March 2024 | Mon | Tue | Wed | Thu | Fri | Sat | Sun |
---|
| | | | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | Calendar |
|
| | Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật lại cúi đầu kính trọng tướng Mỹ? | |
| | Tác giả | Thông điệp |
---|
Yen Van Khách viếng thăm
| Tiêu đề: Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật lại cúi đầu kính trọng tướng Mỹ? Thu Dec 10, 2015 8:56 pm | |
| Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật lại cúi đầu kính trọng tướng Mỹ?MacArthur, vị danh tướng của Mỹ, là người chỉ huy quân đội tiến đánh Nhật Bản trong thế chiến thứ II.
Tuy nhiên, khi ông rời khỏi đất nước này, người dân không hề căm ghét mà ngược lại đều tỏ lòng biết ơn bởi những việc làm của ông.
Chân dung Thống tướng Douglas MacArthur. Ảnh: Internet
Năm 1942 tướng MacArthur dẫn đại quân tấn công Nhật Bản, từ Melbourne xa xôi đánh thẳng đến Tokyo, hai tay nhuộm máu người Nhật Bản. Vì thế vô số người Nhật đều hận ông thấu xương.Chiều ngày 30/8/1945, tướng quân MacArthur ra khỏi máy bay và đặt chân lên đất Nhật, cho dù ông không mặc quân phục và không mang theo vũ khí gì, cũng không có người tổ chức duyệt binh, nhưng thời khắc đó với 70 triệu người Nhật Bản là thời khắc kinh hoàng mà họ không thể quên, trong tâm trí mọi người chỉ còn nghĩ được hai chữ “mất nước”.
Nhưng tướng MacArthur mang quân đến hòa bình, chính nghĩa, khoan dung và dân chủ
Nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh rơi vào suy sụp, đến bữa trưa của Nghị viên Quốc hội cũng phải ăn cơm trộn khoai lang, cái đói bao phủ khắp nơi. Lúc này tướng MacArthur gây áp lực khiến chính phủ Mỹ phải hỗ trợ Nhật Bản, thế là 3,5 triệu tấn lương thực và 2 tỷ Mỹ kim tức tốc được gửi đến Nhật. Ông không chỉ giữ lại chính quyền Nhật Bản mà còn đặc xá cho Thiên hoàng, thậm chí còn quan tâm đến số phận của từng người lính bình thường của Nhật Bản, giúp họ tìm con đường sống.Tướng MacArthur tiếp nhận quân Nhật đầu hàng (Ảnh: Internet)
Theo sau ông, 400 nghìn lính Mỹ đã dùng thiện ý và tinh thần hy sinh để chinh phục người Nhật Bản. Khi đó các con hẻm trong thành phố của Nhật rất chật hẹp, một người Nhật bình thường và một người lính Mỹ to lớn nếu gặp nhau cũng khó để đi qua, vì thế thường thì người lính Mỹ sẽ nép vào một bên cho người Nhật đi trước. Người Nhật không thể không băn khoăn tự hỏi, nếu mình là kẻ chiến thắng thì có làm được như thế không?
Sau khi tướng MacArthur đến Nhật Bản, ông lập tức ra lệnh thả tội phạm chính trị, trong đó có rất nhiều Đảng viên Cộng sản, bị chính phủ Nhật bắt giam trong thời gian dài.Ngày 25/8/1945, quân chiếm đóng của Mỹ cho phép phụ nữ Nhật thiết lập tổ chức của mình; tháng 9 cho công bố Dự luật về vai trò trong bầu cử của phụ nữ Nhật Bản; đây là lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, phụ nữ được quyền bầu cử và ứng cử.Lúc này tại Tokyo có cô kỹ nữ được chọn làm Nghị viên thành phố, nhiều thị dân cảm thấy khó chấp nhận. Nhưng tướng MacArthur nói, mọi người chọn cô ấy để cô ấy phục vụ mọi người, đừng vì cô ấy là kỹ nữ mà kỳ thị bỏ qua. Khi đó mọi người chợt hiểu người được chọn trong bầu cử dân chủ phải là người thay mặt để vì mình làm việc, thế là sau khi hiểu ý nghĩa vấn đề họ đã quyết định chọn bầu cô kỹ nữ kia. Kết quả sau khi trở thành Nghị viên, cô đã không phụ lòng mọi người, làm được rất nhiều việc có ý nghĩa.
Cột khói hình nấm khổng lồ bốc lên khi Mỹ thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản. Ảnh: Askman.com
Vào ngày 11/10/1945, tướng MacArthur tuyên bố bỏ lệnh cấm báo chí, Nhật Bản được tự do thông tin và tự do ngôn luận. Ngày 22/12/1945, ban hành “Luật Công hội”, giai cấp công nhân thực sự có tổ chức của mình. Ngày 1/9/1947, ban hành “Luật lao động”, quy định tiêu chuẩn tiền lương thấp nhất và thời gian làm việc nhiều nhất.
Ngày 3/2/1946, tướng MacArthur chỉ thị cho Tổng bộ Liên minh khởi thảo Hiến pháp Nhật Bản. Chính phủ Mỹ truyền đạt nguyên tắc chế định Hiến pháp cho tướng MacArthur là: Chính phủ Nhật Bản phải do toàn thể cử tri trao quyền và phải chịu trách nhiệm trước toàn thể cử tri. Ngày 3/5, quân liên minh giao ra Bản dự thảo Hiến pháp. Ngày 7/10, Quốc hội Nhật Bản thông qua Hiến pháp. Ngày 3/11, Thiên hoàng cho ban hành Tân Hiến pháp.Đây là Hiến pháp do kẻ chiếm lĩnh chiếu theo giá trị quan phương Tây áp đặt cho kẻ bị chiếm lĩnh, nhưng lại là bản Hiến pháp đem lại phúc lợi cho nhân dân quốc gia bị chiếm lĩnh. Bản Hiến pháp nhấn mạnh quyền lợi công dân cơ bản của người Nhật Bản, xem những quyền lợi này là “quyền lợi trời cho mà không ai có quyền tước đoạt”. Những quyền này bao gồm: quyền bầu cử, lập hội và tự do xuất bản; không có sự tham gia của luật sư thì không được định tội; bảo đảm quyền cư trú an toàn cho dân, cấm kiểm tra và tước đoạt vô cớ.Ngày 21/10/1946, Quốc hội đã thông qua “Luật Cải cách ruộng đất”. Chính phủ Nhật Bản mua lại đất đai dư thừa của giới địa chủ, sau đó bán đất lại cho nông dân không có ruộng. Với những nông dân không có tiền mua đất, chính phủ cho vay thế chấp. Tất cả diễn ra không đổ một giọt máu, một mạng người, những người nông dân ai nấy đều có được một phần đất cho mình.
Ngày 31/3/1947, ban hành “Luật Giáo dục”. Theo đó mục tiêu hàng đầu của giáo dục là “tôn trọng sự tôn nghiêm của cá nhân, bồi dưỡng cho mọi người có lòng nhiệt huyết vì chân lý và hòa bình”. Trường học của Nhật Bản không còn nằm trong kiểm soát của chính phủ mà là do Ủy ban Giáo dục do dân chúng bầu ra quản lý. Việc chọn lựa nhà giáo, sách học và bố trí chương trình hoàn toàn do người dân tự chủ quyết định.Năm 1952, quân chiếm đóng Mỹ trả chính quyền về cho chính phủ Nhật Bản. Sau 7 năm chiếm đóng, người Mỹ cải cách triệt để con đường phát triển của Nhật Bản, chủ quyền quốc gia từ trong tay kẻ chuyên chế trao lại cho người dân Nhật Bản, những tiền đề tiến bộ đầu tiên này giúp người Nhật bước vào con đường thênh thang.Quang cảnh sau khi xảy ra vụ ném bom nguyên tử, hầu như mọi thứ đều bị thổi bay. Ước tính 90% nhà cửa ở Hiroshima bị hủy diệt hoặc hư hại. (Ảnh: Internet)
Hơn 10 năm sau, Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới, quốc gia phồn vinh, nhân dân giàu có, xã hội ổn định. Có thể nói thêm một câu, quân chiếm đóng của Mỹ không chi một đồng tiền thuế nào của người dân Nhật Bản, chi phí của họ là lấy từ tiền thuế của người Mỹ.
Người Nhật tổ chức buổi lễ long trọng đưa tiễn tướng quân MacArthur
Trong thời gian chiếm đóng Nhật Bản, rất nhiều người Nhật đã viết thư gửi cho tướng MacArthur yêu cầu biếu tặng đất đai của họ. Nhiều phụ nữ can đảm viết thư đề nghị được hiến thân cho tướng MacArthur, nhiều người còn viết “xin hãy cho tôi được sinh con cho ngài.”Sáng ngày 16/4/1951, Tổng thống Harry Truman phế bỏ chức Tư lệnh quân chiếm đóng và buộc tướng MacArthur phải về nước, sự kiện này chỉ thông báo cho một số quan chức cấp cao người Nhật biết. Nhưng khi ông ngồi lên ô tô thì mới phát hiện, từ nơi dinh phủ ông ở đến Sân bay Atsugi có hàng triệu người Nhật Bản đứng hai bên đường đưa tiễn. Đoàn xe hộ tống đi qua những hàng nước mắt cùng tiếng hô vang dậy của người dân Nhật Bản: Đại nguyên soái!Người dân Tokyo đứng chật kín hai bên đường, ai nấy rơi nước mắt, họ như hoàn toàn quên chuyện tướng MacArthur là kẻ chiếm đóng đã đánh bại quân đội quốc gia mình. Thiên hoàng đích thân đến sứ quán đưa tiễn MacArthur, tướng MacArthur cũng xúc động rơi nước mắt, nắm chặt hai tay của Thiên hoàng Hirohito.Khi đưa tiễn, Thủ tướng Yoshida của Nhật nói: “Tướng quân MacArthur đã cứu chúng tôi ra khỏi nỗi sợ hãi, lo lắng và hỗn loạn của thất bại để đưa chúng tôi vào con đường mới do ông xây dựng, chính Ngài đã gieo trồng hạt giống dân chủ trên đất nước chúng tôi để chúng tôi bước trên con đường hòa bình, tình cảm ly biệt mà nhân dân chúng tôi dành cho Ngài không lời nào có thể diễn tả được.”Uy lực quả bom nguyên tử của Mỹ tàn phá thành phố và nền kinh tế của Nhật Bản, nhưng về phương diện tinh thần, nước Mỹ đã hoàn toàn chinh phục được người Nhật Bản.
|
| | | NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
| Tiêu đề: Re: Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật lại cúi đầu kính trọng tướng Mỹ? Wed Dec 23, 2015 9:45 am | |
|
Douglas MacArthur - Quân tử gặp Anh hùng
Trần Quốc Việt (Danlambao) - Lời người dịch: Douglas MacArthur có lẽ là vị tướng tài ba nhất và nổi tiếng nhất trong lịch sử Mỹ. Ông còn được mệnh danh là "Người hùng Thái Bình Dương" trong Thế chiến Thứ hai. Nhưng thành công sáng chói nhất và trường tồn theo thời gian của ông là chỉ trong vài năm ngắn ngủi ông đã tạo ra nền tảng tự do và dân chủ bền vững cho một nước Nhật bại trận, tuyệt vọng, đói rách, và hoàn toàn đổ nát. Chính từ nền tảng thể chế này, Nhật Bản - như chim phượng hoàng huyền thoại hồi sinh từ đống tro tàn - đã bay vút vào tương lai và ngày nay trở thành cường quốc dân chủ thịnh vượng.
Còn Nhật Hoàng Hirohito kêu gọi nhân dân Nhật hãy can đảm chấp nhận đầu hàng vô điều kiện để "mở đường cho tất cả những thế hệ tương lai bằng cách chịu đựng những gì không thể nào chịu đựng được và đau khổ những gì không thể nào đau khổ được... để theo kịp đà tiến bộ của thế giới." Lời kêu gọi của ông đã khích lệ rất lớn đến tinh thần và nỗ lực kiên trì tái kiến thiết lại đất nước của người Nhật trong hoàn cảnh nhục nhã nhất và tuyệt vọng nhất của họ sau khi bại trận.
Nhưng Douglas MacArthur đã đối xử với họ rất bao dung, độ lượng, trắc ẩn, và công bằng trong suốt thời gian ông nắm giữ quyền lực tối cao ở Nhật Bản. Ông nhận hàng trăm ngàn lá thư cảm ơn từ các tầng lớp người Nhật. Ngày ông rời Nhật Bản về nước, hàng trăm ngàn người già trẻ nam nữ xếp hàng dài dày dặc ở hai bên đường từ sáng sớm trên suốt hàng chục cây số để tiễn đưa ông lần cuối. Họ kêu to "Sayonara, Sayonara," hay giơ cao biểu ngữ ghi "Chúng tôi thương mến Tướng Quân MacArthur," và "Chúng tôi cảm ơn ông."
Hai người đã gặp nhau sau khi lực lượng đồng minh chiếm đóng dưới sự lãnh đạo của tướng Douglas MacArthur đến Nhật Bản vào tháng Chín, 1945 và buổi gặp nhau ban đầu của hai người mà tiêu biểu cho hai chiến tuyến thù nghịch mới ngày nào đã mở cánh cửa tương lai tươi sáng cho nhiều thế hệ người Nhật.
*
Chẳng bao lâu sau khi tôi đến Tokyo, những người trong bộ tham mưu của tôi thúc giục tôi triệu Nhật Hoàng đến tổng hành dinh của tôi để biểu lộ quyền lực. Tôi bỏ qua những lời đề nghị của họ. "Làm như thế," tôi giải thích, "sẽ xúc phạm đến tình cảm của nhân dân Nhật và biến Nhật Hoàng thành người tuẫn đạo trong mắt họ. Không, tôi sẽ đợi rồi từ từ Nhật Hoàng sẽ tự đến gặp tôi. Trong trường hợp này, sự kiên nhẫn của Phương Đông sẽ phục vụ tốt nhất mục đích của chúng ta hơn sự vội vàng của Phương Tây."
Quả nhiên chẳng bao lâu sau Nhật Hoàng yêu cầu cuộc hội kiến. Mặc áo ghi lê và quần kẻ sọc, đội mũ cao, đi trên chiếc Daimler với quan tổng thị vệ triều đình ngồi đối diện ở ghế phụ, Hirohito đến tòa đại sứ. Ngay từ đầu cuộc chiếm đóng, tôi đã chỉ thị không nên đối xử bất kính với ông. Phải dành cho ông tất cả những danh dự thích hợp với bậc quân vương. Tôi tiếp đón ông chân tình, và kể lại dịp tôi được cha ông đón tiếp vào lúc kết thúc cuộc chiến tranh Nga-Nhật. Nhật Hoàng trông hồi hộp và bao căng thẳng trong suốt mấy tháng qua hiện ra rõ ràng. Tôi yêu cầu tất cả mọi người đi ra ngoài chỉ ngoại trừ người thông dịch cho ông, và chúng tôi ngồi xuống trước lò sưởi ở cuối phòng tiếp khách dài. Tôi mời ông thuốc lá Mỹ, ông cầm lấy và cảm ơn. Khi tôi châm thuốc lá cho ông tôi nhận thấy hai tay ông run. Tôi gắng hết sức mình để tạo cho ông sự thoải mái và tự nhiên, nhưng tôi biết niềm đau tủi nhục ở ông ắt hẳn sâu thẳm và khủng khiếp biết chừng nào. Tôi có cảm giác khó chịu là ông có thể sẽ kể lể ra những lý do để khẩn cầu đừng truy tố ông như tội phạm chiến tranh.
Trước đấy nhiều đồng minh, đặc biệt người Nga và người Anh, đã lên tiếng mạnh mẽ đòi đặt ông vào loại tội phạm ấy. Quả thật, tên của Nhật Hoàng đứng đầu danh sách tội phạm đầu tiên do họ đề nghị. Nhận thức những hậu quả bi kịch sẽ theo sau hành động bất công như thế, tôi cực lực chống lại những ý định ấy. Khi Washington dường như nghiêng về quan điểm của người Anh, tôi đề nghị rằng tôi sẽ cần thêm ít nhất một triệu quân tiếp viện nữa nếu họ làm như thế. Tôi tin rằng nếu Nhật Hoàng bị buộc tội, và có lẽ bị treo cổ như tội phạm chiến tranh, chính quyền quân sự phải được thiết lập trên toàn cõi Nhật Bản, và chiến tranh du kích có lẽ sẽ bùng phát. Tên của Nhật Hoàng sau đó bị gạch ra khỏi danh sách tội phạm chiến tranh. Nhưng ông chẳng hề biết gì về tất cả điều này.
Nhưng mối lo sợ của tôi không có căn cứ. Nhật Hoàng nói như thế này: "Thưa Tướng Quân MacArthur, là người chịu trách nhiệm duy nhất cho mọi quyết định chính trị và quân sự và mọi hành động của nhân dân tôi khi tiến hành chiến tranh, tôi đến đây gặp ông để chịu sự phán xét của các cường quốc mà ông đại diện." Lòng tôi chợt dâng trào lên cảm xúc phi thường khó tả. Sự gánh vác can đảm trách nhiệm này mà đồng nghĩa với cái chết, một trách nhiệm rõ ràng không đúng với những sự thật tôi hoàn toàn biết rõ, khiến tôi xúc động đến tận cả cõi lòng. Ông là hoàng đế cha truyền con nối, nhưng trong khoảnh khắc ấy tôi biết tôi đang đối diện với Đệ Nhất Quân Tử Nhật Bản đích thực.
Sau lần ấy Nhật Hoàng đến thăm tôi thường xuyên, chúng tôi bàn về hầu hết các vấn đề quốc tế. Tôi luôn luôn giải thích kỹ càng những lý do quan trọng nhất về chính sách chiếm đóng,và tôi nhận thấy ông hiểu biết uyên thâm về khái niệm dân chủ hơn hầu hết những người Nhật tôi có dịp trò chuyện. Ông đóng vai trò rất lớn trong sự hồi sinh tinh thần của Nhật Bản, và sự hợp tác trung thành và ảnh hưởng của ông đã tác động rất nhiều đến sự thành công của công cuộc chiếm đóng.
Nguồn:
Trích dịch từ tác phẩm "Reminiscences" của Douglas MacArthur, nhà xuất bản McGraw-Hill, 1964, trang 287-288. Tựa đề của người dịch.
Bản tiếng Việt:
Trần Quốc Việt danlambaovn.blogspot.com
| |
| | | NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
| Tiêu đề: Re: Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật lại cúi đầu kính trọng tướng Mỹ? Sat Dec 26, 2015 12:29 pm | |
| MacARTHUR VÀ BÊN THẮNG CUỘC
Alan Phan
Cuối tuần qua, vài gia đình chúng tôi quây quần coi cuốn phim “Emperor”, hồi ký của tướng Mỹ Fellers về những ngày đầu chiếm đóng Nhật Bản của quân đội Mỹ sau khi Nhật đầu hàng. Fellers thuộc ban tham mưu của Đại Tướng Douglas MacArthur, Tư Lệnh Tối Cao của lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương và lúc đó là vị Chỉ Huy cao nhất của Mỹ tại Nhật.
Một ngạc nhiên thú vị
MacArthur giao Fellers 10 ngày để xác quyết về tội phạm chiến tranh của Nhật Hoàng Hirohito. Nếu có tội, Hirohito phải bị đưa ra Toà Án Đặc Biệt và có thể bị tử hình. Việc này có thể gây một nội loạn lớn lao từ dân Nhật, vốn vẫn còn sùng bái Hoàng Đế của họ. Sau 10 ngày thẩm vấn cả trăm quan chức Nhật, Fellers vẫn không thể kết luận là Nhật Hoàng có hay không có tội vì thiếu chứng cớ.
Nhưng MacArthur, ngoài bộ áo quân nhân, còn là một chính trị gia khôn ngoan và nhiều tham vọng. Khi ông mời Nhật Hoàng đến dinh cơ dùng trà, Hirohito nghĩ là ông sẽ bị bắt và giải ra toà án. Nhật Hoàng cũng khẳng khái nhận mọi tôi trạng và chỉ xin MacArthur xử phạt riêng mình và tha cho các thủ hạ cùng dân Nhật.
Nhưng MacArthur ngọt ngào nói, “Tôi mời Ngài hôm nay đến đây để giúp tôi và cùng hợp tác với tôi tái kiến thiết lại một nước Nhật đang hoang tàn.”
Khi văn minh là phương châm
Theo gương lịch sử 80 năm trước, khi Lincoln thắng trận (xem bài http://www.gocnhinalan.com/bai-tieng-viet/lincoln-bn-thng-cuc.html của tôi), người Mỹ chỉ đem ra xử 32 người cầm đầu chánh phủ Tojo của nhóm quân phiệt Nhật.
Tất cả những quyền công dân cũng như tài sản của mọi bại quân và bại dân Nhật không bị quân chiếm đóng Mỹ động đến (không ai bị bắt đi cải tạo tư tưởng theo chủ nghĩa tư bản giẫy chết cả, hú hồn). MacArthur còn nghiêm cấm quân Mỹ không được phép ăn thực phẩm của Nhật vì dân Nhật đang đói. Ngược lại, chương trình cứu trợ Nhật với thực phẩm Mỹ đã giúp Nhật tránh được nạn đói mùa đông 1945 vì đất đai khắp nơi vẫn còn bị tàn phá. Sau 3 năm, tất cả quân Mỹ đều rút về căn cứ ở Okinawa cho đến bây giờ.
Ngoài việc dùng quyến lực Mỹ như một lá chắn bảo vệ nước Nhật khỏi những đe doạ nguyên tử từ Liên Xô, Trung Quốc và Bắc Hàn, McArthur còn “lobby” quốc hội Mỹ viện trợ tái thiết Nhật liên tục qua nhiều chương trình kinh tế và xã hội. Sau 40 năm, Nhật phát triển ngoạn mục và vào thập niên 80’s được coi như con rồng Á Châu có thể vượt qua mặt Mỹ.
Bài học cho những bên thắng cuộc
Chúng ta có thể thu nhận một bài học qua cách hành xử trên đây của MacArthur và chánh phủ Mỹ. Người Mỹ rất rộng lượng khi họ thắng trận. Từ Washington, Lincoln đến MacArthur, Eisenhower, các lãnh tụ luôn luôn muốn làm “quân tử” và giúp kẻ bại trận phục hồi nhanh chóng. Không hề có chuyện trả thù hay nợ máu “trời không dung đất không tha”. Hãy hỏi các người Đức, người Ý, người Bosnia, người Iraq… và cả trăm dân tộc khác có liên quan chiến tranh với Mỹ.
Trong khi đó, lịch sử chiến tranh của Trung Quốc khủng khiếp hơn nhiều. Tôi còn nhớ vào những năm 1977 đến 1982 khi qua Trung Quốc công tác cho ông boss Do Thái Eisenberg. Chúng tôi là những nhà đầu tư Tây Phương lớn nhất và sớm nhật tại Trung Quốc và được chánh phủ Trung Ương cấp cho bao nhiêu là chứng chỉ, huân chương… sao đỏ sao vàng. Tuy vậy, mỗi khi vào một cuộc họp, chúng tôi phải đứng nghiêm nghe Thủ Trưởng của đơn vị đọc bài điếu văn doạ là sẽ chôn sống hết bọn đế quốc tư bản trong 5 năm tới. Tôi đoán chắc họ muốn chúng tôi từ bỏ quốc tịch Mỹ và xin tỵ nạn ở Trung Quốc.
Đấy là thái độ khi họ đang cần tiền của chúng tôi và đang thua trên mọi mặt trận. Tôi chắc chắn là nếu Trung Quốc đánh bại quân Nhật thì gia đình Nhật Hoàng đã bị tru di tam tộc bằng voi dầy ngựa xé và TV Trung Quốc vẫn nói về chiến thắng vĩ đại sau cả 100 năm. Ngoài ra, số phận dân Nhật ngày hôm nay còn tệ hơn dân Tây Tạng hay Tân Cương nhiều.
Nhớ ghi vào nhật ký…
Do đó, các lãnh tụ các quốc gia nhỏ bé nên nhớ điều này: nếu đánh nhau với Mỹ thì nên “vờ” thua, nếu không thua thật. Mỹ nó ngu, nó sẽ đổ tiền ào ạt vào cho toàn dân “hủ hoá” và lên thiên đường tư bản. Còn nếu đánh nhau với Tàu, ráng đánh cho thắng, chứ không thì khốn nạn cả lũ.
Alan Phan 2 September 2013
| |
| | | NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
| Tiêu đề: Re: Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật lại cúi đầu kính trọng tướng Mỹ? Tue Jan 05, 2016 11:22 pm | |
| Hiến pháp Nhật Bản hiện đại đã ra đời như thế nào?
Nguyễn Đình Đăng tổng hợp
Trong tuyên bố Potsdam ngày 26/7/1945 buộc Nhật Bản đầu hàng không điều kiện có đoạn: “Nhà nước Nhật phải gỡ bỏ mọi cản trở các xu hướng dân chủ trong nhân dân Nhật. Tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do tư tưởng cũng như sự tôn trọng nhân quyền phải được thiết lập.” Tuyên bố Potsdam còn chỉ rõ Nhật Bản hậu chiến sẽ phải chịu sự chiếm đóng của Đồng Minh (1945 – 1952). Ngày 15/8/1945 lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Nhật được nghe tiếng nói của Thiên hoàng trên đài truyền thanh. Đó là lời Nhật hoàng tuyên bố nước Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện.
Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Harry Truman đã bổ nhiệm thống tướng (General of the Army) Douglas MacArthur (1880 – 1964) làm Tư lệnh Tối Cao của Các Lực lượng Đồng Minh (Supreme Commander of Allied Powers). Quân đội Mỹ chiếm đóng toàn bộ Nhật Bản và vùng trước kia thuộc Nhật ở Micronesia.
Tướng Douglas MacArthur ký văn bản chấp nhận Nhật đầu hàng không điều kiện trên chiến hạm USS Missouri ngày 2/9/1945
Chân ướt chân ráo tới Tokyo ngày 30/8/1945, thống tướng MacArhur đã lập tức ban bố 2 lệnh ngắn gọn: “1. Quân nhân và nhân viên lực lượng Đồng minh không được tấn công người Nhật. 2. Quân nhân và nhân viên lực lượng Đồng minh không được ăn thực phẩm ít ỏi của người Nhật.”
Ngay từ hội nghị Potsdam, tướng Douglas MacArthur đã nói để đạt mục đích dân chủ hóa nước Nhật, thì cần sửa đổi Hiến pháp Minh Trị 1889. Khi nói câu đó ông không ngờ rằng trách nhiệm này cuối cùng đã được trao vào tay ông, và trên thực tế, chỉ sau đó vài tháng, văn phòng của ông đã viết ra một bản hiến pháp hoàn toàn mới mà người Nhật cho tới giờ vẫn thực thi không sai một dấu chấm dấu phẩy.
Vậy mà câu chuyện về sự ra đời của bản Hiến pháp 1946 của Nhật Bản lại bắt đầu khá lạ lùng: từ một lỗi dịch thuật.
Ngày 4/10/1945 thống tướng MacArthur có một cuộc họp với một số thành viên nội các Nhật Bản. Lúc buổi họp sắp kết thúc, một quan chức cao cấp Nhật hỏi liệu Tư lệnh Tối cao có chỉ dẫn gì để kiến thiết chính phủ không. Trong khi dịch trả lời của MacArthur, người phiên dịch đã dịch sai từ “kiến thiết” thành “hiến pháp”. Quan chức Nhật Bản ra về, đinh ninh rằng Tư lệnh Tối cao đã yêu cầu phía Nhật phải viết Hiến pháp mới. Đầu tháng 2/1946 phía Nhật Bản viết ra một dự thảo Hiến pháp, nhưng MacArthur đã không chấp nhận, coi đó chẳng qua chỉ là bổn cũ soạn lại của Hiến pháp Minh Trị, không đáp ứng nhu cầu dân chủ hoá nước Nhật và không phản ánh quan điểm của công luận. Cuối cùng MacArthur đã ra lệnh cho văn phòng của mình tự thảo ra Hiến pháp mới cho Nhật Bản sao cho kịp xong trước phiên họp ngày 26/2/1946 của Đồng Minh bởi ông không muốn các nước Đồng Minh khác nhúng tay vào nội tình Nhật Bản.
Thừa lệnh MacArthur, trưởng ban Nhà nước trong tổng hành dinh của MacArthur, thiếu tướng kiêm luật sư Courtney Whitney đã thành lập một hội đồng gổm 25 người có nhiệm vụ phải thảo ra hiến pháp trong vòng một tuần. Ba người trực tiếp chấp bút cho bản dự thảo hiến pháp này là thiếu tướng Whitney, trung tá kiêm luật sư Milo Rowell, và thông dịch viên Beate Sirota Gordon (1923 – 2012). Năm đó bà Beate Sirota Gordon là một thiếu nữ 22 tuổi.
Beate Sirota Gordon năm 22 tuổi (1946)
Bà Beate Sirota Gordon là người gốc Do Thái, con gái độc nhất của danh cầm piano Leo Sirota (1885-1965), và là cháu gọi nhạc trưởng Jasha Horenstein (1898-1973) bằng cậu. Bà đã sống và học tại Tokyo 10 năm (1929–1939) khi cha bà được mời làm giáo sư piano tại Nhạc viện Hoàng gia ở đây. Năm 1939 bà sang Mỹ học và năm 1943 tốt nghiệp cử nhân ngôn ngữ hiện đại. Tháng 1/1945 bà trở thành công dân Hoa Kỳ. Trong Đệ nhị Thế chiến bà mất liên lạc với cha mẹ ở Nhật, nên ngay sau khi chiến tranh vừa kết thúc bà đã lên đường sang Nhật tìm gia đình. Đến Tokyo vào mùa Giáng sinh năm 1945, bà là phụ nữ ngoại quốc thường dân đầu tiên đặt chân tới nước Nhật hậu chiến. Thông thạo 6 ngôn ngữ Nhật, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Nga, bà được thuê làm phiên dịch cho tổng hành dinh của tướng MacArthur.
Bà Gordon kể lại rằng bà đã phải ngồi xe jeep phóng tới các thư viện ở Tokyo, khi đó còn rất tiêu điều sau chiến tranh, để mượn các bản hiến pháp của các nước đem về cho hội đồng nghiên cứu. Những thành viên khác của hội đồng tham gia thảo luận và đóng góp ý kiến.
Sau một tuần hầu như không ngủ, hội đồng dự thảo hiến pháp của tướng MacArthur đã viết ra một văn kiện hoàn toàn mới và tiến bộ. Trong bản hiến pháp năm 1946 này, Nhật hoàng được coi là biểu tượng của nhà nước và đoàn kết toàn dân, song đã bị tước mọi quyền hành thực. Mọi hành vi của Nhật hoàng liên quan tới nhà nước phải được sự chấp thuận của nội các chính phủ do thủ tướng đứng đầu. Một cấu trúc lập pháp quốc hội lưỡng viện được thành lập, trong đó thượng viện đóng vai trò thứ yếu. Trừ hoàng gia Nhật, mọi quyền lợi của quý tộc khanh tướng bị bãi bỏ hoàn toàn. Hoàng gia không được có bất cứ sở hữu, nhận hay tặng quà cáp gì nếu không được quốc hội chấp thuận.
Trong 103 điều khoản, bản hiến pháp dành 31 điều khoản (Chương III, Điều 10–40) cho “các quyền tự do căn bản của con người” (lời của tướng MacArthur), bao gồm hầu hết các điều khoản về quyền tự do Mỹ. Điều 19 bảo đảm không được vi phạm tự do tư tưởng và tự do lương tâm. Điều 21 khẳng định “Quyền tự do hội họp và lập hội cũng như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tất cả các quyền tự do biểu hiện khác được đảm bảo. Không được kiểm duyệt, không được vi phạm bí mật của mọi hình thức thông tin.” Điều 34 nghiêm cấm bắt giữ người vô cớ. Điều 35 cấm xâm phạm chỗ ở, lục soát và tịch thu giấy tờ và tài sản của người dân mà không có trát cụ thể của toà chỉ rõ lý do, địa điểm và đồ vật cần khám xét. Điều 40 khẳng định người dân có quyền kiện nhà nước để được bồi thường nếu bị bắt giữ oan.
Độc đáo nhất là Chương II. Chương này chỉ vẻn vẹn có một điều khoản, Điều 9, chỉ rõ nhân dân Nhật Bản vĩnh viễn từ bỏ chiến tranh khỏi chủ quyền của quốc gia, vĩnh viễn không sử dụng vũ lực hay đe doạ bằng vũ lực khi giải quyết các tranh chấp quốc tế (Chú thích (2) tại đây còn ghi rõ: Để bảo đảm thực thi điều khoản này không bao giờ được duy trì lục quân, hải quân, và không quân cũng như tiềm năng chiến tranh khác. Quyền tham chiến của quốc gia sẽ không được thừa nhận). Điều khoản này đã có ảnh hưởng cực kỳ quan trọng lên sự phát triển của nước Nhật sau chiến tranh.
Riêng về phần mình, bà Beate Sirota Gordon đã thêm điều khoản 14 và 24 về quyền bình đẳng của con người và bình đẳng nam nữ trong hôn nhân. Điều 14 có đoạn: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và không được có bất cứ phân biệt nào trong các quan hệ về chính trị, kinh tế, xã hội vì lý do chủng tộc, tín ngưỡng, giới tính, địa vị xã hội hay xuất thân gia đình.” Điều 24 có đoạn: “Hôn nhân phải dựa trên sự đồng ý của cả hai giới, và hợp tác trên cơ sở quyền bình đẳng của vợ và chồng. Về chọn người kết hôn, các quyền sở hữu trong hôn nhân, thừa kế, chọn chỗ ở, ly hôn và các vấn đề khác liên quan tới hôn nhân và gia đình, pháp luật phải được thực thi trên quan điểm tôn trọng phẩm giá và quyền bình đẳng giới tính.” Đây là lần đầu tiên trong lịch sử phụ nữ Nhật được hưởng những quyền như vậy.
Sau những buổi bàn thảo quyết liệt vào tháng 3/1946, phía Nhật Bản cuối cùng đã chấp nhận dự thảo hiến pháp do phía Mỹ soạn, sau vài sửa đổi nhỏ. Tướng Whitney còn nói rằng nếu nội các Nhật không có khả năng đưa ra một quyết định thích hợp, tướng MacActhur sẽ đem bản dự thảo này ra trưng cầu dân ý.
Nhật hoàng Hirohito (1901–1989) tuy mất quyền, nhưng vẫn giữ được ngai vàng, đã viết thư trả lời chính thức ủng hộ bản hiến pháp mới. Mùa thu năm 1946, đại đa số nhân dân Nhật Bản đã bỏ phiếu ủng hộ các đại biểu tán thành bản hiến pháp mới. Ngày 3/11/1946 Nhật hoàng chính thức công bố hiến pháp mới trước nghị viện. Đúng 6 tháng sau, bản hiến pháp chính thức có hiệu lực. Từ đó ngày 3/5 hàng năm đã trở thành ngày nghỉ lễ có tên Ngày Hiến pháp. Sự ra đời của bản hiến pháp năm 1946 đã đặt nền móng pháp lý cho một Nhật Bản hiện đại. Theo sử gia D. Clayton, người viết tiểu sử tướng MacArthur, lịch sử đánh giá công lao của tướng MacArthur trong việc tái thiết nước Nhật hậu chiến còn hơn là một trong những quân nhân kiệt xuất nhất của Hoa Kỳ trong chiến tranh. Bà Beate Sirota Gordon được Hoàng gia Nhật Bản trao Huân Chương Thụy Bảo năm 1998 và được nhiều phụ nữ Nhật Bản coi là nữ anh hùng của họ. Trong một trả lời phỏng vấn của ABC News (Hãng thông tấn Hoa Kỳ), bà hồi tưởng: “Tôi đi tới đâu các phụ nữ Nhật cũng muốn chụp ảnh cùng tôi, và bắt tay tôi. Họ nói họ vô cùng biết ơn tôi.”
Phụ lục: Bức hình gây sốc
Nhật hoàng Hirohito và thống tướng Douglas MacArthur tại tổng hành dinh của MacArthur ở Tokyo ngày 27/9/1945
Bức hình này được chụp tại tổng hành dinh của MacArthur tại Tokyo. Năm đó Nhật hoàng 44 tuổi còn tướng MacArthur 65 tuổi. Vào thời điểm đó 70% người Mỹ coi Nhật hoàng Hirohito là tội phạm chiến tranh đáng bị treo cổ. Các nhân viên quân đội Hoa Kỳ biểu tình ngoài tổng hành dinh của MacActhur đòi xét xử Nhật hoàng, trong khi đại sứ quán Nga và Úc gọi điện gây áp lực. Tuy nhiên, MacActhur hiểu rằng, để thời kỳ quá độ diễn ra suôn sẻ, việc duy trì Nhật hoàng và hoàng gia là cần thiết. Song, ông không đến chào Nhật hoàng mà chờ Nhật hoàng ứng xử trước. Cuối cùng, vào ngày 27/9/1945 Nhật hoàng Hirohito đã rời hoàng cung tới gặp thống tướng MacArthur tại đại bản doanh các lực lượng đồng minh đóng tại toà nhà của công ty bảo hiểm sinh mệnh Dai-Ichi tại quận Chiyoda, cạnh Hoàng cung. Cuộc gặp diễn ra lúc 10 giờ sáng, nội dung bàn về số phận của ngai vàng. Khi đó Nhật hoàng vẫn còn được coi là thượng đế. Lúc Nhật hoàng qua cửa, các sĩ quan Hoa Kỳ đề nghị Nhật hoàng bỏ mũ. Sau khi Nhật hoàng trao mũ cho các sĩ quan, MacArthur tiến nhanh vào phòng và nói: “Ngài rất rất được hoan nghênh!” (You are very, very welcome, sir!) Các sĩ quan tùy tùng của MacArthur cho biết đây là lần đầu tiên họ nghe thấy tư lệnh tối cao của họ dùng đại từ nhân xưng “ngài”. Nhật hoàng cúi gập người bắt tay MacArthur, thấp đến nỗi tay bắt cao hơn cả đầu mình.
Bức hình này là 1 trong 3 bức nhiếp ảnh gia của tướng MacArthur, trung úy Gaetano Faillace, chụp tại buổi gặp gỡ nói trên. Hai bức kia bị MacArthur loại vì một bức chụp MacArthur nhắm mắt, còn trong bức thứ hai Nhật hoàng há miệng.
Kiểm duyệt Nhật Bản đã bị sốc nặng trước bức hình ông tướng Mỹ cao to, vận quân phục vải khaki, đứng một cách thoải mái bên cạnh Thiên hoàng thấp bé, mặc lễ phục phương tây. Đối với họ Thiên hoàng là thượng đế và hình ảnh họ nhìn thấy là không thể tưởng tượng nổi. Tổng hành dinh của MacArthur đã gây sức ép, buộc kiểm duyệt Nhật Bản cho đăng bức hình. MacArthur cũng phải can thiệp để tờ New York Times của Mỹ cho đăng bức hình kèm bài phỏng vấn Nhật hoàng Hirohito vì trong bài phỏng vấn, Nhật hoàng đã trách chính phủ Nhật không tuyên chiến với Hoa Kỳ trước khi tấn công Trân châu cảng (Pearl Harbour). Cảnh sát Hoa Kỳ đã cố sức thu hồi số báo có bức hình và bài phỏng vấn.
9/2/2013
Hiệu đính 17/2/2013: Thêm dẫn chứng [4] và bổ sung chú thích cho điều 9 trong bài.
Tài liệu tham khảo:
[1] Public Broadcasting Service: The American Experience/People & Events/Creation of he Japanese constitution. [2] Margalit Fox, Beate Gordon, long-unsung heroine of Japanese women’s rights, dies at 89, New York Times, 1/1/2013. [3] The constitution of Japan [4] Birth of the Constitution of Japan [5] The only woman at the table – Beate Sirota Gordon’s talk at Middlebury college, 4/5/2007 [6] Iconic photo: When MacArthur met the Emperor . | |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật lại cúi đầu kính trọng tướng Mỹ? | |
| |
| | | | Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật lại cúi đầu kính trọng tướng Mỹ? | |
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |