc đóng cửa vì nghĩ rất có thể vẫn còn người nào đó đương cần một ly cà phê." "Bồ ơi, còn những kho rượu vang lâu năm mở cửa bán suốt đêm đó." "Cậu không hiểu gì cả! Cậu nên nhớ đây là một tiệm cà phê sạch sẽ, khang trang, sáng sủa và còn thêm bóng lá cây đu đưa nữa." "Thôi chúc bạn ngủ ngon" - chàng hầu bàn trẻ hơn nói. "Vâng, chúc bạn ngủ ngon" - chàng kia đáp lại.
Chàng vừa đáp vừa tắt điện vừa tự đàm thoại thầm với mình. Đã đành ánh sáng cần thiết nhưng nơi chốn đó cũng còn phải sạch sẽ, dễ thương nữa chứ. Bạn không muốn có nhạc. Hẳn là bạn không muốn có nhạc. Bạn cũng chẳng thể đứng trước một quầy rượu với dáng uy nghi, mặc dầu mọi thứ đều được cung cấp vào giờ đó. Người sợ gì? Không phải là sợ hãi, kinh khiếp. Chẳng có gì cả, đó là điều người biết rõ quá đi. Tất cả là cái chẳng có gì và một người cũng chẳng là cái gì cả. Chỉ có vậy và ánh sáng là tất cả những gì cần thiết -- với một chút sạch sẽ, trật tự. Có người sống trong đó mà chẳng hề cảm thấy nhưng cũng hiểu rằng tất cả chẳng qua chỉ là chẳng có gì cả và rồi chẳng có gì cả - và - chẳng có gì cả và rồi chẳng có gì cả. Cái không có gì cả của chúng ta nằm trong cái không có gì cả, không có gì cả là tên bạn, là vương quốc không có gì của bạn, là vương quốc không có gì tương lai của bạn, trong vương quốc không có gì vì nó là vương quốc không có gì. Hãy cho chúng tôi cái vương quốc không có gì này vương quốc không có gì hàng ngày của chúng tôi và hãy không có gì những cái không có gì của chúng tôi trong khi chúng tôi không có gì những cái không có gì của chúng tôi và hãy không có gì chúng tôi không phải trong cái không có gì, nhưng hãy phân phát chúng tôi từ những cái không có gì. Hoan hô cái không có gì tràn đầy những không có gì, không có gì hãy ở lại với bạn. Anh chàng mỉm cười và đứng trước quầy rượu với một máy ép cà phê rực rỡ nghi ngút bốc hơi.
"Ông dùng gì?" chàng tiếp viên hỏi khách. "Một không có gì!" "Lại một tên khùng nữa" - chàng tiếp viên nói vậy rồi quay đi. "Xin một ly rượu nhỏ" - chàng hầu bàn nói. Chàng tiếp viên rót cho hắn. "Ánh sáng tốt lắm và dễ chịu nữa nhưng quầy rượu không được lịch sự!" chàng hầu bàn nói. Chàng tiếp viên nhìn chàng hầu bàn nhưng không nói gì. Đã quá khuya rồi, còn đối thoại làm gì. "Bạn muốn thêm một ly nhỏ nữa chăng?" chàng tiếp viên hỏi. "Thôi! Cám ơn bạn" - chàng hầu bàn nói rồi đi ra.
Chàng không ưa những quầy rượu và những hầm chứa rượu. Một quán cà phê sạch sẽ, sáng sủa là một cái gì khác hẳn. Giờ thì không muốn nghĩ gì xa xôi hơn, chàng chỉ còn muốn trở về với căn phòng của mình. Chàng sẽ nằm sõng soài trên giường và sau cùng với ánh sáng ban mai chàng lại ngủ. Sau cùng chàng tự nhủ với mình rằng hẳn đó chỉ là chứng mất ngủ. Hẳn là nhiều người mắc chứng mất ngủ!
Đọc và Phản ứng:
1. Trong truyện có đoạn nhân vật nhắc liên tiếp, liên tiếp từ ngữ "chẳng có gì cả và chẳng có gì cả." Điều này gợi cho ta cảm thấy cái trống rỗng của cuộc đời, đồng thời cũng gợi cho ta một niềm ngao ngán nào đó. 2. Những đoạn đối thoại trong truyện luôn luôn ngắn gọn như nuốt lời. Điều này gợi cho ta những suy tư chợt đến, chợt đi nơi từng người. 3. Âm sắc của truyện này có một nét đặc biệt, nó như luôn luôn muốn gợi nhớ nơi ta một điều gì vẫn thấp thoáng nơi tiềm thức. 4. Câu chuyện dường như vẫn gắng giữ lấy một niềm tin gì nơi cuộc đời, không hoàn toàn tuyệt vọng, do đó vẫn có ánh sáng của lạc quan, tin tưởng giữa cuộc đời đương gặp nhiều xao động này. 5. Tác giả dùng ngôn ngữ Tây Ban Nha trong lời tán thán "tất cả chẳng qua là chẳng có cái gì cả" cũng là để lời tán thán đó có một màu sắc đặc biệt trong nếp sống Tây Ban Nha. Nếu biểu lộ lời tán thán đó bằng tiếng Anh e rằng kém gợi cảm đi nhiều. 6. Quán cà phê trong truyện được tả là sạch sẽ và dễ thương. Nhưng lại chính là nơi gây bao nỗi niềm suy tư sâu thẳm. Đó là ý nghĩa hài hước tiềm ẩn nơi tác phẩm. 7. Quan điểm truyện chính yếu cũng là gián tiếp công nhận sự kiện nhân vô thập toàn, vạn sự đều có mặt tốt, mặt xấu, trong cái rủi có cái may và ngược lại.
Đúng như nếp suy nghĩ của Hemingway đã thể hiện trong hầu hết những nhân vật của ông: Tuy cuộc đời là không, là trống rỗng đấy, nhưng với con người có hùng tâm, họ vẫn thể hiện được một cuộc sống có chân giá trị và sáng ngời danh dự.
Doãn Quốc Sỹ . | |
| | | NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Sun Feb 18, 2018 10:29 am | |
|
Edwidge Danticat ra đời tại thành phố Port-au-Prince, Haiti năm 1969. Đậu Cử nhân Văn Học Pháp tại Barnard College, và Thạc sĩ Nghệ Thuật tại Brown University, cô hiện đang giảng dạy tại New York University (NYU). Những truyện ngắn của cô đã xuất hiện trên 25 tạp chí văn chương và góp mặt trong một số tuyển tập. Ngoài một số tác phẩm cô biên tập hoặc viết chung với người khác, cô đã xuất bản một tập truyện ngắn và năm cuốn tiểu thuyết. Danticat từng nhận nhiều giải thưởng văn học danh giá, và tác phẩm của cô được dịch sang tiếng Đại Hàn, Ý, Đức, Pháp, Tây Ban Nha và Thụy Điển.
Đàn bà đêm Edwidge Danticat
Tôi co mình lại vì hơi nóng của đêm trên mặt. Tôi cảm thấy trần trụi như rách toạc da thịt. Đêm nay tôi già hơn nhiều so với hai mươi lăm năm tôi đã sống. Đêm là thời gian mà tôi kinh hãi nhất trong đời. Tuy nhiên nếu tôi muốn sống, tôi phải tùy thuộc vào nó.
Những bóng người chập chờn trên tấm màn ren khi con tôi trèo vào giường. Tôi nhìn nó duỗi mình lớn dậy từ một thằng bé thành một gã đàn ông dong dỏng, chiều cao của cơ thể nó vươn lên ngăn căn nhà một gian thành hai khoảng không gian, hai tấm chiếu, hai thế giới riêng biệt.
Trong khoảnh khắc, tôi suýt lầm tưởng nó với hồn ma của bố nó, một người tình cũ mất dạng từ lâu cùng với những chiếc bóng trong đêm. Giường của nó nằm nơi góc phòng, cách xa tấm sáo rèm mỏng mảnh. Tôi nhìn nó vùi đầu vào gối tạo ra những nếp nhăn. Nó xoay trở thân thể nhỏ nhắn của mình thật cẩn thận để khỏi làm nhàu bộ đồ vía mặc vào Chủ Nhật. Nó quấn chiếc khăn quàng dài đỏ thắm của tôi quanh cổ, chiếc khăn quàng mà tôi làm duyên để quyến rũ khách. Tôi cho nó khoác vào ban tối, để lúc nào nó cũng có một vật gì đó của mẹ khi tôi không ở cạnh.
Tôi nhìn bóng nó đứng im trên màn rèm. Mắt tôi bị hút vào nó, như những vì sao soi xuyên qua những lỗ thủng nhỏ trên mái nhà, những lỗ thủng mà không một vị khách nào sửa giúp, vì họ muốn nhìn mảng trời đêm khi nằm trần truồng trên chiếu.
Một con đom đóm bay quanh phòng, lượn đến với thằng bé mà không đến với tôi. Có lẽ nó là một con muỗi đã học được phép hóa lửa mầu nhiệm. Thằng bé luôn đập chết những con muỗi đậu trên mặt mà không hề tỉnh giấc. Sáng dậy, trên trán nó dính những vết máu nhỏ tí, như thể suốt đêm qua nó đã mải miết hôn một người đàn bà có những vết thương lở loét khắp mặt.
Trong giấc ngủ, nó lăn trở và ú ớ như thể nó đã tìm được niềm khoái lạc trong việc rờ rẫm chính mình. Hai mẹ con chưa hề nói chuyện về tình yêu. Nó cần phải biết những gì đây? Tình yêu là một trong những bài học mà khi lớn lên bạn sẽ biết, như cách bạn biết chiếc giầy nào vừa với bàn chân để khỏi bị khó chịu.
Có hai loại đàn bà: đàn bà ngày và đàn bà đêm. Tôi thì bị kẹt giữa ngày và đêm, kẹt trong một màu đồng vàng hổ phách. Mắt tôi màu đất, gần như màu vàng đồng nếu tôi đứng trong nắng. Tôi muốn bới mái tóc mình thành những lọn xoăn ngay từ khi tôi vừa học được cách bới cả đầu tóc mà không làm cho đôi tay mình tê cứng.
Hầu hết mọi đêm, tôi nghe một lời thầm thì nho nhỏ. Thân tôi tê dại khi tôi tự hỏi sẽ mất bao lâu để thằng bé vượt qua tấm màn và tìm thấy tôi. Nó gọi, “Mẹ…”. Thì tôi nói, “Cưng yêu”.
Chẳng hiểu sao vào ban đêm, nó luôn thì thầm gọi tôi. Tôi nghe tiếng o o từ cái máy ra-đi-ô của nó. Âm thanh giòn như tiếng của một lon Coca. Một trong những gã theo đuổi tôi đã cho nó để nhét vào tai lúc đi ngủ trong khi má làm việc.
Ở Ville Rose có một nơi những hồn ma đàn bà cưỡi những con sóng trong khi chải những vì sao rời khỏi tóc họ. Nơi đó, những hồn ma tán tỉnh người đi dạo và để lại những vì sao trên lối đi. Có nhiều đêm, tôi tin rằng những hồn ma đó đang hiện hữu cùng tôi. Tôi cũng biết có những người đàn bà thức trắng đêm để gỡ những mảnh vá mà họ đã khâu được trong ngày. Những người đàn bà này cố ý phá bỏ thành quả cực nhọc của chính họ để luôn có việc để làm. Và khi có việc để làm thì họ sẽ không phải nằm bên linh hồn bất động của người đàn ông còn nồng mùi chăn chiếu với một người đàn bà khác.
Cách thằng bé phản ứng với những cái hôn lên má báo cho tôi biết rằng nó đã ngủ chưa. Nó như con bướm rập rờn bay trên hòn đá trơ trụi nằm giữa dòng suối. Đôi khi tôi thấy trong ánh mắt nó niềm mong đợi cho một điều gì còn to lớn hơn cả chính tôi. Hai mẹ con như hai người tình xa cách, nói dối nhau, dưới những vầng trăng khác nhau.
Khi ngón tay út tôi mơn trớn đường nhân trung dưới mũi nó, thỉnh thoảng lưỡi nó lè ra liếm móng tay tôi. Nó rên lên rồi quay đi chỗ khác, có lẽ nó nghĩ điều đó là một phần của giấc mộng.
Tôi thì thầm kể những câu chuyện về núi của tôi, những mẩu chuyện về những hồn ma đàn bà và những vì sao được cài trên tóc họ. Tôi kể cho nó nghe về những con rắn độc nằm ở một đầu của cầu vồng và chiếc mũ đựng đầy vàng nằm ở đầu kia. Tôi kể rằng nếu tôi vượt qua được dòng suối đầy nhánh dâm bụt trong suốt, tôi sẽ trở thành một nữ thần. Tôi hà hơi nhẹ vào hàng mi dài của nó để xem nó đã ngủ say chưa. Những ngón tay tôi uốn thành những hình chim đậu trên mũi nó. Tôi muốn nó quên đi việc chúng tôi đang sống trong một nơi không có điều gì là vĩnh cửu.
Tôi biết đôi khi nó cũng thắc mắc sao tôi lại quá bận tâm như vậy. Sao tôi lại vẽ những mảnh trăng khuyết lên trán lấm tấm mồ hôi và rắc những bột phấn hồng lên hai gò má. Tôi mặc cho nó bộ đồ đẹp được gấp nếp cho ngày Chủ Nhật, và bảo rằng mình đang chờ đợi một thiên thần dịu dàng, và thiên thần giáng trần nơi nào thì gia chủ nơi đó phải đẹp như những hoa dâm bụt nổi trên dòng suối vậy.
Trong khi ngủ, tay nó kéo tung những nếp gấp. Nó liếm môi vì viên kẹo đường cuối cùng mà nó đã chôm được trong ví của tôi.
Thôi nào, đủ rồi nhé, nếu không răng của con sẽ trở nên đen xỉn mất. Tôi đã quên bảo nó dùng lá bạc hà để chà răng. Nó không biết rằng một ngày nào đó một người đàn bà như mẹ sẽ đánh giá nó bởi độ trắng của hàm răng.
Chẳng mấy chốc nó ngáy nhè nhẹ. Tôi lắng nghe giọng cười bẽn lẽn từ những giấc mơ đẹp nhất của nó. Giấc mơ về những thiên thần phóng qua đầu nó, thỉnh thoảng nhón những gót chân hồng trên mũi nó.
Tôi nghe nó hát thầm ậm ừ một bài hát. Một trong những khúc ca mà họ dạy trẻ con vào những buổi trưa nóng bức trong trường học. Kompè Jako, domé vou? Kìa con bướm vàng, kìa con bướm vàng. Xòe đôi cánh…
Hàng râm bụt lao xao trong đêm, ngoài kia. Tôi hát theo để ru nó ngủ. Tôi đánh thêm một lớp phấn đỏ Ai Cập lên má. Trong phấn có lấp lánh hạt kim tuyến để khách dễ dàng nhận ra tôi trong bóng tối.
Tối nay Emmanuel sẽ đến. Ông ta là bác sĩ, ông thích đàn bà mông to, mông tôi tuy nhỏ nhưng vẫn hấp dẫn. Ông đến vào những ngày thứ Ba và thứ Bảy. Ông mang hoa đến, như thể để tán tỉnh tôi. Tối nay ông ta tặng tôi những cánh hoa giấy. Hoa luôn luôn là một điều ngạc nhiên thú vị.
Tôi hỏi, “Vợ anh thế nào?” “Bà ấy không đẹp như em.”
Những ngày thứ Hai và thứ Năm là phiên của một tay chơi đàn ắc-coóc-đi-ông tên Alexandre. Hắn thích giả tiếng của cây đàn ắc-coóc-đi-ông bằng miệng vào tai tôi. Suốt thời gian còn lại trong đêm, hắn lắc lư cạ cái đầu trái gấc lên rốn tôi.
Nếu thằng bé thức giấc, tôi đã chuẩn bị sẵn những lời ngụy biện. Rồi một ngày nào đó, nó sẽ đủ lớn để không bị mẹ xí gạt rằng người đàn ông lang bạt này là một ảo ảnh, và thân thể trần truồng ấy chỉ là một giấc mơ. Tôi sẽ nói với nó rằng bố nó đã đến, rằng một thiên thần đã mang ông về từ thiên đường trong chốc lát.
Những ngôi sao chậm rãi trượt khỏi lỗ thủng trên mái nhà trong lúc ông bác sĩ chìm sâu, sâu mãi dưới thân tôi. Ông ta nhịp mạnh và hổn hển thở. Tôi bịt miệng ông lại để ông khỏi gào lên. Tôi thấy gương mặt vợ ông trong những giọt mồ hôi chảy ròng xuống cằm ông. Ông ra về, cả người đẫm sương tiết ra từ da thịt chúng tôi. Ông gọi tôi là trận tuyết lở, là thác nước...
Sau khi ông về lúc rạng sáng, tôi ra ngoài ngồi hút một điếu thuốc lá vấn. Tôi nhìn những người đàn bà làm công đi bộ thành hàng đến khu chợ trời cách nơi họ ở gần nửa ngày đường. Tôi cám ơn những vì sao, vì ít gì đi nữa thì tôi cũng hưởng được những ban ngày cho riêng mình.
Khi trở vào nhà, tôi nghe tiếng thở đều đều của thằng bé. Tôi vội áp mặt vào môi nó để cảm nhận hơi ấm bình yên thoát ra từ miệng nó. “Mẹ ơi, con lại hụt mất những thiên thần nữa rồi…”. Nó thì thầm âu yếm, với tay ôm lấy cổ tôi.
Tôi trườn vào giường, nằm xuống bên nó, và ru nó ngủ lại. “Đừng lo, con yêu. Các thiên thần có cả cuộc đời để đến với chúng ta mà.”
Thận Nhiên dịch
| |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Mon Mar 05, 2018 4:56 pm | |
| .Nhà văn W. Somerset Maugham - Ảnh: Internet
William Somerset Maugham (1874-1965) là một nhà văn Anh nổi tiếng, viết nhiều, với bút pháp hiện thực sắc sảo, soi rọi những khía cạnh mâu thuẫn nghịch chiều của cuộc sống, phác hiện những nét sâu kín của bản tính con người. Lối văn của ông trong sáng, khúc chiết, ông lại có biệt tài dẫn truyện hấp dẫn, lý thú, đặc biệt phong cách của ông thường hài hước, sâu cay. Là nhà văn đa tài, ông vừa là tiểu thuyết gia có tiếng, vừa là người viết truyện ngắn bậc thầy, và cũng là một kịch tác gia thành công.
Truyện ngắn “Thầy quản giáo đường” (The Verger) dưới đây thu hút độc giả bằng nghệ thuật lạ hóa được dẫn dắt qua tình huống nghịch lý không biết chữ vẫn thành công trong cuộc sống ở giáo đường cũng như kinh doanh. Dí dỏm, hài hước, đặc biệt cách kết thúc bằng tiếng cười mỉa hình như ông muốn người đọc khám phá một kiểu người thông minh bẩm sinh với kỹ năng sống tuyệt vời. Xử lý nghệ thuật bằng cách chọn điểm nhìn bên trong nhân vật chính phối kết với những hội thoại dí dỏm ngầm cũng là một nét thú vị của văn W.S. Maugham.
Thầy quản giáo đường W. Somerset Maugham (Anh)
Chiều hôm ấy, có lễ rửa tội diễn ra tại Nhà thờ Thánh Peter, Quảng trường Neville, và thầy quản nhà thờ Albert Edward Foreman vẫn còn vận chiếc áo choàng quản giáo đường của ông trên mình. Ông vẫn để dành tấm áo mới của ông, với những nếp gấp còn nguyên vẹn và cứng đơ như thể nó được may từ chất đồng lưu niên, chứ không phải bằng len dệt từ lông lạc đà alpaca Nam Mỹ, nó chỉ chuyên dùng vào dịp các buổi cưới xin, ma chay (Nhà thờ Thánh Peter, Quảng trường Neville, là một nhà thờ được tầng lớp thượng lưu ái mộ những cuộc lễ này lắm!) và hiện giờ ông chỉ mặc chiếc áo hạng thứ mà thôi. Ông vận chiếc áo này, vẻ tự mãn, vì nó là biểu tượng trang nghiêm của chức vị ông, và nếu không mặc nó (đó là những khi ông phải cởi nó ra để về nhà), thì ông có cái cảm giác khó chịu là trang phục chưa được chỉn chu cho lắm. Ông chịu khó giữ gìn nó, ông tự tay là nó, gấp nó rất cẩn thận. Trong 16 năm ông làm thầy quản tại nhà thờ này, ông đã có một lô những chiếc áo như vậy, mà ông cũng không nỡ lòng nào quẳng chúng đi khi chúng đã sờn cũ. Lô áo ấy, đầy đủ không thiếu một chiếc, được gói gọn gàng bằng giấy dầu, nằm trong các ô kéo dưới cùng của chiếc tủ đứng kê trong phòng ngủ nhà ông.
Thầy quản lặng lẽ làm việc, luôn chân, luôn tay, hết thay chiếc nắp gỗ ván sơn đậy trên bình nước thánh bằng đá cẩm thạch, lại chuyển đi một chiếc ghế mới được kê thêm cho một bà già ốm yếu, hom hem…, đoạn ông đợi cho cha sở xong xuôi mọi việc trong căn phòng áo lễ để ông có thể vào dọn dẹp trong đó rồi ra về. Ngay lúc ấy, ông trông thấy cha sở bước qua thánh đường, quỳ gối trước ban thờ chính, đoạn bước xuống lối đi giữa hai dãy ghế, nhưng ông vẫn còn vận chiếc áo choàng hành lễ của ông.
“Ông ta vẫn còn quanh quẩn ở đây để làm cái quái gì thế nhỉ?” Thầy quản tự hỏi, “ông ấy không biết là đã đến giờ mình phải về nhà uống trà rồi sao?” Mãi tới gần đây cha sở mới được bổ nhiệm về nhà thờ này, một con người hoạt bát, da dẻ hồng hào, ngoài 40, nhưng Albert Edward vẫn còn tiếc luyến người tiền nhiệm của ông ta, vị cha sở trước kia, đó là một thầy tu thuộc trường phái cổ, ông giảng các bài thuyết pháp một cách chậm rãi bằng một giọng sang sảng và thường xuyên đi dự tiệc với những giáo dân thuộc dòng dõi quý tộc. Ông ấy thích cứ giữ nguyên mọi thứ trong nhà thờ, ông cũng không bao giờ gắt gỏng om sòm; ông không giống vị cha sở mới đến này, người chỉ thích chõ mũi vào tất cả mọi chuyện. Tuy vậy, Albert Edward là người biết chịu đựng. Nhà thờ Thánh Peter tọa lạc giữa một giáo xứ ôn hòa, giáo dân là lớp người rất ngoan đạo. Vị cha sở mới này từ Khu Đông tới và người ta không kỳ vọng ông ta sẽ có thể hòa nhập ngay lập tức với tất cả lối sống dè dặt, kín đáo của đám con chiên quý tộc này. “Làm cái quái gì mà cứ nhặng xị ngậu cả lên!”, thầy quản Albert Edward tự nhủ. “Thôi được, cứ để cho ông ta có thời gian, rồi ông ta sẽ tự rút ra được những bài học kinh nghiệm cho bản thân mình.”
Khi cha sở bước xuống lối đi giữa hai hàng ghế, ông dừng lại ở khoảng cách đủ để nói với thầy quản mà không cần phải cao giọng quá mức cần thiết tại nơi thờ tự tôn nghiêm này. “Foreman, ông hãy vào phòng áo lễ một phút, tôi có chuyện muốn nói với ông”. “Vâng, thưa cha”. Viên cha sở chờ cho ông theo kịp rồi cả hai cùng bước ngược lối đi. “Tôi cho là buổi lễ rửa tội diễn ra rất tốt đẹp, thưa cha. Đứa bé nín khóc ngay lúc cha bế nó, trông thật ngộ nghĩnh”. “Tôi nhận thấy chúng thường nín bặt,” cha sở nói, hơi nhếch mép cười. “Xét cho cùng, tôi đã làm biết bao lần như thế với chúng rồi”. Niềm kiêu hãnh vẫn bị ghìm nén đối với cha sở là hầu như ông có thể làm cho một đứa bé đang khóc thút thít phải nín bặt bằng cái cách ông bế bổng nó lên, và ông cũng không phải là không thấy sự thán phục vui vui mà các bà mẹ và các cô hầu quan sát ông nhẹ nhàng ôm đứa bé vào chỗ thụng của chiếc áo tế. Thầy quản biết cứ tâng bốc ông ta là ông ta sẽ hài lòng.
Viên cha sở tiến trước thầy quản vào phòng áo lễ. Albert Edward hơi ngạc nhiên khi thấy có cả hai uỷ viên quản lý tài sản của giáo hội cũng có mặt trong đó. Ông không hề trông thấy hai người này vào từ lúc nào. Họ nhã nhặn gật đầu chào ông. “Xin chào cha giám! Xin chào cha giám!”, ông chào từng người một. Cả hai đều là những người luống tuổi, đã là uỷ viên quản lý tài sản ngay từ khi Albert Edward vào làm quản nhà thờ này. Giờ đây họ ngồi tại một chiếc bàn ăn rất đẹp mà nhiều năm trước đây, cha sở cũ đã đem từ xứ Italia xa xôi về. Cha sở ngồi xuống chiếc ghế trống. Albert Edward đứng đối diện với ba người, chiếc bàn ngăn đôi giữa ông một bên và ba người kia một bên, hơi thấp thỏm, bứt rứt, phân vân không biết có chuyện gì. Ông vẫn còn nhớ cái lần người đánh đàn organ gặp rắc rối và bọn họ đã ra sức bưng bít, ỉm mọi chuyện đi. Trong một nhà thờ như Nhà thờ Thánh Peter, Quảng trường Neville, họ không thể để cho có chuyện xì-căng-đan được. Trên khuôn mặt đỏ hồng của cha sở là một vẻ mặt nhân từ, cương quyết, nhưng hai người kia thể hiện nét mặt hơi bối rối trông thấy.
“Hẳn là ông ta đã cằn nhằn, rầy la họ gì đây,” Albert Edward tự nhủ, “hẳn ông ta đã buộc họ làm điều gì đó, mà họ không muốn đây. Đúng là như thế, ngẫm mà xem mình nói chớ có sai”. Nhưng những ý nghĩ của ông không hiện lên khuôn mặt in đậm những nét sáng sủa, phương phi của ông. Ông đứng đó, với thái độ tôn kính, nhưng không khúm núm, xun xoe. Ông đã bắt đầu cuộc đời đi làm, ở toàn những nơi tốt cả, trước khi ông được bổ nhiệm vào chức vị này trong giáo hội, vả lại cách đi đứng, cư xử của ông không hề có điểm gì chê trách được. Thọat đầu, ông làm chú tiểu đồng tại tư thất một hoàng thân là thương gia, ông đã tiến dần lên chức người hầu thứ tư, rồi thứ nhất, trong một năm; ông đã đơn thương độc mã làm quản gia cho một phu nhân huân tước goá chồng; rồi cho đến trước khi vào làm việc tại Nhà thờ Thánh Peter này, ông còn làm quản gia, với hai người giúp việc dưới quyền, tại nhà một viên đại sứ về hưu. Ông cao, gầy, từ tốn và nghiêm nghị. Trông ông, nếu không giống một công tước thì ít nhất cũng giống một diễn viên thuộc trường phái cổ, chuyên đóng các vai công tước. Ông khéo xử sự, cương quyết và tự tin. Tính cách của ông không bắt bẻ vào đâu được.
Cha sở nhanh chóng đi ngay vào vấn đề. “Ông Foreman ạ, chúng tôi có nhận được một tin không lấy gì làm vui cho lắm phải nói với ông. Ông đã ở đây nhiều năm và tôi cho rằng các vị ủy viên đây đều đồng ý với tôi rằng ông đã làm tròn trách nhiệm ở cương vị của ông khiến tất cả mọi người có liên quan đều cảm thấy hài lòng”. Cả hai vị uỷ viên đều gật đầu tán thưởng. “Nhưng hôm nọ, tôi được biết một điều vô cùng khác thường và tôi cảm thấy có nhiệm vụ phải truyền đạt lại thông tin đó cho hai quý vị đây. Tôi kinh ngạc khi biết tin là ông không hề biết đọc, cũng chẳng biết viết nữa”. Nét mặt của thầy quản nhà thờ không hề lộ vẻ gì bối rối, lúng túng cả. “Cha sở trước đây cũng đã biết chuyện này, thưa cha”, Albert Edward đáp. “Cha ấy nói điều đó chẳng hề chi. Cha luôn luôn nói rằng thiên hạ ngày nay biết quá nhiều chữ nghĩa, không hợp với sở thích của cha”. “Đây là điều đáng kinh ngạc nhất mà tôi chưa hề được nghe thấy bao giờ”, vị trưởng viện thốt lên. “Có phải ông đã làm thầy quản nhà thờ này 16 năm trời mà chưa bao giờ học đọc, học viết không?”
“Tôi bắt đầu đi làm hồi tôi 12 tuổi, thưa cha. Thoạt đầu, một người đầu bếp cố dạy tôi học, nhưng hình như tôi không có năng khiếu học hành, thế rồi hết việc này tiếp đến việc khác, tôi không còn có thời giờ nữa. Mà tôi cũng chưa bao giờ thực sự thấy có nhu cầu cần phải học cả. Tôi cho rằng nhiều người trong đám thanh niên ngày nay lãng phí quá nhiều thời gian vào việc đọc sách vô bổ, trong khi họ có thể làm những việc khác có ích hơn”. “Thế ông không muốn biết tin tức à?” một vị uỷ viên quản lý lên tiếng hỏi. “Ông không bao giờ thấy cần phải viết một bức thư ư?”
“Không ạ, thưa ngài, tôi vẫn phấn đấu làm tốt mọi việc mà chẳng cần chữ nghĩa gì cả. Và những năm gần đây cho tới giờ, người ta đăng đầy hình ảnh trên các báo chí, chỉ cần xem những hình ảnh đó là tôi có thể biết được khá rõ những gì đang diễn ra. Nhà tôi là một người được học hành; nếu tôi muốn viết một bức thư, bà ấy lại viết giúp tôi. Tôi có cá cược gì đâu mà cần đến chữ nghĩa”. Hai vị uỷ viên bối rối liếc nhìn vị cha sở, rồi cùng cúi gằm xuống bàn.
“Thế này nhé, ông Foreman ạ, tôi đã trao đổi kỹ vấn đề này với các vị đây và cả hai đều hoàn toàn nhất trí với tôi rằng tình hình như vậy là không ổn, không thể được. Tại một giáo đường như Nhà thờ Thánh Peter, Quảng trường Neville, chúng tôi không thể để có tình trạng một thầy quản không biết đọc biết viết được”. Khuôn mặt gầy, tai tái của Albert Edward bỗng đỏ bừng, ông cảm thấy khó chịu trên đôi chân của ông, nhưng ông vẫn không đáp lại.
“Thông cảm với tôi, ông Foreman, tôi không có gì phàn nàn về ông cả. Ông hoàn thành công việc của mình rất xuất sắc. Tôi đánh giá cao nhất về cả tính cách lẫn năng lực của ông; nhưng chúng tôi không có quyền cho phép mình liều lĩnh, nhỡ có chuyện gì đó có thể xảy ra do tình trạng mù chữ đáng tiếc của ông gây nên thì nguy to. Đây vừa là vấn đề cẩn trọng vừa là nguyên tắc nữa”. “Thế ông không thể học được à, ông Foreman?” vị trưởng viện hỏi.
“Không ạ, thưa cha, tôi e rằng tôi không thể học được, nhất là vào lúc này. Cha thấy đấy, tôi không còn trẻ như xưa kia nữa, và nếu như hồi còn trẻ tôi đã không thể nhét chữ vào đầu mình, thì bây giờ chắc tôi khó có thể học được”. “Chúng tôi không muốn đối xử khắt khe với ông, ông Foreman ạ”, cha sở nói. “Nhưng tôi và hai vị uỷ viên quản lý đây đã quyết định rồi. Chúng tôi sẽ cho ông 3 tháng để học, và cuối thời gian 3 tháng đó, nếu ông vẫn không đọc và viết được, thì tôi e rằng ông sẽ phải thôi việc”.
Trước đây, Albert Edward không hề ưa vị cha sở mới này. Ông cho rằng người ta đã phạm một sai lầm khi họ bổ nhiệm ông ta về Nhà thờ Thánh Peter. Vì ông ta không phải là “típ” người mà họ mong muốn với một giáo đoàn quý phái, sang trọng như thế này. Giờ đây, Albert Edward ưỡn thẳng người. Ông biết giá trị của mình và ông sẽ không cho phép mình bị người khác o ép. “Tôi rất lấy làm tiếc, thưa cha. Tôi e rằng như thế không ổn. Tôi đã có tuổi rồi, không thể học hành được nữa. Tôi đã sống bao nhiêu năm nay mà không cần biết đọc, biết viết. Tôi cũng không muốn ngợi ca mình; tự khen là điều không nên. Nhưng tôi không ngại nói rằng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ của mình trong trạng thái mà ý Chúa đã đặt tôi trong đó; cho dù bây giờ tôi có khả năng học được đi chăng nữa, thì tôi cũng không biết là tôi có còn muốn học nữa hay không”. “Trong trường hợp đó, ông Foreman à, tôi e rằng ông sẽ phải ra đi thôi”.
“Vâng, thưa cha, tôi hiểu rất rõ điều đó. Tôi rất vui được làm điều đó, ngay khi cha tìm được người thế chân tôi, tôi sẽ xin nghỉ ngay”. Tuy vậy, khi Albert Edward đóng cửa, với thái độ lễ phép thường lệ, sau lưng cha sở và hai vị uỷ viên quản lý, ông không còn giữ được cái vẻ thản nhiên điềm tĩnh mà ông đã thể hiện lúc đột nhiên ông bị giáng một đòn chí mạng nữa, giờ đây đôi môi ông run lên. Ông chậm rãi quay trở lại phòng áo lễ rồi treo chiếc áo choàng của ông lên đúng cái móc dành cho nó. Ông thở dài não nuột khi ông nghĩ tới những đám tang lớn, những đám cưới sang trọng mà ông đã từng được chứng kiến. Ông thu dọn mọi thứ, khoác áo, tay cầm mũ, rồi bước xuống lối đi giữa hai hàng ghế. Đoạn ông khoá trái cửa nhà thờ sau lưng ông. Ông đi bộ ngang qua quảng trường, nhưng giữa những ngổn ngang, suy nghĩ buồn rầu, ông đã không đi theo con đường dẫn ông về nhà, nơi có ấm trà đặc, thơm nóng, đang chờ đợi ông, ông đã rẽ nhầm đường. Ông chậm rãi bước dọc theo dãy phố. Trái tim ông nặng trĩu. Ông không biết rồi đây ông sẽ làm gì với chính bản thân ông nữa. Ông không thể hình dung nổi cái ý nghĩ quay trở lại cuộc sống gia đình; sau khi ông làm chủ bản thân ông trong bao nhiêu năm ấy, bởi vì cho dù vị cha sở và các uỷ viên quản lý có thể nói những gì họ muốn đi chăng nữa, nhưng chính ông mới là người thực sự điều hành Nhà thờ Thánh Peter, Quảng trường Neville, cho nên ông khó có thể hạ mình bằng cách chấp nhận tình trạng như vậy. Ông đã tiết kiệm được một món tiền kha khá, nhưng không đủ để cứ dựa vào đó mà sống không cần làm gì cả, trong khi giá sinh hoạt dường như mỗi năm một đắt đỏ hơn. Trước kia ông chưa bao giờ phải bận tâm suy nghĩ đến những vấn đề như vậy. Các thầy quản Nhà thờ Thánh Peter, giống như những đức giáo hoàng của Thành Roma, là những người phụng sự Chúa tại vị suốt đời. Ông vẫn thường mường tượng ra cái cảnh cha sở nhắc đến công lao lâu năm, trung thành và tính cách gương mẫu của ông quản nhà thờ quá cố của họ, ông Quản Albert Edward Foreman, trong bài giảng đạo tại buổi lễ ban chiều ngày Chúa nhật đầu tiên sau khi ông qua đời. Ông lại thở dài não nuột.
Albert Edward là người không hay hút thuốc lá, đồng thời cũng là người tuyệt đối không uống rượu, nhưng chỉ trong một phạm vi nào đó thôi, có nghĩa là ông cũng thích có một cốc bia trong bữa cơm chiều, và khi nào thấm mệt, ông cũng tự cho phép mình được thưởng thức một điếu thuốc lá. Chính lúc này đây, một điếu thuốc có thể an ủi ông, có thể làm cho ông cảm thấy khuây khỏa, mà ông lại không đem theo thuốc bên mình, cho nên ông nhìn quanh xem có hiệu bán thuốc lá nào không để ông mua một bao Gold Flake. Nhưng ông không tìm ra được một cửa hiệu nào gần đó, và vì thế ông lại tiếp tục đi xa hơn chút nữa. Đó là một dãy phố dài, có đủ các loại cửa hàng, cửa hiệu, nhưng tuyệt nhiên không hề có một hiệu nào bán thuốc lá cả.
“Lạ thật!”, Albert Edward thầm thốt lên. Để bảo đảm cho chắc chắn, ông đi đi lại lại dọc suốt dãy phố ấy một lần nữa. Không, không còn nghi ngờ gì nữa về chuyện này. Ông dừng bước, vừa nhìn quanh vừa suy nghĩ. “Mình không thể là người duy nhất đi dọc con đường dài ngoẵng này muốn có được một điếu thuốc để hút”, ông tự nhủ. “Mình chẳng cần phân vân, hồ nghi gì, nhưng chắc chắn người nào có được một cửa hiệu nho nhỏ ở đây thì kiếm tiền phải biết. Chỉ cần bán thuốc lá và bánh kẹo thôi”. Ông chợt giật mình. “Đó là một ý nghĩ hay”, ông tự nhủ. "Thật lạ là những ý tưởng hay thường nảy ra trong óc ta khi ta ít ngờ tới nhất”. Ông quay gót, trở về nhà uống trà. “Chiều nay, mình có vẻ trầm ngâm, ít nói, Albert”, vợ ông nhận xét. “Mình đang suy nghĩ”, ông đáp.
Ông cân nhắc, cứu xét đủ mọi góc cạnh của vấn đề, rồi ngày hôm sau ông lại đi dọc theo dãy phố ấy một lần nữa, và may mắn thay, ông tìm thấy một cửa hiệu nhỏ cho thuê, đúng như mong muốn, trong kế hoạch của ông. Hai mươi bốn giờ sau, ông thuê luôn cửa hiệu đó, và một tháng sau ông vĩnh viễn rời Nhà thờ Thánh Peter, Quảng trường Neville. Albert Edward Foreman mở cửa hiệu kinh doanh thuốc lá và bán báo. Vợ ông cho rằng đó là một bước sa cơ, xuống dốc dễ sợ, sau khi đã làm quản Nhà thờ Thánh Peter, nhưng ông đáp ta phải chuyển biến theo thời cuộc, “thời thế, thế thời, thời phải thế”, nhà thờ ngày nay không còn như xưa nữa, và do đó, của thiên ta phải trả địa thôi. Albert Edward làm ăn rất phát đạt. Ông kiếm được nhiều tới mức sau một năm gì đó, ông chợt nảy ý nghĩ ông có thể thuê thêm một cửa hiệu nữa và mướn người quản lý. Ông tìm kiếm một đường phố dài khác mà không có một hiệu bán thuốc lá nào, và khi đã tìm được rồi, với một cửa hiệu cho thuê, ông thuê liền và mở cửa hàng bán luôn. Cửa hiệu này cũng thành công. Rồi ông lại chợt nảy ý nghĩ, nếu ông có thể quản hai cửa hiệu, thì chắc hẳn ông cũng có thể quản nửa tá cửa hàng, và thế là ông bắt đầu cuộc săn lùng khắp thủ đô Luân-Đôn; bất cứ khi nào ông thấy có một đường phố dài, không có cửa hàng bán thuốc lá, lại có cửa hiệu cho thuê là ông thuê liền. Trong vòng mười năm, ông đã mở có đến một chục cửa hiệu, và công việc kinh doanh của ông hái ra tiền. Cứ mỗi sáng thứ hai hàng tuần, ông lại làm một vòng tới các cửa hiệu của ông, để thu gom số tiền kiếm được trong tuần, rồi đem gửi nhà băng.
Một buổi sáng, khi ông tới ngân hàng để gửi tiền gồm một bọc toàn tiền giấy và một túi nặng đựng toàn tiền đồng, thì người thủ quỹ nói giám đốc ngân hàng muốn gặp ông. Ông được dẫn vào văn phòng và viên giám đốc bắt tay ông. “Ông Foreman, tôi muốn trao đổi với ông về số tiền ông gửi tại ngân hàng chúng tôi. Ông có biết chính xác số tiền đó lên đến bao nhiêu rồi không?” “Không chính xác tới từng đồng, thưa ông, nhưng tôi cũng có thể ang áng tổng số tiền ấy của tôi là bao nhiêu”. “Không kể số tiền ông gửi sáng nay, thì tổng số lên tới hơn ba mươi ngàn bảng Anh rồi. Đó là một khoản tiền rất lớn ký gửi tại ngân hàng; tôi thiết nghĩ ông nên đem số tiền đó đưa vào đầu tư thì hơn”. “Tôi không muốn liều lĩnh chuốc lấy rủi ro, thưa ông. Tôi biết cứ gửi ngân hàng là an toàn hơn cả”.
“Ông không việc gì phải lăn tăn, lo lắng gì hết. Chúng tôi sẽ chuyển cho ông một danh mục liệt kê toàn những cổ phiếu tuyệt đối an toàn. Chúng sẽ đem lại cho ông một lãi suất cao hơn ngân hàng chúng tôi có thể trả cho ông”. Một thoáng bối rối hiện trên khuôn mặt quắc thước của ông. “Tôi chưa bao giờ giao dịch có dính dáng đến cổ phiếu với chứng khoán cả; tôi xin gửi gắm tất cả trong tay các ông”, ông nói. Viên giám đốc ngân hàng mỉm cười. “Chúng tôi xin lo liệu mọi thứ, ông đừng lo. Tất cả những gì mà ông phải làm lần sau ông tới là chỉ phải ký vào các giấy chuyển khoản mà thôi”. “Tôi có thể làm điều đó được thôi”, Albert nói, giọng không quả quyết lắm. “Nhưng làm thế nào tôi biết được là tôi ký những giấy tờ gì?”
“Tôi cho rằng hẳn ông phải biết đọc chứ”, viên giám đốc ngân hàng nói, có vẻ hơi sẵng giọng một chút. Ông Foreman mỉm nụ cười hiền hòa, xoa dịu. “Vâng, thưa ông, chính thế đấy. Vấn đề là ở chỗ ấy đấy. Tôi không biết đọc. Tôi biết, chuyện này nghe có vẻ hơi khôi hài, nhưng thực tế là như vậy đấy. Tôi không biết đọc mà cũng chẳng biết viết, chỉ ký mỗi tên tôi thôi, mà tôi cũng chỉ học ký mỗi tên tôi khi tôi bước vào kinh doanh”. Viên giám đốc ngạc nhiên tới mức ông ta nhổm ngay dậy khỏi ghế ông ta đang ngồi. “Đây là chuyện lạ đời nhất mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ”. “Ông thấy đấy, thưa ông, vấn đề là như thế này, tôi không có cơ hội được học hành cho tới khi đã quá muộn và rồi tôi cũng không muốn học nữa. Tôi có hơi cứng đầu cứng cổ, bướng bỉnh tí chút thôi”.
Viên giám đốc trân trân nhìn ông, như thể ông là một con quái vật thời tiền sử vậy. “Ý ông muốn nói rằng ông đã xây dựng cả cái cơ ngơi kếch xù này, gom góp được cả một gia tài ba mươi ngàn bảng Anh, mà lại không biết đọc biết viết gì, có đúng thế không ạ? Lạy Chúa lòng lành, ông ơi, nếu như ông biết đọc, biết viết thì giờ đây ông đã làm nên đến gì rồi nhỉ?”.
“Tôi có thể trả lời cho ông biết ngay, thưa ông”, ông Foreman nói, mỉm nụ cười trên khuôn mặt vẫn còn nét quý tộc của ông. “Tôi sẽ làm thầy quản giáo đường của Nhà thờ Thánh Peter, Quảng trường Neville, thế thôi!”
ĐIỀN THANH (dịch từ nguyên bản tiếng Anh truyện ngắn nhan đề The Verger) . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Thu Mar 15, 2018 8:04 am | |
|
ÔNG LÃO BÊN CẦU Ernest Hemingway (Nobel 1954)
Một ông lão đeo đôi kính gọng thép với áo quần đầy bụi ngồi bên vệ đường. Một chiếc cầu nổi bắc qua sông và xe chở hàng, xe tải, và đàn ông, đàn bà và trẻ con đang vượt qua. Mấy chiếc xe lửa chở hàng lắc lư trườn lên bờ dốc khi qua khỏi cầu có binh lính bắt tay vào căm xe phụ đẩy hộ. Những chiếc xe tải chuyển bánh rồi rít ken két thoát chạy lăn phía trước. Những người nông dân lê chân trong bụi đất ngập đến mắt cá. Nhưng ông lão vẫn ngồi đấy, không nhúc nhích. Lão quá mệt mỏi, không thể nào đi tiếp.
Nhiệm vụ của tôi là băng qua cầu, trinh sát tình hình đầu cầu bên kia và do thám bước tiến của quân địch. Tôi hoàn thành công tác rồi quay về. Bấy giờ chỉ còn vài chiếc xe ngựa và một ít người đi bộ, nhưng ông lão ở đó, vẫn nguyên đó. - Bác từ đâu đến? - tôi hỏi lão. - Lão từ San Carlos, - lão đáp và mỉm cười. Đó là làng quê của lão và vì thế lão cảm thấy vui khi nhắc đến tên quê và lão mỉm cười. - Lão chăn loài vật, - ông lão giải thích. - Ờ - tôi nói, mà chưa hiểu gì mấy. - Ừ - lão nói, - Lão ở lại, anh biết không, là để chăn loài vật. Lão là người cuối cùng rời làng San Carlos. Trông ông lão chẳng có vẻ gì là người chăn cừu hoặc nuôi gia súc và tôi nhìn bộ đồ đen lem luốt với khuôn mặt xám bẩn bụi đường cùng đôi kính gọng thép của lão mà nói: - Chúng thuộc loại nào? - Nhiều loại, lão trả lời, và lắc đầu. - Lão đành phải để chúng lại.
Tôi canh chừng chiếc cầu và miền đồng bằng châu thổ Ebro trông hệt như cảnh ở châu Phi và tự hỏi chẳng biết còn bao lâu nữa đây chúng tôi mới nhìn thấy quân thù và mải miết lắng tai nghe ngóng những tiếng động đầu tiên báo hiệu sự cố đầy huyền bí được gọi là giáp mặt, và ông lão vẫn ngồi đó.
- Chúng là những loại nào? tôi hỏi. - Có ba loại cả thảy, - ông lão giải thích, - Có hai con dê và một con mèo và có cả bốn cặp bồ câu. - Và bác đã phải bỏ chúng lại? - tôi hỏi. - Ừ. Bởi vì pháo. Ông đại úy bảo lão phải đi bởi vì pháo mà. - Còn bác không có gia đình à? - tôi vừa hỏi vừa nhìn xem phía bên kia cầu nơi một vài chiếc xe ngựa cuối cùng đang vội vã xuống dốc bến. - Ừ. - Lão đáp, - chỉ là sống với mấy con vật mà lão đã kể. Giống mèo thì dĩ nhiên ổn thôi. Con mèo thì có thể tự xoay xở lấy. Nhưng lão không biết điều gì sẽ xảy ra với những con khác. - Bác theo phái nào? - tôi hỏi. - Lão thì không có chính kiến, - lão đáp. - Lão đã bảy mươi sáu rồi. Lão đã đi được mười hai cây số rồi và bây giờ lo nghĩ mình có thể không đi nổi nữa. - Chỗ này chẳng an toàn gì mà dừng chân, - tôi nói. - Nếu bác còn ráng được thì hãy còn mấy chiếc xe tải trên chỗ con đường rẽ vế hướng Tortosa. - Lão chờ một lát nữa, - lão nói, - và rồi lão sẽ đi. Những chiếc xe tải đi đâu? - Đến Barcelona, - tôi nói lão. - Lão không biết ai ở mạn đó, - lão nói, - nhưng cảm ơn anh rất nhiều. Một lần nữa cảm ơn anh rất nhiều.
Lão lơ đãng và mệt mỏi nhìn tôi, rồi nói như chia sẻ nỗi lo với người khác: - Lão đoán chắc con mèo thì sẽ ổn thôi. Chẳng cần phải lo cho nó. Nhưng còn những con khác. Anh nghĩ gì về những con khác? - Có sao đâu, chúng rồi cũng sẽ ổn thôi. - Anh nghĩ như vậy sao? - Sao lại không, - tôi vừa nói vừa nhìn sang bờ bên kia, nơi ấy bây giờ chẳng còn một chiếc xe nào nữa. - Nhưng chúng sẽ làm gì dưới tầm đạn pháo khi mà người ta bảo lão phải rời đi cũng vì pháo kích? - Bác có mở cửa chuồng bồ câu ra không, - tôi hỏi. - Có. - Thì chúng sẽ bay đi. - Ừ, chắc là chúng sẽ bay. Nhưng còn những con khác. Tốt hơn là đừng nghĩ đến những con khác, - lão nói. - Nếu bác lại sức rồi thì cháu đi đây, - tôi giục. - Bác đứng dậy và cố đi ngay đi. - Cảm ơn, - lão nói và co chân gượng đứng dậy, lảo đảo và rồi lại ngồi bệt xuống giữa bụi bặm. - Lão chỉ chăn loài vật, - lão buồn bã nói, nhưng là không còn nói với tôi: - Lão chỉ chăn loài vật.
Không còn gì làm lão lay chuyển. Hôm ấy là ngày Chủ nhật Phục sinh. Quân phát xít đang tiến về Ebro. Đó là một ngày dự báo thời tiết u ám trời thấp vì thế máy bay của chúng không cất cánh. Sự kiện ấy cùng với việc giống mèo biết cách tự lo liệu được là điều thật sự may mắn mà ông lão có thể trước nay chưa từng có. .
| |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Tue Apr 03, 2018 5:15 pm | |
| .
Bữa ăn trưa W. Somerset Maugham (Anh)
Tôi gặp lại bà ta trong một buổi đi xem diễn kịch. Bà đưa tay ngoắc tôi và tôi đến ngồi bên cạnh bà trong giờ nghỉ diễn xuất giữa hai màn. Đã lâu lắm, tôi mới gặp lại bà, và nếu không ai nhắc cho tôi nhớ tên, chắc tôi không nhận ra bà ta. Bà nói với tôi thật lưu loát: - Đã bao năm rồi chúng ta mới lại gặp nhau. Thời gian vun vút như tên bay. Chẳng mấy chốc mà cả hai chúng ta đều chẳng ai còn trẻ nữa. Ông bạn còn nhớ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau không? Lần ông mời tôi ăn trưa ấy mà.
Làm sao tôi quên được nhỉ? Cách đây hai mươi năm, hồi ấy tôi còn ở Paris. Tôi có một căn gác xép ở xóm Latin, nhìn xuống một nghĩa trang, và lương tháng của tôi chỉ vừa đủ để sống qua ngày. Bà ta đọc một quyển sách của tôi mới vừa xuất bản, và viết thư cho tôi nói về quyển sách ấy. Tôi trả lời để cám ơn bà, và lại nhận của bà một cái thư nữa, báo tin hiện bà đang ghé lại Paris và mong muốn được gặp tôi để trao đổi một vài ý kiến, nhưng thì giờ của bà không được rộng rãi, nên bà chỉ rảnh vào ngày thứ năm; buổi sáng ngày ấy bà dự định đi viếng Luxembourg và hy vọng sau đó tôi sẽ mời bà ăn một bữa cơm đạm bạc tại khách sạn Foyot. Foyot là một khách sạn mà các Thượng nghị sĩ Pháp thường đến ăn, và quá sang trọng đối với túi tiền của tôi, nên chưa bao giờ tôi dám nghĩ đến chuyện ăn tại đó. Nhưng tôi đang được bốc thơm và còn quá trẻ để biết nói tiếng "không" với một người đàn bà. (Tôi có thể thêm: ít người đàn ông biết nói tiếng ấy, trừ khi họ đã quá già, nhưng khi ấy thì dù có nói gì với đàn bà cũng chẳng còn quan hệ gì nữa). Tôi còn được tám mươi phật-lăng (tiền vàng) để chi tiêu cho đến hết tháng, và một bữa ăn trưa sơ sài có lẽ không quá mười lăm phật- lăng. Nên tôi cúp bớt món cà phê trong hai tuần, tôi có thể điều chỉnh được các món chi tiêu khác cho đến cuối tháng.
Tôi biên thư cho bà biết là tôi có thể gặp bà tại khách sạn Foyot vào lúc 12 giờ rưỡi ngày thứ năm. Bà ta không trẻ trung như tôi hy vọng và có cái hình dáng đồ sộ hơn là quyến rũ. Bà vào trạc tứ tuần (một cái tuổi đẹp, nhưng không gây được sự đam mê đột ngột và tai hại khi mới gặp lần đầu tiên), bà cho tôi cái ấn tượng là bà có nhiều răng hơn người thường (những chiếc răng thực trắng, lớn và đều đặn). Bà nói chuyện như sanh như sứa, nhưng bởi vì bà đem tôi ra làm đề tài nên tôi sẵn lòng nghe bà nói một cách chăm chỉ.
Tôi hoảng hồn khi đọc thấy giá tiền các món ăn trên tấm thực đơn, vì nó quá cao, so với dự tính của tôi. Nhưng bà ta làm cho tôi vững tâm với câu nói: - Tôi chẳng bao giờ ăn gì nhiều trong bữa ăn trưa. - Ồ, bà đừng nói thế! - Tôi trả lời, tỏ ra rất hào phóng. - Tôi không bao giờ ăn quá một món ăn. Tôi thấy ngày nay người ta ăn uống quá nhiều. Cho tôi một con cá nhỏ thôi. Không biết ở đây họ có cá hồi không.
Tốt! Mùa cá hồi chưa đến và món ấy không thấy có ghi trong bản thực đơn. Nhưng tôi cũng cứ hỏi người bồi bàn xem sao. Trời! Có. Người ta mới đem đến một con rất béo. Đây là con cá hồi đầu mùa mới câu được. Tôi bảo nhà hàng làm cá dọn ngay cho bà khách của tôi. Người bồi hỏi bà muốn dùng gì trong khi đợi món cá. - Không! - Bà trả lời - Tôi không bao giờ dùng quá một món ăn. Nhưng nếu có ca-vi-a (1) anh lấy cho tôi một lọ nhỏ. Có thì tốt, không thì thôi, không quan trọng. Tim tôi như muốn rụng. Tôi biết món ca-vi-a đắt lắm, tôi không kham nổi, nhưng tôi không thể nói như thế với bà ta. Tôi bảo người bồi phải tìm cho có cho bà. Về phần tôi, tôi lựa trên tấm thực đơn một món rẻ tiền nhất, đó là món sườn trừu. - Tôi cho ăn thịt là không khôn ngoan tí nào cả - Bà nói - Tôi không hiểu làm sao ông có thể làm việc được sau khi ăn những thức ăn nặng nề như thịt trừu. Tôi không tin ăn thực no là tốt.
Bây giờ đến vấn đề uống. Bà nói: - Tôi không bao giờ uống rượu trong bữa ăn trưa. Tôi chụp lấy cơ hội, nói ngay: - Tôi cũng vậy. - ... trừ rượu chát trắng - Bà ta nói tiếp như không nghe câu nói của tôi - Rượu chát trắng của Pháp thực tuyệt cho sự tiêu hóa. - Bà thích dùng loại nào? - Tôi hỏi, vẫn với vẻ hiếu khách, nhưng không vồn vã lắm. Bà nhe răng trắng cười thân thiện với tôi : - Bác sĩ của tôi không cho uống gì khác ngoài sâm banh. Tôi chắc mặt tôi lúc ấy hơi tái, nhưng tôi vẫn gọi bồi đem ra nữa chai sâm banh. Tôi cho bà biết bác sĩ cấm tuyệt tôi uống sâm banh. - Vậy ông uống gì nào? - Nước trắng thôi.
Bà ta ăn ca-vi-a; rồi lại ăn cá hồi. Bà vui vẻ bàn về nghệ thnật, về văn chương và âm nhạc. Trong khi ấy, đầu óc tôi cứ loay hoay tự hỏi không biết cái hóa đơn lên đến bao nhiêu tiền rồi. Khi món sườn trừu đem lên cho tôi, bà ta bảo một cách tỉnh bơ đưa cho bà nếm thử với. - Tôi thấy ông có thói quen ăn no bữa trưa. Tôi cho như vậy là không hợp vệ sinh. Tại sao ông không theo gương tôi, chỉ ăn một món thôi? Tôi cam đoan là ông sẽ cảm thấy khỏe khoắn lắm. - Tôi đang bắt đầu tập ăn một món đây. - Tôi trả lời trong khi người bồi bàn lại đem tấm thực đơn đến.
Với cái cử chỉ rất kiểu cách, bà xua tay bảo anh ta đứng xê ra một bên, nói : - Thôi! Thôi! Tôi ăn trưa ít ỏi lắm. Tôi không bao giờ ăn nhiều hơn thế này. Vả lại, tôi ăn để có dịp nói chuyện mà thôi. Tôi không thể ăn gì thêm được nữa, ngoại trừ nếu ở đây có loại măng tây thứ lớn. Sẽ đáng tiếc lắm, nếu tôi rời Paris mà không được nếm thứ măng ấy. Tim tôi rụng mất rồi! Tôi có thấy loại măng ấy trong các tiệm bán thực phẩm và tôi biết nó đắt kinh khủng. Cho nên đã bao lần, tôi đành nhìn nó mà nuốt nước bọt thôi. - Bà bạn tôi muốn biết ở đây có măng tây thứ bự không? Tôi hỏi người bồi bàn và cầu nguyện thánh thần cho anh ta nói không có. Anh ta nở một nụ cười toét ra tận mang tai, vẻ mặt hoan hỉ như một vị tu hành đắc đạo, bảo đảm với tôi là nhà hàng có thứ măng tây thức bự, thực mềm, thực ngon lành không đâu bằng. Bà bạn tôi thở ra, như buộc lòng phải nhân nhượng : - Tôi thấy đủ lắm rồi, nhưng nếu ông nài ép tôi, tôi cũng chìu ông mà ăn thêm mấy cọng. Tôi bảo anh bồi đem măng cho bà. - Ông cũng dùng với tôi chứ? - Xin lỗi bà, tôi không bao giờ ăn măng tây. - Tôi biết nhiều người không thích nó. Sự thực là vì họ quen ăn nhiều thịt, nên làm hư hết vị giác.
Trong khi ngồi đợi món ăn dọn lên, sự kinh hãi chiếm lấy tôi. Bây giờ không còn là vấn đề tôi sẽ còn lại được bao nhiên sau bữa ăn này để chi tiêu trong tháng, nhưng là vấn đề tôi có đủ tiền để trả bữa ăn không. Tôi sẽ độn thổ, nếu tôi thiếu mất độ mười quan chẳng hạn, buộc lòng phải mượn bà khách quý của tôi. Nhưng tôi sẽ không hạ mình làm như thế đầu. Tôi biết rõ số tiền tôi có trong túi, nên tôi định bụng nếu thấy số tiền trong hóa đơn lớn hơn, tôi sẽ giả vờ thọc tay vào túi và giựt mình kêu lên một tiếng bi thảm, bảo là bị cắp mất ví tiền. Tất nhiên sự bố trí như vậy cũng có phần nguy hiểm trong trường hợp là bà khách cũng không có đủ tiền để trả. Lúc ấy thì chỉ còn có một nước là tôi sẽ gởi tạm chiếc đồng hồ đeo tay lại và về lấy tiền đem đến trả sau.
Món măng tây được mang lên. Những đọt măng thực bụ bẫm, thực ngon lành! Mùi bơ chiên bốc lên, kích thích hai lỗ mũi tôi, như mũi của Jehovah được kích thích bởi mùi cháy khét của da thịt những nữ đồng trinh trong lễ hy sinh tế thần. Tôi nhìn người đàn bà tham ăn tham uống ấy bỏ những miếng măng thực bự vào mồm và nuốt ừng ực một cách khoái trá, còn tôi, với cái điệu bộ rất là nhã nhặn, thanh tao, đang ngồi thuyết trình về vấn đề kịch nghệ ở xứ Balkans.
Rồi! Bà ta đã ăn xong. - Cà phê nhé? - Tôi đề nghị. - Vâng, một ly kem và cà phê. Bây giờ tôi không thèm lo lắng nữa vì đã quá sức rồi. Tôi bảo bồi đem cà phê cho tôi, và kem và cà phê cho bà. - Ông biết không, có một điều mà tôi cho là rất đúng, - Bà ta nói trong khi ăn kem - là đừng ăn quá no. Làm sao cho mình khi rời khỏi bàn ăn, vẫn có cảm tưởng là mình còn có thể ăn thêm một ít nữa. - Ủa! Bà còn đói sao? - Tôi vờ hỏi. - Ồ không, tôi không đói đâu! Ông thấy đấy, tôi đâu có ăn trưa. Buổi sáng, tôi uống một tách cà phê, cho đến tối tôi mới ăn cơm. Bữa trưa tôi không bao giờ ăn quá một món. Tôi nói là nói cho ông đấy chứ! - Vâng, tôi thấy rõ lắm.
Rồi một sự kinh khủng hiện ra. Trong khi chúng tôi đang đợi cà phê, thì người quản lý, với một nụ cười nịnh trên bộ mặt đóng kịch của anh ta, tiến về phía chúng tôi, tay xách một giỏ những quả lê thực lớn. Chúng có cái màu ửng hồng như gò má cô gái trong trắng ngây thơ, chúng có cái màu sắc đậm đà, giàu có như một bức tranh phong cảnh Ý Đại Lợi. Nhưng mùa lê đâu đã đến kia? Và giá nó đắc đến bao nhiêu, chỉ có trời mới biết được. Nhưng một lát sau đó, tôi cũng biết được, vì bà khách quý của tôi, trong khi đang say sưa trò chuyện, đã vô tình nắm lên một trái. - Ông bạn thấy chưa. Ông chất đầy bụng những thịt và thịt - Bã muốn nói đến món sườn khốn khổ của tôi - và bây giờ ông không thể ăn gì thêm được nữa. Tôi thì chỉ ăn qua loa, nên bây giờ tôi có thể nếm thêm mùi vị một quả lê nữa.
Hóa đơn đưa đến. Khi trả tiền xong xuôi, tôi nhận thấy không còn đủ tiền để trả một vòng xe. Đôi mắt bà khách nhìn xuống ba phật- lăng tôi để lại cho người bồi bàn, và tôi chắc bà ta tưởng tôi keo kiết lắm. Bà đâu có ngờ khi tôi bước ra khỏi tiệm ăn, trong túi tôi không còn lấy một cắc với cái viễn ảnh còn gần cả một tháng phải chi tiêu. - Ông bạn nên theo gương tôi, - Bà nói trong khi bắt tay từ giã - đừng bao giờ ăn trưa quá một món. - Tôi sẽ làm hơn thế nữa kia - Tôi trả lời đốp chát - Tối nay tôi sẽ nhịn ăn luôn. - Hài hước! Ông bạn thật đúng là con người hài hước! Bà ta vui vẻ nói lớn trong khi bước lên tắc xi.
Nhưng ít ra tôi cũng đã được trả thù. Tôi không phải là con người hay thù oán, nhưng không lẽ bạn không cho phép tôi được sung sướng mãn nguyện khi nhìn thấy rõ cái hậu quả mà trời đất thánh thần đã trừng phạt bà ta dùm tôi sao? Bà ta bây giờ cân nặng ít ra là 130 kí.
-------------- (1) Trứng cá ướp muối.
| |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Mon Apr 09, 2018 3:05 pm | |
| . Văn hào Vladimir Nabokov - Ảnh: internet
“Cơn Giông” là một trong các tác phẩm Nabokov, văn hào Mỹ gốc Nga, viết trong thời kỳ ông còn sáng tác bằng tiếng Nga, và được đăng lần đầu trên báo Đỵíÿ (Hôm Nay) vào ngày 28 tháng 9 năm 1924. Sau này, nó được Dmitri Nabokov, con trai tác giả, dịch lại qua tiếng Anh và đăng trong một số tuyển tập truyện ngắn nổi tiếng của Nabokov. Bản dịch dưới đây được dịch giả Thiên Lương, người từng dịch Lolita, thực hiện từ bản gốc tiếng Nga.
Mặc dù được sáng tác từ khi tác giả còn rất trẻ (25 tuổi), nhưng “Cơn Giông” đã báo hiệu cho sự xuất hiện của một trong những nhà văn vĩ đại nhất của nhân loại. Bằng lối viết đầy hình ảnh với các câu văn chặt chẽ, logic, nhiều tầng nghĩa, Nabokov đã đưa người đọc vào một thế giới huyền ảo rực rỡ ánh sáng, đầy ắp âm thanh, nửa thực nửa hư. Đã gần một trăm năm trôi qua từ khi tác phẩm xuất hiện lần đầu tiên, nhưng các nhà phê bình và độc giả vẫn tìm thấy trong tác phẩm chỉ dài chưa đến chín trăm chữ tiếng Nga này những điều mới lạ của một thế giới bất tử, thế giới của Vladimir Nabokov.
Cơn giông Vladimir Nabokov (Mỹ gốc Nga)
Nơi góc phố, dưới vòm hoa đoan, một mùi hương ngào ngạt quấn lấy tôi. Những tảng sương mù đồ sộ dâng lên trên trời đêm, và khi khoảnh sao cuối cùng bị nuốt chửng, thì ngọn gió mù lòa, che mặt bằng tay áo, lùa thấp theo phố vắng. Trong bóng tối nhập nhoạng, trên cánh cửa sắt của tiệm cắt tóc, một chiếc khiên treo - chiếc thau vàng - chao như quả lắc.
Về đến nhà, tôi bắt gặp ngọn gió đã đợi trong phòng: nó sập mạnh khung cửa sổ - và vội vã thốc ngược lại khi tôi khép cánh cửa sau lưng mình. Dưới cửa sổ phòng tôi có cái sân trong sâu hun hút, nơi đó, ban ngày, những chiếc sơ mi, bị đóng đinh trên các dây phơi rực nắng, tỏa sáng xuyên qua các bụi tử đinh hương và từ dưới ấy thỉnh thoảng lại vọng lên những tiếng sủa sầu muộn - giọng mấy người thu mua đồng nát ve chai; - ứ-ứ, - cây vỹ cầm tàn tật nức nở; và, có lần, một phụ nữ tóc vàng béo ú tới, đứng ngay giữa sân, hát hay đến nỗi các cô hầu, cúi cần cổ trần, nhoài cả người ra ngoài mọi cửa sổ, - sau đó, khi chị ta ngưng hát, mọi thứ trở nên yên lặng khác thường; - chỉ nghe tiếng bà chủ nhà tôi, một mụ góa lôi thôi, đang thổn thức hỉ mũi trong hành lang.
Giờ thì dưới ấy, màn sương u ám ngột ngạt đang trương lên, nhưng kìa, ngọn gió mù lòa, vừa bơ vơ luồn xuống đáy sâu, lại bắt đầu rướn lên trời, và đột nhiên - nó sáng mắt ra, lao vút lên và, trong những hố sâu màu hổ phách bên bức tường đen ngòm đối diện, những bóng tay và bóng tóc tất tả tới lui, bắt lại các khung cửa bay, sầm sập đóng chặt cửa sổ. Các cửa sổ vụt tắt. Và lập tức, trong màn đêm tím thẫm, một tràng âm thanh trầm đục, tiếng sấm xa, bắt đầu vỡ ra, lan rộng. Rồi mọi thứ lại lặng đi, như lúc chị hành khất ngừng hát, siết chặt tay lên bộ ngực đầy.
Tôi thiếp đi trong sự yên ả ấy, lử lả vì vui, một niềm vui mà tôi chẳng thể viết thành lời - và giấc mơ tôi chan chứa bóng hình em.
Tôi bừng tỉnh vì đêm vỡ vụn. Ánh lấp lánh nhợt nhạt, cuồng dại bay ngang bầu trời, tựa chớp hồi quang của chiếc nan hoa vĩ đại. Hết tiếng sét này đến tiếng sét khác xé toạc bầu trời. Mưa rơi rào rạt nơi nơi.
Tôi say những rung động xanh nhờ ấy, cái lạnh nhẹ buốt ấy. Tôi bước lên bậu cửa sổ ướt đẫm, hít không khí siêu phàm, nó làm tim tôi ngân lên, như kính.
Càng lúc càng gần hơn, càng lúc càng kỳ vĩ hơn, cỗ mã xa của nhà tiên tri rền vang theo những áng mây. Ánh sáng của sự điên rồ, của những ảo cảnh nhức mắt, rọi tỏ cõi đêm, những mái dốc kim loại, những bụi tử đinh hương cuống cuồng chạy trốn. Thần sấm, một ông khổng lồ tóc bạc, với bộ râu bão táp bị gió vắt ngược qua vai, mặc bộ lễ phục phấp phới chói ngời, đứng, ngả người về phía sau, trong cỗ mã xa ngùn ngụt cháy của mình, gồng tay ghìm lũ chiến mã khổng lồ, lông đen huyền, bờm rực lửa tím. Chúng lao vùn vụt, chúng phì bọt lóng lánh đì đùng, cỗ mã xa nghiêng ngả, và nhà tiên tri bối rối ghì dây cương mà chẳng ăn thua. Gương mặt ông bị méo đi bởi gió và sự căng thẳng; cơn lốc, thổi tung các nếp lễ phục, lột trần đầu gối vạm vỡ, - lũ chiến mã, tung bờm rực lửa, bay - mỗi lúc mỗi hăng - thấp dần, thấp dần theo những áng mây. Và đây, với những tiếng sấm ầm ì, chúng tung vó qua một nóc nhà sáng bóng, cỗ mã xa liệng đi, Elijah loạng choạng, và lũ chiến mã, điên lên bởi đụng phải chất kim loại phàm trần, nhào ngược lên trời. Nhà tiên tri bị quăng ra ngoài. Một bánh xe văng đi. Từ cửa sổ nhà mình, tôi thấy cái vành khổng lồ rực lửa của nó lăn theo mái nhà, chệnh choạng tại bờ mái, và nhảy vào bóng tối lờ mờ. Còn lũ chiến mã, kéo lê theo chúng cỗ mã xa bị lật nhào, nảy tưng tưng, đã bay nhanh theo những áng mây cao ngất; tiếng rầm rầm tắt dần và ngọn lửa giông lụi tàn trong những vực thẳm tím than.
Thần sấm, vừa rơi lên mái, nặng nề đứng dậy, đôi xăng đan của ông trượt đi; ông đạp chân vỡ cửa tò vò mái nhà, càu nhàu, khoát tay túm lấy ống khói. Chầm chậm quay gương mặt tối sầm lại, ông đưa mắt tìm kiếm thứ gì đó - hẳn là chiếc bánh xe vừa bung khỏi cái trục vàng. Sau đó ông ngước lên, các ngón tay túm chặt bộ râu rối, cáu kỉnh lắc đầu - chắc đây không phải lần đầu chuyện ấy xảy ra - và, hơi tập tễnh, bắt đầu thận trọng leo xuống dưới.
Rời cửa sổ, hấp tấp và hồi hộp, tôi khoác áo choàng và chạy xuống chiếc thang dốc dẫn thẳng đến sân trong. Cơn giông đã qua, nhưng trời còn lất phất mưa. Phương đông ửng màu xanh tái tuyệt đẹp.
Cái sân trong, nhìn từ trên cao thì như thể chìm trong bóng tối đặc quánh, thực ra ngập màn sương mỏng đang tan. Giữa sân, trên bãi cỏ thẫm màu vì ẩm ướt, một ông già gầy guộc, lưng còng vai xo, mặc chiếc áo thụng đẫm nước mưa, đứng lẩm bẩm nói gì đó và nhìn quanh. Trông thấy tôi, ông giận dữ nháy mắt: - Là ngươi hả, Elisha? Tôi cúi đầu. Nhà tiên tri chặt lưỡi, xoa xoa lòng bàn tay lên chỗ hói nâu nâu. - Rớt đâu cái bánh. Tìm cho ta đi.
Mưa đã tạnh. Trên nóc nhà, những đám mây đồ sộ bừng bừng cháy. Xung quanh, trong không trung xanh mờ ngái ngủ, các bụi cây, hàng rào, cái cũi chó lấp lánh lững lờ trôi. Chúng tôi mò mẫm tìm rất lâu khắp các xó xỉnh. Ông già luôn miệng càu nhàu, nâng gấu áo nặng trĩu, lội đôi xăng đan mòn vẹt lõm bõm qua các vũng nước mưa và trên đầu cái mũi to, xương xẩu của ông treo một giọt nước lấp lánh. Gạt nhánh tử đinh hương thấp lè tè, tôi chợt để ý thấy, trên đống rác, giữa kính vỡ, một bánh sắt mỏng, chắc là từ cái xe nôi trẻ con nào đó, ông già thở phào nồng ấm ngay trên tai tôi và hấp tấp, thậm chí hơi thô bạo đẩy tôi qua bên, chộp cái vành han gỉ ấy nhấc lên. Ông nháy mắt vui vẻ bảo tôi: - Thì ra là lăn vào đây… Rồi ông chằm chằm nhìn tôi, nhíu cặp mày bạc, - và như thể chợt nhớ ra điều gì đó, oai nghiêm nói: - Quay mặt đi nào, Elisha. Tôi vâng lời. Thậm chí còn nheo mắt lại. Đứng như vậy được chừng một phút, - và không giữ được lâu hơn.
Sân vắng tanh. Chỉ có con chó già lông xù với cái mõm bạc màu thò đầu ra khỏi cũi và giống như người, ngước đôi mắt nâu sẫm đầy vẻ sợ hãi nhìn lên. Tôi ngẩng đầu. Elijah đã leo lên mái nhà, chiếc vành sắt sáng lờ mờ sau lưng ông. Trên những ống khói đen, một áng mây sừng sững hiện lên như rặng núi loăn xoăn vàng cam, và sau nó là áng thứ hai, thứ ba. Tôi và con chó im bặt ấy đăm đắm dõi theo nhà tiên tri, vừa leo đến đỉnh nóc nhà, bình tĩnh và thong thả đặt chân lên mây và tiếp tục trèo lên trên, nặng nề bước theo ngọn lửa dịu êm.
Nắng rọi vào bánh xe của ông, nó lập tức biến thành chiếc vòng vàng khổng lồ, - và chính Elijah dường như lúc này cũng mặc bộ lễ phục lửa, hòa mình với những ráng mây thiên đường ấy, bước mỗi lúc mỗi cao hơn, cao hơn nữa, cho đến khi biến vào lũng trời rực cháy.
Chỉ đến lúc đó thì con chó già mới cất tiếng sủa khàn khàn ban mai, - và những gợn sóng lăn tăn trên bề mặt sáng chói của vũng nước mưa; làn gió hiu hiu lay động các cây phong lữ đỏ thắm trên ban công, đôi ba cửa sổ tỉnh giấc nồng, - và tôi chạy ra ngoài phố, chân đi đôi dép ngủ kẻ ô ướt sũng, người mặc chiếc áo choàng phai màu, bắt kịp chiếc tàu điện ngái ngủ đầu tiên, vừa chạy vừa khép vạt áo và vừa cười hoài, vừa hình dung, chỉ lát nữa thôi là sẽ tới nhà em và kể em nghe về vụ tai nạn trời đêm ấy, về nhà tiên tri già cáu kỉnh ấy, vừa rơi xuống khoảng sân nhỏ của tôi.
Thiên Lương dịch . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Sun Apr 15, 2018 8:32 am | |
|
Cô Gái Trăm Phần Trăm Hoàn Hảo Haruki Murakami (Nhật)
Một buổi sáng đẹp trời tháng tư, tôi đã nhìn thấy cô gái trăm-phần-trăm-hoàn-hảo trên một phố nhỏ chạy qua khu Harajuku.
Nói thẳng thắn, nàng không đẹp đến mức chim sa cá lặn. Nàng không thu hút sự chú ý một cách đặc biệt. Nàng không diện mốt mới nhất. Trên gáy, tóc nàng còn hơi rối vì giấc ngủ, và nàng thậm chí không còn trẻ trung mơn mởn. Nàng hẳn đã sắp ba mươi tuổi. Người ta không còn có thể gọi nàng hoàn toàn là một "cô gái", mà đã gần như là một "thiếu phụ". Thế nhưng năm mươi mét trước khi đi ngang qua nàng, tôi đã biết: nàng là cô gái trăm-phần-trăm-hoàn-hảo với tôi. Ngay lúc nhìn thấy dáng hình nàng, trái tim tôi đã bắt đầu rung lên như thể đang có động đất, miệng tôi khô đắng lại như đang ngậm đầy cát.
Mỗi người thích một kiểu đẹp của phụ nữ, đồng ý. Một số thích những cô gái có mắt cá chân thật thanh mảnh, những người khác thích những cô mắt to, lại có người chỉ thích những cô tay đẹp, và một số khác lại thích những cô ăn thật chậm, tôi cũng chẳng biết tại sao nữa. Chính tôi cũng có những tiêu chí riêng của mình. Chẳng hạn có lần, ở quán ăn, tôi bị một cái mũi của cô gái ngồi bàn bên cạnh hút hồn.
Chỉ có điều không ai có thể xếp cô gái trăm-phần-trăm-hoàn-hảo vào bất cứ hạng nào hết. Nhất định tôi không sao nhớ nổi mũi của nàng như thế nào. Tôi còn không biết liệu nàng có mũi không nữa. Tôi chỉ nhớ không hẳn là nàng đẹp. Mà lạ.
Tôi đã nói với một người bạn: - Hôm qua tôi vừa nhìn thấy cô gái trăm-phần-trăm-hoàn-hảo. - Phì, trăm-phần-trăm-hoàn-hảo ấy à? Chắc là đẹp lắm, phải không? - Ờ... Cũng không hẳn. - Thế chắc là rất ưa mắt anh? - Tôi không nhớ nữa. Tôi không nhớ mắt nàng ra sao, ngực nàng lớn hay nhỏ, tôi không nhớ gì cả. - Thế thì kỳ quặc đấy. - Kỳ quặc? - Rồi sao? - Người đối thoại với tôi lộ vẻ mệt mỏi - Anh đã làm gì đó chứ, đã nói chuyện với cô ta, hay đi theo cô ta chẳng hạn? - Không, tôi chỉ đi qua bên cạnh nàng thôi.
***
Nàng đi từ đông sang tây, còn tôi từ tây sang đông. Đó là một buổi sáng tháng tư dễ chịu.
Nhẽ ra tôi phải thích trò chuyện với nàng, dù chỉ trong nửa giờ đồng hồ. Nhẽ ra tôi phải hỏi han nàng, nói về tôi với nàng. Và nhất là, nhẽ ra tôi phải thích nói về những bất trắc của số phận đã khiến chúng tôi bắt gặp nhau vào một buổi sáng đẹp trời tháng Tư năm 1981 trên một phố nhỏ khu Harajuku. Một cuộc gặp như thế hẳn là phải dồn nén một bí mật nào đó, một cỗ máy cũ kỹ sinh ra từ thời thế giới còn sống trong hoà bình.
Sau khi trò chuyện một lúc, nhẽ ra chúng tôi phải đi ăn trưa với nhau, rồi đi xem một bộ phim của Woody Allen, sau đó đi uống cocktail ở quầy bar một khách sạn nào đó. Rồi... ai mà biết được, nếu như may mắn, thậm chí tôi còn có thể được ngủ với nàng.
Rất nhiều khả năng đến gõ cửa trái tim tôi. Chúng tôi chỉ còn cách nhau chừng mười lăm mét. Phải làm cách nào để tiếp cận nàng bây giờ? - Xin chào, cô có thể cho tôi nửa giờ đồng hồ để trò chuyện không? Lố bịch. Kiểu đại lý bảo hiểm. - Xin thứ lỗi, cô có biết cửa hàng giặt nào gần đây không? Lố bịch gần bằng. Thậm chí tôi còn không mang theo túi đựng quần áo bẩn. Ai tin được một lời đùa cợt như thế?
Có lẽ tốt hơn hết là đi thẳng vào vấn đề: - Xin chào. Với tôi, cô là cô gái trăm-phần-trăm-hoàn-hảo. Không, sẽ không được đâu. Nàng sẽ không tin tôi. Và ngay cả nếu tin, có lẽ nàng cũng sẽ không muốn nói chuyện với tôi. Nàng sẽ trả lời: Có thể với anh, tôi là cô gái trăm-phần-trăm-hoàn-hảo; nhưng với tôi, anh không phải là chàng trai trăm-phần-trăm-hoàn-hảo, tôi rất tiếc. Rất nhiều khả năng mọi việc sẽ xảy ra như thế. Và nếu nàng trả lời tôi như vậy, tôi tin mình sẽ vô cùng bối rối. Tôi sẽ không bao giờ gượng dậy nổi khỏi cơn bẽ bàng đó. Tôi đã ba mươi tuổi, đang già đi rồi.
Chúng tôi đi ngang qua nhau trước một cửa hàng hoa. Tôi cảm thấy một làn không khí nhẹ vờn qua da. Vỉa hè hơi láng nước, có mùi hoa hồng. Không thể nói với nàng được. Nàng mặc một chiếc áo pull trắng và cầm trên tay trái một chiếc phong bì trắng chưa dán tem. Nàng đã viết thư cho ai đó. Vì nàng có vẻ rất mệt mỏi, tôi cho rằng nàng đã thức đêm để viết thư. Có lẽ chiếc phong bì trắng này chứa đựng những bí mật của nàng.
Vài bước sau quay đầu nhìn lại, nàng đã biến mất vào dòng người.
Giờ đây, hiển nhiên là tôi biết chắc nhẽ ra mình nên nói chuyện để tiếp cận nàng. Nhưng vì dù sao chuyện đó cũng có thể kéo rất dài, chắc tôi sẽ không thể nói hết được mọi điều với nàng. Các ý tưởng của tôi luôn thiếu thực tế.
Dù thế nào đi nữa, câu chuyện của tôi cũng sẽ bắt đầu bằng "Ngày xửa ngày xưa" và kết thúc với "Cô không thấy nó buồn quá ư?".
***
Ngày xửa ngày xưa, tại một đất nước nọ, có một chàng thanh niên mười tám tuổi và một cô gái mười sáu tuổi. Họ chỉ là hai con người cô đơn - như rất nhiều người khác. Nhưng mỗi người đều tin rằng ở đâu đó vẫn tồn tại, với chàng là nàng, với nàng là chàng, trăm-phần-trăm-hoàn-hảo, và là một nửa của người kia, sinh ra là để dành cho nhau. Họ là những kẻ tin vào điều kỳ diệu. Và một hôm, điều kỳ diệu đã tới.
Hôm đó, hai người gặp nhau ở một góc phố. - Thật là may mắn! Tôi tìm em từ lâu lắm rồi! Có thể em không tin tôi, nhưng với tôi em là người con gái trăm-phần-trăm-hoàn-hảo!- Chàng thanh niên nói với cô gái. Và cô gái trả lời: - Với em, anh cũng là chàng trai trăm-phần-trăm-hoàn-hảo, anh giống hệt với tưởng tượng của em... Em có cảm giác mình đang ở trong mơ...
Hai người ngồi xuống một ghế đá công viên, cầm tay nhau và nói với nhau, nói mãi không ngừng. Họ không còn đơn độc trong đời nữa. Họ đã tìm thấy một nửa trăm-phần-trăm-hoàn-hảo của mình. Điều đó thật sự tuyệt diệu. Một điều kỳ diệu lớn lao.
Nhưng một niềm nghi ngờ, một niềm nghi ngờ nhỏ len lỏi chạy qua trái tim hai người. Họ tự hỏi mình, rồi hỏi nhau: liệu một giấc mơ có thể thành sự thật dễ dàng đến thế chăng?
Chàng trai đề nghị: - Chúng mình cần được thử thách. Nếu anh và em quả là trăm-phần-trăm-hoàn-hảo với nhau, thì nhất định một ngày nào đó, ở một nơi nào đó, chúng mình sẽ gặp lại nhau. Khi ấy, anh và em sẽ biết chắc chắn là mình thực sự được sinh ra là để dành cho nhau. Chúng mình sẽ làm đám cưới ngay lập tức. Em đồng ý không? - Em đồng ý! - cô gái nói. Và họ chia tay nhau. Một người đi về phía đông, người kia về phía tây.
Cuộc thử thách này thực ra là vô ích, họ chẳng việc gì phải thực hiện nó, bởi vì họ thực sự là trăm-phần-trăm-hoàn-hảo với nhau, và cuộc gặp gỡ của họ quả thực là một điều kỳ diệu của cuộc đời. Nhưng khi ấy, họ còn quá trẻ để có thể hiểu được điều đó. Và những đợt sóng vô tình của số phận đã cuốn lấy họ, đẩy họ xô dạt...
Một mùa đông, hai người ở hai nơi đều mắc bệnh cúm và ốm thập tử nhất sinh, sau nhiều tuần mới khỏi. Nhưng họ không còn nhớ gì về quá khứ nữa. Thật lạ kỳ! Khi thức dậy, đầu họ trống rỗng giống hệt túi tiền của D. H. Lawrence hồi còn trẻ. Nhưng họ là những người thực sự kiên nhẫn và dũng cảm, nhờ cố gắng họ đã khôi phục được trí tuệ và tình cảm để có thể tiếp tục sống trong xã hội. Chúa ơi, họ thật là những con người đáng khen! Họ lại có thể đi tàu điện ngầm, đổi tuyến, gửi thư nhanh, và họ có những kinh nghiệm tình ái hoàn hảo ở mức bảy mươi nhăm phần trăm, có khi đến tám mươi nhăm phần trăm.
Chàng trai đã ba mươi hai tuổi, còn cô gái hai mươi tám. Thời gian trôi nhanh đến không ngờ. Và rồi một hôm, một buổi sáng tháng tư, chàng trai đi từ đông sang tây trên một phố nhỏ khu Harajuku để uống một cốc cà phê buổi sáng, và cô gái đi cùng con đường, nhưng từ tây sang đông, đến bưu điện để gửi một bức thư nhanh. Họ nhìn thấy nhau ở giữa đường. Những ký ức đã bị đánh mất rọi chiếu một ánh sáng nhẹ nhàng vào trái tim họ, làm trái tim họ đập rộn ràng. Và họ biết.
Chàng biết nàng là cô gái trăm-phần-trăm-hoàn-hảo của mình. Nàng biết chàng là chàng trai trăm-phần-trăm -hoàn-hảo của mình.
Nhưng ánh sáng trong trái tim họ sáng lên quá yếu ớt, những suy nghĩ không còn sáng sủa được như mười bốn năm về trước. Họ đi qua nhau không nói một lời và biến mất vào dòng người, mỗi người về một hướng. Và mãi mãi.
Cô không thấy nó buồn quá ư? Nhẽ ra, tôi phải nói với nàng như thế.
Dịch giả: Cao Việt Dũng (Dịch từ bản tiếng Pháp, rút trong tập Con voi biến mất, NXB Seuil, dịch giả Corinne Atlan) | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Fri Apr 20, 2018 12:06 am | |
|
Ba Câu Hỏi Leo Tolstoy (Nga)
Ðó là chuyện ba câu hỏi khó của một nhà vua, do nhà văn hào Leo Tolstoy kể lại.
Nhà vua ấy, Tolstoy không biết tên. Một hôm đức Vua nghĩ rằng, giá mà vua trả lời được ba câu hỏi ấy thì vua sẽ không bao giờ bị thất bại trong bất cứ công việc nào. Ba câu hỏi ấy là: 1. Làm sao để biết được thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc? 2. Làm sao để biết được nhân vật nào là nhân vật quan trọng nhất mà ta phải chú trọng? 3. Làm sao để biết được công việc nào là công việc cần thiết nhất mà ta phải thực hiện?
Nghĩ thế, vua liền ban chiếu ra khắp trong bàn dân thiên hạ, hứa rằng sẽ ban thưởng trọng hậu cho kẻ nào trả lời được những câu hỏi đó. Các bậc hiền nhân đọc chiếu liền tìm tới kinh đô. Nhưng mỗi người lại dâng lên vua một câu trả lời khác nhau.
Về câu hỏi thứ nhất, có người trả lời rằng muốn biết thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc thì phải làm thời biểu cho đàng hoàng, có ngày giờ năm tháng và phải thi hành cho thật đúng thời biểu ấy. Như vậy mới mong công việc làm đúng lúc. Kẻ khác thì lại nói không thể nào dự tính được trước những việc gì phải làm và thời gian để làm những việc ấy; rằng ta không nên ham vui mà nên chú ý đến mọi sự khi chúng xẩy tới để có thể làm bất cứ gì xét ra cần thiết.
Có kẻ lại nói rằng, dù vua có chú ý đến tình hình mấy đi nữa thì một mình vua cũng không đủ sáng suốt để định đoạt thời gian của mọi việc làm một cách sáng suốt, do đó nhà vua phải thành lập một Hội Ðồng Nhân Sĩ và hành động theo lời khuyến cáo của họ. Lại có kẻ nói rằng, có những công việc cần phải lấy quyết định tức khắc không thể nào có thì giờ để tham khảo xem đã đến lúc phải làm hay chưa đến lúc phải làm. Mà muốn lấy quyết định cho đúng thì phải biết trước những gì sẽ xẩy ra, do đó, nhà vua cần phải cần đến những nhà cố vấn tiên tri và bốc phệ.
Về câu hỏi thứ hai, cũng có nhiều câu trả lời không giống nhau. Có người nói những nhân vật mà vua cần chú ý nhất là những ông đại thần và những người trong triều đình. Có người nói là mấy ông Giám Mục, Thượng Tọa là quan hệ hơn hết. Có người nói là mấy ông tướng lãnh trong quân đội là quan hệ hơn hết.
Về câu hỏi thứ ba, các nhà thức giả cũng trả lời khác nhau. Có người nói khoa học là quan trọng nhất. Có người nói tôn giáo là quan trọng nhất. Có người lại nói: chỉnh trang quân đội là quan trọng nhất.
Vì các câu trả lời khác nhau cho nên nhà vua không thể đồng ý với vị hiền nhân nào cả, và chẳng ban thưởng cho ai hết. Sau nhiều đêm suy nghĩ vua quyết định đi chất vấn một ông đạo tu trên núi, ông đạo này nổi tiếng là có giác ngộ. Vua muốn tìm lên trên núi để gặp ông đạo và hỏi ba câu hỏi kia. Vị đạo sĩ này chưa bao giờ chịu xuống núi và nơi ông ta ở chỉ có những người dân nghèo; chẳng bao giờ ông chịu tiếp người quyền quý. Vì vậy mà nhà vua cải trang làm thường dân. Khi đi đến chân núi, vua dặn vệ sĩ đứng chờ ở dưới, và một mình vua, trong y phục một thường dân, vua trèo lên am của ông đạo.
Nhà vua gặp ông đạo đang cuốc đất trước am. Khi trông thấy người lạ, ông đạo gật đầu chào rồi tiếp tục cuốc đất. Ông đạo cuốc đất một cách nặng nhọc bởi ông đã già yếu; mỗi khi cuốc lên được một tảng đất hoặc lật ngược được tảng đất ra thì ông lại thở hào hển.
Nhà vua tới gần ông đạo và nói: "Tôi tới đây để xin ông đạo trả lời giúp cho tôi ba câu hỏi. Làm thế nào để biết đúng thì giờ hành động, đừng để cho cơ hội qua rồi sau phải hối tiếc? Ai là những người quan trọng nhất mà ta phải chú ý tới nhiều hơn cả? Và công việc nào quan trọng nhất cần thực hiện trước tiên?" Ông đạo lắng nghe nhà vua nhưng không trả lời. Ông chỉ vỗ vai nhà vua và cúi xuống tiếp tục cuốc đất.
Nhà vua nói: "Ông đạo mệt lắm rồi, thôi đưa cuốc cho tôi, tôi cuốc một lát". Vị đạo sĩ cám ơn và trao cuốc cho Vua rồi ngồi xuống đất nghỉ mệt. Cuốc xong được hai vồng đất thì nhà vua ngừng tay và lập lại câu hỏi. Ông đạo vẫn không trả lời, chỉ đứng dậy và đưa tay ra đòi cuốc, miệng nói: "Bây giờ bác phải nghỉ, đến phiên tôi cuốc". Nhưng nhà vua thay vì trao cuốc lại cúi xuống tiếp tục cuốc đất.
Một giờ rồi hai giờ đồng hồ đi qua. Rồi mặt trời bắt đầu khuất sau đỉnh núi. Nhà vua ngừng tay, buông cuốc, và nói với ông đạo: "Tôi tới để xin ông đạo trả lời cho mấy câu hỏi. Nếu ông đạo không thể trả lời cho tôi câu nào hết thì xin cho biết để tôi còn về nhà".
Ông đạo nghe tiếng chân người chạy đâu đây bèn nói với nhà vua: "Bác thử xem có ai chạy lên kìa". Nhà vua ngó ra thì thấy một người có râu dài đang chạy lúp xúp sau mấy bụi cây, hai tay ôm bụng. Máu chảy ướt đầm cả hai tay. Ông ta cố chạy tới chỗ nhà vua và ngất xỉu giữa đất, nằm im bất động miệng rên ri rỉ. Vua và ông đạo cởi áo người đó ra thì thấy có một vết đâm sâu nơi bụng. Vua rửa chỗ bị thương thật sạch và xé áo của mình ra băng bó vết thương, nhưng máu thấm ướt cả áo. Vua giặt áo và đem băng lại vết thương. Cứ như thế cho đến khi máu ngừng chảy.
Lúc bấy giờ người bị thương mới tỉnh dậy và đòi uống nước. Vua chạy đi múc nước suối cho ông ta uống. Khi đó mặt trời đã bắt đầu khuất và bắt đầu lạnh. Nhờ sự tiếp tay của ông đạo, nhà vua khiêng người bị nạn vào trong am và đặt nằm trên giường ông đạo. Ông ta nhắm mắt nằm yên. Nhà vua cũng mệt quá vì leo núi và cuốc đất cho nên ngồi dựa vào cánh cửa và ngủ thiếp đi. Vua ngủ ngon cho đến nỗi khi Vua thức dậy thì trời đã sáng và phải một lúc sau Vua mới nhớ ra được mình đang ở đâu và đang làm gì.
Vua nhìn về phía giường thì thấy người bị thương cũng đang nhìn mình chòng chọc, hai mắt sáng trưng. Người đó thấy vua tỉnh giấc rồi và đang nhìn mình thì nói, giọng rất yếu ớt: "Xin bệ hạ tha tội cho thần". "Ông có làm gì nên tội đâu mà phải tha?" "Bệ hạ không biết hạ thần, nhưng hạ thần biết bệ hạ. Hạ thần là người thù của bệ hạ, hạ thần đã thề sẽ giết bệ hạ cho bằng được bởi vì khi xưa, trong chinh chiến bệ hạ đã giết mất người anh của hạ thần và còn tịch thu gia sản của hạ thần nữa". "Hạ thần biết rằng bệ hạ sẽ lên núi này một mình để gặp ông đạo sĩ, nên đã mai phục quyết tâm giết bệ hạ trên con đường về. Nhưng cho đến tối mà bệ hạ vẫn chưa trở xuống, nên hạ thần đã rời chỗ mai phục mà đi lên núi tìm bệ hạ để hành thích. Thay vì gặp bệ hạ, hạ thần lại gặp bốn vệ sĩ. Bọn nầy nhận mặt được hạ thần cho nên đã xông lại đâm hạ thần. Hạ thần trốn được chạy lên đây, nhưng nếu không có bệ hạ cứu thì chắc chắn hạ thần đã chết vì máu ra nhiều quá. Hạ thần quyết tâm hành thích bệ hạ mà bệ hạ lại cứu sống được hạ thần. Hạ thần hối hận quá. Bây giờ đây nếu hạ thần mà sống được thì hạ thần nguyện sẽ làm tôi mọi cho bệ hạ suốt đời, và hạ thần cũng sẽ bắt các con của hạ thần làm như vậy. Xin bệ hạ tha tội cho hạ thần".
Thấy mình hòa giải được với kẻ thù một cách dễ dàng nhà vua rất vui mừng. Vua không những tha tội cho người kia mà còn hứa sẽ trả lại gia sản cho ông ta, và gửi ngự y cùng quân hầu tới săn sóc cho ông ta lành bệnh.
Sau khi cho vệ sĩ khiêng người bị thương về nhà, vua trở lên tìm ông đạo để chào. Trước khi ra về vua còn lặp lại lần cuối ba câu hỏi của vua. Ông đạo đang quỳ gối xuống đất gieo những hạt đậu trên những luống đất đã cuốc sẵn hôm qua. Vị đạo sĩ đứng dậy nhìn vua: "Nhưng ba câu hỏi của vua đã được trả lời rồi mà". Vua hỏi: "Trả lời bao giờ đâu nào?"
"Hôm qua nếu Vua không thương hại bần đạo già yếu mà ra tay cuốc dùm mấy luống đất này thì khi ra về nhà vua đã bị kẻ kia mai phục hành thích mất rồi, và nhà Vua sẽ tiếc rằng đã không ở lại cùng ta. Vì vậy thời gian quan trọng nhất là thời gian Vua đang cuốc đất; nhân vật quan trọng nhất lúc đó là bần đạo đây, và công việc quan trọng nhất là công việc giúp bần đạo. Rồi sau đó khi người bị thương nọ chạy lên, thời gian quan trọng nhất là thời gian vua chăm sóc cho ông ta, bởi vì nếu vua không băng vết thương cho thì ông ta sẽ chết và vua không có dịp hòa giải với ổng; cũng vì thế mà ông ta là nhân vật quan trọng nhất, và công việc vua làm để băng bó vết thương là quan trọng nhất.
Xin vua hãy nhớ kỹ điều này: "Chỉ có một thời gian quan trọng mà thôi, đó là thời gian hiện tại, là giờ phút hiện tại. Giờ phút hiện tại quan trọng bởi vì đó là thời gian duy nhất trong đó ta có thể làm chủ được ta. Và nhân vật quan trọng nhất là kẻ đang cụ thể sống với ta, đang đứng trước mặt ta, bởi vì ai biết được là mình sẽ đương đầu làm việc với những kẻ nào trong tương lai. Công việc quan trọng nhất là công việc làm cho người đang cụ thể sống bên ta, đang đứng trước mặt ta được hạnh phúc, bởi vì đó là ý nghĩa chính của đời sống". . | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Fri May 11, 2018 11:06 pm | |
| . Michel Déon sinh năm 1919 tại Paris. Sau khi tốt nghiệp ngành Luật, ông tòng quân cho đến tháng 11 năm 1942. Ở lại vùng phía nam nước Pháp bị tạm chiếm, ông cộng tác với nhiều báo và tạp chí khác nhau.
Sau Giải phóng, ông quay lại Paris, là phóng viên chính thức cho một tạp chí, rồi bắt đầu từ năm 1947, ông được phái đi làm phóng viên thường trú tại Thụy Sỹ và Italia. Năm 1950, một suất học bổng của Hội Rockefeller cho phép ông tới Mỹ và Canada, thời kỳ này ông hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay Tôi không bao giờ muốn quên điều ấy và cho xuất bản tại Pháp. Sau đó ông đã sống thời gian khá lâu tại Hi Lạp, thời gian này ông viết Những chú ngựa lùn hoang dã và cho xuất bản năm 1970 và đoạt luôn giải Interallié. Rồi ông chuyển đến Irlande sinh sống và trình làng bạn đọc tiểu thuyết Chuyến taxi màu tím, tác phẩm này đoạt Giải thưởng Lớn dành cho Tiểu thuyết của Viện Hàn Lâm Pháp năm 1973, và đã được Yves Boisset chuyển thể thành phim màn ảnh rộng cùng tên với sự tham gia của Charlotte Rampling, Philippe Noiret, Fred Astair. Ông đã đóng góp cho làng văn học Pháp rất nhiều tiểu thuyết, các tập truyện ngắn và cả những kịch bản sân khấu. Cuộc sống đi đây đó nhiều đã nuôi dưỡng các tác phẩm của ông và khơi gợi trí tưởng tượng phong phú hòa lẫn giữa sự kế thừa nền văn hóa Địa Trung hải và văn hóa truyền thống vùng Celtique. Ông được bầu vào Viện Bất Tử từ năm 1978.Truyện dưới đây trích trong tập Un parfum de jasmin (Folio số 1055). Hiệu Constant giới thiệu và dịch.
Trang sổ bị xé Michel Déon
Từ ba ngày nay, nàng thật sự dịu dàng và điều ấy không lừa được ai, luôn trả lời những yêu cầu của anh bằng: “vâng ạ, dĩ nhiên rồi”. Có thể nói, nàng đã thề trở thành người đàn bà chịu nghe lời nhất và người bạn đời dễ chịu nhất hành tinh. Pierre đã quyết định tin thái độ vui vẻ ấy của vợ anh là thật, nhưng chỉ sau ba ngày anh bắt đầu cảm thấy những phiền muộn của sự vui vẻ này. Anne với những cử chỉ tinh tế của người Trung Hoa đã khiến anh mất vui. Tuy chuyến đi đã khởi đầu bằng những điều thú vị: Bầu trời tháng năm nhẹ nhõm, thoáng đãng, khách sạn hầu như không có khách, bãi biển vắng tanh, những con đường thưa thớt người qua lại, những ngôi làng phủ đầy Glycines và hoa hồng, những cánh rừng đầy rhododendron. Đây là kỳ nghỉ đầu tiên của họ, vài tháng sau một đám cưới mà họ có đủ những lý do để hài lòng, chàng 40 tuổi, nàng 25, chẳng giàu cũng không nghèo, hạnh phúc với những gì nằm trong khả năng tài chính của họ, không hề ganh tỵ với ai. Khi Pierre dừng xe trên chóp cao con đường ven biển để chiêm ngưỡng một trong những bãi biển tuyệt đẹp của đất nước Bồ Đào Nha đang bị gió quất phần phật, ánh mắt anh thay bằng thả dài vào khung cảnh thì lại dừng trên dáng nhìn nghiêng của Anne: thanh mảnh, trẻ trung luôn đứng thẳng, hàng mi cong tuyệt mỹ trở nên hoe vàng dưới làn gió hanh, vầng trán mà anh luôn thấy đáng yêu dịu dàng thì lúc này hình như mới bướng bỉnh làm sao, rắn như đá vậy.
Cái tên Obidos nguy hiểm ấy không bao giờ được nhắc đến nữa. Trách nhiệm của cái tên này thuộc về một tờ quảng cáo do một hãng du lịch gửi đến tận nhà anh. Trong đó Anne đã nhìn thấy hình ảnh của một thành phố trắng, có thành lũy bao quanh. - Khi nào thì mình tới đó hả? - Nàng hỏi. - Nơi đó nằm không xa đường mình đi, nhưng anh sợ nếu tụi mình muốn thăm Miền Nam thì sẽ không có thời gian để dừng lại, thậm chí còn không có thời gian để rẽ qua. Sao nàng lại nài nỉ vậy nhỉ? Tính nàng đâu có thế, cũng như tính Pierre không phải lúc nào cũng từ chối với những lý do ngày càng thiếu tính thiết thực, và cuối cùng nói thẳng ra là hết sức phi lý, và điều này làm nảy sinh trong anh một sự bực bội chưa từng có. - Nhưng, - Anne nói, - tụi mình có phải là đoàn tàu đang lăn trên đường ray đâu, hơn nữa từ chối điều bất ngờ này không giống tính anh lắm, khiến em không thể hiểu nổi. Anh thì chỗ nào ở Bồ Đào Nha mà anh chẳng biết, còn em thì không.
Tuy nhiên anh vẫn khăng khăng không sao giải thích nổi điều đang khiến anh bực mình với chính anh hơn là thái độ hòa nhã của Anne. Sau cùng nàng đã nhượng bộ một cách hết sức dứt khoát và bất ngờ, đến nỗi mà anh không thể coi đó là một chiến thắng, cùng lắm thì cũng chỉ như vừa trút được một gánh nặng. Và từ ba ngày nay, anh tìm kiếm cái mà anh chắc mẩm là Anne đang nghĩ tới, những hiểu biết tinh thần hạn chế nào nấp sau sự từ bỏ quá đỗi dễ dàng này. Pierre không nghĩ chỉ đơn giản là người vợ trẻ yêu dấu của anh đã quên khuấy chủ đề họ tranh cãi và rằng anh đã gán cho nàng một thủ đoạn tinh vi mà chắc nàng không có khả năng. Họ lại vui sướng thừa hưởng hạnh phúc mà không có một ý gì khác vào buổi tối, khi dừng chân ở thành phố Nazaré. Cửa sổ ban công quay ra bãi biển lớn, rải rác những tấm lưới đánh cá đỏ vàng, những con tàu sặc sỡ được trang trí rất đẹp. Màn đêm buông xuống, họ đứng bên nhau cùng ngắm đại dương mênh mông cứ không ngừng tung ra từng làn sóng cao cuồn cuộn đổ vào bãi biển. Trong bóng đêm, từng chùm bọt sáng ánh lân tinh hiển hiện đến tận một vùng xa lắc bàng bạc, vẽ lên những nét cong hoàn mỹ không gì có thể sánh nổi của vùng duyên hải. Thật là đẹp, đẹp mê mải. Điều đó khiến tâm hồn họ ngập tràn niềm tin. Ôm chặt Anne trong vòng tay mình, Pierre nghĩ sẽ nói chuyện ấy với nàng, nhưng sợ sẽ làm khuấy động khoảng khắc diệu kỳ này, nên anh kìm lại, và anh thậm chí còn bày tỏ niềm thích thú sẵn sàng thổ lộ niềm tâm sự mà nó bỗng dưng ào đến mấp máy trên môi anh. Anh im lặng với hy vọng rằng tất cả đã bị vùi sâu vào quên lãng từ lâu. Hôm sau, anh thong dong chạy xe trên những con đường được cắt tỉa đẹp mắt, hệt như các lối đi trong trang viên. Có nhiều tu viện để thăm thú nằm sâu trong đất liền của xứ sở này, nhưng vẻ đẹp mê hồn của bờ biển thu hút khiến họ sẵn sàng từ bỏ khu Batalha và Alcobaca để dán mắt mình vào đại dương, vào những nghềnh đá, những hòn đảo Berlingue và sau cùng là bán đảo Peniche, nơi có những ngôi nhà với ban công trang trí hai màu đỏ và trắng, hệt như một thành phố thời thuộc địa. Họ lại qua một đêm cực kỳ mỹ mãn nữa, nhưng phải dậy sớm do những người đi biển đánh cá lưới rê. Pierre tìm được trên bản đồ con đường mà anh còn nhớ. Rất khúc khuỷu nhưng xuyên qua những khu rừng tuyệt đẹp và con đường đó ít nhiều chạy sát bờ biển cho tới tận Lisbonne. Ngã ba gần Peniche tránh được thành phố Obidos.
Họ rời khỏi bán đảo trong ánh nắng đủ làm tan lớp sương mù. Con đường lại đưa họ qua một tỉnh lỵ khác, tỉnh Estramadura, khu trồng rau quả mọc dựng tua tủa những cối xay gió, cánh quạt quay tít mù. Rời khỏi Peniche một vài cây số, họ tới ngã ba. Hai tấm biển chỉ dẫn: phía này đi Lisbonne, còn phía kia đi Obidos. Thế là cái tên Obidos lại một lần nữa bật dậy trong họ, và trong giây lát Pierre đã biểu thị niềm tuyệt vọng nhói đau, trong khi Anne câm nín. Chỉ có một vài giây để quyết định và chính nàng đã lên tiếng trước.
- Sao anh không rẽ phải để đi Lisbonne? Theo đường này thì chúng ta sẽ đến Obidos còn gì. - Anh nghĩ rồi. Tụi mình còn đủ thời giờ để ngắm vùng ngoại ô thành phố. Sẽ là rất ngốc nếu như ta bỏ qua dịp này, bởi vì em ấy mà, em vẫn chưa biết thành phố đó, còn anh thì đã biết rồi. - Em cứ ngỡ là… - Không, anh đã nhầm.
Chẳng mấy chốc thành phố Obidos hiện ra sau một quả đồi, quang cảnh đẹp tao nhã mê ly và hùng cường bao quanh thành phố là một bức tường thành kiên cố màu hoe vàng, thỉnh thoảng điểm những lỗ châu mai. Pierre thực ra chẳng suy nghĩ gì cả. Tất cả chỉ vừa mới được quyết định trong giây lát đây thôi như thể có một ý chí siêu hình nào đó còn mạnh hơn ý chí của anh đã ngăn anh rẽ phải. Và lúc này, ngôi làng đã ở đây, ngay trước mặt anh và anh thấy tư tưởng vô cùng thoải mái.
- Hẳn sẽ thật đáng tiếc, - Anne nói. - Từ lúc vượt qua biên giới, chưa có nơi nào đẹp như nơi đây. - Con đường chính sẽ chạy vòng quanh thành phố. Mình sẽ chui qua những bức tường thành kia và sau đó là tới Caldas da Reinha. Từ đó đi thẳng một mạch sẽ tới Lisbonne, còn gần hơn nhiều. - Do anh quyết định, anh yêu ạ! Ở khúc đường vòng cuối cùng, từ trên cao, họ khám phá toàn thể thành phố nhỏ với những ngôi nhà lộn xộn không theo một trật tự nào, 13 ngôi nhà thờ chói chang sáng lòa dưới ánh mặt trời. Anh dừng xe, tắt máy. Gió thổi mạnh khiến những cánh cối xay gió xung quanh họ quay tít, gió mơn man cánh đồng cỏ mênh mông, thoai thoải dốc, ở đó có đàn cừu đang gặm cỏ giữa những cây cúc gai xanh lơ, những bông hoa dại màu vàng và từng mảng cỏ ba lá rất lớn màu tím xẫm.
Anne lên tiếng, - Em nghĩ quả là thần kỳ thật, một cái gì đó trường tồn qua nhiều thế kỷ được tặng lại cho chúng ta mà không mang một vết xước, không một vết hoen ố. Cứ như thể thời gian không trôi vậy! Anh ấn vào nút khởi động, nhưng động cơ vẫn im lìm, im lìm một cách khủng khiếp, chỉ vì mỗi một cái nút nhỏ xíu ngốc nghếch. Pierre thử đi thử lại nhiều lần, anh xuống xe và ca-pô ngó vào một cách vô ích để rồi nhìn thấy đống máy móc mà anh vốn chẳng hiểu biết gì, anh thì chỉ biết mở máy xe bằng nút khởi động mà thôi.
- Một sự hỏng hóc ngu ngốc, - anh nói. - Anh nghĩ là vẫn còn nhớ có một thợ bơm xe ở ngay lối vào thành phố. Có thể anh ta sẽ tìm ra cái gì chăng. Anh nhấc phanh và ô tô từ từ trườn xuống, hơi khựng lại trong những khúc ngoặt hình kim châm cài đầu của phụ nữ. Obidos mà hồi này họ nhìn thấy toàn bộ thì lúc này đã ở ngang tầm với họ, và chẳng bao lâu, nó lại cao hơn khi họ dừng lại trước mặt người thợ bơm xe và xưởng sửa chữa của anh ta. Đó là một người đàn ông nhỏ thó, người phủ đầy dầu mỡ chạy bổ ngay đến lấy bơm. Phải vất vả mãi Pierre mới giải thích cho anh ta hiểu vấn đề. Người đàn ông nhỏ thó ấy thò cả người vào thùng máy. Một khoảng thời gian chờ đợi lo lắng trôi qua trước khi anh ta hồ hởi lôi ra bộ phận máy khởi động mà tất cả các phụ tùng thực ra thì đã quá tã. Bằng tất cả những động tác và từ tượng thanh, kèm theo vài từ tiếng Anh hay Tây Ban Nha, anh ta giải thích cho hai người hiểu rằng phải gọi điện thoại tới Caldas da Reihna ngay lập tức thì may ra buổi chiều nay họ sẽ có một cái mới để thay thế.
- Vậy đấy! - Anne nói, - tại chúng ta đã không muốn dừng lại thì bây giờ đấy, buộc phải dừng lại thôi. Hai tiếng “chúng ta” này thật dễ chịu. Pierre đã sợ đó là một lời mai mỉa, nhưng tất cả sự ma mãnh hình như không xuất hiện trên gương mặt của Anne. Nàng say sưa với sự vô tình ấy mà nó phục vụ ý muốn của nàng, không hề có thái quá mà còn gần như hơi thẹn thùng. Vào giây phút ấy, Pierre yêu nàng vô cùng và tự nhủ rằng mình đã đánh giá nàng chưa đúng, rằng đàng sau sự dịu dàng kia có thể còn giấu trái tim rất thông minh của nàng. Bỏ mặc xe ô tô sau khi đã đẩy chúng vào bóng râm, họ leo lên tận cửa ngầm dẫn vào thành phố được trang trí bằng gạch men hoa màu xanh lơ rất đẹp. Không khí mát mẻ của thành phố điểm thấp thoáng những bóng râm chào đón và bao bọc họ. Sự yên tĩnh bao trùm các khu phố nhỏ vắng tanh, lan đến phía sau những bức tường trắng và những cánh cửa sổ sơn màu. Một sự bình an lan tỏa khắp tâm hồn Anne và thậm chí cả Pierre cũng vậy, tim đập rộn ràng, anh đã băng qua ngưỡng cửa. Anh chờ đợi những kỷ niệm nhảy sổ vào họng anh rồi sẽ lại gây đau đớn cho anh giống như hơn 10 năm về trước, nhưng không phải thế, anh bỗng cảm thấy một sự nhẹ nhõm khó tả. Những cây cam chắc phải chín lắm rồi trong các khu vườn đóng kín của Obidos bởi mùi hương của chúng lan tỏa nồng đượm. Họ bước đi trong các khu phố tới tận quảng trường có khu nhà thờ chính của thành phố, cũng trắng toát những điểm hàng loạt cột trụ xây bằng đá granit màu xám, đi kèm một hàng cột phụ cũng được đẽo từ đá granit. Cánh cửa mở rộng vào phía trong. Do họ tiến lại gần, hai cánh cửa tự động khép mà không hề gây tiếng động, bị đóng vào bởi những bàn tay vô hình trong khi chuông nhà thờ róng rả vang lên, tiếng chuông trở nên trầm đục do độ ẩm của không khí. Thế rồi lại chìm vào yên lặng, và họ bước đi trong một thành phố có vẻ như hoang vắng, mơ màng dưới ánh mặt trời. Một cầu thang dẫn lên các tường thành. Pierre nhận ra nó, anh đã đi trên cầu thang ấy vào một buổi tối, ngay sau khi hoàng hồn buông xuống, khi vùng nông thôn bao quanh đây đang sống những thời khắc cuối cùng trong ngày của chúng. Từ trên cao, anh hồi nãy không nhận ra những gì mình nhìn thấy, có rất nhiều cối xay gió đang quay tít trên đỉnh đồi, bạt ngàn các loài cây hoa thuốc phiện và cỏ ba lá mọc tràn lan trên cánh đồng, những bóng người đi lại dưới các vành mũ rơm rộng to xụ. Xa hơn một tý là khu đầm có cây mọc quanh bờ. Xung quanh họ, tất cả đều sống động và rì rào. Anh phát ra một tiếng thở mạnh, đó là một tiếng thở phào nhẹ nhõm, nhưng Anne có lẽ đã hiểu khác đi, bởi nàng xiết chặt cánh tay anh, và âu yếm tựa hẳn vào người anh.
- Xa xa kia là gì vậy anh? - nàng hỏi. - Đó là khu Pousada, một tòa lâu đài cổ ở Obidos mà bây giờ người ta đã cải tạo biến nó thành khách sạn nhà hàng. - Anh đến đó rồi chớ? - Rồi, - anh đáp lại. Vào thời khắc đó, anh tự nhủ mọi thứ vẫn chưa hề kết thúc, rằng anh vẫn tiếp tục bị dằn vặt mặc dù 10 năm đã trôi qua, không hẳn là do hoài niệm mà do chính anh vào thời điểm đó đã quá thô lỗ và cục cằn. Tất cả những gì xảy ra với người đàn bà mà giờ đây đã bặt vô âm tín ấy, đã xa lắc xa lơ, và mãi mãi bước ra khỏi đời anh, chẳng lấy gì làm vinh hạnh cho anh cả. Từ thành lũy cao, họ thoáng nhìn thấy một phần sân và chiếc cầu thang quý phái bằng đá cẩm thạch, trên chính đầu cầu thang ấy, họ đã chia tay nhau trong sự lăng mạ, đầy thù hận và nuối tiếc trong sự kiêu ngạo của mỗi người.
- Mình tới đó ăn tối nhé, - Pierre rủ. Họ đi dọc theo những bức tường thành kiên cố, đầy tiếng ve kêu inh ỏi và đi xuống gần Pousada. Khu sân vắng hoe, ánh lên màu trắng tinh của đá lát nền thỉnh thoảng điểm vài tượng đầu người bằng đá granit sáng. Một người đàn ông trong bộ đồng phục màu xám bước ra và tiến về phía họ. Pierre nhận ra ông ngay, cũng như anh đã nhận ra chị làm phòng và bà giám đốc của Pousada, một người đàn bà đứng tuổi có mái tóc màu xám mà theo lời đồn thì thời còn trẻ, bà đã từng là một ngôi sao ca nhạc nổi tiếng ở Lisbonne. Tất cả những khuôn mặt ấy tụ tập quanh họ và Pierre đã ngỡ bị bủa vây, nhưng đó chỉ là một ảo thị. Chẳng ai còn nhớ gì, hay dù gì thì chẳng ai còn có vẻ nhớ ra anh. Anh có cảm giác như mình bị đâm một nhát vào tim, vừa được nhẹ người, nhưng sau đó lại lo lắng: sự lãng quên này hình như phủ nhận hoàn toàn chuyện anh đã có một cuộc đời khác trong quá khứ mới đây, một cuộc đời không phải cùng với Anne. Họ thăm quan Pousada, những đồ dùng trong nhà, những bông hoa được kín đáo cắm trong các bình hoa, những tấm thảm, những tấm gỗ treo tường minh chứng cho một thú chơi tao nhã. Họ được phục vụ trong phòng ăn bên cạnh những ô cửa sổ được sửa sang từ những lỗ châu mai xưa kia. Khách tối nay chỉ có hai người bọn họ, và một sự phục vụ vô hình diễn ra xung quanh hai người. Anne thao thao bất tuyệt đủ chuyện, còn Pierre lơ đãng nghe nàng nói, trong lúc tìm cách nối lại ngày giờ hôm nay với quá khứ. Nhưng ngoài khung cảnh cũ ra, tất cả đã hoàn toàn đổi khác. Anh còn nhớ, phòng ăn ngày ấy quá đỗi ồn ào, nhiều gia đình, trẻ nhỏ, rồi cuộc hội thoại bằng những câu ngắn ngủn và chán ngắt với người đàn bà ngồi trước mặt anh khi ấy, những câu chữ thông báo đoạn kết cho một mối quan hệ đầy bão giông, và rốt cục chỉ là một sự thất bại. Anne đặt bàn tay nàng lên tay anh, anh mỉm cười với nàng. Nàng đã đoán ra rồi chăng? Trong anh bỗng trào lên một niềm biết ơn vô hạn dành cho nàng, người đã cư xử với anh hết sức tinh tế.
Cuối bữa, người gác cổng đến báo cho Pierre biết rằng bên ngoài có người muốn gặp anh. - Nhưng chẳng có ai biết là tôi đang ở đây cả! Ai hỏi tôi nhỉ? - Một người thợ máy ạ.
Quả vậy, bên ngoài người thợ bơm xe đang mỉm cười ngượng ngịu. Anh ta đã tìm họ khắp nơi. Chiếc máy khởi động đã sửa xong. Anh ta cứ xin lỗi liên hồi. Thực ra chỉ là một sợi dây điện bị đứt rời. Lẽ ra anh ta phải nhìn thấy ngay lập tức. Pierre cám ơn rồi nói họ sẽ quay về ngay. Khi quay vào trong Pousada, anh nhận ra trên mặt bàn đặt trong tiền sảnh một cuốn sổ bọc nhung, gáy sổ ép đồng, cuốn sổ vàng. Anh tiến tới mở ra, tìm thấy những năm đứng dưới các chữ ký: 56, 55, 54, nhưng đến con số 54 thì anh ra công tìm kiếm mà không thấy hai cái tên lồng vào nhau. Bực mình, anh lật sổ liên tục hết trang này đến trang khác đến tận lúc anh nhận thấy rằng một trang sổ đã bị xé một cách khá vụng về. Thế là tất cả đã bị xóa nhòa hết. Sẽ mãi mãi chẳng còn lại gì của vài ngày muộn phiền ấy. Anh đã có thể thôi nghĩ về nó. Anh khép mạnh cuốn sổ và quay trở lại phòng ăn.
- Xe sửa xong rồi đấy. - Đã xong rồi kia à! Nhưng sao anh lại có vẻ bực bội thế. - Đâu có, đâu có. Anh rất hài lòng mà. Mình đã quyết định ngủ ở Lisbonne, vậy thì chúng ta đi thôi.
Họ ra khỏi nhà hàng, kéo theo những lời chúc nồng nhiệt. Khu sân trắng xóa làm lóa mắt họ và họ chạy thẳng ra tận một con đường xuyên qua làng trong bóng râm và sự yên lặng. Cũng chẳng hơn gì lúc đến, họ không gặp một linh hồn sống nào, tuy nhiên chẳng có gì giống một thành phố hoang cả, như thể có một từ mật khẩu nào đó đã khu biệt họ, tách họ ra khỏi tầm nhìn để họ đi dạo đơn lẻ, tay trong tay, cùng chống lại sự tê liệt của một giấc mơ. Cuộc sống tái xuất hiện sau hầm ngầm. Ánh sáng chói lòa quất mạnh xuống mặt đường trải nhựa khiến con đường như run rẩy. Đám nông dân ngồi vắt vẻo trên lưng những con lừa thấp và không ngừng thúc chân vào sườn chúng, băng qua trước mặt họ. Một chiếc xe ca dừng lại để thả xuống những người nông dân vận toàn đồ đen. Xuống dưới chút nữa, người thợ sửa xe đang mỉm cười trong lúc tay vẫn liên tục lau tấm kính chắn gió ô tô của họ. Họ cảm ơn anh ta và Pierre ngồi vào sau vô lăng, khởi động xe. Máy nổ quay đều đều nhẹ nhàng. Nụ cười của anh thợ sửa xe thật sảng khoái khiến miệng anh ta kéo lên tới tận gần vành tai. Anh ta đưa ngón cái lên một cách đắc thắng.
- Ô, đợi một lát, Pierre, - Anne nói. - Em thấy anh ta có bán kẹo bạc hà. Cho em xin năm escudos để em mua ngậm chơi đi! Anh đưa cho nàng một đồng, và nàng ra khỏi xe, chạy về phía người thợ rồi giải thích cho anh ta bằng những động tác khua khoắng. Pierre vuốt ve bộ khởi động, vô lăng, nhìn xuống bàn chân mình, đang sẵn sàng nhấn lên các bàn đạp. Gần chân phải, anh phát hiện có một cục giấy vo tròn, anh đẩy ra, nhưng cục giấy lại tự mở dần ra và anh cúi xuống nhặt lên. Đúng là điều anh phán đoán: trang giấy đã bị xé trong cuốn sổ vàng của nhà hàng. Nàng có thể làm điều này vào lúc nào nhỉ? Đàn bà có một năng khiếu trời phú để biến thành tàng hình vào một vài thời điểm họ muốn, để biến đi rồi lại hiện ra trong lúc bắt thời gian dừng lại. Anh nhanh chóng ngồi nhỏm dậy. Anne đã quay lại, trong miệng ngậm viên kẹo khiến má bên trái phồng tướng lên.
- Xong rồi, ta đi thôi! Nàng huơ tay chào người thợ sửa xe, và xe ô tô bắt đầu từ từ trườn xuống con dốc. Anne cất hộp kẹo vào hộp chứa găng, sửa lại chiếc váy ngắn, đặt sắc cầm tay cạnh cửa xe, rồi cúi xuống nhặt cục giấy vo tròn và bằng một động tác xấc xược, nàng quẳng nó ra ngoài cửa sổ. - Thế là xong, - nàng lại lên tiếng, hết sức thỏa mãn. - Thực sự, em chẳng hối tiếc gì cả. Em thấy nếu như mình không tạt qua Obidos, thì em sẽ hối tiếc cả đời mất. Và anh cũng vậy chứ, anh yêu, có đúng thế không? Như thể chúng ta đã hất đi một khối nặng vẫn đè lên ngực chúng ta.
Anh không nói gì. Anh đang nghĩ đến cục giấy vo tròn lúc này đã mất hút trong vệ rãnh ven đường, anh nghĩ đến phép trừ tà vừa qua của nàng. .
| |
| | | NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Fri May 18, 2018 7:25 pm | |
|
Aleksandar Hemon sinh năm 1964 tại Sarajevo, Bosnia Herzegovina. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương tại đại học Sarajevo (University of Sarajevo) năm 1990. Vào thời gian ấy ông đã in một số truyện và bài báo tại Nam Tư. Năm 1992 ông đến thành phố Chicago, Hoa Kỳ và sau đó định cư tại Mỹ khi Sarajevo xảy ra biến loạn. Bắt đầu từ đó ông viết bằng tiếng Anh. Truyện ngắn “The Liar” được in trong The Book of Other People, Zadie Smith ed., London: Penguin Books, 2008, tuyển tập gồm 23 truyện ngắn của 23 tác giả, trong đó có Adam Thirlwell, Nick Hornby, David Mitchell, Hari Kunzru, Colm Tóibín, và Jonathan Safran Foer.
Kẻ dối trá (The Liar) Truyện ngắn Aleksandar Hemon
Đám đông xôn xao trong bầu bụi chiều nâu xỉn; họ đợi đã quá lâu rồi. Cuối cùng, Quan tổng trấn bước xuống bậc thang áp chót, dạng chân và chống nạnh ra vẻ quyền chức thường thấy. Trống bụng tròn ấn tượng của ông lộ ra dưới vạt áo toga ướt đẫm mồ hôi, bóng rốn nổi lên chính giữa. Ông lướt qua đám đông với vẻ khinh miệt, lỗ rốn xoay theo ánh mắt ông khi ông xoay người một chút về bên trái, một chút về bên phải. Tiếng ồn lắng xuống. Đám lính lấy kiếm đẩy lên hai người đàn ông rách rưới – dây xích xủng xoẻng trong khi họ lảo đảo bước – và dẫn họ đến hai bên Quan tổng trấn, người thậm chí không thèm liếc mắt nhìn họ. Tất cả trông như một màn trình diễn được tập dượt kỹ càng.
“Tất cả!” Quan tổng trấn quát. “Tất cả! Nhìn ta đây!” Đám đông đã nhìn theo ông từ đầu, nhưng giờ nó siết chặt lại, như thể mỗi người là một mạch máu và bầu không khí vừa trở nên lạnh hơn. Đám bụi đang dần lắng xuống, phủ lên cơ thể họ, làm cay đôi mắt họ. “Hai kẻ đáng khinh đây đã phạm luật của Đế chế,” Quan tổng trấn nạt nộ. “Chúng đáng bị trừng trị bằng mức án nặng nề nhất. Nhưng chúng chỉ là dân đen và với lòng khoan dung của Đế chế – một trong hai sẽ sống.”
Đám đông òa lên phấn khích. Quan tổng trấn chỉ vào người bên phải: hắn gầy, cánh tay dài, khẳng khiu và hàm răng mẻ, mắt trái tụ đầy máu và mủ. “Hắn là kẻ trộm,” Quan tổng trấn nói. “Hắn đã cướp miếng ăn của những người khác. Hắn len lén theo họ mỗi đêm. Hắn đánh cắp chút tài sản ít ỏi của họ. Những người cha trở nên túng thiếu, những người mẹ đã khóc, chính là bởi tên vô lại này.”
Tên trộm nhìn về phía đám đông bằng con mắt phải với tất cả vẻ ngây thơ hắn gom góp được. Đám đông biết hạng người như hắn, họ nhận ra lòng tham lam vô đáy của hắn, nhưng họ cũng có thể thấy những vết bầm trên cánh tay hắn; họ có thể thấy những vệt máu khô két từ lỗ mũi dọc theo hàng ria và biến mất vào trong bộ râu. “Mọi người,” tên trộm gào, giọng rít lên vỡ vụn. “Tôi đói. Các con tôi đói. Tôi đói!” Một tên lính lấy mu bàn tay vả vào mặt tên trộm khiến một dòng máu tươi nhễu lên bộ râu của hắn. Đám đông xì xào, phấn khích bởi máu hứa hẹn nhiều thêm máu.
“Còn tên này,” – Quan tổng trấn chỉ vào người đàn ông bên trái – “tên này là tên lang băm, là kẻ dối trá. Hắn thốt ra nhiều trò bịp bợm. Hắn truyền đi những lời vu khống, dối trá, những chuyện hoang đường, bôi nhọ những người trung thực và Đế chế này. Đối với hắn, không có gì là thiêng liêng. Hắn phạm tội chống lại sự thật, bạn bè ta, không chỉ Đế chế này – sự thật. Sự thật là mẹ của luật pháp và trật tự.”
Đám đông quay sang chú ý tới người bên trái: tay hắn bị trói sau lưng; bả vai hắn trồi lên như vây cá; đầu gối hắn trụi như sọ trẻ con; bộ râu hắn bết chùng xuống đẫm mồ hôi, như thể hắn đang quắt lại – nhưng người hắn không có vết bầm nào, ngoại trừ nơi chiếc cùm làm rộp cặp mắt cá chân. Hắn thú nhận với lính canh mọi điều họ muốn nghe, và nói cho họ những điều họ không hỏi, tự do thêu dệt miễn sao họ hài lòng – họ chỉ lắng nghe, lắc đầu trong sự hoài nghi, nhưng không thể dừng lại hay đánh đập hắn. Kẻ dối trá nhìn lại đám đông một cách vô hại: có những kẻ cục súc khát máu, chuộng luật, luôn lê mông ngồi trước hàng đầu; và có những kẻ móc túi quẩn quanh đang móc túi chúng; và đằng kia, an toàn hai bên mạn sườn, những công dân có uy tín, ghê tởm và sợ hãi trước cảnh tượng này, đang át tiếng một gã say xỉn đang rên rỉ về những người vợ không chung thủy của mình. Hắn nhận ra những đứa trẻ có gương mặt rỗ và hàm răng vàng ố, những đứa líu ríu theo chân và kéo chiếc đuôi lừa của hắn cách đó không lâu; và còn một cô kỹ nữ say xỉn với đôi mắt xanh rưng đầy nước mắt, như thể hắn là chồng cô. Hắn nhận ra những tên gián điệp đang quan sát đám đông từ chính đám đông, vểnh tai ngóng lời bất chính về Quan tổng trấn hay Đế chế này.
Hắn biết hắn nên bình tĩnh, đường hoàng và bình thản. Hắn biết hắn có thể xoay chuyển đám đông và khiến họ yêu hắn – hắn từng làm vậy trước đây. Hắn có thể chỉ cần nhìn thẳng vào mắt họ, khóa cái nhìn chằm chằm của cô kỹ nữ, hay chạm vào những tên cục súc lông lá, và kể họ nghe một trong những câu chuyện hắn vớ được khi lang thang trên vùng đất này, hoặc truyện ngụ ngôn Joseph kể cho hắn, hoặc chuyện hắn mơ đêm qua. Nhưng Quan tổng trấn sẽ không bao giờ để cho hắn nói; và, ngay cả khi ông ta làm thế, đám đông cũng sẽ khát máu mà không khát lời. Một cơn hoảng loạn kỳ lạ xâm chiếm hắn, như thể toàn thân hắn đang run bắn – một ham muốn đau đớn, choáng váng, nhục nhã là được sống và hít thở trong cơ thể này, bây giờ và mãi mãi. Vậy nên hắn bắt đầu giật đầu về phía bên phải, quăng cái nhìn của hắn vào tên trộm như một sợi dây, nói bằng cơ thể hắn, bởi giọng nói mắc nghẹn của hắn sẽ không thể làm vậy, nói: “Chọn hắn! Chọn hắn!”
Đám đông trở nên khó chịu trước sự thay đổi đột ngột trong thái độ của kẻ dối trá. Gương mặt hắn căng cứng một cách điên dại; cổ hắn liên tục co thắt; đôi mắt hắn lồi sang một bên, như thể đang cố lộn ra khỏi tròng. Giờ đây họ nhận ra kẻ dối trá không chỉ là kẻ dối trá, mà hắn còn bị linh hồn quỷ dữ chiếm đoạt; họ có thể nhận ra hắn là một hạt giống bất hảo. Tên trộm ngồi yên, ý thức được một điều tốt đẹp cho hắn đang bắt đầu diễn ra. “Thả tên trộm đi,” họ hét. “Thả hắn đi.” “Thả hắn đi,” Quan tổng trấn ra lệnh cho đám lính.
Kẻ dối trá gục đầu xuống ngực, như thể mọi dây chằng cổ bỗng dưng đứt rời, và nhắm mắt lại. Đám đông đứng trong yên lặng một lúc, thưởng thức khoảnh khắc hắn chấp nhận sự thật, nhưng rồi họ bắt đầu sốt ruột và lê chân, khiến đám bụi bùng lên lần nữa, lần này dày hơn, trong khi mặt trời đã bắt đầu lặn.
***
Đám lính đặt một cây thập giá gỗ khổng lồ trên lưng kẻ dối trá – nhiều chiếc dằm lập tức xuyên qua da trên vai phải của hắn, túa ra những dòng máu tươi. Hắn kéo cây thập giá qua các con phố hẹp chật kín người, những người đang lau mồ hôi trên mặt, chờ cho hắn ngã gục và chết. Nhưng hắn vẫn tiếp tục đi, và trong một khoảnh khắc ảo giác hắn thấy gương mặt bình thản của tên trộm trong đám đông, như thể điều vừa xảy ra chưa bao giờ xảy ra.
Cây thập giá trượt khỏi vai hắn, làm toạc ra một mảnh da lớn. Viên lính đi cạnh hắn nhấc cây thập giá lên và đặt trở lại, nhưng đặt lên trên vai trái, một cách chậm rãi. “Rồi đấy,” viên lính nói. Kẻ dối trá đang thở hổn hển, gần như quên mất cơn đau, nhưng vẫn gắng thốt ra được một lời cảm ơn dành cho viên lính. Đám đông dồn lại xung quanh hai người, nên lính gác phải giải tán họ, đẩy lùi họ lại bằng giáo mác và mặt lưỡi gươm. “Chuyện này không phải là điềm lành,” kẻ dối trá nói với viên lính. Viên lính không nói gì. “Ngươi biết không,” kẻ dối trá nói và ho lấm tấm máu, “ta là con của Chúa.” Viên lính không nói gì. “Ta là con của Chúa,” kẻ dối trá nói. “Ta đã được tiết lộ.” “Quả đúng là vậy,” viên lính nói. “Còn tôi là Virgil.”
Và đám rước tiếp tục, lên đỉnh đồi, nơi phần lớn đám đông đang chờ. Kẻ dối trá ngước lên về phía ấy, hy vọng trong tuyệt vọng rằng những giọng nói trong đầu hắn đã nói cho hắn sự thật.
Bản dịch Nguyễn Huy Hoàng. | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Sat May 26, 2018 12:16 am | |
| Ảnh: internet Alissa York sinh tại Australia và lớn lên tại tỉnh bang Edmonton, Canada, và là tác giả của năm tác phẩm, trong đó có nhiều tác phẩm bán chạy: The Naturalist, Fauna, Effigy, Mercy, Any Given Power. Cô nhận giải Bronwen Wallace Memorial Award vào năm 1999, và đã từng được đề cử giải văn chương danh giá Scotiabank Giller Prize.
Món quà đúng nghĩa Alissa York
Một cụ già ngồi phía đầu xe buýt, đang ngủ gà ngủ gật. Cụ ngồi cách tôi đến mấy hàng ghế nhưng tôi vẫn có thể ngửi được mùi rượu trong người ông, như thứ rượu bị thấm vào miếng giẻ trong bồn rửa chén, đang bốc một mùi chua rã rượi.
Tôi có thể ngửi được ông như thể ông đang rất gần tôi hòng kể cho tôi nghe một điều bí mật. Như thể tôi đang ngồi trong lòng ông.
Roy Philipchuk đã đối xử với chúng tôi rất tử tế. Ông ấy là người đầu tiên trong thị trấn thuộc tỉnh bang Alberta ấy đã đón chào chúng tôi khi chúng tôi băng đại dương đến đây, ba mẹ tôi với âm giọng kỳ dị, như giọng những người Anh nằm ngửa rồi ngáp dài. Những câu chuyện của ba mẹ về mặt trời, cá mập và chuột túi. Và hai đứa con thơ.
Roy vô cùng tử tế với chúng tôi, giúp chúng tôi tìm nhà, cho chúng tôi bàn ghế, nhượng lại cho ba mẹ tôi chiếc xe tải nhỏ hiệu Ford với giá quá hời, rồi bảo rằng giờ đây chúng tôi đã có xe thì nhớ ghé qua ngôi nhà gỗ nhỏ ven hồ của ông. Và chúng tôi đã ghé, em tôi và tôi ngồi đằng sau xe, chìa mũi ra ngoài hướng gió, hạnh phúc như những chú chó.
Roy đã đối xử với chúng tôi thật tử tế trong những buổi chiều ấy, cho chúng tôi ăn bánh mì trắng với mứt dâu và nước si rô Kool-Aid sắc hoa. Chúng tôi ăn uống no nê, em trai tôi và tôi, còn ba mẹ tôi thì uống bia với Roy, tuy ông uống ba lon thì ba mẹ tôi mới hết một lon, và chúng tôi nằm ngửa, chung quanh là những nhánh cây chót vót, mặt nước sẫm màu, và bầy ruồi mập như những trái dâu dại trong bụi rậm mà chúng tôi phải học tên của từng loại. Ở đây không có nhện độc, chỉ có một loại thường để lại những vết lằn trên da.
Ba tôi là người tiên phong thử trò chơi trượt nước, mặt bị dập xuống nước mấy mươi lần; ba muốn trở thành người Canada chính gốc, đậm chất Canada hơn cả Roy, và hai cậu con trai của Roy, hai anh biết lái tàu giỏi như thần, ngay trong lúc tay cầm lon bia dưới bầu trời ngập nắng. Tôi nhớ là mình đã phải lòng một trong hai người, mái tóc anh ta bồng bềnh trong gió đằng sau bánh lái, cùng với nụ cười tàn nhẫn của anh. Nhưng hình như điều này không thật, bởi lúc ấy tôi chỉ mới lên sáu.
Ba tôi rốt cuộc cũng trượt nước thành thạo. Ba và hai cậu con trai của Roy xé toạc tấm lưng mặt hồ như những kỵ mã vung roi trên lưng ngựa, trong lúc Roy ngồi trong bóng mát thưởng thức chai bia, tôi thì ngồi chơi với cậu em trai trong bóng râm trơn ướt dưới chiếc cầu tàu đậu. Mẹ ngồi ngắm chúng tôi từ phía bóng râm, những ngón tay mân mê đám rễ cây bu-lô ngập nước, mọc quá sát bờ hồ.
Sau đó, mấy người đàn ông nhóm ngọn lửa, Roy hay nhờ chúng tôi đi tìm nhánh cây, mà phải để ý chọn những cành còn tươi bởi không chúng sẽ xém lửa và bùng cháy. Chúng tôi hay tranh nhau xem ai nướng kẹo bông gòn dẻo vàng nhất mà không bị cháy đen, nhưng lần nào cây kẹo của tôi cũng bị cháy xém. Tôi không biết giữ cây kẹo xa tầm lửa.
Sau đó ít lâu bầy muỗi kéo tới, rồi bóng tối nối tiếp theo sau. Roy lấy giày đá lon bia, loại giày bốt rắn chắc dùng để làm ruộng mà ông vẫn mang dù trời có nóng đến đâu. Ông cứ đá tới cho đến khi nó lăn vào vũng tối, rồi bảo tôi đến ngồi vào lòng ông. Và ngay cả khi có ba mẹ tôi ngồi bên cạnh, tôi vẫn cảm thấy sờ sợ bàn tay ông, những ngón tay chai sạm trên da tôi rám vàng, những ngón tay như sinh vật lưỡng cư trên cạn cũng như dưới nước hồ, và hơi thở ông mang vị ngòn ngọt, buồn bã, lẫn mùi hoa bia và mùi cô đơn, phủ ngập đầy khuôn mặt tôi.
Xe buýt tròng trành, cụ già ngẩng đầu lên nhìn về phía tôi, nhưng ánh mắt tôi vụt trốn mất như những con cáo, rút vào những lỗ hở trên quần jeans tôi. Tôi ước gì chuyến xe đã đến đích. Lý do duy nhất mà tôi chịu lấy chuyến số 11 đến khu ngoại ô này, như thể đang đến tận cùng trái đất, là chỉ để đi gặp ba tôi. Và vợ ông. Trong căn nhà mới mà ba đang sửa sang lại cho vừa ý.
Dạo chúng tôi còn sống chung, gia đình bốn người trong thị trấn bé nhỏ ấy ở Alberta, ba tôi thường xuyên sửa sang cho đến khi ngôi nhà trở thành như mơ ước. Một giấc mơ mà bất cứ người đàn bà nào cũng chịu chết đi để được sống trong đó. Bất cứ người đàn bà nào ngoại trừ mẹ tôi.
Vài tháng trước, tôi và mẹ có lật lại những bức ảnh cũ vào khoảng thời gian đó, khoảng đời trước khi tôi lên mười, lúc gia đình mới dời đến sống tại vùng ven biển rồi tan rã. Mẹ và tôi tìm được rất nhiều khung hình của ngôi nhà đó, như xấp tư liệu về những gì tốt nhất một người đàn ông có thể đảm đang. Bên ngoài là những lớp ván lợp bằng gỗ tuyết tùng như những cọng lông chim, và tất cả những gì ấm cúng và hạnh phúc nhất nằm ở bên trong, như kính màu, gỗ và cây hoa. Ngoài vườn có hai con mèo, hai con chó, nhà trên cây có xích đu. Tất cả đều do ba tự tay làm lấy. Nhìn kìa, đẹp chưa kìa, mẹ tôi thốt lên, tay đưa cao tấm hình. Thật là một ngôi nhà hoàn mỹ.
Những khung ảnh của khoảng đời đó đã bị nhốt vào trong một cái rương, để lại hết cho mẹ vì ba tôi không thể chịu được nỗi đau đớn. Không ai dám nhìn lại những bức ảnh này hơn mấy chục năm qua, như thể bốn chúng tôi là đồng bọn trong một tội ác tày trời mà không ai dám nhắc lại và ai cũng muốn lãng quên. Tôi ngạc nhiên là mình đã nhớ thật nhiều điều: cấu trúc của ngôi nhà tuyết tùng đó, sân vườn nơi tôi ngồi vặt cỏ dại với em trai, hai con mèo đã chết vì bệnh sài sốt, hai con chó, một con ở với Roy bên bờ hồ bởi vì nó sủa nhiều quá, một con theo ba tôi sau cuộc ly hôn, một ký ức đỏ da thắm thịt về khoảng đời chung của gia đình tôi. Tôi nhớ chính xác mọi thứ, mẹ tôi như nàng tiên cá với hai bím tóc dài chấm tới nước hồ, dọc theo hai cánh tay vàng óng, ba tôi với bộ râu hoang dại hơn, cúi mình trước đốm lửa, khói trong mắt, một tay ôm vòng đứa con trai bé nhỏ. Tôi ngồi trên lòng già Roy, ánh mắt ông lim lim vì say, bàn tay ông nóng và cứng cỏi đặt trên đầu gối tôi.
Cụ già thì thầm với lồng ngực những bí mật u uất, như khơi gợi trong tôi về lần trước tôi đến nơi đây. Ba tôi uống cạn hết chai bia này đến chai bia khác, như thể mấy cái chai được buộc chung bằng một sợi chỉ dài vô hình. Lúc chúng tôi ăn gần hết ly kem là lúc ba sẵn sàng khóc lóc về mẹ tôi. Ba nhìn xuống đáy ly cạn rồi bảo rằng ông chưa yêu ai nhiều như thế, mẹ là người đã sinh con cho ông, mẹ là người biết con người thật của ông. Không, ông chưa bao giờ yêu ai bằng mẹ cả, trong lúc vợ ông cố tình gây tiếng động trong bếp, mấy cái đĩa va vào nhau loảng xoảng trong máy rửa chén, đập nồi niêu trong bồn rửa chén để không nghe thấy gì.
Hai cánh cửa xe buýt thở dài. Cụ già tập tễnh bước xuống những bậc thang, tôi dõi theo khuôn mặt bành, đầy vẻ hoang mang của ông xuyên qua lớp kính, như nét mặt của chú chó bị bỏ rơi bên lề đường. Tôi mường tượng ông đang đi thăm nhà con gái. Cô ấy sẽ giận dữ khi biết ông đang say xỉn, nhưng cô cũng sẽ cho ông ăn cái gì đó rồi dìu ông vào giường ngủ.
Tối nay là sinh nhật ba tôi, hy vọng tinh thần ông có phần phấn chấn hơn. Hay có khi ông sẽ lợi dụng thời cơ này để uống nhiều hơn.
Dù gì thì đây là lần thứ nhất trong vòng sáu năm nay tôi mới mang cho ông một món quà đúng nghĩa. Một cái khung để được sáu tấm hình. Tôi đã trân trọng chọn và ghép vào khung sáu tấm ảnh, ba ảnh của tôi, hai ảnh của em trai, một ảnh của ba và tôi đứng trước bờ hồ nhà Roy. Tất cả được chụp sau cuộc ly hôn. Không có ảnh của mẹ, tuy rằng bà vẫn có mặt trong tất cả mọi bức ảnh, như một cái bóng. Cho dù ba say bí tỉ đến cỡ nào, tôi sẽ nói với ba, nhìn kìa, chúng ta từng ở đó. Và giờ chúng ta đang ở đây.
Lưu Diệu Vân chuyển ngữ . | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Fri Jun 22, 2018 7:25 pm | |
|
Truyện Ngắn: Phục Thù Ái Khanh
Chiếc xe với bảng số Victoria ngưng lại trước văn phòng điạ ốc của Tuấn. Không cần nhìn kỹ, Tuấn cũng hiểu rõ chủ nhân là người lạ tại cái thành phố nhỏ bé này. Khi người lạ mặt vừa bước xuống xe, Tuấn nói với cô thư ký đang ngồi đọc sách một cách say mê: - Cô Hoa, có lẽ mình có khách. Hoa suýt giật mình, bỏ vội quyển sách vào ngăn kéo, lấy một tờ giấy đặt vào máy chữ giả vờ đánh lách cách.
Người lạ, với tờ báo cặp dưới nách, tiến tới trước cửa kiếng đứng nhìn những tấm hình quảng cáo. Đó là một người đàn ông mập mạp trong bộ đồ lớn lợt màu, mồ hôi lấm tấm trên trán. Ông ta vào khoảng trên dưới năm mươi tuy nhiên tóc vẫn còn dầy và đen nhánh. Khuôn mặt ông ta hồng hào - có lẽ vì nóng - với đôi mắt ti hí lạnh lùng. Rồi ông ta xô cửa bước vào, liếc nhìn cô thư ký đang bận rộn đánh máy trước khi gật đầu chào Tuấn: - Ông Tuấn? Tuấn cười thật tươi: - Dạ! Mời ông ngồi. Người đàn ông ngồi xuống, giơ tờ báo lên: - Tôi thấy có mấy căn nhà trong báo coi cũng tàm tạm. - Dạ, chúng tôi thường đăng những căn nhà tốt với giá rẻ trên báo này với kết quả rất tốt. Dạ thưa quí danh ông là... - Tôi là Chiến. Rồi Chiến móc túi lấy khăn tay ra lau mặt: - Hôm nay trời nóng quá! Tuấn lắc đầu chắc lưỡi: - Dạ, hôm nay trời nóng một cách bất thường. Ở đây trời ít khi nóng lắm. Nhiệt độ trung bình chỉ vào khoảng trên dưới 20 độ... Dạ, mời ông hút thuốc. - Cám ơn ông, tôi không hút. Tôi muốn coi căn nhà ông quảng cáo trong báo. - Dạ, thưa ông ông muốn coi căn nào? - Tôi cũng chưa quyết định... Nhưng có một căn nhà cũ ở gần ngoại ô, có lẽ khá yên tĩnh. - Dạ thưa chắc là căn nhà màu trắng giá $420,000? - Dạ đúng. Tuấn lắc đầu: - Thành thực mà nói với ông, đây là một căn nhà rất đặc biệt. Đáng lẽ chúng tôi không nhận bán nhưng chủ nhân nhất định năn nỉ và còn tự trả tiền quảng cáo nữa, thành ra... Chiến ngắt lời: - Căn nhà đó có gì mà ông gọi là đặc biệt. Tuấn cười gượng: - Dạ có lẽ tôi dùng chữ đặc biệt không được chính xác lắm. Đúng ra phải nói là căn nhà đó... mắc quá! Có lẽ ông sẽ không chấp nhận cái giá quá cao như vậy đâu! - Tại sao? Tuấn lục tìm trong tập hồ sơ, rút một tấm giấy ra đưa cho Chiến: - Xin ông coi đây thì rõ.
Chiến cầm tờ giấy ghi một vài chi tiết của căn nhà “Nhà fibro 3 phòng ngủ. Phòng khách, phòng ăn, nhà bếp, phòng tắm và nhà vệ sinh riêng. Đất 12mx32m. Cách ga 5 cây số. Cách trường 8 cây. $420,000”. Bên dưới là ghi chú bằng mực đỏ “Nhà cũ, cần sửa chữa nhiều. Chỉ đáng $250,000”. Chiến gật gù: - À thì ra thế! Nhưng tại sao chủ nhân lại đòi cao quá như vậy? Tuấn nhún vai: - Có lẽ bà ta tưởng đất của bà là vàng chắc. Chiến có vẻ ngạc nhiên: - Chủ nhân là đàn bà? Bà ta ở với ai? - Từ khi con bà ta chết cách đây khoảng trên ba năm, bà ta ở một mình. Chắc ông không muốn mất thì giờ đâu nhỉ? Ông muốn mua khoảng bao nhiêu, chúng tôi còn nhiều căn rất tốt và rất rẻ. Chiến có vẻ ngần ngừ: - Thực ta thì tôi rất thích vị trí của căn nhà này. Có lẽ mình có thể trả giá với bà chủ. Tuấn lắc đầu: - Bà ta đòi đúng giá, không bớt một xu. Chiến lấy khăn lau mồ hôi: - Hay ta cứ thử tới coi xem sao. Rồi Chiến đứng dậy: - Tôi đi bây giờ. Tuấn có vẻ ngạc nhiên: - Ông quyết định mua căn nhà đó hay sao? - Dạ thì cứ tới thử xem sao, có mất mát gì đâu. Tuấn thở dài, hỏi lại: - Ông có tới đó ngay bây giờ không? Ông biết địa chỉ không? - Dạ biết. Tấm bảng của ông cắm ngay sân trước ai mà chả thấy. - Để tôi điện thoại cho bà chủ. Bà ta tên là Đào.
Mười lăm phút sau Chiến ngừng xe trước căn nhà cũ kỹ. Sân trước cỏ dại mọc đầy, tường nhà tróc sơn loang lổ. Rõ rệt là căn nhà không được chăm sóc từ nhiều năm qua. Chiến xuống xe, leo lên mấy bực thềm, gõ mạnh vào cánh cửa cũ kỹ. Người đàn bà ra mở cửa ốm yếu và thấp bé với mái tóc bạc phơ. Đôi mắt của bà như sáng lên khi hỏi Chiến: - Ông là ông Chiến? - Dạ. - Chắc ông muốn coi nhà? Ông Tuấn vừa điện thoại cho tôi. - Dạ. Bà chủ nhà bước lui vài bước: - Mời ông vào. Vừa bước qua ngưỡng cửa, Chiến vừa lấy khăn tay lau mồ hôi: - Nóng quá! Bà chủ thản nhiên: - Tôi có pha sẵn một ít nước chanh để trong tủ lạnh. Chỉ có điều là ông không nên hi vọng là tôi sẽ bớt một xu cho ông.
Trong nhà tối tăm ẩm thấp với những cánh cửa sổ cũ kỹ đóng kín. Đồ đạc trong nhà có lẽ cũng cùng tuổi với chủ nhân. Bà chủ lặng lẽ bước tới ngồi lên cái ghế bành cũ, nét mặt hoàn toàn không cảm xúc. Chiến nhìn quanh trước khi lên tiếng: - Tôi vừa nói chuyện với ông Tuấn... Bà chủ ngắt lời: - Tôi biết! Chắc ông ta lại nói là căn nhà này không đáng giá $420,000 phải không? Nếu ông không đồng ý, xin ông cứ tự nhiên ra khỏi nhà. Tôi không bớt một xu. Chiến hắng giọng: - Dạ, tôi không biết là tôi có nên trả giá hay không. Tuy nhiên mình có thể thảo luận một chút. Chủ nhân ngửa mình vào lưng ghế: - Ông muốn thảo luận điều gì xin cứ tự nhiên, nhưng đừng trả giá. Chiến lại lau mồ hôi ướt đẫm trên mặt: - Dạ... Tôi là dân buôn bán, còn độc thân. Tôi dành dụm được chút đỉnh và rất thích thành phố này sau khi có dịp đi ngang hồi mấy năm về trước nên tôi có ý định sẽ hồi hưu ở đây. Hôm nay nhân chạy ngang đây, tôi ghé vào văn phòng ông Tuấn hỏi xem ông có căn nhà nào vừa túi tiền hay không và ông ta gởi tôi tới đây. Không hiểu tại sao tôi cảm thấy thích căn nhà này ngay khi vừa bước vào cửa. Bởi thế tôi đề nghị bà nên bán với giá phải chăng. - Giá phải chăng! Hừ, tôi đã nói ngay từ đầu là không có vấn đề trả giá rồi mà! Nếu ông không trả nổi giá tôi đòi, ông có thể tìm mua nơi khác. Rồi chủ nhân đứng dậy lạnh lùng: - Chào ông. Chiến lúng túng: - Thưa bà... Chủ nhân vẫn lạnh lùng: - Tôi xin nhắc lại là không có vấn đề trả giá. Tôi đã dặn đi dặn lại ông Tuấn hàng trăm lần rồi. Chiến có vẻ bối rối: - Thực ra thì... tôi không biết phải nói sao, nhưng... tôi đồng ý trả giá bà muốn. Chủ nhân nhìn sững Chiến: - Ông có chắc không? - Chắc chắn! Tôi có đủ tiền. Nếu bà nhất định muốn bán với giá đó, tôi trả giá đó. Khuôn mặt chủ nhân như dịu lại, nhưng đôi mắt bà như sáng lên: - Có lẽ nước chanh đã đủ lạnh rồi. Để tôi lấy mời ông uống một chút cho đỡ khát.
Chiến đang lau mồ hôi khi chủ nhân trở lại với ly nước chanh mát lạnh. Chiến đỡ lấy uống một hơi gần nửa ly. Chủ nhân lại ngồi xuống cái ghế bành. Lần này bà nói với vẻ trầm ngâm: - Căn nhà này của gia đình tôi từ hơn một trăm năm nay. Tất cả những người trong nhà, ngoại trừ Long con trai tôi, đều ra đời trong căn phòng nhỏ kế bên nhà bếp. Chỉ có tôi là nhất định sanh Long tại nhà bảo sanh. Bà chớp chớp đôi mắt, lúc này không còn trong sáng nữa: - Tôi biết căn nhà này rất cũ. Ông Tuấn nói rằng căn nhà này còn bị mọt ăn nữa. Nhưng tôi vẫn thương căn nhà này. Chắc ông cũng hiểu? - Dạ! - Ba của Long mất khi nó mới lên chín. Long bỏ thành phố này lên ở Sydney trái ý muốn của tôi! Nhưng nó cũng giống như các thanh niên thời nay, đầy tham vọng nhưng không biết hướng đi. Tôi không biết nó làm gì ở Sydney. Nhưng có lẽ nó thành công vì nó gởi tiền cho tôi đều đặn. Bà đưa tay lên lau mắt: - Tôi không gặp con tôi trong chín năm trời. Tôi buồn khổ lắm! Nhưng khi nó trở về, tôi còn buồn hơn... Nó về nhà vào lúc nửa đêm, mặt mày hốc hác, già hơn đến năm mười tuổi! Nó về nhà với một cái valise nhỏ màu đen. Khi tôi tính đỡ cho nó, nó hất mạnh khiến tôi suýt té. Tôi đưa nó vào giường như khi nó còn nhỏ, và tôi nghe nó rên rỉ suốt đêm. Sáng hôm sau nó nói rằng nó phải ra khỏi nhà trong vài tiếng đồng hồ để làm một cái gì rất quan trọng. Nó không cắt nghĩa gì thêm, chỉ xách chiếc valise đi. Chiều hôm đó nó trở về tay không, không có cái valise đen.
Đôi mắt Chiến như mở rộng: - Thế nghĩa là gì? - Tôi không biết. Nhưng tôi được người ta cho biết... Đêm hôm đó có người vào nhà tôi. Tôi không biết làm sao ông ta vào được. Tôi chỉ biết khi nghe tiếng ồn ào trong phòng con tôi. Tôi lắng nghe xem con tôi bị lôi thôi vì việc gì, nhưng chỉ nghe tiếng la hét và đe doạ... Rồi... Bà già ngưng lại, đôi vai bà như xệ xuống: ... súng nổ. Khi tôi chạy sang, cửa sổ phòng con tôi mở toang, người lạ đã biến mất, và con tôi... thằng Long của tôi nằm dưới đất... Chết rồi! Bà lắc đầu: - Chuyện đó cách đây hơn ba năm rồi. Cảnh sát cho tôi hay rằng con tôi và người lạ mặt dính líu tới một vụ cướp... lên tới bạc triệu. Thằng Long ôm trọn số tiền toan chiếm lấy một mình. Nó giấu trong căn nhà này, mà cho tới bây giờ tôi vẫn không biết ở đâu. Người lạ mặt tới tìm nó đòi phần chia. Khi nó từ chối, ông ta bắn chết nó... thằng Long, con tôi... Rồi chủ nhà ngước lên, nói thật chậm rãi: - Đó là lý do tại sao tôi đăng bảng bán nhà đắt gần gấp đôi thực giá, vì tôi biết một ngày nào đó kẻ giết con tôi sẽ trở lại. Một ngày nào đó ông ta sẽ mua căn nhà mục nát này với bất cứ giá nào. Bà ngưng lại một chút rồi nói bằng một giọng vô cùng thanh thản: - Tôi chỉ cần kiên nhẫn đợi chờ với một ly nước chanh có pha thuốc độc...
Rồi bà tựa ngửa vào ghế nhìn Chiến với ánh mắt chợt như bừng sáng. Chiến run rẩy đặt cái ly không còn một giọt xuống bàn. Hắn không nghe rõ những lời nói cuối cùng của chủ nhân vì đôi mắt hắn đã trợn trừng, đầu hắn bật ngửa, tuy hắn vẫn cố lẩm bẩm: - Nước... chanh... của bà... đắng quá!
Ái Khanh . | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Sun Jul 15, 2018 8:00 am | |
| Xa chạy cao bay Somerset Maugham (1874-1965)
Từ trước tới nay tôi vẫn đinh ninh cho rằng một khi một người phụ nữ đã định lấy ai làm chồng thì không gì có thể cứu nổi anh ta ngoài việc bỏ của chạy lấy người ngay lập tức.
Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào người ta cũng làm được như vậy, bởi vì có một lần, một người bạn của tôi khi thấy mối nguy cơ tất yếu ấy đang lù lù hiện ra đầy đe doạ trước mắt, anh ta liền vội vã xuống tàu từ một hải cảng nào đó (tất cả hành lý anh đem theo lúc đó chỉ vẻn vẹn có một chiếc bàn chải đánh răng mà thôi, điều đó chứng tỏ rằng anh đã ý thức sâu sắc đến mức nào về mối nguy cơ và sự cần thiết phải hành động tức thời không được chậm trễ ấy!), và anh đã bỏ ra cả một năm trời đi chu du vòng quanh thế giới. Nhưng khi thầm nghĩ rằng mình đã thoát nạn (chẳng là, anh ấy cho rằng phụ nữ hay thay lòng đổi dạ, và sau 12 tháng trời đằng đẵng, chắc chắn cô nàng đã quên hết chuyện cũ rồi!), anh đã lên bờ ở chính cái cảng năm xưa, thì người đầu tiên anh trông thấy đang vẫy tay hân hoan mừng đón anh từ trên bến cảng lại chính là cô gái bé bỏng mà anh đã bỏ trốn.
Một lần khác tôi được biết có một anh chàng trong một tình huống như vậy đã tìm trăm phương nghìn kế để thoát thân. Tên anh ta là Roger Charing. Anh ta không còn trẻ trung gì khi đem lòng thầm yêu trộm nhớ Ruth Barlow. Hẳn anh đã có đủ kinh nghiệm để khiến mình phải cảnh giác, tuy nhiên Ruth Barlow có một cái tài trời phú cho (không biết tôi có nên gọi đó là một biệt tài không?), biệt tài này thường làm cho đa số cánh tu mi nam tử hết phương tự vệ, và chính biệt tài này cũng đã làm cho Roger lẫn, mất hết lý trí thông thường, tính thận trọng và sự khôn ngoan của một con người trần tục trong anh. Anh đã ngã gục ngay từ loạt đạn đầu. Biệt tài đó chính là tính đa sầu đa cảm của Barlow.
Bà Barlow – vì chính nàng đã goá hai đời chồng – có đôi mắt đen huyền, mơ màng đến tuyệt vời, cặp mắt long lanh gợi cảm nhất mà tôi chưa hề gặp bao giờ. Cặp mắt nàng lúc nào cũng như đẫm lệ: chúng toát lên ý nghĩa rằng cuộc đời này quả là quá sức chịu đựng đối với nàng, và ta cảm thấy rằng những nỗi khốn khổ, những nỗi đau thương của nàng thật không ai có thể sánh nổi. Cũng giống như Roger Charing, ví thử bạn là một người đàn ông khoẻ mạnh, lực lưỡng lại lắm bạc nhiều tiền, thì ắt hẳn bạn sẽ phải tự nhủ rằng: nhất định ta phải ra tay chặn đứng những nỗi bất công của cuộc đời đối với con người bé bỏng, yếu đuối đáng thương này. Ôi, được làm tiêu tan nỗi u sầu trên khoé mắt tròn xoe đáng yêu kia của nàng thì thật là một điều kỳ diệu biết chừng nào!
Qua Roger, tôi được biết rằng mọi người đã đối xử với Ruth Barlow rất tệ bạc. Nàng quả là một trong số những con người bất hạnh, chẳng hề gặp chuyện tử tế bao giờ. Nếu nàng lấy chồng, thì hắn đánh đập, hành hạ nàng; nếu nàng thuê một tay môi giới thì hắn lừa dối nàng; nếu nàng mướn một tay nấu bếp thì hắn lại luôn luôn say mèm. Trong đời, chưa bao giờ nàng gặp được một điều gì may mắn cả.
Khi Roger báo cho tôi biết là cuối cùng anh đã thuyết phục được nàng kết hôn với anh, tôi đã chúc anh hạnh phúc. – Tôi hy vọng anh và Barlow sẽ là những người bạn tốt của nhau – Roger nói – Cô ấy có hơi ngại anh, anh biết đấy, cô ấy cho rằng anh chai đá lắm. – Tôi xin thề tôi không hiểu tại sao chị ấy lại nghĩ về tôi như vậy. – Anh cũng thích Ruth Barlow đấy chứ? – Rất thích! – Barlow đã có một thời sa ngã, thật đáng thương. Tôi cảm thấy sao mà ái ngại cho cô ấy thế! – Thế à! – Tôi nói. Tôi không thể nói ít hơn được. Tôi biết Ruth Barlow là một con người chẳng ra gì, và tôi cho rằng ả đang mưu toan gì đây. Riêng tôi, tôi vẫn tin rằng ả rắn như đanh.
Lần đầu tiên tôi biết Ruth Barlow khi chúng tôi cùng nhau chơi bài Bridge và khi ả chơi cùng hội với tôi, ả đã đánh lận hai quân bài cao nhất của tôi. Tôi đã đối xử như một người quân tử, nhưng tôi phải thú thực rằng chính tôi, chứ không phải ả, là người đã tức phát điên lên. Thế rồi vào khoảng chiều tối hôm đó, khi ả đã thua tôi một số tiền lớn, ả hứa là sẽ gửi séc để trả tôi, nhưng thực tế đã không bao giờ trả cả. Tôi chỉ có thể nghĩ rằng nếu lần sau gặp lại nhau thì chính tôi, chứ không phải ả, là người sẽ mang cái vẻ mặt lâm ly, rầu rĩ.
Roger đưa Ruth Barlow đi giới thiệu với tất cả các bạn bè của anh. Anh tặng nàng những đồ trang sức tuyệt đẹp. Anh đưa nàng đi du ngoạn khắp nơi. Họ công bố là lễ cưới của họ sẽ được tổ chức trong một tương lai gần nhất. Roger rất hạnh phúc. Anh đang làm một việc tốt, đồng thời cũng là việc anh rắp tâm muốn thực hiện. Tuy vậy, nếu Roger có cảm thấy hơi quá tự mãn một chút (thực ra sự việc không đáng để người ta cảm thấy tự mãn đến như vậy) thì đó quả là một chuyện hơi lạ và đáng ngạc nhiên.
Thế rồi bỗng nhiên anh ấy lại ngãng ra. Tôi không hiểu lí do tại sao. Khó có thể vì anh ấy chán ngấy cái lối nói chuyện của nàng, vì nàng có hề biết chuyện trò gì đâu. Có lẽ chỉ vì vẻ mặt đa sầu đa cảm của nàng không còn làm rung động trái tim anh nữa chăng? Anh đã tỉnh ngộ và một lần nữa anh lại trở lại con người khôn ngoan, từng trải trước kia. Anh thừa biết rằng Barlow đã quyết chí lấy anh mà anh thì đã thề độc rằng không đời nào anh lại cưới Barlow làm vợ cả. Anh đang ở trong một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Giờ thì anh đã tỉnh ngộ cho nên anh đã thấy rõ loại người phụ nữ mà anh đang phải đương đầu rồi. Anh biết rõ rằng nếu anh yêu cầu nàng buông anh ra, thì nàng sẽ (bằng cách khêu gợi của mình) bắt anh phải trả một giá đắt cho những tình cảm bị tổn thương của nàng. Vả chăng, đối với một người đàn ông, phụ tình một người phụ nữ nó khó xử thế nào ấy. Mọi người thể nào cũng nghĩ rằng anh là một gã sở khanh, trăng hoa tồi tệ.
Roger vẫn giữ kín những ý nghĩ của mình không tâm sự với ai cả. Anh không hề để lộ một lời nói hoặc một cử chỉ nào biểu hiện rằng tình cảm của anh đối với Ruth Barlow đã thay đổi. Anh vẫn chú ý tới những ước muốn của nàng, anh vẫn đưa nàng đi ăn hiệu, hai người vẫn đi xem hát với nhau, anh vẫn gửi hoa tặng nàng, anh vẫn tỏ ra tình tứ và duyên dáng. Họ đã quyết định là họ sẽ tổ chức lễ cưới ngay sau khi họ tìm được một ngôi nhà phù hợp với ý muốn của mình bởi vì cả hai vẫn còn phải đi ở thuê. Và thế là hai người bắt đầu cuộc săn lùng nhà cửa theo ý muốn của họ. Các đại lý đã gửi cho Roger danh sách những nhà rao bán để anh xem và anh đã đưa Barlow đi xem một số ngôi nhà. Thật khó có thể tìm được một ngôi nhà nào làm vừa lòng họ. Roger lại tiếp tục gửi thư đến các đại lý khác. Hai người đi xem hết ngôi nhà này đến ngôi nhà khác. Họ quan sát tỉ mỉ, từ căn hầm dưới tầng trệt cho tới căn gác xép dưới mái nhà. Khi thì chúng quá rộng, khi thì chúng quá hẹp; khi thì chúng quá xa trung tâm, khi thì chúng lại quá gần; khi thì chúng quá đắt; khi thì chúng lại quá tốn kém vào các khoản sửa sang, tu bổ; khi thì chúng quá ngột ngạt; khi thì chúng lại quá trống trải; khi thì chúng quá tối tăm, khi thì chúng quá ảm đạm, tiêu điều.
Roger bao giờ cũng tìm ra được một sai sót khiến cho ngôi nhà không phù hợp với yêu cầu. Quả thật anh cũng là người khó chiều, anh không thể nỡ lòng nào bắt Ruth Barlow thân yêu của anh phải ở trong bất cứ ngôi nhà nào, trừ phi đó là một ngôi nhà hoàn hảo, mà muốn có ngôi nhà hoàn hảo thì phải mất công tìm kiếm mới thấy được. Săn lùng nhà cửa quả là một việc làm rất mệt và rất chán; chẳng mấy chốc Ruth Barlow tỏ ra bực bội, Roger van xin nàng hãy kiên trì. Chắc chắn ở một nơi nào đó có chính ngôi nhà mà họ đang tìm kiếm, và chỉ cần kiên trì một chút là họ có thể tìm ra được ngay. Họ đã xem xét hàng trăm ngôi nhà, họ đã leo hàng ngàn bậc thềm, họ đã kiểm tra không biết bao nhiêu căn bếp mà kể. Ruth Barlow cảm thấy kiệt sức và đã hơn một lần nàng nổi cáu.
– Nếu anh không tìm được một ngôi nhà ngay – nàng nói – thì tôi sẽ phải xem xét lại quyết định của mình. Vì nếu anh cứ tiếp tục như thế này mãi, thì bao nhiêu năm nữa chúng ta cũng chẳng lấy được nhau. – Đừng nói thế, em! – Anh đáp – Anh van em hãy kiên trì một chút. Anh vừa mới nhận được một số danh sách nhà cửa hoàn toàn mới do các đại lý mà anh mới biết gửi cho. Ít ra cũng phải có đến sáu chục ngôi nhà trong các danh sách đó. Thế là hai người lại lao vào cuộc săn lùng một lần nữa. Họ xem thêm không biết bao nhiêu ngôi nhà; trong hai năm trời họ chỉ toàn đi xem nhà. Ruth Barlow trở nên ít nói và khinh khỉnh. Cặp mắt đen láy dịu buồn của nàng lại ánh lên một vẻ âu sầu, rầu rĩ. Sức chịu đựng của con người chỉ có hạn. Bà Ruth Barlow đã kiên trì hết mức, và cuối cùng bà đã nổi cơn tam bành.
– Anh có còn muốn cưới tôi nữa hay không đấy? – Ruth hởi Roger. Có một vẻ cứng rắn khác thường trong giọng nói của nàng, nhưng nó không hề làm thay đổi vẻ dịu dàng trong lời đáp của anh. – Tất nhiên là anh vẫn muốn cưới em. Chúng ta nhất định sẽ cưới nhau ngay sau khi chúng ta tìm được một ngôi nhà theo đúng ý nguyện của chúng ta. Nhân thể anh muốn báo cho em biết là anh vừa mới nhận được thông tin về một ngôi nhà nào đó có thể phù hợp với chúng ta đấy. – Ngay giờ đây tôi không cảm thấy còn đủ sức để xem thêm nhà với anh nữa. – Em yêu của anh, anh e rằng em trông có vẻ hơi mệt đấy! Ruth Barlow nằm liệt giường liệt chiếu. Nàng không muốn nhìn mặt Roger nữa, và anh đành phải tới nơi nàng ở để thăm hỏi và tặng hoa. Anh vẫn ân cần, lịch sự như lúc nào hết. Ngày nào anh cũng viết thư báo cho nàng hay rằng anh đã lại nhận được thêm thông tin về một ngôi nhà mới nữa để hai người cùng đi xem. Một tuần lễ trôi qua và rồi anh bỗng nhận được bức thư sau đây:
Roger, Tôi cho rằng anh không thực lòng yêu tôi. Tôi đã tìm được một người muốn được quan tâm chăm sóc tôi, và ngay hôm nay đây, tôi sẽ lấy anh ta. Ruth Barlow.
Roger gửi thư trả lời qua một phái viên đặc biệt:
Em Ruth thân yêu, Tin của em làm cho trái tim anh tan nát. Anh sẽ chẳng bao giờ hàn gắn nổi vết thương này, nhưng tất nhiên hạnh phúc của em bao giờ cũng phải là mối quan tâm hàng đầu của anh. Anh gửi kèm theo đây mấy bản danh sách nhà mới nữa để em tham khảo, những danh sách này mới tới sáng nay bằng đường bưu điện và anh tin chắc rằng nhất định em sẽ tìm được trong số này một ngôi nhà đúng như sở thích của em. Roger.
(Dịch giả Điền Thanh, từ nguyên tác “The Escape”)
| |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Thu Aug 02, 2018 12:11 pm | |
|
Lão thợ diều Ruskin Bond
Nguyễn Khắc Phước chuyển ngữ
Nguyên tác: The Kite Maker, tác giả Ruskin Bond, đăng trong tập The World’s Best Contemporary Short Stories, nhà xuất bản Ace Books Inc., New York, 1956.
ĐÔI DÒNG VỀ TÁC GIẢ: Ruskin Bond sinh năm 1934 tại Kasauli, Himachal Pradesh, Ấn Độ. Ông xuất thân từ gia đình có hai dòng máu Anh-Ấn, và trải qua thời niên thiếu ở một vùng đồi dưới chân núi Hymalaya, nơi ông lấy bối cảnh để viết nhiều tác phẩm. Năm 17 tuổi, ông sang Anh, vừa làm thay đổi nhiều việc, vừa viết văn. Năm 1957, cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, THE ROOM ON THE ROOF, đoạt giải Llewellyn Rhys Prize, giải thưởng văn học của hằng năm của nước Anh dành cho các nhà văn dưới 30. Năm 1992, ông nhân giải thưởng Sahitya Akademi dành cho tập truyện ngắn “OUR TREES STILL GROW IN DEHRA” do Viện Văn Học Quốc Gia Ấn Độ cấp. Năm 1999, ông nhận giải thưởng Padma Shri do có công đóng góp lớn cho văn học thiếu nhi.
***
Trên đường Gali Ram Nath có một cây đa cổ thụ đã mọc từ một vết tường nứt của một đền thờ Hồi giáo bỏ hoang – và con diều của thàng bé Ali bị mắc trên cành cây đó.
Thằng bé, chân trần và phong phanh một chiếc áo rách, chạy dọc theo con phố hẹp lát sỏi đến chỗ ông nội nó đang ngồi gật gù mơ màng trong sân nắng. “Nội ơi!” thằng bé gọi. “Diều mất rồi!” Ông lão đang mơ màng bỗng giật mình, ngẩng đầu lên, lộ ra chòm râu mà nếu không nhuộm thì đã bạc trắng rồi. “Dây dứt rồi hả?” lão hỏi. “Thứ dây đó đâu có tốt bằng dây ngày xưa.” “Không phải đứt dây, nội ơi, diều bị mắc trên cây đa.” Lão cười khoái trá. “Cháu chưa biết thả diều đâu, cháu ạ. Ông thì già rồi, chẳng giúp cháu được. Tiếc quá nhỉ! Nhưng cháu sẽ có con khác.” Lão vừa làm xong một con bằng tre, giấy và lụa mỏng, đang phơi nắng cho cứng. Thân diều màu hồng nhạt, đuôi ngắn màu xanh lục. Lão trao con diều cho Ali, và thằng bé nhón chân để hôn vào má hóp của ông nội nó. “Cháu sẽ không làm mất con diều này” thằng bé nói. “Nó sẽ bay như chim.” Rồi nó quay gót, nhảy cà tưng ra khỏi sân.
Lão già vẫn ngồi mơ màng trong nắng. Tiệm làm diều của lão không còn nữa. Toàn bộ cơ sở đã bán cho người buôn đồ cũ từ lâu. Nhưng lão vẫn làm diều để giải trí và để cho thằng cháu nội. Chẳng mấy người mua diều chơi vào thời đại phi đạn và vệ tinh này. Người lớn chẳng để ý gì đến diều gió; trẻ con chỉ thích xem phim. Hơn nữa, chẳng còn chỗ trống để thả diều. Thành phố đã nuốt chửng cái công viên xanh trải dài từ tường thành cổ đến bờ sông. Nhưng lão vẫn nhớ cái thời người lớn tụ tập chơi thả diều trên công viên và những cuộc thi thả diều. Diều lượn trên trời đôi khi bị vướng vào nhau cho đến khi dây bị đứt, có khi dẫn đến ẩu đả. Những con diều bị thua cuộc được giải phóng bay vào trời xanh vô định. Có nhiều cuộc cá độ và tiền chuyển từ túi người này sang túi người khác.
Thả diều có thời là môn thể thao của nhà vua dưới triều Nawab. Lão còn nhớ chính nhà vua và đoàn tùy tùng đã ra tận bờ sông để tham gia trò tiêu khiển dành cho hoàng tộc này. Thời đó, người ta còn thì giờ rảnh rỗi để thưởng thức điệu múa vui nhộn của giấy. Ngày nay, ai cũng vội vội vàng vàng như đang đeo đuổi tham vọng gì đó thật lớn lao thì những thứ mảnh mai như diều và mong manh như những giấc mơ thường bị dẫm đạp như rác rưởi. Lão Mahmood thợ diều đã có thời hoàng kim, được cả thành phố biết đến. Một vài con diều của lão được làm hết sức sông phu và bán với giá ba hoặc bốn ru-pi. Theo lệnh của nhà vua, có lần lão đã làm một loại diều đặc biệt, không giống bất cứ con nào ở trong vùng từ trước đến nay. Con diều được ghép bằng hàng chục khung tre mỏng, dán giấy cực nhẹ. Ở góc mỗi khung, ông gắn một cánh lá làm thăng bằng. Mặt diều hơi lồi, trên đó vẽ một mặt người kỳ quái, hai mắt gắn hai miếng gương nhỏ. Diều nhỏ dần từ đầu đến đuôi, uốn lượn dễ dàng, khiến nó có hình thù như con rắn đang bò. Phải khéo léo lắm mới điều khiền được con diều kềnh càng này rời khỏi mặt đất, và chỉ Mahmood mới làm được.
Người ta nghe tiếng con “Diều Rồng” của lão và đồn thổi rằng nó có sức mạnh siêu nhiên. Rất đông người đã tụ tập ở công viên để xem Mahmood thả diều trước sự chứng kiến của nhà vua. Thoạt đầu nó không chịu rời mặt đất. Thân nó phát ra tiếng càu nhàu, cự nự, và mấy miếng kính trong mắt nó phản chiếu ánh mặt trời đỏ rực khiến con diều trở nên một con vật bướng bỉnh, khó trị. Thế rồi gió thổi đúng hướng và con Diều Rồng bay vút lên không, lượn qua lượn lại, mỗi lúc một cao hơn, nhấp nháy đôi mắt tinh quái. Khi đã lên cao vút trên trời, nó kéo dây quá mạnh khiến thằng con trai của lão phải vào giúp sức. Nhưng con diều chẳng chịu thua, nó càng giựt mạnh, dường như muốn tự do, muốn thoát, muốn cuộc sống riêng. Và dần dần nó thực hiện được. Dây diều đứt phựt, con diều lao vút về phía mặt trời, về phía thiên đường, cho đến khi biến mất khỏi tầm nhìn. Không ai tìm thấy nó ở đâu sau đó. Mahmood không hiểu sao mình làm được một con diều kỳ diệu như vậy. Lão không thể làm lại một con giống như thế, nhưng bù lại, lão làm một con có gắn ống sáo phát ra tiếng ngân nga như tiếng đàn vi-na khi nó lượn trên không.
Vâng, đó là những ngày thoải mái thảnh thơi. Nhưng vua Nawab đã chết từ lâu rồi, và cháu chắt ông ta cũng nghèo gần như Mahmood. Thợ làm diều, giống như người làm thơ, cần có người bảo trợ; nhưng bây giờ chẳng ai biết đến lão Mahmood nữa, chẳng ai hỏi tên hay nghề nghiệp của lão, chỉ vì bây giờ quá đông người sống trên phố Gali, và chẳng ai buồn để ý đến người hàng xóm. Hồi trẻ, khi lão bị ốm, hàng xóm thường đến thăm hỏi sức khỏe; nhưng nay, khi đời lão chẳng còn bao nhiêu ngày thì chẳng ai đến viếng thăm. Quả thực như vậy vì hầu hết bạn già của lão đã chết, con của lão đã lớn khôn, một đứa làm gần, còn đứa kia thì làm tận Pakistan vào thời phân chia lãnh thổ nên không thể về thăm bà con. Những đứa trẻ mười năm trước đây mua diều của lão nay đã thành người lớn, đang lo kiếm sống, chẳng có thời gian để nghĩ đến lão và những hoài niệm của lão. Chúng đã trưởng thành trong thế giới cạnh tranh đang thay đổi nhanh chóng và thờ ơ với lão thợ diều chẳng khác gì với cây đa bên đường. Cả hai đều bị xem như là thứ cố định vĩnh viễn, chẳng liên quan gì đến cộng đồng chạy hùng hục quanh họ. Không còn ai tụ tập dưới cây đa để bàn bạc chuyện này, dự định chuyện kia; chỉ trong mấy tháng hè, đôi khi có người ghé chút để tránh nắng trưa.
Nhưng dĩ nhiên có thằng cháu nội của lão. Còn may lão có thằng con làm gần nhà, và con dâu ở với lão. Xem thằng bé chơi cũng vui. Nó giống như một cây non đang đâm chồi nảy lộc. Có sự giống nhau giữa cây và người. Cả hai lớn lên cùng nhịp độ nếu không bị bỏ đói, bị hại hay bị chặt. Vào thời trẻ, cây và người đều xinh đẹp rạng rỡ, đến tuổi xế chiều, cả hai đều còng xuống, dường như để nhớ về quá khứ, cánh tay yếu đuối thì lộ ra ngoài nắng, và thở dài trút những chiếc lá cuối cùng.
Lão Mahmood trông giống cây đa cổ thụ, tay lão sần sùi và vặn vẹo như rễ cây. Thằng Ali giống như cây mimosa mọc ở cuối sân. Trong hai năm, cả cây lẫn thằng bé đã tràn đầy sức sống và niềm tin vào tuổi thanh niên tương lai. Tiếng động trên phố càng lúc càng nhỏ dần. Mahmood không hiểu mình có ngủ gật và, như thường khi, mơ về một con diều xinh đẹp và mạnh mẽ như con chim Garuda trong thần thoại Hindu. Lão muốn làm một con diều thật đẹp để tặng Ali. Lão chưa có gì để lại cho nó. Lão nghe văng vẳng tiếng Ali nhưng không biết nó đang gọi mình. Tiếng thằng bé dường như từ một nơi xa, rất xa.
Ali đang ở trước sân, nó hỏi mẹ đi chợ về chưa. Khi thấy ông nội không trả lời, thằng bé đến gần, hỏi lại. Ánh nắng chiều chiếu nghiêng qua đầu lão, và một con bướm trắng đậu trên chòm râu của lão. Mahmood lặng yên, và khi thằng bé đặt bàn tay rám nắng của nó lên vai ông nội, nó chẳng thấy ông động đậy gì. Thằng bé nghe tiếng gì đó tựa như tiếng mấy hòn sỏi trong túi nó cọ nhau.
Đột nhiên nó sợ và quay bước ra cổng. Nó vừa chạy xuống phố vừa kêu mẹ. Con bướm rời râu ông lão bay về phía cây mimosa. Trên cây đa, đột nhiên có cơn gió mạnh, nâng con diều lên cao, xa khỏi thành phố hối hả vã mồ hôi, và đưa nó vào trời xanh bao la.
(Nguồn: Blog Chùm Khế Chua của Nguyễn Khắc Phước) | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Sun Aug 26, 2018 7:26 am | |
| .
ĐOẠN TUYỆT KIỂU ROME Francoise Sagan (Pháp) (1935-2004)
Anh mời nàng đến dự buổi tiệc cocktail, mời lần cuối cùng. Nàng không biết điều đó. Nàng không biết rằng giống như Blandine, nàng sắp bị anh đẩy ra cho bầy sư tử - đó là đám bạn bè anh. Đúng thế, anh đã quyết định hôm nay sẽ cắt đứt với nàng, một phụ nữ tóc vàng tẻ nhạt, chẳng có gì độc đáo, trái tính trái nết, thêm nữa lại không mấy nồng nàn. Rốt cuộc anh đi đến quyết định này sau khi đã quan hệ với nàng ít nhất hai năm rồi, và không thể nói là nó chín muồi: anh quyết định như thế trong một phút tức giận trên bãi biển, ở Rome.
Luigi, thần tượng của những vũ hội hoá trang, sành sỏi về ôtô, phụ nữ và các con đường chắc chắn dẫn tới thành công, nhưng lại rất hèn trong một vài hoàn cảnh của cuộc đời – con người đó định nói lời đoạn tuyệt với người tình. Và thật kỳ lạ, để làm việc ấy, anh lại phải dựa vào ý thức bầy đàn, anh lại cần đến họ, những con người dửng dưng và vui tươi, kín đáo và biết cách quyến rũ, có khi còn thân ái nữa, những con người mà anh gọi là “bạn bè tôi”. Đã ba tháng nay, họ thấy anh hay cáu kỉnh, dần dần xa rời nàng, trở nên nhẫn tâm, tóm lại, họ thấy anh đang chuẩn bị về mặt tinh thần để bỏ cô nàng Inge chán ngắt kia. Nàng Inge chán ngắt trong một thời gian dài từng là một trong những vị “khách nữ đẹp nhất của thành Rôme”, thêm nữa, như đám bạn bè của anh nói một cách tự hào, nàng là một trong những người tình đẹp nhất của Luigi. Nhưng hai năm đã trôi qua, các mốt và những gì nữa chỉ có trời biết cũng đã trôi qua, giờ đây, trong lòng đầy bực bội, Luigi chở trong xe mình nàng Inge vẫn xinh đẹp như xưa nhưng điều đó chẳng thay đổi được gì – tới buổi tiệc cocktail này, buổi cocktail vĩnh biệt.
Nói thật ra anh không hiểu rõ lắm tại sao anh lại muốn cắt đứt với nàng đúng vào tối nay, anh cũng không hiểu tại sao tất cả mọi người đều phải biết chuyện đó. Dù sao, nắm chắc tay lái chiếc xe mui trần chạy rất nhanh của mình, với dây đai an toàn, không cài nằm ở bên cạnh, anh vội vã thẳng tay ném người tình của mình cho bầy thú dữ. Nói một cách khác, anh định bỏ nàng, nhưng muốn làm điều đó thật ồn ào để không thể nào sửa chữa lại được nữa. Anh không phải là người kém cỏi, nhưng anh cảm thấy có một cái gì đó giống như sự sợ hãi trước sự cô đơn, anh dường như có thói quen phải luôn cùng với một ai đó và có một nhu cầu sâu sắc, tuyệt vọng đến tận tâm can, cần được những người khác tán thành hành vi của anh. Những người khác ấy, dù họ đần độn hay chín chắn, tàn nhẫn hay dịu hiền, dù họ là nạn nhân hay là những kẻ săn đuổi, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào họ cũng phải là “những người khác”, những người lang bang hàng giờ trên các con đường trong thành phố của họ - thành Rôme. Họ là những bệnh nhân do chính họ, bị đầu độc bởi bản thân, đung đưa trên mũi nhọn giữa các thói xấu của họ. Inge bước vào thế giới ấy như một thứ đồ vật đẹp – tóc vàng, mắt xanh, chân dài, cực kỳ nền nã, - nàng lập tức trở thành đối tượng của một cuộc đua tranh giống như một cuộc thi đấu để giành giải nhất. Và Luigi, kiến trúc sư ở Rôme, ba mươi tuổi, với một quá khứ đẹp, một tương lai đẹp, đã đoạt cái giải nhất ấy – anh đã đưa nàng về nhà anh trên chiếc giường của anh, nó làm cho nàng bật ra những lời lẽ - thậm chí cả những tiếng kêu - của tình yêu. Anh đã buộc người đàn bà phương Bắc tiếp nhận anh, người đàn ông phương Nam.
… Nhưng thời gian, cái thời gian tuyệt diệu và hăng say mau chóng trôi qua – Inge bắt đầu cảm thấy buồn. Tên những thành phố thân thuộc – Stockholm, Goteborg ngày càng hay bật ra từ miệng nàng trong các câu chuyện ít ỏi (Luigi làm việc nhiều). Giờ đây, ném về phía nàng cái nhìn của kẻ phản bội, cái nhìn của Lago, anh thấy ngạc nhiên với chính mình và cảm giác ấy khiến anh lo ngại. Thế là hết tất cả. Cái hình trông nghiêng kia, cái tấm thân kia, cái số phận kia, anh sẽ rời bỏ sau một hoặc hai tiếng đồng hồ nữa mà rốt cuộc chưa biết người phụ này. Bấy giờ nàng sẽ làm gì? Đương nhiên là nàng sẽ không tự tử. Chắc hẳn nàng sẽ tới một thành phố khác của nước Ý, hoặc nàng sẽ đi Paris, và rất ít khả năng nàng sẽ nhớ anh, còn anh sẽ nhớ nàng. Họ “ở chung” cùng sống với nhau như hai hình ảnh của mode, như hai hình bóng được vẽ nên không phải bởi chính bản thân họ, mà là bởi xã hội họ đang sống. Trên thực tế, họ sắm một vai kịch không có sân khấu kịch, một vai trò châm biếm không có bức tranh chấm biếm, một vai trò tình cảm không có tình cảm. Tất cả mọi chuyện đều tốt trong việc Lugi có một người tình là một phụ nữ trẻ tên Inge. Và tất cả mọi chuyện cũng đều tốt đẹp trong việc họ ham muốn nhau, chịu đựng nhau rồi chia tay nhau sau vài năm quan hệ… Nàng ngáp nhẹ một cái, ngoảnh sang anh và bằng một giọng bình thản hơi lơ lớ, đã hai ngày nay khiến anh phát cáu, nàng hỏi: “Tối nay sẽ có những ai?”. Và khi anh mỉm cười gượng gạo, đáp: “Vẫn những người ấy” - đột nhiên nàng có vẻ hơi thất vọng. Có thể nàng đã hiểu rằng quan hệ giữa hai người đang sắp kết thúc, có thể chính bản thân nàng cũng bắt đầu xa rời anh, lảng tránh anh… Nghĩ thế, bản năng kẻ đi săn thức dậy trong Luigi. Anh nghĩ rằng nếu muốn, anh sẽ là tất cả đối với nàng: là người bảo vệ, người an ủi, người bố của cả một chục đứa con nàng, anh sẽ giấu nàng khỏi thế giới và thậm chí – tại sao lại không nhỉ? – anh sẽ có thể yêu nàng. Nghĩ tới cái giả định cuối cùng này, anh cười lên vài tiếng, nàng quay sang anh: “Anh vui lắm phải không? – giọng nàng khiến anh ngạc nhiên. Dù sao chăng nữa, anh tự nhủ khi đi qua quảng trường Tây Ban Nha, dù sao chăng nữa, chắc nàng cũng có nghi ngờ gì đó. Linh cảm phụ nữ mà… Và đột nhiên, anh cảm thấy bình tĩnh hơn một chút. Anh chẳng có gì phải tự trách mình lắm, anh không phủ nhận phẩm chất của nàng, nàng luôn ở bên anh – trên các bãi biển, trong các ngôi nhà nghỉ ở ngoại ô, trong các dạ hội, anh đã làm tình với nàng đầy đủ, anh luôn sẵn sàng bảo vệ nàng về mặt thể lực, và cũng về thể lực, mặc dù bằng cách khác, anh luôn sẵn sàng tấn công nàng. Dù không bao giờ nàng trả lời anh một cách trực tiếp, dù hai người thỉnh thoảng ắm mới nói “em yêu anh”, “anh yêu em”, và tiếng “yêu” đó nặng về tình dục hơn là về tình cảm, điều ấy không quan trọng. Như Guido và Carla nói với anh qua điện thọai, bây giờ cắt đứt với nàng là đúng lúc: anh đã ù lì ra trong chuyện này rồi. Một người đàn ông quyến rũ như anh, đẹp trai và độc đoán như anh lẽ ra không nên quẩn quanh những hơn hai năm với cái cô người mẫu Thuỵ Điển này. Mà họ… ồ, anh có thể tin họ, vì anh biết rõ anh. Họ biết anh rõ hơn cả anh biết chính anh. Ý nghĩ ấy đã chi phối anh từ ban nãy, mà đâu phải hôm nay, mà từ hồi anh mới mười lăm tuổi.
… Toà nhà biệt thự sáng trưng ánh đèn. Với cái nhếch mép giống như một nụ cười buồn, Luigi nghĩ rằng kỷ niệm cuối cùng của Inge về Rome sẽ là kỷ niệm về cảnh hoa lệ của dạ hội này. Các bậc thềm mòn vẹt vàng vàng kia rồi, còn ở phía trong là những người phụ nữ ăn mặc rất sang và những người đàn ông rõ ràng sẵn sàng lột trần họ ra. Khi anh nắm lấy tay Inge để vào cửa, anh có một cảm giác khó chịu như thể anh đưa ai đó tới chỗ chết hoặc đưa ai đó ngây thơ vào chiếu bạc hoặc vào ổ gian phi, mà người ấy không hề hay biết. Trong nháy mắt Carla đã “xông vào” họ (nói thế đúng hơn là ở trước mặt họ). Cô ta cười, suồng sã nhìn Inge và anh. - Hai bạn yêu quý, - cô ta nói,- tôi cứ lo là hai bạn không đến. Tất nhiên anh hôn cô ta, Igne cũng vậy, rồi họ đi qua gian sảnh. Anh biết rõ Rome và các salon, một số người vội vã nhường lối cho anh, một số khác tụ tập thành từng nhóm, và điều này xác nhận ý nghĩ của anh: tất cả những con người này đều biết chuyện của anh, tất cả đều chờ họ đến và đều biết rằng tối nay Luigi định cắt đứt – theo phong cách vui vẻ và gây ấn tượng – với người tình của anh, Inge người Thuỵ Điển, một cô nàng xinh đẹp ghê gớm nhưng lại đã ở bên anh lâu ghê gớm. Nàng hình như không nhận thấy gì. Nàng tì tay vào tay anh, chào hỏi bạn bè, tiến về phía buffet, và cũng như những lần khác, nàng sẵn sàng ăn, uống, khiêu vũ, rồi sau đó – khi về nhà – nàng yêu anh không hơn không kém.
Nhưng bỗng anh có cảm giác cái “không kém” ấy bao giờ cũng hiện diện ở những buổi dạ hội như thế này, còn cái “không hơn” thì anh phải thúc đẩy. Inge hững hờ uống cạn ly rượu, và Carla gợi ý nàng uống ly thứ hai. Dần dần, như trong một vở ba lê vừa tồi tệ vừa tàn ác, đám bạn bè đứng thành một hình bán nguyệt trước mặt hai người. Họ chờ, họ chờ cái gì? Có phải thế? Thật lòng anh cũng không biết tại sao vào buổi tối mùa hè nặng nề này anh lại phảigiải thích gì đó cho những cái mặt nạ kia (vừa gần gũi lại vừa không có bản sắc), rằng anh cần phải bỏ Inge, ngay lập tức. Anh nhớ lại lời họ: “Cô ấy không cùng chủng loại với chúng ta”, nhưng nhìn kỹ cái “chủng loại” đang bao quanh một mớ lộn nhộn những chó núi, chim kền kền và gà vịt, anh tự hỏi những lời ấy có trùng với các ý nghĩ của anh? Thật kỳ lạ, rõ ràng là từ khi anh biết cô gái Thuỵ Điển tóc vàng trẻ trung xinh đẹp, cao giá nhưng đã được anh “thuần hoá” này, đây là lần đầu tiên anh cảm thấy mình đứng về phía nàng. Giuseppe đến, vẫn đẹp trai và vui tươi như mọi khi. Anh ta hôn tay Inge bằng một cử chỉ rất kịch, và Luigi chợt thấy cái cử chỉ ấy sao mà phô trương quá. Sau đó Aldo tới. Lúng túng, anh ta nói với Inge rằng ngôi nhà nhà nông thôn của anh ta ở gần Aoste bao giờ cũng sẽ đẹp thêm nếu nàng đến đó (Aldo nhiều khi đẩy nhanh các sự kiện). Tiếp đó lá Marina, nữ thần thực sự của những nơi này. Cô ta đặt một tay lên tay áo Luigi, tay kia lên bờ vai trần của Igne. - Trời, - cô ta nói – anh chị cả hai đều đẹp quá. Đúng là anh chị sinh ra để dành cho nhau…
Đám đông, như người ta nói ở Tây Ban Nha, nín thở, cuộc đấu bò bắt đầu. Nhưng con bò, tức là nàng Inge chán ngắt, mỉm cười. Rõ ràng mọi người chờ đợi ở Luigi một lời ám chỉ, một trò vui nhộn. Nhưng anh im lặng cả khi bàn tay anh làm một động tác đại ý có nghĩa là “gượm chút đã”. Carla hơi thất vọng, cô ta đã được anh hứa là sẽ có một vở bi hài kịch, là tối nay anh sẽ cắt đứt với Inge, nhưng không nói rõ ở đâu…. Cô ta liền tấn công: - Trời nóng nực quá, - cô ta nói.- Inge yêu quý, tôi hiểu rằng mùa hè ở nước chị dịu hơn ở đây nhiều. Và nếu tôi nhớ đúng, thì Thuỵ Điển hình như phương Bắc, đúng không chị. Giuseppe, Marina, Guido và những người khác cười phá lên. Còn Luigi nhìn họ và nghĩ: có gì buồn cười đâu trong chuyện Thuỵ Điển ở phía Bắc so với nước Ý. Anh thoáng nghi ngờ rằng Carla không hóm hỉnh như lời đồn đại. Anh cố gạt ý nghĩ ấy đi như gạt bỏ một ý nghĩ xấu. - Đúng, tôi nghĩ Thuỵ Điển ở phía Bắc so với nước Ý,- Inge trả lời bằng giọng lơ lớ vẫn làm cho tất cả những gì nàng nói đều trở nên nhạt nhẽo, nhưng chắc hẳn đối với ai đó nghe lại rất buồn cười, vì đám đông đứng bên buffet cười vang lên. “Chắc tại vì thần kinh họ căng thẳng, - Luigi nghĩ – họ chia tay với nàng bằng thứ ngôn ngữ bẩn thỉu, mà thôi… mình phải làm một điều gì chứ nhỉ”. … Khi đó Inge ngước đôi mắt màu tím nhạt về phía anh - vì nàng có đôi mắt màu tím nhạt và đó là một trong những lý do nặng ký khiến nàng thành công ở Rome ngay sau khi tới đây – và nàng nói những lời kỳ lạ đối với nàng, tất cả những ai đang dỏng tai lên đều nghe thấy, mà tất cả mọi người thì đều dỏng tai: - Luigi, em thấy buổi dạ hội này chán lắm. Anh đưa em đến chỗ khác được không? Như thể có một tiếng sét từ trên trời đánh xuống, những tiếng pha lê vang lên, tất cả mọi người như biến đâu mất hết và Luigi chợt hiểu. Hai người chăm chú nhìn nhau, trong đôi mắt người phụ nữ, tím biếc và tuyệt đối chân thành, không phải là một câu hỏi ngây thơ, mà là một sự khẳng định vô điều kiện, ý muốn nói: “Em yêu anh, anh ngốc ạ”.
Và cũng bằng cách ấy, trong đôi mắt nâu của người đàn ông mệt mỏi của Rome là một câu hỏi ngây thơ, nam tính và trẻ con: “Thật thế sao?”. Và tất cả đều bị lộn ngược. Khung cảnh, mọi người, các ý tưởng, các chương trình và cả phần kết cục buổi dạ hội. Các “bạn bè” bỗng bị treo ngược lên trần, giống như những con dơi mùa đông. Đám đông giãn ra không phải để làm gì khác, mà chỉ để mở một con đường chiến thắng ra chỗ chiếc ôtô mui trần. Và Rome vẫn đẹp như mọi khi. Và Rome là ở trong Rome, và tình yêu là ở trong Rome. Vũ Đình Bình dịch .
| |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Wed Sep 05, 2018 10:30 pm | |
| .
MẢNH THƯ G. Kornilova (Nga)
Tai họa ập xuống đầu chị bất ngờ, như tiếng sấm giữa bầu trời trong xanh và đúng vào lúc chị không hề chờ đợi một chuyện như thế. Chủ nhật cuối tháng ba vừa rồi, Maria kỷ niệm lần sinh thứ bốn mươi ba của mình. Chị mời nhiều người, họ hàng và bè bạn. Hôm ấy thật là vui. Chị còn rất sung sướng vì anh Constantin chồng chị vốn không bao giờ đi các cửa hàng cũng cất công tặng chị một bó hoa tuylip và một mảnh vải đẹp để may áo. “Cuộc đời mình dù sao cũng tốt đẹp, - sau đó Maria nghĩ – thậm chí có thể nói là mình may mắn trong cuộc đời…”. Chị không ngờ được rằng sự may mắn của mình đến đó là chấm dứt.
Tâm trạng vui sướng của chị không còn lại chút nào vào ngày hôm sau. Nguyên do là vì một mảnh thư – một tờ giấy nhỏ xé ở sổ tay ra. Gấp làm tư. Nó rơi xuống khi chị cầm chiếc áo vét của chồng ở lưng ghế tựa để đem treo vào tủ. Chị mở tờ giấy ra chỉ cốt để xem có nên vứt đi không nếu đó là mẩu giấy vớ vẩn. Nhưng khi mở, đập ngay vào mắt chị là chữ ký ở bên dưới, góc phải, rất rõ: “Natasa nào nhỉ” – chị cầm tờ giấy ra sát cửa sổ để đọc. Đọc xong, chị sững sờ. “Anh Constantin – cô Natasa nọ viết – Anh đừng gọi điện cho em nữa. Em đã biết anh sẽ nói gì với em. Và anh đã biết em sẽ trả lời thế nào. Cho nên các câu chuyện của chúng ta hoàn toàn vô nghĩa. Mong anh hãy tha lỗi cho em”.
Trong giây lát, Maria bối rối không hiểu gì hết. Nhưng rồi chị như trông thấy một bức tranh tồi tệ: Constantin của chị, một người chững chạc, ít nói, đang lén gọi điện cho cô Natasa nào đó, và cô ấy thẳng thừng bảo anh đừng có gọi nữa. Chị hoàn toàn không coi mình là người ghen tuông. Có lẽ vì không bao giờ xuất hiện một cái cớ gì để chị ghen. Nhiều năm nay, chồng chị là một thứ đồ vật không thể thiếu trong cuộc đời chị, thứ đồ này cứ sáng là đi làm, chiều lại về chỗ cũ. Cái dáng ngồi của anh trên ghế bành, trước màn ảnh TV, hoặc trên đi văng, với quyển sách hoặc tờ báo trong tay, đối với chị cũng quen thuộc như hình cái tủ lớn ba cánh chị mua từ hồi mới cưới. Không bao giờ chị nghĩ rằng ở đâu đó có một người phụ nữ Constantin vẫn gọi điện tới và người ấy vẫn viết những mảnh thư cho anh. Vấn đề không phải ở chỗ chồng chị là một người tẻ nhạt. Mà ở chỗ ngay từ khi mới cưới, mọi người đã bảo cho rằng: nếu có chuyện ghen tuông, thì người ghen sẽ là anh, chứ không phải là chị. Bởi lẽ chị hơn anh về nhiều mặt. Họ quen nhau hồi còn rất trẻ, ở xí nghiệp nơi chị làm thợ dệt, còn anh là thợ điều chỉnh máy. Thuở ấy, nhiều chàng trai theo đuổi chị. Nhưng chị lại “chấm” anh, một người rụt rè, kín đáo, không có gì nổi bật. Chị thấy anh đáng tin cậy hơn nhưng người khác. Bây giờ, anh đã trở thành kỹ sư trưởng ở xí nghiệp mà xưa kia anh chỉ là công nhân.
Về phần Maria, từ lâu chị đã thôi việc để nội trợ. Thọat tiên, sau khi sinh nở, chị ở nhà trông con. Rồi chị đâm quen, không muốn đi làm nữa. Trong gia đình chị luôn là bà chủ, sai khiến được chồng con, chị có quát tháo cũng không ai nói gì. Bởi vậy nhà chị khá êm ả. Thế mà bỗng dưng lại xuất hiện cái cô Natasa kia! Maria đọc lại mảnh thư, và chị giật mình vì đột nhiên hiểu ra rằng đây là trò khôn ngoan của cô gái kia để nhử anh chồng ngớ ngẩn của chị vào bẫy. “Mong anh hãy tha lỗi cho em” – cô ta viết thế là ý nói rằng chính cô ta cũng muốn bắt bồ với chồng chị lắm, nhưng hiện giờ chưa có dịp. Để chồng chị chẳng những thương cô ta, mà còn hy vọng nữa. Cô ta buông câu đó mà! - Ôi, anh ngốc quá! – Maria thầm mắng chồng, vì chị đã đoán ra được cái mẹo thâm hiểm của địch thủ - nó nhử anh, vậy mà anh lại muốn chui đầu vào bẫy…
Chị lo lắng và khổ tâm lắm. Lần đầu tiên chị bỗng nghĩ rằng, một người đàn bà nào đó có thể quyến rũ chồng chị, vì chồng chị vừa lương cao, lại vừa có địa vị. Mà anh đâu có xấu xí, anh ăn mặc lại lịch sự. Nhìn chiếc áo vét của chồng, chị nhớ lại hồi mùa đông anh tìm mãi mới có được một ông thợ may vừa ý. Mấy chiếc ca vát kia cũng do anh tự chọn lấy. Chứ các thứ quần áo chị mua tặng anh nhân dịp gì đó, anh đều không ưng. Anh ấy ăn mặc kỹ tính như thế chắc là để phụ nữ thích? – Maria chợt nghĩ – Để gây ấn tượng với cái cô Natasa kia? Mà sao cho tới giờ, chị không nhận thấy gì ở anh nhỉ? Nhưng đâu có dễ nhận ra được điều đó? Đi làm về, anh ấy nói đôi lời với chị hoặc con trai, rồi cầm luôn lấy tờ báo hoặc quyển sách. Làm sao đoán được đầu óc anh ấy nghĩ gì một buổi tối!
Maria lại lật đi lật lại mảnh thư. Và mặc dù chưa bao giờ rơi vào tình huống này, chị cũng đã biết rõ chị phải xử sự thế nào. Lạ một điều là chị không trách chồng lắm. Thứ nhất, nếu cứ xét theo mảnh thư này, thì sự việc chưa đi quá xa, và thứ hai, Maria biết rằng đàn ông đều thế cả. Trước kia Constantin không có chuyện gì chắc hẳn vì anh sợ vợ. Để xảy ra sự việc này, chị cũng có lỗi: chị đã “buông lỏng dây cương”. Nhưng kẻ có tội chủ yếu là cái con đã gửi mảnh thư này. Cô ta cho số điện thọai, rồi lại cấm gọi điện, là để tự đề cao đấy mà. Bởi vậy việc đầu tiên là phải mắng cô ta một trận, cho cô ta chừa cái thói mồi chài chồng người khác đi. Chị đoán cô ta chỉ có thể ở cùng xí nghiệp với anh, vì ngoài giờ làm việc anh không bao giờ đi đâu một mình. Và chị quyết định tạm thời chưa để lộ cho anh biết điều gì.
Sáng hôm sau, trong bữa điểm tâm, chồng chị bỗng hỏi: - Em sao vậy, cứ nhìn anh lạ thế? Nhưng chị mỉm cười đáp: - Em thấy anh đẹp lắm, nên ngắm anh thôi mà… Khi chồng đã đi làm, con đã đi học, chị lập tức lao tới máy điện thọai. Bạn gái thân của chị là Vera hiện làm thư ký công đoàn ở xí nghiệp. Vera là người mà chị có thể tâm sự mọi điều. Tuy nhiên, nghe xong câu chuyện chị kể qua điện thọai, Vera có vẻ không tin. - Cậu nhàn rỗi quá nên chỉ nghĩ vớ vẩn – Vera tức giận nói – Constantin đâu phải là người như thế. Vả lại, ở xí nghiệp không có ai tên là Natasa … Vera bỗng ngừng lời ngẫm nghĩ gì đó, rồi nói tiếp, giọng đã không còn tin chắc và tức giận như ban nãy: - À, xưởng nhuộm có hai cô họa sĩ mới vào làm. Hình như một cô tên là Natasa thật. Cô này rất xinh đẹp, tóc quăn, có thể… Vera hứa sẽ cùng Maria tới xưởng nhuộm xem sao… - Maria, tớ tinh lắm, có chuyện gì tớ sẽ nhận ra ngay. Nhưng tớ vẫn không tin…
Bây giờ, Maria đành chờ Vera gọi điện trả lời. Chị chờ mấy ngày, ruột gan như lửa đốt, mãi đêm hôm thứ sáu, Vera mới gọi điện cho chị, và qua giọng bạn gái, chị đoán rằng những điều chị nghi ngờ đã được khẳng định. Lần này giọng Vera ngượng nghịu bối rối khác hẳn bình thường. - Thế này nhé… Maria… Đúng là họ có chuyện gì thật. Gặp hai cô họa sĩ, Constantin có vẻ lúng túng, luống cuống lắm… Tóm lại, để đề phòng, cần phải quản lý chặt Constantin mới được. Cậu biết đấy, bọn con gái thời này chúng nó chẳng kể đến việc đàn ông đã có vợ hay chưa đâu… Maria cũng đã biết bây giờ không thể chần chừ. Constantin của chị rụt rè, nhút nhát, nhưng cô gái kia rất có thể chẳng nhút nhát chút nào. Chị phải đến ngay xí nghiệp để nhìn tận mắt mọi chuyện mới được. Vera đã mô tả cho chị chính xác. Cô ta tóc quăn, mắt to và xanh.
Chị chọn ngày chồng không có mặt ở xí nghiệp. Anh đi công tác vắng hai ngày. Maria ngẫm nghĩ xem mình nên ăn mặc thế nào khi xuất hiện trước mặt cô kia. Chị tiếc là mùa đông đã qua, chị không thể diện chiếc áo lông đắt tiền mà chị vẫn rất tự hào. Nhưng ngay cả mùa xuân, chị cũng có khối thứ đẹp. Chị quyết định mặc bộ đồ len xanh, bên ngoài khoác chiếc áo măng tô Phần Lan. Tóc chị buộc tấm khăn nhẹ thêu chỉ vàng, rồi hơi lưỡng lự một chút, chị xỏ chân vào đôi giày cao gót. Hãy để cô gái kia hiểu rằng cô ta không địch nổi chị đâu. Bởi có lẽ cô ta tưởng vợ của Constantin đã già khú đế. Nhầm rồi nhé. Maria bỏ chiếc dù của Nhật vào túi xắc đề phòng mưa, rồi ra khỏi nhà.
Xí nghiệp đã thay đổi nhiều. Trên đôi giày cao gót (đến là đau chân!) chị đi qua khoảng sân rộng. Một số người biết chị, chị sẽ bảo chị đến thăm bạn cũ là Vera. Nhưng chị không rẽ về phía trụ sở công đoàn, mà đi thẳng đến xưởng nhuộm. Chị bước dọc theo hành lang. Theo lời Vera, ở cuối hành lang này, chị có thể tìm được hai cô họa sĩ. Ngay cả bây giờ, Maria cũng không thấy hồi hộp gì đặc biệt. Đối với chị, xí nghiệp vẫn thân thuộc, ở đây chồng chị lại là cán bộ lãnh đạo cho nên chị đâu có phải là một người bị khinh thường. Điều này chị sắp chứng minh cho ai đó rõ. Chị nhận ra ngay Natasa qua bộ tóc quăn. Còn cô thứ hai thì gầy gò, mặc áo len và quần, đang đứng cạnh bức tường treo đầy những miếng vải nhiều màu. Natasa ngồi bên bàn quay đầu lại, và Maria lập tức bực bội nhận thấy Vera đã nói đúng, địch thủ của chị quả thật rất xinh. Thọat nhìn, chị đã hiểu ngay. Cô gái kia không tiêu phí sắc đẹp vào những chuyện lặt vặt, và dùng luôn nó để quyến rũ một người có lương cao và có địa vị. Cũng dễ hiểu thôi, ai chả cố sống sung sướng, nếu mình có phương tiện. Mà phương tiện thì cô ta có đây. Nhưng phải báo cho cô ta biết là cô ta lầm rồi, khó xơi lắm em ơi. - Xin chào! – Maria cố ý khinh khỉnh. Chị nhìn thẳng vào mặt cô Natasa xinh đẹp – tôi là vợ anh Constantin, kỹ sư trưởng ở đây. Vừa nói xong những lời ấy, chị lập tức cảm thấy trong căn phòng này có cái gì đó bỗng thay đổi hẳn. Mặt Natasa biến sắc. “À, - Maria nghĩ – con mèo đã biết nó ăn vụng thịt của ai rồi đấy!”. Cô gái thứ hai sửng người, hình như cả cô cũng vô cùng sửng sốt trước sự xuất hiện của bà khách. Trong khi đó, Maria bước lên ngồi xuống ghế rồi chẳng hề e ngại sự có mặt của cô bạn gái nọ, chị lớn tiếng bảo Natasa: - Tôi đến đây chỉ có mỗi một việc là nhìn cô. Chứ qua nét chữ, tôi không hiểu trông cô như thế nào… Natasa từ từ đứng dậy sợ sệt, như một nữ sinh đứng trước thầy giáo với vẻ bất lực, cô ngoảnh nhìn bạn gái.
Bất giác Maria cũng nhìn về phía ấy. Người gầy gò, đen đúa, giống con trai nhiều hơn, cô gái kia từ xa nhìn chị với một nụ cười nhếch mép khó chịu nhưng thông minh. “Cô ấy mới ghê, - Maria nghĩ – chứ con bé Natasa này nghe chừng cũng nhát thôi”. - Cô bao nhiêu tuổi? – chị nghiêm khắc hỏi Natasa đang đứng lúng túng. - Hai mươi ba ạ - cô ấp úng đỏ mặt. - Đến tuổi lấy chồng rồi đấy – Maria kẻ cả nói – Tìm một chàng trai nào đó, chứ đừng có săn đuổi chồng người khác. Nuốt miếng ăn của người khác có thể bị nghẹn đó… Vẻ bối rối, sợ sệt của Natasa khiến chị yên tâm hẳn. chị không sợ cô gái xinh đẹp nhưng nhút nhát này, chị chỉ cần doạ một câu là mọi chuyện sẽ đâu vào đấy thôi. Có lẽ chị không nhất thiết phải tới tận đây, mà chỉ cần nhấc máy điện thọai nghiêm khắc răn đe vài lời…
Trong khi đó, cô gái đen đúa đã lại gần họ, lấy khuỷu tay hích Natasa ra và đứng ngay trước mặt Maria. - Ania – cô ta nói đầy quyền uy - cậu ra ngoài kia đi. Maria chưa kịp trấn tĩnh thì, thì “Natasa” đã biến mất sau cửa. Bây giờ đến lượt Maria bối rối. Chị lặng nhìn gương mặt gầy choắt ngăm ngăm đen của cô gái, trong đó long lanh đôi mắt đang ánh lên chẳng thiện ý chút nào. - Chị lầm rồi, bà Maria – cô lạnh lùng nói – Natasa là tôi cơ. - Maria càng ngỡ ngàng. “Cô này là Natasa! Và cô ta biết rõ cả tên mình!…” Trong khi đó, cô gái vẫn nói tiếp bằng giọng lạnh lùng, táo tợn: - Theo như tôi hiểu. Chị đến đây vì chị đã đọc mảnh thư không phải là gửi cho chị. Cô thoáng nhếch mép cười, thoáng nhún vai: - Chị vừa giảng giải về miếng ăn của người khác. Về chuyện này tôi cũng có thể nói đôi điều với chị… Natasa đi đi lại lại trong phòng. Maria không rời mắt khỏi cô ta: lẽ nào Constantin của chị lại thích một cô gái gầy nhom xấu xí thế kia? Anh ấy tìm gì ở cô ta nhỉ? - Tôi xin nói với thế này – Natasa nhắc lại – Có những người phụ nữ tự gọi mình là vợ, họ đẻ con cho chồng, nhưng chồng không phải là của họ, mà như chị nói, họ đã lấy mất miếng ăn của người khác và nếu họ không bị nghẹn vì miếng đó, chỉ là vì họ đã quen bạ gì nuốt lấy. Chị đến đây tuyên bố chị là vợ hợp pháp của Constantin. Theo luật pháp thì đúng thế. Nhưng tôi, tôi còn biết một điều khác: Người vợ là người hiểu cặn kẽ cả tâm hồn chồng, biết chồng buồn về điều gì, suy nghĩ những gì, đau khổ vì chuyện gì. Chị có biết những cái đó của chồng chị không? Từ lâu, chị có trò chuyện với chồng chị về các công việc của anh ấy không? Hay anh ấy chẳng khác mấy một cái tủ hoặc một cái bàn, chỉ có điều là sáng biến mất chiều về lại chỗ cũ, chỗ “hợp pháp”? Tất nhiên chị nấu nướng cho anh ấy ăn, giặt giũ quần áo cho anh ấy. Nhưng với một con người thì như thế còn quá ít, và trên đời này, ngoài những cái đó, chẳng ai lại không mong muốn thêm điều gì. Thành thử anh Constantin chồng chị sống trong gia đình mà vẫn cô đơn đến thế…
Maria không hiểu rõ lắm những điều mà cô gái kia vừa nói. Chị chỉ cảm thấy lời lẽ của cô ta cứ bay thẳng vào mặt chị và đốt chị như một đàn ông. Chị phải làm một điều gì đó chứ nhỉ, phải dạy cho con bé hỗn xược này một bài học chứ nhỉ! Chỉ cần lên trụ sở công đoàn là con bé này sẽ bị tống cổ ngay khỏi xí nghiệp. Nhưng Natasa dường như đoán được những ý nghĩ thầm kín của chị: - Chị có thể lên công đoàn hay đi đâu đó tuỳ chị. Tôi sẽ nói với họ một điều mà tôi còn chưa nói với anh Constantin: Tôi yêu anh ấy. Đó là câu trả lời của tôi. Còn bây giờ, tôi yêu cầu chị ra khỏi đây. Chúng tôi đang trong giờ làm việc… Maria nặng nhọc đứng dậy. Chị nhìn mặt Natasa lần nữa. Rồi chị muốn thể hiện sự khinh bỉ của chị qua ánh mắt, và muốn tỏ rõ rằng, chị mặc xác những lời chị vừa nghe thấy. Nhưng bắt gặp ánh mắt quắc lên của Natasa đột nhiên chị sợ. Ở cô gái kiêu hãnh và xấu xí này có cái gì đó chị không hiểu, bởi vậy chị cảm thấy nó nguy hiểm. Và mặc dù chị biết rõ cô gái này sẽ chẳng gặp gỡ Constantin đâu, nhưng không hiểu sao chị cảm thấy không tự tin như trước.
Thế là không ghé vào chỗ Vera, chị về nhà luôn. Trên đường về, chị không sao bình tâm lại được, chị vẫn cứ tìm kiếm một cách muộn màng những lời mà lẽ ra ban nãy chị phải nói vào mặt cô ta. Nhưng chị không tìm được những lời như thế, do đó, chị cảm thấy bồn chồn không yên. Dường như có một cảm giác ớn lạnh luôn chạy dọc theo sống lưng chị, ở bên dưới lớp áo măng tô Phần Lan đắt tiền. Chẳng khác gì trong ngôi nhà chị đang sống ấm áp và sung sướng bỗng vỡ một ô kính cửa sổ, chị không có gì để bịt lỗ hổng ấy lại, và từ bên ngoài cứ hun hút ùa vào một làn gió lạnh buốt. Vũ Đình Bình dịch | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Mon Oct 01, 2018 7:26 pm | |
|
NGỌN ĐUỐC THÀNH VIENNE A. J. Cronin (1896-1981)
A.J. Cronin là nhà văn Anh, sinh năm 1896 tại Cardross, xứ Tô Cách Lan. Ông học ngành y khoa, nhưng sự học bị dở dang vì phải nhập ngũ ngành hải quân với cấp bậc Trung úy y sĩ. Khi chiến tranh chấm dứt, ông tiếp tục học và tập sự tại các hầm mỏ phía nam miền Wales. Năm 1930, ông về Luân Đôn mở phòng khám bệnh. Sống gần gũi với dân chúng, ông hiểu rõ đời sống lầm than của họ trong cảnh chiến tranh. Những tác phẩm của ông thường phản ảnh trung thực nếp sống của người dân chất phác. Tác phẩm đầu tay của ông là cuốn tiểu thuyết Lâu đài người thợ làm mũ xuất bản năm 1931 được hoan nghênh nhiệt liệt. Tác phẩm nổi tiếng của ông gồm có: Lâu đài người thợ làm mũ, Con chim Bạch yến, Ba mối tình, Dưới ánh sao đêm... NGỌN ĐUỐC THÀNH VIENNE là một truyện ngắn diễn tả cảnh tàn phá của chiến tranh và tâm trạng của người dân trước những tai họa thảm khốc. Dầu đau khổ đến mức nào, người dân lượng thiện vẫn giữ vững được niềm tin ở Thượng Đế. Ngọn đuốc thành Vienne tượng trưng cho niềm tin mãnh liệt ấy.
***
Đã lâu rồi, tôi mong mỏi trở lại thành Vienne, thành phố quen thuộc và yêu mến của tôi ngày trước. Nhưng sáng hôm đó, sau khi phi cơ hạ cánh tôi cảm thấy bực mình vì những việc ngoài ước liệu. Không còn một phòng trọ nào trong khách sạn Boston, tôi phải tìm thuê một ngôi nhà cũ kỹ đơn sơ ở khu Bình Dân. Nhà không có lò sưởi, đồ đạc thật sơ sài. Buổi điểm tâm của tôi chỉ có món canh rau và một miếng thịt nhỏ.
Chiều hôm ấy, tôi đi quan sát quang cảnh quanh vùng. Gió thổi lạnh buốt. Bước đầu khởi hành, tôi đã chứng kiến cảnh nhà thờ đổ nát và hí viện hoang tàn. Lòng tôi se thắt lại. Đây có phải là thành phố hoa lệ mà ngày nào tôi đã trải qua những đêm vui cuồng nhiệt? Chính nơi đây, tôi đã nghe những danh ca trình bày những bản nhạc tình cảm du dương và tôi cũng từng du ngoạn trong đêm, trên những chiếc xe mui trần, xem dân chúng liên hoan ngày hội “Mừng rượu mới”. Lúc mới đến, tôi đã chuẩn bị tinh thần để khỏi bị xúc động vì những cảnh tàn phá của chiến tranh, khi phải chứng kiến những ngôi nhà đổ nát, những đống gạch vụn, những dinh thự điêu tàn vì đạn, bom. Tôi cũng đã dự liệu sẽ phải nhìn cảnh thê lương của dòng sông xanh Danube với những nhịp cầu sụp đổ. Nhưng tôi không dự liệu được sự vắng lạnh làm cho tôi vô cùng thất vọng, dường như có một làn chướng khí đang bủa vây những con đường xám xịt, tối tăm, bẩn thỉu. Cửa sổ nhà nhà đều đống kín, im lìm… Càng trông thấy cảnh điêu tàn, tôi càng xúc động mạnh, và tôi sinh ra ý nghĩ oán Trời đã gây ra cảnh thê lương nầy. Lúc đó, trời lại bắt đầu mưa, làm tăng thêm cái buốt giá hoàng hôn tháng hai đang bao trùm thành phố. Mưa rơi hòa lẫn với tuyết rơi, như muốn chọc thủng chiếc áo nhà binh khoác trên người tôi.
Tôi đang ở ngoại ô, thuộc phía đông thành phố. Tôi vào một ngôi giáo đường nhỏ gần đây để tránh mưa. Giáo đường nầy may mắn thoát khỏi sự tàn phá của chiến tranh. Tuy vậy, bên trong giáo đường thật là tối tăm và trống rỗng. Trên bàn thờ, một ngọn đèn duy nhất tỏa ánh sáng le lói để soi những hình bóng lờ mờ. Tôi ngồi xuống, chờ cơn mưa chấm dứt. Bỗng có tiếng động phía sau, tôi giật mình ngảnh lại. Một ông già vừa bước vào giáo đường. Ông không mặc áo mưa, dáng người cao và gầy. Ông chỉ mặc một bộ đồ bằng vải mỏng đã vá nhiều chỗ. Trông ông thật tồi tàn. Khi ông đến gần bàn thờ, tôi ngạc nhiên thấy ông đang bế trên tay một đứa bé gái trạc sáu tuổi. Con bé cũng thật tiều tụy, xơ xác. Ông già đặt con bé xuống đất, trước bàn thờ. Ông già và con bé quỳ xuống trước bàn thờ, cả hai đều im lặng. Vài phút sau, ông già đứng dậy. Tôi nghe có tiếng một đồng tiền rơi vào một thân cây. Ông già lấy một cây đèn sáp thắp lên rồi trao cho con bé. Nó tiếp lấy cây sáp nhỏ và cầm trong bàn tay nhỏ nhắn. Ngọn sáp chập chờn, chiếu ánh sáng lung linh quanh nó, soi rõ gương mặt xinh xắn vui tươi nhưng vẫn để lộ vẻ vô cùng mệt mỏi. Một lúc lâu, con bé đặt cây sáp lên cái đế trước mặt. Rồi, đầu hơi nghiêng về phía sau, nó ngắm thật lâu lễ vật nhỏ mọn nó vừa dâng cúng với tất cả lòng thành. Một lúc sau, ông già đứng lên, bế con bé trong tay và ẵm ra khỏi giáo đường. Tôi đã theo dõi từng cử động của họ. Tôi cảm thấy mình có lỗi vì đã xen vào đời sống riêng tư của người khác. Nhưng tôi không thể nào chống lại được một sự thúc đẩy khác mãnh liệt hơn. Cho nên khi ông già vừa bước ra, tôi đã vội đứng lên nối gót theo.
Dưới cổng giáo đường, một chiếc xe nhỏ làm bằng thùng gỗ với hai càng xe bằng hai cây gậy cong và hai bánh xe đã mất vỏ. Ông già đặt con bé lên chiếc xe kỳ dị ấy, phủ lên chân nó một chiếc túi cũ dùng để đựng khoai. Tôi ngắm họ thật kỹ, quan sát họ thật gần, và sau cùng tôi có thể đoán biết ít nhiều về họ. Vết nhăn trên vầng trán phong trần, bộ ria xám cắt ngắn, đôi mắt sáng ngời kiêu hãnh, chứng tỏ ông già xưa kia là một nhà quý tộc ở thành Vienne mà chiến tranh đã làm tiêu tan sản nghiệp. Nét đau thương, vẻ chịu đựng của con bé làm tôi tin nó là cháu của ông già. Ông già toan lấy chiếc bao phủ quanh người con bé cho ấm, bỗng ông đưa mắt nhìn tôi. Tôi muốn đặt cho ông nhiều câu hỏi đang dồn dập trong trí não và muốn tuôn ra đầu lưỡi, nhưng có một cái gì đã ngăn chặn tôi lại. Vẻ trí thức của ông già đã ngăn chận kịp thời tánh hiếu kỳ của tôi… Tôi cất tiếng nói bâng quơ: - Trời lạnh quá. Ông già chậm rãi nói: - Tuy vậy, mùa đông năm nay không rét mấy. Cả hai im lặng. Tôi ngắm con bé. Đôi mắt to thật to và xanh. Vừa ngắm nó, tôi vừa hỏi ông già: - Chiến tranh? Ông già đáp khẽ: - Phải, chiến tranh. Một quả đạn súng cối đã giết cả cha mẹ nó. Cả hai lại im lặng. Một lát, tôi hỏi: - Ông thường đến đây chứ? - Tôi đến hàng ngày để cầu kinh. Ông già mỉm cười nói tiếp với vẻ tin tưởng: - Chúng tôi muốn tỏ cùng Thượng Đế rằng chúng tôi không hề oán hận Ngài. Tôi không biết nói gì trước lòng tin của lão. Tôi đành đứng lặng. Trong lúc đó, ông già đứng dậy, cầm càng xe và quay lại lễ phép chào tôi. Ông mang con bé đi trong bóng tối đêm về.
Khi ông già vừa khuất dạng, tôi lại muốn nối gót theo. Tôi muốn giúp đỡ tiền bạc cho họ, tặng họ chiếc áo len ấm áp tôi đang mặc bên trong. Tôi muốn làm một cử chỉ đẹp. Nhưng không hiểu sao tôi vẫn đứng yên, không xê dịch được bước nào. Tôi nghĩ rằng tôi không nên làm một việc bố thí trong trường hợp nầy; tất cả những vật bố thí của tôi có thể bị từ chối. Ngược lại, chính họ vừa ban cho tôi một tặng vật. Những kẻ khốn khổ đó đã mất hết cả, nhưng vẫn không nản chí và vẫn còn niềm tin. Bỗng nhiên, những ý nghĩ oán hờn tiêu tan mất, lòng tôi thơ thới không còn vướng bận một chút lo âu nào về những thiếu thốn vật chất hàng ngày. Tôi cảm thấy thương xót. Tôi cảm thấy hổ thẹn.
Mưa đã tạnh. Nhưng tôi chưa chịu về. Tôi lưỡng lự. Sau cùng, tôi quay trở lại phía bàn thờ, đối diện với ngọn đuốc nhỏ tiêu biểu cho lòng trung kiên. Ngọn sáp vẫn cháy. Tôi bỗng thấy khung cảnh bên trong giáo đường không còn tối tăm, trống rỗng nữa.
Một ngọn đuốc trong một thành phố điêu tàn. Nhưng còn ngọn đuốc nầy, thiết tưởng ta vẫn còn hy vọng cho thế giới. . | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Sat Oct 06, 2018 7:55 pm | |
|
NGƯỜI TÌNH BÍ ẨN Francoise Sagan (Pháp) (1935-2004)
Nàng ngoặt gấp rồi dừng xe lại ngay ngắn trước nhà. Tuy cũng không hiểu tại sao nhưng nàng luôn báo trước cho chồng là nàng đã trở về. Ngày hôm đó, nàng tự hỏi làm thế nào và tại sao nàng đã nhiễm thói quen đó. Dù sao họ đã cưới nhau được mười năm, đã mười năm họ sống trong ngôi nhà gỗ xinh xắn gần Reading và có vẻ như không cần thiết việc nàng luôn thông báo rằng nàng đã về nhà theo cách ấy cho bố của hai đứa con của họ, cho chồng và người che chở nàng khi cần thiết.
“Anh ấy đi đâu nhỉ?” Nàng nói trong sự im lặng bao trùm, xuống xe và sải những bước dài của một người chơi golf giỏi về phía nhà, theo sau là Linda trung thành. Linda Forrnan không gặp may trong cuộc sống. Vào năm ba mươi hai tuổi, sau cuộc ly dị bất hạnh, cô ta chỉ còn lại một mình - tuy vẫn luôn được tán tỉnh nhưng vẫn cô đơn và cần phải có toàn bộ lòng tốt và sự hào hứng của Milicent để nâng đỡ cô ta, ví dụ như chơi golf cả buổi sáng chủ nhật này với cô ta. Cũng không quá khi nói Linda lãnh đạm đến cùng cực. Cô nhìn. những người đàn ông (tất nhiên là những~người độc thân), họ lại nhìn lại cô ta và có vẻ như tất cả chỉ dừng lại ở đó. Đối với Milicent, một phụ nữ tràn đầy sức sống, đầy sức quyến rũ thì tính cách của Linda qua là một ẩn số. Thỉnh thoảng với thói trơ trẽn quen thuộc, David đã định giải thích việc đó cho nàng: “Cô ta đang đợi một con đực, cô ta cũng như tất cả các mụ đàn bà khác, cô ta đợi một con đực để rồi cắp lấy.” Nhưng điều đó không đúng sự thực và lại còn thô lỗ nữa. Dưới con mắt của Milicent, Linda vẫn ngốc nghếch chờ đợi một người nào đó sẽ yêu cô ta, cô ta và cả sự đen đủi của cô ta và lấy cô ta làm vợ. Và lại nếu nghĩ thêm về điều đó thì David rất khinh bỉ và rất khắt khe với Linda cũng như phần lớn bạn bè của họ. Nàng cần phải nói với anh về điều đó. Anh cũng không muốn nhận thấy lòng tốt của anh chàng to béo và đần độn Frank Harris chẳng hạn, anh này vụng về thật đấy nhưng rất rộng lượng và vô cùng tử tế. David có thói quen nói rằng: “Đấy là một loại người dành cho các bà vợ nhưng lại không có vợ.” Và mỗi lần nói như thế anh ta lại thích chí cười về lời nói đùa của mình làm như nó là một trong những khám phá theo phong cách của Bernard Shaw hay Oscar Wilde.
Nàng đẩy cửa bước vào phòng khách và dừng lại một giây trên ngưỡng cửa vì sửng sốt. Mẩu thuốc lá vương vãi khắp nơi, chai rượu uống dở và hai cái áo khoác mặc trong nhà vứt trong một xó: áo của nàng và của David. Trong một giây hoảng loạn, nàng đã định quay người đi khỏi đây, để khỏi phải trông thấy. Nàng đã không muốn gọi điện báo trước rằng nàng sẽ trở về sớm hơn dự định: không phải sáng thứ hai nữa mà là tối chủ nhật. Chỉ vì Linda đứng đằng sau nàng, mở mắt tròn xoe trên khuôn mặt trắng trẻo có vẻ kinh hoàng mà nàng cần phải tìm ra một cách chống đỡ cho cái sự việc không thể sửa chữa được nữa đã diễn ra rõ ràng tại nhà nàng. Mà rốt cuộc đây có phải nhà nàng? Có phải nhà họ? Bởi vì từ mười năm nay nàng vẫn nói “nhà của chúng ta”, còn David thì chỉ nói mỗi một tiếng “nhà”. Đã từ mười năm nay nàng luôn nói về cây xanh, về những cây dành dành, về những mái hiên, về vườn tược và cũng từ mười năm nay David không trả lời gì cả. “Nhưng mà cuối cùng, Linda nói và giọng cô ta cao vút làm cho Milicent giật mình, nhưng mà cuối cùng thì điều gì đã xảy ra? David đãi tiệc khi cậu vắng nhà à?” Cô ta cười, cô ta có vẻ lấy thế làm vui. Và thực ra thì rất có thể David đi Liverpool từ hôm trước nữa, đã gặp sự cố phải quay về, đã ngủ đêm ở nhà rồi lại đi ăn tối ở câu lạc bộ gần đây. Duy chỉ có hai cái áo mặc trong nhà, hai cái áo cũ như nhuốm màu tang tóc, hai biểu tượng cửa sự ngoại tình và nàng thấy ngạc nhiên vì chính sự ngạc nhiên của mình. Bởi vì cuối cùng thì David rất đẹp trai. Anh có cặp mắt sáng, mái tóc đen, nét mặt thanh tú và rất hài hước. Nhưng tuy vậy, nàng vẫn chưa bao giờ nghĩ, chưa bao giờ có một tí linh cảm nào, huống chi là một bằng chứng nhỏ nhất là anh ta thèm muốn một người đàn bà nào khác ngoài nàng. Điều đó tuy chưa rõ hẳn nhưng chắc chắn và nàng biết như vậy. Nàng tuyệt đối tin chắc một điều: David không bao giờ để mắt đến một phụ nữ nào khác ngoài nàng.
Nàng thấy phấn chấn hẳn lên, đi qua gian phòng tóm lấy hai cái áo mặc trong nhà đáng nguyền rủa từ trong xó nhà và ném chúng vào bếp. Rất nhanh nhưng lại vẫn không đủ nhanh để khỏi phải thấy hai cái chén trên bàn và một chút bơ vương trên một chiếc đĩa lót dưới. Nàng đóng sập cửa lại như vừa phải chứng kiến một vụ hiếp dâm rồi đổ gạt tàn, sắp đặt lại chai lọ, nàng vui vẻ để kéo Linda ra khỏi sự tò mò ban đầu và mời cô ta ngồi. “Thật là ngốc, nàng nói, tớ đang tự hỏi không biết bà phục vụ có đến dọn dẹp vào cuối tuần vừa rồi không? Ngồi xuống đi, bạn thân mến. Tớ sẽ pha cho cậu một tách trà nếu cậu muốn”. Linda ngồi xuống, vẻ suy sụp, tay đặt lên đầu gối và cái túi cầm hờ hửng trên đầu ngón tay. Cô ta nói: “Tớ lại muốn cái gì đó mạnh hơn một chút. Trận golf vừa rồi đã làm cho tớ kiệt sức…” Vậy là Milicent quay lại bếp, tránh nhìn hai cái chén, lấy vội vài viên đá, một bình rượu Brandy và đem tất cả lại chỗ Linda.
Họ ngồi đối diện trong phòng khách, cái phòng khách đẹp đẽ với đồ đạc bằng tre và vải jersey đồng màu mà David đã đem về không biết là từ đâu. Căn phòng có một dáng vẻ - nếu không phải là rất nhân bản - thì cũng là vẻ tư sản Anh quốc, và qua cái cửa sổ thấp sát đất họ nhìn thấy gió làm nghiêng ngả những cây du, đó chính là cơn gió đã làm cho họ phải rời khỏi sân golf một giờ trước đó. “David đang ở Liperpool”, Milicent nói và nàng nhận thấy giọng nói của mình rất cương quyết như thể Linda tội nghiệp định cãi nàng điều ngược lại. “Phải rồi, Linda đon đả nói, tớ biết rồi, cậu đã nói với tớ điều đó.” Họ cùng ngắm nhìn từ trên cao qua cửa sổ, sau đó thì nhìn xuống giày của họ rồi nhìn vào mắt nhau. Có một cái gì đó đang chiếm lĩnh một khoảng trong tâm trí của Milicent. Có thể là một con chó sói, một con cáo, tóm lại là một con thú hoang dã, một con thú làm cho nàng đau đớn và cái đau ngày một tăng dần. Nàng nuốt một ngụm Brandy để bình tĩnh lại và lại gặp ánh mắt của Linda một lần nữa. “Được thôi, nàng tự nhủ, tóm lại nếu những cái mà mình nghĩ, cái mà bất cứ ai có thể suy nghĩ lôgíc đều thấy thì tóm lại người đàn bà đó cũng không phải là Linda vì bọn mình đã nghỉ cuối tuần cùng nhau và cô ta cũng đã hoảng sợ như mình và nực cười là hoảng sợ hơn cả mình nữa”. Bởi vì trong đầu nàng có ý nghĩ là David đã đem một người đàn bà về trong ngôi nhà của họ, rằng lũ trẻ có ở đó hay không, ý nghĩ là David đã đem người đàn bà đó về và cho cô ta mượn cái áo ở nhà của nàng, ý nghĩ đó làm nàng ngây người, hoàn toàn suy sụp. David không để mắt ngắm những phụ nữ khác, vả lại David cũng chả nhìn ai cả. Và cái từ “không một ai” đột nhiên vang lên trong nàng như một tiếng chiêng. Thật sự là anh không nhìn một ai, kể cả nàng. David sinh ra đã đẹp trai và mù quáng nữa. Tất nhiên là sau mười năm thì quan hệ sinh lý của họ đương nhiên phải giảm đi và bây giờ thì hầu như không còn nữa. Và cũng tất nhiên là sau cả quãng thời gian đó cũng chẳng còn lại gì đáng kể từ cái anh chàng trai trẻ say mê, nồng nhiệt và cũng rất bồn chồn mà nàng đã biết, nhưng anh lại còn gần như khác lạ, cái anh chồng đẹp trai, mù quáng và quyến rũ ấy…
“Milicent, Linda nói, cậu nghĩ gì về tất cả cái này?” Cô ta khua tay để chỉ cái quang cảnh hỗn độn, “Thế cậu muốn mình nghĩ gì nữa? Milicent nói, hoặc là cô Briggs. cô trông trẻ không đến dọn nhà hoặc là David đã nghỉ cuối tuần ở đây với một con bé lẳng lơ.” Và nàng bắt đầu cười. Thực ra nàng thấy nhẹ nhõm hơn. Vấn đề đã được đặt ra đúng cách và mọi việc thật đơn giản. Người ta có thể cười thoải mái với một người bạn thân vì lý do đã bị lừa tình và phát hiện ra điều đó một cách đột ngột nhờ vào một cuộc chơi golf bị bỏ dở vì gió to quá. - Nhưng, Linda nói và cô ta cũng bắt đầu cười, nhưng cậu định nói gì, con bé lẳng lơ nào? David luôn ở bên cạnh cậu, bọn trẻ và bạn bè. Tớ không thể hiểu làm thế nào mà anh ta có thời gian đế qua lại với một ả lẳng lơ thực sự. - Ồ! Milicent vừa nói vừa cười rất duyên dáng, thật sự là nàng cảm thấy nhẹ nhõm và cũng không biết tại sao lại thế, có thể là Pamela hoặc Esther hoặc Janie, rồi sẽ biết. - Tớ không tin là anh ấy thích một ai trong bọn họ, Linda nói gần như buồn rầu và cô ta nhấp nhổm định đứng lên làm cho Milicent hơi sợ. - Nào Linda, nàng nói, thậm chí nếu chúng ta đang bị rơi vào chính giữa sự ngoại tình thì cậu cũng thừa biết rằng chúng ta cũng không coi nó như một bi kịch. Này nhé, chúng tớ đã cưới nhau từ mười năm nay, David và tớ. Mỗi người chúng tớ đều đã có dịp… Nhưng bi kịch chỉ dừng lại ở đó thôi… - Tớ biết, Linda nói, chả có gì trong chuyện này là ghê gớm cả. Tớ biết nhưng tớ vẫn muốn đi khỏi đây. Tớ muốn quay lại Londres. - Cậu không thích David lắm phải không? Một thoáng sững sờ trong ánh mắt Linda rồi ngay sau đó là một sự nồng nhiệt và dịu dàng: - Ồ có chứ, tớ rất thích David, tớ đã biết anh ấy từ khi mới có năm tuổi, anh ấy là bạn thân nhất của anh trai tớ ở Eton. Và sau cái câu nói ngớ ngẩn và chẳng có ích lợi gì ấy, cô ta nhìn thẳng vào Milicent làm như cô ta đã nói lên một trong những điều quan trọng nhất trên đời. - Được rồi, Milicent nói, vậy là tớ đã hiểu tại sao cậu lại không tha thứ cho David về một lỗi lầm mà chính tớ lại sẵn sàng bỏ qua cho anh ấy. Căn nhà bừa bộn thật nhưng tớ thà ở lại đây còn hơn là dấn thân vào cái nạn kẹt xe khủng khiếp để tới Londres. Linda tóm lấy chai rượu Brandy và rót cho mình một cốc đầy có ngọn, ít ra là thế dưới mắt của Milicent. - David rất tốt với cậu, cô ta nói.
Đúng như vậy, Milicent nói mà không cần dối trá. Và cũng thật sự là anh ta rất ân cần, lịch sự, che chở, đôi khi rất giàu trí tưởng tượng và không may lại thường xuyên bị suy nhược thần kinh, nhưng điều đó nàng không kể cho Linda biết. Nàng cũng không kể cho Linda biết việc David nằm ườn trên đi văng ở Londres hằng mấy ngày liền, hai mắt nhắm nghiền và từ chối đi ra ngoài. Nàng cũng không kể cho cô ta biết những cơn ác mộng khủng khiếp của David rồi thì những cú điện thoại điên rồ của anh cho một thương gia và nàng không sao nhớ tên được. Nàng cũng không kể những cơn lôi đình của David khi một trong hai đứa trẻ thi trượt, rằng David đáng ghét làm sao khi bàn về các đồ gỗ, các bức tranh và anh chàng ân cần, chu đáo David có thể quên các cuộc hẹn, kể cả cuộc hẹn với nàng đến mức như thế nào, và đôi khi anh về nhà trong tình trạng thảm hại ra sao. Nàng cũng có thể kể cho Linda nàng đã nhìn thấy anh một lần từ phía sau trong băng giá với vẻ già nua như thế nào… Và với cái kỷ niệm giản đơn đó một cái gì đấy chao đảo trong nàng, tập tính kiểu Ăng lê của nàng, kiểu của một phụ nữ đứng đắn, và nàng hỏi cuối cùng thì nàng cũng thấy nên hỏi: - Cậu cho là Esther hay là Pamela? Bởi vì cuối cùng thì anh cũng hầu như không có thời gian để gặp gỡ các phụ nữ thác ngoài bọn họ, kể cả những loại đàn bà dạo chơi trên Back Street. Những cuộc phiêu lưu của David nếu có, chỉ có thể là những câu chuyện bạo lực, vô độ và nhanh gọn với những con điếm hoặc là loại chuyên nghiệp. Và làm sao có thể tưởng tượng nổi David kiêu hãnh và tinh tế đến như thế lại có thể loạn dâm? Giọng nói của Linda dường như vọng lại từ rất xa: - Tại sao cậu lại nghĩ là Pamela hoặc là Esther? Họ khó tính đến thế cơ mà? - Cậu nói đúng, Milicent nói. Nàng đứng lên đi về phía cái gương trong phòng khách và tự ngắm mình. Nàng vẫn còn đẹp, người ta vẫn luôn nói vậy với nàng và đôi khì còn chứng minh nữa. Chồng nàng là người đàn ông đẹp trai và có tài nhất vùng. Vậy mà sao nàng lại có cảm giác là nhìn thấy trước mặt, trong tấm gương một bộ xương chẳng có da thịt, thần sắc, vóc dáng gì cả. - Tớ thấy đáng tiếc là, nàng nói, nàng cũng không biết là nói với ai, tớ thấy đáng tiếc là David không có nhiều bạn trai cũng như bạn gái. Cậu có thấy thế không? - Tớ chẳng bao giờ nhận thấy gì hết, Linda nói, hay đúng hơn là giọng của Linda vì bóng tối đã ập xuống. Và Milicent không còn nhìn thấy cô ta ngoài một cái bóng, một loại chuột nhắt ở trên đi văng và cô ta biết, nhưng cô ta biết gì nhỉ? Tên của người đàn bà ư? Tại sao cô ta lại không nói cho nàng biết? Linda độc ác hay tốt bụng, trong trường hợp này nếu có biết được không để nói thầm lên một cái tên? Vậy cũng tại sao trong buổi tối tháng bảy này, khoác lên người sự cô đơn và bộ váy áo sáng màu, nàng đã có vẻ ghê sợ đến như vậy? Cần phải giải thích tất cả những cái đó bằng một lý lẽ thực tế. Nếu quả thật như vậy thì đành phải chấp nhận rằng David có quan hệ với một phụ nữ nào đó, một người bạn hoặc một ả chuyên nghiệp. Nhất là không nên dựng lên từ sự việc này một câu chuyện bẩn thỉu, nhớp nhúa và biết đâu một thời gian nữa nàng lại có thể báo thù cho mình bằng cách vui vẻ với Perey hoặc một anh chàng nào khác. Cần phải đưa những sự việc này về đúng ý nghĩa trần tục và cổ điển của chúng. Nàng cũng đứng dậy và phủi bụi trên đi văng bằng một bàn tay cương quyết và tuyên bố: - Nghe này, bạn thân mến, đằng nào thì chúng ta cũng sẽ ngủ lại đây. Tớ sẽ đi lên xem mấy phòng phía trên lộn xộn đến mức độ nào. Và nếu ông chồng yêu quý của tớ có làm gì quá đà thì tớ sẽ gọi điện cho bà Briggs ở cách đây hai cây số đến giúp chúng ta. Cậu nghĩ sao? - Nhất trí, Linđa nói trong bóng tối. Nhất trí, nếu cậu muốn thế!
Và Milicent đứng dậy đi về phía cầu thang, ảnh của hai cậu con trai treo trên tường dọc lối đi và nàng lơ đãng mỉm cười với chúng. Chúng đã đi Eton như David và với một ai nhỉ? À phải rồi, với anh trai của Linda. Nàng ngạc nhiên thấy mình phải tựa vào tay vịn cầu thang để đi lên gác. Có một cái gì đó làm nàng nhức nhối, tê liệt, đó không phải là do cuộc chơi golf, cũng không phải là do bị bội tình. Bất cứ ai cũng có thể nhận ra là mình đã bị lừa và cần phải đối mặt với điều đó và đấy cũng không phải lý do để gây sự hoặc nhăn nhó. Tóm lại, điều đó không nằm trong tâm trí của Milicent. Nàng đi vào phòng của “họ”, cái phòng trong nhà “của họ” và nhận thấy mà không cảm thấy có một sự khó chịu dù nhỏ nhất nào, cái giường tơi bời, tung toé, biến dạng, nhớp nhúa như chưa từng thế bao giờ kể từ sau đám cưới của nàng với David. Điều thứ hai mà nàng thấy là một cái đồng hồ đeo tay trên cái bàn con ở đầu giường, phía bên quần áo. Đấy là một cái đồng hồ không thấm nước, một cái đồng hồ to tướng của đàn ông và nàng nhấc nó lên một giây trên đầu ngón tay, phân vân và như đê mê, trước khi thực sự hiểu rằng đó là của một người đàn ông khác đã để quên ở đó. Nàng đã hiểu tất cả.
Phía dưới vẫn có Linda, lo lắng và càng sợ hãi hơn trong bóng tối ngày càng dày đặc hơn. Milicent đi xuống và nhìn thẳng vẻ tò mò và thương hại vào mặt Linda yêu quý, người cũng đã biết chuyện: - Cô bạn yêu quý tội nghiệp của tôi, cô nói, tớ e rằng cậu đã có lý. Có một cái áo lót màu hồng cam không còn mặc được nữa trong phòng ngủ.
LÊ THU HÀ dịch . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Mon Oct 08, 2018 6:15 pm | |
|
27 Bước Chân Là Lên Thiên Đường Truyện Ngắn - Quỳnh Dao Em đã run lên khi nghe cú điện thoại của anh. Em nằm úp mặt xuống gối và nghe tiếng tim đập thùm thụp. Có một tiếng nói từ đâu đó vọng đến. Hãy tắt máy điện thoại đi. Khi tắt máy điện thoại thì sự liên lạc giữa anh và em sẽ không còn nữa. Vậy mà em lại với nó để sát vào người em hơn. Trong khoảng khắc điện thoại chưa đổ chuông, tim em đập rung lên và ngực em co tròn lại, tức ở hai bầu vú. Đầu em toang tuyếch. Em muốn đến với anh và em cũng muốn mình vượt qua sự cám dỗ ngọt ngào này. Chuông điện thoại đổ gắt gao: - Em đã sắp đi chưa? - Chưa. - Sao lại không đi? - Em sợ? - Em sợ gì chứ? - Em chỉ muốn ngồi bên anh trong một quán cà phê nhỏ. - Ừ thì cứ đến đây đi, mình sẽ đi uống cà phê. Đi đi em. Anh đang chờ em đấy.
Em bật dậy ra khỏi giường và trang điểm cẩn thận. Em kẻ viền mắt thẫm hơn và thoa thêm phấn hồng lên má. Tim em vẫn đập gấp gáp. Em dừng taxi ở phía bên kia đường và mua một thỏi singum. Em chợt nhớ ra chưa kịp đáng răng. Em có thói quen chỉ đánh răng vào buổi sáng và chiều nay là một ngoại lệ. Vì thế mà em quên. Anh ra cửa đón em. Anh bảo: - Em mặc đồ hiện đại đẹp hơn. Em mặc quần bò và chiếc áo thun đen. Em hiểu anh đã so sánh với những lần anh đã gặp em khi thì em mặc áo dài khi thì mặc lụa. Em theo anh vào khách sạn với những bước đi run rẩy. Chiếc sắc em cầm trong tay cũng rung lên. Anh bảo em ngồi xuống nghế. Anh cũng ngồi xuống bên cạnh em. Anh nhìn vào mắt em và nắm lấy tay em. Tay em đang rất lạnh. Tay anh ấm và khô. Em cảm nhận được sự ấm áp từ tay anh truyền sang. Anh cười. Em ấp úng và tránh cái nhìn của anh: - Mình đi một quán cà phê nào đi anh. - Ừ ở đây cũng có cà phê. Nhưng có lẽ mình vào một phòng nào đó để nói chuyện và uống cà phê. Người em đông cứng lại. Em biết điều gì sẽ chờ em trong căn phòng đó. Anh ra quầy lễ tân lấy chìa khoá. - Đi em. Em theo anh như một chiếc bóng vô hồn.
Trong phòng có hai chiếc ghế. Anh ngồi xuống một chiếc và em ngồi xuống chiếc đối diện. Anh lại nhìn vào mắt em. - Em sợ gì thế? Nói gì đi em. Em sợ gì nào? Em không nhìn vào mắt anh mà quay cái nhìn ra cửa. Dưới tay nắm cánh cửa có một tờ giấy ghi dòng chữ: quý khách nhớ chốt cửa. Cửa anh chưa đóng chặt vẫn mở he hé. Em cảm thấy yên tâm hơn. - Em sợ ngày mai. - Sao lại sợ ngày mai? - Ngày mai em phải đối diện với những sự thật. Em sẽ nhìn mọi thứ đúng với tên gọi của nó. Và điều đó làm em khốn khổ. - Hàng ngày thiên hạ đang sống với nhau một cách giả dối. Mình không sống được thật lòng với nhau hay sao? Em cũng thích anh chứ? Em gật đầu. - Anh cũng rất thích em mà. Anh áp hai tay lên tay em. Tay anh vẫn rất ấm. Tay em đã bớt lạnh. - Nào đã hết sợ chưa em? Em ngước nhìn anh cái nhìn bối rối. Anh đứng lên kéo em ấp vào người anh. Cái hôn đầu tiên anh đặt lên má em. Em run rẩy như không thể đứng vững. Em tựa vào người anh. Anh ghì chặt em vào người anh. Trước khi tan biến em còn cảm nhận được môi anh cũng rất ấm trên ngực em.
Em đã tan biến vào anh rồi. Người em cong cứng. Anh đã làm dịu em lại bằng những cái hôn. Nhưng ngay cả cái hôn cũng không làm dịu em được. Em mút chặt lưỡi anh và một biển nước ào ạt như muốn nhấn chìm em. Thực ra em đã muốn làm điều này với anh từ lâu rồi. Ngay sau cái lần anh nhìn rất lâu vào em trong cái đám đông người ấy và nói em đẹp. Nhưng em lại muốn cả tình yêu nữa. Sự cảm nhận của em đã truyền sang anh. Anh nói trong hơi thở gấp gáp: - Em thế này làm sao anh quên em được. Nước mắt em tràn trề vì hạnh phúc. Em nằm duỗi người, hai tay để lên đầu. Em thả lõng người thoải mái. Anh lại hôn em. Môi anh vẫn nồng ấm. Anh đã kết thúc và rất thoả mãn. Một tay anh để lên ngực em xoa nhẹ. Em muốn khóc nức nở. Em đã cố gắng để không khóc. Em bắt ý nghĩ quay về một điều gì đó. Em chợt nhớ ra cửa anh vẫn để he hé. Và em bỗng sợ. Em nhổm người dậy để nhìn. Cửa đã được đóng chặt và cài kín từ bên trong. Em cố nghĩ xem anh đã cài kín cửa từ khi nào? Em đã không nhớ.
Anh vào nhà tắm. Tiếng nước xối ào ào. Em buồn ngủ. Muốn ngủ một giấc thật ngon. Nhưng em lại nhớ câu nói của anh: - Em thế này anh làm sao mà quên em được. Em đã cưỡng lại cơn buồn ngủ, cố thức để tận hưởng cảm giác. Em nghĩ về anh. Anh là người đàn ông đang trên bệ phóng của danh vọng. Hằng đêm trong chương trình thời sự luôn thấy hình ảnh của anh. Nhưng tất cả những thứ đó không quan trọng với em. Cái dẫn đến giây phút em đang tận hưởng là vì em yêu và ngưỡng mộ anh. Em đã rất ngưỡng mộ anh và khao khát một tình yêu. Em, một người đàn bà bình thường nhưng thông minh. Cái thông minh nhất của em là em nhận chân được mình là ai? Chỗ đứng của em ở chỗ nào trên trái đất này? Em cũng rất nhạy cảm. Em cảm nhận được ánh mắt đang chĩa về em nặng nhẹ thế nào? Em biết trong một người đàn ông dẫu có quyền lực và địa vị thế nào thì vẫn có một phần của con người bình thường. Em đã yêu cái phần người bình thường đó trong anh. Em đã không nhầm. Cái giây phút như tan biến trong nhau ấy. Em đã bừng tỉnh để nhận ra sự nức nở của anh trên ngực em. Trong cơn vọt trào của cảm xúc anh đã rên rỉ bằng tiếng của chú mèo chứ không phải tiếng gầm của sư tử. Em tự hào vì đã làm cho anh sung sướng.
Anh ra khỏi nhà tắm, quấn chặt mình trong chiếc khăn bông trắng. Nhìn thấy em vẫn nằm ngạo nghễ trên giường anh lấy chiếc chăn mỏng phủ lên người em. Em muốn đùa với anh. Em hất tung chăn và duỗi dài chân tay. Anh lại lấy chăn phủ lên người em. Em lại hất tung chăn ra. Lần thứ 3 em đã nhìn thấy ánh mắt bực bội của anh. Em bật dậy vào nhà tắm. Em soi mình vào gương. Da thịt em sáng loáng. Môi em đỏ mọng và hơi trễ xuống. Mắt em sáng long lanh. Em ra khỏi nhà tắm và quấn mình trong chiếc khăn bông trắng. Anh đã mặc quần áo chỉnh tề. Em nhìn vào mắt anh, không còn ánh mắt bực bội nữa. Cái nhìn của anh đằm thắm và bao dung. Anh đến phía sau em cầm chiếc khăn lau vai cho em và nói: - Vai em còn đọng nhiều nước quá. Người em lại mềm ra để đón nhận một chiếc hôn vào vai. Và em còn xoay người để đón một cái hôn nữa vào môi. Nhưng anh chỉ hôn vào má em.
Đã xong. Quần áo em đã gọn gàng. Đầu tóc cũng gọn gàng. Môi em không trễ tràng nữa. Em ngồi như một tội đồ trên ghế. Anh cũng không nhìn em. Thời gian như đông cứng lại. Em sợ những khoảng khắc như thế này. Em bảo anh: - Mình về đi. - Ừ. Em đứng lên và anh vẫn ngồi - Anh không còn nhớ mấy câu thơ này là của ai nữa? Lemontop hay Puskin. Nhưng anh rất thích nó. Tạm biệt nhé nếu là lần cuối... Người em như có hào quang toả ra. Em líu lo hát những bài hát từ trái tim. Mắt em cười và má em ửng đỏ. Em đã không kiểm soát được các hành vi của mình. Em đã hăm hở bước 26 bước gần đến thiên đường.
24 giờ sau. Đúng cái khoảnh khắc ấy, tim em lại đập loạn lên. Em chờ điện thoại của anh. Em chờ đúng cái khoảnh khác ấy. Cái khoảng khắc vào xế chiều, khi công việc đã vãn. Em đếm từng phút 5, 10, 15... 45. Đã sắp hết giờ làm việc. Tim em muốn nổ tung ra. Em không thể chờ được nữa. Em run rẩy bấm số điện thoại của anh. - Alô, tôi nghe đây. Em nghi ngại không biết có phải giọng nói của anh không? - Cho tôi hỏi thăm, đây có phải là... - Vâng tôi đây. -... là em, anh quên em rồi phải không? - Em đấy à. Anh làm sao mà quên em được. Đúng là giọng nói của anh hay nói với em rồi. Nhưng là giọng của công việc chứ không phải là giọng của nồng nàn. - Em khoẻ không? Anh cũng đang định gọi cho em đây. - Vâng. Em không biết nói gì thêm nữa. - Tý nữa anh còn có một cuộc hẹn. Chúc em trẻ, khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. - Và giữ vững lập trường, tư tưởng nữa phải không anh. - Đúng thế. Vào một thời gian thích hợp nào đó chúng mình sẽ gặp nhau nữa nhé. À này em, khi tình cờ gặp nhau ở đám đông chúng mình nên tế nhị nhé. - Vâng, em hiểu rồi. Chân tay em run lẩy bẩy như mới ốm dậy.
Nỗi buồn làm em đổ sụp xuống. khi em đến chỗ hẹn cùng anh, em cũng đã nghĩ đến điều này như là một sự rủi ro. Nhưng em đã gạt nó đi bằng niềm tin và hy vọng. Trong nỗi buồn em vẫn còn hy vọng. 48 giờ, 72 giờ... Em vẫn chờ và hy vọng và sợ hãi. Nỗi sợ hãi bị tổn thương lần nữa đã làm em không thể nhấc điện thoại để gọi cho anh. Những ý nghĩ khốn khổ đã bủa vây em và nhấn chìm em xuống. Em là người đàn bà như thế nào đây, trong suy nghĩ của anh? Em hám danh vọng và hám tiền tài ư? Không, em đã có một cuộc sống đầy đủ về vật chất và danh vọng cần có của một người đàn bà bình thường. Em còn có cả lòng tự trọng. Bây giờ thì em biết chắc anh đã rất hiểu điều này khi chọn em phải không anh? Còn trong suy nghĩ của em, em là một người đàn bà dễ dãi hư hỏng ư? Không, em đã mê đắm anh để từ bỏ một người đàn ông đã yêu em thực lòng. Em sống không luỵ người khác. Thiên đường và địa ngục của em cũng không giống của người khác. Thiên đường cách cuộc sống của em 27 bước chân. Em đã bước được 26 bước rồi. Chỉ cần một bước chân nữa thôi em sẽ được lên thiên đường. Sau cái khoảnh khắc tan biến vào anh, bước chân cuối cùng ấy em tưởng tượng ra đó chính là lời anh thổ lộ rằng anh yêu em. Sau 48 giờ, 72 giờ... thì chỉ cần những cú điện thoại hỏi thăm em dịu dàng.
Kỳ lạ thay cái thiên đường. Adam và Eva vì yêu nhau mà phải đầy xuống hạ giới. Còn em chỉ vì thiếu tình yêu em không được lên thiên đường. Còn anh, anh đang ở đâu? Anh có ở thiên đường của anh không? Mỗi buổi tối em vẫn thích xem chương trình thời sự. Em vẫn không thể dời mắt khỏi anh. Em nhớ anh nói với em rằng, một thời gian thích hợp nào đó mình sẽ gặp nhau. Và em cũng nhớ câu thơ cuối anh đọc cho em, anh không phải là anh bây giờ. Em biết. Và em cũng không phải là em bây giờ. Trong khi những ý nghĩ quay cuồng làm khổ em, em đã tìm cho mình một lối thoát. Em đã lấy câu chuyện của một cô gái bán hoa để làm bài học răn mình. Câu chuyện rằng, một đêm cô đi bán hoa bị khách chơi trả cho một tờ bạc giả. Thay vì sự rên rỉ cô đã tự an ủi mình: Mình bị hiếp rồi.
Thực chất, thiếu một bước chân em đã bị sa xuống địa ngục rồi. Dưới địa ngục con người vô cảm, không còn cảm giác buồn đau và sung sướng nữa. . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Thu Oct 18, 2018 6:18 pm | |
|
TÌNH YÊU VÀ MÔN LÔGIC Max Shulman (Mỹ)
Tôi cần Polli. Xin cho phép tôi nhấn mạnh rằng về bản chất, ham muốn của tôi không phải là cảm tính. Tất nhiên đó là một cô gái luôn gợi lên nhiều tình cảm, nhưng tối thuộc số những người đặt trái tim dưới sự kiểm soát của lý trí.
Tôi ham muốn Polli là về mặt lý tính. Tôi là sinh viên năm thứ nhất khoa Luật. Vài năm nữa tôi sẽ hành nghề luật sư. Tôi nhận thức rõ rằng đối với sự nghiệp một luật sư, việc biết cách chọn vợ đúng đắn là hết sức quan trọng. Tôi nhận thấy các luật sư thành đạt ai cũng đều lấy những phụ nữ xinh đẹp, kiều diễm, có học vấn kha khá. Polli hoàn toàn đáp ứng những yêu cầu ấy, ngoại trừ một điểm. Nàng xinh đẹp. Nàng kiều diễm. Cung cách xử sự của nàng không chê vào đâu được. Chỉ có điều trình độ học vấn của nàng không cao. Ngược lại là khác. Nhưng tôi hy vọng dưới sự hướng của tôi, nàng sẽ thông minh lên. Trong bất cứ trường hợp nào cũng nên thử xem sao. Bởi làm cho một cô gái ngốc nghếch xinh đẹp trở thành thông minh dễ hơn là làm cho một cô gái thông minh xấu xí trở thành xinh đẹp. Cuộc hẹn hò đầu tiên của tôi với Polli thuần tuý mang tính chất thăm dò. Tôi phải xác định xem tôi cần bỏ ra bao nhiêu công sức để nâng trí tuệ nàng lên đến mức tôi đề ra.
Thọat tiên tôi mời nàng đi ăn. “Tuyệt, bữa ăn hết ý” nàng nói khi chúng tôi ra khỏi nhà hàng. Sau đó tôi dẫn nàng đi xem phim. “Tuyệt, bộ phim thật là cực kỳ”, - nàng nói khi chúng tôi ra khỏi rạp chiếu bóng. Rồi tôi đưa nàng về nhà. “Tuyệt, buổi tối hôm nay thú vị quá” – nàng kết luận. Tôi trở về phòng mình mà lòng nặng trĩu. Tôi hiểu rằng tôi đã đơn giản hoá nhiệm vụ của mình. Polli chẳng có học vấn gì cả, và tôi quyết định trước hết phải dạy nàng suy nghĩ cái đã. Nhiệm vụ lớn lao ấy khiến tôi phát hoảng, và tôi đã định nhường quách nàng cho Pity, anh chàng vẫn theo đuổi nàng, nhưng bỗng tôi lại chợt nhớ tới vẻ đẹp mê hồn của Polli, thế là tôi bèn quyết định thử sức lần nữa.
Trong việc này tôi rất có bài bản, cũng như trong tất cả những việc tôi đã từng làm. Tôi quyết định sẽ huấn luyện nàng một “cua” môn lôgic học. Thật may là tôi vừa học xong môn này, nên tất cả các ví dụ tôi đều rất sẵn. - Polli, - tôi nói trong cuộc hẹn hò sau, - hôm nay chúng mình sẽ đến quán Noll nhé (quán này ở trong “thị trấn đại học” và là nơi hẹn hò của các cặp trai gái) để trò chuyện với nhau. - Thế thì thích quá, - nàng đáp. Nói gì thì nói, nhưng đúng là không có cô gái nào dễ chịu hơn nàng. Chúng tôi tới quán Noll, ngồi dưới cây sồi cổ thụ, và nàng nhìn tôi, vẻ dò hỏi: - Chúng ta sẽ trò chuyện về điều gì? - Về môn lôgic. Nàng im lặng một phút, rồi nghĩ ngay rằng đề tài này rất thú vị. - Tuyệt diệu, - nàng nói. - Lôgic học, - tôi hắng giọng và mở đầu, - là khoa học về cách suy nghĩ. Trước khi học cách suy nghĩ cho đúng, chúng ta phải hiểu mấy lối nguỵ biện khái quát của môn lôgic. Đó chính là câu chuyện hôm nay của chúng ta. - Hoan hô! – nàng reo lên và vỗ tay đôm đốp. Tôi nhăn mặt lại, nhưng vẫn nói tiếp. - Trước hết, chúng ta hãy xét lời nguỵ biện có tên là Nói Đơn Giản. - Hay quá, - nàng khích lệ. - Nói Đơn Giản là cách lập luận dựa trên lối khái quát thiếu phẩm chất. Ví dụ: luyện tập thể dục thể thao là tốt, do đó, ai cũng phải luyện tập. - Em đồng ý,- Polli nghiêm trang nói. – Luyện tập củng cố sức khoẻ và đem lại nhiều cái lợi khác. - Polli, - tôi âu yếm nói, - cách lập luận ấy là nguỵ biện. Luyện tập là tốt là một khái quát thiếu phẩm chất. Ví dụ, đối với người yếu tim thì luyện tập thể thao có thể là xấu chứ không phải là tốt. Nhiều người bị bác sĩ cấm luyện tập. Ta phải nâng cao phẩm chất cho lời khái quát. Ta phải nói luyện tập nói chung là tốt, hoặc: luyện tập là tốt đối với đa số. Em hiểu chưa? - Chưa, - nàng thú thật. – Nhưng nghe hay tuyệt. Anh nói nữa đi! - Tốt nhất là em hãy để cho cái ống tay áo của anh được yên, - tôi bảo nàng và nói tiếp: - Bây giờ chúng ta hãy xét lời nguỵ biện có tên gọi là Khái Quát Vội Vã. Em hãy lắng nghe nhé! Em không nói được tiếng Pháp. Do vậy, anh rút ra kết luận rằng không ai ở đâu nói được tiếng Pháp. - Thật hả anh? – Polli ngạc nhiên. Tôi nén cơn bực bội và nói tiếp: - Polli, đó chính là nguỵ biện mà. Sự khái quát được thực hiện quá nhanh. Quá ít những trường hợp riêng lẻ, nên có thể kết luận như vậy. - Anh còn có những nguỵ biện nữa chứ? – Polli hỏi, vẻ quan tâm. – Nghe thích hơn là đi nhảy đấy. Tôi cố kiềm chế nỗi tuyệt vọng. Tôi cảm thấy tôi sẽ thất bại với cô gái này, thất bại cay đắng. Nhưng nghĩ rằng mình sẽ là kẻ hèn nếu bỏ cuộc, tôi nói tiếp: - Bây giờ đến Post Hoc (hai từ mở đầu của châm ngôn Latin: sau đó, do vậy, do đó). Em nghe nhé: chúng ta sẽ không rủ Bill cùng đi pique-nique. Vì lần nào rủ nó đi, trời cũng mưa. - Em biết một đứa nữa cũng như thế đấy, - nàng kêu lên. – Đó là con bé Iula. Hễ cứ rủ nó đi pique-nique… - Polli, - tôi ngắt lời nàng. – Đó là nguỵ biện. Iula không gây ra mưa. Cô ấy không liên quan gì đến chuyện trời mưa cả. Em đã phạm vào lập luận Post Hoc, nếu em đổ tại Iula.
Buổi tối hôm sau, ngồi với nàng dưới gốc xoài, tôi nói: - Lối nguỵ biện hôm nay của chúng ta có tên là “Vì Thương Cảm”. Nàng có vẻ hồi hộp, thú vị. - Em lắng nghe nhé, - tôi nói. – Một người đi xin việc. Khi ông chủ hỏi anh ta thạo nghề gì, anh ta trả lời rằng ở nhà anh ta có một cô vợ và sáu đứa con nhỏ, vợ thì tàn tật ốm yếu, lũ trẻ ăn đói, mặc rách, trong nhà không có lấy một cái giường, trong kho không còn một hòn than, mà mùa đông sắp tới rồi. Mấy giọt nước mắt lăn trên đôi má hồng của Polli. - Ôi, thật khủng khiếp, thật tội nghiệp, - nàng bật khóc. - Ừ, thật khủng khiếp, - tôi tán thành. – Chỉ có điều đó không phải là lập luận. Bởi người đến xin việc không trả lời ông chủ về chuyện nghề nghiệp, mà lại cố gây lòng thương cảm ở ông ta. - Anh có khăn mùi soa không? – Polli thỏ thẻ. - Tiếp theo, - tôi nói bằng giọng thật nghiêm chỉnh, - chúng ta sẽ xem xét lối nguỵ biện So Sánh Nhầm. Ví dụ: sinh viên nên được cho phép nhìn vào sách giáo khoa trong lúc thi cử. Vì bác sĩ ngoại khoa được tra ren ghen hỗ trợ thêm khi tiến hành các ca mổ, luật sư được dùng các tài liệu giúp đỡ họ khi xét xử ở toà, kỹ sư có các bản vẽ giúp thêm khi họ xây nhà. Vậy tại sao sinh viên lại không được nhìn vào sách giáo khoa khi làm bài thi? - Đúng quá, đúng quá, - nàng nói rất nhiệt tình. – Chưa bao giờ em được nghe ý tưởng nào cực kỳ đến thế. - Polli, - tôi bực bội nó. – Lập luận ấy hoàn toàn không đúng. Bác sĩ, luật sư, kỹ sư không cần phải được kiểm tra kiến thức, còn sinh viên lại cần. Các tình huống hoàn toàn khác nhau, không thể đem so sánh. - Nhưng dù sao em vẫn cho rằng đó là một ý tưởng tuyệt diệu, - Polli nói. - Chỉ nói linh tinh, - tôi cằn nhằn rồi vội vàng tiếp tục. – Chúng ta hãy thử tìm hiểu lối nguỵ biện Giả Thiết Với Sự Thật. - Nghe khoái cả các lỗ tai, - Polli nói. - Em hãy nghe đây: nếu bà Curie không đặt một đoạn phim nhựa vào chiếc hộp đựng một chất có chứa u-ran, thì ngày nay thế giới vẫn chưa biết gì về phóng xạ. - Đúng vậy, đúng thế, - Polli tán thành. Anh đã xem bộ phim đang chiếu ở rạp bên cạnh nhà em chưa? Hay hết ý. Chàng diễn viên Pijin ấy quả là miễn chê. Em mê chàng ta lắm. - Nếu em quên đi, dù chỉ một phút, cái anh chàng Pijin ấy, - tôi nói, giọng lạnh băng, - thì anh sẽ giải thích được cho em rõ rằng lời khẳng định kia là nguỵ biện. Nếu không khám phá ra chất phóng xạ lần ấy, có thể về sau bà sẽ khám phá ra. Cũng có thể một ai đó khác sẽ khám phá ra. Không được xuất phát từ một giả thiết sai, rồi rút ra những kết luận khẳng định giả thiết ấy. - Giá mà Pijin đóng phim nhiều hơn thì tuyệt, - Polli mơ mộng nói, - lâu lắm em mới lại được xem phim Pijin đấy. “Mình cố thử lần nữa, - tôi quyết định, - lần cuối cùng… Mọi sự kiên nhẫn đều có giới hạn thôi chứ”. - Lối nguỵ biện tiếp theo có tên là Đầu Độc Giếng Nước. - Nghe hay quá! – Nàng thì thầm. - Hai người tranh cãi với nhau. Một trong hai người ấy đứng lên và nói: “ĐốI thủ của tôi là một tay dối trá có hạng. Tất cả những gì anh ta sắp nói, sẽ đều là dối trá”. Bây giờ em hãy nghĩ xem, Polli, ở đây có gì sai? Tôi chăm chú quan sát nàng trong lúc nàng nhíu cặp lông mày tuyệt đẹp mà suy nghĩ. Bỗng tia sáng của một ý tưởng chợt loé lên trong đôi mắt nàng. - Như thế không trung thực, - nàng nói, vẻ chững chạc. – Không trung thực một chút nào. Người kia còn chưa kịp cất lời mà đã bị anh ta gọi là dối trá. - Đúng lắm! – Tôi mừng rỡ kêu lên. – Đúng một trăm phần trăm! Rõ ràng như thế không trung thực. Anh ta đã “đầu độc giếng nước” trước khi một ai đó có thể uống nước giếng. Anh ta diệt luôn đối thủ trước khi đối thủ bắt đầu hành động… Polli, anh tự hào về em! - Chứ sao nữa! – nàng lí nhí, mặt đỏ bừng vì thích thú. Được khích lệ vì thấy đầu óc Polli không đến nỗi “bã đậu” quá, tôi liền kiên trì cùng nàng ôn lại thật kỹ tất cả những gì tôi đã nói với nàng. Để làm xong việc đó, chúng tôi mất năm buổi tối cật lực, nhưng kể cũng đáng công. Tôi đã biến được Polli thành một nhà lôgic. Tôi đã dạy được cho nàng cách suy nghĩ. Công việc của tôi đã hoàn tất. Rốt cuộc thì Polli đã trở nên xứng đáng với tôi như một người vợ, người một phụ nữ đảm đang, như một người mẹ những đứa con có cuộc sống rất sung túc của tôi.
Không nên nghĩ rằng tôi hoàn toàn không có tình yêu đối với nàng. Pygmalion (trong thần thọai Hy Lạp, là nhà điêu khắc phải lòng bức tượng phụ nữ do chính ông tạo nên) yêu người đàn bà mà ông ta nên như thế nào, thì tôi cũng yêu cô gái của tôi như thế. Tôi quyết định sẽ tỏ tình với nàng ngay trong cuộc hẹn sắp tới. Đã đến lúc chuyển từ quan hệ học hành sang quan hệ lãng mạn. - Polli, tôi nói khi hai chúng tôi lại ngồi dưới gốc xoài. – Hôm nay, chúng ta sẽ không nói về các lối nguỵ biện. - Thế thì chán nhỉ… - nàng thất vọng nói. - Em yêu, - tôi mỉm cười và nói. – Chúng ta đã ngồi cùng nhau năm buổi tối. Chúng ta đã đạt được nhiều bước tiến trong kiến thức. Bây giờ đã rõ là có thể hợp nhau. - Một Khái Quát Vội Vã, - Polli đáp lại ngay. - Em bảo sao? – tôi ngạc nhiên. - Khái Quát Vội Vã, - nàng nhắc lại. – Làm sao anh có thể khẳng định rằng chúng ta hợp nhau, nếu chúng ta mới chỉ gặp nhau có năm lần? Tôi khẽ cười thích thú. Cô gái đáng yêu này đã lĩnh hội rất tốt các bài học của tôi. - Em yêu, - tôi nói, - năm cuộc hẹn hò là đủ rồi. Để biết chiếc bánh ga tô có ngon không, không nhất thiết phải ăn hết chiếc bánh. - Anh đã So Sánh Nhầm, - Polli trả lời luôn. – Em đâu phải chiếc bánh ga tô, em là một cô gái. Tôi khẽ cười, nhưng xem chừng đã nhạt thếch. Hiển nhiên là sẽ tốt hơn nếu tôi tỏ tình với nàng một cách đơn giản hơn và ngắn gọn hơn. Tôi im lặng một phút để bộ não uyên bác của tôi tìm kiếm nhưng lời lẽ cần thiết, rồi tôi nói: - Polli, anh yêu em. Đối với anh, em là cả thế giới, là mặt trăng, là các ngôi sao, là vũ trụ. Em yêu, em hãy nói là em sẽ luôn luôn ở bên anh đi, nếu không anh chết mất. - Anh vừa dùng lối nguỵ biện Vì Thương Cảm rồi đó, - Polli nói. Tôi nghiến răng ken két. Tôi không phải là Pygmalion. Con quỷ mà tôi tạo ra đang tóm chặt cổ họng tôi. Tôi ghìm lại được nỗi kinh hoàng. Bất kể thế nào, tôi cũng phải giữ được bình tĩnh. - Polli, quả thật em đã nắm vững tất cả các lối nguỵ biện. - Anh nói rất đúng, - nàng gật đầu rõ là kiên quyết và trả lời. - Và ai là người đã dạy em điều đó, Polli? - Anh. - Bởi vậy, em mắc nợ anh, em yêu. Nếu không có anh, sẽ chẳng bao giờ em hiểu được các lối nguỵ biện. - Đó là một Giả Thiết Ngược Với Sự Thật, - Polli đập lại. Tôi lau mồ hôi đang toát ra trên trán. - Polli! – Tôi kêu lên. – Em đừng coi trọng những thứ ấy. Tất cả những gì người ta đem dạy ở trường đều chẳng hề liên quan đến cuộc sống. - Anh đã phạm vào lối Nói Đơn Giản đấy, - nàng nói và giơ một ngón tay lên doạ tôi.
Tôi đã hết chịu nổi. Tôi bật dậy, giống như con bò khùng. - Em có nhận lời yêu anh không hả? - Không! – nàng đáp. - Tại sao? – tôi hỏi. - Vì hôm nay em đã nhận lời Pity rồi. Mỹ Hà dịch . | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Tue Oct 30, 2018 8:15 pm | |
|
Ác giả ác báo Truyện ngắn - Bondar Aleksandr (Nga)
Đoàn tàu chuyển bánh. Những ánh điện từ nhà ga Sochi nhấp nháy ngoài cửa sổ. Nikolai Petrovitch Sokolovski đặt chiếc vali nhỏ màu đen của mình vào trong góc, rồi xếp nó lên ngăn hành lý phía trên. Ông ta kiểm tra các ổ khóa vali, và để cho yên tâm ông ta còn giật giật các ổ khóa vài lần; lấy cái áo mưa của mình phủ lên chiếc vali; sau đó đến ngồi bên cửa sổ. Một tiếng đồng hồ trôi qua, quang cảnh ven biển chạy dài qua ô cửa sổ làm Sokolovski chán ngấy, ông ta quyết định bước ra ngoài. Nhìn ra cửa sổ hóa ra là một nhà ga lớn. Đoàn tàu bắt đầu giảm tốc. “Nhà ga Lazarevski” - Sokolovski đọc.
** Bondar Aleksandr sinh năm 1972 tại Krasnodar, Nga; đã học khoa báo chí Trường đại học tổng hợp Kuban và khoa tiếng Nga và văn học tại Trường đại học Nhân văn Moskva, sau đó học hai năm văn học Nga tại Trường đại học tổng hợp Toronto, Canada. Bondar Aleksandr từng làm phóng viên cho báo Krasnodar và báo Sochi, nhưng từ năm 1995 anh chuyển đến sống ở Canada. Anh viết nhiều truyện ngắn, truyện vừa (Những đứa con trai của thành phố chết, Trên những tàn tích thành cổ, Những kẻ báo thù xấu xa...), tiểu thuyết (Thời gian của mặt trăng đen, Đĩ đực...) và nhiều tác phẩm khác. Tác phẩm của anh được đăng tải trên các báo và tạp chí của Nga và ở Bắc Mỹ như Thiên Nga (Boston), Ngôn từ tiếng Nga Mới (New York). Từ năm 2003 anh trở thành hội viên Hội Nhà văn Bắc Mỹ. Truyện Ác giả ác báo được lấy từ tạp chí Xamizdat (Nga), tạp chí trên mạng đăng tải khá đầy đủ những tác phẩm của Bondar Aleksandr.
Đoàn tàu dừng lại, Sokolovski bắt đầu quan sát sân ga, ông ta đã đi qua ga đây nhiều lần nhưng chưa lần nào rẽ xuống nhà ga này. “Hẳn là một nhà ga đẹp - lần nào ông ta cũng thầm nghĩ vậy - Giá mà được sống ở đây thì hay biết mấy”. Bỗng nhiên ông ta nhìn thấy một người còn khá trẻ, xuống mua thứ gì đó trong một kiôt của nhà ga và bước rất nhanh trở lại tàu. - Sergei! - Sokolovski gọi và vẫy vẫy tay. Người ấy ngẩng đầu lên nhìn. - Anh Sokolovski phải không? Đúng lúc đó đoàn tàu lại bắt đầu chuyển bánh. Sergei nhảy thật nhanh lên bậu cửa toa tàu, hai tay bám vào hai mép cửa. Đoàn tàu chuyển bánh. Sergei bước vào bên trong toa. - Cậu cũng đi trên chuyến tàu này à? - Sokolovski ngạc nhiên hỏi, khi Sergei tiến gần lại chỗ mình. Sergei còn trẻ, trông vẻ ngoài khoảng 30 tuổi, mái tóc đen cắt ngắn, mặc một bộ quần áo với đường may cắt khéo. Một thời gian anh ta từng làm việc dưới quyền Sokolovski trong công ty của ông. Từ đó đến nay cũng vài năm trôi qua, hình như ba hay bốn năm gì đó Sokolovski không nhớ rõ. Bây giờ họ đang đứng đây và nhìn nhau ra chiều thú vị. Sergei mỉm cười, giang tay ra. - Đúng là quả đất tròn phải không. - Cậu cũng về Moskva à? - Thì còn đi đâu nữa! - Nghỉ ở Sochi à? Sergei gật đầu. - Còn anh? - Tôi đi công tác. Ký được một hợp đồng nên tôi có thời gian để nghỉ ngơi. Mà nói chung tôi thường đi nghỉ ở Hi Lạp hoặc ở đảo Cyprus... Sergei gật đầu, mỉm cười. - Mỗi người mỗi cảnh... - Cậu muốn vào buồng tôi không - Sokolovski mời - Chúng ta cùng ngồi... Mà ngồi không trên tàu thật chán. - Sẵn sàng. Họ quyết định uống để mừng cuộc hội ngộ. Trên bàn trong buồng của Sokolovski có một chai Vodka Smirnov và hai chiếc cốc nhựa nhỏ. Cũng có một chút đồ nhắm. Họ bắt đầu chuyện trò. Họ nói về nhiều chủ đề: về các cuộc bầu cử tổng thống trong tương lai, về Chesnia, về Nam Tư. Khi chai rượu đã vơi phân nửa, Sokolovski quan tâm hỏi: - Thế giờ cậu làm gì? Sergei hơi bối rối, đưa mắt nhìn cái cốc không và lấy các ngón tay xoay xoay nó. - Tôi làm ở Bộ Tài chính, giữ một vị trí nhỏ thôi. - Vị trí gì? Sergei gãi gãi tai. - Xin lỗi anh, công việc của tôi rất bí mật, tôi không thể tiết lộ cho anh biết được... Rồi anh ta nhìn Sokolovski không chớp mắt. Ông này khoát tay ra chiều hiểu biết. - Không sao. Bản thân Sokolovski cũng từng làm ăn rất mờ ám, nên ông ta chân thành mến mộ những người kín tiếng. Sergei với tay lấy chai rượu và không vội rót rượu vào cốc. - Cậu đợi tôi chút nhé - Sokolovski đứng dậy - Tôi phải ra ngoài một lát. Ông ta do dự trong một giây, sau đó gỡ tấm áo mưa ra, với tay lấy chiếc vali trên ngăn để đồ rồi bước nhanh ra ngoài. Khoảng năm phút sau thì Sokolovski quay trở vào. Vẻ mặt ông ta trông rất bình thản và yên tâm. Sergei vẫn ngồi đợi và đang chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ. - Anh Sokolovski - anh ta đăm chiêu nói - tôi muốn hỏi ý kiến anh một việc. Anh ta đút chai rượu vào trong góc và ngả người về phía trước, khi nhìn qua cửa sổ thấy các bờ biển tối đen, chỗ thì như thể chạng vạng, chỗ thì sang sáng dưới ánh trăng tháng tám. Sokolovski đặt chiếc vali vào đúng chỗ cũ, và lại lấy áo mưa của mình phủ lên nó. Sau đó ông ta ngồi xuống đối diện với Sergei, hơi ngả người ra và đặt hai tay trước bụng. - Anh là người năng động, giàu kinh nghiệm - Sergei bắt đầu - tôi coi trọng ý kiến của anh. Tôi muốn anh cho tôi một lời khuyên. Đơn giản là một lời khuyên. Sokolovski gật đầu và tỏ ý sẵn sàng lắng nghe. - Trong công việc của tôi, tôi thường buộc phải làm những gì mà tôi không muốn làm. Nói thế nào cho anh hiểu bây giờ... - Sergei nhún vai - Lương tâm tôi cắn rứt... Thế mà tôi vẫn buộc phải làm... Anh có hiểu tôi không? Sokolovski gật đầu. Sergei lục tìm trong các túi và lấy ra một bao Marlboro. Anh ta rút ra một điếu và đưa lên miệng. Sau đó, sực nhớ ra là ở đây cấm hút thuốc, anh ta bỏ điếu thuốc xuống mặt bàn. - Điều quan trọng - Sokolovski nói - là kiếm được tiền. Tiền phân biệt một người đàn ông với một con đực. Tiền khiến ta trở nên tự do và độc lập. Bởi vì, cái nghèo ấy mà, là điều đáng sợ nhất trong cuộc sống này. Cái nghèo biến cậu thành kẻ yếu đuối mà người ta tha hồ chèn ép và ấn đầu ấn cổ. Tiền lại nâng cậu lên đỉnh cao của thế giới, làm cậu trở nên tự do. Bởi, tự do là gì? Là quyền hành đối với những người khác. Loài người là những con mãnh thú và những con sói núi độc ác. Chúng liếm giày và ăn thịt những kẻ yếu hơn mình. Không thể có bình đẳng giữa những người bình đẳng. Sự ngu ngốc tràn ngập. Tự do... tự do vì thế chính là khi những người khác phủ phục dưới chân cậu. Mà tiền lại cho cậu cái tự do này. Điều quan trọng là thế đấy. Còn tội lỗi... tội lỗi cũng chạy vào nhà thờ làm vấy bẩn nhà thờ. Cậu cần gì nghĩ đến tội lỗi. Và còn nữa... Cậu phải hiểu một điều quan trọng nhất trong cuộc sống này cậu cần phải hiểu, nếu muốn sống và sống một cách bình thường. Đó là loài người trên thế giới này được chia thành hai phần bất bình đẳng: những người tháo vát và những kẻ ngù ngờ. Tự cậu hãy quyết định xem cậu muốn trở thành ai. Những người tháo vát sống, còn những kẻ ngù ngờ tồn tại. Nó đã là như thế và sẽ là như thế. Đạo đức, danh dự, lương tâm đều do những người tháo vát nghĩ ra hết. Sergei chăm chú lắng nghe. Sokolovski tiếp tục: - Họ còn nghĩ ra cả tôn giáo. Cần phải giải thích cho những kẻ ngù ngờ biết vì sao chúng sẽ không bao giờ được sống như những con người và chúng cần phải thỏa hiệp với điều này. Sergei bối rối. - Nhưng chúng ta có lẽ không nên làm rối tung tôn giáo lên ở đây thì tốt hơn? Sokolovski xua tay. - Nhưng xin lỗi cậu. Không ai có thể trở về từ thế giới bên kia, mà cũng chẳng ai nhìn thấy Chúa Trời cả. Hay có thể là tôi nói không đúng? Sergei nhún vai. - Có lẽ anh nói đúng. - Thế đấy - Sokolovski căng thẳng cởi các khuy áo bên trên - ông ta cảm thấy ngột ngạt - Tất cả các ông vua, các nhà quí tộc, những người thống trị đều là những người tháo vát, còn những người phục vụ họ, những đầy tớ, những nông nô, những nô lệ, là những kẻ ngù ngờ. Những người tháo vát nghĩ ra luật pháp. Họ nghĩ ra cho những kẻ ngù ngờ vốn muốn nghe theo tôn giáo. Luật pháp luôn luôn và ở khắp mọi nơi bảo vệ cho những người tháo vát và bảo vệ họ khỏi những kẻ ngù ngờ. Những kẻ ngù ngờ không thích tất cả điều này, và chúng tạo ra các cuộc lật đổ mà rốt cuộc cũng quay trở về với cái máng lợn của ông lão đánh cá. Nhưng một số kẻ thông minh hơn trong số đó đã vươn mình lên cao và trở thành những người tháo vát. Tất cả lại trở về như trước. - Nhưng nghệ thuật, văn học - Sergei cố gắng phản bác - lại luôn luôn dạy rằng cái ác cuối cùng tất bị trừng trị, và người ta nên hành động theo lương tâm... - Nghệ thuật cũng là một phát minh của những người tháo vát - Sokolovski đứng dậy khỏi chỗ ngồi - Nó còn là một cái bẫy giăng ra cho những kẻ ngù ngờ. Cậu hãy tự nhìn xem: nghệ thuật, luật pháp, tôn giáo tất cả đều chỉ nói về một điều: hãy làm điều tốt và đừng làm việc xấu. Kẻ nào làm việc xấu tất sẽ bị trừng trị. Tôn giáo cảnh báo, luật pháp đe dọa, đạo đức răn dạy, nghệ thuật rao giảng. Tất cả chỉ về một điều: đừng giết chóc, đừng trộm cắp, đừng lừa đảo. Đúng thế hay không? Nhưng cậu nhìn chung quanh xem: ở bất kỳ đất nước nào, bất kỳ thời đại nào, những kẻ nắm quyền cũng đều ăn cắp, giết người và lừa đảo. Họ sống sung túc và sẽ sống sung túc cho đến chừng nào thế giới này còn tồn tại. Mà ai tuân thủ những giới luật của họ, người đó sẽ luôn ngốn cả phân. Người tháo vát sẽ chùi nó khỏi gót giày và thuyết giáo cũng như tuân thủ tất cả những gì mà chính anh ta không định tuân thủ.
Sokolovski ngả người về phía trước. Ông ta mệt nhoài nhưng hài lòng với cái mớ quan điểm bất khả xuyên thủng của mình. Sergei cau mày. Anh ta muốn phản bác nhưng không hiểu sao lại thôi, chỉ buồn bã gật đầu. - Tự cậu phải quyết định - Sokolovski kết luận - rằng cậu sẽ thuộc hạng người nào. Nếu cậu không muốn làm một kẻ ngù ngờ, hãy quên “danh dự” và “lương tâm” đi. Đó là ảo tưởng. Cậu sẽ có danh dự khi cậu có tiền và cậu có thể mua được tất cả. Lương tâm... lương tâm... đó là hãy làm những gì cậu thấy có lợi cho mình và luôn biện hộ cho mình. Sergei gật đầu tuyệt vọng. - Sokolovski, anh đã thuyết phục được tôi - anh ta đứng dậy khỏi chỗ - Thành thật mà nói, tôi những muốn tìm lý do để phản đối... nhưng chẳng tìm thấy lý do nào cả... Nhưng dù sao đi nữa thì vẫn phải có những ngoại lệ nào chứ? Có thể có những điều mà tốt hơn là ta không nên làm? Phải có những giới hạn chứ?... - Sergei - Sokolovski lắc đầu - tôi không biết cậu làm gì ở Bộ Tài chính và tôi cũng không cần biết. Cậu hãy thản nhiên làm công việc của mình. Hãy làm những gì miễn là cậu có tiền. Hãy làm và quên béng lương tâm đi. Nếu cậu là người thông minh, hãy quên đi. - Được thôi - Sergei rút trong túi ra một khẩu súng lục có thiết bị giảm thanh - Được thôi - Anh ta ngắm mục tiêu - Tôi không làm trong Bộ Tài chính, Sokolovski ạ. Mà điều này thì quan trọng gì. Sokolovski từ từ há hốc mồm. - Chắc anh đi Sochi để ký một hợp đồng đặc biệt? - Sergei, cậu làm gì thế? - Thế thì tôi biết rằng trong vali của anh, chiếc vali mà anh giữ cẩn thận đến mức đi vệ sinh cũng mang theo người có gì rồi... - Sergei, việc này không tốt đâu. Vì chúng ta biết nhau đã lâu... - Thế “không tốt” là gì? Không tốt - đó là khi không có tiền trong túi. Anh chả đã nói thế còn gì?... Mở vali ra ngay! Sokolovski đứng dậy lấy vali xuống. - Tôi không biết mã khóa - ông ta nói một cách kiên quyết. Nhưng Sergei lắc đầu. - Tôi đếm đến ba. Một... - Được, tôi mở. Sokolovski mở hai ổ khóa vali bằng những ngón tay run rẩy và khó bảo. Sergei đã không nhầm. Trong vali đầy những đồng đôla. Sokolovski hơi run khi nhìn thấy nòng súng lơ lửng trong không trung, cách trán ông ta 3cm. Ông ta đã hiểu chuyện gì đang xảy ra. - Sergei - ông ta lắp bắp - Cậu không sợ Chúa sao... - Chúa nào, Sokolovski? Anh đã bảo không ai nhìn thấy Chúa. Và không ai còn trở về từ thế giới bên kia...
Đầu Sokolovski xoay mòng mòng với những suy nghĩ đầy mâu thuẫn. Cần phải nói điều gì đó, cần phải nói ngay nhưng... nói gì đây? Vì ông ta đã nói tất cả trước đó rồi!
(Kiều Diệp dịch từ tiếng Nga truyện ngắn có tựa “Nhà ga Lazarevski”) . | |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Tue Jan 15, 2019 1:18 pm | |
|
HỌA MI VÀ HOA HỒNG Oscar Wilde (1856-1900)
Oscar Wilde (1856-1900) là nhà văn Anh, sinh tại Dublin năm 1856 và mất năm 1900, để lại một sự nghiệp văn chương khá phong phú làm dồi dào nền văn học nước Anh. Ông tốt nghiệp Đại học Oxford và từng đi du lịch qua các nước Pháp, Mỹ, Ý, Hy Lạp. Oscar Wilde sáng tác kịch, thi ca, tiểu thuyết, đặc biệt là các truyện Thần thoại. Văn ông chịu ảnh hưởng ít nhiều Flaubert, Théophile Gautier, Andersen, Stevenson. Các tác phẩm nổi tiếng của ông gồm có: KỊCH: Người chồng lý tưởng, Người đàn bà tầm thường... TIỂU THUYẾT: Ông hoàng hạnh phúc, Chàng khổng lồ ích kỷ, Bóng ma ở Canterville, Ngư phủ và linh hồn… HỌA MI VÀ HOA HỒNG là một truyện thần thoại viết theo kiểu Andersen, nhưng không phải là loại truyện cho thiếu nhi mà là loại truyện hàm chứa triết lý nhân sinh dành cho người lớn. Đọc truyện nầy, người đọc không thoải mái như loại truyện thần thoại “có hậu” thông thường, mà phải thả hồn trong mơ mộng và để tâm trí chìm đắm trong suy tư. Đó là đặc điểm độc đáo của tác giả vậy.
Thư sinh thì thầm một mình: “Nàng hứa sẽ khiêu vũ với mình nếu mình đem tặng nàng một đóa hoa hồng. Nhưng làm sao có hoa hồng? Trong vườn nầy, không có đóa hoa hồng nào cả”. Một con chim họa mi đang đứng trên cành sến xanh tươi đã nghe rõ lời than thở của thư sinh. Nó nhìn vườn hoa, nghĩ ngợi. Thư sinh lại thì thầm, mắt rươm rướm lệ: - Không có một hoa hồng nào cả trong vườn! Thì ra hạnh phúc nhiều khi chỉ tùy thuộc vào một vật nhỏ mọn không đáng kể. Mình đã đọc thật nhiều sách, thấu triệt nhiều triết lý của những triết gia danh tiếng nhất thế giới, vậy mà đời mình phải khổ chỉ vì thiếu một đóa hồng! Họa mi nói thầm: - Rõ là một kẻ si tình! Trước kia, mặc dầu chưa được biết chàng, ta đã ca ngợi chàng với trăng sao. Nay thì ta đã trông thấy chàng rồi. Chà chàng thật có vẻ hào hoa, tóc đen mướt như huyền, môi đỏ như hoa hồng chàng ao ước. Nhưng, tình yêu đã làm cho chàng vàng võ, ưu tư đã làm cho trán chàng in những vết nhăn. Thư sinh tiếp tục độc thoại: - Đêm mai, bá tước sẽ tổ chức một dạ hội. Nếu có đóa hồng tặng nàng, mình sẽ được khiêu vũ với nàng suốt đêm. Mình sẽ siết chặt nàng trong vòng tay, nàng sẽ âu yếm ngã đầu trên vai mình, thật sung sướng biết bao! Nhưng vườn không có hoa hồng, mình không có hoa hồng, mình sẽ cô đơn nhìn người ta vui đùa, nhìn nàng hí hởn trong tay người khác. Lòng mình sẽ vô cùng đau đớn! Họa mi nghĩ thầm: - Quả chàng là một kẻ có chân tình! Trong khi ta ca hát líu lo thì chàng âm thầm đau khổ. Tình yêu thật là kỳ diệu! Nó quý hơn ngọc bích, đắt giá hơn ngọc lưu ly. Những thứ ngọc ấy không thể mua được Tình Yêu, vì nó không có bày bán, không có người bán và cũng không có cân vàng nào để đo lường nó được. Thư sinh lại nói khẽ: - Các nhạc sĩ trên khán đài sẽ tấu vĩ cầm và thụ cầm, nàng sẽ lả lướt uyển chuyển theo âm điệu du dương. Những khách vương tôn phong nhã sẽ vây quanh nàng tán tỉnh. Mình không được nhảy với nàng vì mình không có hoa hồng. Nói đến đây, thư sinh nằm vật xuống cỏ, hai tay bụm mặt, nức nở… Một con thằn lằn nhỏ đến gần chàng hỏi: - Sao chàng khóc? Một con bướm trắng bay ngang cũng lên tiếng: - Sao chàng khóc? Một bông cúc dịu dàng hỏi những cô bạn láng giềng: - Tại sao thế? Họa mi dàu dàu nói: - Chàng khóc vì một đóa hoa hồng. Tất cả nhao nhao lên, kinh ngạc: - Vì một đóa hồng? Thật là kỳ dị! Con thằn lằn bật cười chế diễu.
Con họa mi đứng lặng trên cành, suy ngẫm những bí ẩn của Tình Yêu. Bỗng họa mi chớp đôi cánh nâu bay bổng lên nền không. Nó lướt nhẹ ra khỏi vườn. Nó bay đến một thửa ruộng. Họa mi trông thấy, trên một thảm cỏ, một cây hồng xinh xắn. Nó đáp xuống, đậu trên một cành hồng. Nó cất tiếng van lơn: - Cho ta một đóa hồng đỏ, ta sẽ hát cho bạn nghe những bài hát hay nhất của ta. Cây hồng nhỏ lắc đầu: - Ta còn nhỏ, hoa ta trắng như tuyết giăng đầu núi. Làm sao ta có hoa hồng đỏ để tặng bạn? Bạn thử tìm anh ta ở những lâu đài cổ kính, may ra anh ta sẽ tặng đóa hồng bạn mong muốn. Họa mi bay đến cây hồng mọc dưới cửa sổ chàng thư sinh. Nó lại cất tiếng van lơn: - Cho ta một đóa hồng đỏ, ta sẽ hát cho bạn nghe những bài hát hay nhất của ta. Cây hồng lắc đầu đáp: — Hoa ta đỏ như chân bồ câu, như san hô dưới đại dương. Nhưng tiết lạnh đã giết chết những mầm non, gió bão đã bẻ gãy hết cành lá, ta không còn đóa hồng nào để tặng bạn. Họa mi cất giọng tha thiết: - Ta chỉ cần một hoa hồng đỏ. Bạn có cách nào giúp ta chăng? Cây hồng ngập ngừng đáp: - Chỉ có một cách. Nhưng ta không muốn nói ra, vì nó ghê gớm, tàn nhẫn quá. Họa mi khẩn cầu: - Bạn cứ nói. Tôi không sợ đâu. Cây hồng nói: - Nếu bạn muốn có một đóa hồng đỏ, bạn phải dệt nó bằng nhạc và nhuộm nó bằng máu. Dưới ánh trăng đêm nay, bạn phải hát cho ta nghe những bản thật êm dịu và phải áp ngực vào gai hồng để truyền máu sang hoa. Gai hồng sẽ đâm thủng tim bạn và máu bạn sẽ chan hòa trong tĩnh mạch của ta. Họa mi thành thật nói: - Đời sống thật quý đối với tất cả mọi loài. Còn gì êm đềm hơn ngồi trong rừng xanh ngắm cảnh bình minh vừa ló dạng hay trăng lên ở chân trời. Hoa sơn trà đưa hương thơm ngát; cây thạch thảo tỏa hương trên đồi. Thật sung sướng biết bao! Nhưng mà, Tình Yêu vẫn quý hơn Đời Sống. Trái tim một con chim không quý bằng sinh mạng một con người. Dứt lời, chim tung cánh bay lên, đảo mình trên hoa viên.
Chàng thư sinh vẫn nằm im trên thảm cỏ. Nước mặt vẫn còn đẫm ướt bờ mi. Họa mi cất tiếng kêu chàng: - Hỡi chàng thư sinh đáng thương kia! Chàng hãy vui vẻ lên! Hãy vui vẻ lên đi! Chàng sẽ có hoa hồng đỏ. Ta sẽ dệt nó bằng nhạc và nhuộm nó bằng máu của chính tim ta. Ta chỉ đòi hỏi chàng một điều, chàng phải yêu với tất cả chân tình. Chân tình đẹp hơn Triết lý, mặc dầu Triết lý khôn ngoan, cường mạnh hơn. Toàn thân Thần Tình Ái đều hồng như lửa. Đôi môi của Thần ngọt dịu như mật và thơm ngát như hương. Thư sinh đang cúi nhìn thảm cỏ, vội ngẩng mặt lên. Chàng chỉ nghe tiếng líu lo mà không hiểu chim nói gì. Thư sinh không hiểu, nhưng cây sến hiểu rõ ý định của chim. Nó rất buồn vì nó rất yêu chim đã từ lâu xây dựng tổ ấm trên thân mình nó. Nó gọi họa mi và tha thiết bảo: - Chim ơi, hãy hát cho ta nghe bản nhạc cuối cùng, khúc ca vĩnh biệt. Bạn đi rồi, ta sẽ cô độc một mình. Họa mi cất tiếng hát cho cây sến nghe, giọng hát áo não thê lương làm cho sến bùi ngùi xúc động.
Khi họa mi dứt bản, thư sinh đứng lên, lủi thủi qua hoa viên, vừa đi vừa nghĩ ngợi miên man: “Nó hót thật hay, nhưng liệu nó có tình cảm thật hay không? Ta ngại rằng nó giống như bọn nghệ sĩ: ngôn từ hoa mỹ toàn chứa đựng sự giả dối. Nó không biết hy sinh cho người khác. Nó chỉ biết nghệ thuật mà nghệ thuật luôn luôn ích kỷ. Giọng hót của nó những âm điệu tuyệt diệu, nhưng tiếc thay những âm điệu ấy không có tác dụng thiết thực nào, không có nghĩa gì đối với đời sống con người”. Khi ánh trăng dằng dặc trên nền trời, họa mi bay đến đậu trên cành hồng. Nó cất tiếng hát, ngực áp vào gai hoa. Vầng trăng sáng cúi đầu nghe chim hát. Chim càng hát, gai càng đâm sâu vào, máu nó tuôn ra lôi theo nguồn sống trong thân thể nó. Khởi đầu, tiếng hát ca ngợi mối tình đầu vừa chớm nở trong lòng đôi trai gái. Trên cành hồng, một đóa hoa cũng vừa chớm nở thật đẹp. Rồi những đóa khác nối tiếp nở theo, những bản nhạc tiếp nối. Đóa hoa mới nở nhợt nhạt như sương mờ trên sông vắng, như hình ảnh một đài hoa trong làn nước lững lờ… Cây hồng hối thúc: - Hỡi họa mi yêu quý! Hãy áp chặt hơn nữa. Ngày gần tới mà hoa hồng chưa nhuộm đỏ. Họa mi liền gì chặt vào gai, tiếng hát nâng lên cao vút. Tiếng hát tán tụng tình yêu thanh thiết của đôi lứa thiếu niên. Một màu hồng truyền khắp cành hoa, như màu hồng trên mặt tân lang đang đặt cái hôn nồng trên môi người vợ trẻ. Nhưng chiếc gai chưa đâm thấu vào tim họa mi nên tim hoa còn trắng. Cây hồng lại thúc giục: - Chim ơi, hãy ghì chặt thêm vào. Đêm sắp tàn mà hoa hồng chưa đỏ. Lần nầy họa mi ghì chặt vào gai và chiếc gai đâm thủng vào tim nó. Nó cảm thấy đau đớn, nhức nhối. Nhưng nó vẫn cất tiếng hát ca tụng Tình Yêu. Chân tình hoàn thiện nhờ tiếng hát của họa mi. Chân tình sẽ bất diệt, không bao giờ tan mất dưới nấm mồ. Bây giờ hoa hồng trở nên đỏ thắm. Cánh và tim hoa đều đỏ như ánh mặt trời mùa đông. Trong khi đó, tiếng chim họa mi yếu dần, đôi cánh bắt đầu rung động, đôi mắt như che phủ bởi bức màn the. Tiếng chim nhỏ dần, nhỏ dần… Họa mi cảm thấy như nghẹn thở. Nó cố gắng tấu lên một nhạc điệu cuối cùng. Nàng Trăng cảm động vì nhạc khúc lâm ly, nấn ná mãi trên trời xanh, quên cả bình minh sắp đến. Hoa hồng cảm động rùng mình xòa rộng cánh trước gió lạnh ban mai. Nàng “Tiếng Vang” mang âm hưởng lời ca về động thẳm non cao, đánh thức bọn mục đồng đang say sưa trong giấc mộng. Nàng lượn nhẹ nhàng trên những rặng phi lao bên dòng sông và rặng phi lao chuyển thông điệp của nàng ra trùng dương bát ngát. Cây hồng hớn hở reo lên: - Hãy nhìn xem! Hãy nhìn xem! Hoa hồng đã hoàn tất. Họa mi im lặng vì họa mi đã chết. Nó ngã lăn trên thảm cỏ, tim bị đâm thủng bởi gai nhọn hoa hồng.
Trưa hôm ấy, thư sinh mở cửa sổ, nhìn ra ngoài. Chàng kinh ngạc reo lên: - Ồ! Một hoa đồng đỏ! Thật là dịp may kỳ diệu! Ta chưa hề trông thấy một đóa hồng nào đẹp như thế. Chắc nó phải có một tên la tinh rất lạ, dài lê thê… Chàng cúi xuống hái hoa rồi vội vã chạy sang nhà vị giáo sư, phụ thân của người đẹp. Người đẹp đang ngồi trước cổng, tay dịu dàng quấn cuốn băng lụa xanh. Một con chó nhỏ nằm dưới chân nàng. Thư sinh tha thiết nói: - Nàng hứa sẽ khiêu vũ với tôi, nếu tôi tặng nàng một đóa hồng đỏ thắm. Đây, tôi tặng nàng một đóa hồng đỏ đẹp nhất trên đời. Đêm nay, nàng hãy cài nó phía trái tim, hoa hồng sẽ biểu lộ tấm tình chung thủy của tôi. Người đẹp khẽ cau mày: - Hoa hồng này không thích hợp với kiểu áo mới của tôi. Cháu ông Thị Thần vừa gởi tặng tôi nhiều nữ trang quý giá hơn hoa hồng nhiều. Thư sinh tức giận: - Nàng là một kẻ bạc tình. Chàng ném mạnh đóa hồng ra đường, rơi xuống rãnh nước và bị bánh xe bò nghiền nát. Cô gái đáp với giọng kiêu kỳ: - Bạc tình à? Chàng thật là vô phép. Chàng nên biết, chàng chỉ là một hàn sĩ, đôi giày chàng không có khóa bạc như cháu ông Thị Thần. Thư sinh quày bước trở về, vừa đi vừa lẩm bẩm: - Tình Yêu thật là ngu xuẩn! Nó không bằng Luận lý học, nó không thể chứng minh được điều gì. Tình Yêu chỉ nói lên những cái gì mơ hồ phù phiếm mà ta cứ lầm tưởng là thật tế. Tóm lại, nó không thiết thực. Mà cuộc sống hôm nay cần phải thật tế. Thôi, ta hãy trở về với Triết học và Siêu hình học vậy.
Thế rồi thư sinh trở về phòng, giở sách ra và chăm chỉ đọc. . | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Sat Mar 09, 2019 3:15 pm | |
| .
MẸ VÀ CON - Alexis Tolstoi
ALEXIS TOLSTOI (1882 1945) là nhà văn Nga sinh năm 1882 và mất năm 1945. Ông viết văn từ khi còn niên thiếu nhưng nổi tiếng nhất vào thời Đệ nhị Thế Chiến, nhờ những tác phẩm phản ảnh đúng hoàn cảnh lịch sử nước Nga lúc bấy giờ và thể hiện tinh thần yêu nước của toàn dân Nga chống kẻ thù chung. Ông viết tiểu thuyết, kịch, thơ, nhưng sở trường nhất về loại tiểu thuyết. Chính ở địa hạt này, ông đã biểu lộ rõ rệt tài năng qua những văn phẩm được phổ biến khắp thế giới: Tuổi trẻ của NIKITA, Con đường thống khổ, Vàng đen, Pierre Đại đế. Truyện MẸ VÀ CON là một trong những truyện đặc sắc của ông sáng tác thời Đệ nhị Thế chiến. Trong truyện này, ông đã trình bày một bối cảnh lịch sử khách quan, làm nổi bật tinh thần bất khuất của một dân tộc vùng lên dưới gót giày xâm lược. Toàn dân vùng lên. Cả những bà mẹ yếu đuối. Cả những trẻ thơ còn vô tư trong tuổi ngọc.
***
Họ đã nhặt nó trên đường. Mới thoáng nhìn, họ tưởng cô gái bé ấy đã chết, và Minh Kha vội lái xe sang một bên để tránh phải cán chân nó. Nhưng nó ngẩng đầu, gió phất tung mái tóc nó như một mớ cỏ cháy. Minh Kha vội hãm xe lại. Ích Tôn đang ngồi cạnh hắn vội nhảy xuống xe và cúi xuống nhìn cô bé: — Trèo lên xe mau! Cô bé ráng cử động để trèo lên xe, nhưng nó té liền ngay xuống cạnh đấy, giữa con đường đầy bùn. Gương mặt gầy nhỏ bé, môi mi nửa khép, biểu lộ sự đau đớn và kiệt lực. Nó giống như một con chó con với sợi dây xích sắt mang ở cổ, bất động trước chiếc hàng rào kiên cố, nhìn người qua đường mà không thể buông ra một lời cầu khẩn. Ích Tôn đưa mắt nhìn quanh, dưới những vầng mây ướt át mùa xuân, cánh đồng thật vô cùng quạnh quẽ. Hắn bồng cô gái lên tay. Đầu nó nghiêng trên vai hắn, nhưng bỗng nó rút đầu lại với một cử chỉ sợ hãi. Hắn cảm thấy nó ốm yếu, mảnh khảnh, dường như bộ xương nó trống rỗng bên trong. Ích Tôn đặt nó lên xe, trên một cái bao bằng vải sơn dầu, giữa hai thùng đạn dược. Xong xuôi, hắn thót lên chỗ ngồi, đóng cánh cửa lỗ đỗ những vết đạn, ra lệnh: — Lên đường! Đã trễ rồi! Minh Kha nói: — Con bé ấy có lẽ ở gần đây. Mang nó theo làm quái gì? Khi xe đã chạy được gần năm cây số, Ích Tôn mới trả lời với giọng càu nhàu và mệt mỏi mà lần đầu tiên người ta nhận thấy ở hắn từ khi có chiến tranh: — Thật là lạ lùng cái tư tưởng của anh! Bỏ đường cái, họ tiến vào một cánh đồng đầy rạ. Chiếc xe lăn bánh một cách khổ sở trên đường và cuối cùng dừng lại trước một pháo đài bọc lưới. Con bé vẫn còn sống. Họ bế nó vào giữa thùng xe và Minh Kha dặn nó với giọng trang nghiêm: — Phải ngoan, đừng sờ mó gì cả nhé! Sự dè dặt ấy thật là vô ích, ánh sáng của sự sống chỉ còn le lói dưới chiếc áo đen bằng vải bạc màu. Ích Tôn tiến về phía pháo đài. Vị Đại úy Chỉ huy trưởng đang ngồi trước phòng tuyến, khoan khoái hít làn khói thuốc trong một chiếc điếu nhỏ. Ông ta nói: — Thật là im lặng! Người ta có thể nghe tiếng hát của chim sơn ca. Hồi sáng này, bọn chúng đã đến… Ích Tôn vội hỏi: — Rồi ra sao? — Đêm qua, ta đã tặng cho bọn Đức một tặng phẩm nhỏ. Kìa nhìn xem: năm thiết giáp. Trên cánh đồi kia, ta có thể thấy kết quả cuộc tấn công. Ích Tôn lễ phép nhường cho vị Đại úy nói cho thỏa thích về sự đắc thắng đêm qua. Bỗng anh ta hỏi: — Đại úy còn thực phẩm gì trong đồn không? Như kẹo sôcôla chẳng hạn? Vị Đại úy ngạc nhiên, miệng rời khỏi ống điếu: — Sôcôla? Lần đầu tiên tôi mới nghe một vị Trung úy đòi hỏi sôcôla trong lúc này… — Tôi có một đứa bé gái trong xe… — Tại sao không nói ngay? Phải hỏi sôcôla ở đám lính gác. Chúng nó đem theo luôn. Vị Đại úy theo Ích Tôn ra tận xe. Đôi mày ông ta hơi cau lại, lộ vẻ thương hại khi trông thấy cô bé. Ông ta nhỏ nhẹ hỏi: — Cháu tên gì? Cháu ở đâu? Cô bé im lặng, rúc đầu trong đôi vai. Vị Đại úy thở dài: — Chúng đã đánh nó, thật rõ như ban ngày. À, quân khốn nạn, đồ heo, đồ heo! Và ông ta nghĩ gia quyến mình cũng bị đối xử tàn nhẫn bởi bọn lính Đức, và chuyện ấy có thể xảy ra khắp mọi làng. Ông ta đưa mắt nhìn Ích Tôn: — Bây giờ phải làm sao? Ở đây rất ồn đối với cô bé… Chúng ta đi kiếm sôcôla ngay đi…
— Không, không… Tôi không thích… Cô bé rán sức thốt ra những lời ấy khi vị Đại úy, Minh Kha và Ích Tôn lần lượt cố đút miếng sôcôla vào miệng nó. Cả ba đều có những ngón tay kệch cỡm mà miệng con bé thì nhỏ xíu, khiến cho họ phải hết sức dè dặt. Họ cố dỗ dành nó cũng vô ích. Sau cùng, mùi vị sôcôla thấm vào miệng, con bé từ từ hở môi ra. Vị Đại úy reo lên mừng rỡ, đút trọn nửa miếng vào mồm con bé. Họ để con bé ở đấy, cạnh Minh Kha. Ích Tôn đứng phía sau, đưa mắt nhìn trời. Chiếc xe chuyển bánh, nhả những vầng khói đen lại phía sau, rồi bắt đầu chạy trở về. Minh Kha chợt thấy cô bé đưa mắt nhìn mình, nửa miếng sôcôla đã có hiệu quả? Hắn vội đưa tiếp nửa miếng kia cho con bé. Và hắn hỏi: — Nào, bây giờ đã chịu nói chưa? Con bé đáp nhỏ nhẹ: — Không! — Tại sao vậy? Chúng ta không phải là bạn với nhau sao? Cha mẹ cháu ở đâu? Con bé ngoảnh mặt, không muốn nhìn hắn nữa và từ chối miếng sôcôla. Chiếc xe bỗng hãm máy trước một chiếc thiết giáp ẩn dưới một cái hố. Chính nơi đây, Ích Tôn và Minh Kha đồn trú với năm bạn chiến binh khác. Một chiếc giường cỏ được sửa soạn dành riêng cho con bé. Bọn binh sĩ dẫn con bé xuống suối bảo nó tắm, rồi họ đi xa để nó được tự do, không ngượng nghịu, mặc dù nó chỉ độ chừng mười tuổi. Lúc đầu, họ cho nó ăn rất ít, nhiều lần trong một ngày, nhưng vì có đến bảy người cho ăn, nên rốt cuộc con bé phải giẫy nẩy từ chối. “Không, không, tôi không thích…” Nó nằm suốt ngày trên giường, mặt day vào vách, không ai biết nó thức hay ngủ. Nó lạnh lùng trước sự vui đùa của đám quân nhân. Một chiều, muốn cho nó giải khuây, Ích Tôn ngâm nga một bài đồng dao, nhưng con bé gởi hắn một cái nhìn buồn thảm và trách móc, làm cho hắn kinh ngạc bỏ đi. Minh Kha bảo Ích Tôn: — Con bé bệnh. Hình như nó vừa trải qua một cơn khích động. Anh phải tìm cách đưa nó đến bệnh viện đô thành. Lời khuyên thật là hợp lý, nhưng vì lời khuyên ấy thốt ra từ cửa miệng Minh Kha, nên Ích Tôn chỉ khinh khỉnh hít mạnh làn khói thuốc trong chiếc điếu của mình. Một lát, hắn càu nhàu đáp: — Nó không bệnh, không bị khích động gì cả… Thật là dễ dàng đuổi nó đi bằng cách ấy! Ở bệnh viện? Nó đâu cần đến mùi thuốc… Không, đó chỉ là một sự buồn bực của trẻ con. Sự thật là vậy.
Từ sang đến tối, phi cơ Đức kêu vù vù như đàn ong. Tiếng đại bác và tiếng bom nổ vang dội quanh vùng. Mọi người chỉ ngủ nửa mắt, giống như bầy chim. Khi bình minh trở về, Minh Kha và Ích Tôn bỏ cả bữa ăn, nằm vùi xuống chỗ ngủ. Trọng Khang anh quân nhân giữ khẩu đại liên ngồi dưới chân Ích Tôn. Trọng Khang đã trải qua một đêm thật là an nhàn dưới hố, vì phi cơ địch không đến nơi ấy bao giờ. Gã nói với Ích Tôn: — Trung úy biết không, con bé đã khóc suốt đêm qua như một người lớn. Ích Tôn nhìn gương mặt của Trọng Khang và nghĩ thầm: “Có việc gì làm cho hắn không ngủ được!”. Nhưng Trọng Khang đã giải sự thắc mắc đó bằng cách kể cho hắn nghe những chi tiết sau đây: suốt ngày hôm qua, con bé đã theo chàng khắp nơi, không rời một bước, cả đến lúc chàng đến chỗ đặt khẩu đại liên, chàng cũng gặp nó trong bụi rậm. Chàng phải dọa nó: “Phải ẩn kín, thận trọng!”. Nó bò về phía chàng, ngồi dưới đất và cất tiếng kêu tuyệt vọng: “Trọng Khang!”. Chàng hỏi: “Có chuyện gì thế? Em đói phải không?”. Nhưng nó chỉ lặp “Trọng Khang!”. với một giọng làm cho chàng phải rợn cả người. Nghe câu chuyện ấy, cố gắng chống lại cơn buồn ngủ, Minh Kha nói: — Thật là rõ ràng. Nỗi buồn của nó bắt đầu tan rồi. Nó có nói tên nó là gì không? — Nó không nói gì cả. Nó chỉ lặp đi lặp lại “Trọng Khang, Trọng Khang” suốt ngày. Và đến đêm, nó lại khóc. Quả tim con bé có quả thật đã được sưởi nóng lại chăng? Điều đó đối với mọi người, đối với cả Ích Tôn nữa, là chuyện rất có thể xảy ra. Ấy vì “Trọng Khang” là một thanh niên rất giản dị, rất tốt, lời nói và cử chỉ của chàng thể hiện sự tin cậy và yêu đời, do đó mọi người hiểu tại sao con bé khắng khít với chàng và muốn san sẻ cùng chàng sự đau khổ của nó. Đêm ấy, thình lình Ích Tôn tỉnh giấc và, qua ánh sáng cây đèn bấm chàng luôn luôn đem theo trong túi, chàng thấy con bé, hai đầu gối chấp lại, ôm siết chiếc gối cỏ trong đôi vòng tay bé bỏng, khóc nức nở trong cơn mơ và cất tiếng kêu thảm thiết: “Má, má! Má ở đâu?”. Ích Tôn không đánh thức nó dậy, chàng mong nó có thể gặp được mẹ nó trong mơ. Con bé kêu lên: “Má! Tại sao má lại trốn con?”. Rồi đột nhiên nó nín lặng, thở ra một hơi dài khoan khoái và bật ra một lời reo vui. Có lẽ nó đã gặp được mẹ nó rồi.
Ích Tôn đốt thuốc hút. Hắn để tâm hồn đắm chìm trong dòng tư tưởng: một ngày nọ ngày ấy đã qua rồi và là một ngày trong những năm đen tối Y Văng đặt câu hỏi này với người anh của hắn là Ích Pha: “Nếu để bảo vệ hạnh phúc cho nhân loại mà cần phải hy sinh một đứa trẻ, tra tấn nó cho đến chết, anh có thể làm việc ấy chăng?”. Y Văng ngỡ đã đặt ra một bài tính nan giải. Và Ích Pha chỉ giữ sự im lặng… Tra tấn một đứa bé! Còn hành động nào tàn nhẫn hơn ở cõi đời nầy? Dầu hành động ấy có mục đích bảo vệ hạnh phúc cho nhân loại, cái hạnh phúc ấy chẳng đáng nguyền rủa lắm sao? Ấy vậy mà cách giải bài tính đó thật là giản dị, người ta vừa tìm ra, phải, ta muốn rằng đứa bé ấy phải bị hy sinh với điều kiện chính ta là nó. Cuộc đời tự nó đã nêu ra câu hỏi, muốn cứu vớt sự tra tấn một đứa bé, như con bé này chẳng hạn, anh là người, anh có sẵn sàng chịu chết thế hay không? Câu hỏi thật là trực tiếp và câu trả lời thật là giản dị. Minh Kha, Trọng Khang và bốn anh bạn chiến binh mà người ta nghe tiếng ngáy khò khò vang dậy, và cả Ích Tôn nữa, tất đều như đồng thanh: “Chúng tôi sẵn sàng!”. Ích Tôn vẫn rít mạnh chiếc điếu. Cơn giận dữ làm cho cổ hắn nổi phòng lên. Tốt lắm, không cần phải triết lý nữa. Và đây là cách thực hành, ba triệu quân Đức để đổi lấy con bé ngây thơ ấy, ba triệu người với những mái tóc xô gai, bộ chân lổng khổng, chân mày bò cái, bộ não đồi trụy, dâm ô…
***
Tay cầm cái chảo, Trọng Khang trườn qua những bụi rậm để đến bờ suối. Chính nơi đó chàng thường đến mò tôm, những khi nhàn rỗi. Chàng cởi áo ra rồi nằm sấp trên bờ, hai tay mò mẫm dưới bùn, đầu cúi xuống sát mặt nước. Khi chàng ta bắt gặp một con tôm, chàng hí hởn lẩm bẩm: “À, mi đây rồi. Mi không bằng lòng hả? Hãy chịu vào chảo, mau lên!”. Một lần, chàng nhảy tòm xuống suối, trầm nửa thân mình dưới làn nước lạnh buốt làm cho bọt nước cuộn trào và khi chàng đứng lên, một con tôm xanh vẫy đuôi trong tay chàng. Bỗng phía sau Trọng Khang, một giọng cười reo lên vui vẻ. Lau nước trên mặt và trên tóc, chàng ngoảnh nhìn lại và bắt gặp con bé. Chàng tươi cười hỏi: — Em cười ngạo anh đấy à? Đôi mắt xanh của con bé chớp nhanh, đôi mi dựng lên, nó có vẻ như sắp khóc. Trọng Khang vội nói: — Đừng khóc, Mạt Ta. Anh đùa chơi đấy mà. — Không phải Mạt Ta, người ta gọi tôi là Mỹ Lan. — À, bây giờ em mới chịu nói rõ tên thật. Em thật là can đảm. Trọng Khang nhanh nhẹn mặc áo vào rồi đến ngồi cạnh con bé, kéo nó sát vào vai mình. — Bây giờ em có muốn ăn tôm không? — Muốn… — Nhưng trước hết, anh phải hút một điếu thuốc, được chớ? — Được. Chàng xé một mảnh giấy nhật trình, đặt vào đó một ít thuốc vấn tròn lại với vẻ bằng lòng. Chàng dịu dàng nói: — Em có giận không. Mỹ Lan? Em nên biết, Trung úy Ích Tôn ra lệnh cho anh phải tìm hiểu cuộc đời em. Ông ta rất nghiêm khắc nhưng rất công bình. Nếu anh không tuân lệnh, chắc anh sẽ bị rầy to. Chàng lấy trong túi ra một chiếc quẹt máy, bật lửa lên châm thuốc. Chàng thanh niên vừa phì phà khói thuốc vừa âu yếm bảo Mỹ Lan: — Nào, em hãy kể đi…
Đây là những điều người ta tìm hiểu được ở Mỹ Lan, ngày hôm ấy và những ngày tiếp theo đó, qua những chuyện ngắn mà con bé lần lần thuật lại. Mỹ Lan sống với mẹ, bà Mỹ Hạnh, trong một làng quê. Người anh cả của nó, Thái Sơn, đã nhập ngũ tùng chinh. Thái Thạch, người anh thứ, đã mất tích năm vừa qua, khi làng bị quân Đức chiếm. Bà Mỹ Hạnh sợ nhất một người ở cùng làng. Mỗi lần trông thấy hắn qua cửa sổ, bà tức giận lẩm bẩm: “Kìa, quỷ vương lại rình rập! Ôn hoàng Dịch lệ sao không bắt mày đi!”. Và mỗi lần Mỹ Lan hỏi bà: “Má, tại sao má gọi Lỗ Khấu là quỷ vương?”. Bà mẹ chỉ đáp: “Con sẽ biết khi con lớn lên. Bây giờ con phải dè dặt, đừng có nói lại những lời mẹ đã nói. Phải cẩn thận, nghe con?”. Gia đình bà Mỹ Hạnh sống vất vả, khổ sở, gia tài chỉ có ba con gà mái, hai con trắng một vàng và một con gà trống có thói quen mang về cho đồng bọn tất cả thức ăn gì nó tìm kiếm được. Bà Mỹ Hạnh thường nói với con: — Đến mùa xuân, mấy con gà mái của mình sẽ đẻ mỗi ngày được ba trứng. Con sẽ được sung sướng con ạ. Một ngày kia, cách đây độ ba tuần, Mỹ Hạnh đánh thức con dậy khi trời vừa hừng sáng: — Con, con hãy mang đôi giày của mẹ, ra xem con gà trống của mình tại sao lại giận dữ như vậy. Loài chồn đã vào được trong chuồng chăng? Mỹ Lan mang vội đôi giày vào chân, nhặt chiếc mũ của mẹ rồi băng mình ra sân. Cánh cửa chuồng mở toang và cánh cổng cũng mở rộng, không có một dấu vết nào của bầy gà mái, chỉ một mình con gà trống đang chạy rà rà quanh sân, đập cánh có vẻ giận dữ. Mỹ Lan kêu lên một tiếng hốt hoảng rồi chạy thẳng ra phía cổng: một tên lính Đức đang bước đi, tay nắm chặt cẳng gà, kéo lê cánh chúng trên đường. Mấy chiếc cánh đã xụ xuống, bất động. Mỹ Lan vừa chạy theo sau tên lính vừa khóc, nhưng gã nầy đã nhảy lên một chiếc xe cam nhông, cất tiếng cười ròn rã, khoái trá. Chiếc xe chuyển bánh. Mỹ Lan chỉ còn kịp cất tiếng gọi: — Ông ơi, ông ơi, mấy con gà ấy của chúng tôi… Phía bên kia đường, đâu mặt với ngôi nhà mộc mạc của bà Mỹ Hạnh, có ngôi trường xây bằng gạch. Gần đây, một chiếc xe cam nhông chở đến đó một tốp người mặc y phục và đội mũ toàn màu đen. Họ quăng bàn ghế ra ngoài cửa sổ, trát phấn nhầy nhụa những khung kính, rồi bao bọc khu vườn nhỏ bằng một hàng rào dây kẽm gai. Thế là ngôi trường biến thành trụ sở Trinh Sát Đức Quốc Xã. Từ đó dân làng xa lánh chốn ấy, còn bà Mỹ Hạnh phải tránh đi ngõ trước, lần theo đường hẻm để vào ngả sau nhà. Đứng bên đường, Mỹ Lan bắt gặp Lỗ Khấu từ trong trụ sở Trinh Sát đi ra. Hắn đi ngang qua tên lính gác, đôi chân đập vào nhau đánh bốp một tiếng theo điệu nhà binh, rồi thung dung tiến bước. Vẻ mặt hắn tái mét để lộ những nét nhăn, giống như một kẻ quáng manh vì ánh sáng. Đến trước mặt Mỹ Lan, hắn dừng bước và trố mắt nhìn con bé: — Máy làm gì nhìn tao thế hử, ranh con? Rồi hắn cốc vào đầu con bé một cái nên thân. Chưa vừa ý, hắn lại toan tống cho nó thêm vài đạp. Nhưng ngay lúc ấy, bà Mỹ Hạnh trờ tới. Bà thét lên giận dữ rồi lăn xả vào mình hắn, đưa hai tay quào vào má hắn. Bà ta vật hắn xuống đất, vừa tát vào mặt hắn vừa cất giọng hổn hển: — Tại sao mày đánh con tao, hở quỷ vương? Chẳng hiểu vì đang say hay vì khiếp sợ, Lỗ Khấu không hề chống trả. Cho đến khi cánh cửa Trụ sở Chi Trinh Sát mở toang, một người bước ra ngưỡng cửa ra lệnh, cuộc ấu đả mới chấm dứt. Lỗ Khấu đã tìm cách trả thù. Ngay đêm ấy, hai người lính vận y phục đen chiếc đèn bấm trong tay, tiến vào nhà bà Mỹ Hạnh. Một vị sĩ quan cùng Lỗ Khấu đi phía sau. Run rẩy, bà Mỹ Hạnh bảo con: “Chết mẹ rồi, con ơi!”. Lỗ Khấu rứt Mỹ Lan ra khỏi tay bàn tay mẹ nó và đẩy nó vào phía trong vách. Lỗ Khấu hỏi vị sĩ quan: — Có tra tấn không, thưa Trung úy? Vị sĩ quan ngồi xuống ghế, đáp với giọng chậm rãi: — Ngươi cứ làm việc của ngươi. Qua kẽ vách, Mỹ Lan thấy Lỗ Khấu bước đến gần bàn, chìa trong tay ra phong thư: — Đây là bức thư của Thái Thạch, con bà ấy. Mỹ Lan nghe tiếng mẹ nó, tuy giọng rất thấp nhưng rất rõ ràng: — Bức thư ấy do chính hắn thảo ra. Ông ơi, ông hãy tin tôi, thằng Thái Thạch đã biệt tích, cả làng nầy đều biết. Nó không thể viết thư cho tôi được. Vị sĩ quan móc trong túi ra một cái hộp trắng, bấm vào một cái nút, một điếu thuốc hiện ra khỏi hộp và một ngọn lửa nhỏ tự động bén cháy vào đầu điếu thuốc. Hắn hít một hơi khói, làn môi trên trề ra, đôi tay chống trên bàn. Hắn bắt đầu đọc bức thư. Lỗ Khấu lải nhải: — Chính thư của hắn, của Thái Thạch. Hắn hiện ở trong một biệt động đội và vẫn liên lạc với mẹ hắn. Còn Thái Sơn, đứa con trưởng của bà ấy, đã vượt tuyến để theo quân kháng chiến. Mỹ Hạnh lại kêu lên: — Ông ơi, ông hãy tin tôi. Con tôi không thể viết thư cho tôi được, tôi không hề biết chữ. — Lát nữa đây, chúng tôi sẽ biết bà biết chữ hay không. Tôi không muốn mất thời giờ với bà. Tôi khuyên bà hãy khai tất cả sự thật, vì cực hình bà phải chịu sẽ thật là ghê gớm. Vị sĩ quan ngảnh nhìn lại phía mấy tên lính: — Chuẩn bị vài sợi thừng, một chiếc ghế dài và một lò lửa than. Rồi đôi mắt hắn, ẩn trong bóng tối của vành nón, chiếu thẳng vào đôi bàn tay tái mét đang chấp lại trước bụng của bà Mỹ Hạnh… Đến đây, Mỹ Lan ngưng kể. Với bất cứ ai, cả với anh chàng Trọng Khang khả ái, nó cũng không thể tiếp tục kể đoạn cuối. Đôi hàm răng nó nghiến chặt, cổ nó nghẹn ngào, nó chỉ buông ra những tiếng rú khiếp đảm, người ta có thể cho đó là những tiếng chuột kêu… Tuy nhiên, mọi người đều hiểu rằng con bé đã phải chứng kiến hàng giờ, sau kẽ vách, cảnh cực hình của mẹ nó; nó đã nghe tiếng nức nở, tiếng rên siết, tiếng kêu van, tiếng thét kinh hồn, và còn những tiếng rú thảm thiết, không giống chút nào với giọng nói đầm ấm hiền hòa của người mẹ mà nó từng nghe hàng ngày. Qua ngày sau, một bà láng giềng lẻn vào nhà bà Mỹ Hạnh. Bà ấy trông thấy dưới đất một vũng máu, vài lọn tóc và vài mảnh giẻ rách… Sau vách, trên chiếc giường xiêu vẹo; giữa mấy chiếc gối tả tơi, còn Mỹ Lan đang nằm bất tỉnh tự bao giờ. Bà vội khép cửa lại và lo cứu chữa cho con bé vô phước.
***
Những ngày vừa qua thật là nặng nề, khó chịu. Trên đường, vô số xe tung những vầng bụi trong bầu không khí tĩnh mịch. Mặt trời chiếu ánh vàng rực rỡ qua làn sương mù. Ích Tôn ít khi trở về chỗ trú. Mọi người có cảm giác bão tố sắp nổi dậy và quân Đức sẽ đánh vào họ những vố kinh hồn. Một ngày kia, vị Đại úy Chỉ huy trưởng pháo đài đến chỗ họ trú bằng một chiếc xe cam nhông. Toàn thân ông lấm đầy bụi, gương mặt hiền lành nhu nhược của ông dường như phì nộn thêm. Ngồi trên một chiếc ghế dài, dưới bóng một cây sồi, ông ta lột nón xuống một cách khoái chí và đòi uống nước suối. Ông ta bảo Ích Tôn: — Tôi đi một vòng đến thăm chiến hữu. Dường như tôm ở đây ngon lắm! Nào, chiến hữu cho nếm thử chừng năm mươi con. Ông ta gọi Mỹ Lan lại gần và đưa tay nựng gò má con bé: — Chà, con bé nầy thật là xinh, đôi mắt nó thật là to. Con còn nhớ có lần con đã từ chối không nhận sôcôla của ông không? Bây giờ thì con ăn tất cả, phải không? Tốt lắm, con ạ! Con đi kiếm cho ông những con tôm bự đi. Sau khi uống hết một chảo nước lã, ông ta hút thuốc và ba hoa kể chuyện nầy sang chuyện nọ, ông nói chuyện gia đình ông, những kỷ niệm thân yêu trong đời ông. Ông muốn Ích Tôn cứ đi công tác, còn ông, như con chồn luôn luôn ở lại để phòng vệ pháo đài. Ông tiếp: “Tôi mơ được đọc những tác phẩm của Alexandre Dumas. Chiến hữu có đọc những tác phẩm đó chưa? Tôi chưa được đọc, nhưng hình như nó thật vô cùng hấp dẫn”. Ích Tôn ngắt lời: — Người ta nói gì về quân Đức? Tình trạng nầy còn kéo dài đến bao giờ? — Có lẽ chừng năm hôm nữa. Chúng ta chờ đợi. Ích Tôn hỉnh lỗ mũi nhọn lên không, gằn giọng: — Chúng sẽ bị đánh vỡ mặt. — Chắc chắn như vậy. Ta dọn cho chúng những sự bất ngờ. Trông thấy Mỹ Lan xách về một giỏ đầy tôm, vị Đại úy vội trở câu chuyện. Ông ta đứng dậy, vừa đội nón lên đầu vừa nói: — Tôi không mời chiến hữu đến pháo đài. Ai biết được? Biết đâu ngay đêm nay chúng không tấn công? Bọn lính tuần của tôi báo tin: bọn Đức dự định bao vây ta trong vòng ba ngày và tiêu diệt ta trong vòng bốn ngày, thật là hài hước!... Thôi, từ giã chiến hữu. Chúng ta sẽ gặp lại nhau gần đây.
Bây giờ, không còn phải là những bánh xe làm tung bụi. Ở phương Đông, chân trời gầm thét, bao phủ bởi một bức màn đen. Trên không, hai đàn phi cơ rú lên, làm náo động cả bầu trời vần vũ. Như một đàn kiến, giải phóng quân sẵn sàng chiến đấu: tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn tiến lên mạnh mẽ; những chiếc xe chở đầy đạn dược chạy bon bon trên đường. Người ta có cảm tưởng như từ các miền Vô-Ga, U-Ran, Si-Bê-Ri đã tuông ra hang khối than đá nóng hổi trên giải đất ngún lửa, điêu tàn. Một lần nữa, bị thúc đẩy bởi cơn giận dữ điên cuồng, quân đội Đức Quốc Xã toan đánh thủng phòng tuyến địch. Những chiếc xe cam nhông tuôn ra hàng sư đoàn binh sĩ mặc quân phục màu xanh. Những chiến xa bị tấn công, bị đốt cháy, bị bắn tung lên không… Trải qua những ngày ấy, Mỹ Lan bị bỏ quên. Có một lần Ích Tôn ghé về chỗ đồn trú để kiếm thuốc hút. Đôi má hắn hóp lại, đôi mắt hắn lõm sâu, mất sắc. Nơi đồn trú bị bỏ quên từ tám ngày nay vẫn sạch sẽ. Con bé Mỹ Lan ngồi trên chiếc ghế dài đang may một chiếc áo lót nhỏ xíu bằng một mảnh vải đã phai màu. Bên cạnh nó có một con búp bê làm bằng vải vụn, đôi mắt được vẽ bằng viết chì. Ích Tôn hỏi: — Mỹ Lan. Cháu ở đây một mình, không sợ sao? — Không, cháu không sợ đâu, chú Ích Tôn ạ. — Nhưng mà cháu có gì nóng để ăn không? — Cháu không có hộp quẹt. Hãy để lại cho cháu vài que diêm. — Được rồi! Đây, cháu hãy giữ lấy. Công việc của chúng ta đang tiến triển khả quan. Thôi từ giã cháu nhé.
***
Ngôi làng đã được chiếm lại một cách nhanh chóng, đến nỗi không một tên lính Đức nào có kịp thì giờ để tẩu thoát. Về phần Chi Trinh Sát (Gestapo), một chiếc xe khổng lồ chứa đầy bọn lính hắc y đã bị chận bắt trên đường và bị đốt cháy toàn xe. Kháng chiến quân tiếp tục tiến về phương Tây. Ích Tôn di động đại đội mình vào một khu rừng nhỏ cạnh làng. Khi hoàng hôn đã về và sau buổi cơm chiều, Minh Kha bảo với các bạn: — Con bé Mỹ Lan của chúng ta thật là can đảm! Hôm trước, nó đã lẻn vào làng để tìm một người mang cái tên quái dị là Lỗ Khấu. Nhưng nó đã trở về thất vọng, vì người mà nó tìm kiếm đã biến mất, không để lại một dấu vết gì. Dân làng đã bàn tán với nhau: “Con người ấy thật là ghê tởm! Chúng ta quyết chôn sống hắn. Có lẽ hắn đã biết số phận nên mới tìm cách trốn thoát”. Nghe nói đến Lỗ, Mỹ Lan tiến lại gần đám quân nhân. Nó ngồi xuống cạnh Ích Tôn đôi môi nó mím chặt, mày nó cau lại, nghiêm trang như một người lớn. Khi mọi người đã dứt bàn cãi và khi Trọng Khang bắt đầu thử một điệu phong cầm, Mỹ Lan mới cúi đầu bảo khẽ: — Chú Ích Tôn này, phải tìm cho được người đó, vì chính hắn đã tra tấn mẹ cháu. Mọi người đều ngảnh lại nhìn con bé. Ích Tôn hỉnh mũi đáp: — Ta sẽ làm hết sức mình, Mỹ Lan ạ. Nghe đây, các bạn, chúng ta phải mở cuộc điều tra. Minh Kha lãnh nhiệm vụ ấy. Cách vài ngày sau, hắn đã tìm được vài tài liệu về gã họ Lỗ.
Con người đó, xa lạ với dân làng, đã xuất hiện nơi đây từ tám năm trước. Gã đã cưới một mụ đàn bà góa, mà cách đó không lâu, mụ đã chết vì sự đối xử tàn nhẫn của gã. Gã tự xưng là thợ mỏ. Gã là một người nguy hiểm, hung dữ và xảo quyệt. Viên thú y trong làng thường đến chơi nhà gã, cùng nhau nhậu nhẹt và cùng nhau thông đồng nhiều trò đáng thắt cổ, mà về sau, dưới thời kỳ bị chiếm, người ta mới rõ sự thật vì sự phô trương thành tích của gã. Và đây là một trò xảo quyệt đáng chú ý: trước một ngày lễ Thánh giáo, một người chủ gia súc vào chuồng thăm đàn bò, thì thấy con bò cái đẹp nhất của mình đang nằm chết trên đống rơm. Cả làng đều xôn xao vì tin ấy. Vị thú y đến nơi, sau khi quan sát, đã kết luận: “Hãy dang xa ra, con bò này bị bịnh dịch”. Thế là dè dặt, người ta mang con bò ra khỏi làng và chôn nó luôn cả bộ da. Nhờ trời, sự truyền nhiễm không hề xảy ra. Nhưng Lỗ và viên thú y đã có thịt ướp mặn ăn suốt cả mùa đông. Về sau, người ta mới biết gã và viên thú y đã thông đồng giết con bò cái ấy, rồi lại thông đồng đào nó lên để làm thịt. Khi chiến tranh bùng nổ, Lỗ không giấu được sự vui mừng tinh quái. Gặp người nào qua đường, gã cũng nói: “À, máu đã bắt đầu chảy rồi đây! Nó sẽ chảy, sẽ chảy như làn sóng”. Khi quân ta, trong lúc rút lui, mệt mỏi và đói khát, đến gõ cửa nhà gã để xin sữa, gã lạnh lùng đáp: “Không còn gì cả, các bạn ạ!”. Và khi quân Đức đến nơi với chiến xa, Lỗ mặc y phục chỉnh tề, đầu chải láng bóng, ra đứng đón chúng ở tận cổng, chìa ra cho chúng thấy, trên một chiếc khăn thêu, một ổ bánh mì và một bình bạc. Cử chỉ của gã làm cho một sĩ quan chú ý. Hắn cầm lấy ổ bánh và bảo gã: “Tốt lắm, ta có lời khen!”. Cách đó ít lâu, Lỗ bắt đầu tiếp xúc với dân làng. Ngồi trên tam cấp ở thềm nhà, gã vừa gõ nhịp chiếc gậy, vừa nhìn ranh mãnh ông chủ nhà đang nhăn nhó và bà chủ nhà đang bối rối. Gã tìm cách gợi chuyện: — Tôi không hiểu tại sao chúng ta có thể sống dưới chế độ mới nầy được. Ông bà biết không, lúc đầu tôi còn biếu cho họ nào bánh mì nào muối, nhưng rồi sau đó, tôi bắt đầu ngờ vực… Quả thật nước Đức có đem đến cho chúng ta trật tự và ban hành chế độ tự do thương mại, nhưng họ là người chủ khắc nghiệt. Thế rồi tôi nặn óc tìm hiểu. Tôi đến viếng nhiều người, thấy dân ta sống trong tinh thần tập thể và đoàn kết… Và rồi nhiều người bỏ đi kháng chiến, ta có nên tin rằng họ hành động như thế là chánh đáng? Và cuối cùng, quân Đức có ở đây lâu dài được không? Ấy lại là một câu hỏi nữa. Ông bà nghĩ thế nào? Lúc đầu, trong một hai tuần, quân Đức dường như không chú tâm gì đến dân làng. Chúng thản nhiên tập thể dục, đá banh, thổi kèn và dạo chơi trần truồng với chiếc xì líp, không biết xấu hổ là gì. Nhưng từ khi bọn hắc y đến nơi, dán một thông cáo tại trường học kết án tử hình tất cả mọi hành động phạm tội, bấy giờ quân Đức Phát Xít mới bày hàm răng chó sói của chúng với dân làng. Chúng vét sạch làng và nhặt tất cả những gì mà bọn hắc y không thể chở hết trên xe cam nhông. Ban Trinh Sát từ đây chú ý tới từng nhà. Và cũng vì thế mà mọi người mới hiểu mục đích cuộc thăm viếng người nầy người khác của Lỗ. Tinh nghề, gã biết rõ nhà nào có con đi kháng chiến và người nào đã xung vào quân đội. Đêm trước khi quân Đức đến chiếm đóng, một giáo viên cùng vài thanh niên trong làng đã phá vỡ vài chiếc cầu và vài kho hàng. Kết quả công tác ấy là một đoàn xe của quân Đức bị tan vỡ. Ngay hôm ấy bọn hắc y bắt vô số dân làng từ những người già nua đến những đứa trẻ vị thành niên, mang tất cả về trường học. Những nạn nhân bị bắt đều thuộc về những gia đình trước kia đã được Lỗ vinh dự đến viếng. Đêm lại, người ta nghe vang đến tận cuối làng những tiếng rú kinh hồn phát ra từ trường học. Không ai có thể nhắm mắt được. Những người trẻ ngẩng đầu lên nghe; những người già cả lâm râm cầu nguyện. Người ta bắt đầu đồn rằng Lỗ đã chứng kiến những cảnh tra tấn đó. Nếu không, làm sao cắt nghĩa được sự hiện diện của hai con bò cái và một con bò đực trong chuồng gã? Khi thấy Lỗ tiến đến gần nhà, dân làng dấu tất cả thức ăn còn lại và gởi con cái đi chơi chỗ khác. Họ ghét những ai tiếp Lỗ, nhưng thật là nguy hiểm cho những ai đóng cửa lại trước mặt gã. Gã không bao giờ đi đến đâu với hai bàn tay không, tay gã rút trong túi ra một chai rượu mạnh. Gã ngồi vào bàn, thở ra một hơi dài: — Những người yêu nước không thích tôi, tôi biết chắc như vậy. Người ta không còn tin cậy tôi và họ thêu dệt nhiều điều về tôi. Nói đến đây, gã móc trong túi khác ra một miếng thịt mỡ và xắt ra từng mảnh vuông nhỏ. Gã kè nhè tiếp: — Tôi không phải là người sao? Tôi là con vật hay là con quỷ? Trời ơi, tôi đã chán lắm, tôi đã chán ngấy bọn Đức rồi. Gã nốc rượu ừng ực, nhấm một cục thịt mỡ, rồi lải nhải: — Chính chúng đã phao tin tôi làm cho Ban Trinh Sát. Chúng muốn kéo tôi về phía chúng và muốn tôi bị xử tử khi quân ta trở về. Còn mấy con bò cái, chính tôi đã mua với số tiền dành dụm. Thịt ướp mặn và sữa, đó là hai món tôi say mê… Gã nheo mắt một cách tinh quái và rót đầy những ly đã cạn: — Nếu mọi người nói xấu tôi như thế, thì thà là quỷ bắt mất mấy con bò ấy đi. Tôi sẽ bỏ tất cả. Tôi sẽ vượt tuyến, mặc cho bọn Đức muốn làm gì thì làm. Hoặc là tôi sẽ quỳ dưới chân vị Chỉ huy quân đội ta mà thốt ra những lời tâm huyết nầy: “Tôi muốn chuộc tất cả tội lỗi bằng máu của tôi…” Nói xong, Lỗ nín lặng lén quan sát người đối diện. Gã kia, quá tin cậy, thú nhận tất cả một cách ngây thơ. Vài ngày sau, Chi Trinh Sát cho người đến bắt gã.
Ích Tôn dẫn Mỹ Lan đến trung đội bảy. Hắn thuật lại với vị Trung đội trưởng câu chuyện của Lỗ Khấu, trong khi con bé chăm chú lắng tai nghe với vẻ cảm động, dường như cả đời nó chỉ đặt vào một hy vọng: tìm được kẻ thù. Vị Trung đội trưởng nói: — Chúng ta sẽ tìm tên khốn nạn đó. Mỹ Lan nở một nụ cười, nhìn chăm chú ông ta, khẽ hất đầu với vẻ băn khoăn. Ích Tôn vội vàng từ giã rồi hối hả trở về. Mỹ Lan cất bước nặng nề bên cạnh hắn: — Chú Ích Tôn à, họ sẽ tìm được hắn chăng? — Làm sao biết được? Nhưng khi họ đã hứa, họ sẽ tìm… — Chú Ích Tôn à, cháu cũng phải đi tìm hắn. — Cháu muốn đi đâu? Cháu sẽ bị xe cán chết hoặc cháu sẽ đạp nhầm mìn. — Vậy thì không được đi đâu sao, chú? — Không được đi đâu cả. Cháu hãy im đi, đừng chọc chú giận. Nhiều ngày qua, Mỹ Lan xa lánh mọi người, u buồn và lặng lẽ, đôi mày nó chau lại… Rồi, một buổi sáng, nó biến mất khỏi trại. Mọi người hiểu ngay là nó lên đường tìm gã họ Lỗ. Minh Kha vội đi lấy tin tức: trong làng, vài người trông thấy con bé về gần nhà mẹ nó, trong khi mấy cánh cửa vẫn đóng chặt; vài người khác cho biết nó có hỏi thăm về Lỗ Khấu. Nhưng rồi sau đó, nó đi đâu nữa, không ai được rõ. Ba ngày sau, Mỹ Lan lẻn về trại, giống như một con chó đi hoang, áo quần dơ dáy và mặt mày trầy trụa. Mọi người tiếp nó một cách lạnh nhạt, không ai thăm hỏi hoặc rầy la. Nó ăn một bụng no nê rồi nằm dùi ra ngủ. Sáng hôm sau, nó lại biến mất một lần nữa. Một người đàn bà trong làng dẫn hai đứa con về thăm nhà bị tàn phá, đã thuật lại với mấy bà láng giềng (mà hai giờ sau, mấy đứa bé liên lạc đã đem tin về cho Minh Kha) rằng bà đã gặp cách làng độ chừng mười lăm cây số, đứa con gái của bà Mỹ Hạnh. Người đàn bà ấy nói: — Con bé đã nói thật sự đau khổ của nó, sự đó làm cho chúng ta phải não lòng. Thật là tinh khôn, con bé ấy! Theo ý nó, tên Lỗ Khấu chỉ có thể lẫn trốn trong đám dân công. Nó bảo nó đã đi qua những nơi người ta đang công tác đắp đường, đào hầm trú ẩn, đã nhìn vào tận mặt tất cả mọi người. Tôi đã ôm nó vào lòng và cả hai cùng khóc. Tôi cho nó một miếng bánh mì, rồi nó lại lên đường…
— Chú Ích Tôn, chú Ích Tôn dậy mau… Giật mình tỉnh giấc, Ích Tôn ngáp một hơi dài. Ánh mai chiếu dịu dàng qua cửa sổ. Mỹ Lan đứng tựa giường, vuốt ve mặt vị sĩ quan. — À, cháu đây rồi! Tại sao cháu lại quấy rầy chú? — Chú hãy đi ngay với cháu lại nhà người hôm nọ. Chú Ích Tôn ơi, chú biết không, cháu đã tìm được hắn rồi… — Tìm được? Làm thế nào cháu tìm được hắn? — Đến đó, cháu sẽ nói cho chú nghe. Bây giờ, chú phải đi ngay. Cả hai đến Trung đội bảy. Vị Trung đội trưởng còn nằm ngủ khì trên hai chiếc ghế dài đâu lại, đầu gối trên một chiếc khăn lông. Không đợi ông ta có thì giờ tỉnh trí và ngồi vào bàn, Mỹ Lan đã hối hả thuật: — Con đã đi gần hai trăm cây số, trước khi tìm được hắn. Ông không biết hắn đâu, hắn đã cạo râu nhẵn nhụi, chỉ có con mới nhận được hắn!... Một lát sau, một chiếc xe chở cả ba lên đường. Đứng trong xe, Mỹ Lan nhìn thẳng ra trước, hết sức chăm chú. Thình lình, nó giơ tay lên và ngoảnh lại phía viên Trung đội trưởng: — Nơi đây rồi. Lưng khom xuống và lấm đầy bụi vôi, một người đàn ông đang đập sỏi trên đường, đôi chân quấn vải và đầu quấn một chiếc khăn tay. Khi xe ngừng lại, hắn mới ngẩng nhìn lên, đôi mắt nheo nheo, gương mặt nhẵn nhụi. Mỹ Lan đưa tay chỉ hắn, reo lên: — Chính hắn đó. Người đàn ông ngẩng lên: — Có chuyện gì thế? Các người muốn hỏi giấy tờ? Đây nầy, đầy đủ những giấy tờ hợp pháp. Hắn vừa nói vừa ném một cái nhìn giận dữ vào con bé đang đứng nép vào viên Trung đội trưởng. Dứt lời, hắn cúi đầu và tiếp tục đập sỏi. Sau khi xem qua giấy tờ, viên Trung đội trưởng hỏi: — Nhà ngươi tên Hải Luân, sanh năm 1913? (Bàn tay lạnh ngắt của Mỹ Lan nắm chặt lấy bàn tay rắn chắc của viên Trung đội trưởng và siết chặt). Người đàn ông đáp, không ngước đầu lên: — Phải, tôi tên Hải Luân. Có chuyện gì vậy? — Có phải giấy thông hành nầy do quân Đức cấp? Với một nụ cười hài hước, hắn chậm rãi lắc đầu: — Đừng làm cho tôi sợ hãi, bạn ạ! Giấy thông hành của tôi do chánh quyền ta cấp. Thật là cuộc đời chó má! Người ta dập sỏi, người ta đói khát, người ta tưới máu vì dân tộc, và bây giờ được nhận lấy cái phần thưởng: giấy thông hành nầy do quân địch cấp cho. Khi hắn đang làm bộ mặt sụt sùi mếu máo, viên Trung đội trưởng rút vội khẩu súng lục ra: — Đứng lên! Người đàn ông đứng lên một cách miễn cưỡng và ném mạnh con dao trên đống sỏi một cách giận dữ. — Giơ tay lên! Viên đội trưởng lục xét khắp các túi hắn rồi nghiêm giọng ra lệnh: — Hãy tiến lên trước! Thẳng ra xe!
***
Biết bao người chứng đã nhận ra Lỗ Khấu nên hắn không thể chối cãi được và cuối cùng hắn đành thú nhận tất cả sự thật: — Sống với người Đức, tôi luôn luôn say sưa lúc đầu vì vui mừng, sau đó để lương tâm tôi chìm đắm trong thứ nước khả ố ấy. Tôi không giấu các ông: vì bánh mì và muối mà tôi tiếp đón quân địch. Các ông nên biết rằng tôi sống rất khổ sở trong chế độ cũ. Tôi ngỡ rằng với những người mới, cuộc đời tôi sẽ trở nên tươi đẹp hơn… Nhưng họ đã lừa dối tôi, và tôi xin các ông cho tôi được phép nói lên điều ấy ở đài phát thanh cho tất cả mọi người đều biết. Lúc đầu, tôi đã làm việc cho họ với sự thích thú, một cách rất nghệ sĩ. Tôi đã bị quân ta bạc đãi. Tôi muốn chứng tỏ cho họ biết rằng tôi đã tự nung lấy bằng thứ cũi nào… Nhưng khi bọn Đức dẫn những người yêu nước của ta đến Chi Trinh Sát, khi tôi nghe những tiếng rú rùng rợn, tôi cảm thấy tuyệt vọng. Tôi chỉ còn cách say vùi trong men rượu, và càng ngày tôi càng rơi xuống tận vực sâu… Luôn mấy đêm, hắn kể lại cách hành hạ tàn nhẫn của bọn Trinh Sát. Hắn chỉ cái hầm đã chứa thây của bao nhiêu người yêu nước; hắn chỉ những dụng cụ mà Ban Trinh Sát dùng để tra tấn địch quân. Hắn lẩm nhẩm: “Phải, tôi đã chứng kiến hơn một lần cảnh tra tấn đó”. Rồi thình lình, hắn lăn đùng xuống, hai tay quào đất vừa thét lên với giọng kinh khủng: “Máu, trời ơi! máu!”. Hắn vừa thét vừa hôn lên nền đất. Về sau, trong khi hắn bị nhốt trong khám, một sĩ quan khác đặt câu hỏi: — Anh há chẳng từng nói rằng: anh làm việc với quân Đức tức là anh đã phản bội dân tộc, phản bội tổ quốc? — Đúng như vậy… Nhưng mà, thật là ngộ nghĩnh, chữ “Tổ quốc” không thể nuôi sống ta được… Thế rồi ra trước tòa án, hắn bị kết án xử giảo. Khi nghe quan tòa tuyên án, Lỗ Khấu vẫn thản nhiên không đổi sắc, mày không nhíu và người không run. Cả phòng xử đều kinh ngạc. Vài tràng pháo tay nổ ròn hoan nghênh án lệnh. Một người đàn bà giận dữ thét lên: — Hình phạt ấy chưa xứng đáng! Phải lột da hắn!
Sáng hôm sau, dân làng tụ tập đông nghẹt tại pháp trường. Bốn người lính dẫn Lỗ Khấu đến. Hắn bước đi chậm chạp, đầu cúi xuống, chân loạng choạng. Quan Tòa đọc lại bản án tử hình và lời cầu nguyện cho kẻ tử tội. Được dẫn đến trước ghế, hắn lùi bước… Người ta phải nắm lấy tay hắn, xô hắn tiến lên. Rồi thì, với vẻ bận rộn, hắn tự đút cổ vào vòng dây, và mọi người đều trông thấy đôi mắt hắn trợn trắng, đôi môi trề ra để lộ đôi hàm răng nhỏ và đều. Đứng bên cạnh hắn, con bé Mỹ Lan nắm chặt hai bàn tay bé bỏng, thét to: — Không được cười! Phải rú lên, rú lên như mẹ ta đã rú! . | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Sun May 05, 2019 11:18 am | |
| .
Cơn bão – Kate Chopin
Khi nhắc đến những nhà văn có đóng góp lớn cho phong trào nữ quyền trên toàn thế giới, người ta không thể không nhắc đến Kate Chopin (1850-1904). Các truyện ngắn của nữ văn sĩ người Mỹ này thường được xem là những tuyên xưng về quyền con người, đặc biệt là quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội nam quyền. Truyện “Cơn bão” dưới đây rất tiêu biểu cho chiều sâu tư tưởng và tài năng nghệ thuật của cây bút nữ tài hoa, nhân hậu ấy.
1. Những chiếc lá vẫn đứng lặng dù Bibi nghĩ rằng trời sắp mưa. Bobint, người đã quen chuyện trò bình đẳng với cậu con trai nhỏ, chỉ cho chú nhóc thấy đám mây xám đang cuộn dần lên từ phía trời tây, báo hiệu thời tiết xấu, theo sau đó là những tiếng ầm ầm đầy đe dọa. Họ đang ở cửa hàng nhà Friedheimer và sẽ tạm trú ở đấy, chờ cơn bão qua. Hai bố con ngồi phía trong cửa ra vào, trên hai cái thùng rỗng. Bibi đã được bốn tuổi và trông rất lanh lợi. – “Chắc mẹ sẽ lo lắng lắm”, cậu bé nói, mắt chớp chớp. – “Mẹ sẽ đóng cửa nhà. Có thể, tối nay mẹ sẽ nhờ Sylvie sang giúp”, Bobint trả lời, dỗ dành con. – “Không! Mẹ sẽ không nhờ Sylvie. Cô ấy đã giúp mẹ vào ngày hôm qua”, Bibi gào to. Bobint đứng dậy và bước đến quầy hàng mua một lon tôm đóng hộp mà Calixta rất thích. Rồi anh quay trở lại chỗ của mình và thản nhiên ngồi xuống, cầm lon đồ hộp, trong khi bão nổi. Bão làm lay chuyển cửa hàng lợp bằng gỗ và dường như xẻ từng đường rạch lớn trên cánh đồng ngoài xa. Bibi tựa cánh tay bé nhỏ của mình lên đầu gối bố, và không lo sợ nữa.
2. Ở nhà, Calixta còn chưa cảm thấy lo lắng cho sự an toàn của hai bố con. Nàng ngồi một bên cửa sổ, mải miết đạp máy may. Nàng đang bận bịu và không để ý cơn bão đang tới. Tuy nhiên, nàng cảm thấy thời tiết rất oi bức và phải thường xuyên dừng may để lau mặt vì mồ hôi đọng lại thành hạt. Nàng nới lỏng cổ áo thụng màu trắng. Trời bắt đầu tối sầm lại, rồi khi bất chợt hiểu ra tình hình, nàng vội vã đứng bật dậy và chạy đi đóng các cửa sổ lẫn cửa chính.
Phía ngoài, trước hiên nhà, nàng phơi bộ quần áo mặc đi lễ của Bobint. Nàng vội vàng gom chúng lại trước khi trời mưa. Khi nàng bước ra ngoài, Alce Laballire đang cưỡi ngựa đứng trước cổng. Kể từ lúc lập gia đình, nàng rất hiếm khi nhìn thấy ông, và cũng chưa bao giờ ở nhà một mình. Nàng đứng đấy, tay cầm áo khoác của Bobint, và mưa bắt đầu rơi nặng hạt. Alce cưỡi ngựa đến chỗ trú, dưới mái hiên nhà kho, nơi đàn gà xúm xít và những cái cày, cái bừa chụm lại ở một góc. – “Tôi có thể vào và đợi ngoài hiên cho đến khi bão qua, được không cô Calixta?”, ông nói. – “Mời ông vào, thưa ông Alce!”. Giọng nói của ông và ngay của chính bản thân khiến nàng giật mình như bị thôi miên, nàng nắm chặt chiếc áo gi-lê của Bobint. Alce bước lên hiên nhà, túm lấy cái quần và tấm áo vét viền vàng của bé Bibi sắp bị cơn gió mạnh thình lình thổi bay. Ông định chỉ đứng ngoài hiên, nhưng dĩ nhiên, như thế cũng có nghĩa là đứng ngoài trời: nước mưa dội mạnh trên sàn, và ông phải nép vào trong, khép bớt cửa lại. Thậm chí, phải chặn một cái gì đó ngay dưới cánh cửa để nước mưa khỏi bắn vào. – “Chà! Mưa to quá! Có lẽ hai năm rồi mới có một trận mưa như thế này!”, Calixta thốt lên khi cuốn tấm vải đang may dở lại. Alce giúp nàng nhét chúng vào một góc. Calixta trông có vẻ mập mạp hơn so với 5 năm trước, khi nàng mới lập gia đình; tuy nhiên, nàng vẫn giữ được vẻ đẹp rạng ngời. Đôi mắt xanh của nàng hãy còn gợi cảm, và mái tóc vàng rối bù vì mưa gió, bết chặt vào hai bên tai và sau gáy.
Mưa dội mạnh vào phía dưới mái lợp, với một lực rất mạnh, đe dọa làm tung cánh cổng và tràn vào trong nhà. Họ loanh quanh trong phòng ăn, rồi phòng khách và nhà bếp. Cạnh đấy là phòng ngủ của nàng, chiếc giường nhỏ của Bibi đặt sát cạnh giường của Calixta. Cửa phòng mở, trông rõ căn phòng với ánh sáng trắng mờ ảo của mấy chiếc giường, các cánh cửa chớp khép kín, khiến căn phòng trở nên mờ tối và ẩn mật hơn. Alce thả mình xuống chiếc ghế gỗ và Calixta lúng túng thu gom các mẩu vải dưới nền nhà mà nàng đang may dở. “Nếu cứ mưa thế này thì mấy bờ đê ngoài kia, không biết có chống chọi nổi không!”, nàng lo lắng. – “Cái gì khiến cô quan tâm đến mấy bờ đê ấy?”. – “Tôi lo lắm chứ! Bobint và Bibi đang ở ngoài đó, họ sẽ gặp bão nếu như mới rời khỏi cửa hàng nhà Friedheimer!”. – “Hãy hy vọng, Calixta à, Bobint dư hiểu biết để đối phó với những cơn lốc”.
Nàng đến gần và đứng bên cửa sổ với vẻ mặt lo lắng. Nàng lau khung cửa đã bị hơi nước làm mờ. Không khí bỗng trở nên ngột ngạt. Alce đến bên nàng, đưa mắt nhìn ngang qua vai nàng. Cơn mưa như trút nước, che khuất những ngôi nhà ở đằng xa và phủ lên chúng một màn sương xam xám. Sét đánh không ngừng. Một tia sét đánh trúng cái cây ngoài đồng, ánh sáng chói lòa và tiếng sấm rền vang dường như phủ lên nơi họ đang đứng. Calixta lấy tay che mặt và nàng khóc, loạng choạng lui về sau. Alce vòng tay ôm nàng, và đột ngột kéo nàng gần mình hơn. “Đừng!”, nàng khóc, vùng khỏi vòng tay ông và rời khỏi cửa sổ. “Ngôi nhà đó không biết sẽ như thế nào! Giá như tôi biết được Bibi đang ở đâu!”. Nàng không thể tự trấn tĩnh, cứ đứng ngồi không yên. Alce siết chặt bờ vai và nhìn vào khuôn mặt nàng. Cơ thể nàng ấm áp, đang run lên khi ông chạm vào nàng. Điều ấy đã đánh thức nơi ông niềm say mê và nỗi khát khao. – “Calixta – ông nói – em đừng sợ! Sẽ không có gì xảy ra đâu em. Ngôi nhà ấy thấp lắm, lại có nhiều cây cao bao bọc, nó sẽ không bị gió lốc cuốn đi đâu. Thôi nào! Em bình tĩnh!”. Ông vuốt những lọn tóc khỏi khuôn mặt nàng ấm áp. Đôi môi nàng đỏ mọng và ẩm ướt như hạt lựu. Cổ nàng trắng ngần, và cơ thể nàng đầy đặn, quyến rũ ông. Khi nàng ngước nhìn ông, nỗi sợ trong đôi mắt xanh của nàng bỗng ánh lên, gợi cho ông khát khao nhục cảm. Ông nhìn vào đôi mắt ấy và chẳng thể làm gì khác hơn là hôn lên môi nàng. Nụ hôn ấy gợi lại trong ông kỷ niệm về Ngày lễ Đức mẹ lên trời. – “Em có nhớ ngày lễ đó không, Calixta?”, ông nói bằng giọng thầm thì, run run xúc động. Đúng rồi! Nàng vẫn nhớ. Trong buổi lễ đó, ông đã hôn nàng cuồng nhiệt đến mức gần như mất cảm giác, và để giữ gìn cho nàng, ông đã bỏ đi trong sự tuyệt vọng, vì không muốn xâm phạm vào sự trắng trong, thuần khiết đó. Giờ đây, môi nàng, cả cơ thể nàng như gọi mời những yêu thương nơi ông. Họ không còn để ý đến những cơn mưa đang trút xuống nữa, tiếng mưa đổ khiến nàng bật cười trong vòng tay ông. Niềm đam mê mãnh liệt của nàng, giống như một ngọn lửa xâm chiếm và tìm được sự đồng điệu nơi tâm hồn và cơ thể ông, như trước đó nàng chưa từng có. Tiếng sấm rền xa và dần ngừng hẳn. Mưa rơi nhẹ nhàng trên mái nhà, đưa họ vào giấc ngủ mơ màng.
3. Cơn mưa đã tạnh, và ánh mặt trời khiến cả vũ trụ thẳm xanh như một lâu đài dát ngọc. Calixta đứng ở hiên nhà, trông theo Alce cưỡi ngựa xa dần. Ông quay lại và mỉm cười với nàng bằng khuôn mặt rạng ngời; nàng ngẩng cao chiếc cằm xinh xắn và cười vang. Bobint và Bibi, chậm rãi trở về nhà, ngừng lại ở bể nước và rửa ráy, chỉnh trang lại áo quần. Calixta đang chuẩn bị bữa tối. Nàng đã bày thức ăn ra bàn và pha cà phê trước lò sưởi. Nàng vui mừng nhảy cẫng lên khi hai bố con bước vào nhà. – “Ôi, Bobint! Anh về rồi đây! Ôi, em mừng quá! Anh ở đâu trong khi trời bão thế. Còn Bibi nữa, con không ướt chứ, con không bị sao chứ?”. Nàng ôm chặt Bibi và hôn con thắm thiết. Những lời giải thích và xin lỗi mà Bobint đã chuẩn bị trên đường về cũng tan biến khi Calixta nhận thấy anh hoàn toàn không bị ướt, và rất hân hoan khi hai bố con về nhà an toàn. Bobint và Bibi bắt đầu nghỉ ngơi, và khi cả ba ngồi vào bàn ăn, họ cười phá lên đến nỗi bất kỳ ai, dù ở xa như nhà của Laballire cũng nghe thấy.
4. Tối hôm đó, Alce Laballire viết cho vợ mình một bức thư. Đó là một lá thư chan chứa tình cảm. Ông dặn bà không cần phải về vội, bà và các con có thể ở thêm một tháng nữa, nếu thích. Ông càng ngày càng thấy mọi thứ tốt lên, và dù ông rất nhớ họ, ông sẵn sàng chịu đựng sự xa cách này thêm thời gian nữa, ông cho rằng: sức khỏe và niềm vui của họ là điều quan trọng hơn hết thảy.
5. Về phần Clarisse, bà rất vui mừng khi nhận được thư của chồng. Bà và các con đều khỏe. Cuộc sống ở đây rất thoải mái, nhiều bạn bè và người quen cũ của bà đang sống ở vịnh đảo này. Chuyến nghỉ mát đầu tiên kể từ khi bà lập gia đình khiến bà khôi phục lại cảm giác tự do như hồi còn son rỗi. Đời sống hôn nhân với người chồng là tất cả những gì mà bà tự nguyện dâng hiến. Và rồi cơn bão qua. Tất cả mọi người đều hạnh phúc.
LÊ MINH KHA lược dịch từ nguyên bản tiếng Anh “The Storm” . | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Sun May 26, 2019 6:30 pm | |
| . ĐĨ ĐỰC - Francoise Sagan (Pháp) (1935-2004)
Hắn đi trên những con đường hẹp đầy nước và lá khô, cạnh nàng, đôi khi cầm tay nàng để tránh cho nàng một vũng nước. Lúc ấy hắn mỉm cười, một nụ cười không giấu giếm. Nàng nghĩ rằng, đối với cậu nào cũng vậy, cuộc đi dạo trong rừng Meudon là một khổ sai, nhất là đi với một người đàn bà ở tuổi nàng. Không phải là một người đàn bà già mà là một người đàn bà mệt mỏi, nàng không thực sự thích thú đi dạo trong rừng đơn giản vì nàng thích đi cinê hay đến bar quá ồn ào.
Tất nhiên là trước đó hắn đã vượt một chặng đường trong chiếc xe sang trọng mà hắn lái nhanh với niềm vui trẻ thơ, thì cuộc đi chơi lặng lẽ vô tận trên những con đường bị mùa thu tàn phá có phải là sự đền bù cho hắn hay không? “Hắn buồn chán, hẳn là buồn đến chết.” Nghĩ vậy nàng cảm thấy khoan khoái lạ thường, nàng đi theo một lối đi khác, ngược với lối quay về. với một nỗi e ngại hòa lẫn hy vọng. Hy vọng rằng hắn sắp đột ngột chống lại sự buồn chán, sắp nổi giận, sắp gai mắt, sắp nói những lời tàn bạo cho thỏa mãn cái nỗi chênh lệch hắn ta kém nàng những hai mươi tuổi. Nhưng hắn vẫn mỉm cười. Chưa khi nào nàng thấy hắn nóng nảy, không khó chịu, không mỉm cười ban ơn, không châm biếm như những chàng trai rất trẻ thích được mọi người biết đến. Cái mỉm cười ấy mang ý nghĩa rất rõ: “Vì chuyện ấy làm cho bà thích… Hãy chú ý là tôi tuyệt đối tự do, đừng có chọc tức tôi.” Cái mỉm cười độc ác của tuổi trẻ, nó làm cho nàng đông cứng lại và tồn thương, nó làm cho nàng nhiều lần tan vỡ. Nàng chợt thấy với Michel, người đầu tiên, rồi những người khác. Hắn nói “chú ý”, nắm lấy cánh tay nàng, ngăn không móc vào bụi rậm làm rách tất và áo dài của nàng, chiếc áo cắt khá đẹp, khá duyên dáng. Nếu có ngày hắn có cái mỉm cười kiểu ấy, nàng còn có thể thải hồi hắn như những lần trước hay không? Nàng cảm thấy không đủ can đảm làm như vậy với hắn. Không phải chỉ vì nàng quý hắn hơn những người khác; nàng bao bọc hoàn toàn cho hắn, may mặc cho hắn, tặng hắn những đồ chơi không cho từ chối. Hắn không có những thủ đoạn bỉ ổi và thô bạo như những tên khác, những tên này tỏ ra bực tức khi chúng thèm muốn chuyện gì hoặc là chúng cảm thấy bị tổn thương khi được định giá thân xác họ bằng tiền - thực sự là chúng cảm thấy bị tổn thương. Chúng giả vờ mua bất cứ cái gì là sang trọng, là đắt tiền, kề cả những thứ chúng không thích, cốt để lấy lại được tình quý mến thực sự. Cái từ quý mến khiến nàng cười thầm. Thế mà đó là từ duy nhất.
Vẻ dễ ưa của Nicolas (và cái tên này nực cười thêm!) có lẽ ở chỗ hắn thích những quà tặng ấy, không phải do hắn đòi mà do hắn biết rằng nhận những thứ ấy làm cho nàng vui với cảm giác là không phải một người tình già đi mua xác thịt tươi tốt mà trong thâm tâm hắn vẫn khinh bỉ, mà là một người đàn bà bình thường cho một đứa con trai. Nàng gạt nhanh những tình cảm đó. May thay! Nàng không xử sự kiểu mẹ con và người đỡ đầu với cái bầy trẻ choai choai hau háu và rất là xinh trai ấy. Nàng không chơi trò ú tim với những điều có thực, nàng trơ trẽn và sáng suốt, chúng lại thích thế và như vậy gợi cho chúng lòng tôn trọng tối thiểu. “Cậu cho tôi thân xác cậu, tôi trả cậu tiền.” Có vài cậu vì xấu hổ đã không gạt phăng đi, toan lôi kéo nàng vào vài chuyện tình cảm mơ mộng, có lẽ để moi thêm một chút. Nàng gửi chúng đến những bà đỡ đầu khác, báo cho biết vai trò quan trọng của chúng: “Tôi khinh cậu giống như tôi khinh bản thân tôi đã chịu đựng cậu. Tôi chỉ giữ cậu hai tiếng một đêm.” Nàng hạ giá chúng xuống hàng súc vật, sau khi đã suy nghĩ cân nhắc, chẳng gây thiệt hại gì cho chúng cả. Nicolas khó khăn hơn: hắn thuộc nghề đĩ đực của hắn, không chút quyến luyến, không đểu cáng, không đa cảm. Hắn đáng yêu, lễ phép và là tình nhân tốt, có lẽ ít khéo léo, nhưng nồng nàn và có phần âu yếm… Cả ngày hắn ở nhà nàng, nằm dài trên tấm thảm, vớ cái gì đọc cái ấy. Hắn không đòi đi chơi liên tục và khi đi chơi, hắn làm như không quan tâm đến những cái nhìn đầy ý vị người ta quẳng cho hắn; hắn vồn vã, tươi cười như thể hắn chủ động dẫn người tình đi chơi. Tóm lại, ngoài vẻ hạ cố và sự tàn nhẫn mà nàng đối xử với hắn, không có gì phân biệt được quan hệ của họ với những cặp thông thường. “Cậu có lạnh không?” Hắn liếc nhìn nàng băn khoăn không biết có phải thực sự sức khoẻ của hắn có tầm quan trọng đối với nàng hơn mọi thứ trên đời hay không. Nàng chỉ muốn hắn giữ đúng vai trò của hắn, na ná như vai trò mà nàng ước mong mười năm về trước, nàng hồi tưởng lại cái thời nàng còn ông chồng giàu có, ông chồng giàu và xấu ấy, duy nhất chỉ chăm chú đến công việc của ông ta mà thôi. Không biết tại sao nàng ngốc nghếch đến nỗi không lợi dụng được sắc đẹp của mình, nay thì đã đông cứng rồi, để đánh lừa ông ta? Lúc ấy nàng ngủ. Cố lay nàng dậy, tưởng nàng đã chết, và cái đêm đầu tiên ấy với Michel. Tất cả khởi đầu từ cái đêm hôm ấy.
- "Tôi thử xem cậu có lạnh không. - Không, không. Chúng ta sắp về mà. - Có muốn chiếc vét của tôi không?” Chiếc vét đẹp của nàng Creed tặng… nàng lơ đãng nhìn chiếc áo như nhìn một vật mua được không có chút duyên nào. Mỗi vết xám và hung; tóc Nicolas màu hạt dẻ, rậm và mịn hợp với những màu sắc mùa thu ấy. “Biết bao mùa thu, nàng thì thầm cho bản thân mình: áo khoác của anh, khu rừng này… mùa thu của ta…” Hắn không đáp. Nàng tỏ ra ngạc nhiên về những lời nói của mình vì nàng không bao giờ quen nói nhưng lời bóng gió về tuổi tác của mình. Hắn biết rõ và câu nói đó chẳng có quan hệ gì đến hắn. Nàng tưởng mình lát sau nổi trên mặt nước trong chiếc áo dài của nàng Dior tặng… Những ý nghĩ ngớ ngẩn, với tuổi trẻ là ý nghĩ lành mạnh. “Ở tuổi mình người ta không nghĩ đến cái chết, họ bám lấy.” Người ta bám lấy những hạnh phúc của tiền bạc, của đêm tối; người ta lợi dụng chàng trai đi bên bạn trên con đường hoang vắng. “Nicolas, nàng cất giọng khàn khàn, hống hách, khẩn thiết, Nicolas, ôm lấy tôi.” Một vũng nước tách hai người ra. Hắn nhìn nàng một lát trước khi vượt nàng và nàng thoáng nghĩ: “Hắn phải ghét mình.” Hắn ôm ghì lấy nàng và hắn nhẹ nhàng nghển đầu lên cho nàng. “Tuổi tôi, nàng nghĩ trong lúc hắn ôm nàng, lúc này cưng quên tuổi của tôi, cưng còn quá trẻ để thiêu thân, Nicolas…” “Nicolas!” Hắn nhìn nàng, hơi hổn hển, tóc rối bù. “Cưng làm tôi đau”, nàng hơi mỉm cười nói.
Họ tiếp tục im lặng lững thững. Nàng ngạc nhiên về tiếng đập dồn dập trong tim nàng. Cái hôn ấy - liệu có phải là cái hôn say đắm Nicolas? - cái hôn ấy, cứ như là một cái hôn chia tay, cái hôn yêu hắn khát khao và đượm buồn! Hắn tự do như không khí, hiến dâng cho mọi người đàn bà, cho mọi sự xa hoa. Ai là người đã phải lòng hắn? Và cái tái nhợt đột ngột ấy… Hắn nguy hiểm, cực kỳ nguy hiểm… Họ chung sống đã hơn sáu tháng, không thể kéo dài hơn nữa mà không nguy hiểm. Vả lại nàng đã chán ngấy, đã mệt mỏi với Paris, với tiếng ồn ào. Ngày mai, nàng sẽ đi Midi một mình. Họ ra xe. Nàng quay lại phía hắn và nắm lấy cánh tay hắn bằng một cử chỉ máy móc và thông cảm. “Dù sao cậu bé này cũng mất cần câu cơm. Kể cả tạm thời, thật khó chịu.” “Mai tôi đi Midi, Nicolas. Tôi chán ngấy. - Mình có mang tôi đi theo không? - Không, Nicolas, tôi không dẫn cậu đi được.” Tuy nhiên, nàng tiếc hắn. Giới thiệu biển với Nicolas, thật nực cười. Tất nhiên là hắn biết biển rồi, nhưng bao giờ hắn cũng có cái vẻ cái gì cũng biết. - Mình… mình chán tôi rồi sao? Hắn nhẹ nhàng nói: cặp mắt cụp xuống. Có cái gì lạc đi trong giọng nói khiến nàng mủi lòng. Nàng hình dung cuộc đời sắp tới của hắn, nào cãi cọ bần tiện, nào những việc làm tổn hại thanh danh và buồn chán, tất cả chi vì hắn quá đẹp trai, quá yếu đuối và vì hắn là con mồi lý tưởng cho những người đàn bà nào đó thuộc một số môi trường nào đó, có những thu nhập nào đó, những người đàn bà như nàng. “Tôi không hề ngán cậu, bé Nicolas của tôi. Cậu rất lanh lợi, rất duyên dáng, nhưng không thể kéo dài mãi, có phải không? Chúng ta quen biết nhau hơn sáu tháng rồi. - Vâng, hắn nói như đãng trí. Lần đầu tiên tại nhà bà Essini, trong một tiệc Cocktail.” Nàng sực nhớ cái Cocktail huyên náo ấy, và hình ảnh đầu tiên nàng thấy ở Nicolas, cái hình nhìn nghiêng bất hạnh ấy vì cái bà Essini già kề sát rỉ tai hắn kèm những tiếng cười rúc rích trẻ con. Nicolas bị chẹt vào chiếc tủ búpfê và không thể trốn thoát. Bức hoạt hình thoạt đầu khiến nàng mỉm cười, rồi nàng chăm chú nhìn Nicolas với ý nghĩ trơ trẽn lớn dần lên.
Những tiệc Cocktail này là những hội chợ thật sự, những cuộc triển lãm. Người ta chờ những người đàn bà luống tuổi vạch môi trên của những chàng choai choai và xem kỹ răng nanh của chúng. Cuối cùng nàng tới chào bà chủ nhà và đi ngang qua chiếc gương bỗng thấy mình xinh đẹp. Nicolas đã tỏ ra nhẹ người về cái kế nghi binh đó khiến nàng không nhịn được cười và cái mím cười ấy là để cảnh giác với bà Essini già. Nàng chỉ giới thiệu với Nicolas qua loa. Rồi cuộc trò chuyện như thường lệ về những chàng thanh niên và những tập quán của họ. Nicolas ít quan tâm. Sau một giờ hắn được nàng ưng ý dứt khoát và nàng quyết định nói cho nhanh với hắn, như thường lệ. Họ ngồi cạnh một cửa sổ, trên chiếc đi văng và hắn châm điếu thuốc trong khi nàng đọc tên hắn với một giọng hơi bối rối. “Nicolas, tôi ưng ý cậu.” Hắn không động đậy, nhưng nhấc điếu thuốc khỏi miệng và ngắm nghía nàng, không đáp. “Tôi ở Ritg”, nàng lạnh lùng nói tiếp. Nàng không biết rằng điểm cuối cùng này là quan trọng. Tham vọng của mọi đĩ đực là được ở Ritg. Nicolas khẽ có cử chỉ phản đối nhưng hắn không nói lời nào nghĩa là hắn đã hiểu. Nàng nghĩ “kệ xác” và đứng lên. “Tôi đi đây. Hy vọng gặp lại.” Nicolas cũng đứng lên. Hắn hơi tái mặt. “Tôi có thể đi theo bà được không?” Trong xe hắn vòng tay khoác vai nàng và đặt cho nàng những câu hỏi không đếm xuể và say sưa về sự hoạt động của tính truyền rung động và sự tinh tế của động lực. Trong phòng mình nàng ôm hắn lần đầu và hắn xiết chặt nàng trong vòng tay hơi run run vừa mãnh liệt, vừa êm dịu. Đến sáng, hắn ngủ như một đứa trẻ, một giấc ngủ nặng nề, và nàng bước đến tận cửa sổ nhìn trời sáng trên quảng trường Vendôme. Và rồi Nicolas trên tấm thảm chơi bài một mình. Nicolas bên nàng những cuộc hành trình, cặp mắt Nicolas nhìn hộp đựng thuốc lá bằng vàng nàng tặng hắn, và Nicolas bỗng lén lút hôn tay nàng vào một buổi tối. Và giờ đây có Nicolas mà nàng sắp bỏ lại và hắn lặng thinh, hắn không từ bỏ sự uể oải quá khích đó…
Nàng lên xe và ngả đầu về phía sau, đột nhiên mệt mỏi. Nicolas bên nàng và khởi động. Trên đường đi thỉnh thoảng nàng ngó nét mặt nhìn nghiêng chăm chú và xa vắng ấy, mà nàng không thể không nghĩ rằng năm hai mươi tuổi nàng phải lòng như điên và rằng mọi cuộc đời có lẽ chỉ là một mớ rối rắm không thể gỡ nổi. Đến cửa Ý Nicolas quay lại phía nàng: “Ta đi đâu? - Cần qua “Johny's” nàng nói. Tôi có hẹn bà Essini vào bẩy giờ.” Bà ta đến đúng giờ như mọi khi. Đó là một trong số các đức tính hiếm có. Nicolas xiết chặt lấy tay bà già với vẻ hơi hốt hoảng. Nàng nhìn hai người. Bỗng nàng nảy ra một ý kiến thú vị: “À này, ngày mai tôi đi Midi, nên không đến dự buổi Cocktail của bà ngày 16 này được, chán quá.” Bà Essini quay về phía nàng và Nicolas một cái nhìn dịu dàng giả tạo: “Cả hai bạn may mắn. Tắm nắng đấy… - Tôi không đi.” Nicolas nói cụt ngủn. Im lặng. Cái nhìn của hai người đàn bà dồn vào Nicolas. Bà Essini nhìn thiếu tế nhị hơn. “Vậy phải đến dự Cocktail của tôi. Cậu sẽ không phải ở lại Paris một mình, thế thì buồn quá. - Ý kiến hay.” nàng nói thêm. Bà Essini đưa tay ra trước, đặt lên tay áo Nicolas với một động tác sở hữu. Hắn phản ứng bất ngờ. Hắn bỗng đứng lên và bỏ ra ngoài. Chỉ ra tới xe nàng mới theo kịp hắn. “Này, Nicolas cậu sao vậy? Tội nghiệp bà Essini có hơi vội, nhưng đã từ lâu bà ấy đã thích cậu rồi, đó không có gì là bi kịch.” Nicolas vẫn đứng gần chiếc xe. Hắn không nói lời nào và hình như khó thở. Nàng phác một cử chỉ thương tình. “Lên đi. Về nhà cậu hãy giải thích với tôi tất cả.”
Nhưng hắn không đợi về đến nhà. Hắn giải thích với nàng bằng một giọng nhát gừng rằng hắn không phải là súc vật, rằng hắn sẽ tự xoay sở lấy và rằng hắn không thể chịu nổi nàng bỏ hắn lại làm mồi cho chim kền kền như cái mụ Essini ấy. Và rằng hắn không thể làm gì hết với bà ta, rằng bà ta đã quá già. “Nhưng này, Nicolas, bà ấy bằng tuổi tôi.” Họ về đến trước cửa nhà nàng. Nicolas quay lại và bỗng lấy hai tay ôm lấy mặt nàng. Hắn nhìn nàng rất gần, rất gần và nàng cố gỡ ra không nổi, biết rằng son phấn của nàng tất nhiên đã nhạt phai trên đường. “Mình là chuyện khác, Nicolas nói nhỏ. Mình… mình… làm cho tôi thích. Tôi yêu khuôn mặt mình. Tại sao…” Hắn có ngữ điệu thất vọng và buông nàng ra. Nàng sửng sốt: “Tại sao cái gì? - Tại sao mình lại có thể tặng tôi cho người đàn bà ấy? Có phải tôi đã sống với mình sáu tháng? Có phải chưa bao giờ mình nghĩ rằng tôi có thể gắn bó với mình, rằng tôi có thể?...” Bỗng nàng quay lại: “Cưng gian lận, nàng nói nhỏ. Tôi, tôi không thể tự nộp mình cho cờ gian bạc lận. Tôi không thể. Cút đi.” Khi lên đến trên phòng, nàng soi gương. Rõ ràng là nàng đã già, nàng đã ngoài sáu mươi tuổi và nước mắt nàng ràn rụa. Nàng vội vàng chuẩn bị hành lý và ngủ một mình trong chiếc giường rộng. Nàng khóc một lúc lâu trước khi ngủ thiếp đi, tự nhủ rằng có mà điên./.
PHÙNG ĐỆ dịch . | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Thu Aug 15, 2019 9:02 am | |
| .
Canh bạc - Alfred Hitchcock
Trời nắng như đổ lửa, ánh nắng cháy bỏng phủ lên hòn đảo đơn độc giữa biển. Hắn không biết mình đang ở đâu, chỉ biết mình vừa thoát chết. Con tàu chìm mau sau khi va phải đá ngầm đêm qua. Thuyền cứu hộ và phao cứu sinh được thả nhanh xuống biển nhưng quá nhiều hành khách kinh hoảng nên hỗn loạn diễn ra, hậu quả là đa số thuyền cứu hộ bị lật. Có lẽ hắn là người duy nhất còn sống sót. Hắn văng xuống biển khi thuyền cấp cứu của hắn bị lật. Hắn bơi rất giỏi. Nhưng bơi giỏi đến mấy thì phỏng ích gì khi ở giữa biển? Hắn kiệt lực khi trời tờ mờ sáng.
Khi mọi nỗ lực, mọi hy vọng đã tàn, chỉ còn lại cảm giác rã rời cả tinh thần lẫn thể xác thì hắn chỉ muốn buông xuôi tất cả mặc cho thân xác chìm xuống biển. Lúc đó hắn chỉ thèm được nghỉ ngơi, thư giãn, chỉ khao khát được yên nghỉ dù là mãi mãi. Cái chết bấy giờ chẳng có gì là đáng sợ như người ta thường nói. Ngay lúc đó một cái gì chạm vào tay hắn. Một cái phao! Có lẽ là một trong những cái phao cứu sinh của con tàu đó. Hy vọng sống còn lại trỗi dậy trong hắn. Hắn chụp lấy nó, ôm chặt. Hắn trôi trên biển đến trưa. Ánh nắng gay gắt, chói chang. Những cuộn sóng ập đến, nhấc bổng hắn lên rồi ném xuống. Nước biển mặn chát trong miệng hắn. Hắn không dám mở miệng ra nữa. Cổ họng khô đắng, hắn bắt đầu thấy chóng mặt. Bỗng hắn thấy một chấm đen ở phía chân trời. Hắn mở to mắt... một con tàu! Hắn đập chân như điên, cố bơi về hướng đó, một tay giữ cái phao, một tay giơ lên quơ liên hồi, miệng gào to. Chiếc tàu lớn dần rồi nó rẽ sang hướng khác. Hắn cuống cuồng bơi theo một cách tuyệt vọng. Hắn kêu gào. Hắn khóc rống lên, tay quơ điên dại. Con tàu từ từ mất dạng. Hắn không bơi nữa, không la hét nữa, mắt ngây dại như vừa trông thấy một ảo ảnh. Rồi hắn bật khóc, khóc nức nở.
Hắn mặc cho sóng đưa đẩy, lênh đênh trên biển. Đêm xuống. Đêm trên biển lạnh buốt. Hắn không còn bao nhiêu sức lực nữa. Hắn chỉ biết bám chặt lấy cái phao, đầu óc trống rỗng. Một cuộn sóng lớn ập đến hất văng cái phao trong tay hắn. Chới với tuyệt vọng trong màn đêm dày đặc. Giữa sóng nước mênh mông, hắn nghĩ thầm: "Thế là hết!". Hắn muốn buông xuôi tay nhưng bản năng đòi quyền sống. Hắn nổi người trên biển, mặc cho sóng đưa hắn đi. Sau cùng, hắn kiệt lực hoàn toàn và đúng vào lúc hắn sắp mặc cho thân xác chìm xuống biển thì một bên vai hắn chạm vào cái gì cứng như đá. Hắn quơ tay sờ soạng. Đúng, tay hắn chạm mặt đá cứng! Đất liền à? Hắn không rõ. Hắn leo lên, loạng choạng. Hắn ngồi xuống. Đến lúc này, cái mệt rã rời ập đến, bản năng đòi hỏi được đền bù. Hắn ngất đi.
Hắn tỉnh lại khi ánh mặt trời chói chang rọi trên mặt hắn. Ánh nắng rát bỏng. Cổ họng hắn khô đắng, người hắn bừng bừng như lên cơn sốt. Gượng đứng dậy, hắn lảo đảo bước đi, nhìn quanh. Nước mênh mông. Hắn đang ở trên một hòn đảo nhỏ, đường kính khoảng hơn ba mươi mét. Có lẽ đây là ngọn một quả núi nhỏ dưới biển. Trên đảo không cây cối, vài chỗ có đất, còn toàn là đá, mặt đá lồi lõm, rải rác những tảng đá lớn nhỏ... Không chết dưới biển cũng chết ở đây, hắn nghĩ thầm, mà cái chết này có lẽ còn ghê gớm hơn. Hắn thất thểu bước đi. Sau khi xem xét hòn đảo nhỏ, hắn hoàn toàn tuyệt vọng. Liệu người ta có tìm đến đây không? Đoàn cứu hộ đi tìm dấu vết con tàu đắm đêm kia có ngờ rằng có người trôi dạt đến đây không? Nơi này có trên bản đồ hàng hải không? Nơi đây cách chỗ đắm chừng bao xa? Nhiều ý nghĩ quay cuồng trong cái đầu bừng bừng của hắn. Hắn thấy đói cồn cào và khát, khát ghê gớm. Có thể sẽ có người đến đây, nhưng bao giờ? Ngày mai, tuần tới, tháng tới? Hắn ăn gì để sống? Uống gì? Làm thế nào sống được đến lúc có người xuất hiện? Mà người ta đến đây làm gì chứ? Hắn lại thấy đói, cái đói cồn cào nhộn nhạo trong bụng hắn. Đã gần hai ngày đêm không được ăn gì, chỉ uống mà lại uống toàn nước biển! Hắn nghĩ thầm: "Tình trạng này mình sống được bao lâu?" Ánh mắt thẫn thờ của hắn tình cờ nhìn thấy một vật nổi trên mặt biển. Hắn nhìn kỹ... hình như một cái thùng gỗ. Hắn đứng dậy bước tới nhìn cho rõ. Sóng đang đưa nó vào bờ. Đúng là một cái thùng gỗ. Thùng gì vậy? Hắn bước tới nữa, sát mép hòn đảo. Sóng đánh nước bắn lên chân hắn. Cái thùng gỗ đã đến vừa tầm tay, hắn nắm lấy nó bằng hai tay, nhấc lên. Đó là một cái thùng gỗ hình vuông, cạnh khoảng sáu mươi phân. Nắp thùng có then cài. Hắn mở ra. Trong thùng là một cái hộp bằng giấy dầu khá dầy và một cái can bằng nhựa. Nước chỉ lọt vào khoảng một phân. Hắn mừng muốn hét lên vì thấy thủy thủ trên tàu dùng những cái can như vậy để chứa nước ngọt. Hắn mở nắp cái hộp giấy dầu... hơn nửa hộp bách bích-qui! Hắn mở can nếm thử chất nước trong đó, đúng là nước ngọt! Hắn dốc vào miệng... nước! Trời ơi, nước! Nước không màu không mùi mà sao ngon thế! Đặt can nước xuống, hắn bóc bánh ăn ngấu nghiến. Ăn được mươi cái, hắn sực nhớ. Không, không được phí phạm! Phải nghĩ đến những ngày tới. Hắn nhìn can nước, còn nhiều, ít nhất phải tám lít. Hắn đếm bánh... còn bảy mươi lăm cái. Hắn tính nhẩm: "Mỗi ngày mình ăn mười cái thì được hơn bảy ngày, không, vậy thì phí quá, sáu cái thôi. Sáng, trưa, tối, mỗi bữa hai cái và một ngụm nước... như thế sẽ được hơn mười hai ngày... rất có thể trong thời gian đó sẽ có tàu thuyền đi ngang qua đây... có thể lâu hơn... mình phải ăn bớt đi, mỗi ngày bốn cái thôi... nhưng... như vậy sao sống nổi? Không sao, người ta có thể nhịn đói lâu hơn nhịn khát, mình phải tiết kiệm nước...". Hắn xếp tất cả chỗ bánh vào hộp giấy dầu, vặn chặt nắp can nước, bỏ tất cả vào thùng gỗ, đóng nắp cài then cẩn thận rồi đi quanh đảo, nhìn tứ phía. Không bóng dáng một chiếc tàu nào, chỉ có nước mênh mông..
Trời bắt đầu tối. Hắn tìm một chỗ đá bằng phẳng để nằm, đặt cái thùng gỗ bên cạnh. Người hắn vẫn hâm hấp như sốt. Hắn nghĩ thầm: "Có lẽ cái thùng gỗ này rơi từ một trong những thuyền cứu hộ đêm kia... không biết nó sẽ cứu mình hay chỉ kéo dài cái chết của mình?" Suy nghĩ miên man và hắn thiếp đi. Khi hắn tỉnh dậy, mặt trời đã lên cao. Hắn mở thùng gỗ, lấy ra hộp bánh và can nước. Hắn ăn hai cái, không dám ăn nhiều hơn. Hắn nhâm nhi từng chút hương vị ngọt thơm của đường, trứng, sữa, bơ. Chưa bao giờ hắn thấy bánh bích-qui ngon như thế. Ăn xong, hắn uống nước, chỉ dám uống một ngụm rồi cẩn thận xếp hộp bánh và can nước vào thùng gỗ. Người hắn vẫn như đang sốt. Ánh nắng bắt đầu gay gắt. Vậy là đã bốn ngày trôi qua, hai ngày trên biển, hai ngày trên đảo. Liệu hắn có còn được trông thấy đất liền không? Có cơ hội gặp lại gia đình, người thân không? Hắn là nhà sưu tập tem. Hắn đi từ Úc đến nhiều nước để xem những con tem quý mà người ta báo cho hắn biết. Hắn không đem theo nhiều tiền mặt, chỉ có ngân phiếu. Tập ngân phiếu đã chìm theo con tàu. Hắn bỗng sực nhớ, thò tay vào túi. Nó vẫn còn. Hắn lấy ra một tờ giấy năm mươi đô-la nhàu nát và một cái kính lúp khá dầy. Cái kính dùng để coi tem. Cái bật lửa mạ vàng ở túi kia đã rơi mất. Nhưng những thứ còn lại này giúp được gì cho hắn? Hắn bỏ lại tờ giấy bạc và năm mươi đô-la vào túi áo, ngồi thừ người nghĩ ngợi.
°°° Tối hôm đó hắn ăn hai cái bánh, uống một ngụm nước rồi nằm ngủ. Ngày nóng như thiêu. Đêm lạnh cắt thịt, lại không có chỗ trú. Thế là hắn ốm. Hắn lên cơn sốt dữ dội. Hắn rên rỉ trong cơn nhức đầu dữ dội, trong cái lạnh của đêm trên biển, trong cơn đói khát... hắn ngủ hay ngất đi lúc nào không hay. Sáng hôm sau hắn vẫn thấy trong người bừng bừng và cơn nhức đầu mới càng ghê gớm. Hắn ăn hai cái bánh rồi uống một ngụm nước. Cổ họng khô khốc, hắn muốn uống thêm một ngụm nước nữa nhưng không dám. Hắn đứng dậy, lảo đảo đi quanh. Lát sau, hắn trở lại bên thùng gỗ. Ngay khi sắp ngồi xuống, hắn thấy thấp thoáng bóng một con tàu mãi xa phía chân trời. Hắn đứng bật dậy, quên cả đói khát mệt mỏi. Cơn nhức đầu cũng biến mất. Chạy nhanh đến mép hòn đảo, hắn giơ hai tay vẫy một cách điên cuồng. Con tàu từ từ mất dạng. Hắn quỵ xuống, khóc nức nở. Thế là hết! Khóc chán, hắn đứng dậy trở về chỗ cái thùng gỗ. Bỗng trong đầu hắn nảy ra ý nghĩ: "Ừ... sao mình không nghĩ ra nhỉ? Sao mình ngu quá vậy!". Hắn bước đến bên cái thùng gỗ, mở nắp lấy hộp bánh và can nước ra ngoài. Hắn giơ cao cái thùng gỗ, đập mạnh xuống đất. Lát sau hắn gom tất cả mảnh gỗ lại thành một đống. Cầm cái kính lúp trong tay, ngắm nghía: "Ánh nắng xuyên qua kính hội tụ đủ để bắt lửa... nếu có tàu đi ngang qua mình sẽ đốt... họ sẽ thấy khói...". Ý nghĩ khác bỗng đến: "Trường hợp tàu đi ngang qua ban đêm thì sao, lúc mình đang ngủ?". Lắc đầu chán nản. Tuy thế, hắn vẫn hy vọng. Cơn nhức đầu trở lại, miệng hắn đắng ngét. Ánh nắng bắt đầu thiêu đốt thân xác khốn khổ của hắn. Nheo mắt nhìn ra biển... có cái gì... một cái thùng gỗ nữa! Hắn đứng bật dậy, chạy tới. Nó đang tấp vào bờ. Ngay sau đó hắn nhận ra đó là một cái thùng rỗng, không có nắp. Định quay đi thì hắn sực nhớ: "Ồ... phải có thật nhiều khói...". Hắn đến mép đảo vừa lúc cái thùng dạt vào tầm tay hắn. Nó lớn hơn cái thùng kia, gần gấp đôi. Hắn lại đập nát nó ra, chất thêm vào chỗ gỗ trước. Bây giờ thì đống gỗ ấy đủ để quay chín một con heo. Xế chiều, hắn ăn hai cái bánh và uống một ngụm nước. Hắn vẫn sốt, cơn nhức đầu vẫn không giảm. Đêm xuống, hắn mệt nhọc thiếp đi...
Sáng hôm sau hắn thức giấc trong cảm giác kỳ lạ. Cơn sốt vẫn còn nhưng cơn nhức đầu giảm bớt. Hắn linh cảm có cái gì bất thường trên đảo. Nặng nhọc, hắn đứng dậy nhìn quanh và thấy... Cách hắn độ bảy, tám mét, một con chuột khá to đang đứng trên một tảng đá lớn. Nó dáo dác nhìn quanh. Hắn sững người giây lát rồi cười chua chát: "Mày cũng chết khô trên hòn đảo này như tao thôi!". Có lẽ nó cũng trên con tàu đó, trong hầm chứa lương thực, trôi dạt đến đây. Hắn bỗng thấy thích thú vì không phải chỉ mình hắn trên đảo này. Hắn có bạn! Con chuột nhảy xuống và biến mất sau những tảng đá. Không nghĩ đến nó nữa, hắn mở hộp bánh lấy ra hai cái và nhấm nháp từng chút. Nửa giờ sau hắn ăn hết hai cái bánh, không để rơi vãi đi đâu một chút nào. Uống một ngụm nước rồi hắn đứng dậy đi quanh đảo. Vẫn trên trời dưới nước. Nước mênh mông. Không một bóng tàu thuyền nào. Hắn đi quanh, nhìn về phía xa hút tầm mắt, hy vọng, trông mong... Lát sau, cảm thấy mệt, hắn trở lại chỗ cũ. Vừa ngồi xuống thì hắn nghe có tiếng động. Cái gì vậy? Tiếng động lại phát ra, ngay bên cạnh hắn, trong hộp bánh. Hắn mở to mắt. Một lỗ thủng bên thành hộp.
Con chuột! Hắn chụp lấy cái hộp và nhanh như cắt, con chuột thò đầu ra, nhảy xuống chạy biến mất trước khi hắn kịp có phản ứng. Nó ăn bánh của mình! Đồ khốn! Hắn lấy hết bánh ra đếm lại. Hắn đã ăn mười cái thì phải còn sáu mươi lăm cái. Bây giờ chỉ còn bốn mươi cái nguyên vẹn, mười cái bị vỡ và vụn bánh... nó ăn hết gần mười ngày lương thực quý giá của hắn! Mắt hắn tóe lửa nhìn quanh. Không thấy nó đâu cả. Nhưng làm sao giết được nó? Hắn cởi áo khoác, đặt tất cả bánh nguyên và vỡ vào rồi cuộn lại. Hắn vét tất cả vụn bánh, để dành cho bữa chiều. Từ bây giờ hắn sẽ không rời gói bánh quý giá này nữa. Xẩm tối, sau khi ăn xong chỗ vụn bánh, uống một ngụm nước, hắn lại thấy nhức đầu. Hình như cơn sốt tăng thêm. Hắn nằm xuống, hai tay ôm gói bánh và mau chóng rơi vào giấc ngủ mê mệt. Hắn thức dậy sáng hôm sau, hốt hoảng khi thấy vụn bánh rơi vãi đầy trên ngực hắn, trên đất đá cạnh hắn. Cái áo rách một lỗ lớn. "Nó cắn thủng cái áo để ăn bánh!". Điên cuồng, hắn giở tung cái áo ra. Chỉ còn hai mươi cái nguyên vẹn, chỗ còn lại là bánh vỡ và vụn bánh. Hắn ngồi đờ người một lúc rồi đứng dậy. "Nó phải chết!". Hắn gói chỗ bánh lại và xách đi. Hắn đi tìm con chuột. Chẳng thấy nó đâu cả. Lát sau, nhức đầu và mệt lả vì đói khát và cơn sốt, hắn ăn hết chỗ vụn bánh rồi trở lại chỗ để can nước. Hắn uống một ngụm rồi vặn nắp thật chặt trong lúc nghĩ cách bắt con chuột. Làm thế nào để bắt được nó bằng hai tay? Hắn lại đi tìm nó. Vẫn không thấy bóng dáng nó đâu cả. Thất thểu quay trở về, hắn đi men theo mép đảo. Đi ngang một tảng đá lớn hình bầu dục, một đầu bẹt chìa ra ngoài biển như một cái cầu nhảy ở hồ bơi, nửa dưới nước, nửa trên cạn. Con chuột đang bơi ở đó. Hắn đứng lại. Nó đã thấy hắn. Nó giương đôi mắt tròn xoe nhìn hắn như trêu chọc. Hắn bước đến. Ngay lập tức, nó lặn xuống và mất hút. Hắn đứng chờ và chỉ chốc lát sau, hắn thấy nó nổi lên đằng kia, cách hắn vài mét và nó nhảy lên bờ. Hắn mới bước tới được hai bước thì nó đã biến mất sau những tảng đá. Cơn giận cùng cơn sốt làm hắn ngây ngất cả người. Hắn không biết phải làm gì.
Ánh nắng lại tiếp tục thiêu đốt da thịt hắn. Hắn chợt nghĩ ra một cách để giấu bánh. Trên đảo có vài chỗ có đất. Hắn đến đó, dùng cán của cái kính lúp đào đất. Hắn đào từng chút, từng chút. Khi mồ hôi ướt đẫm cái áo sơ-mi thì cái hố cũng vừa xong. Hắn đặt gói bánh vào đó. Lấp đất lại, kiếm một tảng đá lớn chận lên trên. Vậy là yên trí. Chỉ có hắn mới biết chỗ giấu bánh và chỉ có hắn mới lấy lên được. Suốt buổi chiều hắn ngồi chịu trận cho cái nắng ác độc hành hạ thịt da. Cơn sốt vẫn đeo đẳng, đầu vẫn nhức dữ dội. Trời tối, hắn đào đất, lấy gói bánh và chỉ dám ăn một cái, uống một ngụm nước. Hắn lấp đất và chặn tảng đá lại như cũ. Đêm đó hắn ngủ ngon.
°°° Sáng hôm sau hắn quan sát bốn phía mặt biển một lúc rồi quay lại chỗ chôn bánh. Lật tảng đá, đào đất lên để rồi bật khóc. Cái áo rách tung. Có một lỗ ngầm bên dưới chỗ dấu bánh. Hắn mở cái áo rách bươm để nhìn thấy cảnh đau lòng. Chỉ còn chín cái nguyên vẹn, vài cái bánh vỡ và một ít vụn bánh. Hắn vừa khóc vừa quỳ xuống liếm hết chỗ vụn bánh. Hắn gói chỗ bánh còn lại vào cái áo rách nát rồi nặng nề đứng dậy, trở lại chỗ để can nước, thẫn thờ nhìn ra biển. Lại một ngày cực hình. Ánh nắng hành hạ hắn không chút xót thương. Cái nắng ghê hồn làm da thịt hắn như bốc khói. Cơn sốt vẫn không giảm. Đầu hắn đau nhức khủng khiếp. Đêm xuống, hắn ăn một cái bánh, uống một ngụm nước rồi đi nằm. Trải cái áo rách trên đất, hắn đặt tất cả bánh trên đó rồi nằm đè lên. Bánh vỡ hết cũng chẳng sao miễn là con chuột không thể ăn trộm... Hắn giật mình thức giấc lúc nửa đêm. Hình như có tiếng động. Ở đâu? Có cái gì động đậy dưới lưng hắn. Hắn ngồi dậy. Ánh trăng soi rõ chuyện không thể tin được. Con chuột đào một lỗ cách hắn vài tấc, trên mặt đất, đi ngầm xuống đất đến dưới lưng hắn. Chỉ còn ba cái bánh! Như hóa điên, hắn đứng dậy nhìn quanh. Ánh trăng tuy sáng nhưng không đủ nhìn thấy nó, mà có lẽ nó cũng đã chạy mất rồi. Hắn không ngủ được nữa. Hắn ngồi đến sáng.
Khi mặt trời lên cao, hắn ăn nửa cái bánh, không chịu nổi, hắn ăn nốt nửa kia. Bây giờ chỉ còn hai cái. Hắn uống một ngụm nước rồi nghĩ ngợi trong lúc đầu óc quay cuồng. Sau hai ngày nữa, hắn sẽ ăn gì? Hắn không dám nghĩ nữa. Nặng nhọc đứng dậy, hắn bước quanh, dõi mắt ra xa mong gặp bóng dáng một con tàu. Vẫn trời nước mênh mông... tuyệt vọng, hoàn toàn tuyệt vọng. Một ngày nữa trôi qua. Hắn không thấy bóng dáng con chuột đâu cả. Đêm đó hắn ăn một cái bánh, uống một ngụm nước rồi ngủ. Hắn thức giấc trong cơn sốt hầm hập và cơn khát cháy cổ. Lại cái nắng cay nghiệt hành hạ hắn. Có lẽ hắn ngủ mê vì cơn sốt và đói khát. Gượng ngồi dậy, hắn với tay lấy can nước. Cái can nhựa bổng lên, nhẹ tênh! Ánh mắt ngây dại của hắn nhìn sững cái can nhựa. Chỉ còn một chút nước đọng ở đáy can. Gần đáy can có một vết thủng nhỏ, vết răng chuột gặm... Hắn ngất đi. Khi hắn tỉnh lại thì mặt trời đã đứng bóng. Hắn không nghĩ ngợi được gì nữa. Hắn ăn nốt cái bánh cuối cùng rồi tiếp tục ngồi hứng ánh nắng trừng phạt. Đêm đó hắn nói sảng nhiều trong giấc ngủ.
°°° Sáng hôm sau, hắn uống một ngụm nước khi vừa thức giấc. Chẳng còn gì để ăn. Gắng gượng ngồi dậy đi quanh nhưng đầu gối hắn cứ muốn khụyu xuống. Lát sau, không thể đi nổi nữa, hắn xách can nước chỉ còn một chút, trở lại chỗ cũ. Con chuột đâu? Một ý nghĩ chợt lóe trong đầu hắn. "Tại sao mình không ăn nó? Nó là món thịt tươi duy nhất trên đảo này... biết đâu có thể sống vài ngày nữa trên đảo này..." Hắn đi tìm con chuột và thấy nó. Nó đứng lấp ló sau một tảng đá gần đó, giương đôi mắt tròn xoe tinh quái như trêu chọc thách thức hắn, dẫu như hắn còn mạnh khỏe thì cũng chưa chắc bắt được nó huống chi giờ đây hắn quá yếu. Biết rằng không thể nào bắt được nó, hắn chán nản ngồi bệt xuống. Chợt hắn nghĩ ra một cách. "Giả chết! Nó sẽ đến gần mình, bò lên người mình, có thể sẽ bò lên tay, ngay bàn tay mình..." Thế là hắn nằm xuống trong ánh nắng hỏa ngục. Hắn không biết mình sẽ chịu đựng được bao lâu. Mắt hắn nhức nhối tuy đã nhắm chặt. Đúng lúc hắn sắp bỏ cuộc thì nó đến. Quả nhiên nó mắc bẫy thật. Nó bò lên chân hắn, lên đùi, đến bụng rồi nhảy xuống. Hắn tưởng nó bỏ đi nhưng không, nó lại nhảy lên người hắn, bò trên ngực hắn. Hắn thầm mong nó bò xuống tay hắn nhưng nó đứng im. Hắn không thể chờ đợi lâu hơn nữa. Thu hết sức lực, hắn chụp mạnh và ngồi bật dậy, mở mắt. Mắt hắn hoa lên vì ánh nắng. Hắn không nhanh bằng nó. Nó chạy mất.
Đêm đó cơn sốt vẫn hành hạ hắn. Sáng hôm sau hắn không còn sức lực để đứng dậy nữa. Hắn đã uống hết những giọt nước cuối cùng. Trưa hôm đó hắn thấy các ngón tay bắt đầu tê dại. Hắn biết đó là dấu hiệu thiếu nước trầm trọng trong cơ thể. Chiều hôm đó cảm giác tê dại lan dần lên hai cánh tay. Sáng hôm sau cảm giác tê dại đã ở mặt. Hắn biết đã đến những giờ phút cuối cùng của cuộc đời hắn. Không còn hy vọng gì nữa. Hắn cố gượng ngồi dậy nhưng hắn lại gục xuống. Hắn nằm nghiêng một bên và trông thấy con chuột. Nó đang đứng cách hắn khoảng bốn, năm mét nhìn hắn. Không có nước thì làm sao nó sống được? Sao cứ nhởn nhơ thế kia? Lại có vẻ mập mạp nữa! Hắn chợt hiểu. Trên đảo có những hốc đá giống như hang chuột mà tay hắn không cho vào lọt. Ban đêm rất lạnh, ban ngày nóng, quá nóng nên nước bốc hơi. Hơi nước đó bám vào bờ đá như một thứ nước cất không còn muối. Nó liếm lớp nước đó. Vậy là nó may mắn hơn mình. Hắn thấy tức tối. Nó hại mình. Nó sống lâu hơn mình. Hắn nhìn nó. Nó vẫn nhìn hắn. Nó bước tới vài bước nghe ngóng. Thấy hắn nằm im, nó bước tới bước nữa, bước nữa... hai mét, một mét, nửa mét. Hắn vung tay ra nhưng cánh tay run rẩy rồi rũ xuống. Con chuột chạy mất.
Đầu hắn nhức dữ dội, hắn ngất đi. Hắn tỉnh lại khi mặt trời đã hơi chếch bóng, có lẽ khoảng một giờ trưa. Không phải tự nhiên hắn thức tỉnh mà có cái gì chạm vào tay hắn. Con chuột! Nó đang gặm tay hắn! Nó ăn hắn! Hắn không ngờ đến chuyện này. Hắn định ăn nó và giờ đây nó ăn hắn! Hắn rụt tay lại và con chuột chạy mất. Không, canh bạc này hắn phải thắng. Con chuột sẽ không ăn được hắn. Không được để nó làm việc đó. Hắn rùng mình giữa cái nắng ghê gớm khi nghĩ rằng con chuột sẽ ăn dần thân thể hắn, mỗi ngày một chút: tay, chân, ruột, gan... xác hắn sẽ nuôi nó trong nhiều ngày và hắn phải chết một cách đau đớn... Không, hắn phải thắng! Ý nghĩ ghê gớm hình thành trong đầu hắn. Hắn sẽ dùng cái kính lúp để đốt đống gỗ và hắn sẽ nằm trong đó, ngọn lửa sẽ thiêu xác hắn ra tro. Nó sẽ không ăn được tí gì của thân xác hắn. Nhưng chỗ củi đó liệu có đủ để thiêu xác hắn ra tro không? Hắn chua chát nghĩ thầm, có lẽ không đủ. Nhưng ít ra mình cũng đã chết để không thấy nó ăn thịt mình. Hắn không chịu nổi ý nghĩ bị ăn sống. Gom hết tàn lực, hắn gượng ngồi dậy, lết đến đống gỗ. Chỉ độ tám mét thôi mà sao hắn thấy xa quá. Cuối cùng hắn cũng đến nơi. Nghỉ một chút rồi hắn lấy cái kính lúp ra. Mặt trời hơi nghiêng, có lẽ khoảng hai giờ. Tay hắn run quá, không cầm vững được cái kính. Hắn cố xoay xở và sau cùng đặt gác nó lên một cục đá nhỏ. Ánh nắng như thiêu xuyên qua mặt kính hội tụ, chưa đầy một phút sau, trên mặt một miếng ván đã nám đen, bốc khói. Đống ván đã quá khô vì nhiều ngày phơi nắng. Một đốm lửa đỏ xuất hiện trên mặt miếng ván, khói bốc nhiều hơn, vết cháy đen loang rộng. Ngay lúc đó hắn thấy con chuột bên kia đống ván, lưng quay về phía hắn. Nó đang ngậm trong miệng một con cá nhỏ. Con cá chỉ bằng hai ngón tay. Hắn bỗng thấy đói cồn cào, quên cả việc đang làm, vừa bò vừa lết lại chỗ con chuột. Nó vừa nhả con cá ra, có lẽ bị sóng đánh văng lên bờ. Con chuột nghe tiếng hắn, ngoạm lấy con cá và chạy biến mất. Đầu óc hắn quay cuồng vì vừa cố gắng quá sức, quị vật xuống. Rủi thay, đầu hắn va phải một cục đá. Hắn suýt ngất đi, nhưng không, hắn vẫn tỉnh, cảm thấy một luồng hơi nóng hắt đến từ phía sau lưng. Chậm chạp quay đầu lại, hắn thấy ngọn lửa đã bùng lên, đám gỗ khô nẻ bắt cháy nhanh chóng. Hắn đang nằm cách đống lửa khoảng sáu, bảy mét. Hắn cố lết lại. Cơ thể hắn không còn chút sức lực nào. Hắn ước sao mình được nằm trong đống lửa đó. Hắn cố nữa, cố nữa, nhưng chỉ được nửa mét. Hơi nóng hắt vào mặt hắn, lên người hắn. Hắn chợt ân hận: "Sao lúc nãy mình không ráng lăn xuống biển nhỉ! Mà chẳng biết có nổi không!" Hắn ngất đi.
Hắn tỉnh lại lúc trời chưa tối hẳn. Ánh nắng chiều tàn vẫn còn trên đảo. Đống gỗ đã cháy hết, đống than hồng cũng tàn gần hết. Những cuộn khói trắng bốc cao trên nền trời màu cam. Giờ thì hoàn toàn tuyệt vọng. Từng thớ thịt trong cơ thể hắn đau nhức rã rời. Màn đêm xuống dần. Hắn vẫn thức, vẫn tỉnh và biết con chuột đã đến. Nó đang cắn ngón chân hắn. Hắn không thấy đau, chỉ thấy nhột vì cơ thể hắn giờ đã tê dại. Hắn không sợ, không kinh hoảng vì sắp bị ăn sống nữa mà chỉ thấy chua chát. Mình đã thua! Hắn không thể cử động dù chỉ một ngón tay. Hắn nhắm mắt lại. Con chuột vẫn gặm ngón chân hắn. Hắn bỗng thấy ngứa ngáy khắp người và ngay sau đó hắn nghe có tiếng động. Tiếng xích sắt loảng xoảng và tiếng người lao xao. - Đây rồi! Có một người ở đây! - Tôi đã nói mà... rõ ràng có khói... - Kìa, đống than đang tàn kìa... - Anh ta còn sống không? - Không biết, để tôi coi...
Họ đặt hắn lên cái băng-ca, khiêng ra ca-nô để chuyển lên tàu. Lúc đến mép hòn đảo, hắn sực nhớ, mấp máy môi. Qua ánh đèn măng-sông sáng rực, một người trông thấy, cúi xuống hỏi. - Anh muốn gì? Hắn thì thào yếu ớt. - Trong túi áo... tôi có... năm mươi... đô-la... lấy ra... Người đó làm theo lời hắn và hỏi. - Để làm gì? - Trên tàu... có bánh... bích-qui không? - Có. - Có... nước ngọt không? - Có. - Bán cho tôi... năm mươi... đô-la... bánh và nước... bỏ lên đảo cho tôi... tôi đã thắng... Người đó nói lại cho những người kia nghe. Họ nghĩ hắn mê sảng. Nhưng có một người nói. - Chắc có chuyện gì đấy, cứ làm theo lời anh ta và lấy tiền đi. Hắn gắng gượng cho đến khi thấy họ mang hai thùng bánh rất to và hai thùng nước bỏ lên đảo, rồi một màn đen phủ chụp lấy hắn.
Con tàu không nhổ neo cho đến sáng hôm sau. Họ tiếp nước biển, tiêm thuốc hồi sức cho hắn. Họ muốn biết chuyện gì xảy ra với con tàu, với những hành khách. Dù rất yếu, hắn vẫn đủ sức cho họ biết có lẽ hắn là người duy nhất sống sót. Hắn hỏi mượn một cái ống nhòm, gượng dậy nhìn về hòn đảo. Hắn thấy con chuột đang đứng trên thùng bánh, hai chân trước cầm một cái bánh, gặm ngon lành, cặp mắt dáo dác nhìn quanh... . | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Fri Oct 25, 2019 8:05 am | |
| .
Trong đêm khuya – Varlam Shalamov (Nga)
Varlam Shalamov sinh vào khoảng năm 1907 và mất ngày 17 tháng 1 năm 1982. Tác giả thường viết những truyện ngắn mô tả về cuộc sống trong các trại tù. Truyện được bí mật lưu truyền ở Liên Bang Sô Viết và sau đó được phổ biến rộng rãi tại phương Tây. Truyện sau đây được chuyển ngữ từ bản dịch tiếng Anh của John Glad với nhan đề “In The Night”.
Bữa ăn tối vừa xong. Glebov chậm rãi liếm sạch cái chén rồi vét những mẩu bánh vụn trên bàn vào trong lòng bàn tay trái một cách lành nghề. Hắn không nuốt ngay. Hắn ngậm những mẩu bánh nhỏ xíu đó trong miệng lẫn với bao nhiêu nước miếng để rồi cảm nhận bánh một cách thèm thuồng. Glebov cũng chẳng có thể nói là bánh ngon hay không nữa. Vị giác là cái quái gì, đâu đáng được mang ra để mà so sánh với cái khoái cảm của hắn lúc này. Glebov không vội vã nuốt bánh xuống làm chi, để yên đấy, bánh sẽ chầm chậm tan dần trong miệng và lẹ làng biến mất đi mà!
Cặp mắt sâu hoắm của Bagretsov sáng lên và nhìn trừng trừng mãi vào miệng Glebov. Chẳng anh chàng nào có đủ nghị lực quay đầu đi mà không ngó chằm chằm vào miệng bạn mình khi cái miệng đó đang ăn. Glebov nuốt nước miếng xuống và Bagretsov lúc đó mới chịu lập tức quay nhìn ra phía khác, ra phía chân trời nơi mặt trăng vàng lớn đang lừng lững mọc lên. “Tới giờ rồi!”, Bagretsov nói. Họ chậm rãi đi dọc theo lối mòn dẫn tới một tảng đá lớn và trèo lên khoảng đất trống nhỏ ven đồi. Mặc dù mặt trời vừa mới lặn đây thế mà mấy tảng đá đã lạnh ngắt rồi, chính mấy cái tảng đá này ban ngày nóng bỏng đến cháy cả gót chân trơ trụi của họ đi trong đôi dép cao su. Glebov cài nút áo khoác dày. Đi như vậy mà người cũng chẳng ấm lên được. Hắn hỏi khẽ: “Còn xa nữa không?” “Chút nữa thôi!”, Bagretsov thì thào trả lời. Họ ngồi xuống nghỉ. Họ chẳng có chuyện quái gì để nói hay để suy nghĩ cả. Mọi việc đều đã rõ ràng và đơn giản. Trong một chỗ đất phẳng phiu ở cuối cái bãi trống này là những đống đá mà người ta đã đào từ dưới đất lên để lẫn với rêu đã tróc ra khô queo.
“Tớ làm chuyện này một mình cũng dư sức mà!”, Bagretsov nở một nụ cười nhăn nhúm. “Nhưng hai đứa mình cùng làm thì vui hơn. Hơn nữa tớ lúc nào cũng coi cậu là bồ tèo…” Cả hai anh chàng đồng hội đồng thuyền này cùng được chuyển vào nơi đây mới năm ngoái thôi. Bagretsov ngừng lại: “Cúi xuống không tụi nó trông thấy chúng mình đấy!”. Họ nằm xuống và bắt đầu liệng những cục đá sang một bên. Chẳng có cục đá nào quá to để đến nỗi phải cần hai người xúm lại khiêng vì những kẻ chất đá sáng nay cũng không khỏe gì hơn Glebov. Bagretsov khẽ chửi thề. Hắn bị đứt tay và chảy máu. Hắn đắp chút cát vào vết thương, xé một miếng giẻ trên áo khoác và buộc vào chỗ bị thương nhưng máu vẫn cứ rỉ ra. “Máu loãng, khó đông!”, Glebov nói tỉnh khô. “Này! Bồ là bác sỹ đấy à?” Bagretsov hỏi, miệng mút vết thương. Glebov lặng thinh. Cái thời mà hắn còn làm bác sỹ có vẻ như xa xôi lắm rồi, dường như không phải là chuyện có thực nữa? Luôn cả cái thế giới ở phía bên kia núi đồi, bên kia biển cả hầu như cũng không có thực nữa, nó mờ mờ mịt mịt như trong giấc mộng vậy. Chỉ còn những ngày giờ, những giây phút từ lúc ngóc đầu dậy bởi tiếng kẻng báo thức buổi sáng cho tới khi hùng hục “lao động” xong công việc hàng ngày mới là có thực mà thôi. Hắn chẳng muốn nghĩ ngợi gì thêm, chẳng còn hơi sức đâu để nghĩ. Mà cũng chẳng còn ma nào muốn nghĩ ngợi gì thêm nữa.
Hắn không biết được quá khứ của những người xung quanh, mà cũng chẳng muốn biết làm gì! Bởi thế nếu ngày mai đây cái anh chàng Bagretsov này mà có tự tiết lộ rằng y là một ông tiến sỹ hay một ông tướng tàu bay gì đi nữa thì Glebov cũng tin ngay, chẳng cần suy nghĩ gì thêm. Chính Glebov có thực sự từng là thày thuốc không nhỉ? Chẳng phải hắn chỉ mất tiêu đi cái thói quen suy xét sự việc mà còn mất luôn ngay cả cái thói quen quan sát sự việc nữa. Glebov nhìn Bagretsov mút máu ở đầu ngón tay nhưng không nói gì. Mọi việc thoáng qua, hắn nhận thức thấy nhưng không thể tìm ra và cũng chẳng muốn tìm ra lời giải đáp. Cái ý thức còn sót lại trong hắn – có lẽ không còn là cái ý thức của con người nữa – nó rất phiến diện và giờ đây chỉ nhắm vào một mục tiêu mà thôi, đó là làm sao khuân những tảng đá ra càng nhanh càng tốt. “Có sâu không?”, Glebov hỏi khi họ tạm nghỉ tay. “Sâu thế quái nào được?” Bagretsov trả lời. Và Glebov nhận thấy câu hỏi của mình thật là vớ vẩn, cái hố này tất nhiên chẳng thể sâu được. “Nó đây rồi!”, Bagretsov nói. Y vươn tới và đụng vào một ngón chân người. Một ngón chân cái thòi ra từ phía dưới những tảng đá, nhìn rõ mồn một dưới ánh trăng. Cái ngón chân khác hẳn các ngón chân của Glebov và Bagretsov, không phải chỉ khác vì nó cứng ngắc và hết sinh khí; về cái khoản này thì ngón chân người chết cũng chẳng khác ngón chân người sống bao nhiêu. Nó khác vì móng chân của cái ngón chân người chết đó đã được cắt gọn ghẽ, và ngay chính cái ngón chân đó thì đầy đặn và mềm mại hơn ngón chân Glebov. Họ vội vã vứt những tảng đá còn chất đống ở trên xác chết qua một bên.
“Tên này còn trẻ mà!”, Bagretsov nói. Cả hai kéo lê cái xác chết ra khỏi huyệt. “Tên này to con và phốp pháp quá!”, Glebov vừa nói vừa thở hổn hển. “Nếu tên này không mập ú như vậy thì tụi nó đã chôn hắn theo cái kiểu tụi nó thường chôn anh em mình rồi và chúng mình đâu còn lý do gì mà tới đây hôm nay nữa”, Bagretsov nói.Họ kéo cho cái xác chết nằm dài dưới đất rồi lột chiếc áo ra. “Bồ thấy không, cái quần đùi này gần như mới tinh đấy!”, Bagretsov nói một cách mãn nguyện. Glebov dấu cái quần lót vào trong áo khoác. “Tớ nghĩ bồ mặc nó vào thì hơn!”, Bagretsov nói. “Không! Tớ không thích mặc đâu!”, Glebov lầm bầm. Họ khiêng cái xác chết đặt lại vào trong mộ huyệt và khuân đá chất kín lên trên. Mặt trăng đang mọc. Ánh trăng xanh tỏa sáng phủ lên những tảng đá và lên cả khu rừng thưa khiến đá và cây cối có một vẻ đặc biệt nhìn không giống lúc ban ngày. Mọi vật đều tỏ ra hiện hữu, có thật, nhưng khác hẳn lúc ban ngày. Dường như vũ trụ đeo vào một bộ mặt thứ hai, một bộ mặt về đêm. Glebov cảm thấy cái quần lót của người chết nhét trong áo khoác của hắn giờ đây ấm áp, không còn lạ lẫm nữa.
“Tớ thèm rít tí khói quá!”, Glebov mơ màng nói. “Ngày mai sẽ hút!”. Bagretsov mỉm cười. Ngày mai họ sẽ bán cái quần lót đi, đổi lấy bánh, và có lẽ ngay cả kiếm được chút thuốc lá nữa không chừng…
Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển ngữ
. | |
| | | NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Wed Apr 01, 2020 6:50 pm | |
| .
Một vụ treo cổ - George Orwell (1903-1950)
Phạm Văn chuyển ngữ. Dịch theo bản tiếng Anh “A Hanging”, in lần đầu tiên trên tạp chí The Adelphi, London, tháng 8/1931.
George Orwell (1903-1950), tên thật là Eric Arthur Blair, sinh tại Bengal, Ấn Độ. Cha ông làm việc tại Sở Nha phiến của chính quyền Anh tại Ấn Độ; mẹ ông gốc Pháp trưởng thành ở Moulmein, Miến Điện. Gia đình ông thuộc tầng lớp quý tộc đại điền chủ và tư bản, nhưng đã sa sút. Khi Eric được một tuổi, mẹ ông đưa các con về sống ở Anh để được hưởng nền giáo dục của “mẫu quốc” như nhiều gia đình viên chức ở thuộc địa Anh thời đó. Năm 1917, ông được học bổng của Eton College, một trường tư danh giá cho nam sinh nội trú từ 13 đến 18 tuổi, do Vua Henry VI sáng lập, nhưng năm 1921 ông bỏ ngang. Năm 1922, ông gia nhập ngành cảnh sát và chọn nhiệm sở ở Moulmein, Miến Điện, nơi bà ngoại ông đang sống. Khi đó Miến Điện là một xứ thuộc địa do Phó vương Anh ở Ấn cai trị. Ông được bổ nhiệm ở Mandalay và dần dần quan tâm đến sinh hoạt và văn hoá của dân bản xứ. Năm 1927, chống lại chính sách của Đế quốc Anh, ông từ bỏ những ưu đãi đối với tầng lớp trung lưu của mình, ra khỏi ngành cảnh sát và quyết định sống bằng nghề văn. Ông về London làm thợ và sống lang thang ở nông thôn cùng những người vô gia cư. Năm 1928, ông sang Paris tiếp tục sống nghèo khổ, viết báo về tầng lớp cùng khốn, nạn thất nghiệp và bất công xã hội. Từ những kinh nghiệm này ông xuất bản cuốn sách đầu tiên, Down and Out in Paris and London, năm 1933. Năm 1936, ông rời London để gia nhập lực lượng chống Phát xít Tây Ban Nha, và trở thành người nhiệt thành theo chủ nghĩa xã hội, nhưng ông bác bỏ chủ nghĩa cộng sản kiểu Liên Xô. Trong thế chiến thứ hai, ông chỉ trích chính sách tuyên truyền che giấu sự thật của cả hai phe Đồng Minh và Phát xít. Cuối thế chiến 2, ông xuất bản cuốn Animal Farm (1945) và nổi tiếng trong giới văn chương. Năm 1949, ông viết xong cuốn 1984 trong khi bị bệnh lao. Một năm sau ông mất ở London.
Sau khi ông mất, ảnh hưởng của ông về mặt chính trị, xã hội, văn học tiếp tục gia tăng, và nhiều từ ngữ mới xuất hiện trong tiếng Anh liên quan đến ông hoặc phát xuất từ các tác phẩm của ông. Thí dụ, chữ Orwellian (tính từ mô tả khái niệm độc tài ngăn cản phúc lợi của con người), Big Brother (người kiểm soát mọi sinh hoạt của kẻ khác), Thought Police (cảnh sát tư tưởng có nhiệm vụ ngăn chặn mọi ý nghĩ bị coi là lệch lạc), thoughtcrime (tội có suy nghĩ không đúng với đường lối của chế độ), Room 101 (phòng tra tấn dưới hầm Bộ Tình Yêu, nơi Đảng bẻ gãy ý chí của kẻ chống đối), memory hole (phương pháp thay đổi hay xoá bỏ những gì bất lợi cho chế độ), unperson (người đã bị xử tử hay bị xoá tên trong lịch sử), doublethink (nghĩ nước đôi, chấp nhận cả hai niềm tin hay sự thật trái ngược nhau), newspeak (thứ ngôn ngữ bị kiểm soát về từ vựng và văn phạm để giới hạn tự do tư tưởng, thí dụ chữ “nước lạ” trên báo chí ở Việt Nam hiện nay là một thứ ngôn ngữ mới) – Phạm Văn
Chuyện xảy ra ở Miến Điện, buổi sáng đẫm nước mưa. Ánh mặt trời yếu ớt như mảnh thiếc vàng vọt chiếu nghiêng trên bức tường cao xuống sân nhà tù. Chúng tôi đợi bên ngoài các xà lim phạm nhân, đó là dãy lán có hai hàng song sắt phía trước, như cái cũi nhốt thú nhỏ. Mỗi cạnh xà lim khoảng 3 mét, bên trong khá trơ trụi, chỉ có tấm ván giường và chậu nước uống. Trong một số xà lim bọn người da nâu lặng lẽ ngồi xổm ở chấn song bên trong, chăn quấn quanh thân mình. Họ là bọn tử tù sắp bị treo cổ trong một hay hai tuần nữa.
Một tù nhân được đưa ra khỏi xà lim. Anh ta theo Ấn giáo, một kẻ bé xíu, đầu cạo trọc, mắt ướt đục. Râu mép anh rậm lởm chởm, quá rậm tới mức lố bịch so với thân thể anh, tựa như bộ râu mép của một gã hề trên màn ảnh. Sáu ông cai tù cao lớn người Ấn canh gác anh và sửa soạn để đưa anh lên giá treo cổ. Hai ông cai cầm súng trường gắn lưỡi lê đứng bên cạnh, trong khi các ông kia còng tay anh, luồn dây xích qua chiếc còng và gắn vào thắt lưng của họ, rồi trói chặt cánh tay anh hai bên sườn. Họ vây kín xung quanh anh, tay họ luôn luôn cẩn thận và nhẹ nhàng giữ cứng anh, như thể cứ phải sờ thấy anh để chắc rằng anh đang ở đó. Tựa như người ta cầm con cá còn sống có thể nhảy xuống nước trở lại. Nhưng anh đứng không kháng cự, thõng cánh tay cho sợi dây trói, như thể anh không hiểu điều gì đang xảy ra. Đồng hồ điểm tám giờ, tiếng kèn nhạt nhoà một cách tiêu điều từ doanh trại xa xa trôi lại trong bầu không khí ẩm ướt. Ông giám đốc nhà tù đứng tách rời chúng tôi, đăm chiêu chọc cây gậy của ông xuống sỏi, ngửng đầu lên khi nghe tiếng kèn. Ông là bác sĩ quân y, ria mép như cái bàn chải răng bạc xám, giọng khàn đặc. Ông cáu kỉnh nói: “Chúa ơi, nhanh lên, Francis. Lẽ ra lúc này nó đã chết rồi. Anh sửa soạn chưa xong à?” Trưởng cai ngục Francis, mập mạp, gốc Dravidian,[1] mặc lễ phục trắng, đeo kính gọng vàng, vẫy bàn tay đen đúa. Anh ta quýnh lên: “Vâng thưa ông, vâng thưa ông. Mọi thứ xẵng xàng gồi. Đứa phụ trách treo cổ đang chờ. Mình tiếng hành liềng.” “Ôi dào, vậy thì đi nhanh lên. Việc này chưa xong thì bọn tù chưa được ăn sáng đâu.”
Chúng tôi tiến đến giá treo cổ. Hai ông cai đi hai bên tù nhân, súng vác vai; hai ông cai khác đi sát bên cạnh, nắm chặt cánh tay và vai anh ta, như vừa đẩy vừa dìu đi. Những người còn lại, đám quan toà và viên chức, theo sau. Khi chúng tôi đi được mười thước thì đoàn người chợt dừng lại mà không có lệnh hay lời báo trước. Một điều gở đã xảy ra – một con chó có trời biết ở đâu ra xuất hiện trong sân. Nó vừa nhào vào giữa chúng tôi vừa sủa một tràng ầm ĩ, rồi nhảy cỡn lên quanh chúng tôi, vui mừng cuồng loạn vì thấy nhiều người cùng một lúc. Con chó nòi Airedale lai tạp, lông xù to lớn. Nó sấn xổ bên chúng tôi một hồi, rồi nhào tới người tù trước khi có người kịp ngăn nó lại, nó chồm lên cố liếm mặt anh ta. Mọi người đứng sững sờ, kinh ngạc đến nỗi không ai bắt lấy con chó. Ông giám đốc tức giận: “Đứa nào để con chó khốn khiếp đó vào đây? Bắt lấy nó!” Một ông cai tù tách khỏi nhóm hộ tống, vụng về đuổi theo con chó, nhưng nó nhảy nhót ngúng nguẩy ngoài tầm với của ông ta như đang chơi đùa. Một anh cai tù lai Á Âu còn trẻ bốc một nắm sỏi ném đuổi nó đi, nhưng nó né tránh và lại chạy đến chúng tôi. Tiếng ăng ẳng của nó vang dội vách nhà tù. Bị hai ông cai tù nắm chặt, người tù hờ hững nhìn theo, như thể đây cũng là một thủ tục của vụ treo cổ. Mấy phút sau họ mới bắt được con chó. Khi ấy chúng tôi luồn chiếc khăn tay của tôi qua cái vòng cổ con chó và lại đi tiếp, trong khi nó vừa kéo ghì vừa rên rỉ.
Lúc đó cách giá treo cổ khoảng 40 mét. Tôi nhìn cái lưng nâu trần của tù nhân đang đi phía trước mình. Anh đi lóng ngóng vì hai cánh tay bị trói, nhưng khá đều bước, dáng điệu nhún nhảy của người Ấn không bao giờ duỗi thẳng đầu gối. Cùng với mỗi bước chân, bắp thịt anh đặt gọn gàng vào chỗ, lọn tóc trên sọ ngoe nguẩy, bàn chân anh in trên sỏi ướt. Một lần, dù bị hai người nắm chặt hai bên vai, anh bước lách qua một bên để tránh vũng nước trên lối đi. Thật lạ, cho đến lúc ấy tôi vẫn không hề hiểu thế nào là giết một người còn khoẻ và tỉnh táo. Khi tôi thấy người tù bước tránh vũng nước, tôi chợt thấy sự huyền bí, sự sai lầm không thể nói, của việc cắt ngắn một mạng sống khi nó đang sung mãn. Người đàn ông này không hấp hối, anh sinh động như chúng tôi. Mọi bộ phận trong cơ thể anh đang hoạt động – ruột tiêu hoá thực phẩm, da đang thay, móng đang dài thêm, tế bào đang thành hình – tất cả nỗ lực ấy trở thành cực kỳ vô nghĩa. Móng tay móng chân anh vẫn dài thêm lúc anh đứng trên giá treo cổ, lúc anh đang rơi giữa không trung trong một phần mười giây cuối đời. Mắt anh thấy viên sỏi màu vàng và bức tường xám, óc anh vẫn nhớ, vẫn suy đoán, vẫn nghĩ ngợi – nghĩ ngợi cả về các vũng nước. Anh và chúng tôi là nhóm người đang cùng nhau đi, thấy, nghe, cảm xúc, hiểu cùng một thế giới. Và trong hai phút nữa, với một cái giật đột ngột, một người trong số chúng tôi sẽ mất – mất đi một tâm hồn, mất đi một thế giới.
Giá treo cổ dựng trong một sân nhỏ mọc đầy cỏ gai cao, nằm tách khỏi sân chính của nhà tù. Nó là ba mặt tường gạch như ba mặt của cái lán, bên trên lót ván, trên nữa là hai cây cọc và cái thanh ngang treo lủng lẳng sợi dây thừng. Gã phụ trách treo cổ là một phạm nhân tóc bạc mặc đồng phục trắng của nhà tù, hắn đang đợi bên cạnh dụng cụ của hắn. Hắn khúm núm cúi chào lúc chúng tôi vào. Theo lệnh của Francis, hai cai tù nắm chặt tù nhân hơn, nửa dắt, nửa đẩy anh ta tới giá treo cổ và giúp anh ta lóng ngóng lên thang. Khi ấy gã phụ trách treo cổ leo lên quàng sợi dây thừng quanh cổ tù nhân. Chúng tôi đứng đợi cách đó năm mét. Đám cai tù đã đứng thành vòng tròn quanh giá treo cổ. Khi dây thòng lọng đã tròng qua cổ, người tù bắt đầu kêu xin thần thánh của anh. Tiếng kêu cao vút, lặp đi lặp lại: “Ram! Ram! Ram! Ram!” không vội vàng sợ hãi như lời cầu nguyện hay kêu cứu, nhưng đều đều, nhịp nhàng, gần như tiếng chuông. Con chó nghe thấy bèn ư ử đáp lại. Gã phụ trách treo cổ vẫn đứng trên giá treo cổ, lấy ra cái túi nhỏ bằng vải như túi bột và trùm qua mặt tù nhân. Nhưng dù bị miếng vải che, tiếng kêu vẫn lặp đi lặp lại: “Ram! Ram! Ram! Ram!” Gã phụ trách treo cổ leo xuống rồi đứng chờ, tay cầm cần gạt. Dường như nhiều phút đã trôi qua. Tiếng kêu bằn bặt của người tù vẫn đều đều: “Ram! Ram! Ram!” không hề vấp váp một tích tắc. Ông giám đốc cúi gằm xuống ngực, chầm chậm thọc cây gậy lên mặt đất. Có lẽ ông đang đếm tiếng kêu, cho phép người tù kêu đến bao nhiêu tiếng – có lẽ năm mươi, hay một trăm. Mọi người đều biến sắc. Bọn người Ấn tái đi như cà phê loãng, một vài lưỡi lê run rẩy. Chúng tôi nhìn người bị trói, đầu bị trùm kín, và nghe tiếng kêu của anh ta – mỗi tiếng kêu là một tích tắc của cuộc sống. Tất cả chúng tôi đều nghĩ: ồ, giết hắn nhanh lên, làm cho xong đi, dứt cái tiếng dễ sợ đó đi!
Bất chợt ông giám đốc quyết định. Ông ngửng đầu lên, cây gậy của ông vung ra, ông gọi to gần như hung tợn: “Chalo!”[2] Có tiếng loảng xoảng, rồi im lặng đáng sợ. Tù nhân đã biến mất, chỉ thấy sợi dây thừng vặn vẹo. Tôi buông con chó, nó phóng ngay tới phía sau giá treo cổ. Nhưng khi tới nơi nó đứng sững lại, sủa, rồi lùi về góc sân đứng giữa đám cỏ dại, sợ hãi nhìn chúng tôi. Chúng tôi đi vòng ra sau giá treo cổ để kiểm tra cơ thể người tù. Anh ta lủng lẳng, ngón chân chỉ thẳng xuống đất, chầm chậm xoay tròn, cứng đơ như hòn đá. Ông giám đốc đưa cây gậy chọc vào cái xác trần trụi, nó khẽ dao động. Ông giám đốc nói: “Nó được rồi.” Ông lùi ra khỏi phía dưới giá treo cổ, thở hắt một tiếng. Vẻ cáu kỉnh biến mất tức khắc trên khuôn mặt ông. Ông liếc đồng hồ đeo tay: “Tám giờ tám phút. Ôi dào, Chúa ơi, sáng nay thế là xong.” Đám cai tù tháo lưỡi lê và giải tán. Con chó tỉnh lại và biết nó đã làm bậy, lấm lét theo sau họ. Chúng tôi ra khỏi sân dựng giá treo cổ, đi ngang các xà lim có tù nhân đang đợi, vào cái sân lớn ở giữa nhà tù. Phạm nhân đang nhận phần ăn sáng theo lệnh của các cai tù cầm gậy bịt sắt. Họ ngồi xổm thành hàng dài, mỗi người cầm cái bát bằng thiếc, trong khi hai cai tù khiêng thùng vừa đi vừa múc cơm ra bát. Quang cảnh dường như khá thân mật, vui vẻ, sau vụ treo cổ. Bây giờ chúng tôi cảm thấy hết sức nhẹ nhõm vì đã xong việc. Một cảm giác thôi thúc muốn hát, muốn vùng lên chạy, muốn cười đùa. Mọi người tranh nhau nói huyên thuyên vui vẻ.
Gã lai Á Âu bước bên cạnh tôi, hất hàm tới chỗ chúng tôi vừa ra khỏi, mỉm cười ra vẻ biết chuyện: “Ông có biết là anh bạn của mình (gã ám chỉ người chết) lúc nghe đơn kháng cáo bị bác, hắn đái ra sàn xà lim. Vì sợ… Mời ông hút điếu thuốc. Ông không thấy cái hộp bạc mới tinh của tôi đẹp quá xá chừng a? Mua của thằng bán rong mất hai rúp tám xu đấy. Kiểu Âu châu sang trọng.” Vài người cười – hình như chẳng ai biết họ cười cái gì. Francis vừa đi bên cạnh ông giám đốc, vừa nói liến thoắng: “Ồ, thưa ông, mọi chiệng xong xui cực kỳ đúng cách cả. Xong xui hết trọi – tách cái là xong! Hổng phải lầng nào cũng dzậy đâu – ồ, không đâu! Tui biếc nhiều ca ông bác sĩ phải chui xuống dưới giá treo cổ gồi kéo cẳng thằng tù để chắc là nó chết. Khó chịu dễ xợ!” Ông giám đốc nói: “Ngọ nguậy hả? Thế thì tệ.” “Ối, thưa ông, níu tụi nó bướng thììì còn tệ hơn! Tui nhớ một đứa bám chặt cái chấn song xà lim của nó lúc tụi tui tới đem nó ra. Ông khó mà tin phải mất sáu đứa cai tù mới gỡ được nó, mỗi cẳng ba đứa kéo. Tụi tui nói phải trái với nó là ‘Anh bạn ơi, nghĩ coi anh làm tụi tui khổ sở phiền toái quá chừng à!’ Nhưng nó cứ hổng chịu nghe! Ối dào, nó thiệt làà phiền toái!” Tôi thấy mình đang cười rất to. Mọi người đều cười. Thậm chí ông giám đốc cũng khoan hồng nhe răng cười. Ông nói khá vui vẻ: “Các anh ra hết ngoài kia làm một ngụm. Trong xe tôi có chai rượu mạnh. Mình làm nó đi.”
Chúng tôi đi qua cái cổng đôi to lớn của nhà tù, ra đường. Ông quan toà người Miến Điện bỗng thốt lên: “Kéo cẳng nó!” rồi bật cười khúc khích. Chúng tôi lại cười. Lúc ấy câu chuyện của Francis hình như nực cười một cách phi thường. Chúng tôi, dân bản xứ cũng như người Âu, cùng nhau uống một cách rất thân tình. Người chết cách đó một trăm mét.
[1] Nhóm người ở Nam Ấn Độ và bắc Sri Lanka, bao gồm người Tamil, Telugu, Mã Lai và Kannada. (Mọi ghi chú của người dịch) [2] Tiếng Ấn, nghĩa là “làm nhanh đi”. . | |
| | | PVChuong Admin
Posts : 673 Join date : 25/04/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Thu Apr 09, 2020 10:23 am | |
| . Đồng bạc năm hào - Huangau Zhengshư (Nhật Bản)
Ông B là một trong các nhà tiểu thuyết nổi danh đưong thời. Một bài viết của ông tên là “Thần bảo hộ của tôi” không ngờ lại dẫn đến một vụ án khủng khiếp.
Bây giờ, trước hết xin giới thiệu một chút về nội dung bài viết đó. Đó là đêm lạnh lẽo của mấy năm trước, ông B có chút việc phải lên phố. Nhìn thấy có người xem tướng tay, ông ta bước tới. Theo lời chỉ dẫn của người xem tướng, ông rút bao tay và xoè bàn tay trái ra. Người xem tướng tay ngạc nhiên nhìn bàn tay ông ta hồi lâu, sau đó nói một thôi một hồi, thao thao bất tuyệt. Cuối cùng, ông B rút ra một Yên. Người xem tướng đưa trả lại đồng bạc 5 hào mà mắt cứ lơ láo đảo quanh, ý tư như muốn bảo ông B hãy rời xa nơi đó cho nhanh thì hơn! Khi đó ông B đeo khẩu trang, cổ áo khoác dựng đứng lên, người xem tướng chắc chắn không nhìn rõ mặt của ông. Chắc là vì thế mà đưa nhầm đồng bạc đó cho ông. Nguyên nhân dẫn tới sự lầm lẫn này là bàn tay trái của ông B có thiếu ngón tay út. Người xem tướng, vào buổi tối hôm đó, có thể đang chờ để trao đổi đồng bạc 5 hào đó cho người nào đó cũng bị thiếu ngón tay út ở bàn tay trái chăng? Ông B cảm thấy sự tình có chút gì uẩn khúc, khi về tới nhà bèn xem kĩ đồng bạc 5 hào cảm thấy nó nhẹ một chút và tiếng kêu cũng không được bình thường. Ông ta ném đồng tiền xuống đất thì thấy đồng tiền bật nắp ra. Ở phần lõm của đồng tiền có găm mảnh giấy nhỏ, có viết những hàng chữ số latinh. Ông B xem ngang, xem dọc, đoán rằng, những chữ số đó là mật mã. Ông chắc rằng sẽ có một ngày nào đó cần dùng tới đồng tiền này nên cẩn thận cất đi. Người Nhật Bản có tập tục mê tín là kẻ trộm mà lấy đồ vật ai đó bỏ quên thì tức là họ gặp được vận may. Thế là ông B, xem đồng bạc như “thần bảo hộ” vậy, giấu đi. Ở Nhật Bản thần bảo hộ là thần may mắn, hạnh phúc. Chính vì thế, ông B đã đem cuộc gặp kì lạ của mình viết tất cả ra, dưới đề bài là “Thần bảo hộ của tôi” (chỉ có lược đi những con số cụ thể ghi trên tờ giấy để chỉ mật mã), đăng trên tờ tạp chí “Bắc cực quang”.
Tạp chí xuất bản được một tuần thì có một người khách lạ tới thăm ông B, tự xưng là S, biên tập viên tiểu thuyết của tạp chí nọ, tới mời viết bài cho tạp chí. Ông B có quan hệ thân thiết với tờ tạp chí mà S nói, biết ngay S là kẻ giả danh, nhưng lờ đi như không biết chỉ từ chối nói khéo là đang quá bận, chưa thể có bài ngay. - Thôi cũng được, - S nói nghe rất hợp tình, hợp lí - gần đây ngài viết bài đăng trên tạp chí “Bắc cực quang”, tôi đọc cảm thấy tuyệt quá, cho nên tới đặt vài ngài viết cho tạp chí chúng tôi, Giờ ngài đang bận thì về sau ngài nhất viết cho chúng tôi. Ha haha… Trong bài viết có nói tới đồng bạc. Đó là thật, hay là hư cấu? - Đương nhiên là thật - Ông B nói rồi, lấy đồng bạc 5 hào từ trong ngăn kéo ra: - Tôi viết là về đồng bạc này! - Đồng bạc này quả nhiên là không giống như các đồng bạc khác. Có thể cho tôi xem một chút được không? - Được! Ông B đưa đồng bạc cho anh ta, nói tiếp: - Ngửa mặt đồng bạc lên, cậy sang bên phải là có thể mở nắp ra. - Ủa! Đồng bạc này tuy là đồ giả mà chế tạo tinh xảo quá, vượt rất xa giá trị của bản thân nó! - S mở đồng bạc ra, nói - Tờ giấy ở bên trong có viết mật mã hay không? Tôi có học qua chút kiến thức về mật mã, có cần giúp ngài dịch ra không? Chưa chừng tôi có thể phát hiện ra thứ gì có giá trị đấy! - Không! - Ông B thu đồng bạc lại, thuận tay cất luôn vào ngăn kéo bàn sách: - Đó là mật mã, chẳng ai nhìn thấy. Có thể phiên dịch ra cũng tốt, nhưng chỉ sợ sau đó gây phiền phức cho người khác, tệ hơn là tạo nên chuyện gì không hay! - Đúng! Đúng! Ngài nói rất đúng! - S luôn mồm xin lỗi - Tôi vô duyên quá, xin lỗi Ngài! - Không có gì! Không sao! Hai người sau đó còn trò chuyện lan man một lúc rồi S chào cáo từ, ra đi.
Lúc đó, bé A vẫn ngồi yên theo dõi cuộc nói chuyện, mới hỏi: - Thưa chú, xét cho cùng thì người này tới đây làm gì? Phải chăng là tới xem đồng bạc chứ đặt bài chỉ là mượn cớ thôi! Ông B mỉm cười nói: - Chú cũng nghĩ thế. Cháu có chú ý không đấy? Anh ta đi bao tay suốt. Điều đó có ý nghĩa gì nào, cháu có nghĩ ra không? - Đó là… - Bé A ôm lấy đầu, suy nghĩ rất lung, rồi bỗng vui mừng như Christop Columb tìm ra lục địa mới, nói - Lẽ nào anh ta cũng khuyết ngón tay út bàn tay trái? - Đúng! Đúng thế! Chủ nhân của đồng bạc này phải là chính anh ta! - Thế thì chú cháu ta nên làm gì? Có cần báo cho cảnh sát? - Bé A lộ rõ vẻ căng thẳng. - Không cần! - Ông B nói rất khẽ khàng - Chú là nhà viết tiểu thuyết trinh thám, lẽ nào không được như những cảnh sát còn ít kinh nghiệm sao? Chú viết bài viết là cốt “dẫn rắn bò ra khỏi hang”, Chú cháu ta chuẩn bị một chút đi. Trong vòng mấy ngày, vào ban đêm, tên S hoặc ai đó nhất định sẽ tới ăn trộm đồng bạc ở nhà chúng ta!
Ông B đã đoán như thần. Ngay trong đêm đó, tên S không nán đợi được, đã hành động ngay. Đương nhiên chú cháu nhà đó chẳng hề làm gì để tên trộm kinh sợ. Họ chỉ nấp trong bóng tối mà quan sát. Tên S. dò dẫm tới ngăn kéo bàn viết, mò mò tìm đồng bạc, hắn kiểm tra lại một lượt rồi bỏ đồng bạc vào túi, sau đó theo đường đã vào mà rút lui. Khi hắn từ nóc nhà nhảy xuống, đứng chưa vững, thì một bóng đen xông ra từ phòng bên trái nhằm hắn xỉa luôn một nhát dao. - A! Một tiếng rú hãi hùng rú lên. Đầu tên S bị cắt phăng, như không xương! Bóng đen, nhanh như con khỉ, soát xét lấy gì trên người tên S, rồi chạy biến đi mất, như làn khói! Ông B nhìn thấy có án mạng, lúc đó mới gọi điện thoại báo cảnh sát. Cảnh sát trưởng Đ. tới. Ông B đem chuyện xảy ra giới thiệu khái quát những điều chính: - Những điều đó tất thảy do tôi mà dẫn đến. Do đó tôi có nghĩa vụ, không thể chối từ là giúp các ông phá án. Có điều, hiện giờ chưa thể để ầm ĩ lên, nếu không, kế hoạch của tôi trở thành công cốc mất! Phá án là việc của cảnh sát mà một nhà viết tiểu thuyết lại thò gậy vào, lại nhận kẻ đứng ra làm chủ sự việc, điều này làm cho cảnh sát trưởng Đ không vui vẻ gì. Song, trước sự việc xảy ra, cảnh sát trường cũng bằng lòng theo yêu cầu của ông B.
Thế là, mọi việc tiến hành theo cách sắp xếp của ông B. Ngày hôm sau, các báo ở địa phương đều đăng mẩu tin thế này: “Tối hôm qua, một người đàn ông lạ mặt bị sát hại ở gần nhà của nhà viết tiểu thuyết B. Vụ án chưa rõ manh mối, khiến cảnh sát đau đầu!”. Mẩu tin đó là để mê hoặc hung thủ, nếu không hắn ta sẽ dừng ngay hoạt động. Tiếp đó lại cần biết rõ về thân phận kẻ bị giết. Hắn ta chẳng phải là S, mà là T, em trai của tên chuyên cướp đá quí, tên là H. Tên H đã bị bắt, rồi ốm chết trong tù. Trước khi bị bắt, hắn đã thuê nhà của người xem tướng tay. - Đúng! - Ông B phân tích - Trước khi tên H bị bắt, hắn nôn nóng muốn nói với đứa em việc gì nên viết mật mã, giấu vào đồng bạc được chế tạo đặc biệt, nhờ người xem tướng tay chuyển cho em hắn. - Thế tên H muốn bảo tên T điều gì? - Bé A hỏi - Nó nói cho em hắn biết đá quí để ở đâu! - Ông B nói. - Chú ơi, bây giờ chúng ta làm gì? - Bé A hỏi. - Chúng ta cần tới Sở cảnh sát điều tra xem trong những năm gần đây có nhà ai bị cướp mất châu ngọc quí giá mà tới nay chưa phá được án - Ông B nói.
Vừa lúc đó có một cô gái, tên là L, đi tới nhà họ. Cô L năm nay mới 18 tuổi, gia đình vốn phong lưu, sung túc, song những năm gần đây lại trở nên nghèo túng. Nhà cô ở gần đấy, và cô là người đọc nhiệt tình các tiểu thuyết của ông B, vẫn thường tới thăm ông. Có điểu hôm nay nhìn thần sắc cô có vẻ không bình thường. - Làm sao vậy, cô L? - Ông B hỏi - Hôm nay cô không được khoẻ sao? - Không ạ. Cháu chỉ muốn được bác giúp cho một lời khuyên. - Có chuyện gì xảy ra vậy? Cô đừng vội, cứ từ từ kể nhé! Cô L dần dần bình tĩnh, kể: - Là thế này ạ. Hôm qua có một ông già tới hỏi nhà cháu có bán chiếc tủ lớn đựng quần áo hay không. Nếu có bán thì ông ta xin mua. Cháu thấy ông ta là lạ thế nào, không để ý tới ông ta. Ông ta nấn ná mãi hàng giờ, trước lúc ra đi còn nói ngày mai lại tới. Thật đáng sợ quá! - Người đó hình dạng thế nào? - Ông B hỏi. - Ông ta quãng 60 tuổi, cháu có lẽ đã nhìn thấy ở đâu rồi mà chưa nghĩ ra. Cô L nói. Ông B trầm tư suy nghĩ một lúc, nói: - Là ông lão xem tướng tay chăng? - Có lẽ thế - Cô L trả lời - Hừm! Đúng rồi! - Bỗng ông B hỏi to - Cô L, nhà cô đã bao giờ bị mất đồ vật thuộc loại đá quí chưa? - Có mất rồi ạ - Cô L tỏ vẻ ngạc nhiên, hỏi - Thưa bác, làm sao bác biết? Đó là việc xảy ra 8 năm trước đây. Buổi tối một ngày, cha cháu chiêu đãi rất đông khách, tổ chức cả vũ hội. Trong vũ hội, chiếc ghim kim cương, đeo trước ngực mẹ cháu không cánh mà bay mất. Mọi người đều ái ngại, song cho tới lúc tan hội, vẫn chẳng tìm thấy chiếc ghim quí đó. Mẹ cháu thường nói là nếu có nó, sinh hoạt của gia đình cháu nhất định sẽ sung túc rất nhiều. Nghe cô L kể, ông B mừng lắm, nói: - Ha ha…! Xem ra cá đã cắn câu! Rồi ông dặn dò cô L phải làm những gì, những gì. - Cám ơn bác! - Cô L vui mừng ra về. Sau đó, ông B gọi điên thoại cho cảnh sát trường Đ yêu cầu chuẩn bị tốt để bắt hung thủ.
Ngày hôm sau, ông già hỏi mua tủ đựng quần áo lại tới nhà cô L, quấn lấy cô ta. Do đã được ông B dặn dò từ trước cách ứng xử, cô L hết sức chối từ, nói rằng dù có nghèo đến mấy cũng không bán tủ. Ông già vừa đi khỏi, cô L vội vàng tìm ông B. Vừa rồi, ông B nấp ở nơi gần nhà cô L, đã nhận ra ông già đích thực là người xem tướng tay đã đưa nhầm cho ông đồng bạc 5 hào đó. Cho nên ông B nói với cô L: - Cô L, nói không chừng đêm nay ông già đó sẽ tới nhà cô ăn trộm đấy! - Thật sao? Thế thì phải làm thế nào ạ? - Cô L rất hoang mang. - Chẳng phải việc làm cô lo lắng. Tôi đã sắp đặt xong cả rồi. Chỉ cần gia đình cô tắt đèn sớm một chút, bình tĩnh đi ngủ là được. Nhưng gia đình đừng ngủ, chẳng hề gì, chớ có làm cho kẻ trộm sợ mà chạy mất. Hiểu chưa nào? - Vâng! - Cô L gật đầu. Sự việc xảy ra đúng như dự đoán của ông B mà tiến triển. Vào lúc khuya khoắt hôm đó, có một bóng đen mò vào nhà cô L. Bóng đen trấn tĩnh một lát, quan sát xung quanh, sau đó bật đèn pin tiến tới bên chiếc tủ to đựng quần áo. Bóng đen kéo ngăn kéo tủ ra thì cảnh sát trưởng Đ từ chỗ tối phía sau nhảy ra, đánh ngã ngửa bóng đen ra, nhanh chóng còng tay hắn. Khi đó, cô L lập tức bật công tắc đèn điện, làm căn phòng sáng trưng lên. - Hắn ta là ai? Hắn lại ăn trộm cái gì? - Cảnh sát trưởng Đ chưa hiểu chân tướng sự thật ra sao, cảm thấy kì lạ hỏi. - Hắn là người xem tướng tay - Ông B giải thích - Hắn ta tới để lấy chiếc ghim gắn kim cương! Rồi ông B cười, bảo người xem tướng tay: - Thưa ngài, lâu lắm không gặp, ngài quên tôi rồi sao? Có phải ông đã nhầm xem tôi là tên T, nên giao cho tối đồng bạc 5 hào, phải không nào? Người xem tướng tay đó “a” lên một tiếng, căm hờn nhìn ông B, nghiến răng kèn kẹt, không nói năng gì. - Ôi! Mi chính là người cho tên H. thuê nhà à? - Cảnh sát trưởng Đ cũng đã nhận ra hết sức ngạc nhiên. - Thế là người giết tên T, em của tên H cũng chính là hắn ta! Soát túi áo của hắn có thể lấy đồng bạc 5 hào ấy! - Ông B nói. Cảnh sát trưởng Đ, quả nhiên soát thấy trong túi áo tên đó có đồng bạc 5 hào đặc biệt.
Lúc này người xem tướng tay chỉ còn cách cung khai thật. Hắn vốn chỉ là người đưa truyền tin cho anh em tên T và tên H. Về sau lòng tham lam của hắn không kìm lại được bèn giết chết tên T, mong một mình nuốt lấy chiếc ghim kim cương quí giá. - Cô L sao còn đứng như thế? Mau đi lấy chiếc ghim kim cương đi thôi nào. Ông B nói to - Kim bị kẻ trộm ăn trộm 8 năm trước đây vẫn còn trong nhà này. Nó đã giấu ở trong chân bên phải của chiếc đàn dương cầm! - Thật sao? - Cô L quì xuống chỗ chân bên phải chiếc đàn dương cầm, sờ sờ đoá hoa khắc trên chân đàn, bống thấy cánh hoa rung rung, dùng tay khẽ đỡ ra thì thấy một miếng gỗ rời ra. Cô ta lấy được một vật nhỏ từ trong hốc ấy. Đó chính là một chiếc ghim nạm kim cương, toả sáng long lanh, thật thích mắt. Vốn là khi tên H ăn trộm được rồi, sợ lụy thân lúc bị lục soát, nên giấu ở đó, đợi sau này tìm dịp tới cướp mang đi. Không ngờ chưa kịp hành động thì tên H bị bắt. Cô L vui mừng đưa chiếc ghim kim cương cho mọi người xem, nước mắt vui mừng rơi lã chã.
Người xem tướng tay thấy lạ lùng lắm, nói bô bô: - Lẽ nào tôi phiên dịch mật mã sai? - Đâu có sai! - Ông B trả lời, cười hà hà - Thưa ngài xem tướng, ngài chỉ mắc lừa tôi một tí thôi! ha ha…! Để tôi nói thật cho ngài biết nhé! Cái đêm hôm tên T tới ăn trộm thì đúng là đồng bạc 5 hào ở đó thật, nhưng tờ mật mã thì tôi đã tráo thay từ sớm rồi. Kỳ thực là tôi đã giải mật mã đó từ năm xưa rồi. Thế nhưng chỉ biết chiếc kim cương giấu ở chân đàn thì có tác dụng gì, còn phải biết là đàn của nhà ai nữa chứ! Tôi nghĩ rằng chỉ có chủ nhân của chiếc đồng bạc là biết điều đó nên mới nghĩ ra cách viết ra bài viết này, và nhấn mạnh rằng câu chuyện không hề hư cấu, để dẫn dụ tên cướp tới nhà mình mà bắt, từ đó tìm ra chiếc đàn đó. Thật cám ơn ngài đã chỉ đường vẽ lối cho tôi và làm cho gia đình cô L trở lại sống sung túc. Về điểm này mà nói thì ngài là kẻ có công lao thật to tát đó… - Chú ơi, thế mật mã giả thì chú viết thế nào ạ! - Bé A hỏi chen vài. - Viết thế này: “Kim cương để ở khe ngăn kéo bên phải của chiếc tủ to đựng quần sao”- Ông B nói vẻ đắc ý - Tôi nghĩ, nhà nào có đàn dương cầm thì nhất định có tủ quần áo nên viết liều câu đó. Đâu ngờ ngài xem tướng lại cho là thật! Ha ha! Sau đó ông B lại nói với cô L: - Cô gái! Cô chẳng mất công không khi đọc nhiệt tâm các tiểu thuyết của tôi, phải không nào? Bác xin đền đáp cháu bằng chiếc ghim kim cương đó nhé! ha ha…! Nhân gian là bao la, nhưng mà cũng lại là rất nhỏ hẹp! 8 năm rồi tôi tìm chiếc dương cầm, đâu ngờ lại ở chính nhà của cháu! - Bác ơi, cháu làm sao tạ ơn bác được đây! Nói xong cô L chạy tới ôm lấy ông B cảm ơn rối rít.
Khi cảnh sát trưởng Đ dẫn người xem tướng đi, ông B bỗng nhớ ra điều gì, vội nói: - Vị cảnh sát trưởng, còn đồng bạc 5 hào, xin đưa lại cho tôi. - Còn dùng nó để làm gì vậy? - Cảnh sát trưởng ngạc nhiên, nói. - Nó có thể làm “thần bảo hộ” cho tôi mà! - Ông B vui tươi, nói - Tôi muốn mãi giữ nó! . | |
| | | NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro Sat Aug 01, 2020 10:56 pm | |
| . NHẠC KHÚC RẮN THẦN - R. K. Narayan
R. K. Narayan là một trong số những nhà văn nổi tiếng trên thế giới hiện nay. Ông chuyên viết tiểu thuyết, sở trường về loại truyện ngắn diễn tả phong tục và tập quán nước Ấn. Văn phẩm của ông được độc giả trong nước hoan nghênh và được phổ biến khắp thế giới. Tác phẩm đắc ý nhất của ông gồm có: Nhạc khúc rắn thần, Triều đình, Hành khất… “Nhạc khúc rắn thần” là một truyện ngắn thể hiện rõ rệt dân tộc tính với lối kể chuyện thật hồn nhiên, hấp dẫn. Tác giả khéo léo đưa ta đi vào thế giới huyền bí của xứ Ấn Độ cổ kính đầy những huyền thoại kỳ bí, từ người đến thú vật, từ nghệ sĩ đến Thần linh. Văn ông thật giản dị nhưng có sức lôi cuốn mãnh liệt. Nhiều nhà phê bình cho ông thành công một phần lớn là nhờ không khí thần kỳ của Đông Phương huyền bí được cô đọng trong lối thuật sự linh động, có hồn. Có thể nói truyện ngắn nầy đã gói trọn những bản sắc tân kỳ của R. K. Narayan.
***
Rời khỏi phòng hòa nhạc, chúng tôi có cảm tưởng bầu không khí nơi đây thật thích hợp với nghệ thuật và buổi trình diễn hôm nay rất hấp dẫn, hợp với cảm quan của giới thưởng thức văn nghệ.
Trong lúc chúng tôi còn vấn vương vì những cảm nghĩ trên thì mọi người bỗng chú ý đến một gã đàn ông đang tía lia phẩm bình, bất chấp cả bao người chung quanh. Trông gã xơ xác chẳng khác nào một người vừa thoát khỏi lao tù. Vậy mà miệng gã cứ liên tiếp phát thanh. Tôi bực mình nói: - Chắc tôn ông là một bậc vĩ nhân của âm nhạc? Chắc tôn ông cho rằng nền cổ nhạc miền Nam Ấn Độ đã cáo chung? Tôn ông hẳn quen biết nhiều nghệ sĩ và giới sáng tác? Hay là tôn ông chỉ ham lý luận viển vông mà không hiểu tí gì về nhạc lý và không thể nào phân tách được chính xác nghệ thuật một bản nhạc? Gã đàn ông thẳng thắn trả lời: - Tôi tuy mộc mạc, chất phác, song cũng hiểu ông muốn ám chỉ gì. Quả thật tôi cũng hiểu chút ít về âm nhạc, nhưng sự hiểu biết của tôi thật là ấu trĩ, kém xa tất cả mọi người ở đây. Chính tôi lấy làm hổ thẹn, ghê tởm cái kiến thức thô thiển của mình.Chúng tôi không muốn cãi lý với anh ta làm gì, nên với vẻ lạnh nhạt, chúng tôi chuyển sang chuyện khác và chỉ nói riêng với nhau. Nhưng gã vẫn đi cạnh chúng tôi, miệng vẫn không ngớt lải nhải. Chúng tôi rốt cuộc phải nghe từ đầu đến cuối câu chuyện hắn kể: - Có lẽ, các ông cho tôi chỉ là một người bán phân hơn là một nghệ sĩ? Tôi thú thật rằng, đã có lúc, tôi có hoài bão trở thành một nhạc sĩ tài danh lỗi lạc. Tôi gần đạt được ước vọng đó, nếu không có một chuyện bất ngờ kỳ dị xảy ra. Ngày xưa, tôi sống ở một làng quê hẻo lánh. Trong làng có một nhạc sĩ thổi tiêu rất tài tình. Mỗi lần ông thổi tiêu mục súc lũ lượt kéo tới quanh ông để nghe nhạc. Lúc đó tôi cho ông là một nhạc sĩ tài hoa nhất thế giới. Vậy mà ông ta cam phận sống âm thầm trong bóng tối, không khoe khoang tài nghệ, không cần ai biết tới nghệ thuật tuyệt kỹ của mình. Ông chỉ sống ẩn dật trong đền thờ, tấu nhạc cho Thần linh nghe. Người trong làng xem ông tầm thường như bao nhiêu nhạc công tầm thường khác. Riêng tôi, tôi lấy làm khâm phục ông ta. Tôi tha thiết xin ông dạy cho tôi nghệ thuật thổi tiêu, đáp lại tôi sẽ tình nguyện làm giúp ông tất cả mọi việc trong nhà như thư ký, giặt ủi, quét nhà… Ông bằng lòng, nhưng chỉ lúc nào cao hứng, ông mới chỉ dạy cho tôi chút ít. Tuy vậy, tôi thâu nhận rất nhiều, vì một giờ ông dạy bằng một năm đối với các nhạc sư khác. Nghệ thuật của ông lạ lùng mà phương pháp dạy của ông cũng lạ lùng không kém. Sau ba năm trời gắng công học tập, tôi cảm thấy tiến bộ rất nhiều. Thấy tôi cũng nhận thức điều đó, nên có lần ông vui vẻ bảo: “Nếu anh khổ công rèn luyện, có lẽ chỉ một năm nữa anh có thể ra kinh thành trình diễn trước công chúng”. Nghe lời thầy nói, tôi càng gắng sức trau dồi nghệ thuật, vì tôi không thích sống mãi nơi cô tịch, kéo lê cuộc đời tối tăm nầy nữa. Tôi muốn bước ra ngoài ánh sáng. Tôi muốn danh tôi sẽ nổi như cồn. Tôi muốn nhờ nấc thang nghệ thuật mà trở nên giàu sang tột đỉnh. Có lần tôi mộng thấy tôi đến một kinh thành lớn, trình diễn ở một đại nhạc hội và được thính giả hoan nghênh nhiệt liệt. Tên tôi vang dội khắp bốn phương. Tôi chỉ sử dụng một ống tiêu tre nhỏ bé, nhưng nó có ma thuật huyền bí giúp tôi bước vào một thế giới mới lạ đầy quyến rũ.
Tôi sống trong một túp lều tranh giản dị và có thói quen rèn luyện nghệ thuật vào đêm khuya thanh vắng. Một đêm kia, tôi đang mê say luyện nhạc, bỗng có tiếng gõ cửa bên ngoài. Tôi cau có hỏi: - Ai đó? - Một hành khất đến xin ăn. - Xin ăn vào giờ nầy? Đi đi, đừng quấy rầy. - Người đói không phân biệt được thì giờ. - Cút đi! Tôi không có gì để bố thí. Tôi còn phải sống nhờ vào thầy tôi. - Nếu ông không có gì để bố thí, ông cũng nên an ủi hơn là nặng lời xua đuổi. Tôi thét to: - Đi đi! Tôi ra đóng cửa, rồi bắt đầu thổi lại bản nhạc dở dang. Một lát sau, lại có tiếng gõ cửa. Tôi tức giận: - Thật anh không biết điều! Sao anh cứ quấy rầy tôi mãi? - Anh thổi tiêu não nùng quá! Tôi muốn vào nghe một lúc. Anh không cho tôi thức ăn, thì xin cho tôi vào nghe nhạc. Tôi không thích ai đến phá rầy trong khi tôi luyện nhạc, nên lời yêu cầu của anh ta càng làm cho tôi thêm tức giận. Tôi nói to: - Anh đi ngay. Nếu không, tôi sẽ tống cổ anh. Tiếng nói từ bên ngoài vọng vào như một lời nguyền rủa: - Được rồi, anh khỏi cần đuổi. Tôi đi đây. Nhưng anh hãy nhớ đây là lần cuối cùng anh được làm bạn với ống tiêu kia. Dứt lời, anh ta bỏ đi.
Tôi nghe tiếng guốc xa dần. Tôi thở dài nhẹ nhõm và lại tiếp tục nhạc khúc dở dang. Nhưng tâm hồn tôi bỗng nhiên rối loạn. Tôi cứ vấn vương mãi lời từ giã của gã hành khất. Lời gã có ý nghĩa gì? Không yên tâm, tôi với tay lấy ngọn đèn treo trên tường rồi lần bước ra ngoài. Đường phố tối tăm vắng vẻ. Tôi hy vọng gã hành khất trở lại nhưng gã đã biệt tăm. Tôi trở vào. Tôi đứng trước tượng Thần, cầu xin người giải thoát tôi khỏi lời nguyền rủa của gã hành khất vô danh. Rồi tôi nâng tiêu lên môi, hồn lâng lâng theo tiếng nhạc. Âm thanh trầm bổng vang lên như ru hồn tôi trong sóng nhạc. Tôi cảm thấy mình như bay bổng lên không trung, hòa mình với các đấng thần linh. Rồi vô tình, tôi thổi bản “Nhạc khúc rắn thần” lúc nào tôi không hay. Qua âm thanh kỳ diệu mơ màng tưởng tượng một con rắn thần oai vệ với những túi nọc độc to tướng, con rắn được thần Bạt-va-Thi quấn quanh mình, thần Vít-Nu gối trên đầu và thần Xu-Ra-Ma-Na thường ngày làm bạn. Tất cả huyền thoại lạ lùng về thần rắn đang tập trung lại để ám ảnh tôi. Ngay lúc đó, một con rắn đen hiện ra giữa cửa. Đầu nó ngẩng lên, cái mào dựng ngược. Tôi sợ hãi, lấy tay dụi mắt, không biết là thật hay mơ? Tôi thấy mình vẫn tỉnh táo. Rõ ràng là một con rắn thật đang nghe tôi tấu nhạc. Tôi ngưng thổi tiêu, mắt đăm đăm nhìn con rắn, lòng hồi hộp khôn tả. Con rắn từ từ bò về phía tôi, thân mình nó dài và đen. Tôi vô cùng khủng khiếp. Nhưng trong cơn hốt hoảng, bản năng tự vệ như thôi thúc tôi: “Cứ tiếp tục thổi tiêu đi. Ngừng lại là nguy đó!”. Và như cái máy, tôi lật đật đưa nhạc khí lên môi, tấu lên một nhạc điệu âm u huyền bí. Con rắn ngẩng cao đầu lên, giương mắt nhìn tôi, lắng nghe tiếng nhạc chơi vơi… Miệng tôi thổi nhưng mắt tôi không rời con rắn. Trông nó thật trang nghiêm xứng đáng với quyền uy Thần rắn. Tôi vừa kinh hoàng vừa sùng bái. Bản nhạc đó tôi thổi đi thổi lại đến ba lần. Dứt lần thứ ba, tôi thổi sang một bản khác. Không dè tôi vừa đổi nhạc, con rắn rít lên một tiếng giận dữ và trườn mình đến gần tôi. Tôi vội vàng thổi lại “Nhạc khúc rắn thần”. Con rắn lại nằm im thưởng thức. Đã mấy lần tôi thử thay đổi nhạc khúc, con rắn càng tỏ vẻ giận dữ, toan phóng đến để hành hung tôi. Thế là tôi lại phải tiếp tục thổi bản nhạc ấy suốt đêm, đến nỗi cổ tôi khô cứng, má tôi rã rời, đầu tôi choáng váng mà vẫn không dám rời ống tiêu ra. Tôi cảm thấy không thể chịu đựng được nữa. Chỉ vài phút nữa thôi, tôi sẽ ngã lăn ra chết. Dầu sao, tôi muốn nuôi một chút hy vọng sinh tồn. Và, không nghĩ ngợi gì thêm, tôi liệng ống tiêu xuống đất, sụp xuống lạy con rắn với lời cầu khẩn cuối cùng: - Thần rắn linh thiêng! Ngài có thể giết tôi tùy thích, nhưng tôi không thể tấu nhạc cho ngài thưởng thức được nữa. Tôi đã đuối quá rồi…
* * * Khi tôi tỉnh dậy thì trời vừa sáng. Con rắn đã bỏ đi đâu mất. Cái ống tiêu nằm bên vách. Bấy giờ tôi mới biết rằng mình còn sống. Tôi vội đi tìm thầy tôi, thuật lại câu chuyện rùng rợn đêm qua. Thầy tôi lặng im nghe, vẻ mặt thật là trang trọng. Khi tôi kể xong, thầy tôi nghiêm trọng nói: - May lắm anh mới thoát chết đó. Anh há không biết không nhạc sĩ nào dám tấu bản nhạc ấy vào ban đêm sao? Bây giờ nếu anh còn thổi tiêu nữa, chắc chắn con rắn ấy sẽ trở lại kiếm anh ngay. Anh còn muốn thổi tiêu nữa hay không? Tôi sợ hãi đáp nhanh: - Không, nghìn lần không. Kỷ niệm đêm ấy cứ đeo đuổi theo tôi để ám ảnh tôi mãi. Tôi phải từ giã âm nhạc. Tôi phải liệng ống tiêu đi vì tôi không thể chơi với một con rắn. Tôi đã khóc. Thầy tôi thương hại, an ủi: — Nếu anh luyến tiếc âm nhạc thì chỉ còn một cách. Anh hãy tìm người hành khất đêm đó, cầu xin anh ta tha thứ cho anh.
Từ đó, tôi lên đường tìm người hành khất vô danh. Tôi đã đi nhiều nơi. Tôi sẽ còn đi khắp nơi để tìm cho được con người kỳ bí ấy. Và ngay đêm nay, nếu gặp được anh ta, tôi sẽ không ngại gì quỳ dưới chân anh, cầu xin anh ta tha thứ để tôi có thể nối lại mối duyên với âm nhạc.. | |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro | |
| |
| | | | Tập Truyện Ngắn Thế Giới - Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro | |
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |