Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon

Diễn Đàn của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  GalleryGallery  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Keywords
quan Nhung nguyet trong Chung quynh nhac không chuyen phải quang Nguyen Saigon quốc chất truyện bich VNCH sáng hoang thuoc luong ngắn linh ngam Trung
Latest topics
» qua đi thôi bão nổi
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeSat Mar 11, 2023 3:11 am by Admin

» Cụ Hoang Xuân Hãn
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeSun May 08, 2022 10:37 pm by Admin

» Giáo dục VNCH - Giáo dục con đường khai phóng
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeMon Jan 10, 2022 4:06 am by Admin

» Suy tư về kiếp người - Về Cùng Cát Bụi
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeSun Jan 09, 2022 4:25 am by Admin

» AI ĐÃ HẠ GỤC CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN?
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeSat Jan 08, 2022 2:41 am by Admin

» NHẠC THIỀN - Cõi Thiền trong Âm Nhạc
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeThu Jan 06, 2022 4:11 am by Admin

» Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeTue Jan 04, 2022 3:06 am by Admin

» Tôi Cưới Vợ
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeTue Jan 04, 2022 2:44 am by Admin

» Giáo sư Phạm Hoàng Hộ
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeMon Nov 29, 2021 3:05 am by Admin

March 2024
MonTueWedThuFriSatSun
    123
45678910
11121314151617
18192021222324
25262728293031
CalendarCalendar
Affiliates
free forum

Affiliates
free forum


 

 Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel

Go down 
3 posters
Tác giảThông điệp
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeMon Dec 02, 2013 11:16 am

.

Truyện Ngắn Alice Munro (Nobel 2013)


tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Alice-munro

Lời giới thiệu: Alice Munro sinh ngày 10 tháng Bảy năm 1931 ở Wingham, Ontario, Canada, với tên khai sinh là Alice Ann Laidlaw. Cha của bà là chủ nông trại, mẹ là cô giáo. Bà trải qua tuổi thơ ở thị trấn Clinton, nơi bà cũng thường trở về sau này. Theo học đại học Western Ontario, nhưng rời trường sớm khi lập gia đình năm 20 tuổi. Bà và gia đình sống ở một đảo ngoài khơi Vancouver nhiều năm nay, coi sóc tiệm sách có tên là Munro. Hai ông bà có với nhau ba đứa con, hôn nhân của họ thời trẻ có một thời kỳ tan vỡ. Sinh quán của Alice Munro, Ontario, là tỉnh bang lớn nhất Canada, gần bên Ngũ Đại Hồ. Vùng phía nam của tỉnh là vùng có khí hậu ôn hòa, cảnh sắc xinh đẹp, đất nông nghiệp bằng phẳng, nhiều sông hồ. Trong truyện của Munro, có cảnh vật của Ontario hoặc thiên nhiên hoang dã trên đảo Vancouver.
Truyện của bà viết về đời sống những người bình thường, với văn phong giản dị, trong trẻo và đẹp. Nhưng đó là bề ngoài dễ gây ngộ nhận. Thật ra văn của Alice Munro không dễ hiểu. Người đọc cần chú tâm đến từng chi tiết mà bà để lại dọc đường. Bên trong là sức mạnh của sự mô tả chính xác, phân tích sắc bén các xung đột, sự nghiêm khắc với thói dung tục và a dua, tính hài hước, và lòng trắc ẩn. Alice Munro nhận nhiều giải thưởng, trong đó ba lần giải General Governor, giải thưởng danh giá nhất Canada, và giải Man Booker International năm 2009. Dù sức khoẻ yếu, bà có khả năng làm việc đều đặn, bền bỉ. Tác phẩm (tạm dịch): Vũ Điệu Những Cái Bóng Hạnh Phúc (Dance of The Happy Shades)(giải GG), Cuộc Đời Những Cô Gái và Đàn Bà (Lives of Girls and Women), Bạn Nghĩ Bạn Là Ai Kia? (Who Do You Think You Are), Những Mặt Trăng Của Mộc Tinh (The Moons Of The Jupiter), Tiến Triển Của Tình Yêu (The Progress of Love) (giải GG), Chạy Trốn (Runaway). Năm 80 tuổi, xuất bản tập Quá Sức Hạnh Phúc (Too Much Happiness). Tiếp sau đó, trước sự ngạc nhiên của nhiều người, tác phẩm mới Cuộc Đời Yêu Dấu (Dear Life). Một truyện của bà, Gấu Về Qua Núi (The Bear Came Over The Mountain), một chuyện tình cảm động, đã được Sarah Polley chuyển thành phim với các tài tử Julie Christie và Gordon Pinsent. Truyện ngắn sau đây, nguyên văn tiếng Anh “Miles City, Montana” rút từ tập The Progress of Love, 1985, NXB Alfred A. Knoft. Miles City là tên một thị trấn nhỏ, dân số không quá một ngàn người, Montana là một tiểu bang ở vùng Tây Bắc nước Mỹ, sát biên giới Canada.
Kín đáo, khiêm cung, Alice Munro không phải là người của công chúng, và ít khi xuất hiện trên báo chí, ngoại trừ tác phẩm của mình. Cách đây bốn năm, khi tôi đến nghe một buổi hội thảo ở Vancouver sau giải Man Booker International, với nhiều nhà văn nổi tiếng như Margaret Atwood đọc những tham luận xúc động, đầy yêu mến, nhằm tuyên dương tác phẩm của bà, Alice Munro đã không có mặt. Trên thế giới nhiều người vẫn không biết đến tên bà- mặc dù năm 2005, tuần báo Time đã chọn bà là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất- cho đến ngày 10 tháng 10 năm 2013 vừa qua. Ngày hôm đó, Ủy ban giải thưởng Nobel đã không thể liên lạc được với nhà văn để báo tin vui. Các độc giả cũng không tìm đọc bà như tìm đến các tên tuổi văn học khác, đôi khi họ bắt gặp bà một cách tình cờ trên kệ sách, và tự hỏi: bà này là ai?
Tôi chọn truyện “Miles City, Montana” vì đó là truyện ngắn đầu tiên của bà mà tôi được đọc, cách đây mười bốn năm, trong một thời kỳ hỗn loạn. Truyện của bà đã giúp tôi đứng lại, nhìn xuống, thấy được chính thật tình trạng của mình. Tôi dịch truyện ngắn này như một lời cám ơn lặng lẽ.


THỊ TRẤN BÊN ĐƯỜNG

Truyện ngắn của ALICE MUNRO
NGUYỄN ĐỨC TÙNG dịch

Cha tôi băng qua cánh đồng ôm xác một đứa bé trai bị chết đuối. Họ có nhiều người, trở về sau cuộc lùng kiếm, nhưng ông là người mang xác thằng bé. Những người đàn ông mình mẩy đầy bùn, mệt lả, bước đi đầu cúi xuống, như thể họ là những người có lỗi. Ngay những con chó cũng chán nản, lông nhểu nước từ con sông lạnh giá. Thế mà vài giờ trước đó khi khởi sự, chúng còn tỏ ra bồn chồn, chạy quanh sủa ăng ẳng, những người đàn ông quyết tâm, căng thẳng, và có một không khí kích động bị kìm nén lại, không diễn tả được, bao trùm toàn bộ khung cảnh. Lúc đó ai cũng biết rằng có thể họ sẽ tìm thấy một điều gì khủng khiếp.
Tên của thằng bé là Steve Gauley. Tám tuổi. Tóc và quần áo nó nhuốm bùn, bê bết cỏ, cành vụn và lá chết. Nó là nỗi cự tuyệt được gởi lại từ mùa đông. Mặt nó úp vào ngực cha tôi, nhưng tôi vẫn còn thấy được một lỗ mũi, một vành tai nhét đầy bùn xanh lợn cợn.
Tôi không nghĩ thế. Tôi không nghĩ rằng tôi đã thực sự trông thấy những điều ấy. Có lẽ tôi đã thấy cha tôi mang xác thằng bé, thấy những người khác đi theo ông, những con chó, nhưng tôi không thể nào được phép đến gần tới mức nhìn thấy một thứ gì như bùn trong lỗ mũi. Chắc là tôi đã được nghe ai đó kể lại và tự mình tưởng tượng ra. Tôi nhìn thấy khuôn mặt của nó không thay đổi trừ những vết bùn – khuôn mặt quen thuộc của thằng Steve, mặt nó nhọn, vẻ lém lỉnh – và thật ra không thể nào như thế được; nó phải sưng phồng lên chứ, phải biến dạng và dính bùn khắp nơi sau nhiều giờ ngâm trong nước.
Việc mang về một tin như thế, một bằng chứng như thế, cho một gia đình mỏi mắt trông chờ, nhất là người mẹ, khiến cho những người đi lùng kiếm đứa bé cử động nặng nề, nhưng điều đang xảy ra ở đây còn tệ hại hơn nữa. Rõ ràng là có một nỗi xấu hổ (nghe người ta nói thế) rằng thật ra chẳng có một người mẹ nào cả, chẳng có một người phụ nữ nào hết – không bà nội không bà ngoại không cô không dì không chị không em – đứng chờ thằng Steve và trao cho nó nỗi đau buồn thương tiếc xứng đáng kia. Cha của Steve là một người làm công, hay uống rượu nhưng không phải là kẻ say sưa, một người đàn ông được chăng hay chớ nhưng không phải quá ham chơi, một kẻ không thân thiện mấy nhưng không làm phiền ai. Mối tình phụ tử xem ra cũng ngẫu nhiên, và vì đứa bé bị người mẹ ra đi bỏ lại, và hai cha con vẫn tiếp tục sống với nhau, xem chừng càng có vẻ tình cờ. Họ sống trong ngôi nhà với mái nhọn lợp gỗ xám ở xó núi quê mùa, trông chỉ khá hơn túp lều chút đỉnh – người cha sửa chữa mái nhà và dựng những cái giá đỡ ở bên dưới, cũng vừa đủ thôi và cũng đúng lúc cần thiết – và cuộc đời của hai cha con cũng dựa dẫm vào nhau tương tự như thế; tức là cũng tốt vừa đủ để cho cơ quan can thiệp vì quyền lợi của trẻ em không can dự vào gia đình của họ. Hai cha con không ăn chung với nhau, không ai nấu cho ai, nhưng nhà vẫn có thức ăn, đôi khi người cha cho con một ít tiền để mua thức ăn ở tiệm và người ta thấy thằng Steve tới đó mua những thứ xem ra cũng cần thiết như bột làm bánh hay bữa ăn tối kiểu bột mì có thịt.
Tôi biết rõ Steve Gauley. Tôi cũng thích nó, nhưng phần nhiều là không thích. Steve lớn hơn tôi hai tuổi. Nó đến chơi ở chỗ chúng tôi vào các ngày thứ bảy, ra vẻ coi khinh những trò của tôi nhưng lại không thể bỏ mà đi được. Tôi cũng không thể ngồi lên ghế xích đu mà không có nó khởi động và khi tôi có muốn bỏ cuộc nó liền chạy tới đẩy một cái khiến tôi hoảng lên co rúm người lại. Nó chọc ghẹo những con chó. Nó làm cho tôi phiền bực – có tính toán và rất quỷ quái, sau này tôi nghĩ lại – bằng cách khiến tôi làm những việc mình không tự nghĩ ra: đào khoai lên để xem chúng lớn cỡ nào khi còn nhỏ xíu, chất củi lên thành đống để chúng tôi nhảy từ trên đó xuống. Ở trường chúng tôi chẳng bao giờ nói chuyện với nhau. Steve cô độc nhưng không đau khổ. Nhưng vào những buổi sáng thứ bảy, khi chợt nhìn thấy cái dáng của nó điềm tĩnh, gầy gò, xuyên qua hàng rào dương liễu, tôi biết là tôi sắp tham dự một điều gì đó và Steve sẽ quyết định điều ấy. Đôi khi chúng cũng êm xuôi. Chúng tôi giả đò làm cao bồi huấn luyện những con ngựa hoang. Chúng tôi chơi đùa trên cánh đồng cỏ gần bờ sông, không xa lắm chỗ Steve bị chết đuối. Chúng tôi giả đò làm ngựa và kỵ sĩ, la hét, mang dây nhợ, vung vẩy những ngọn roi làm bằng cây lá, ở trên bờ con sông không tên chảy xuôi xuống vùng Saugeen ở phía Nam tỉnh Ontario.
Đám tang được tổ chức trong nhà chúng tôi. Nhà của Steve không đủ chỗ cho đám đông đến dự bởi tình cảnh đặc biệt. Tôi vẫn còn lưu giữ ký ức về căn phòng đầy người nhưng không nhớ là có tấm hình nào của thằng Steve trên quan tài của nó hay có linh mục nào đến làm lễ, hay có những tràng hoa được gởi đến. Tôi chỉ nhớ rằng tôi cầm một bông hoa, loại thủy tiên màu trắng, chắc là ngắt từ chậu bông ai đó đẩy vào cửa, vì lúc ấy chưa phải là mùa của liên kiều trổ bông hoặc hoa huệ và cúc vạn thọ hay gặp trong rừng. Tôi đứng trong hàng của những đứa trẻ, mỗi chúng tôi cầm một bông thủy tiên. Chúng tôi đồng ca bài hát của trẻ con, có một người nào đó chơi đàn cương cầm: “Khi Người Đến, Khi Người Đến, Làm Nên Châu Ngọc Rạng Ngời”. Tôi mang đôi tất màu trắng, chúng ngứa kinh khủng, đầy những nếp nhăn ở đầu gối và mắt cá chân. Cảm giác đối với những đôi tất này trên chân tôi lẫn lộn với cảm giác trong ký ức của tôi. Thật khó diễn tả. Chắc là chúng có liên quan gì đó tới cha mẹ tôi. Liên quan tới người lớn nói chung nhưng đặc biệt là cha mẹ tôi? Cha tôi người là mang xác Steve từ bờ sông lên, và mẹ tôi là người gần như đã làm tất cả các việc thu xếp cho tang lễ này. Cha tôi trong bộ đồ vest màu xanh sậm và mẹ tôi trong chiếc áo đầm nhung nâu với cái viền cổ sa-tanh kem. Họ đứng bên nhau mở miệng ra khép miệng lại trong bài nguyện ca, và tôi đứng xa, giữa những đứa trẻ khác, nhìn chăm chú. Tôi có cảm giác ghê tởm điên cuồng và đau đớn. Trẻ con đôi khi có cảm giác bực bội căm ghét như thế đối với người lớn. Kích thước, những cái bóng lổn nhổn, sức mạnh bồng bềnh. Hơi thở, sự thô ráp, lông lá, sự chế tiết khó chịu. Nhưng còn hơn thế nữa. Và cơn giận đi kèm chẳng có gì rõ ràng và đúng mức. Không có một việc gì làm thoải mái hơn và cuối cùng tôi gập người lại nhặt một hòn đá ném về phía Steve. Không thể nào hiểu được hay diễn tả được, mặc dù cảm giác ấy dần biến thành một thứ nặng nề, thành mùi vị trên lưỡi, một mùi vị tình cờ – loãng, đầy nghi hoặc hay quen thuộc.
Hai mươi năm sau hoặc lâu hơn nữa, năm 1961, chồng tôi, Andrew, và tôi mua được một chiếc xe mới toanh, cái xe đầu tiên – tức là cái xe mới đầu tiên. Hiệu Morris Oxford, màu vỏ hàu (người bán xe gọi nó bằng một cái tên thú vị hơn) – một chiếc xe loại nhỏ khá bự, với nhiều chỗ ngồi đủ cho chúng tôi và hai đứa trẻ. Con bé Cynthia lên sáu và Meg ba tuổi rưỡi.
Chồng tôi chụp một bức ảnh tôi đứng bên xe hơi. Tôi mặc quần trắng, áo cổ cò màu đen, và mang kính râm. Tôi đứng dựa vào cửa xe, nghiêng hông để làm mình gầy đi.
“Tuyệt vời,” chồng tôi nói. “Hay lắm. Nhìn em giống Jacky Kennedy.”
Thời ấy khắp nơi những phụ nữ trẻ tuổi, tóc đen, mảnh mai, đều được bảo rằng, khi họ diện đồ sành điệu, hoặc khi chụp hình, trông giống đệ nhất phu nhân Jacky Kennedy.
Andrew chụp nhiều hình cho tôi và những đứa trẻ, nhà chúng tôi, khu vườn, đồ đạc, kỷ vật. Anh chụp hình, ghi chú tỉ mỉ lên đó, gởi về cho mẹ của anh và dì của anh và cậu của anh ở Ontario. Anh cũng đưa những bức hình để tôi gởi cho ba tôi, cũng đang sống ở Ontario, và tôi cũng làm thế nhưng không đều đặn như anh. Khi nhìn thấy những bức ảnh lẽ ra tôi phải gởi đi rồi hãy còn nằm lăn lóc, Andrew bối rối bực bội lắm. Anh muốn những thứ kỷ vật này được chuyển đi hết.
Mùa hè năm đó chúng tôi về thăm nhà thật, chứ không phải chỉ những bức hình. Chúng tôi lái xe từ Vancouver, nơi đang sinh sống, về Ontario, nơi chúng tôi cũng gọi là nhà, trên chiếc xe hơi mới toanh. Năm ngày đi đường, mười ngày ở đó, năm ngày trở về. Lần đầu tiên Andrew được nghỉ làm trong ba tuần lễ. Anh làm việc trong bộ phận pháp luật của công ty thủy điện tỉnh bang British Columbia.
Buổi sáng thứ bảy, chúng tôi mang vali, hai bình thủy – một cà phê, một nước chanh đường – trái cây, bánh mì, sách ảnh, vở tô màu, bút chì, giấy vẽ, thuốc diệt côn trùng, áo len (phòng khi trời lạnh ở trong vùng núi), và hai đứa con gái của chúng tôi lên xe hơi. Andrew khóa cửa lại và Cynthia nói kiểu cách: “Chào giã biệt, nhà ta ơi”.
Meg nói: “Chào giã biệt, nhà” rồi nó nói thêm “Thế bây giờ chúng ta sống ở đâu?”
“Không phải chia tay mãi mãi,” Cynthia nói “Chúng mình sẽ trở về. Mẹ ơi! Con Meg nghĩ là chúng ta sẽ không bao giờ về đây nữa.”
“Em có nói thế đâu,” Meg bảo, lấy chân đá vào sau lưng chiếc ghế ngồi của tôi. Andrew và tôi mang kính râm lên và chúng tôi lái xe vượt qua cầu Sư tử xuyên qua cửa ngõ Vancouver. Chúng tôi rũ bỏ ngôi nhà của mình, hàng xóm của mình, thành phố của mình, và – ở biên giới giữa tiểu bang Washington và tỉnh British Columbia – đất nước chúng tôi. Chúng tôi lái xe về phía Đông đi xuyên qua nước Mỹ, dọc theo xa lộ cực Bắc, con đường này sẽ chạy trở vào Canada lần nửa ở Sarnia, Ontario. Tôi không biết chúng tôi đã chọn con đường này vì thời ấy quốc lộ xuyên Canada chưa xây dựng xong hay vì chúng tôi muốn có cảm giác lái xe qua một nước khác, chỉ hơi khác một chút thôi – một chút đỉnh của sự thú vị và phiêu lưu.
Ai cũng phấn chấn. Andrew khoái chí hoan hô chiếc xe hơi nhiều lần. Anh nói anh thấy rõ là nó chạy ngon hơn chiếc xe cũ của chúng tôi, một cái xe Austin đời 1951 bò chậm như rùa khi lên dốc và mang hình ảnh một bà già rầu rĩ. Andrew bảo thế.
“Thế chiếc xe mới này có hình ảnh của cái gì?” Cynthia hỏi. Nó lắng nghe chúng tôi chăm chú và thích tập nói những chữ mới lạ như chữ hình ảnh. Thường nó nói cũng đúng.
“Sống động,” tôi bảo “Giống kiểu xe thể thao. Nhưng không khoe mẽ.”
“Nó tiện lợi, nhưng vẫn có đẳng cấp riêng,” Andrew bảo. “Giống như hình ảnh của anh.” Cynthia ngẫm nghĩ về điều ấy và nói với sự tự hào thận trọng “Thế nghĩa là giống như ba muốn ba cũng y vậy, phải không ba?”
Tôi thật hạnh phúc vì cảm giác rũ bỏ. Tôi muốn rũ bỏ hết. Trong ngôi nhà của mình dường như lúc nào tôi cũng tìm chỗ để trốn – đôi khi trốn mấy đứa trẻ nhưng nhiều hơn là công việc cần làm, tiếng điện thoại reo và giao thiệp với hàng xóm. Tôi muốn chạy trốn, ẩn núp để có thể tập trung vào công việc thật sự của mình, một thứ gì như gợi lại quá khứ xa xăm. Tôi đã sống trong tình trạng bị vây hãm, khi nào cũng đánh mất một điều gì tôi đang giữ trong tay. Nhưng cuộc du hành mới dễ dàng làm sao. Lúc này tôi có thể trò chuyện với chồng, với các con và quan sát những điều chúng muốn tôi quan sát – một con lợn ở trên bảng chỉ đường, một con ngựa non trên cánh đồng, một chiếc xe hơi Volkswagen nằm trên xe tải lớn – và đổ ly nước vào những chiếc tách nhựa, và những thứ này thứ kia bay hòa quyện trong nhau suốt ngày trong tôi. Một sự kết hợp quan trọng mà tôi có thể đạt tới. Điều này làm tôi đầy hy vọng, thấy tâm hồn thanh thản, nhẹ nhõm, mà một người quan sát bàng quan mới làm được. Một người quan sát chứ không phải  một người canh giữ.
Chúng tôi rẽ về phía Đông ở Everett và vượt lên vùng Cascades. Tôi chỉ cho Cynthia lộ trình trên bản đồ. Trước hết tôi chỉ cho con bé bản đồ của toàn nước Mỹ, đồng thời cũng thấy được phần cực Nam của Canada. Tôi dở qua trang khác của cuốn bản đồ gồm những tiểu bang mà chúng tôi đi qua. Washington, Idaho, Montana, North Dakota, Minnesota, Wisconsin. Tôi chỉ cho Cynthia những vạch đứt quãng xuyên hồ Michigan, cũng là đường của chuyến phà chúng tôi sẽ qua. Kế đó chúng tôi sẽ lái xuyên Michigan đến cây cầu nối liền Hoa Kỳ và Canada ở vùng Sarnia, Ontario. Về nhà.
Bé Meg cũng muốn nhìn.
“Mày đâu có hiểu gì,”Cynthia bảo. Nhưng nó cũng lôi tập bản đồ ra băng ghế sau.
“Ngồi xuống đi,” nó bảo em “Ngồi yên. Chị chỉ cho mà xem.”
Tôi có thể nghe tiếng động những ngón tay Cynthia chỉ đường cho Meg rất chính xác, như tôi vừa mới làm với nó. Nó coi hết bản đồ các tiểu bang, biết cách tìm chúng theo mẫu tự.
“Mày có biết cái vạch kẻ này là đường gì không?” Cynthia hỏi. “Cái đó kêu bằng xa lộ. Đó là nơi mà chúng ta sẽ lái xe đi. Chúng ta đang đi trên chính cái vạch này đây.”
Meg chẳng nói gì cả.
“Mẹ ơi, chỉ cho con chúng ta đang ở chỗ nào lúc này,” Cynthia nói.
Tôi lấy tấm bản đồ lên, chỉ con đường đi xuyên qua núi, và nó lấy lại bày cho Meg. “Có thấy vạch kẻ này không, nó rất là ngoằn nghoèo. Nó ngoằn nghoèo bởi vì có nhiều lối vòng quanh. Những chỗ ngoằn nghoèo là những khúc quanh.” Nó lật một trang rồi chờ một lát. “Bây giờ chỉ cho chị xem chúng ta đang ở đâu”. Rồi nó kêu lên với tôi “Mẹ, Meg hiểu. Nó chỉ ra được cái chỗ đó. Meg cũng hiểu bản đồ!”.
Đối với tôi có vẻ chúng ta bịa tạc ra các phẩm chất của trẻ con. Chúng ta xếp đặt chúng sao cho mọi thứ vận hành êm thắm. Cynthia thì sáng láng và cần cù, nhạy cảm, nhã nhặn, cẩn thận. Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn trêu đùa nó về việc quá chú ý, chuyên tâm làm bằng được những điều thật ra thâm tâm chúng tôi cũng muốn. Bất cứ cái gì chậm chạp, bị thất bại, bị cự tuyệt, đều làm nó xúc động sâu xa. Con bé có mái tóc mượt, làn da đẹp nõn nà, nhưng dễ bị ăn nắng, dễ ngấm mùi của gió, của lòng tự hào, của cả sự tủi hờn. Meg thì cứng rắn hơn, kín đáo hơn – không nổi loạn nhưng đôi khi ương ngạnh, bí ẩn. Sự lặng lẽ của nó gây cảm giác về sức mạnh của tính cách, trong khi sự ương ngạnh lại là dấu hiệu của tính độc lập điềm tĩnh. Tóc nâu, và cắt thành những lọn thẳng. Mắt vàng sẫm, trong veo, chói sáng.
Chúng tôi hài lòng với những tính cách của con mình, thích thú với vẻ trái ngược nhau và vẻ xác định của từng cá tính. Chúng tôi không thích lắm quan điểm nặng nề, bảo thủ của cha mẹ. Tôi sợ cảm giác trở thành kiểu bà mẹ thân thể thì chảy xệ xuống, người nặng mùi vải bông, mùi sữa, nghiêm khắc với ba chuyện vặt vãnh. Tôi tin rằng tất cả những nỗi lo lắng quá mức của người mẹ, nhu cầu của họ vác lên vai vai trò của mình, chính là nguyên nhân của chứng đau khóc dạ đề ở trẻ con, chứng đái dầm, chứng hen suyễn. Tôi thích nuôi dạy con kiểu khác – sự liều lĩnh đầy giễu cợt, tính chế nhạo của những bà mẹ có trình độ chuyên môn thường viết bài cho các tạp chí. Trong các tạp chí ấy, những đứa trẻ tự mình lớn lên, sắc cạnh, bất thường, không bị bẻ gãy. Có những bà mẹ, với sự hóm hỉnh thông minh của họ, đã cứng cỏi được như thế. Những người mẹ trong đời thật làm tôi thích thú là những người có thể nhấc phone lên và thản nhiên nói, “Liệu cái bào thai Hitler của tôi có vô tình chạy qua nhà chị không?” Họ có thể cười hăng hắc trên đám sương mù đặc như sữa.
Tôi nhìn thấy một con nai chết cột trước chiếc xe tải nhỏ.
“Có ai đã bắn hạ nó,” Cynthia nói, “Những người thợ săn bắn mấy con nai.”
“Mùa săn đã tới đâu,” Andrew trả lời. Chắc là họ tông phải nó trên đường. Con có thấy bảng báo hiệu vẽ nai băng qua đường không?”
“Con sẽ khóc nếu chúng ta tông phải một con nai,” Cynthia nói nghiêm nghị.
Tôi làm những cái bánh mì kẹp với bơ, đậu phụng, mứt cam và quýt cho mấy đứa trẻ và món cá hồi sốt cà chua cho chúng tôi. Nhưng tôi không bỏ rau diếp xà lách vào và Andrew tỏ ra thất vọng.
“Nhưng em chẳng có miếng nào,” tôi bảo.
“Thế em chẳng có cách nào kiếm được à?”
“Em đã mua cả một bó cải xà lách vừa đủ cho bánh mì xăng uých, nhưng rồi em nghĩ không cần.”
Thật ra tôi nói dối, tôi đã quên mất.
“Có rau diếp xà lách thì ngon hơn,” anh nói.
“Em thì thấy chẳng có gì khác nhau,” sau một hồi tôi nói. “Đừng có cáu kỉnh như thế chứ.”
“Anh không cáu, anh chỉ thích xà lách ở trong món bánh mì kẹp mà thôi.”
“Em chẳng nghĩ chuyện đó quan trọng chi.”
“Thế nếu anh quên đổ xăng thì sao?”
“Hai chuyện đó khác nhau chứ.”
“Thôi hãy hát một bài ca,” Cynthia bảo. Rồi nó bắt đầu hát.
Năm chú vịt nhỏ một ngày đi ra
Đi lên ngọn đồi và đi thật xa
Một chú vịt nhỏ đi qua và kêu
Quác quác quác
Bốn con vịt nhỏ lúc lắc quay về
Andrew siết chặt tay tôi, bảo “Thôi mình đừng cãi nhau nữa.”
“Anh nói đúng. Lẽ ra em cần phải mua cải xà lách.”
“Thôi chuyện đó có chi quan trọng đâu.”
Tôi ước gì tôi có thể hướng những cảm giác về Andrew thành những cảm hứng có ích và đáng tin cậy. Tôi đã cố gắng viết hai danh sách, một là những thứ mà tôi thích về anh, cái kia là những thứ tôi không thích – trong đời sống thân mật vợ chồng có những thứ tôi thích, những thứ tôi ghét – như thể tôi hy vọng rằng điều này có thể mang lại một chứng minh nào đó, một kết luận nào đó. Nhưng rồi tôi lại bỏ cuộc vì thấy những điều ấy tôi biết rồi – rằng tôi có nhiều mâu thuẫn không sửa được. Đôi khi tiếng bước chân của anh ấy đối với tôi cũng có vẻ độc tài chuyên chế, cái miệng của anh ấy cũng có vẻ bần tiện và tự mãn, thân thể của anh cứng rắn thẳng thớm như một rào cản – một cách đầy ý thức, đầy bổn phận, sự hài lòng đáng ghét của quyền lực đàn ông – ở giữa tôi và niềm vui sướng hay nhẹ nhõm mà tôi có thể đạt được trong đời mình. Thế rồi không hề báo trước anh bỗng trở thành người bạn tốt, một người bạn đường quan trọng nhất trên đời. Tôi cảm nhận sự ngọt ngào của thân xác thanh thản, ý tưởng nghiêm nghị, sự yếu đuối dễ vỡ của tình yêu của anh, mà tôi hình dung ra là nó thuầm khiết hơn và trong sáng chân thật hơn so với tình yêu của tôi. Tôi có thể khi thì xúc động sâu xa vì sự cứng cỏi, tính khuôn phép đúng mức, khi thì chế nhạo chúng. Tôi nghĩ chồng tôi thật là khiêm tốn khi đứng ngay ngắn vào vị trí  của người chồng đã mặc định, vai trò của người cha, một người đi làm việc mang tiền về, và khi tự so sánh với những người đàn ông như vậy, tôi thấy mình là kẻ ích kỷ đáng ghét bí mật. Cũng không hẳn bí mật lắm, không phải nhìn từ phía anh.
Từ dưới sâu xa những cuộc cãi lộn giữa hai vợ chồng, chúng tôi lột hết những sự thật xấu xa nhất. “Anh biết có một điều gì đó rất ích kỷ và rất giả dối ở nơi em,” Andrew có lần nói, “Anh lúc nào cũng biết chuyện đó. Anh cũng biết rằng chính vì vậy mà anh yêu em.”
“Đúng thế,” tôi trả lời. Cảm thấy đau buồn nhưng tự mãn.
“Anh biết rằng em sẽ sống tốt hơn nếu chẳng có anh.”
“Đúng, em có thể như thế đấy.”
“Mà anh cũng hạnh phúc hơn nếu không có em.”
“Đúng chứ.”
Và rồi cuối cùng – cuối cùng – xô đẩy nhau, hành hạ nhau, chúng tôi lại vỗ tay và cười phá lên, cười vào mặt những kẻ ngốc khờ kia, tức cũng là chúng tôi. Sự đau khổ của họ, sự nhớ tiếc của họ, khả năng tự bào chữa cho mình của họ, chúng tôi đã vượt qua những điều ấy, chúng tôi tuyên bố họ là những kẻ nói dối. Chúng tôi uống rượu vang trong bữa tối hay quyết định tổ chức những bữa tiệc.
Đã nhiều năm tôi không gặp lại Andrew, không biết anh còn giữ dáng người thanh mảnh, hay tóc anh đã bạc, vẫn thói quen lúc nào cũng đòi ăn rau diếp xà lách, thích nói thật, hay vẫn nồng nàn và thất vọng như xưa.
Chúng tôi qua đêm ở Wenatchee, Washington, nơi nhiều tuần lễ không mưa. Chúng tôi ăn tối trong một nhà hàng dựng bên thân cây- không phải cây ghép trong chậu mà cây bông gòn mạnh mẽ cao lớn. Sáng sớm khi mặt trời mọc, chúng tôi lái xe ra khỏi thung lũng có nước tưới, leo lên những ngọn đồi khô cằn, sỏi đá, dốc đứng, mỗi ngày một thêm nhiều đồi cho đến khi tới một cao nguyên rộng xuyên qua bởi sông Spokane và sông Columbia. Trung du và thảo nguyên, dặm đường này đến dặm đường kia. Rồi có những con đường thẳng tắp, những thị trấn nông trại nhỏ, những kho tồn trữ lúa mì. Một cái bảng trên đường ghi rõ vùng chúng tôi đi vào, hạt Douglas, là nơi sản xuất lúa mì lớn thứ hai ở Mỹ. Có những thị trấn trồng nhiều cây xanh bóng mát. Hoặc ít ra tôi nghĩ chúng được trồng, bởi vì không thấy những cây lớn như thế ở vùng quê lân cận.
Tất cả khung cảnh ấy chào đón tôi một cách huy hoàng. “Vì sao em yêu chúng đến vậy?” Tôi bảo Andrew. “Chẳng phải vì nó hấp dẫn hay sao?”
“Vì nó gợi nhớ tới quê nhà của em,” Andrew nói. “Một nỗi hoài hương khẩn trương bi thiết”.
Nhưng anh nói thế với giọng tử tế.
Khi nói đến chữ “quê nhà” và ám chỉ Ontario, hai chúng tôi nghĩ đến những vùng khác nhau. Cố thổ của tôi là một nông trại nuôi gà tây, nơi cha tôi sống như người đàn ông góa vợ, và mặc dù đó là ngôi nhà mẹ tôi hằng sống, bà đã từng dán giấy lên tường, sơn phết dọn dẹp, sắp đặt bàn ghế, vẫn thấy rõ dấu hiệu của điêu tàn, của cuộc sống bắt đầu hoang dại. Một đời sống tiếp tục kiểu mà mẹ tôi không thể đoán trước hay tha thứ. Có những buổi tiệc của những người thợ làm gà tây, thợ máng nước, thợ nhổ lông gà, đôi khi có một hai chàng trẻ tuổi sống tạm vài ngày như quán trọ, rủ rê bạn bè tới tiệc tùng vui nhộn. Đời sống ấy, tôi nghĩ tốt hơn nhiều cho cha tôi so với cuộc sống cô đơn lặng lẽ, mà tôi cũng không bài bác và chẳng có quyền gì để phê phán. Andrew hoàn toàn không thích tới đó, cũng dễ hiểu thôi, bởi vì anh không phải loại người có thể ngồi lòng vòng quanh bàn bếp với những người thợ làm gà, kể chuyện chọc cười vui vẻ. Những người thợ ngượng ngùng khi có mặt anh, cảm thấy như bị coi thường, và đối với tôi thì cha tôi, những khi họ ở đó, cần đứng về phía họ. Và không chỉ Andrew là bực bội. Tôi chịu được chuyện pha trò của đám thợ, nhưng cũng phải cố gắng lắm.
Tôi ước những ngày nhỏ dại, trước khi gia đình có trại gà tây. Trước đó chúng tôi nuôi bò sữa và bán sữa cho hãng phô-mát. Trại gà không thể nào sánh được với trại nuôi bò hay nuôi cừu. Bạn có thể thấy những con gà tây nằm trên một băng dài nối tới những thùng đông lạnh và thịt chuẩn bị ăn được. Chúng không có vẻ giả tạo của đời sống thanh bình trong trại gia súc, những con lợn trong vườn cây râm mát. Chuồng gà là một dãy nhà dài, tiện lợi, làm bằng tôn. Không có những cái túi hay cỏ hay chuồng. Ngay mùi phân gà tuy loãng hơn nhưng lại khó chịu hơn phân bò. Không có một hình ảnh nào về cuộn cỏ, hàng rào hay chim chóc ca hát hay bụi mận gai trổ bông. Những con gà tây để đầy trên mặt đất nhưng chúng đã được rửa sạch. Chúng trông không giống những con chim lớn mà giống một thứ đồ đem giặt biết đập cánh.
Một lần nọ, ít lâu sau khi mẹ tôi qua đời và khi tôi đã lập gia đình – thực tế là tôi đã gói đồ đạc chuẩn bị về ở với Andrew ở Vancouver – tôi ở lại nhà vài ngày với cha tôi. Trời mưa lớn khác thường suốt đêm. Sáng sớm, trại nuôi gà ngập lụt. Ít nhất là những chỗ thấp bị ngập nước- trông như cái hồ với những hòn đảo nhỏ. Những con gà đứng xúm xít lại trên các hòn đảo ấy. Gà tây là thứ rất ngốc. Cha tôi vẫn nói, “Con có biết gà không? Có biết chúng xuẩn ngốc cỡ nào chưa? Vậy mà gà vẫn còn là Einstein nếu đem so với bọn gà tây này”. Nhưng chúng vẫn biết tụ lại trên cao để tránh chết trôi. Bây giờ chúng xô đẩy nhau đến ngạt thở, run lạnh và chết. Không thể chờ nước rút. Chúng tôi kiếm chiếc xuồng cũ, tôi chèo còn cha tôi nắm những con gà lôi chúng lên xuồng, mang chúng vào trại gia súc. Trời vẫn còn mưa lai rai. Công việc thật vất vả, nhàm chán và khó chịu. Chúng tôi cười phá lên. Tôi cảm thấy hạnh phúc có dịp làm việc với cha tôi. Tôi cảm thấy gần gũi với thứ công việc nặng nhọc, lập đi lập lại, kinh khủng, khi thân xác bạn rã rời, trí óc chìm nghỉm (dù đôi khi tinh thần khinh khoái), và lòng tôi chưa chi đã nảy sinh mối hoài niệm lạ lùng về nơi chốn đây, cuộc sống này, trong những ngày sắp tới. Tôi nghĩ là nếu Andrew nhìn thấy tôi trong hoàn cảnh như thế, trong mưa, lòng bàn tay đỏ ửng lên, người đầy bùn, vừa cố nắm chặt chân gà vừa chèo thuyền, chắc anh chỉ muốn lôi tôi ra khỏi chỗ này và làm tôi quên bẵng đi mọi việc ở đây. Cuộc sống thô sơ như nhiên này làm anh tức giận. Sự gắn bó của tôi với nó càng làm anh giận dữ. Tôi nghĩ lẽ ra tôi không nên lấy anh. Nhưng lấy ai bây giờ? Một trong những người thợ làm gà tây chăng?
Và tôi cũng không muốn ở đây lâu. Có lẽ tôi sẽ buồn khi bỏ đi, nhưng còn tệ hơn nếu có ai đó khiến tôi phải ở lại.
Mẹ của Andrew sống ở Toronto trong một căn hộ chung cư nhìn ra công viên Muir. Khi Andrew và người chị của anh còn ở nhà, mẹ họ ngủ ngoài phòng khách. Chồng của bà, một bác sĩ, qua đời khi những đứa trẻ còn nhỏ dại chưa đến tuổi tới trường. Bà học một khóa huấn luyện thư ký và bán căn nhà của mình với giá rẻ mạt, dọn vào cư xá, nuôi dạy con cái tươm tất, với sự giúp đỡ của vài người thân- người chị của bà tên Caroline, người anh rể tên Roger. Andrew và chị đi học trường tư và đi cắm trại mùa hè.
“Thế mà em cứ tưởng là nhờ quỹ tương tế xã hội kia chứ?” Có lần tôi bảo thế, chế nhạo anh về việc anh tự cho mình là một người nghèo. Trong trí tôi, đời sống thành thị của Andrew an toàn quá mức, cầu kỳ kiểu cách. Mẹ của anh về nhà ôm lấy đầu sau một ngày làm việc đầy tiếng động, ánh sáng chói chang của văn phòng tiệm tạp hóa, nhưng đối với tôi đời sống của bà không có gì khó khăn hay đáng thán phục. Tôi không nghĩ bản thân bà tin rằng mình là một người đáng thán phục – chỉ là không may mắn. Bà lo lắng về công việc của mình ở văn phòng, quần áo, việc bếp núc, con cái. Bà lo âu gần như về tất cả những gì mà Roger và Caroline có thể để mắt tới.
Caroline và Roger sống ở phía đông của công viên, trong một ngôi nhà đá đẹp tuyệt. Roger cao, hói đầu, da mặt tàn nhang, có cái bụng lớn nhưng rắn chắc. Cuộc giải phẫu ở vùng họng làm ông nói giọng khó nghe – như tiếng thì thào thô ráp. Nhưng ai cũng chú ý nghe cả. Có lần trong bữa ăn tối ở ngôi nhà bằng đá kia – tất cả những bàn ghế đồ đạc trong phòng ăn đều lớn, màu tối lộng lẫy, nguy nga – tôi hỏi anh một câu. Tôi nghĩ là có liên quan đến Whittakers Chambers, câu chuyện của ông ta xuất hiện trên báo Bưu Điện Chiều Thứ Bảy. Tôi hỏi nhẹ nhàng thôi nhưng anh nghĩ là có dụng ý khiêu khích và gọi tôi là bà Gromyko, ý muốn nói người mà tôi cùng chia sẻ quan điểm. Có thể anh cần một đối thủ nhưng chẳng tìm thấy ai. Trong bữa ăn tối, tôi nhìn thấy tay của Andrew run lên khi anh bật lửa châm thuốc cho mẹ anh. Dượng Roger trả tiền cho việc học hành cho Andrew, và có chân trong ban giám đốc của một số công ty.
“Dượng ấy chỉ là một người có quan niệm ương bướng,” sau này Andrew bảo tôi. “Làm gì mà em cứ phải tranh cãi với ông?”
Trước khi chúng tôi rời Vancouver, mẹ của Andrew viết thư, Roger có vẻ tò mò về ý định của con muốn mua một cái xe hơi loại nhỏ! Dấu chấm than của bà diễn tả lo ngại. Vào thời đó, đặc biệt là ở Ontario, việc mua một chiếc xe hơi nhỏ kiểu châu Âu thay vì xe Mỹ cỡ bự trông như là một bản tuyên bố – một tuyên bố về lập trường mà Roger đánh hơi được từ lâu.
“Nhưng xe này không thuộc loại xe nhỏ,” Andrew nói bực bội.
“Đó không phải là điểm chính,” tôi bảo anh. “Điểm chính là, mắc mớ chi tới dượng ấy!”.
Chúng tôi qua đêm thứ hai ở Missoula. Người ta bảo chúng tôi trong một trạm đổ xăng ở Spokane, là có chỗ sửa chữa xe cộ phụ tùng dọc theo tuyến đường cao tốc số 2 và chúng tôi đã lái qua những dặm đường nóng nực đầy bụi bặm, những thời gian chờ đợi rất dài, vì vậy chúng tôi rẽ về xa lộ liên tỉnh, băng qua Coeur d’Alene và Kellogg để vào Montana. Qua khỏi Missoula chúng tôi hướng lên phía nam về phía Butte, nhưng rồi vòng lại để thăm Helena, thủ phủ của tiểu bang Montana. Trên xe hơi chúng tôi chơi trò Tôi Là Ai?
Cynthia đóng vai một người Mỹ, một người đã chết, và có thể là bé gái. Có thể một phụ nữ. Cô ấy không có mặt trong câu chuyện. Cô không hề xuất hiện trên tivi. Cynthia cũng không đọc gì về cô ta trong sách. Cô không phải là người đã từng tới thăm lớp mẫu giáo hay bà con gì của bạn bè của Cynthia.
“Cô ta có phải là người không?” Andrew hỏi một cách tinh ý đột ngột.
“Không! Đó là thứ mọi người quên hỏi!”
“Một con vật,” Tôi nói sau khi đã suy nghĩ.
“Có phải đó là một câu hỏi không? Có mười sáu câu hỏi!”
“Không, đó không phải là một câu hỏi. Mẹ đang suy nghĩ. Một con vật đã chết.”
“Đó là con nai,” Meg nói, nhưng nó không phải là người chơi.
“Không công bằng!” Cynthia nói. “Meg không chơi.”
“Con nai nào?” Andrew nói.
Tôi bảo, “Ngày hôm qua”
“Ngày hôm trước,” Cynthia nói. “Meg không chơi. Không ai đoán được.”
“Con nai trên xe tải,” Andrew bảo.
“Đó là một con nai cái, vì nó không có gạc, và đó là một con nai Mỹ, và nó đã chết rồi,” Cynthia bảo.
Andrew nói, “Cha nghĩ đó là ý tưởng bệnh hoạn, đóng vai một con nai chết.”
“Con hiểu rồi,” Meg nói.
Cynthia bảo, “Con nghĩ con biết bệnh hoạn nghĩa là gì. Đó là một thứ sầu muộn.”
Helena, một thị trấn khai mỏ bạc cũ, trông hoang vắng ngay trong ánh nắng bình minh. Rồi đến Bozeman và Billings, không tiêu điều chút nào –sống động mạnh mẽ với nhiều dặm dài lóng lánh kim tuyến của bãi bán xe hơi cũ. Chúng tôi mệt lử và cảm thấy nóng ngay cả khi chơi trò Tôi Là Ai? Những thành phố bận rộn và tẻ nhạt nhắc tôi nhớ tới những địa điểm khác ở Ontario, và tôi sực nghĩ, điều gì thực ra đang chờ đợi mình ở đó – những đồ đạc bia đá trong phòng ăn của dì dượng Caroline và Roger, những bữa ăn tối khiến tôi phải ủi những bộ trang phục của trẻ con, nhắc chúng về những cái nĩa và một cái bàn ăn khác một trăm dặm xa, những trêu đùa chọc ghẹo của đám thợ làm gà tây của cha tôi. Niềm vui thú tôi hằng nghĩ tới – thả mắt nhìn ra xa vùng quê êm ả hay uống một chai Coke trong tiệm tạp hoá cũ với những cây quạt trần và mái tôn cao – đã bị những thứ ấy giựt phăng mất.
“Meg buồn ngủ,” Cynthia nói. “Nó nóng quá. Làm con ngồi gần cũng nóng lây.”
“Mẹ hy vọng là nó không bị sốt,” tôi bảo, không ngoảnh lại.
Chúng tôi làm những chuyện này vì cái gì, tôi nghĩ thầm, và câu trả lời đến ngay – để khoe thôi. Để cho mẹ của Andrew và cha tôi niềm vui gặp cháu của họ. Đó là bổn phận. Nhưng đằng sau cái đó chúng tôi còn muốn khoe một điều gì khác nữa. Thực là những đứa trẻ hăm hở biết bao, tôi và Andrew, những kẻ lúc nào cũng đi tìm sự tán đồng ở người khác. Như thể vào một lúc nào đó ở một điểm nào đó chúng tôi đã nhận được những thông điệp khó nuốt không thể nào quên – rằng chúng tôi đã đi quá xa, và rằng sự thành công thông thường trong đời đã ở sau lưng chúng tôi quá lâu. Dượng Roger đã phát đi những thông điệp ấy, tất nhiên theo cách của ông – nhưng mẹ của Andrew, mẹ tôi và cha tôi, cũng không ai khác biết cách phát đi thông điệp. Tất cả họ đều muốn nói với chúng tôi rằng “ Cẩn thận đấy, phải hoà hợp với mọi người thôi”. Cha tôi khi tôi còn ở trung học đã từng chế nhạo rằng tôi nghĩ mình quá thông minh nên chắc không bao giờ có một đứa bạn trai. Rồi ông quên bẵng điều ông nói trong một tuần, nhưng tôi thì không bao giờ quên. Andrew và tôi không quên điều gì cả. Chúng tôi dễ bị tổn thương.
“Con ước có một bãi biển,” Cynthia nói.
“Có lẽ có một cái,” Andrew bảo. “Ngay phía sau đường lượn vòng.”
“Không có đường vòng nào cả,” Cynthia bảo, giống như tức tối.
“Mẹ cũng muốn nói thế đấy.”
“Con ước gì có một ly chanh đường.”
“Mẹ thì muốn có cây đũa thần và biến phép một ly chanh đường,” tôi nói. “Được thôi, Cynthia? Hay là một ly nước nho vắt? Rồi mẹ hoá phép một bãi biển ở đó nữa”
Cynthia im lặng và tôi cảm thấy hối hận ngay. “Có thể trong thị trấn trước mặt sẽ có một bể bơi,” tôi nói. Tôi nhìn bản đồ. “Ở thị trấn Miles City. Dù sao chúng ta sẽ có một thứ gì đó mát để uống.”
“Xa hay gần hả em?” Andrew hỏi.
“Không xa lắm đâu,” tôi nói, “Ba mươi dặm, cỡ đó.”
“Ở thị trấn Miles City,” Cynthia nói, giọng trầm xuống như đang niệm chú, “sẽ có một bể bơi xanh ngắt đẹp tuyệt dành cho trẻ con và một công viên cây cối mơ màng.”
Andrew bảo tôi, “Em có thể bắt đầu vài thứ em thích”.
Nhưng quả thật có một bể bơi. Một công viên nữa, mặc dù nó không giống ốc đảo trong mơ của Cynthia. Những cây cối thảo nguyên có lá mỏng – cây bông gòn và cây dương – cỏ uá, và hàng rào thép bao quanh bể tắm. Bên trong hàng rào ấy, một bức tường chưa xây xong gồm những tấm xi măng ghép. Không có tiếng cười đùa, tiếng giỡn nước; xuyên qua lối vào tôi nhìn thấy tấm bảng ghi bể bơi tạm đóng cửa từ mười hai giờ trưa đến hai giờ chiều. Lúc đó là mười hai giờ hai mươi lăm phút.
Nhưng tôi vẫn gọi, “Có ai đó không?” tôi nghĩ có người quanh đây, vì một chiếc xe tải nhỏ đỗ trên lối vào. Trên thành xe có tấm bảng ghi:  Chúng tôi có mưu lược để sửa chữa ống nước. (Chúng tôi cũng có dịch vụ hút cầu Roto- Rooter).
Một cô gái chạy ra, mặc áo cứu hộ màu đỏ bên ngoài bộ đồ tắm. “Xin lỗi, chúng tôi đóng cửa.”
“Chúng tôi vừa lái xe ngang qua,” tôi nói.
“Chúng tôi đóng cửa mỗi ngày từ mười hai giờ trưa đến hai giờ chiều. Trên bảng có ghi rõ.” Cô ta đang ăn bánh mì xăng uých.
“Tôi có thấy tấm bảng,” tôi nói. “Nhưng đây là nơi đầu tiên có nước tắm rửa sau nhiều ngày đường, mà các cháu thì nóng nực quá sức, và tôi mong chúng có thể nhảy ùm xuống nước một lát- chỉ năm phút thôi mà. Chúng tôi sẽ canh chừng chúng.’
Mộ cậu trai trẻ xuất hiện sau lưng cô gái. Chàng trai mang quần jeans và áo thun in hàng chữ Roto- Rooter.
Tôi định kể chúng tôi đi từ British Columbia đến Ontario nhưng chợt nhớ đối với nhiều người Mỹ mấy cái địa danh Canada này chẳng gợi lên điều gì nên thôi.”Chúng tôi lái xe xuyên liên bang,” tôi nói. “Chúng tôi không có thời giờ để chờ bể bơi mở cửa. Chỉ hy vọng là các cháu có cái gì tắm mát một chút.”
Cynthia chạy chân không tới đằng sau tôi.”Mẹ. Mẹ ơi, bộ đồ tắm của con đâu?” Rồi nó dừng lại, nhận ra tính nghiêm trọng trong cuộc thương lượng của hai chúng tôi. Meg đang trèo ra khỏi xe hơi- vừa thức giấc, áo kéo lên đầu, quần tụt xuống bẹn, bày cái bụng hồng hồng.
“Chỉ có hai đứa bé này thôi à?” cô gái hỏi.
” Chỉ hai cháu này thôi. Chúng tôi sẽ canh chừng chúng ạ.”
“Tôi không thể cho người lớn vào đây. Nếu chỉ có hai đứa, tôi nghĩ tôi có thể coi được. Tôi đang ăn trưa.” Cô ta hỏi Cynthia, ” Cháu có muốn xuống hồ bơi không?”
“Dạ có ạ,” Cynthia trả lời rõ ràng.
Meg nhìn xuống đất.
“Chỉ một lát thôi, vì hồ bơi đã đóng cửa,” tôi nói.” Chúng tôi thực cám ơn cô lắm lắm,” tôi bảo cô gái.
“Thôi vậy, tôi có thể ăn trưa ngoài ấy, nếu chỉ có hai cô bé này.” Cô nhìn ra xe chúng tôi như thể  bỗng dưng tôi có thể lôi ra thêm vài đứa trẻ nữa.
Khi tôi tìm ra bộ đồ tắm của Cynthia, nó mang ngay vào phòng thay đồ. Nó không muốn ai, ngay cả Meg, nhìn thấy nó ở truồng. Tôi thay đồ cho Meg, nó đứng trên ghế trước trong xe. Nó có bộ đồ tắm bằng vải hồng với dây buộc và nút cài. Có giải rút ở đũng quần.
“Người cháu nóng lắm,” tôi nói.” Nhưng tôi nghĩ không phải bị sốt đâu.”
Tôi thích giúp Meg mặc hay cởi áo quần, vì cơ thể nó còn chưa tự ý thức về mình, với tính thờ ơ ngọt ngào, một cái gì như mùi sữa, của trẻ sơ sinh. Cơ thể của Cynthia thì từ lâu đã được gọt giũa, tạo hình và thay đổi, để trở thành chính Cynthia. Ai cũng  muốn hôn lấy hôn để, quệt mặt vào người Meg. Đôi khi nó nhăn nhó bực bội, đánh lại chúng tôi, và tính tự lập quyết liệt, sự ngượng ngùng giận dữ này, càng làm nó thêm hấp dẫn, khiến người ta cứ muốn ôm nghiến lấy, thọc lét, kiểu người thân trong nhà.
Andrew và tôi ngồi trong xe hơi, cửa kính hạ xuống. Tôi nghe được tiếng nhạc vẳng ra từ radio và nghĩ đó là máy của cô gái hay bạn trai cô ta.Tôi khát quá, ra kỏi xe, tìm một chỗ mát mẻ, hay một cái máy bán thức uống, đâu đó trong công viên. Tôi mang quần đùi và sau hai bắp chân ướt lẫm mồ hôi. Tôi thấy một vòi nước uống bên kia công viên và đi tới đó bằng lối vòng dưới bóng hàng cây. Không có gì là có thật cả cho đến khi bạn bước ra khỏi xe. Lừ đừ vì nóng, vì mặt trời trên các ngôi nhà bỏng rộp lửa, hè đường, cỏ cháy, tôi bước đi chậm chạp. Tôi chú ý đến một chiếc lá bị dẫm nát, bóp vụn một que khuấy cà phê dưới gót giày, nheo mắt nhìn thùng rác cột vào thân cây. Đó là cách bạn quan sát những vật hèn mọn nhất bỗng trồi lên bề mặt thế giới, sau khi bạn đã lái xe đi thật lâu- bạn cảm nhận được tính chất riêng biệt của chúng, nơi cư ngụ chính xác và nỗi trùng hợp tình cờ đáng thương của việc bạn cũng có mặt nơi đây để nhìn ngắm chúng.
Những đứa trẻ đâu rồi?
Tôi xoay người lại, bước rất mau, không hẳn là chạy, tới bên một đoạn hàng rào nơi bức tường bên trong chưa xây xong. Từ đây tôi có thể nhìn thấy hồ bơi. Tôi thấy Cynthia, đứng ngâm mình trong nước ngang thắt lưng, vung tay đập nước và chăm chăm nhìn một vật gì phía cuối hồ bơi, nhưng tôi không thấy được. Căn cứ vào dáng đứng của nó, sự chăm chú, vẻ mặt, tôi nghĩ nó đang coi mấy trò của cô gái cứu hộ và gã bồ cô ta. Tôi không thấy Meg. Nhưng tôi nghĩ nó đang chơi ở chỗ nước cạn- cả hai đầu nước cạn và nước sâu tôi đều không nhìn thấy.
“Cynthia!” Tôi phải gọi hai lần con bé mới nhìn ra chỗ đứng của tôi.”Cynthia! Meg đâu rồi?”
Có vẻ Cynthia, bất cứ khi nào tôi nhớ lại cảnh này, quay mình duyên dáng về phía tôi, rồi xoay cả người trong nước- làm tôi nghĩ tới một vũ điệu ba lê – và dang tay ra như đứng trên sân khấu. “B- i- ế- n- m- ấ- t!”
Cynthia vốn có tính duyên dáng tự nhiên, mà con bé lại học múa, vì thế những động tác này có thể đã xảy ra đúng như thế thật. Nó quả thật có nói “Biến mất!” sau khi đã nhìn quanh mặt hồ một lượt, nhưng điệu bộ và cách nói giả tạo này, cái kiểu không hề khẩn trương chi, thì chắc là do sự tưởng tượng thêm của tôi. Nỗi sợ hãi xâm chiếm lập tức khi không tìm thấy con bé Meg- ngay cả khi tôi tự bảo mình có lẽ nó đứng phía nước cạn- đã là nguyên cớ khiến những cử chỉ của Cythia trở nên quá chậm chạp, quá vô lý đối với tôi, và giọng điệu của chữ “Biến mất” ngay trước khi hàm ý của nó kịp xuất hiện (hay là con bé che giấu, ngay tức thì, cảm giác tội lỗi của nó?) trở nên một lời nói ích kỷ không chịu nổi.
Tôi la lớn lên gọi Andrew, và cô gái coi hồ bơi lập tức xuất hiện. Cô chỉ tay về phía vùng nước sâu và nói, “Cái gì kia kìa?”
Ở đó, ngay trước mắt tôi, một nhúm giải rút hồng hồng phồng lên, trông như một bó hoa, ngay dưới làn nước. Làm sao một nhân viên cứu nạn lại có thể đứng dừng lại và chỉ tay, sao cô ta lại có thể hỏi như thế, sao không nhảy ùm xuống nước và bơi về phía ấy? Cô ta không bơi; mà chạy dọc bờ nước. Nhưng lúc ấy Andrew đã leo lên hàng rào. Bao nhiêu thứ xảy ra không thể giải thích chút nào- cử chỉ của Cynthia rồi đến điệu bộ của cô nhân viên cứu nạn- và bây giờ tôi lại có cảm giác rằng Andrew nhảy phóc một cái đã qua được hàng rào cao bảy bộ. Chắc anh phải trèo nhanh lắm, túm chặt hàng rào dây thép.
Tôi không thể nhảy hay leo gì cả, tôi chạy về phía lối vào, ở đó có một cái cổng kiểu mắt cáo, khoá chặt. Cái cổng không cao lắm, và tôi đu người trèo qua. Tôi chạy dọc theo hành lang xi măng, tới sát mép nước.

(xem tiếp phía dưới)
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: THỊ TRẤN BÊN ĐƯỜNG - ALICE MUNRO (tiếp theo)   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeMon Dec 02, 2013 11:33 am



THỊ TRẤN BÊN ĐƯỜNG - ALICE MUNRO (tiếp theo)

Bi kịch kết thúc.


Andrew nắm được Meg đầu tiên, và kéo nó lên khỏi mặt nước. Anh chỉ cần vươn tay ra là nắm lấy nó, vì Meg phần nào đang tự bơi, nhưng đầu đã hụp sâu trong nước – nó lặn ngụp về phía thành hồ tắm. Anh bồng nó đi, và cô cứu hộ bước nhanh phía sau. Cynthia vừa trèo ra khỏi nước và chạy về phía họ. Chỉ một người thờ ơ với toàn bộ sự việc là gã bạn trai của cô nhân viên, cứ ngồi trên ghế dài phía nước cạn, uống một thứ nước pha sữa. Anh ta còn mỉm cười với tôi, và tôi nghĩ thật kẻ là vô cảm, mặc dù nguy hiểm đã qua. Cũng có thể anh ta có hảo ý. Tôi để ý thấy anh ta không tắt radio đi, chỉ vặn nhỏ xuống.
Meg không uống nước đầy bụng. Con bé thậm chí chưa kịp sợ hãi. Tóc dính bết vào đầu và mắt mở to, vàng long lanh.
” Con muốn xuống lấy cái lược,” nó nói.”Con không biết nước sâu thế.”
Andrew nói,”Meg vẫn tự bơi! Nó bơi mình nó. Anh thấy bộ đồ tắm của con trong nước rồi anh thấy nó bơi”
“Nó sắp chìm nghỉm luôn rồi,” Cynthia nói. “Không phải vậy sao? Meg sắp chết đuối.”
“Tôi không biết mọi chuyện có thể xảy ra như thế.” Cô cứu hộ nói. “Con bé vừa mới ở chỗ này, chỉ một thoáng đã không còn đó nữa.”
Chuyện xảy ra là Meg đã lên khỏi nước ở phía nước cạn và chạy dọc theo bể bơi đến đầu kia, chỗ nước sâu. Nó thấy một cái lược người nào đánh rơi dưới đáy. Nó khom người cúi thật sát để lượm cái lược lên, tưởng là nước không sâu. Nó chồm người lên nữa và trượt chân xuống hồ, rơi bõm một cái nhưng không ai nghe được tiếng động- kể cả cô gái cứu hộ, đang bận hôn anh bồ của mình, hoặc Cynthia đang đứng mãi nhìn hai người. Đó đúng là lúc khi tôi đứng dưới bóng cây và chợt nghĩ, Bọn trẻ đang ở đâu vậy? Đó cũng là lúc, Meg trượt chân, lấy làm ngạc nhiên, xuống làn nước trong xanh dễ đánh lừa người ta.
“Mọi chuyện ổn rồi,” tôi bảo cô nhân viên, lúc ấy gần sắp khóc. “Con bé bơi rất nhanh.” (Mặc dù thường chúng tôi không nói về Meg như thế. Chúng tôi nói nó ngẫm nghĩ mọi chuyện trước đã rồi mới thong thả làm.)
“Em đã bơi, Meg”, Cynthia nói, kiểu như chúc mừng. (Sau này nó kể cho chúng tôi nghe về việc hai người kia hôn nhau.)
“Con không biết là nước sâu thế,” Meg bảo. “Con đã không bị chết đuối.”
Chúng tôi ăn trưa ở một tiệm bán thức ăn mang đi, có bánh mì kẹp thịt heo hamburger và khoai tây chiên, ngồi quanh một cái bàn ngoài trời không xa lắm xa lộ cao tốc. Quá vui mừng, tôi quên bẵng mua cho Meg một cái bánh mì kẹp không mùi, và phải cạo bỏ dưa và mù tạt bằng muỗng nhựa, rồi lau miếng thịt với tấm giấy chùi miệng, trước khi đưa cho con bé ăn. Tôi lợi dụng cái thùng rác gần đó để lau chùi xe hơi. Rồi chúng tôi lại lên đường lái xe về phương Đông, cửa kính xe hơi phía trước mở hết ra. Cynthia và Meg ngủ thiếp đi trên băng ghế sau.
Andrew và tôi thầm thì trò chuyện về những điều vừa xảy ra. Giả sử tôi không linh cảm vụt chạy đi tìm những đứa trẻ vào lúc ấy? Giả sử chúng tôi đi vào thành phố để uống một cái gì, như dự định ban đầu thì sao? Làm thế nào Andrew có thể nhảy qua hàng rào? Anh ấy trèo lên hay thực sự đã nhảy qua? (Anh không thể nào nhớ nổi.) Làm cách nào anh đã chạy tới và chụp lấy Meg nhanh đến thế? Và nghĩ đến chuyện cô nhân viên cứu hộ không hề nhìn nhỏi gì đến con bé. Rồi Cynthia đứng trân trân nhìn hai người kia hôn hít nhau. Nó chẳng nhìn thấy gì khác nữa. Không nhìn thấy Meg rơi khỏi mép nước.
Biến mất.
Nhưng nó còn bơi. Nó nín thở và tiếp tục bơi.
Một chuỗi những biến cố may mắn.
Đó là tất cả những gì chúng tôi trò chuyện- may mắn. Nhưng tôi không thể ngừng mà không nghĩ đến chuyện tệ hại xảy ra theo hướng ngược lại. Vào lúc này đây, chúng tôi đã có thể phải ngồi điền những tờ đơn khai báo. Người ta mang Meg khỏi vòng tay của chúng tôi, cơ thể nó được quấn lại chuẩn bị chở đi xa. Về lại Vancouver- nơi chúng tôi chẳng bao giờ lưu ý đến một thứ gì như là nghĩa địa- hay tới Ontario? Những bức tranh nguệch ngoạc mà Meg vẽ sáng nay chắc vẫn còn nằm lại trên ghế ngồi của nó sau xe. Làm thế nào tất cả những điều này có thể chịu đựng được, làm sao con người có thể đương đầu nổi với những câu chuyện như thế? Đôi vai và hai bàn tay và hai bàn chân ngọt ngào, tròn trịa, mái tóc nâu óng ả, vẻ mặt hài lòng và bí ẩn – tất cả đều giống hệt như lúc nó còn sống. Một bi kịch hết sức đời thường. Một đứa trẻ chết trôi trong một bể bơi vào buổi trưa một ngày mùa hạ sáng lòa. Mọi việc sẽ thu gọn lại mau chóng. Hồ bơi sẽ mở cửa lại lúc hai giờ chiều. Cô nhân viện cứu hộ sẽ run rẩy một lúc và xin phép nghỉ việc chiều hôm đó. Cô sẽ lái xe ra đi cùng với người tình trên chiếc xe tải nhỏ hút cầu Roto-Rooter. Cái xác của đứa bé sẽ được khâm liệm trong chiếc quan tài nhỏ để chở đi. Thuốc an thần, những cuộc gọi điện thoại, những thu xếp này nọ. Sự trống rỗng bỗng nhiên ập tới, nỗi chìm khuất và dịch chuyển mù tối. Thức giấc choáng váng vì thuốc ngủ và an thần, trong một lát chợt nghĩ thầm ồ đó là điều không thật. Rồi nghĩ rằng giá như chúng tôi không dừng lại bên đường, giá như chúng tôi đừng đi con đường này, giá như họ không cho phép chúng tôi dùng bể bơi. Có lẽ sẽ không một người nào biết gì về cái lược im lặng nằm dưới đáy hồ kia.
Có một điều gì đó tồi tệ đối với trí tưởng tượng kiểu này, phải không? Một điều gì như sự xấu hổ. Đặt ngón tay của bạn lên hàng rào thép gai, nhận một cú sốc điện, biết được cảm giác ấy thế nào, rồi giựt tay lại. Tôi tin là Andrew còn tỉ mỉ hơn tôi về những điều này, và vào lúc ấy anh cố tình nghĩ đến việc khác.
Khi đứng tách khỏi cha mẹ tôi trong tang lễ của Steve Gauley và quan sát họ, tôi đã bắt gặp cảm giác mới mẻ này, không thoải mái chút nào về họ, tôi nghĩ rằng tôi bắt đầu thấu hiểu một điều gì đó về cha mẹ, lần đầu tiên trong đời. Một điều gì nghiêm trọng chết người. Tôi hiểu ra rằng họ có dính líu tới tai nạn này. Thân thể cao lớn, cứng nhắc, trong y phục nghiêm trang, vẫn không thể nào chắn ngang giữa tôi và cái chết đột ngột kia, hoặc bất kỳ một cái chết nào khác. Họ đã tán thành tai nạn ấy. Có vẻ như vậy. Họ đã cho phép cái chết của những đứa trẻ và cái chết của tôi nữa, xảy ra, không phải bởi lời nói hay hành động của họ, mà bởi vì chính họ đã sinh ra những đứa trẻ ấy trên đời – họ đã sinh ra tôi. Họ đã tạo ra tôi, và vì lý do đó cái chết của tôi – bất kể họ khóc thương thế nào, bất kỳ họ chịu đựng ra sao – đối với họ cũng đều không phải là thứ không tự nhiên hay không thể xảy ra được. Đó là một điều có thật, dù ngay lúc ấy tôi cũng biết rằng thật ra họ không đáng trách.
Nhưng tôi đã trách họ. Tôi đã buộc tội họ về sự trơ tráo, thói đạo đức giả. Thay mặt cho Steve Gauley, cho tất cả những đứa trẻ khác, những kẻ biết rằng chúng có quyền vươn thẳng lên tự do, được sống cuộc đời mới, tuyệt diệu, không bị mắc vào những cái bẫy của người lớn với đời sống thất bại, tình dục và các tang lễ của họ.
Steve đã chết đuối, người ta bảo thế, bởi vì nó gần như là một đứa trẻ mồ côi và được phép rong chơi tự do tha hồ. Nếu nó được nhắc nhở kịp thời, giao cho công kia việc nọ để làm, được giám sát kỹ càng, nó đã không thể nào tuột tay từ một cành cây mỏng mảnh không đáng tin cậy chút nào mà rơi xuống ao nước mùa xuân, rơi vào một cái hố đào sỏi gần bờ sông – nó đã không chết đuối. Nó đã bị bỏ rơi, nó đã được thả rong tự do, và nó đã chết. Và cha nó vẫn thấy đó là một tai nạn, như thứ có thể xảy ra cho một con chó. Ông ta không có cả một bồ đồ lễ tử tế để mặc trong ngày đám tang của con, cũng không cúi đầu khi cầu nguyện. Nhưng ông ta là người lớn duy nhất mà tôi không thèm trách cứ. Ông ta là người duy nhất mà tôi không thấy rõ sự tán thành. Ông ta đã không thể ngăn ngừa một điều gì, nhưng ông ta cũng không dính líu đến tai nạn – không giống như những người lớn khác trong khi cầu nguyện lời Chúa với giọng trầm trọng không mấy tự nhiên, làm rỉ ra thứ tín ngưỡng và thứ mất danh dự đáng hổ thẹn.

Khi tới vùng Glendive, không xa biên giới North Dakota, chúng tôi có một chọn lựa – hoặc là tiếp tục đi theo xa lộ liên tỉnh, hoặc là hướng về Đông Bắc, phía Williston, rẽ vào đường số 16, vài đường khác, và trở lại với xa lộ cao tốc số 2.
Hai chúng tôi đồng ý rằng đường liên tỉnh thì nhanh hơn, và quan trọng nhất là không nên chạy xe quá nhiều– tức là xài tiền –trên đường. Cuối cùng chúng tôi quyết định rẽ vào xa lộ số 2.
“Em thích thế hơn,” tôi nói.
Andrew bảo, “Đó là vì chúng ta đã định như thế từ đầu.”
“Chúng ta sẽ không được gặp Kalispell và Havre. Và Wolf Point nữa. Em thích cái tên đó.”
“Chúng ta sẽ gặp chúng trên đường trở về nhà.”
Andrew nói câu “trở về nhà” với một vẻ vui sướng đáng ngạc nhiên đối với tôi. Tất nhiên tôi hoàn toàn nghĩ rằng chúng tôi sẽ quay về nhà sau chuyến đi, với chiếc xe của chúng tôi và cuộc đời của chúng tôi và gia đình của chúng tôi nguyên vẹn, sau đi đã đi qua biết bao dặm đường, đã trải qua biết bao chuyện trung thành và rắc rối, xích lại gần nhau hơn, nhìn xuống con đường liều lĩnh của mình. Nhưng vẫn thật là an ủi khi nghe anh ấy nói thế.
“Điều anh không thể nào hiểu được,” Andrew nói, “là làm sao em nhận được tín hiệu ấy. Phải là một thứ linh cảm mà chỉ những người mẹ mới có.”
Phần nào tôi cũng muốn tin thế thật, tự sưởi ấm mình trong khả năng linh cảm ngoại cảm kia. Phần khác tôi muốn cảnh báo Andrew – cảnh báo tất cả mọi người – đừng bao giờ dựa dẫm vào những thứ ấy.
“Điều mà em không hiểu,” tôi nói “là làm sao anh có thể nhảy qua hàng rào.”
“Anh cũng đâu có biết.”
Chúng tôi tiếp tục trò chuyện như thế, với hai đứa trẻ trên băng ghế sau, đặt hết tin tưởng vào chúng tôi, bởi chúng cũng chẳng có chọn lựa nào khác, và chúng tôi thì tin rằng mình sẽ được tha thứ, cùng với thời gian, về tất cả những điều mà trẻ con nhìn thấy và lên án trước tiên: bất cứ điều gì vô cảm, tùy tiện, bất cẩn, nhẫn tâm – những lỗi lầm vừa tự nhiên vừa cá biệt của chúng ta.

Alice Munro

.
Về Đầu Trang Go down
hoangvu
Khách viếng thăm




tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeMon May 05, 2014 6:33 pm


Alice Munro và những cơn sóng ngầm của cuộc sống


« Tôi thật sự hi vọng nhờ vậy truyện ngắn sẽ được xem như một nghệ thuật quan trọng, chứ không chỉ là cái viết chơi mày mò cho đến khi viết được truyện dài ».

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Alice-tua

Đỗ Tuyết Khanh

Giải Nobel văn chương năm nay đánh dấu hai sự đầu tiên : Alice Munro là nhà văn Canada đầu tiên1 đoạt giải này và đây cũng là lần đầu Hàn lâm viện Thuỵ Điển vinh danh một tác giả chuyên viết truyện ngắn, một thể loại thường bị xem là thứ yếu trong làng văn. Có lẽ cũng để cô đọng như thể văn này, lời giới thiệu của Uỷ ban Nobel, thường rất hoa mỹ thậm chí đôi khi rườm rà khó hiểu, năm nay rất ngắn gọn, chỉ vỏn vẹn một câu “Alice Munro, bậc thầy của truyện ngắn đương đại” (“Alice Munro, master of the contemporary short story”). Trên 110 người đã được trao giải Nobel văn từ năm 1901 cho tới nay, Alice Munro mới chỉ là tác giả nữ thứ 13. Như mọi năm, gần đến mùa Nobel, bên cạnh các phỏng đoán, cá cược về người sẽ đoạt giải văn, dư luận làng văn lại nhắc nhở, chỉ trích sự chênh lệch nam nữ thái quá này. Không biết có phải để “trả đũa” mà Uỷ ban Nobel đã chọn từ “master”, một danh từ trung tính nhưng thường hàm ý phái nam (cũng như chữ “thầy”), thay vì “queen”, chẳng hạn, trong lời giới thiệu. Alice Munro năm nay 82 tuổi nhưng không phải là người cao niên nhất khi đoạt giải, kỷ lục ấy vẫn thuộc về Doris Lessing, Nobel 2007 lúc 88 tuổi.
Trước khi được giải Nobel, Alice Munro đã được trao nhiều giải văn học lớn, cho hầu hết các tuyển tập truyện ngắn của bà: ba lần giải Governor General's Award for Fiction, là giải văn học lớn nhất của Canada, hai lần giải Giller Prize, và các giải Canadian Booksellers Award, Trillium Book Award, National Book Critics Circle Award (Mỹ), WH Smith Literary Award (Anh), Commonwealth Writers Prize, O.Henry Award, PEN-Malamud, v.v. Năm 2009, bà được trao giải Man Booker International Prize của Anh, là giải văn học quốc tế lớn nhất dành cho các tác giả Anh ngữ, cho toàn bộ các sáng tác của bà. Truyện ngắn của Alice Munro thường xuất hiện trên các tập san lớn như The New Yorker, The Atlantic Monthly, The Paris Review, và được đăng lại trong 14 tuyển tập, mỗi cuốn cách nhau ba hay bốn năm, từ 1968 đến 2012.
Alice Munro cũng không thiếu chức danh và danh hiệu: viện American Academy of Arts and Letters bầu chọn bà là thành viên danh dự người nước ngoài năm 1992, bà được Royal Society of Canada trao tặng huy chương Lorne Pierce Medal năm 1993, và National Arts Club của Mỹ tặng thưởng huy chương Medal of Honor for Literature năm 2005. Năm 2010, bà được nước Pháp phong chức danh Chevalier de l’Ordre des arts et des lettres. Trong giới văn học, bà thường được khen ngợi và mệnh danh là một Tchekhov của Canada,
Alice Munro là người kín đáo, sống ở Clinton, một thành phố nhỏ tiểu bang Ontario, gần hồ Huron, ít xuất hiện trong những buổi tiệc tùng xã giao, sự kiện thời thượng, và ít trả lời phỏng vấn. Những năm sau này, bà thường xuyên được nhắc đến như một trong những nhà văn xứng đáng đoạt giải Nobel nhưng cũng thường xuyên với lời bình là khả năng này rất nhỏ vì bả chỉ viết truyện ngắn. Phản ứng của bà sau khi biết tin được giải : « Thật là tuyệt vời cho tôi. Vả tuyệt vời cho truyện ngắn. Tôi rất vui vì giải này sẽ làm rất nhiều người Canada hài lòng, và văn học Canada được chú ý nhiều hơn ». Bà cũng nói : « Tôi thật sự hi vọng nhờ vậy truyện ngắn sẽ được xem như một nghệ thuật quan trọng, chứ không chỉ là cái viết chơi mày mò cho đến khi viết được truyện dài »(*).

Những gốc rễ của một văn nghiệp phong phú

Alice Ann Laidlaw sinh ngày 10.7.1931 tại Wingham, tiểu bang Ontario, mẹ, Anne Clarke Laidlaw, là cô giáo và cha, Robert Eric Laidlaw, làm nghề nuôi chồn và cáo xám bạc để lột da bán. Thời kỳ kinh tế suy thoái, làm ăn thua lỗ, ông Laidlaw chuyển sang nuôi ngỗng cũng thất bại, hết vốn liếng ông xin vào làm gác dan đêm cho xưởng đúc của thành phố. Năm Alice 10 tuổi, mẹ của cô mắc phải một dạng hiếm của bệnh Parkinson, sức khoẻ ngày càng suy yếu và đời sống gia đình càng khó khăn chật vật.
Thời ấy, trong một xã hội còn duy trì những phong tục, truyền thống văn hoá và tôn giáo của những cộng đồng di dân đến lập nghiệp vào thế kỷ 19, để thoát khỏi hoàn cảnh, các cô gái nghèo chỉ có hai con đường: lấy được chồng giàu hay đi học làm cô giáo. Từ nhỏ Alice đã phải đối mặt với nghèo đói, của gia đình và chung quanh, bệnh tật nan y, sự hung bạo ở nhà, ở trường học và ngoài xã hội, chỉ có thể thoát qua trí tưởng tượng, của người khác, rồi của chính mình. Lối thoát đầu tiên là sách vở, cô say mê đọc đi đọc lại những tác phẩm ưa thích nhất, đặc biệt quyển Wuthering Heights của Emily Brontë. Khi đọc sách vẫn chưa đủ, cô bắt đầu tập viết văn, tự tạo ra thế giới hư cấu của chính mình. « Sách vở có gì thần diệu trước mắt tôi và tôi muốn thành một phần của sự thần diệu ấy. Đối với tôi sách quan trọng hơn hết, quan trọng hơn cuộc sống rất nhiều ». Giấc mơ thành nhà văn, sống để viết, tuy không thể thổ lộ với ai, bắt đầu từ đấy.
Mười tám tuổi, Alice tốt nghiệp trung học với điểm cao nhất địa phương, được học bổng hai năm đi học Anh ngữ và học viết báo tại đại học Western Ontario. Học bổng chỉ đủ mua sách vở và trang trải một phần chi phí, cô phải xoay sở kiếm thêm : bán máu, hầu bàn, tỉa cây thuốc lá, làm trong thư viện. Năm 1951, hết học bổng cô phải bỏ học và đứng trước sự lựa chọn : lấy chồng – nhận lời cầu hôn của một anh sinh viên bạn – hay trở về nhà lo cho mẹ. Cô quyết định lo cho chính mình và thành hôn với Jim Munro, nhưng sự thoát ly phải trả giá bằng mặc cảm tội lỗi đeo đẳng suốt đời.
Hai vợ chồng trẻ, chỉ mới 20 và 22 tuổi, về sống ở Vancouver. Jim cai quản một cửa hàng bách hoá và Alice đóng vai trò nội trợ trong một gia đình trung lưu tiêu biểu của những năm 1950. Những đứa con nhanh chóng ra đời, Sheila, khi Alice mới 21 tuổi, Catherine – chỉ sống được 2 ngày sau khi sinh – rồi Jenny và Andrea. Năm 1963, gia đình Munro dời về Victoria, thủ đô tiểu bang British Columbia, mở tiệm sách Munro’s Books, hiện vẫn hoạt động và nổi tiếng là một nhà sách chất lượng cao, kiên trì trước sự cạnh tranh của các siêu thị và đại công ty sách.
Song cuộc hôn nhân khập khiễng ngay từ đầu giữa một người chồng gia trưởng, xuất thân từ một gia đình khá giả và có khuynh hướng bảo thủ, và một Alice phóng khoáng, ngày càng bị giằng co giữa những bổn phận làm vợ, làm mẹ, giúp chồng bán sách, và con người riêng của mình, những nhu cầu của bản thân, nhất là cái thôi thúc từ thuở nhỏ: viết văn. Vì Alice không ngừng viết, truyện ngắn đầu tiên ra mắt độc giả, The Dimensions of a Shadow, đăng trên tập san của đại học Western Ontario năm 1950, khi Alice mới 19 tuổi. Từ đó cô bắt đầu viết cho những tập san văn học Canada như Tamarack Review và Canadian Forum, tham gia chương trình « Anthologies » của đài phát thanh Canadian Broadcasting Corporation (CBC). Robert Weaver, chủ nhiệm chương trình này, là người có công lớn khuyến khích Alice đeo đuổi nghề văn, giúp các sáng tác của cô ngày càng được biết đến và ưa chuộng rộng rãi hơn. Song phải đợi đến 1968 tập truyện đầu tiên của Alice mới ra đời, Dance of the Happy Shades đoạt ngay giải Governor General's Award for Fiction, giải văn học lớn nhất của Canada. Tập truyện Lives of Girls and Women xuất bản năm 1971 đoạt giải Canadian Booksellers Award, củng cố vị trí của Alice như một nhà văn tài năng, được cả độc giả lẫn đồng nghiệp mến phục. Việc viết lách được người thân nể nang hơn nhưng cũng đào sâu hơn mâu thuẫn giữa các bổn phận gia đình và những đòi hỏi thì giờ và tâm trí của nghề văn. Những khác biệt về tính tình, quan điểm giữa hai vợ chồng cũng gay gắt hơn, những trăn trở của Alice như hoà theo biến chuyển của xã hội thời ấy, những thập niên 1960, 1970, với các phong trào giải phóng phụ nữ, cách mạng tình dục. Cuộc hôn nhân ngày càng rạn nứt.
Năm 1973, Alice ly dị sau 22 năm sống với Jim Munro, công việc viết văn càng cấp bách khi trở thành phương tiện mưu sinh. Cô về dạy văn tại đại học York University gần Toronto và sau đó được đại học Western Ontario mời về đảm nhiệm một số hoạt động văn học. Cô gặp lại một người bạn cũ thời sinh viên, Gerald Fremlin, mà cô thầm yêu cách đó 20 năm. Họ hẹn nhau ăn trưa và chỉ sau ba ly martini quyết định sống chung. Gerry Fremlin là người cùng quê với Alice, mẹ của ông lúc ấy bệnh nặng cần được chăm sóc nên họ dọn về ở với bà cụ trong ngôi nhà Gerry sinh ra, ở thành phố Clinton, cách Wingham, nơi sinh của Alice, chỉ vài chục cây số. Họ cưới nhau năm 1976 và ở luôn trong ngôi nhà ấy cho đến bây giờ. Gerry Fremlin đã qua đời tháng 4. 2013.
Như một cái vòng được khép lại, Alice trở về với những khung cảnh thiên nhiên và xã hội của nơi sinh ra và lớn lên, đã góp phần hun đúc tâm hồn, tư duy và cá tính của cô, và là bối cảnh của hầu hết các sáng tác ngay từ ban đầu : những tỉnh lẻ quanh hồ Huron, những nông trại, đồng lúa, khu rừng, sông ngòi, đầm nước, quen thuộc với độc giả tới mức được mệnh danh là Munro County. Trong các bản tin và bài báo vừa qua, sau khi giải Nobel được công bố, tất nhiên có câu chơi chữ thế nào cũng gặp phải « Alice in Nobel land »2 nhưng nếu đã « lẩy Kiều » thì đúng hơn phải là « Alice in Munroland ».

Những con người và cuộc đời trong thế giới Munroland


Tóm tắt cuộc đời của Alice Munro cũng là tóm tắt nội dung các sáng tác của bà. Những gì đã trải qua hay chiêm nghiệm là chất liệu được pha trộn, hư cấu hoá, thay đổi ít nhiều từ truyện này sang truyện kia nhưng vẫn rõ nét, như một nhịp điệu trở đi trở lại trong bản nhạc: một người thân, thường là người mẹ, bị bệnh nặng vô phương cứu chữa, một ông chồng khó tính và độc đoán, những cô gái nửa quê nửa tỉnh đi tìm chỗ đứng trong xã hội, sự xung đột ngấm ngầm hay lộ liễu giữa những tầng lớp giai cấp khác nhau, những số phận hèn mọn, cuộc đời gian truân, những hôn nhân tan vỡ đôi khi vì cái không đâu, những người đàn bà ngoại tình có khi chỉ vì một phút bốc đồng hay ham muốn tình dục. Và rất nhiều những ra đi, xoay lưng lại với tất cả : chồng bỏ vợ, vợ bỏ chồng, con bỏ cha mẹ, một người đàn ông hỏi cưới một cô gái và đổi ý vào phút chót, không một lời giải thích.
Thế giới Munroland là những tâm trạng bất an, phân vân trước những đòi hỏi trái ngược, những tình huống bấp bênh có thể đảo lộn bất cứ lúc nào theo một chiều hướng bất ngờ và không nhất thiết hợp lý. Đằng sau mặt kính trong trẻo của cuộc sống hàng ngày là những lừa dối, dối nhau hoặc tự dối lòng, những phản bội nho nhỏ hay ghê gớm, những gì không nói ra được hay không thể tự giải thích. Những cơn sóng ngầm dưới mặt hồ phẳng lặng.
Alice khám phá thế giới vô hình ấy qua những thể hiện tầm thường của cuộc sống, tìm vào các ngõ ngách của tâm hồn qua những đi đứng, ăn nói thường ngày. « Cuộc đời của thiên hạ, ở Jubilee hay ở bất cứ đâu, đều tẻ nhạt, giản dị, kỳ lạ và sâu thẳm – những hang động sâu hun hút lót thảm lino của nhà bếp. » (Epilogue : The Photographer, trong Lives of Girls and Women, 1971).

Phương tiện cho mục đích ấy là một cái nhìn sắc bén, một ngôn ngữ giản dị, trong sáng, không cầu kỳ uốn éo nhưng đánh mạnh vào cảm xúc người đọc.
Alice diễn tả rất tài tình sự đau khổ. Những nỗi đau thầm kín, câm lặng :
“Giống như có một mũi kim ác nghiệt cắm đâu đó trong phổi nàng, nếu thở từ tốn thì không cảm thấy gì. Nhưng lâu lâu phải thở mạnh, nó vẫn nhói lên ở đó”
(Runaway, 2004)

Hay cái cào xé trong một cô gái trẻ có ba đứa con nhỏ bị chồng giết trong một lúc nổi cơn giận vợ :
“Doree chạy ra khỏi nhà, bước loạng choạng trên sân, hai tay ôm ghì lấy bụng như vừa bị chém ngang người và đang cố giữ cho khỏi bung ra… Dạo ấy Doree cứ nhồi nhét vào miệng bất cứ gì quơ được. Hết đất cát, cỏ lá, đến chăn mền, khăn tắm và cả quần áo của mình. Thể như nàng muốn kìm hãm tiếng gào thét chỉ chực trào ra cùng với những hình ảnh quay cuồng trong đầu.”
(Dimensions, trong Too much Happiness, 2009)

Trầm tĩnh hơn nhưng cũng mãnh liệt không kém ở một bà mẹ khác, bỏ chồng ra đi và chồng nhất quyết không cho đem con theo:
Cái này là đau buốt đây. Nó sẽ thành kinh niên. Kinh niên tức là thường xuyên nhưng chắc cũng không phải là liên tục không dứt. Cũng có nghĩa là không chết người. Mình sẽ không khỏi được nhưng sẽ không chết. Sẽ không cảm thấy nó mỗi giây phút nhưng cũng sẽ không thoát khỏi nó trong nhiều ngày. Và mình sẽ học được vài mánh để làm dịu nó hay quên nó đi, để đừng rốt cuộc lại phá vỡ cái mà vì mình muốn có nên phải chịu nỗi đau này. Không phải lỗi của Brian. Anh vẫn là con người ngây thơ hay hoang dã, anh không biết ở đời có những nỗi đau dai dẳng như thế này. Hãy tự nhủ, đằng nào cũng mất con. Tụi nó sẽ lớn lên. Bà mẹ nào rồi cũng sẽ đến lúc gặp cái buồn riêng tư, hơi vô duyên ấy. Con rồi nó sẽ tha thứ khoảng thời gian này, nó sẽ bỏ mình, cách này hay cách khác. Hoặc cứ bám theo mình cho đến lúc mình không biết làm gì với nó, như Brian vậy.
Nhưng mà sao vẫn đau quá. Cái đau phải mang theo và quen với nó cho đến khi cái tiếc nuối chỉ là quá khứ chứ không phải một hiện tại có thể có.
(The Children Stay, trong The Love of a Good Woman, 1998)

Đa số các nhân vật chính của Alice là phụ nữ. Nhưng bà cũng đồng cảm với những đau đớn của người nam. Ở đây, một người đàn ông, vợ mất sau 4 năm hôn mê trong bệnh viện:
Họ tìm anh khắp nơi. Cuối cùng Isabel cũng đã ra đi. Họ nói “ra đi” thể như nàng ngồi dậy rồi đi ra. Cách đấy chỉ khoảng một giờ, có người ghé vào xem, nàng vẫn thế, và bây giờ nàng đã ra đi. Anh đã thỉnh thoảng tự hỏi, lúc ấy sẽ có khác gì không. Nhưng cái khoảng trống vắng thay cho nàng thật kinh dị … Anh tưởng cái này đã xảy ra với Isabel từ lâu rồi, nhưng không phải. Bây giờ nó mới thế. Lúc trước nàng có đó và bây giờ nàng không có đó. Không một tí ti nào. Như chưa bao giờ có đó. Và mọi người tất bật chung quanh, thể như cứ thu xếp những chuyện cần làm là có thể vượt qua cái khủng khiếp này. Anh cũng tuân theo thủ tục, ký vào chỗ người ta bảo ký, thu xếp – như người ta nói – cho cái di hài. Di hài, chữ nghĩa hay thật, cứ như cái gì để quên, khô queo trong một ngăn tủ đầy bồ hóng. Và chỉ ít lâu sau, anh thấy mình đã ở ngoài đường, tự bảo mình cũng đầy đủ lý do như ai để chân này bước trước chân kia. Cái anh mang theo, tất cả những gì anh mang theo, là một thiếu vắng, thiếu không khí, thiếu hoạt động bình thường của phổi, một khó nhọc chắc sẽ không bao giờ hết
(Leaving Maverley, trong Dear Life, 2012)

Đau khổ, cô đơn và mất mát. Mất vì bệnh tật cướp đi, vì một oái oăm của định mệnh, vì hậu quả hành động của chính mình, nhưng cũng vì một quyết định không thể hiểu được của người kia. Một người chồng bỗng dưng bỏ đi, một đứa con biến mất, không một lời từ biệt, giải thích, để lại những câu hỏi day dứt không bao giờ được trả lời.
Và nửa tiếng sau khi lão kia đi, bà cụ kể, ông Fullerton khoác cái áo vét nâu, đội mũ. Tôi phải xuống gặp một anh chàng dưới phố. Anh đi bao lâu, tôi nói. Ờ, một lát thôi. Thế là ông ta ra đường, đi theo hướng lão kia vừa đi – hồi đó tụi tôi còn ở ngoài rừng – và cái gì đó khiến tôi nhìn theo ông. Mặc cái áo đó chắc ảnh nóng lắm. Và lúc đó tôi biết ổng sẽ không trở về. Mà làm sao tôi có thể ngờ, ổng thích chỗ này lắm. Mới đó còn bàn chuyện đem sóc len về nuôi sau nhà. Đàn ông họ nghĩ gì trong đầu, chẳng bao giờ biết được, dù có sống chung một nhà.
(The Shining Houses, trong Dance of the Happy Shades, 1968).

Con gái tôi bỏ đi, không một lời từ biệt mà có lẽ nó cũng không biết lúc ấy là nó đã bỏ đi. Nó không biết là nó đi luôn. Rồi lần lần, chắc thế, nó hiểu ra là nó không muốn về chút nào. Đó chỉ là một quyết định cho cuộc đời của nó từ nay. Có thể là nó lúng túng, ngại phải giải thích cho tôi. Hay không tìm ra lúc. Mình cứ nghĩ là cái gì cũng phải có lý do này nọ, rồi phải tìm hiểu cho bằng được. Tôi có thể nói cả trăm thứ tôi đã làm sai. Nhưng có thể lý do ở đây không dễ thấy. … Juliet vẫn mong có ngày có tin từ Penelope, nhưng là mong phất phơ vậy thôi. Bà hi vọng như người khôn lanh hi vọng được ban ơn dù không xứng đáng, được tự nhiên khỏi bệnh, đại loại vậy.
(Silence, trong Runaway, 2005)

Có thể hiểu tại sao có người thấy truyện của Munro nặng nề, bi quan, đọc xong chán đời quá. Song phê bình thế cũng oan vì người đọc vẫn thỉnh thoảng bật cười trước một nhận xét dí dỏm, so sánh ngộ nghĩnh và độc đáo. Như ở đây, sự đỏm đáng của hai cô gái mới lớn dưới con mắt đứa em trai:
Có khi một trong hai bà chị đứng trước gương cả hai mươi phút hay hơn nữa, ngắm nghía mình dưới đủ mọi góc cạnh, kiểm tra răng lợi, hết vén tóc ra sau lại xoã ra phía trước. Rồi cô nàng đi ra, có vẻ hài lòng hay ít ra cũng xong việc, nhưng chỉ đến căn phòng khác, tấm gương khác là làm lại hết từ đầu, cứ như vừa được gắn một cái đầu mới toanh.
(The Love of a Good Woman, trong tuyển tập cùng tên, 1998).

Hoặc :
Mùa hè có khi buổi trưa cô Moira chạy xe 15 cây số từ Porterfield lên Jenkin’s Bend đưa con gái Mary Agnes lên chơi. Cô Moira biết lái xe. Cô Elspeth và cô Grace phục lắm (mẹ tôi cũng đang học lái xe, hai cô bảo chậc, chỉ liểu lĩnh, học làm gì). Khi thấy chiếc xe mui vuông kiểu cổ băng qua cầu lên dốc từ bờ sông, hai cô chạy ra đón, mừng rỡ rối rít, xuýt xoa tấm tắc cứ như cô em vừa tìm được lối đến sau khi vượt sa mạc Sahara chứ không phải trên con đường đầy nắng bụi từ Porterfield.
(Heirs of the Living Body, trong Lives of Girls and Women, 1971).

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Alice-1

Và ở đây Alice chỉ cần vài câu để cho thấy một người đàn ông tính xét nét khó chịu, không hiểu vợ ngay cả khi nàng châm biếm:
Trên lò sưởi có hai chiếc bình Wedgwood3 tô điểm bằng một vòng tròn lá xanh. Patrick rất thích chúng. Có khi đi làm về, anh đi thẳng vào phòng khách và xê đi xê lại hai cái bình anh thấy có vẻ bị xô đẩy không còn ngay ngắn.
« Có ai nghịch mấy cái bình này không đấy ? »
« À có. Hễ anh vừa đi làm là em chạy ngay vào đẩy tới đẩy lui. »
«  Anh muốn nói Anna kìa. Em không để con bé sờ mó vào đấy chứ ?»
(Mischief, trong The Beggar Maid, 1978).

Trào lộng cũng là cách thể hiện sự khoan dung của Alice đối với nhân vật, kể cả những nhân vật xấu tính. Bà đồng cảm nhất với những người là nạn nhân, của hoàn cảnh, của số mệnh, những số phận hẩm hiu, những người dị dạng, khuyết tật, thường xuất hiện trong nhiều truyện. Bà bao dung với những vụng về, lố bịch, hay ngu ngốc vì cái hay cái dở đều nằm trong số phận làm người. Sự đồng cảm với những người bị xã hội khinh rẻ hay ruồng bỏ cũng xuất phát từ cảm giác, có từ thuở ấu thơ, bị hắt hủi vì không vào khuôn phép. Là một đứa trẻ ương ngạnh, hay cãi lại và lý sự, Alice thường phải chịu những trận đòn nhừ tử của cha (như mô tả trong Royal Beatings). Trong một xã hội còn phong kiến và tôn ti đẳng cấp, cô phải che giấu những mong ước, tham vọng, bị coi là điên rồ và ảo tưởng đối với một cô gái, nhất là nghèo. Cuộc hôn nhân với một người khác giai cấp cũng mang đến những khổ tâm, phân tâm, giữa sự hoà đồng cần thiết vào gia đình trưởng giả của chồng và gốc gác nghèo hèn của gia đình mình. Trong tập truyện The Beggar Maid (1978), nghèo nàn được miêu tả sống động, có lúc sống sượng, vì thực tế nó là thế. Như trong đoạn về nhà vệ sinh ngoài trời dành cho nữ sinh của trường nơi nhân vật Rose đã học :
Tuyết đắp dày cui trên chỗ ngồi và mặt đất. Dường như nhiều người không nghĩ đến nhắm cái lỗ. Trong đống tuyết, dưới một lớp băng nơi tuyết vừa tan lại đông đặc lại, là những đống phân chỗ ê hề, chỗ đơn chiếc, như được bảo quản dưới kính, từ vàng khè đến đen thui và đủ mọi màu ở giữa. Chỉ nhìn thôi Rose đã buồn nôn, và tuyệt vọng. Nàng đứng trước cửa, không thể cố bước vào, quyết định nhịn.
(Privilege, trong The Beggar Maid, 1978)

Đấy là chuyện một trưởng nghèo ở vùng quê Canada cách đây đã sáu, bảy chục năm. Thật buồn và thương học sinh, sinh viên ở Việt Nam ngày hôm nay có nơi vẫn còn chịu cái cảnh phải nhịn ấy.
Những đối chọi giữa giàu nghèo thường nổi rõ hơn cả với cái gì trần tục, tầm thường nhất:
Flo dành dụm tiền xây buồng tắm trong nhà nhưng không có chỗ nào khác ngoài góc bếp. Cửa không kín, tường chỉ là ván ép. Kết quả là một tiếng xé giấy, một cái nhích mông đều rõ mồn một cho ai đang làm việc, nói chuyện hoặc ăn trong bếp. Người trong nhà quen những âm thanh thầm kín của nhau, không chỉ những lúc nổ đùng mà cả những khẽ thở dài, sôi ùng ục, ậm ạch, và khai báo. Và họ đều là những người cả thẹn lắm. Thế nên chẳng bao giờ có ai tỏ vẻ nghe thấy gì hoặc lắng tai để ý, không có một lời bình phẩm nào. Người làm ra các tiếng động trong buồng tắm không dính dáng gì với người từ trong đó đi ra”
(Royal Beatings, trong The Beggar Maid, 1978).

Điều rõ nhất với căn nhà của bà Henshawe và của Flo, Rose nghĩ vậy, là cái này phản lại cái kia. Trong những căn phòng thanh lịch của bà Henshawe, Rose lúc nào cũng nhớ đến cái thực tế trần trụi ở nhà, như cái cục gì mãi vẫn không tiêu. Và khi về nhà, cái nền nếp hài hoà của nơi kia làm lộ rõ cái nghèo nàn tội nghiệp, xấu hổ của những người không hề nghĩ mình nghèo. Nghèo không chỉ là nghèo kiết xác, như bà Henshawe có vẻ nghĩ thế, nó không chỉ là thiếu thốn. Nó có nghĩa là gắn những cái đèn nê-ông xấu xí và hãnh diện về chúng. Là lúc nào cũng nói chuyện tiền bạc và xầm xì về những thứ thiên hạ mới sắm, không biết họ đã trả xong hết chưa. Là hãnh diện và ganh tị về cặp rèm giả đăng-ten bằng nhựa Flo mua về treo lên cửa sổ phòng khách. Nghèo cũng có nghĩa là phải móc quần áo lên cái đinh đằng sau cửa và nghe mọi tiếng động thoát ra từ buồng tắm.
(The Beggar Maid, 1978)

Alice không giáo điều, không tuyên bố những câu đao to búa lớn. Quan điểm chính trị xã hội ít được đề cập và chỉ thể hiện gián tiếp như trong đoạn sau :
Trong lán có một cái lò và nhiều kệ bằng gỗ tạp ngổn ngang những thùng sơn và dầu quang, hũ sen-lắc và dầu thông, lon dùng để rửa cọ và cả vài chai thuốc ho sậm đặc. Tại sao một người đàn ông ho kinh niên, phổi đã nếm khí độc trong Chiến Tranh (lúc Rose còn nhỏ xíu, người ta vẫn gọi là Chiến Tranh Vừa Qua chứ không phải Thứ Nhất), lại phải ngày qua ngày hít thở hơi bốc từ sơn và dầu thông? Thời đó những câu hỏi kiểu ấy ít được đặt ra hơn bây giờ. Trên băng ghế trước cửa tiệm của Flo mấy ông già hàng xóm ngồi tán dóc, ngủ gật, hứng nắng, nhiều ông cũng suốt ngày ho hen như vậy. Thực tế là họ đang chết dần, từ từ và lặng lẽ, do cái “bệnh xưởng đúc”, gọi thế thôi nhưng chẳng hàm ý oán trách gì lắm đâu. Họ đã làm cả đời trong cái xưởng đúc của thành phố và bây giờ họ ngồi yên, với khuôn mặt tàn tạ vàng vọt, húng hắng ho, cười khục khặc, thỉnh thoảng buông vài câu sàm sỡ bâng quơ về một phụ nữ đi ngang qua hay một cô gái đạp xe trên đường
(Royal Beatings, trong The Beggar Maid, 1978)

Đồng cảm với người khác cũng có nghĩa chấp nhận là có những điều mình sẽ không bao giờ được biết, một vườn riêng, không gian riêng mình không được vào dù mình có gần gũi bao nhiêu với người ấy. Trong Walker Brothers Cowboy, hai đứa bé đi theo cha trong một chuyến chào hàng. Trên đường về người cha ghé vào căn nhà một bà cụ và một người đàn bà, người quen cũ của ông nhưng ông không nói họ là ai. Và tuy ông không dặn dò, cô bé cũng hiểu là đây là chuyện riêng của ông, không cần kể lại cho ai và với mẹ ở nhà.
Cha tôi lái xe, thằng em tôi nhìn hai bên đường xem có con thỏ nào không và tôi cảm thấy như cuộc đời của cha tôi trôi qua theo chiếc xe trong bóng chiều tà, tối sẫm lại và trở thành khác lạ, như một phong cảnh kỳ diệu trước mặt trông vẫn ấm áp, bình thường và quen thuộc nhưng sau lưng biến thành một cái gì không bao giờ có thể đoán biết, với đủ mọi màu trời và khoảng cách không thể mường tượng.
(Walker Brothers Cowboy, trong Dance of the Happy Shades, 1968).

Bậc thầy của truyện ngắn


Được hỏi tại sao bà chỉ viết truyện ngắn, Alice trả lời là vì khi còn trẻ, bà có rất ít thì giờ, giữa các công việc nội trợ, lo cho mấy đứa con nhỏ, và lúc ở Victoria, còn phải làm nửa ngày ở tiệm sách. Và ngay những lúc ngắn ngủi xén bớt được trên thì giờ phải dành cho các bổn phận khác cũng không hoàn toàn rảnh rang để tập trung vào viết lách, với những quấy rầy chung quanh và mặc cảm tội lỗi bỏ bê việc nhà. Bà nhớ lại những lúc đứa con gái đầu, Sheila, khi ấy hai tuổi, mon men lại gần, bà thường một tay xua con ra chỗ khác, tay kia vẫn tiếp tục đánh máy. Trong một buổi phỏng vấn với nhà văn Graeme Gibson, năm 1973, bà nói : “Trong suốt hai mươi năm, không có ngày nào mà tôi không phải bận tâm về nhu cầu của một người khác. Và như vậy có nghĩa là viết lách phải được sắp xếp song song hoặc trước sau những công việc ấy … Sáng tác được gì trong điều kiện ấy quả là một phép lạ”.
Không ngạc nhiên mà Alice cảm thấy phải có một không gian riêng cho mình:
“Đàn ông có thể làm việc ở nhà, không có vấn đề. Ông đem việc về nhà, đã có chỗ dọn riêng cho ông, mọi chuyện trong nhà sắp xếp lại xoay quanh ông. Công việc của ông là hiển nhiên, ai cũng hiểu thế. Không ai chờ đợi ông trả lời điện thoại, tìm hộ cái gì lạc đâu mất, ra xem tại sao trẻ con khóc hay cho con mèo ăn. Ông có thể đóng cửa phòng. Nhưng thử tưởng tượng bà mẹ nào đóng cửa phòng, đối với lũ trẻ ở ngoài, ô hay sao lại có thể thế được. Một người đàn bà ngồi thẫn thờ, nhìn xa xăm vào một thế giới trong đó không có bóng dáng chồng con là phản lại luật của trời đất. Nhà và phụ nữ, do đó khác lắm. Người đàn bà không bước vào nhà, làm gì đó rồi lại đi ra. Nàng là căn nhà, không thể tách rời.”
(The Office, trong Dance of the Happy Shades, 1968).

Alice đã diễn đạt cụ thể những ý của nhà văn Anh Virginia Woolf trong bài tiểu luận bất hủ A Room of one own. Song những sáng tác phong phú của bà, trải dài trên mấy chục năm, không là phép lạ mà kết quả của tài năng, sự say mê, và tính cần mẫn thừa hưởng từ truyền thống Presbyterian trong giáo dục của gia đình và xã hội. Một quá trình sáng tác dài như thế tất nhiên có những thay đổi cả hình thức lẫn nội dung, phản ánh những biến chuyển sâu rộng trong suốt thời kỳ Alice đã sống. Alice 8 tuổi khi Canada tham gia Đệ nhị thế chiến năm 1939, học đại học những năm sau chiến tranh và 38 tuổi khi các phong trào giải phóng phụ nữ và hippie đạt cao điểm vào những năm 1968-69. Bà 50 tuổi khi bước vào thập niên 1980, và đại đa số các tác phẩm của bà đặt trong bối cảnh của nửa thế kỷ ấy, từ những thập niên 1930 đến 1980.
So sánh các tập truyện đầu tiên và cuối cùng, có thể nhận thấy một số khác biệt. Những truyện đầu tiên có nhiều tính chất tự truyện hơn, dày đặc hơn vì còn quá nhiều thứ để nói, để tuôn vào, dù cái tài cấu trúc và lối hành văn gãy gọn, cái “giọng” rất đặc biệt của Alice đã hiện rõ. Điều dễ hiểu là khi còn trẻ, chất liệu chính của mỗi nhà văn là cuộc sống của chính mình, cái quá khứ còn rất gần, chi phối mạnh mẽ mọi cảm xúc. Càng sống lâu, cảm hứng càng đến từ bên ngoài nhiều hơn, chất liệu là chiêm nghiệm những gì đã nghe, thấy hơn là những trải nghiệm của bản thân. Như Alice nói, với cái dí dỏm cố hữu, khi trả lời phỏng vấn của The Paris Review, hè 1994 :
“Bây giờ tôi ít viết truyện riêng tư hơn lúc trước vì lý do rất dễ hiểu. Tuổi ấu thơ đã khai thác hết, trừ phi có thể, như William Maxwell, mỗi lần quay về vẫn tìm ra những cái tuyệt vời mới trong đó. Cái chất liệu sâu sắc, riêng tư trong nửa cuộc đời còn lại là những đứa con. Mình có thể viết về cha mẹ khi họ đã khuất, nhưng con cái thì vẫn còn đây và mình sẽ cần nó vẫn còn muốn đến thăm mình trong viện dưỡng lão.”
Song ngay cả những truyện đầu tay cũng đã cho thấy Alice có óc quan sát rất nhạy bén và khả năng tài tình nắm bắt những chi tiết tưởng như vô thưởng vô phạt nhưng khi lồng vào cốt truyện lại chuyên chở những ý nghĩa sâu sắc không thể ngờ. Và như nhiều nhà văn, bà như con ong hút mật, tất cả những gì nghe, thấy, đều có thể là đầu đề cho một cốt truyện nảy ra. Thái độ miêu tả trong đoạn trích dưới đây không phải là sự tọc mạch mà là bản năng của người có thiên hướng, và năng khiếu, diễn đạt cuộc sống:
“Averill đi vòng quanh boong tàu và nghe thiên hạ nói chuyện. Cô nghĩ đến câu vẫn thường nghe, mỗi lần đi xa bằng tàu thuỷ là có dịp gác hết tất cả qua một bên, “hết tất cả” tức là cuộc sống hàng ngày, lối sống, cái nhân vật là mình khi ở nhà. Nhưng trong mọi câu chuyện cô nghe lóm được, thiên hạ lại làm ngược lại hẳn. Họ nói về họ, kể về công ăn việc làm, con cái, vườn tược, nhà cửa. Trao đổi bí quyết, cách làm bánh và cách ủ phân bón. Phải đối phó với con dâu thế nào và nên đầu tư vốn liếng ra sao. Rồi những chuyện ốm đau, phản bội, bất động sản.”
(Goodness and Mercy, trong Friend of my Youth, 1990)

Những tập truyện sau này cũng cô đọng hơn, câu chữ vắn tắt, nhiều ẩn dụ, phần nào “khó đọc “ hơn vì đòi hỏi người đọc phải chăm chú và động não. Alice cũng nổi tiếng là đã cách tân thể loại truyện ngắn với một cấu trúc độc đáo. Câu chuyện không theo thứ tự thời gian mà ngắt quãng, hiện tại xen lẫn với quá khứ, người đọc không hiểu chuyện gì đã hay sẽ xảy ra, đoạn này liên hệ thế nào với đoạn sau, và chỉ đến trang cuối mới vỡ lẽ. Thì ra thế, cái mấu chốt là vậy, phải rồi, cần phải đọc lại từ đầu. Đọc từ tốn và bỗng đó đây hiện lên vài chi tiết ban nãy không để ý và bây giờ có một ý nghĩa tuyệt hay, mở ra những suy nghĩ, hình ảnh mới, chiếu lên bức tranh toàn diện một ánh sáng mới. Trong nhiều truyện, người đọc vừa thắc mắc vừa cảm thấy sờ sợ bất an, vì với Alice truyện khó mà kết thúc trong hân hoan hồ hởi, cái gì sẽ xảy ra đây, lạy bà, đừng làm con bé nó chết. Rồi lắm khi truyện chấm dứt, con bé không chết, nhưng người đọc cũng chưng hửng. Truyện của Alice thường không có hậu, không có happy end4 và cũng không có kết luận, chấm dứt bằng một câu lơ lửng, có khi chỉ một vài chữ lập lại, như tương lai bất định của nhân vật và sự ngơ ngác của người đọc.
Truyện không có kết luận nhưng cũng không thật sự có mở đầu. Trong những truyện sau này, Alice ít khi có mào đầu dẫn nhập, câu chuyện thường mở đầu với nhân vật đang làm gì đó, ngồi đợi xe lửa, lái xe trong đêm, nói gì với ai. Những diễn biến tuần tự (hay không) cho đến lúc chấm dứt bằng cái kết cục không phải là kết luận. Người đọc có cảm tưởng nhân vật đã sống trước và sau câu chuyện, mình chỉ chứng kiến một khoảnh khắc nhất định trong một mảnh đời tác giả kể cho nghe, như đi qua nhà ai, thấy bức rèm kéo ra, đứng nhìn sinh hoạt của họ một lúc đến khi cái rèm lại đóng vào. Và nếu hỏi Alice “Rồi sao nữa?” thì chắc sẽ được nghe trả lời “Thì là vậy”.
Diễn đạt cuộc sống tinh vi và chi phối người đọc đến như thế thì quả Alice Munro là bực thầy của truyện ngắn đương đại. Xin chịu thầy!

Và bây giờ?


Năm 2012, Alice Munro tuyên bố tuyển tập Dear Life vừa phát hành sẽ là tác phẩm cuối cùng của bà. Bốn truyện cuối của quyển này được tách riêng dưới tựa “Finale” (Hồi kết) và lời bạt : “Bốn sáng tác cuối trong quyển này không hẳn là truyện. Chúng là một đơn vị riêng, có tính cách tự truyện về cảm xúc, dù có thay đổi đôi chút về sự việc. Tôi nghĩ rằng đây là những điều đầu tiên và cuối cùng – và thiết thân nhất – tôi muốn nói về đời mình”.
Trả lời phóng viên khi nhận giải Trillium Books Award cho Dear Life , bà nói : “Không phải là tôi không say mê viết văn nhưng ai cũng đến lúc có cái nhìn khác về cuộc đời mình. Và có lẽ, đến cái tuổi của tôi, mình không còn muốn cái cô độc của người viết văn”. Alice đã vài lần nhắc đến giải nghệ. Năm 2006, bà bảo “ Tôi không biết có còn đủ sức làm việc này nữa hay không”, và sau đó vẫn có sức viết nhiều, viết khoẻ. Nhưng bây giờ, ở tuổi 82, sau một lần phẫu thuật tim và chống chọi với bệnh ung thư bằng hoá trị, Alice không còn sung sức như trước.
Trả lời phóng viên, Peter Englund, thư ký thường trực Hàn lâm viện Thuỵ điển, nói :” Bà Munro đã làm một công việc phi thường, quá đủ để đoạt giải Nobel. Nếu bà muốn thôi viết thì là quyết định của bà.”
Trong niềm vui và xúc động khi mới nghe tin, được hỏi giải Nobel có thể làm bà thay đổi ý, Alice cười nói: “Tôi làm chuyện này từ bao năm rồi. Viết và ra sách, cứ đều đặn từ lúc 20 tuổi. Làm việc như thế cũng là rất lâu nên tôi thấy đã đến lúc nghỉ ngơi. Nhưng có thể cái này làm tôi suy nghĩ lại”. Song gần đây Alice thông báo sẽ không đến Stockholm nhận giải Nobel ngày 10 tháng 12 sắp tới vì lý do sức khỏe, và chưa chỉ định ai sẽ thay thế. Lạy Trời Alice sống thêm lâu, để những giòng cuối dưới đây của truyện cuối cùng trong phần “Hồi Kết” quyển Dear Life không phải là kết luận, theo đúng truyền thống Munro:
“Tôi không về nhà khi bệnh của mẹ tôi vào giai đoạn cuối và lúc đám tang. Tôi có hai đứa con nhỏ và không có ai để gửi ở Toronto. Cũng phải xoay sở lắm mới chịu nổi chi phí chuyến đi và chồng tôi coi thường những xử sự hình thức. Nhưng cũng chẳng nên đổ lỗi cho anh. Tôi đồng tình với anh lúc ấy. Có những điều chúng ta vẫn bảo không thể tha thứ được, hoặc chúng ta sẽ không bao giờ tự tha thứ. Nhưng chúng ta vẫn cứ xí xoá đấy thôi – thường như cơm bữa”.
(Dear Life, 2012).

Không đủ tài để bắt chước Alice Munro chấm dứt mà không chấm dứt, xin mượn lời của nhà văn Tân Tây Lan Fiona Kidman: “Tôi tạ ơn Munro, cuộc đời thân quí của bà, những truyện bà đã cho chúng ta và cái đẹp bình dị, chân phương của những câu văn. Bà không nhất thiết phải chấm dứt ở đây, nhưng nếu quả là vậy thì đây là hồi kết tuyệt đẹp.”

Đỗ Tuyết Khanh
25.10.2013

(*)Diễn Đàn: tất cả các đoạn dịch từ tiếng Anh trong bài này đều do Đỗ Tuyết Khanh thực hiện.
1 Có người quan niệm Alice Munro là người thứ nhì vì trước đó đã có Saul Bellow là nhà văn Canada đầu tiên đoạt giải Nobel văn chương năm 1976. Song Saul Bellow là nhà văn Mỹ, sinh năm 1915 tại Lachine, tiểu bang Québec, nhưng cùng gia đình sang Chicago năm 1925 lúc 9 tuổi, nhập quốc tịch Mỹ năm 1941 và sống ở Mỹ cho đến khi mất năm 2005. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông gắn liền với thành phố Chicago. Cha mẹ ông là người Do Thái Nga, đầu tiên di cư sang Canada rồi định cư ở Mỹ. Nếu xem ông là người của Canada thì Israël hoặc Nga cũng có thể «nhận họ hàng» như vậy !
2 Alice in Wonderland, tác phẩm kinh điển của Lewis Carroll.
3 Wedgwood là công ti Anh nổi tiếng từ thế kỷ 18, sản xuất bát đĩa đồ gốm sang trọng cho giới thượng lưu.
4 Khi nhận giải Man Booker Prize năm 2009, Alice Munro kể lại lúc lên 7 tuổi, đọc truyện Nàng tiên cá của Hans Christian Andersen, bà đi đi lại lại mãi ngoài sân, cố tìm một hồi kết khác để cứu cô bé tiên cá đừng biến thành bọt biển. “Đi tìm một hồi kết có hậu. Không thể ngồi yên cho đến khi nghĩ ra. Rồi 70 năm sau, công việc của mình vẫn là diễn tả cuộc đời. Không còn nghĩ đến những hồi kết có hậu, nhưng vẫn làm công việc ấy. Cái mình đi tìm là ý nghĩa, âm vang, một nét đẹp lạ lùng trong cái ánh sáng lung linh trên mặt biển là cô bé tiên cá và người yêu bất tử của nàng”.

Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeMon Jul 14, 2014 7:50 pm

Đọc thêm một truyện ngắn của nữ văn sĩ Alice Munro
Qua bản dịch của Trần Minh Hương.


tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Z

MÙA GÀ TÂY

Tặng Joe Radford

Lúc mười bốn tuổi tôi được nhận vào làm việc ở Vựa Gà Tây cho mùa Giáng Sinh. Lúc đó tôi còn quá trẻ để có thể kiếm việc trong một cửa hàng hay làm nhân viên hầu bàn bán thời; tôi cũng còn quá nhút nhát.
Tôi là người mổ gà. Những công nhân khác cùng làm trong Vựa Gà Tây là Lily, Marjorie và Gladys, cũng là những người mổ gà; Irene và Henry, nhổ lông; Herb Abbott, người đốc công, chịu trách nhiệm giám sát toàn bộ công việc và tham gia vào bất cứ chỗ nào thiếu người. Morgan Elliott là chủ nhân kiêm giám đốc. Ông ta và con trai, Morgy, làm công việc giết gà.
Tôi biết Morgy hồi còn đi học. Tôi nghĩ anh ta đần độn và đáng ghét, và tôi thấy khó chịu khi phải chấp nhận anh ta ở một vị thế mới và có vẻ cao cấp hơn tôi, vì anh ta là con trai của ông chủ. Nhưng ông chủ đối xử với anh ta thật thô lỗ, mắng và chửi anh ta, xem anh ta chẳng hơn gì một thằng làm công mạt hạng. Một người nữa cũng có liên quan với ông chủ là cô Gladys. Cô là em gái của ông chủ, và trong trường hợp của cô thì hình như có sự đối xử ưu ái. Cô làm việc chậm chạp và ra về nếu cảm thấy không khoẻ. Cô có vẻ không ưa Lily và Marjorie, tuy vậy, cô có chút thiện cảm với tôi. Cô về ở nhờ với Morgan và gia đình ông ta sau khi cô đã làm việc nhiều năm ở Toronto, trong một ngân hàng. Đây không phải là công việc quen thuộc của cô. Lily và Marjorie hay nói lén về cô khi cô không có ở đó, họ nói cô bị suy nhược thần kinh. Họ nói ông Morgan bắt cô làm việc trong Vựa Gà Tây để trả cho chi phí ở nhờ. Họ còn nói, mà không sợ họ đang tự mâu thuẫn, rằng cô làm công việc này vì đang theo đuổi một người đàn ông, và người đàn ông ấy là Herb Abbott.
Trong mấy đêm đầu tiên sau khi bắt đầu làm việc ở đó, tất cả những gì tôi thấy mỗi khi nhắm mắt lại là lũ gà tây. Tôi thấy chúng được treo lộn ngược, trụi lông và cứng đơ, tái và lạnh, đầu và cổ mềm nhũn, mắt và mũi vấy máu bầm; những cái lông còn sót lại — sậm đen và dính đầy máu — trông như một cái vương miện. Nhìn chúng, tôi không thấy ghê tởm, mà chỉ có cảm tưởng là công việc sẽ bận bịu vô tận.
Herb Abbott chỉ việc cho tôi. Em hãy đặt con gà lên bàn và chặt cổ nó bằng con dao phay. Sau đó em cầm miếng da lỏng ở cổ và kéo ngược lại cho lòi cái cuống diều nằm giữa cổ họng và khí quản.
“Sờ viên sỏi này xem,” Herb nói với vẻ khuyến khích. Anh bảo tôi dùng mấy ngón tay túm lấy cái diều. Rồi anh chỉ cho tôi cách luồn bàn tay vào sau cái diều và cắt nó ra, cả cổ họng và khí quản nữa. Anh dùng cái kéo lớn để cắt xương sống.
“Túm lấy, túm lấy”, anh nói nhẹ nhàng. “Bây giờ, thọc tay vào.”
Tôi làm theo. Bên trong con gà thì lạnh ngắt và tối tăm.
“Cẩn thận tránh những cái giằm xương”.
Mò mẫm trong khoảng tối tăm ấy, tôi phải kéo những cái màng nhầy giãn ra.
“Đứng dậy nào.” Herb lật con gà và gập từng cái chân. “Quỳ lên, Mẹ Nâu. Nào.” Anh lấy con dao lớn để ngay lên khuỷu chân con gà và cắt đứt cái ống chân.
“Nhìn mấy con giun này”.
Những sợi dây màu trắng ngà, được kéo ra từ ống chân con gà, đang uốn éo.
“Đó là những cái gân gà đang rút lại. Bây giờ đến phần thú vị!”
Anh xẻ phần hậu môn của con gà, một mùi hôi bay lên.
“Em có được học hành đàng hoàng không vậy?”
Tôi không biết nói sao.
“Mùi gì biết không?”
“Hydrogen sulfide.”
“Em có học,” Herb nói và thở dài. “Được rồi. Em dùng mấy ngón tay móc bộ lòng ra. Từ từ, từ từ. Giữ mấy ngón tay lại với nhau. Cuộn bàn tay lại. Dùng mu bàn tay chạm vào những cái xương sườn. Dùng lòng bàn tay nắm lấy mớ lòng. Có cảm thấy gì không? Tiếp tục đi. Giựt đứt những sợi dây — càng nhiều càng tốt. Tiếp tục đi. Rờ thấy cái cục cưng cứng không? Đó là mề gà. Rờ thấy cái cục mềm mềm không? Đó là trái tim. Thấy chưa? Rồi hả. Móc mấy ngón tay quanh cái mề gà. Từ từ thôi. Bắt đầu kéo về phía này. Đúng rồi. Đúng rồi. Bắt đầu kéo nó ra.”
Việc này không hề dễ chút nào. Tôi cũng không chắc rằng cái tôi nắm được là cái mề gà. Tay tôi đầy một đống lầy nhầy lạnh ngắt.
“Kéo đi,” anh nói, và tôi lôi ra một đống lầy nhầy óng ánh.
“Được rồi. Mớ xôm xốp này. Em biết nó là gì không? Là phổi. Còn đây là tim. Cái này là mề. Còn đó là mật. Này, em đừng bao giờ làm bể túi mật, không thì nó sẽ làm đắng hết cả con gà.” Rất khéo léo, anh moi ra hết những thứ tôi còn để sót, kể cả hai hòn dái, trông như hai quả nho màu trắng.
“Một đôi bông tai dễ thương,” Herb nói.
Herb Abbott là người đàn ông cao, chắc và đầy đặn. Tóc anh đen và mỏng, được chải thẳng từ đằng trước ra đằng sau, và mắt anh hơi xếch, vì vậy trông anh giống như một ông Tàu da tái mét hay giống như bức hình của Quỷ Sứ, ngoại trừ mặt anh không có râu ria và trông hiền lành. Bất cứ việc gì anh làm trong Vựa Gà Tây này — từ việc mổ gà, như việc anh đang làm bây giờ, đến việc chất hàng lên xe tải, hay treo những xác gà lên — đều được làm với những động tác thuần thục, gọn gàng, một cách nhanh nhẹn và khoan khoái. “Để ý Herb xem — anh ta đi cứ như đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi,” Marjorie nói, và quả như vậy. Herb đã từng làm đầu bếp theo mùa trên những chiếc du thuyền trên hồ. Rồi anh làm việc cho Morgan cho đến hết mùa Giáng Sinh. Thời gian còn lại, anh giúp việc cho một tiệm bi-da, làm bánh hamburgers, lau dọn, và ngăn chặn những cuộc đánh nhau trước khi chúng xảy ra. Đó cũng là nơi anh đang ở: anh có một phòng phía trên tiệm bi-da trên con đường chính.
Trong tất cả các công việc tại Vựa Gà Tây, dường như chỉ có Herb là người luôn nghĩ đến hiệu quả và uy tín của lò mổ; chính anh là người giữ mọi việc trong tầm kiểm soát. Nếu bạn thấy cách anh ta đứng trong sân nói chuyện với ông Morgan — một người đàn ông mập, lùn, mặt đỏ, và hay nạt nộ bất ngờ — thì chắc chắn bạn sẽ nghĩ Herb là ông chủ còn Morgan chỉ là người làm thuê. Nhưng thật ra không phải như vậy.
Nếu không có Herb chỉ việc cho tôi, thì chắc là tôi đã không học được cách mổ gà. Đôi tay tôi rất vụng về và tôi rất thường cảm thấy xấu hổ về điều đó, nên nếu người hướng dẫn tỏ ra một chút cử chỉ mất kiên nhẫn thì cũng đủ khiến cho tôi run rẩy luống cuống. Tôi không thể chịu được khi có bất cứ ai đứng nhìn tôi làm, ngoại trừ Herb. Cụ thể hơn, tôi không thể chịu được nếu Lily và Marjore, hai chị em ở tuổi trung niên, nhìn tôi mổ gà. Họ làm việc rất nhanh, thành thạo và hay ganh đua. Họ vừa làm vừa hát vừa trò chuyện thô lỗ và thân mật với những cái xác gà tây.
“Đừng có khoèo tôi chứ, cái thằng già bạo dâm!”
“Đúng là cái lỗ đít già!”
Tôi chưa bao giờ nghe phụ nữ nói chuyện kiểu này.
Gladys không phải là một người mổ gà nhanh nhẹn, nhưng cô rất thành thạo; nếu không thì chắc hẳn là Herb đã chỉ việc cho cô. Cô không bao giờ hát và không bao giờ chửi thề. Tôi nghĩ cô khá lớn tuổi, mặc dù cô trẻ hơn Lily và Marjorie; chắc là cô đã ngoài ba mươi. Cô có vẻ như bị xúc phạm bởi mọi thứ đang xảy ra, và cố giữ những lời phê phán chua chát trong lòng. Tôi chưa bao giờ thử nói chuyện với cô, nhưng một ngày kia cô bắt chuyện với tôi trong căn phòng vệ sinh lạnh lẽo và chật hẹp bên cạnh lán mổ gà. Lúc đó cô đang trét đồ trang điểm lên mặt mình. Phấn trang điểm rất chỏi với màu da của cô, trông như cô đang đắp sơn màu cam lên một bức tường trắng gồ ghề.
Cô hỏi có phải tóc tôi quăn tự nhiên.
Tôi nói là phải.
“Chứ không phải tóc uốn hả?”
“Không.”
“Em may mắn thiệt đó. Chị thì đêm nào cũng phải cuốn ống lô. Hoá tính tự nhiên trong cơ thể chị không cho phép chị uốn tóc quăn.”
Phụ nữ có nhiều cách nói khác nhau về diện mạo bên ngoài của họ. Một số người nói toẹt ra rằng họ làm đẹp vì nhu cầu tình dục, làm đẹp cho đàn ông. Một số người khác, như Gladys chẳng hạn, lại ăn mặc bình thường như làm công việc quản gia, đây là loại người tự hào về những điều khó khăn của mình. Gladys rất duyên dáng. Tôi có thể hình dung cô làm việc ở ngân hàng, trong chiếc áo đầm màu xanh dương với cái cổ áo màu trắng loại mà bạn có thể tháo rời ra và đem giặt vào ban đêm. Chắc hẳn là cô cũng hay than phiền và bắt bẻ.
Một lần khác, cô nói với tôi về chuyện kinh nguyệt của cô, nó ra nhiều và làm cô đau bụng. Cô muốn biết về kinh nguyệt của tôi. Có một vẻ khó chịu, nghiêm nghị và lo âu trên mặt cô. May thay Irene nói vọng ra từ buồng cầu và cứu tôi ra khỏi tình huống khó xử này. “Làm như tôi nè, rồi cô sẽ không bị những thứ rắc rối ấy nữa, ít ra cũng được một thời gian.” Irene chỉ lớn hơn tôi vài tuổi, nhưng cô ta vừa lập gia đình sau khi có bầu, và đang ở vào những tháng cuối của thai kỳ.
Gladys làm như không nghe thấy, vẫn tiếp tục hứng hai bàn tay dưới vòi nước lạnh. Tay của mọi người ở đây đều đỏ và tấy vì làm việc nhiều. “Chị không thể xài xà-bông này được. Nếu chị dùng nó, tôi sẽ bị ngứa,” Gladys nói. “Nếu chị mang xà-bông của chị vô đây, thì chị không thích người khác xài, bởi vì nó mắc lắm — đó là loại xà-bông chống dị ứng.”
Tôi nghĩ cái ý tưởng mà Lily và Marjore nêu ra — rằng Gladys mê Herb Habbott — thì chẳng qua là vì họ tin rằng những kẻ độc thân thì nên bị chọc ghẹo và làm cho xấu hổ bất cứ lúc nào, và chính họ cũng thích Herb, khiến họ có cảm giác rằng chắc chắn có ai đó đang theo đuổi anh ấy. Họ thắc mắc về anh ấy. Cái mà họ thắc mắc là: Tại sao một người đàn ông như anh ấy lại không muốn gì cả? Không vợ, không gia đình, không nhà cửa. Những chi tiết về cuộc sống hàng ngày của anh ấy, những sở thích nho nhỏ của anh ấy, đều được quan tâm. Anh ấy lớn lên ở đâu? (Nơi này, nơi kia, hay bất cứ nơi nào.) Anh ấy học đến lớp mấy? (Cũng vừa đủ trình độ học vấn.) Bạn gái anh ấy ở đâu? (Không bao giờ nhắc đến.) Nếu phải chọn giữa trà và cà-phê, anh ấy chọn thứ nào? (Cà-phê.)
Khi họ nói Gladys đang theo đuổi anh ấy, họ rất muốn nói về chuyện tình dục — anh ấy muốn gì và anh ấy có những chiêu gì. Chắc chắn họ cảm thấy một sự tò mò đầy khêu gợi về anh ấy, mà tôi cũng vậy. Anh ấy khơi dậy cảm giác tò mò vì anh ấy rất cẩn trọng và không bao giờ đùa giỡn giống như những người đàn ông khác quanh đây, đồng thời anh ấy cũng không quá khó tính hay quá lịch sự. Một vài gã đàn ông, khi chìa cặp dái gà tây cho tôi xem, thì chắc là vì họ nghĩ rằng những hòn dái sẽ là một trò đùa tục tĩu đối với tôi, khiến một đứa con gái như tôi sẽ cảm thấy mắc cỡ; một loại đàn ông khác thì lại cảm thấy xấu hổ về chuyện này và nghĩ là họ phải bảo vệ tôi để tôi khỏi bị trêu chọc. Người đàn ông nào không thuộc vào một trong hai loại này thì hình như là không bình thường — có lẽ đối với các phụ nữ lớn tuổi, cũng như đối với tôi. Nhưng một điều gì đó đối với tôi là chuyện bình thường, thì cũng có thể làm cho những phụ nữ khác khó chịu. Họ muốn gây sốc cho anh ấy. Họ muốn cả Gladys cũng gây sốc cho anh ấy, nếu có thể.
Thời đó — ít ra là ở Logan, Ontario, vào cuối những năm bốn mươi — chẳng ai có ý tưởng rằng đồng tính luyến ái đang lan ra khỏi những nơi kín đáo riêng tư. Chắc hẳn phụ nữ thời đó tin rằng đồng tính luyến ái là hiện tượng hiếm hoi và có những giới hạn nhất định. Trong thị trấn có vài người đồng tính luyến ái, và mọi người đều biết đó là những ai: đó là anh chàng nhã nhặn, có giọng nói nhẹ nhàng và mái tóc xoăn, làm nghề dán giấy tường và tự cho mình là nhà trang trí nội thất; đó là anh chàng mập mạp và được cưng chiều — con một của bà quả phụ của ngài bộ trưởng — anh ta đã dám tham gia vào các cuộc thi làm bánh của phụ nữ và đã tự tay đan móc một tấm khăn trải bàn; đó là một người đàn ông mắc bệnh tưởng, hành nghề nhạc sĩ phong cầm trong nhà thờ và dạy âm nhạc, luôn giữ trật tự cho dàn đồng ca và học trò của mình bằng cách la hét quát tháo. Một khi cái nhãn đã được dán xong như vậy, thì người ta có nhiều cảm thông hơn cho những người đồng tính luyến ái, và những tài nghệ về trang trí, đan móc, và chơi nhạc của họ được mọi người hưởng ứng — đặc biệt là phụ nữ. “Tội nghiệp cho anh ta,” họ nói. “Anh ta vô hại.” Họ — nhất là đám phụ nữ — thật sự tin rằng chính cái sở thích làm bánh và chơi nhạc là yếu tố quyết định, và đó là những công việc biến người đàn ông thành đồng tính luyến ái — chứ không phải những công việc khác mà anh ta làm hay muốn được làm. Cái khát vọng chơi vĩ cầm được người ta xem là tác nhân làm cho người đàn ông đánh mất nam tính, chứ không phải đó chỉ là một thứ đam mê nhằm tránh sự cám dỗ của đàn bà. Thật vậy, người ta có cái ý tưởng rằng bất cứ người đàn ông chân chính nào cũng muốn tránh sự cám dỗ của đàn bà, nhưng hầu hết đều mất cảnh giác, và đành chịu thua luôn.
Tôi không muốn đi sâu vào vấn đề Herb có phải là người đồng tính luyến ái hay không, bởi vì cái định nghĩa ấy hoàn toàn vô ích đối với tôi. Tôi nghĩ có thể anh ấy là người đồng tính luyến ái, nhưng cũng có thể không phải vậy. (Ngay cả khi xem xét lại những chuyện đã xảy ra sau này, tôi cũng nghĩ như vậy). Anh ấy không phải là câu đố quá hóc búa để giải đáp.
Một thợ nhổ lông khác, cùng làm việc với Irene, là cụ Henry Streets, một người hàng xóm của chúng tôi. Chẳng có gì đáng nói về cụ ngoại trừ cụ đã tám mươi sáu tuổi mà vẫn “làm việc như quỷ”, như cách cụ tự nói về mình. Cụ hay đổ rượu whisky vào trong cái bình thuỷ, và suốt cả ngày cứ thỉnh thoảng lại uống. Chính cụ Henry đã nói với tôi, khi chúng tôi đang ở trong bếp tại nhà, “Cháu nên kiếm một việc làm ở Vựa Gà Tây. Ở đó họ đang cần một thợ mổ gà.” Ngay lập tức ba tôi nói, “Không phải nó, Henry. Nó chỉ có mười ngón tay cái thôi,” và cụ Henry nói là cụ chỉ nói giỡn thôi — vì đó là công việc dơ dáy. Nhưng tôi đã quyết là sẽ làm thử công việc này — tôi rất muốn thành công trong một công việc như thế. Tôi ở trong tình trạng giống như một người trưởng thành cảm thấy xấu hổ rằng mình chưa bao giờ học đọc, còn tôi thấy mình vụng về trong các công việc tay chân. Đối với những người mà tôi biết, thì công việc của họ là những điều mà tôi không làm nổi, và người ta xem công việc là điều để họ tự hào về bản thân và dùng nó để đánh giá người khác. (Khỏi cần nói là những điều tôi làm rất tốt, như những bài tập ở trường, thì lại bị người ta nghi ngại hoặc bị khinh thường.) Bởi vậy thật là một sự ngạc nhiên và một sự khải thắng khi tôi không bị đuổi việc, mà còn có thể mổ gà tây với một tốc độ không đến nỗi quá tệ. Tôi không biết rằng mình có thật sự hiểu là Herb Abbott chịu trách nhiệm chừng nào về việc này, nhưng anh ấy hay nói, “Em làm tốt lắm”, hoặc vỗ vào hông của tôi và nói “Em đang trở thành một người mổ gà giỏi — em sẽ tiến rất xa,” và khi tôi cảm thấy cái chạm nhanh và dịu dàng xuyên qua cái áo ấm dày và cái áo khoác dính đầy máu mà tôi đang mặc, tôi cảm thấy mặt mình đỏ lên và muốn tựa vào anh khi anh đang đứng phía sau tôi. Tôi muốn tựa đầu mình vào bờ vai rộng và chắc nịch của anh. Buổi tối khi ngủ, tôi nằm nghiêng, cạ má của mình vào gối và tưởng tượng rằng đó là bờ vai của Herb.
Tôi tò mò muốn biết cách Herb nói chuyện với Gladys, cách anh nhìn cô ấy hay lưu ý đến cô ấy. Sự tò mò này không phải là sự ghen tuông. Tôi nghĩ tôi muốn có chuyện gì đó xảy ra giữa họ. Tôi run rẩy trong sự mong đợi hiếu kỳ, cũng như Lily và Marjorie vậy. Tất cả chúng tôi đều muốn thấy dấu hiệu gợi tình từ anh ấy, nghe nó trong giọng nói của anh ấy, không phải vì chúng tôi nghĩ nó sẽ làm anh ta giống như những người đàn ông khác, mà bởi vì chúng tôi biết với anh ấy nó sẽ hoàn toàn khác. Anh ấy tử tế và kiên nhẫn hơn hầu hết phụ nữ, đồng thời cũng nghiêm khắc và lãnh đạm, giống như bất cứ người đàn ông khác. Chúng tôi muốn biết làm cách nào để có thể gây cảm xúc nơi anh ấy.
Không biết có phải Gladys cũng muốn điều này hay không, nhưng cô ta không tỏ ra bất cứ dấu hiệu gì. Tôi không thể nào biết, đối với những người đàn bà như cô ấy, phải chăng họ đần độn và nguy hiểm như vẻ bề ngoài của họ, chẳng cần điều gì khác ngoài những cơ hội để gây hấn và chê bai người khác, hay phải chăng họ đều bị ngộp thở với những ngọn lửa âm thầm và những khát khao vô vọng.
Marjorie và Lily nói về hôn nhân. Họ không có điều gì tốt đẹp để nói về nó cả, ngoại trừ họ có cảm tưởng rằng đó là một trạng huống mà không ai được phép tránh né. Marjorie nói rằng chỉ một thời gian ngắn sau khi lập gia đình, cô ta đã vào căn chòi gỗ và định uống thuốc chuột.
“Lẽ ra tôi đã uống rồi”, cô ta nói. “Nhưng người đàn ông lái xe bán dạo đồ tạp hoá lại vừa tới nhà và tôi phải chạy ra mua các thứ. Chuyện này xảy ra khi tôi còn sống ở nông trại.”
Chồng cô ta đối xử rất tàn nhẫn với cô ta trong những ngày ấy, nhưng sau đó ông ta bị tai nạn — ông ta bị xe máy cày cán qua người và bị nặng đến độ sau đó ông ta mất khả năng lao động suốt đời. Họ chuyển đến thị trấn, và bây giờ Marjorie trở thành người trụ cột của gia đình.
“Một tối nọ hắn bắt đầu càm ràm và nói rằng hắn không muốn ăn tối. Thế là tôi cầm cổ tay hắn và giơ nó lên. Hắn sợ tôi sẽ vặn tay hắn. Hắn thấy rằng tôi sẽ làm điều đó. Tôi hỏi ‘Anh nói cái gì?’ Hắn liền nói, ‘Tôi sẽ ăn.’”
Họ nói về cha họ. Ông thuộc thế hệ cũ. Ông có một cái thòng lọng trong căn chòi gỗ (không phải cái chòi nơi Marjorie định uống thuốc chuột — cái chòi này cũ hơn và ở một nông trại khác), và mỗi khi họ làm ông điên tiết, ông bắt họ xếp thành hàng và doạ sẽ treo cổ họ lên. Lily, cô em, đã sợ run lẩy bẩy cho đến khi khuỵu xuống. Cũng người cha này đã sắp xếp cho Marjorie lấy người bạn nối khố của ông khi cô ta mới mười sáu tuổi. Đó chính là người chồng đã khiến cô ta muốn uống thuốc chuột. Người cha đã bắt Marjorie phải lấy chồng vì ông không muốn cô ta dính vào những chuyện rắc rối.
“Ông ta rất nóng máu,” Lily nói.
Tôi cảm thấy ghê sợ, và hỏi, “Tại sao các chị không bỏ trốn?”
“Lời nói của ông ta là luật lệ,” Marjorie nói.
Họ nói rằng đó là vấn đề đối với lũ trẻ bây giờ — nghĩa là bây giờ lũ trẻ quyết định mọi việc. Lời nói của người cha cần phải được tuân theo. Họ đã dạy con rất nghiêm khắc, và chưa đứa nào trở nên hư hỏng. Khi con trai của Marjorie đái dầm, cô ta doạ sẽ cắt chim thằng nhỏ với con dao mổ lợn. Thế là thằng nhỏ hết đái dầm.
Họ nói chín mươi phần trăm bọn con gái bây giờ uống rượu, và chửi thề, và vừa nằm vừa uống vừa chửi. Họ không có con gái, nhưng nếu họ bắt gặp chúng làm những chuyện này, họ sẽ đánh cho một trận nhừ tử. Họ kể rằng cô Irene thường đi xem khúc côn cầu với chiếc quần trượt tuyết có đường xẻ ở đáy quần và không mặc quần lót, để cho tiện việc đái xuống tuyết sau đó. Khủng khiếp.
Tôi muốn nêu ra một vài điều nghịch lý. Chính Marjorie và Lily cũng uống rượu và chửi thề, và có gì quá tuyệt vời về sự cả quyết của một người cha đã làm cho con mình chịu đựng cả một cuộc đời đau khổ? (Tôi chưa bao giờ thấy Marjorie và Lily vui vẻ với nhau — điều này không thể có, bởi vì cái cảm nghĩ của họ về hậu quả, bởi vì thái độ kiêu hãnh và lối sống của họ.) Tôi có thể nổi giận vì sự thiếu lô-gíc trong cách nói chuyện của hầu hết những người lớn — cách mà họ tuyên bố mà không cần biết là có bằng chứng hay không. Làm sao mà những đôi tay của những người đàn bà này lại thật tài tình, tinh vi và khéo léo đến thế — bởi tôi biết họ rất giỏi trong những việc khác cũng như trong việc mổ gà; họ rất giỏi may chăn, vá quần áo, vẽ, dán giấy tường, nhào bột và gieo hạt — nhưng cách nghĩ của họ thì thật cẩu thả, vụng về, và dễ gây phẫn nộ như vậy nhỉ?
Lily nói cô ta sẽ không để chồng cô ta đến gần mình khi ông ấy uống rượu. Marjorie nói từ cái lần chết hụt vì bị băng huyết, cô ấy không bao giờ để chồng mình đến gần, chấm hết. Lily nói khi ông ta đang uống rượu ông ta có thể làm bất cứ điều gì. Tôi có thể thấy đó là vấn đề sỉ diện khi không để chồng mình đến gần, nhưng tôi không chắc lắm rằng “đến gần” phải chăng có nghĩa là “làm tình”. Cái ý tưởng mà Marjorie và Lily đang tìm kiếm cho những mục đích như thế thì có vẻ hơi kỳ lạ. Răng của họ xấu tệ, bụng thì chảy xệ, khuôn mặt thì chán phèo và đầy tàn nhang. Tôi quyết định nên hiểu “đến gần” theo đúng nghĩa của nó.
Hai tuần trước Giáng Sinh là thời gian bận rộn nhất ở Vựa Gà Tây. Tôi phải vào lò mổ một tiếng đồng hồ trước khi đến trường và một tiếng đồng hồ sau giờ học và nguyên cả hai ngày cuối tuần. Buổi sáng khi tôi đi bộ đến lò mổ, đèn đường còn sáng và sao mai vẫn còn lấp lánh. Vựa Gà Tây ở ngay bên cạnh một cánh đồng tuyết trắng, với một hàng thông cao đằng sau, và luôn luôn, dù lạnh và vắng vẻ đến mấy, hàng thông vẫn vươn cao những cành cây, thở dài và rỏ nước. Dường như khó có thể tưởng tượng rằng trên đường tới Vựa Gà Tây, cho một giờ làm việc vào buổi sáng, tôi đã trải qua một cảm giác về sự hứa hẹn và đồng thời một cảm giác về sự bí mật hoàn hảo, bất khả tư nghị của vũ trụ, nhưng tôi đã trải qua như thế. Herb có điều gì đó liên quan đến cảm giác này, và cả cái lạnh nữa — một chuỗi những buổi sáng băng giá và trong trẻo. Sự thật là, những cảm giác như thế không phải là khó có. Tôi có được những cảm giác đó nhưng không biết làm sao kết nối chúng với bất cứ điều gì trong cuộc sống thật.
Một sáng kia, Vựa Gà Tây có thêm một người mổ gà mới. Đó là một kẻ lạ mặt, khoảng mười tám hay mười chín tuổi, tên Brian. Hình như hắn có họ hàng hay bạn bè gì đó với Herb Abbott. Hắn đang ở chung nhà với Herb. Hắn đã làm việc trên những chiếc du thuyền trên hồ vào mùa hè trước. Hắn nói hắn đã chán ngấy công việc đó, và hắn từ bỏ.
Nguyên văn hắn nói là “Đụ mẹ, mấy cái thuyền đó, tao chán lắm rồi.”
Ngôn ngữ được dùng trong Vựa Gà Tây thì xuề xoà và tự do, nhưng riêng chữ chửi thề này thì chưa bao giờ nghe ở đó. Và Brian sử dụng nó hình như không phải vì bất cẩn mà với vẻ phô trương, có cả sự xúc phạm và khiêu khích. Có lẽ cái thái độ của hắn đã tạo ra ấn tượng đó. Hắn khá đẹp trai: tóc vuốt keo, mắt xanh, da mặt hồng hào, cơ thể cân đối — loại đẹp trai mà ai mới nhìn cũng đều đồng ý. Nhưng một ý tưởng ấu trĩ và dai dẳng đã bám vào hắn và hắn đã để cho tất cả vốn liếng bản thân của hắn biến thành trò bắt chước. Cái miệng hắn trông ướt át và hầu như lúc nào cũng mở hé, cặp mắt hắn khép hờ, hắn diễn tả bản thân bằng một cái liếc mắt đầy hy vọng, và cử chỉ của hắn thì lười lĩnh, phô trương, mời gọi. Có lẽ nếu cho hắn lên sân khấu với một cái microphone và một cái đàn guitar và để hắn rên rỉ, gào thét và múa may, thì chắc là trông hắn giống như một danh ca thật sự. Không có sân khấu, trông hắn chẳng có sức thuyết phục. Sau một thời gian ngắn, trông hắn chỉ giống như một người bị chứng nấc cụt trầm trọng — cái vẻ gợi tình liên tục của hắn trở nên nhàm chán và vô nghĩa.
Nếu thái độ hắn nhẹ nhàng hơn một chút, thì có lẽ Marjorie và Lily đã thích hắn. Có thể họ đã bày ra cái trò chơi là bảo hắn hãy khép cái miệng nhớp nhúa của hắn lại và đừng có quơ tay lung tung như thế. Thay vì vậy, họ nói họ chán ngấy hắn, và đó là họ nói thật. Có một lần, Marjorie cầm con dao mổ lên. “Hãy giữ khoảng cách của mày,” cô ta nói. “Tao muốn nói là đừng đụng tới tao, em tao và con bé kia.”
Cô ta không nói là hắn phải giữ khoảng cách với Gladys, bởi vì Gladys không có mặt lúc đó và có lẽ Marjorie thật ra cũng chẳng muốn bảo vệ cô ấy. Nhưng chính Gladys là người mà Brian muốn chọc ghẹo. Gladys liệng cái dao xuống, đi vào nhà vệ sinh và ở trong đó mười phút và đi ra với khuôn mặt lạnh như đá. Cô ra về, nhưng không còn nói là cô cảm thấy bệnh như trước nay cô vẫn thường nói. Marjorie nói là ông Morgan đã rất giận Gladys vì cô ăn nhờ ở đậu mà không chịu làm việc và ông sẽ không bỏ qua cho cô nữa đâu.
Gladys nói với tôi, “Chị không chịu được những thứ như thế. Chị không chịu được những người nói về những chuyện như thế và cái loại... những hành động như thế. Nó làm chị muốn ói mửa.”
Tôi tin cô ấy. Mặt cô tái nhợt một cách khủng khiếp. Nhưng tại sao, trong trường hợp đó, cô không phàn nàn với ông Morgan? Có lẽ mối quan hệ giữa họ rất khó chịu, hay có thể cô không muốn chính mình phải nhắc lại hoặc diễn tả lại những hành động như thế. Tại sao không có ai trong chúng tôi phàn nàn — nếu không phải với ông Morgan thì ít ra cũng phàn nàn với Herb chứ? Tôi chưa bao giờ nghĩ về điều này. Brian dường như chỉ là một cái gì đó mà tôi phải chịu đựng, cũng như chịu đựng sự lạnh cóng trong cái lán mổ này và mùi máu, mùi rác rưởi. Khi Marjorie và Lily doạ là sẽ phàn nàn, thì lý do lại là sự lười biếng của Brian.
Hắn không phải là thợ mổ giỏi. Hắn nói hai bàn tay hắn quá to. Vì thế Herb mang hắn ra khỏi khu mổ gà, bảo hắn quét dọn, đóng gói lòng gà, và chất hàng lên xe tải. Điều này có nghĩa là hắn không phải ở một chỗ nhất định hay làm một việc nhất định trong một thời gian nhất định, vì thế rất nhiều khi hắn chẳng làm gì cả. Thường thì hắn chùi sàn, rồi bỏ đó và đi lau bàn, rồi bỏ đó và hút một điếu thuốc, tựa vào cạnh bàn và làm phiền chúng tôi cho đến khi Herb kêu hắn ta giúp chất hàng. Herb lúc này rất bận rộn và mất rất nhiều thời gian để giao hàng, nên có lẽ anh không biết mức độ chây lười của Brian.
“Tao không hiểu sao Herb không đuổi việc mày,” Marjorie nói. “Tao đoán câu trả lời là tại vì anh ấy không muốn mày ăn nhờ ở đậu miễn phí trong nhà anh ấy, và vì mày không biết đi chỗ nào khác để ở.”
“Tôi có chỗ để đi,” Brian nói.
“Câm cái miệng ướt nhẹp của mày lại,” Marjorie nói. “Tao thấy tội cho Herb, anh ta bị kẹt cứng.”
Ngày cuối cùng ở trường trước Giáng Sinh chúng tôi được về sớm vào buổi chiều. Tôi về nhà thay quần áo và đi làm lúc khoảng ba giờ. Không có ai làm việc cả. Mọi người đều ở trong lán mổ, nơi ông Morgan Elliott đang huơ con dao phay trên bàn mổ và gào thét. Tôi không biết ông đang gào thét vì chuyện gì, và nghĩ rằng ai đó đã phạm phải sai lầm nghiêm trọng trong công việc; có lẽ người đó là tôi. Và lúc đó tôi thấy Brian đang đứng phía bên kia cái bàn, với vẻ mặt nhăn nhó và bần tiện, và đứng lùi lại khá xa. Cái vẻ dâm đãng vẫn còn trên mặt hắn, nhưng có phần giảm bớt, trộn lẫn với một vẻ cay cú bất lực và đôi chút sợ sệt. Đây rồi, tôi nghĩ, Brian đang bị đuổi việc vì cẩu thả và lười biếng. Ngay cả lúc tôi nghe ông Morgan nói “dâm tặc”, “nhơ nhuốc” và “bệnh hoạn”, tôi vẫn nghĩ là Brian bị đuổi việc vì lười biếng. Marjorie, Lily và ngay cả cô Irene ăn mặc diêm dúa, cũng đang đứng xung quanh, với vẻ thất vọng và khá thành khẩn, giống như cử chỉ của trẻ con khi thấy ai đó bị la mắng ầm ĩ và đuổi ra khỏi trường. Chỉ có cụ Henry là dường như còn giữ được một nụ cười kín đáo trên khuôn mặt. Gladys không có mặt ở đó. Herb đứng gần ông Morgan hơn mọi người khác. Anh không can thiệp vào nhưng luôn để ý đến con dao phay. Morgy thì đang khóc lóc, nhưng trông anh ta không có vẻ như đang chịu đựng điều gì nguy hiểm đến tính mạng.
Ông Morgan gào lên, bảo Brian phải cút ngay. “Cút ngay khỏi thị trấn này — tao nói thật đấy — và đừng chờ đến ngày mai nếu mày còn muốn các xác của mày nguyên vẹn! Cút ngay!” ông ta hét lên, và quơ con dao phay một cách đầy kịch tính về phía cửa. Brian bắt đầu đi về phía cửa nhưng, không biết hắn có cố ý hay không, cặp mông của hắn đưa qua đưa lại như trêu chọc. Điệu bộ này làm ông Morgan nổi điên và ông rượt theo hắn, quơ con dao phay như đang diễn trên sân khấu. Brian bỏ chạy, ông Morgan đuổi theo hắn, và cô Irene khóc thét lên, ôm lấy cái bụng bầu. Ông Morgan quá mập nên chẳng chạy nổi và có lẽ cũng không thể ném con dao phay quá xa. Herb đứng ở cửa ngó theo. Một lát sau, ông Morgan trở lại và liệng con dao phay lên bàn.
“Tất cả trở lại làm việc! Đừng có đứng trố mắt ra ở đây nữa! Tao không trả tiền cho tụi bây đứng đây mà trố mắt ra! Còn mày làm sao vậy?” Ông ta hỏi, nhìn thẳng vào mặt Irene.
“Dạ không có gì,” Irene trả lời một cách ngoan ngoãn.
“Nếu mày có vấn đề gì thì hãy rời khỏi nơi này.”
“Cháu không có sao mà.”
“Thế thì tốt!”
Chúng tôi trở lại công việc. Herb cởi chiếc áo choàng dính đầy máu, mặc chiếc áo khoác vào và bước ra ngoài, có lẽ anh đi xem thử Brian có kịp lên chiếc xe buýt cuối ngày hay không. Anh chẳng nói gì. Morgan và con trai ông đi ra sân, còn Irene và Henry thì đi sang lán bên cạnh, nơi họ nhổ lông gà, làm việc trong đống lông gà cao tới đầu gối mà lẽ ra Brian đã phải quét chúng đi rồi.
“Gladys đâu?” tôi hỏi nhỏ.
“Đang phục hồi thần trí,” Marjorie nói. Cô ta cũng nói nhỏ hơn thường ngày, và phục hồi thần trí cũng không phải là loại từ ngữ mà cô ta và Lyli thường dùng. Đó là những từ dùng để nói về Gladys, với ý định chế giễu.
Họ không muốn kể lại chuyện đã xảy ra, bởi họ ngại ông Morgan có thể quay lại và bắt gặp họ đang nói và sẽ đuổi việc họ. Những công nhân tốt như họ thì sợ bị đuổi việc. Ngoài ra, họ cũng đã chẳng thấy gì cả. Chắc họ đang bực mình vì họ đã không được chứng kiến. Sau này tôi mới biết là Brian đã làm gì đấy hay đã giơ cái gì đấy cho Gladys thấy khi cô ta vừa bước ra khỏi nhà vệ sinh, và cô ta bắt đầu la hét và trở nên hoảng loạn.
Có thể cô ta sẽ bị trầm cảm lần nữa, họ nói. Và hắn sẽ đi khỏi thị trấn này. Và đó là điều đáng mừng cho cả hai.

***

Tôi có bức ảnh chụp cả toán nhân viên của Vựa Gà Tây trong Đêm Giáng Sinh. Nó được chụp với một máy ảnh tự động có đèn flash — một món quà Giáng Sinh đắt tiền của ai đó. Tôi nghĩ máy ảnh đó là của Irene. Nhưng Herb Abbott chắc hẳn là người đã chụp bức hình. Chỉ anh ấy mới là người có thể tin được là biết sử dụng hay tức khắc học cách sử dụng những thứ mới mẻ, và máy ảnh tự động là thứ khá mới mẻ lúc bấy giờ. Bức ảnh được chụp vào khoảng mười giờ Đêm Giáng Sinh, sau khi Herb và Morgy trở về từ chuyến giao hàng cuối cùng và sau khi chúng tôi đã rửa sạch bàn và lau nền nhà xi-măng. Chúng tôi cởi bỏ những cái áo choàng dính đầy máu và những chiếc áo lạnh dày cộm, rồi đi vào một phòng nhỏ gọi là phòng ăn, ở đó có một cái bàn và một lò sưởi. Chúng tôi vẫn mặc quần áo làm việc: quần yếm và áo. Đàn ông đội mũ, còn đàn bà buộc khăn tay trên đầu, theo kiểu thời chiến tranh. Trong ảnh, tôi trông rắn rỏi, tươi tắn và biểu lộ tình đồng đội, nghĩa là tôi biến thành một mẩu người mà tôi chẳng nhớ nổi có phải lúc ấy mình đúng là như thế hay giả vờ như thế. Tôi trông già hơn nhiều so với cái tuổi mười bốn. Irene là người duy nhất cởi chiếc khăn buộc tóc, để xoã mái tóc đỏ. Cô ta nổi bật với vẻ hiền hậu, khêu gợi và mời gọi, đúng như tiếng đồn về cô ta, nhưng hình ảnh đó không giống như dáng vẻ mà tôi nhớ về cô ta. Vâng, cái máy ảnh ấy chắc là của cô ta; cô ta làm dáng cho bức ảnh, với điệu bộ đó, rõ ràng cô ta có chủ ý hơn bất cứ ai khác. Marjorie và Lily thì mỉm cưới, đúng như cái cách của chính họ, nhưng nụ cười của họ có vẻ chua chát và bất cần. Với mái tóc giấu sau chiếc khăn, và với dáng vẻ ấy khi họ ở bên nhau, họ giống như hai chàng công nhân tháo vát, vui vẻ nhưng rất dễ nổi cáu. Khăn buộc tóc có vẻ không hợp với họ; mũ lưỡi trai có vẻ hợp hơn. Cụ Henry thì rất phấn khởi, hài lòng là một thành viên của nhóm, cười toác miệng và trông trẻ hơn tuổi của cụ khoảng hai mươi năm. Và Morgy, với dáng xấu hổ, không tin vào sự hào sảng của bữa tiệc thưởng công, và ông Morgan rất xúc động, ra dáng ông chủ và mãn nguyện. Ông vừa thưởng cho mỗi chúng tôi một con gà tây. Mỗi con gà đều mất một cánh hoặc một chân, hoặc mất một cái gì đó, và những con gà này không thể đem bán nguyên giá. Nhưng Morgan cố gắng nói với chúng tôi rằng thịt của những con gà khuyết tật là ngon nhất, và ông còn khoe cho chúng tôi thấy rằng chính ông cũng lấy một con như vậy đem về nhà.
Chúng tôi đều cầm những cái cốc hay những cái tách sứ to và dày, trong đó không phải đựng trà mà đựng rượu whisky làm bằng lúa mạch. Ông Morgan và cụ Henry đã uống từ chập tối. Marjorie và Lyli nói họ chỉ muốn nhấm nháp chút xíu thôi, và chỉ uống rượu vì bây giờ là Đêm Giáng Sinh và họ đang lạnh cóng chân. Irene nói cô ta cũng lạnh cóng chân, nhưng điều đó không có nghĩa là cô ta uống ít. Herb đã rót rượu một cách khá hào sảng không chỉ cho cô ta mà cho cả Marjorie và Lily nữa, và họ không hề từ chối. Anh đong từng chút rượu cho tôi và Morgy, một cách rất hà tiện, và đổ Coca-Cola vào. Đây là lần đầu tôi uống rượu, và kết quả là suốt nhiều năm sau tôi cứ tưởng rượu-lúa-mạch-pha-Coca-Cola là một loại thức uống tiêu chuẩn và tôi luôn yêu cầu loại thức uống này, cho đến khi tôi thấy chỉ có một vài người uống thứ rượu pha ấy và điều đó khiến tôi tá hoả. Nhưng Đêm Giáng Sinh năm đó tôi chẳng bị gì cả; Herb đã không cho tôi uống nhiều đủ để tôi say. Ngoại trừ cái vị hơi lạ, và cảm giác riêng của tôi là sợ bị say, tôi đã uống thứ rượu pha ấy giống như uống Coca-Cola.
Tôi không cần có Herb trong bức ảnh để nhớ lại dung mạo của anh ấy. Nghĩa là lúc nào anh ấy cũng giống như chính anh ấy, trong suốt cả thời gian ở Vựa Gà Tây và vài lần tôi trông thấy anh ấy trên đường phố — vẫn đúng là cái dung mạo của anh ấy, mà lúc nào tôi thấy anh ấy cũng y như vậy, ngoại trừ một lần.
Cái lần anh ấy trông có vẻ khác với chính anh ấy là cái lúc mà ông Morgan đang nguyền rủa xua đuổi Brian và, sau đó, khi Brian đã chạy thoát ra ngoài đường. Sự khác biệt này là gì? Tôi cố nhớ lại, bởi vì lúc đó tôi đã ngắm anh ấy rất kỹ. Cũng không khác gì nhiều. Mặt anh ấy có vẻ tái hơn và tối hơn, và nếu bạn phải diễn tả sự biểu cảm trên khuôn mặt đó bạn có thể nói nó biểu lộ sự nhục nhã. Nhưng anh ấy cảm thấy nhục nhã vì điều gì? Nhục vì Brain, vì cái thái độ mà Brian đã ứng xử chăng? Chắc chắn lúc đó đã trễ rồi; vì có bao giờ Brian đã ứng xử khác đâu nào? Nhục vì Morgan đã phản ứng quá dữ dằn và đầy kịch tính? Hay nhục vì chính mình, bởi anh ấy nổi tiếng là người hay ngăn chặn những cuộc đánh lộn và cãi vả kiểu này ngay từ đầu, nhưng anh ấy lại không làm được điều đó ở đây? Hay anh ấy cảm thấy nhục vì đã không bênh vực cho Brian? Có phải anh ấy mong rằng đáng lẽ anh ấy phải làm điều đó, nghĩa là bênh vực cho Brian?
Đó là tất cả những điều tôi tự hỏi lúc bấy giờ. Sau này, khi tôi hiểu biết nhiều hơn, ít ra là về tình dục, tôi tin rằng Brian là người yêu của Herb, và Gladys đã cố gắng lôi kéo sự chú ý của Herb, và đó là lý do tại sao Brian đã làm nhục cô ấy — chẳng biết là có hay không có sự thông đồng và cho phép của Herb. Có thật là một người như Herb — loại người nghiêm nghị, kín đáo, trọng danh dự — lại thường thích loại người như Brian, lại đi phung phí tình yêu vô vọng cho một kẻ đồi bại, ngu xuẩn, một kẻ chưa phải là quỷ sứ, hay một con quái vật, nhưng là loại người chuyên gây ra phiền toái triền miên? Tôi tin rằng lúc ấy, với tất cả sự nhẹ nhàng và cẩn trọng của mình, Herb đã vì Brian mà oán ghét tất cả chúng tôi — không phải chỉ riêng đối với Gladys, mà đối với tất cả chúng tôi — và đó là cảm nghĩ của anh ấy khi tôi quan sát kỹ nét mặt anh ấy và thấy có một sự man dại và vẻ khinh bỉ hả hê. Nhưng đồng thời cũng có sự xấu hổ — xấu hổ cho Brian, cho cả anh ấy và cho cả Gladys, và ở một mức độ nào đó, xấu hổ cho tất cả chúng tôi. Nhục nhã cho tất cả chúng tôi — đó là điều tôi đã nghĩ vào lúc ấy.
Tuy nhiên sau này, tôi đã gạt bỏ lời giải thích này. Đã đến lúc tôi cần gạt bỏ những điều mà tôi không lý giải được. Giờ đây, tôi chỉ nghĩ đến khuôn mặt của Herb với vẻ biểu hiện khác thường và tổn thương; tôi nghĩ đến chuyện Brian đã làm trò khỉ đằng sau sự nghiêm trang của Herb; tôi nghĩ đến sự lưu tâm kín đáo của tôi đối với Herb, và ước muốn của tôi được quan hệ với anh ấy, giá như tôi có bất cứ một cơ hội nào, để rồi tôi dọn đến và ở gần bên anh ấy. Quyến rũ làm sao, thú vị làm sao, cái triển vọng thân mật ấy, với chính con người không bao giờ ban phát điều ấy. Tôi vẫn còn cảm nhận được sự lôi cuốn của một người đàn ông như vậy, của sự hứa hẹn và từ chối của anh ấy. Tôi vẫn muốn biết những điều đó. Bất cần những sự kiện. Cũng bất cần những giả thuyết.
Khi tôi uống hết ly rượu tôi muốn nói một điều gì đó với Herb. Tôi đứng bên cạnh anh ấy và chờ cái khoảnh khắc anh ấy không lắng nghe ai hay không nói chuyện với ai, và chờ khi cuộc chuyện trò càng lúc càng nhốn nháo của những người khác có thể che giấu những điều tôi cần nói.
“Em lấy làm tiếc khi bạn anh phải đi khỏi nơi đây.”
“Điều đó cũng bình thường thôi.”
Herb nói một cách ôn tồn và với chút hài hước, và cử chỉ đó đã ngăn chặn tôi, không cho phép tôi có quyền tiếp tục nhìn vào hay nói về cuộc sống của anh ấy. Anh ấy biết tôi đang muốn gì. Chắc chắn anh ấy đã từng có nhiều kinh nghiệm về chuyện này, với rất nhiều phụ nữ. Anh ấy biết phải đối phó như thế nào.
Lily uống thêm một chút whisky trong cốc và kể chuyện cô ta và người bạn thân thiết nhất của cô ta (đã chết, vì bệnh gan) có lần đã cải trang thành đàn ông và trà trộn vào phía dành cho đàn ông trong quán bia, nơi có bảng hiệu CHỈ DÀNH CHO ĐÀN ÔNG, bởi vì họ muốn xem nơi đó như thế nào. Họ ngồi trong một góc và uống bia, mở to mắt và giỏng tai lên nghe, và không ai thèm nhìn họ đến lần thứ hai hoặc thắc mắc gì về họ, nhưng chẳng mấy chốc thì sự phiền toái xảy ra.
“Bọn tôi đi đâu bây giờ? Nếu bọn tôi đi trở lại chỗ của đám đàn bà, và bất cứ ai thấy bọn tôi đi vào nhà vệ sinh nữ, thì họ sẽ gào lên như có án mạng xảy ra. Còn nếu bọn đi vào nhà vệ sinh nam, thì chắn chắn sẽ có người nhận ra là bọn tôi không đi tiểu đúng cách. Trong khi đó thì bia đang chảy xuyên qua bọn tôi như muốn nổ tung toé ra!”
“Khi bọn mày còn trẻ thì có thứ gì mà bọn mày không làm!” Marjorie nói.
Vài người nữa đưa ra lời khuyên cho tôi và Morgy. Họ nói chúng tôi nên vui chơi khi còn có thể. Họ bảo chúng tôi nên tránh xa mọi rắc rối. Họ nói họ đã qua thời tuổi trẻ. Herb nói rằng chúng tôi là một tập thể đoàn kết và đã làm việc rất tốt nhưng anh ấy không muốn làm phiền những ông chồng của đám phụ nữ vì đã giữ họ ở lại quá trễ. Marjorie và Lily biểu lộ sự thờ ơ đối với chồng của họ, nhưng Irene nói cô ta rất yêu chồng mình và sự thật không phải là anh ta đã bị lôi trở lại từ Detroit để cưới cô ta, mặc kệ ai muốn nói sao thì nói. Henry nói đó là một cuộc sống tốt nếu bạn không nản chí. Morgan nói ông chân thành cầu chúc mọi người một mùa Giáng Sinh vui vẻ nhất.
Chúng tôi rời Vựa Gà Tây trong khi tuyết đang rơi. Lyly nói phong cảnh giống như một tấm thiệp Giáng Sinh, và đúng là giống thật, tuyết bay quanh những ngọn đèn đường trong thị trấn và quanh những dãy đèn màu người ta trang trí trước sân nhà. Morgan cho Henry và Irene quá giang về nhà trên chiếc xe tải vì lòng ưu ái đối với người già, người có thai và mùa Giáng Sinh. Morgy lái xe theo đường tắt qua cánh đồng, còn Herb thì thả bộ về nhà, đầu cúi xuống và tay đút trong túi quần, bước chầm chậm, giống như anh đang ở trên boong một chiếc du thuyền trôi trên hồ. Marjorie và Lyli khoác tay với tôi như thể chúng tôi là những chiến hữu lâu năm.
“Tụi mình hát đi,” Lily đề nghị. “Hát cái gì bây giờ?”
“Hát bài ‘Ba Vua’ nhé?” Marjorie hỏi. “Hay bài ‘Chúng Ta, Ba Người Mổ Gà Tây?”
“Bài ‘Tôi Đang Mơ Một Đêm Giáng Sinh Đầy Tuyết Trắng.”
“Sao lại mơ? Mình đã có rồi mà.”
Và thế là chúng tôi cùng hát.

------------
Dịch từ nguyên tác “The Turkey Season”, trong Alice Munro, Selected Stories (New York: Vintage Books, 1991) 289-311.
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeSat Oct 25, 2014 11:16 am

Thêm 2 Truyện ngắn của Alice Munro

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Munro-6393-1381491514
Nhà văn Alice Munro. Ảnh: AP.


CẬU CON TRAI VÀ CÔ CON GÁI

Cha tôi là một người nuôi cáo. Ông nuôi những con cáo lông bạc trong những cái chuồng đến hết mùa thu và khi sang đầu mùa đông, ông giết chúng, lấy lông và da đem bán cho Công ty Hudson’s Bay hoặc là các thương nhân Montreal Fur.
 
Vài tuần trước Giáng Sinh, cha tôi làm việc sau bữa ăn tối trong tầng hầm được sơn trắng và chiếu sáng bởi một chiếc đèn vài trăm watt trên bàn. Laird và tôi ngồi trên bậc cửa cao nhất và chăm chú nhìn theo ông. Cha tôi lột da những con cáo, sau khi bị lột mất bộ da và lông, con cái trở nên bé tẹo, y như những con chuột, trần truồng, bị ném vào một cái bao tải và chôn vùi trong các bãi rác. Henry Bailey, người phụ việc cho cha tôi hẩy nhẹ chiếc bao có những con cáo vào tôi, bảo đó là “món quà Giáng Sinh” khi bước xuống cầu thang. Mẹ tôi nghiêm mặt, bà không thích công việc giết chóc này và càng không muốn nó diễn ra ngay trong ngôi nhàcủa chúng tôi, bởi vì nó sẽ để lại mùi. Sau khi tấm da được căng trên cái bàn, cha tôi bắt đầu xử lý một cách rất tinh tế. Ông loại bỏ máu đọng và các bong bóng mỡ. Mùi máu và mỡ cáo thâm nhập vào cả ngôi nhà. Tôi cảm thấy yên ổn với cái mùi đó, giống như là mùi cam và lá thông vậy.
 
Tại thời điểm này, ống khói của ngôi nhà vẫn chưa được xây xong, để lại một cái lỗ vuông giữa sàn nhà. Trong bóng tối, tôi và Laird nằm trên giường, nhìn ánh sáng mờ mờ trên chiếc cầu thang và hát. Laird thích hát bài “Jingle Bells” còn tôi hát “Danny Boy”. Tôi thích cảm nhận giọng hát của mình, yếu đuối và cầu khẩn, ngày càng lớn hơn trong bóng tối. Laird cứ hát và rồi ngủ quên luôn. Tôi cuốn chăn quanh người và suy nghĩ về những câu chuyện của riêng tôi cho đến đêm. Đó là những tưởng tượng về tương lai của tôi, tôi sẽ trở thành một anh hùng, cứu người từ trong tòa nhà bị đánh bom. Tôi hạ hai con sói điên dại, cưỡi một con ngựa tốt, đi giữa đường, đón nhận sự biết ơn sâu nặng của dân làng…
 
Cha tôi nuôi cáo trong một khu vực được quây lại bằng một hàng rào bảo vệ, có cửa ra vào và khóa. Có những cái cũi nhỏ cho lũ cáo ngủ. Chúng được cho ăn và uống trong những chiếc lon bằng thiếc cũ. Tất cả các con cáo đều có tên, nó được in trên một tấm bảng treo bênh cạnh cửa chuồng. Cha tôi gọi chúng với những cái tên như Prince, Bob, Wally, và Betty. Tôi hay đặt tên là Star, Turk, Maureen hay Diana, còn Laird thì thích cái tên Maude, Harold và Mexico. Tuy nhiên, những con cáo không quan tâm đến những cái tên. Cha tôi đã hai lần bị nhiễm độc từ các vết cắn. Khi tôi mang nước cho chúng uống, chúng lảng vảng lên xuống, không cả them sủa, lầm lừ nhìn tôi với đôi mắt màu vàng và khuôn mặt dữ tợn. Đó là sự thù địch.
 
Tôi giúp cha tôi cắt cỏ và xếp nó lên trên chuồng cáo để chúng không bị nắng. Cha tôi rất ít khi nói chuyện với tôi trừ trường hợp liên quan đến công việc. Tuy nhiên, tôi vẫn tự nguyện làm việc giúp ông với một chút cảm giác tự hào. Khi tôi xếp xong đám cỏ lên trên nóc chuồng cáo thì trời cũng gần tối. Có một hôm, tôi thấy mẹ tôi đứng nói chuyện với cha tôi phía trước chuồng cáo, lúc đó, cha tôi vừa mới làm xong viêc cho chúng ăn xong, chiếc tạp đề trước bụng ông đẫm những máu và trong tay ông là một cái xô đựng thịt. Tôi cảm thấy bất ngờ vì nhìn thấy mẹ tôi đi xuống chuồng cáo. Mẹ tôi là một bà nội trợ tất bật, luôn tay luôn chân cả ngày. Tôi ghét việc phải ở trong bếp nực nội của mẹ vào mùa hè. Chỉ cần ra được khỏi đó là tôi chạy biến ngay lập tức, chỉ sợ không nhanh thì mẹ tôi sẽ nghĩ ra cái gì đó và sai tôi làm. Với tôi, việc nhà dường như là một cái gì đó vô tận, ảm đạm và buồn chán. Tôi thích những công việc ngoài trời cùng với cha tôi hơn.Mẹ tôi nói với cha tôi rằng: “Chờ đến khiLaird lớn hơn một chút nữa, anh sẽ có một sự giúp đỡ thật sự thôi.”
 
Tôi không nghe được những gì cha tôi nói nhưng tôi rất hài lòng bởi cái cách ông đứng nói chuyện. Trông ông rất lịch sự, như một nhân viên bán hàng vậy. Tôi thắc mắc chuyện mẹ tôi trông đợi điều gì đó ở Laird. Nó thậm chí còn chẳng bao giờ ở cùng tôi được một lần cho đến khi tôi làm xong việc. Thay vào đó, nó chơi xích đu, chạy lòng vòng, bắt sâu bắt bướm. “Và sau đó con bé gái sẽ giúp em nhiều việc trong nhà hơn”. Mẹ tôi nói tiếp và điều đó khiến tôi cực kỳ khó chịu. Mẹ bảo với cha là tôi luôn trốn việc nhà khi bà ấy vừa mới quay đi và rằng tôi không giống như một đứa con gái.
 
Tôi đã bỏ đi, chui vào ngồi trên một túi thức ăn trong một góc chuồng cáo, không muốn thò mặt ra khi cha và mẹ đang nói chuyện. Tôi cảm thấy mẹ tôi không đáng để được tin cậy nữa nhưng tôi cũng nhớ là bà ấy rất yêu tôi. Mẹ thường ngủ rất muộn vào ban đêm chỉ vì muốn khâu cho tôi một chiếc váy theo những yêu cầu khó khăn của tôi.Tuy nhiên, bây giờ, mẹ giống như kẻ thù của tôi vậy. Bà đang âm mưu, lên sẵn một kế hoạch để bắt tôi ở trong nhà nhiều hơn dù biết là tôi vô cùng ghét điều đó và không cho tôi làm những công việc mà tôi thích cùng với cha tôi. Tôi ấm ức, ngồi dập gót chân vào túi thức ăn của lũ cáo và đã không ra khỏi đó cho đến khi mẹ tôi đi mất.
 
Tôi mong đợ là cha tôi sẽ không để ý đến những gì mà mẹ tôi nói. Ai có thể tưởng tượng được Laird sẽ làm công việc của tôi như thế nào? Nó làm sao nhớ được tất cả các ổ khóa, cách làm sạch thức ăn và chuyển nước vào các lon thiếc qua một chiếc lá ở đầu một cây gậy hay là làm cho dây chuyền thức ăn không bị lộn ngược lên trên? Tôi quên không nói những con cáo được cho ăn cái gì. Chiếc tạp đề đẫm máu của cha tôi đã nhắc nhở tôi. Chúng được ăn thịt ngựa tươi. Tại thời điểm này, hầu hết nông dân ở đây vẫn còn nuôi ngựa và khi chúng quá già hay là bị gãy chân, liệt chân, chủ sở hữu những con ngựa này sẽ bán chúng cho cha tôi và nhận về khoảng 5 đến 12 đôla. Thường thì cha tôi và Henry đi lấy ngựa, họ bắn chết nó rồi mang về. Tuy nhiên, nếu còn nhiều thịt ngựa, họ sẽ để cho chúng sống thêm một vài ngày hoặc là vài tuần trong các chuồng dành riêng tại trang trại. Chúng tôi có thể nuôi được lũ ngựa qua mùa đông vì có khá nhiều cỏ khô.
 
Mùa đông năm tôi 11 tuổi, chúng tôi đã có hai con ngựa được đưa đến, tên của chúng là Mack và Flora. Mack là một con ngựa thồ, đen bóng và rất hờ hững. Flora là ngựa kéo xe, khá là đỏng đảnh, khó chiều. Mùa đông năm ấy cũng là lúc tôi nghe được những lời phàn nàn của mẹ tôi về tôi với cha tôi. Tôi cảm thấy bất an. Trong tâm trí tôi, dường như mọi người đã mặc định sẵn tư tưởng này rồi, rằng một cô gái thì không thể thoát khỏi những công việc nhà và phải trở thành một người dịu dàng, khéo léo.
 
Bà ngoại tôi đã ở cùng với chúng tôi trong vài tuần và tôi thường phải nghe những câu như: “Con gái không được đóng cửa mạnh như thế”,“Con gái phải chụm hai đầu gối lại với nhau khi ngồi xuống”. Tệ hơn nữa là, khi tôi thắc mắc điều gì đó, tôi phải nghe cáu gắt rằng, “Đó không phải là việ ccủa một cô con gái”. Tôi tiếp tục đóng sầm cửa ra vào và ngồi một cách càng vụng về, thô lỗ càng tốt. Tôi nghĩ rằng, nếu tôi làm như vậy, tôi sẽ khiến cho mình được bỏ qua.
 
Khi mùa xuân đến, những con ngựa được cho ra ngoài, trong sân nuôi gà vịt. Mack đứng tựa vàotường nhà kho còn Flora thì chạy lung tung khắp nơi. Tuyết tan dần, để lộ những mảnh đất màu nâu xám. Thật tuyệt vời khi tất cả các cửa được mở tung ra, cho phép ánh sáng mặt trời tràn khắp không gian và tận hưởng không khí trong lành.Henry đóng lốc lịch mới lên tờ lịch cũ, đổ một ít yến mạch lên tay Laird và chỉ cho Laird cách cho Mack ăn. Răng của Mack khá xấu xí, nó ăn rất chậm, từ tốn nhai đám yến mạch trong miệng. Henry buồn buồn bảo rằng, Mack đã quá già yếu mất  rồi. “Anh sẽ bắn nó vào hôm nay sao Henry?” tôi hỏi, vì Mack và Flora đã ở trong chuồng được khá lâu và tôi gần như là đã quên mất việc chúng sẽ bị giết.
 
Henry không trả lời tôi. Thay vào đó, anh ta bắt hát với một giọng chế nhạo, buồn và cao.Mack vẫn kiên nhẫn nhai chỗ yến mạch trên tay Laird. Tôi bước ra ngoài trước khi Henry hát hết bài hát và ngồi xuống bậc cửa. Tôi chưa bao giờ thấy Henry và cha tôi bắn một con ngựa nhưng tôi biết họ đã làm việc đó. Mùa hè năm ngoái, tôi và Laird đã chứng kiến cảnh họ chôn cất nội tạng của một con ngựa. Chúng tôi đã nghĩ đó là một con rắn lớn màu đen cuộn mình trong ánh nắng mặt trời.Tôi cho là nếu chúng tôi đi vào nhà kho và tìm được một vết nứt rộng nào đó,chúng tôi có thể nhìn thấy việc là Henry và cha tôi làm. Điều đó không hẳn là tôi muốn xem, chỉ là nếu biết được thì sẽ tốt hơn.
 
Cha tôi đi khỏi nhà, mang theo một khẩu súng. Ông bắt gặp chúng tôi và bảo chúng tôi đi chỗ khác chơi nhưng tôi đã dắt Laird vào nhà kho để lén xem việc Mack bị bắn.Áp tai vào tường nhà kho, tôi có thể nghe thấy tiếng cha tôi và Henry nói chuyện và sau đó là tiếng bước chân nặng nề và mệt mỏi của Mack. Chúng tôi chất cỏ khô thành đống và trèo lên cao. Tôi chỉ cho Laird một vết nứt rộng bằng tay áo trên vách rồi bảo nó hãy im lặng và chờ đợi. Nếu cha tôi hay là Henry phát hiện ra được, chúng tôi sẽ gặp rắc rối lớn.
 
Cha tôi cầm súng. Henry dắt Mack đến. Hai người nói gì đó với nhau mà chúng tôi không nghe thấy. Mack bắt đầu tìm kiếm cỏ tươi mặc dù mắt của nó đã bị bịt kín. Cha tôi bước đi trên một đường thẳng, dừng lại ở khoảng cách có vẻ như đã phù hợpvới ông. Henry tránh qua một bên, cách xa Mack nhưng vẫn giữ dây thừng. Cha tôi nâng khẩu súng lên và dường như Mack cũng cảm nhận được cái gì đó, nó ngẩng đầu lên, cha tôi nã một phát súng vào đầu nó.
 
Mack không ngã xuống ngay lập tức, nó lảo đảo sang một bên sau đó từ từ đổ xuống, đá đá chân vào khoảng không vài giây. Lúc đó, Henry cười. Laird thì thào, “Nó chưa chết đâu!”. Và tôi thấy hình như là vậy thật. Tuy nhiên, chân của Mack đã bất động, các cơ bắp của nó run lên rồi ngừng lại. Cha tôi và Henry đến gần, kiểm tra vết đạn trên trán con ngựa xấu số và bấy giờ thì tôi nhìn thấy vũng máu màu nâu sẫm trên thảm cỏ.
 
“Bây giờ thì chỉ còn việc lột da và cắt thịt nữa thôi. Mình đi!”, tôi kéo tay Laird. Chân tôi vẫn còn run và tôi thầm cảm ơn đám cỏ khô. Giờ thì tôi đã biết cách mà họ bắn một con ngựa. Tôi nhảy xuống trước, Laird ngoan ngoãn đưa hai tay cho tôi đỡ nó. Đột nhiên, tôi nhớ tới chuyện lần đầu tiên tôi dẫn Laird vào chuồng ngựa, bảo nó leo lên đến tận bậc thang cuối cùng và sau đó chạy đi nói với cha tôi rằng, “Laird đang ở trên đỉnh cầu thang”. Cha mẹ tôi vội vàng chạy đến. Cha tôi leo lên cầu thang, nói chuyện với Laird bằng giọng rất dịu dàng và đỡ nó xuống trên hai cánh tay của ông còn mẹ tôi thì tựa lưng vào cầu thang và bật khóc. Họ nói với tôi rằng, “Tại sao lại không trông chừng em?”, nhưng chẳng ai biết sự thật cả. Laird cũng không đủ khôn ngoan để nói lại cho họ biết. Hôm ấy, nó đã mặc một cái áo khoác màu nâu và trắng khá dày. Sau này, mỗi lần nhìn thấy chiếc áo ấy trong tủ, tôi đều cảm thấy nặng nề và tội lỗi.
 
Tôi nhìn Laird, người thậm chí chẳng nhớ nổi cái câu chuyện ấy nữa và tôi không thích điều này tí nào. Biểu hiện của Laird không hề hoảng sợ hay bực bội nhưng có vẻ xa xôi thế nào ấy. “Nghe này”, tôi nói với Laird, bằng một cái giọng tươi sáng bất thường và vô cùng thân thiện, “em sẽ không nói ra chuyện này đâu, phải không?”.

“Vâng”, Laird trả lời lơ đãng. “Hứa nhé?”, tôi hỏi lại một lầnnữa. “Em hứa!”, Laird móc ngoéo tay với tôi. Mặc dù vậy, nó vẫn có thể gặp phải ác mộng vì những gì đã thấy. Tôi nghĩ đến việc xóa mọi thứ vừa diễn ra ra khỏi đầu Laird. Tôi đã dùng hết số tiền tôi dành dụm vào chiều hôm đó để cho Laird đi xem một chương trình của Judy Canova và cả hai chúng tôi đã cười rất nhiều. Sau đấy, tôi nghĩ rằng, sẽ không còn vấn đề gì nữa.
 
Hai tuần sau đó, họ sẽ bắn Flora. Tôi biết điều đó từ đêm hôm trước, khi nghe được cha và mẹ tôi nói chuyện với nhau. Thời gian này, tôi không nghĩ đến việc xem ngựa bị bắn nữa. Tôi còn bận rộn với việc đi học, làm điệu trước gương và tự hỏi là tôi sẽ xinh như thế nào khi lớn lên. Cái chết của Mack, cách làm việc của cha tôi và Henry đối với tôi là chuyện bình thường. Tôi đã quen với cái chết của động vật và coi nó là chuyện cần thiết để chúng tôi được sống. Tuy nhiên, tôi cũng cảm thấy áy náy một chút và không còn sự đam mê với công việc của cha tôi như ngày trước.
 
Đó là một ngày đẹp trời, chúng tôi chơi ở quanh sân, nhặt những cành cây bị gãy trong cơn bão mùa đông. Chúng tôi muốn dựng một chiếc lều với những cành cây đó. Lúc ấy, tôi nghe thấy tiếng hí của Flora và sau đó là giọng la hét của cha tôi và Henry.Tôi cùng Laird chạy xuống chuồng gia súc để xem chuyện gì đang xảy ra. Cửa mở toang, Flora thoát khỏi tay Henry và chạy tự do trong sân nuôi gà vịt, từ đầu này sang đầu kia. Chúng tôi trèo lên hàng rào. Thật thú vị khi nhìn thấy Flora chạy và hí, liên tục đá hai chân sau lên như đe dọa. Cha tôi và Henry chạy sau Flora, cố gắng chụp lấy dây cương. Họ gần như đã dồn được con ngựa vào một góc nhưng lại thất bại trong việc bắt giữ nó. Flora hướng về phía cửa đã bị mở và dường như nó muốn chạy ra đường. Cha tôi hét lên bảo tôi đóng cửa lại.
 
Tôi chạy rất nhanh, băng qua khu vườn, qua những gốc cây, nhảy qua một con mương để đến chỗ chiếc cửa đang mở. Cánh cửa nặng nề. Tôi cố nhấc nó lên. Flora phi nước đại đến thẳng chỗ tôi. Laird lao tới để giúp tôi nhưng thay vì đóng cửa lại, tôi mở rộng nó ra hết sức tôi có thể. Flora không hề chậm lại, nó phóng thẳng qua cửa.Laird nhảy lên nhảy xuống, la hét tôi đóng cửa lại ngay cả khi đã quá muộn để làm điều đó. Cha tôi và Henry xuất hiện ngay sau đó nhưng họ không kịp nhận ra những gì tôi đã làm. Họ chỉ nhìn thấy Flora đang băng băng chạy trên con đường của thị trấn.
 
Cha tôi và Henry không hề lãng phí bất cứ một giây nào, họ quay trở lại nhà kho, lấy dao, súng và nhảy lên chiếc xe tải. Laird hét lên rằng, “Cho con đi với!”, Henry mở cửa kéo nó vào trong rồi phóng xe đi. Tôi tự hỏi, điều gì sẽ xảy ra với tôi đây? Tôi đã không vâng lời cha và tôi cũng không thể hiểu nổi là tại sao tôi lại làm chuyện đó. Flora không thể nào thoát được, họ sẽ bắt nó lại ngay. Ở nơi hoang dã này, chúng tôi cần thịt ngựa để nuôi sống những con cáo và cần những con cáo để nuôi sống chúng tôi. Tất cả những gì tôi đã làm là thêm việc cho người cha vốn đã rất vất vả của tôi. Và khi mà cha tôi phát hiện ra chuyện này, ông ấy sẽ không bao giờ tin tưởng tôi nữa. Tôi trở về nhà, trả lời câu hỏi của mẹ tôi là Flora đã chạy mất thay vì nói tôi đã để cho nó chạy mất. Mẹ tôi bảo rằng, “Tội nghiệp cho bố con quá, ông ấy sẽ phải đuổi nó khắp vùng mất thôi.”Tôi đã định nói cho mẹ tôi biết sự thật nhưng rồi tôi lại im lặng và trở về phòng của mình.
 
Gần đây, tôi đang cố gắng để tạo nên một căn phòng theo đúng ý của tôi, giường có mành che ngăn cách, bàn trang điểm và áo váy. Tôi dự định sẽ chia rõ ranh giới căn phòng giữa tôi và Laird. Chúng tôi không còn hát vào ban đêm nữa vì Laird đã nói tôi rõ ngớ ngẩn khi tôi hát. Dù sao thì chúng tôi cũng không còn sợ nên chuyện đó chẳng quan trọng, nhưng tôi vẫn tiếp tục những câu chuyện trong tưởng tượng của mình về tương lai.

Hơn một giờ sau, chiếc xe tải quay lại. Henry và cha tôi thay chiếc quần đẫm máu bằng đồ làm việc bình thường, rửa ráy ở bồn nước và vuốt lại tóc tai. Mẹ tôi đã chuẩn bị xong bàn ăn. Laird chìa cánh tay với một vệt máu trên đó ra như khoe và nói rằng, “Em và cha đã bắt được Flora và sẽ cắt nó thành 50 mảnh”. Mẹ tôi cằn nhằn, “Mẹ không muốn nghe những thứ như thế và cũng đừng mang máu đến bàn ăn.” Cha tôi nhấc Laird lên, đem nó đi rửa tay. Chúng tôi vừa ăn uống vừa nghe cha và Henry kể lại chuyện đuổi bắt Flora. Laird nhìn qua chỗ tôi và nói với giọng hết sức kiêu ngạo: “Đó là lỗi của chị vì đã để Flora đi!”. “Cái gì cơ?”, cha tôi hỏi lại.

Laird nói: “Chị có thể đóng cửa lại nhưng không làm. Chị còn cố mở cửa ra và thế là Flora chạy được”. “Có đúng thể không?”, cha tôi hỏi. Tất cả mọi người nhìn vào tôi. Tôi gật đầu, mãi không nuốt nổi chỗ thức ăn trong miệng. Tôi xấu hổ. Nước mắt tràn ngập trong mắt tôi. Cha tôi hơi gằn giọng, “Con đã làm gì thế hả?”. Tôi không trả lời, cúi gằm mặt xuống, chờ đợi một cái bạt tai nhưng điều đó đã không xảy ra. Mọi người im lặng khá lâu cho đến khi Laird la lên, “Chị ấy đang khóc”.

“Đừng bận tâm!”, cha tôi trả lời. Ông ấy còn nói thêm một câu như là để giải thoát và xá tội cho tôi, “Chị con cũng chỉ là một cô gái thôi!”. Tôi không phản đối, ngay cả trong trái tim tôi cũng không phản đối. Có lẽ, đây chính là sự thật.

Thi Vũ (Lược dịch)

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Munro2-2709-1381491514
Các tác phẩm của Alice Munro. Ảnh: Usa.


Những con ruồi trên bệ cửa sổ

Nàng tựa mình trên chiếc ghế dựa cũ kỹ trong căn phòng kính ở nhà nàng. Nàng không định đi ngủ. Bây giờ đang là một buổi chiều cuối thu đẹp đẽ, thanh bình - ngày diễn ra cuộc tranh tài Grey Cup, mà nhẽ ra nàng sẽ tham dự tiệc tùng với mấy người bạn, và cùng theo dõi trận đấu qua truyền hình. Vào phút cuối, nàng đã lấy lý do để được ở nhà. Mọi người cũng đã bắt đầu quen với cách xử sự này của nàng, mặc dầu vài người vẫn tỏ ra lo lắng. Nhưng nếu nàng góp mặt, thói quen và nhu cầu khẳng định mình luôn biến nàng thành linh hồn của buổi tiệc. Vì thế, mọi người cũng chẳng lo ngại gì nhiều.

Những đứa con nói với nàng, hy vọng nàng không sống trong quá khứ.

Nhưng nàng tin rằng: điều mình đang làm, điều mình muốn làm, nếu có thời gian, không phải là sống trong quá khứ mà là mở cánh cửa quá khứ để nhìn sâu nào nó, thấu hiểu về nó.

Nàng dần dần thiếp đi trong nắng chiều, và nàng nhận thấy mình đang bước vào một căn phòng nào đó xa lạ. Căn phòng kính, rực sáng, chìm khuất vào một hành lang tăm tối. Chìa khóa gắn ở cửa phòng, nàng nghĩ rằng chìa khóa luôn được gắn như thế, dù việc này, nàng chưa bao giờ gặp trong đời thực.

Đó là một phòng trọ tồi tàn, một căn phòng dành cho những người khách nghèo túng, khổ sở. Một chiếc đèn trần, mấy cái móc áo làm bằng kẽm, một tấm vải hoa màu hồng chen lẫn màu vàng có thể kéo qua lại, che phủ nơi phơi quần áo. Tấm vải hoa có lẽ là để mang đến cho căn phòng chút sinh khí, nhưng kỳ thực, nó lại có tác động ngược lại.

Nàng nhận ra Ollie - chồng của nàng, Ollie đang nằm trên giường. Mới đây, chàng và nàng đã đi khắp mọi miền bằng xe hơi, và chỉ mình chàng cầm lái trong những chuyến lưu diễn ấy. Với cái nóng bức và bụi bậm của ngày hôm này, người chàng mệt mỏi, rã rời. Nàng không biết lái xe. Nàng đang lịch kịch mở những chiếc tủ đựng áo quần, và đi tắm. Khi nàng bước ra, chàng đang ngái ngủ, nhưng qua khe mắt nhắm hờ, chàng thấy nàng đang tự ngắm mình trước tấm gương gắn ở tủ áo quần, cái gương lấm tấm những vệt đen ở những chỗ mà lớp tráng thủy ở mặt sau bong đi. Nàng mặc một chiếc váy satin màu vàng, một cái khăn quàng màu đen có in hình hoa hồng. Trang phục được may theo ý nàng, nhưng chẳng hề tôn lên vóc dáng của người mặc. Da mặt nàng đã được đánh phấn, nhưng vẫn thiếu sinh khí. Những lọn tóc được kẹp và xịt keo, cứ như một cái mũ nằm bẹp dí trên đầu. Đuôi mắt chằng chịt những nếp nhăn, mí mắt sụp, trông buồn ảo não. Có thể nói, toàn bộ cơ thể nàng như bị kéo xuống bởi sức nặng của mớ áo quần, tóc tai và son phấn.

Nàng đến bên giường, cúi xuống và cởi giày cho chàng. Chàng bảo nàng không cần phải làm thế. “Anh chuẩn bị phải đi đây! - chàng nói - Anh phải đến gặp họ”.

Nàng chẳng nói gì, nàng đứng trước gương và tự ngắm mình, với lớp y phục rườm rà và bộ tóc giả. Tâm hồn nàng trĩu nặng, nàng bước quanh phòng như định làm một điều gì đó, nhưng rồi chẳng biết phải làm gì.

Ngay khi cúi xuống định cởi giày cho Ollie, nàng cũng không nhìn mặt chàng. Và chàng nhắm nghiền mắt để tránh nhìn thấy mặt nàng. Họ đã trở thành những diễn viên chuyên nghiệp, họ cùng ăn, cùng ngủ, cùng ở bên nhau. Thế nhưng, trừ những lúc trước đôi mắt của khán giả, họ chưa bao giờ dám nhìn lâu vào mắt nhau. Họ sợ phải nhận ra một điều gì đó khủng khiếp.

Tủ quần áo với tấm gương loang lổ được kê sát tường - che một phần cửa sổ, khiến ánh sáng bên ngoài bớt lọt vào phòng. Nàng tỏ ra nghi ngại trong chốc lát rồi gắng hết sức nhích một góc tủ dịch chuyển sang bên vài tấc. Nàng nín thở vén tấm màn đầy bụi lên, chợt thấy, ở phía xa nhất của bệ cửa sổ, vốn bị che khuất bởi màn cửa và tủ quần áo, là một đống ruồi.

Ai đó từng sống trong căn phòng này, đã tiêu khiển bằng cách giết những con ruồi, rồi nhặt xác chúng, chất thành đống, bỏ trong hốc cửa sổ này. Nàng kêu lên khi nhìn thấy chúng, không phải vì hốt hoảng mà vì ngạc nhiên, thích thú. Thật lạ! Những xác ruồi khiến nàng cảm thấy vui, giống như đó là châu ngọc dưới kính hiển vi, những sắc màu lấp lánh, cánh mỏng như voan. Nàng gào lên, nhưng không phải vì nàng thấy những con ruồi ở bệ cửa. Mà vì nàng không có kính hiển vi, và những con ruồi đã mất đi màu sắc óng ánh của mình khi chúng chết. Những thân thể nhỏ bé, lộn xộn của lũ ruồi hòa trộn vào nhau nơi góc kẹt. Nàng có cảm giác sẽ nhìn thấy chúng ngay khi nàng đặt tay lên tủ áo hay vén tấm màn.

Nàng đã làm Ollie tỉnh ngủ, đánh thức chàng. “Việc gì thế?”, chàng làu bàu. “Em bị ong đốt à?”. “Không!”, nàng nói, chỉ tay vào lũ ruồi. “Em biết chúng nằm ở đó”.

Ollie ngay lập tức hiểu ra ý nghĩa của việc ấy đối với nàng, niềm vui của nàng, mặc dầu chàng không thể hòa cùng vào niềm vui ấy. Giờ đây, chàng chỉ quan tâm mỗi một điều, là làm thế nào cho những lần diễn xuất của chàng và nàng thành công.

“Em biết vào lúc nào?”.
“Khi em nhìn vào trong gương. Khi em nhìn cửa sổ. Em cũng không biết lúc nào nữa”.

Nàng vui sướng, giọng nói trong trẻo, đôi mắt long lanh như bao lớp bụi trần đã được tẩy rửa. Nàng với tay ôm quàng cổ chàng và tựa đầu sát ngực chàng, khiến những giấy tờ bỏ trong túi áo của chàng kêu sột soạt.

Đây là những giấy tờ bí mật mà chàng có được từ một bác sĩ nổi danh - một người mà chàng gặp trong cái thành phố này, chuyên về chăm sóc sức khỏe cho những người nghệ sĩ phải lưu diễn dài ngày. Chàng bảo với vị bác sĩ ấy chàng rất lo lắng về tình trạng tâm lý của nàng - người có thể nằm bẹp trên giường nhìn trần nhà hàng tiếng đồng hồ mà không lộ vẻ đói khát, người nhiều ngày có thể không nói một lời (trừ khi phải biểu diễn trên sân khấu). Nàng không phải là một người bình thường, nàng là một người độc đáo, sống với người độc đáo có thể sẽ hết sức căng thẳng. Nàng đã từng bị bệnh động kinh, và sẽ như thế nào nếu những cơn động kinh ấy quay trở lại. Bác sĩ hiểu chuyện này và đã chỉ cho chàng một nơi để đưa nàng đến điều trị, an dưỡng tinh thần.

Chàng không muốn nói cho nàng biết việc này. Quả tình, nàng cũng đã cảm nhận một điều gì đấy, nhưng nàng không muốn biết.

Nàng tin rằng, họ có thể làm những điều khác với việc này, họ có thể cùng sống một cuộc đời khác. Còn chàng, chàng sẽ quên phắt cái ý nghĩ đưa nàng vào trại an dưỡng, quên phắt mớ giấy tờ vớ vẩn đó.

Nàng cảm thấy tất thảy những hiểm họa tan biến theo những tiếng sột soạt khẽ khàng dưới gò má nàng.

Dường như, một người nào đó, trầm tĩnh và quả quyết, đã đưa nàng ra khỏi căn phòng ấy - căn phòng với những móc áo bằng kẽm và tấm vải hoa. Dịu dàng, đưa nàng ra khỏi những mệt mỏi, đau khổ của cuộc đời, như xuyên qua bao lớp bồ hóng đen tuyền, qua bao lớp tro tàn mong manh, để trở về với những nguồn sáng tươi vui, trong trẻo, thuần khiết.

LÊ MINH KHA
Dịch từ “Flies on the windowsill”
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeSat Jun 25, 2016 12:12 am

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel 9k=

Trốn chạy - tập truyện ngắn của Alice Munro


Trốn chạy gồm tám truyện ngắn với nhan đề ngắn gọn: “Trốn chạy”, “Tình cờ”, “Sắp rồi”, “Nín lặng”, “Đam mê”, “Báng bổ”, “Mắc lỡm”, “Thần lực”. Có thể nói, mỗi câu chuyện trong Trốn chạy chứa đủ chuyện đời để lấp đầy một tiểu thuyết điển hình (Nhận xét của tờ The Boston Globe).

Các câu chuyện dẫu được kể với giọng văn đẹp đẽ, thấu suốt và đi vào lòng người - một giọng kể đơn giản mà lại thành ra độc đáo giữa những áng văn thử nghiệm hay hậu hiện đại thời nay – khiến ta tưởng như đang được nghe một người phụ nữ thật sự kể chuyện, với những ngừng nghỉ nhấn nhá, những khúc quanh cảm xúc, những khi quay ngược lại câu chuyện để giải thích. Không câu hỏi nào được trả lời, cũng không tình thế nào được giải quyết. Không nhiều nút thắt mở tình tiết, chỉ có những thắt mở của cảm xúc. Hình ảnh sau chót trong câu chuyện cuối cùng về một bà già ngồi trên ghế bập bênh hồi tưởng về quá vãng, rồi bị dẫn ra khỏi cơn mơ màng bởi một người “dịu dàng và dứt khoát” - có thể là người chồng đã khuất - như ẩn dụ về một người kể chuyện đang tiên liệu trước cái kết cho sự nghiệp của mình.

Có thể coi Trốn chạy như tác phẩm tổng hợp của một trong những nhà văn khai thác đào sâu tâm hồn con người sắc sảo nhất. Alice Munro cứ thế kể chuyện bằng những lời văn bình thản, đẹp đẽ, thấu suốt, đến độ người đọc thoạt tiên không nhận ra câu chuyện đã làm lòng mình đau nhói.


** Truyện ngắn TRỐN CHẠY

           
Tại nhà, Sylvia không còn việc gì để làm ngoài việc mở toang những cánh cửa sổ. Và nghĩ đến – với sự háo hức khó mường tượng mà không khỏi gây ngạc nhiên – là chốc nữa đây cô sẽ được gặp Carla.
            Tất cả những vật dụng cá nhân mang hơi hám bệnh tật đã được dời đi hết. Căn phòng chung của Sylvia và chồng, cũng là nơi hấp hối của anh, đã được dọn dẹp ngăn nắp hệt như chưa từng xảy ra chuyện gì. Carla đã giúp quét dọn trong những ngày hỗn loạn giữa chuyện hỏa táng và chuyến đi Hy Lạp. Mỗi một bộ đồ Leon đã mặc hoặc chưa từng thử qua, cùng với những món quà chưa tháo hộp do các cô em gái tặng, đã được chất đầy ghế xe sau để giao cho tiệm bán đồ cũ. Những viên thuốc, bộ dao cạo râu, những lon thuốc bổ trợ lực chưa mở nắp – thứ nước đã từng giúp kéo dài sự sống anh cho đến bây giờ – những thùng bánh mè mà anh ăn, những chai lotion còn nguyên mà anh thường dùng để xoa bóp lưng, tấm da cừu anh đã nằm bên trên – tất cả mọi thứ đó đã được gom vào bao ni lon và vứt bỏ như rác, và Carla không thắc mắc gì cả. Cô không bao giờ lên tiếng, “Có lẽ người nào đó cũng có thể dùng được những thứ này,” hoặc thốt lên rằng những lon nước đó còn nguyên chưa mở nắp. Khi Sylvia nói, “Tôi ước gì mình đã không quyên những bộ quần áo. Tôi muốn đốt toàn bộ trong lò thiêu hủy rác.” Carla không lộ vẻ ngạc nhiên.
            Họ làm sạch lò nướng, lau chùi kệ dựng chén dĩa, chùi bóng tường nhà và cửa sổ. Một ngày kia Sylvia ngồi tại phòng khách đọc những lá thư phân ưu cô đã nhận. (Không có những chồng giấy má hay sách vở cần phải soạn dẹp và không có những bài viết chưa hoàn tất hay bản thảo nghệch ngoạc dở dang – thói quen mà mọi người bắt gặp từ những người viết lách. Anh đã nói với cô từ những tháng trước là anh đã ném bỏ hết tất cả không hối tiếc.)
            Những khung cửa sổ to tướng dựng nên vách tường nghiêng hướng nam của căn nhà. Sylvia ngước lên và bị choáng ngợp bởi ánh dương ẩm hơi nước vừa ló dạng – hoặc cũng có thể cô bất ngờ bởi hình ảnh của Carla, chân trần, tay trần, trên chóp thang, khuôn mặt viền vòng những lọn tóc màu hoa bồ công anh còn quá ngắn để tết thành bím. Cô đang cật lực chùi cọ tấm kính. Khi cô trông thấy Sylvia đang nhìn mình, cô dang rộng hai đôi tay thể như đang bị xiên nơi đó, pha trò nheo mặt bắt chước những con đầu hổ phù gắn đầu mái nhà. Rồi cả hai cùng cười phá lên. Sylvia cảm nhận tiếng cười róc rách chảy khắp thân châu cô như một giòng suối nghịch ngợm. Cô trở lại chăm chú những lá thư và Carla tiếp tục công việc lau chùi. Cô quyết ý là những dòng chữ này – dù chân thành hay chiếu lệ, tôn kính và thương tiếc – phải nên đi theo số phận của tấm da cừu và những hộp bánh mè.
            Khi cô nghe tiếng Carla kéo chiếc thang xuống, nghe tiếng giày trên sàn gỗ, bỗng nhiên cô trở nên bẽn lẽn. Cô ngồi y một chỗ, đầu cúi gập khi Carla bước vào phòng và đi ngang nhà bếp để bỏ cái xô và tấm khăn chùi vào bồn rửa chén. Carla không ngừng tay, cô nhanh nhẹn như con chim, nhưng cô cũng còn đủ thời gian để cúi đặt một nụ hôn lên Sylvia đang nghiêng nghiêng đầu. Rồi cô khe khẽ huýt sáo.
            Nụ hôn cứ luẩn quẩn trong tâm trí của Sylvia từ lúc ấy. Nó chẳng mang một thông điệp đặc biệt nào cả. Một nụ hôn cổ vũ khuyến khích hoặc để báo việc gần sắp xong. Nó mang ý nghĩa họ là hai người bạn thân vừa sánh vai trải qua nhiều nỗi muộn phiền. Hoặc có thể đó là cử chỉ đón nhận mặt trời vừa ló dạng. Hay ngay lúc đó, Carla đang muốn trở về nhà bên cạnh những con ngựa của cô. Tuy thế, Sylvia lại nghĩ đến nụ hôn như một đóa hoa rực rỡ đang rộ nở, những cánh hoa muốt xoải dài trong lòng cô hơi ấm xôn xao, như một ánh lóe mãn kinh.
            Thỉnh thoảng trong lớp thực vật học có đứa học nữ trò xuất sắc, sự thông minh và nhiệt quyết và tính tự cao tự đại vụng về, và ngay cả lòng đam mê thế giới thiên nhiên của nó, làm cho cô nghĩ đến hình ảnh mình lúc trẻ. Những đứa như vậy hay bu quanh cô một cách sùng bái, mong mõi một thứ tình nào đó chúng không tài nào, trong nhiều trường hợp, tưởng tượng ra nổi, và chúng khiến cô bắt đầu cảm thấy khó chịu.
            Carla không giống bất cứ ai trong số họ. Nếu cô có hao hao trông như một người nào đó trong quãng đời của Sylvia thì có lẽ là cô giống những cô gái Sylvia quen biết thời trung học. Họ là những cô gái sáng dạ nhưng không bao giờ quá sáng chói, những vận động viên ung dung nhưng không sỡ hữu tinh thần tích cực cạnh tranh quá mức, sôi động nhưng không ồn ào. Lạc quan một cách rất tự nhiên.
            “Để xem, chị đã ở đâu kìa, trong khu làng nhỏ bé này, trong khu làng nhỏ bé này với hai người bạn già, ừ, thỉnh thoảng chiếc xe bus chở du khách hay ngừng nghỉ ở nơi đó, hệt như đang bị lạc đường, rồi hành khách bước xuống xe và nhìn qua nhìn lại một cách hết sức hoang mang khi họ nhận ra nơi đây chẳng là đâu cả. Không có gì để mua sắm.”
            Sylvia đang nói đến Hy Lạp. Carla ngồi cách cô vài bước. Cô gái đô con, có phần hơi e dè nhưng chói rực, cũng đã ngồi xuống đó, trong căn phòng tràn ngập ý nghĩ về cô. Cô cười uể oải và gật đầu chậm rãi.
            “Và thoạt đầu,” Sylvia nói, “chị cũng bị hoang mang. Trời quá nóng. Nhưng ánh sáng thật sự là rất tuyệt đẹp. Rồi chị cũng tìm ra việc gì đó để làm, và cũng chỉ có vài việc đơn giản để lấp đầy thời gian. Chị phải đi bộ nửa dặm để mua dầu và nửa dặm ngược hướng khác để mua bánh mì và rượu vào buổi sáng. Rồi chị ăn trưa dưới bóng râm của những tàn cây. Cái nóng sau buổi trưa quá sức chịu đựng nên chị chẳng có thể làm gì khác ngoài việc đóng kín những cái màn cửa sổ và nằm lên giường, đôi khi nằm đọc sách. Thoạt đầu thì đọc sách. Riết rồi chán đến độ không muốn làm cả điều đó nữa. Tại sao lại phải đọc sách? Một lúc sau chị nhận ra bóng nắng đang chảy dài và chị thức dậy đi bơi lội.”
           
“Ồ,” cô tự ngắt ngang chính mình, “Ô, chị đã quên bẵng mất.”
            Cô đứng dậy và lấy ra gói quà cô đã mua, thật ra cô không quên như lời đã nói. Cô chỉ không muốn trao nó cho Carla ngay lúc ấy, cô muốn khoảnh khắc đến tự nhiên hơn, và trong lúc cô đang kể chuyện chuyến đi cô cũng đã nghĩ sẵn trong đầu đoạn cô nhắc về biển và bơi lội. Và nói, như bây giờ cô đang nói, “Bơi lội làm chị nhớ đến vật này bởi vì nó là một mô phỏng bé xíu, em biết không, nó là vật mô phỏng con ngựa họ tìm được dưới nước. Làm bằng đồng thiếc. Họ nạo vét nó từ dưới đáy lên, sau biết bao nhiêu năm. Nghe nói nó thuộc về thời đại trước công nguyên.
            Khi Carla bước vào nhà và tìm kiếm việc khác để làm, Sylvia nói: “Thôi, ngồi xuống đây một chút đi, chị không có ai trò chuyện từ lúc trở về. Làm ơn nhé.” Carla ngồi xuống trên vành ghế, chân giạng, đôi tay vùi giữa hai đầu gối, trông có vẻ bơ vơ. Như đang gắng đạt tới lối lịch sự xã giao cô hỏi, “Chuyến đi Hy Lạp ra sao?”
            Bây giờ, cô đang đứng, cô vẫn chưa bóc mở hết hoàn toàn lớp giấy gói nhàu nát quấn chung quanh con ngựa.
            “Họ nói nó tượng trưng cho một con ngựa đua,” Sylvia nói. “đang nhảy cú nhảy vọt cuối cùng, sự gắng sức cuối cùng của cuộc đua. Người nài ngựa, cũng thế, một thiếu niên, em có thể nhìn thấy không, cậu ta đang thúc dục con ngựa cố vượt qua giới hạn sức mạnh của chính nó.”
            Cô đã không nói là người thiếu niên khiến cho cô nghĩ đến Carla, và ngay trong lúc này cô cũng không biết phải giải thích ra sao. Cậu thiếu niên chỉ khoảng độ mười hay mười một tuổi. Có lẽ sức mạnh và sự thanh nhã của cánh tay cầm cương, hay những nếp nhăn trên vầng trán trẻ thơ của cậu, niềm say sưa và sự gắng sức thuần khiết, trông hệt như hình ảnh Carla lúc lau chùi những cánh cửa sổ rộng lớn vào mùa xuân năm ngoái. Đôi chân rắn chắc của cô khi mặc quần đùi, đôi vai rộng, những vệt chùi hào phóng trên mặt kính, và cái lối cô xoải hai tay giỡn đùa, mời mọc và yêu cầu Carla phải tươi cười.
            “Vâng em có thể thấy được,” Carla trả lời và tỉ mỉ xem xét bức tượng màu nâu xanh. “Cám ơn chị rất nhiều.”
            “Không có chi. Chúng ta uống cà phê nhé? Chị mới vừa pha xong. Cà phê ở Hy Lạp rất nồng, nồng hơn thứ chị thích, nhưng bánh mì thì ngon tuyệt. Và những quả sung chín ngon đến sững sờ. Ngồi đây một tý đi, làm ơn. Em nên ngắt lời chị khi chị cứ huyên thuyên như thế này. Ở đây thì sao? Mọi việc ra sao?”
            “Trời cứ mưa liên miên suốt ngày.”
            “Chị cũng thấy được điều này,” Sylvia nói vọng lên từ phòng lớn cuối nhà bếp. Trong lúc rót cà phê, cô quyết định sẽ không nhắc đến món quà khác cô đã mang về. Nó không tốn một xu (con ngựa thì đắt hơn cả số tiền cô gái có thể tưởng tượng), đó chỉ là một hòn sỏi trắng hồng mà cô đã nhặt trên đường.
            “Cái này cho Carla,” cô nói với bạn cô, Maggie, lúc đó đang đi bên cạnh cô. “Tôi biết là tôi hơi ngớ ngẩn. Tôi chỉ muốn nó có được một mẩu đất của nơi này.”
Cô đã có nhắc đến Carla với Maggie, và Soraya, một người bạn khác của cô, kể cho họ nghe sự hiện diện của cô gái ngày càng trở nên quan trọng đối với cô, một sự gắn liền khó giải thích đang lớn dần lên giữa họ, và điều đó đã giúp an ủi cô trong những tháng ngày khủng khiếp của mùa xuân năm ngoái.
          “Thể như trông thấy một người – một người tươi tắn và tràn đầy sức sống bước vào trong nhà.”
            Maggie và Soraya cười một cách khó chịu.
            “Thì lúc nào cũng là một đứa con gái,” Soraya nói, kèm theo cái duỗi biếng lười của hai cánh tay nâu nặng nề, và Maggie nói, “Rồi ai cũng sẽ chạm trán với điều đó. Mơ mộng đến một đứa con gái.”
            Sylvia mơ hồ giận dữ bởi cái từ hủ lậu đó – mơ mộng.
            “Có lẽ vì tôi và Leon không có con,” cô nói. “Thật ngu xuẩn. Một thứ tình mẫu tử sai lệch.”
            Các bạn của cô đồng lên tiếng, đại khái là có thể điều đó thật ngu xuẩn, nhưng dẫu sao, cũng là một thứ tình.

          
** Về truyện ngắn TRỐN CHẠY

            
"Trốn chạy" là tập truyện ngắn thứ mười một của Alice Munro. Đây là tập truyện duy nhất mà nhan đề tiếng Anh chỉ có đúng một chữ, Runaway, và toàn bộ tám truyện ngắn trong đó cũng vậy. Dịch giả cũng rất khéo khi đã dịch các tên truyện bằng chỉ đúng hai chữ trong tiếng Việt.
            Cách đặt tên này dường như cố để lộ cho người đọc biết trước đề tài của truyện, nhưng cũng chỉ dừng lại ở đó, và phần việc còn lại của độc giả trở nên khó khăn hơn, khi bằng cách nào đó phải vượt qua cái từ được cho biết trước để có thể bước thong dong mà không bị “mắc lỡm”, như tên một truyện ngắn trong tập. Cách đặt tên này đầy mạo hiểm, như cách trong truyện trinh thám người viết cho biết trước ngay từ đầu ai là thủ phạm. Như một hiệu ứng chung, người đọc mong ngóng một diễn biến làm lật đổ mọi dự đoán từ đầu – một nỗi mong ngóng đầy bất an.
            Truyện ngắn đầu tiên, được lấy tên làm nhan đề cho cả tập, cho thấy sự tỉnh táo làm chủ ngòi bút của tác giả, khi kỹ thuật viết được vận dụng đậm đặc nhiều hơn mức cần thiết so với phong cách của Alice Munro, nhưng nó vẫn chỉ là công cụ, một thứ công cụ tinh vi nhưng hữu ích, để bà đi sâu vào tận ngóc ngách tâm lý nhân vật. Truyện ngắn Trốn chạy, như tên truyện gợi ý, kể về hai cuộc trốn chạy: nhân vật nữ chạy trốn khỏi người chồng lỗ mãng, và con thú cưng chạy trốn khỏi cô. Thậm chí còn có một cuộc trốn chạy thứ ba, ấy là nhân vật chính Carla chạy trốn khỏi cái gọi là nhà.
            Bối cảnh của truyện là một trang trại nơi hai vợ chồng Carla và Clark sống nhờ nghề nuôi ngựa thuê. Qua hình tượng thời tiết, cuộc sống khó khăn của họ được hé lộ: “Mùa hè năm nay mưa dầm mưa dề” , rồi sau đó là đời sống hôn nhân không như ý muốn: “mây trắng ra, mỏng đi, cho lọt chút xíu thứ ánh sáng khuếch tán không bao giờ bừng lên nổi thành ánh mặt trời thật sự, và thường thì cũng tắt trước bữa tối”. Cảm giác bức bí, ngột ngạt do thời tiết được nâng lên khi Carla phải sống chung với người chồng cộc tính. Anh xô xát với đám chủ nợ, gây sự ở một hiệu thuốc hay quán cà phê, và cục cằn với cả con ngựa Lizzie mà anh được thuê nuôi. Cao trào của sự bức bí là khi Clark biết rằng ông hàng xóm Jamieson mới mất từng nhận được món tiền lớn cho một giải thưởng thơ, anh âm mưu “bắt lão ta phải trả giá” và buộc Carla phải sang nói chuyện với bà Jamieson.
            Đến đây, cũng cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng của các khoảng trắng phân đoạn trong tập truyện. Ở Trốn chạy, chúng không chỉ nhằm tách biệt các mẩu trần thuật, mà còn nhằm thay đổi cường độ của nỗi bức bí. Ở giữa hai khoảng trắng, trong lúc Carla kinh sợ khi phải sang nhà Jamieson, cô chợt trăn trở về sự biến mất của con dê nhỏ Flora: “cảm giác đau đớn đơn thuần vì mất Flora, có lẽ là mất Flora vĩnh viễn, gần như là nỗi khuây khỏa so với mớ bòng bong nàng vướng phải liên quan tới bà Jamieson, và so với nỗi khổ phập phù của nàng với Clark”. Khoảng trắng thứ hai còn có mục đích thay đổi điểm nhìn trần thuật, mặc dù vẫn ở ngôi thứ ba, nhưng từ Carla sang bà Jamieson, tức Sylvia. Bà hiểu rằng sự suy sụp của Carla không phải vì con dê biến mất, mà bởi cô không thể chịu đựng được thái độ của Clark đối với cô.
            Nếu như việc con dê biến mất mang tính biểu tượng về việc giải thoát như là sự cám dỗ trong đời Carla – có lần cô mơ thấy Flora ngậm một quả táo đỏ – thì việc cô trốn chạy khỏi Clark là điều lý trí nhất người ta có thể tưởng tượng ra, thậm chí là “điều duy nhất thể hiện lòng tự trọng mà người ở tình cảnh của Carla có thể làm”. Mỉa mai thay, chiếc xe buýt mà cô hớt hải bước ra vì “sợ không gian kín” cũng không khác là bao “nhà lưu động”, tức chiếc xe moóc của hai vợ chồng. Mỉa mai thay, cũng như trước kia cô từ bỏ bố mẹ và cuộc sống tiện nghi để chạy theo Clark, giờ đây cô từ bỏ mọi thứ liên quan đến Clark để chạy trốn khỏi anh, và khi có vẻ tìm thấy tự do, thì cô lại muốn thoát khỏi nó.

.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeSat Jun 24, 2017 11:22 am

.

Truyện ngắn: Đầm đỏ

-  Alice Munro
 

Alice Munro tên đầy đủ là Alice Ann Munro, sinh năm 1931 tại bang Ontario, Canada. Bà đã đoạt giải Nobel Văn học năm 2013, giải Man Booker quốc tế năm 2009 và đã 3 lần đoạt Giải của Toàn quyền Canada. Munro là nhà văn Canada đầu tiên và là phụ nữ thứ 13 đoạt giải Nobel Văn học. Bà đã xuất bản hơn chục tập truyện ngắn và được ủy ban Nobel tôn vinh là “bậc thầy của truyện ngắn đương đại,” và cũng từng được đánh giá là  “Joyce hơn cả Joyce và chiếu tướng cả Chekhov.”  Truyện ngắn này được công bố năm 1946. Nguyễn Trung dịch từ nguyên bản tiếng Anh “A Red Dress.”

 
Mẹ đang may cho tôi một chiếc đầm. Suốt tháng 11, cứ đi học về là tôi thấy mẹ trong bếp, bên chiếc máy may đạp chân cũ kĩ kê sát cửa sổ để lấy ánh sáng, và cũng để mẹ có thể nhìn ra những đám ruộng trơ gốc rạ và vườn rau lác đác xem có ai qua lại trên đường không. Nhưng hiếm khi mới trông thấy người.
Mẹ chọn vải nhung đỏ nên rất khó may thêu, hơn nữa kiểu may của mẹ cũng không kém phần rối rắm trong khi mẹ không phải là thợ may giỏi. Mẹ thích tự làm mọi thứ, vậy thôi.
Mỗi khi có thể, mẹ luôn dành thì giờ lúi húi thêu thùa may vá dù với tôi mẹ chẳng được khéo tay. Chuyện đơm nút áo hay viền lai thì đã có dì và ngoại giúp.

Không như dì tôi hay bà tôi, mẹ tôi có đủ cảm hứng, lòng dũng cảm và cả những ý tưởng sáng rỡ khi “đề pa” tiến hành công việc. Từ thời điểm đó trở đi, niềm vui của mẹ từ từ đổ dốc. Thứ nhất, mẹ không thể tìm được cái mẫu vừa ý. Chẳng có gì lạ bởi ý tưởng dị kỳ luôn nở rộ trong đầu mẹ. Hồi tôi còn bé xíu, mẹ đã may cho tôi một cái áo đầm hoa bằng vải phin organđi, một bộ đồ kẻ sọc đi kèm với chiếc áo khoác nhung và cái mũ bêrê, một chiếc áo cánh thêu thùa quê mùa mặc với chiếc váy dây đen lùng thùng, màu đỏ loét. Tôi đã ngoan ngoãn mặc chúng, thậm chí còn vui nữa – những ngày ấy tôi có biết gì đâu. Giờ khôn lớn hơn rồi, tôi ước mình có được trang phục như của Lonnie, bạn tôi, mua tại tiệm Beale.
Thi thoảng Lonnie đến nhà tôi lúc mẹ bắt tôi thử đồ và cô ấy ngồi xuống đi văng xem. Tôi hơi ngượng vì mẹ xắng xít quanh tôi, đầu gối rệu rạo, hơi thở nặng nề lại luôn lẩm bẩm một mình. Ở nhà, mẹ không bao giờ mặc áo ngực hay mang vớ dài. Bắp chân mẹ nổi nhiều gân xanh. Tôi hơi quê với tư thế ngồi chồm hổm của mẹ, thậm chí tôi thấy hơi tục tĩu sao sao ấy. Tôi đã cố liên tục bắt chuyện để hạn chế tối đa khỏi sự chú ý của Lonnie tới mẹ tôi. Lonnie luôn tỏ vẻ điềm tĩnh, lịch sự trước mặt người lớn. Làm sao mà họ biết cô ấy giả bộ chứ.

Tôi bị xoay tới xoay lui khi mẹ khâu khâu đính đính. Rồi mẹ bắt tôi bước tới, đứng yên. “Con nghĩ sao, Lonnie?” mẹ hỏi, miệng vẫn ngậm kim, kẹp…
“Trông đẹp lắm,” giọng Lonnie dịu nhẹ, chân thành. Mẹ của Lonnie đã mất. Cô sống với cha, người không bao giờ để ý đến cô ấy, và điều này, trong mắt tôi, dường như vừa là điểm yếu vừa là thế mạnh của cô. Mẹ xem tôi là con nít trong khi chuyện trò với Lonnie như thể cô ấy đã trưởng thành.
Mẹ lật chiếc đầm làm cơ thể tôi lộ ra hết. Tôi ước gì mình cũng mảnh khảnh như Lonnie.
“Thời trung học, có ai may đầm cho bác đâu, phải tự làm thôi,” mẹ nói. Mẹ lại bắt đầu chuyện xưa, kể khổ. Trước tôi cũng quan tâm nhưng nghe mãi đâm chán.
Khi rảnh, Lonnie và tôi lên lầu, vào phòng tôi, nói về các chàng trai trong lớp. Bạn có thích anh ta? Thích sơ sơ? Ghét? Bạn sẽ đi chơi nếu anh ta mời?”
Chúng tôi đã mười ba tuổi, và lên trung học được hai tháng rồi. Chúng tôi đã làm các câu hỏi tìm hiểu bản thân trên các tạp chí, đọc bài viết về làm đẹp, cách trò chuyện vào lần hẹn đầu và làm gì nếu bạn trai đi quá xa… Lúc việc học hành thư thả, chúng tôi chúi đầu vào các thông tin về giới tính, tình dục. Chúng tôi đã giao ước nói với nhau tất. Nhưng có một điều tôi giữ kín là buổi khiêu vũ này, buổi Khiêu vũ mừng Giáng sinh tại trường trung học, dịp mà mẹ tôi đã may cho tôi một chiếc đầm.

Ở trường trung học, tôi chưa bao giờ thoải mái tới một phút. Tôi không biết Lonnie thì sao chứ tôi chẳng ưa môn nào. Mỗi lần có kiểm tra một tiết, bàn tay cô nàng lạnh tanh và tim đập thình thịch, trong khi tôi gần như vô vọng. Cứ mỗi lần bị hỏi kiểm tra tại lớp, thậm chí câu hỏi đơn giản, giọng tôi trở nên lí nhí, hoặc khàn khàn và run rẩy. Khi tôi phải lên bảng – ngay thời điểm không chắc lắm trong tháng – y rằng tôi có vệt dính nơi váy. Bàn tay tôi nhầy nhụa đầy mồ hôi khi được yêu cầu vẽ bằng compa bút chì. Tôi không thể đánh trúng cầu trong trò cầu lông; làm điều gì trước đám đông tôi đều thất bại thảm hại. Tôi ghét cay ghét đắng giờ học kinh doanh thực hành, vì tôi phải dùng thước kẻ trang giấy thành cuốn sổ kế toán, và khi thầy giáo liếc xéo qua vai tôi, những đường thẳng liền nghiêng bên này ngả bên kia và tông loạn xạ vào nhau. Tôi ghét môn khoa học – chúng tôi lắp đặt những dụng cụ thí nghiệm dưới những ánh đèn chói mắt, dụng cụ thì rất dễ vỡ – với một người thầy có giọng nói lạnh lùng đều đều như tụng. Tôi ghét môn Ngữ văn – tiếng Anh vì bọn con trai chơi trò lô tô ngay cuối lớp học, trong khi cô giáo, một người phụ nữ hiền lành, đậm người, mắt lé kim, đang đọc thơ của Wordsworth… Cô giáo hăm dọa, năn nỉ bọn trẻ, mặt cô ửng đỏ. Bọn con trai xin lỗi nhưng khi cô giáo tiếp tục đọc thơ chúng lại chế giễu và nhại điệu bộ của cô. Thi thoảng, cô rơi nước mắt, nhưng chẳng ích gì, cô bỏ chạy ra hành lang. Tụi con trai lại la như bò rống; cười toe toét – ồ, cả tôi nữa…
Nhưng những gì thực sự diễn ra trong trường không phải ở tiết học Kinh doanh thực hành, Khoa học và môn Ngữ văn – tiếng Anh, mà là vài thứ khác làm cuộc sống trở nên gọn lẹ và sáng sủa hơn. Đó là tòa nhà cũ kỹ, lạnh lẽo với tầng hầm ẩm ướt, với bức tường đá và những phòng vệ sinh đen đúa, với những bức tranh các nhà quí tộc đã chết và những nhà thám hiểm mất tích, đầy những căng thẳng, háo hức, mơ mộng mà tôi đã linh cảm tất cả đều thất bại. Điều gì đó đã xảy ra, ngăn cản tôi tránh xa cuộc khiêu vũ đêm ấy.

Tháng 12 đến, tuyết rơi trắng xóa, tôi nảy ra ý tưởng để trốn buổi khiêu vũ sắp tới. Tôi dùng chiêu: con bị té xe bong gân nhưng phải gắng sức đạp xe về nhà băng qua những con đường đầy ổ gà và tuyết đông cứng, hậu quả là cổ họng và phổi của con có vấn đề rất nặng. Làm sao chứng minh, trưng ra triệu chứng bệnh viêm họng và phổi? Khó thật. Tôi liền bật dậy, ra khỏi giường, mở cửa sổ phơi mình trước gió tuyết. Tôi phanh áo, hở cổ hở ngực, nhắm nghiền mắt lại, lẩm nhẩm nguyện cầu để được… nhiễm lạnh, đổ bệnh. Đến khi chịu không nổi nữa, tôi chà tuyết khắp vùng ngực, cài nút áo lại rồi lên giường ngủ tiếp với bộ đồ ướt mèm cùng nỗi chờ mong điều tệ hại nhất sẽ xảy ra. Buổi sáng thức dậy tôi kiểm tra cổ họng, rờ lên trán coi mình có sốt không. Dường như chẳng có gì – kết quả không như ý. Tới ngày khiêu vũ sức khỏe tôi vẫn tốt mù.

Để chuẩn bị tham dự đêm khiêu vũ mừng Giáng sinh, tôi đã tự uốn tóc cho mình, dù tóc tôi xoăn tự nhiên, bằng các cuộn kẹp bằng thép. Trước giờ tôi chưa từng làm vậy nhưng hôm nay tôi muốn tất cả các cô gái phải ngưỡng mộ mái tóc của tôi. Tôi nằm trên chiếc ghế dài trong bếp, đọc cuốn Những Ngày Cuối Cùng của Thành Pompeii, và ước gì mình được ở đó. Mẹ tôi không hài lòng lắm về bề ngoài của tôi, Mẹ đang thêu ren trắng cho phần cổ của chiếc đầm. Mẹ khẳng định nó trông vẫn tối – mẹ đã quyết định phải làm cho khi mặc nó tôi trông ra vẻ người lớn cơ. Tôi nhìn đồng hồ luôn. Đó là một trong những ngày ngắn nhất của năm.
Khi tôi làm tóc xong, mẹ lấy nước hoa xịt lên tay tôi rồi giúp tôi diện chiếc đầm trông như kiểu áo của công chúa, thắt phần eo, khoe phần ngực.
“Ước gì mẹ có thể chụp cho con một tấm hình,” mẹ nói. “Mẹ thực sự thích nó và nói thật là mẹ rất lấy làm tự hào… Chiếc đầm hợp với con lắm. Và con phải cảm ơn mẹ về điều đó.”
“Cám ơn mẹ,” tôi lí nhí.
Khi tôi mở cửa ra, câu đầu tiên của Lonnie là, “Chúa ơi, bạn đã làm gì với mái tóc vậy?”
“Tôi tự làm đấy.”
“Bạn trông giống người Zulu Nam Phi quá. Nhưng đừng lo, đưa cho mình cái lược. Mình sẽ sửa mái trước… bạn sẽ trông chững chạc hơn.”
Mẹ dường như không thể rời chúng tôi. Khi Lonnie xong việc, mẹ nói: “Con đúng là một người làm tóc chuyên nghiệp, Lonnie à.”
“Cảm ơn bác.”
Mẹ đi theo chúng tôi ra tận cửa. “Au reservoir!” (Chào tạm biệt!) – tiếng mẹ gọi với theo, vang vọng trong màn đêm, y câu Lonnie và tôi thường nói khi chia tay. Chỉ Lonnie vui vẻ nhiệt thành đáp lại, “Good night!”

*

Buổi khiêu vũ đông nghẹt. Anh chị khối lớp lớn đi có cặp cả. Các bạn gái lớp 12, 13 cũng dẫn bạn trai theo – những chàng đã tốt nghiệp giờ là doanh nhân trẻ của thị trấn. Những chàng trai trẻ vô tư hút thuốc trong phòng tập thể dục, đố ai cản, họ được tự do mà. Những cô gái đứng cạnh, hững hờ nắm tay áo bạn trai, với gương mặt đẹp mang vẻ đăm đăm xa cách. Tôi khao khát được như thế. Họ cư xử như thể chỉ có họ – người lớn – mới thực sự có mặt tại buổi khiêu vũ, như thể những người còn lại là bọn tôi chả hề tồn tại. Đầu tiên là một bản nhạc của Paul Jones. Họ chậm rãi ra sàn, mỉm cười với nhau, tay trong tay. Với niềm vui ngập tràn chất ngất, họ run rẩy sánh đôi. Lonnie và tôi cùng các bạn nữ lớp 9 khác theo sau.

Tôi thậm chí không dám nhìn vòng người phía ngoài, mí mắt như muốn cụp xuống. Khi âm nhạc dừng lại tôi chôn chân tại đó. Một học sinh nam tên là Mason Williams miễn cưỡng tiến về phía tôi. Một tay chạm sơ vào eo tôi, tay kia nắm hờ đầu ngón tay của tôi, cậu ta bắt đầu nhảy với tôi. Chân tay tôi rã rời run rẩy, miệng cứng lại. Cậu Mason Williams này là một trong những người hùng của trường, một ngôi sao bóng rổ, khúc côn cầu khệnh khạng vênh váo. Khiêu vũ cùng cô gái vô danh tiểu tốt như tôi chắc cậu ta cảm thấy chướng như phải học Shakespeare vậy. Tôi nhận ra điều này rõ ràng như cậu ấy, và hình dung ánh nhìn hơi bị quê của cậu ấy hay những cái nháy mắt qua lại đầy ẩn ý giữa cậu ấy với bạn bè cậu. Dìu tôi ra mép sàn nhảy một cách ngại ngần, cậu ấy thả tay, nói “gặp lại,” rồi bỏ đi.

Tôi mất một hoặc hai phút để hiểu những gì đã xảy ra và rằng cậu ta sẽ không trở lại. Tôi tới sát bức tường, đứng một mình. Bản thân tôi không ngạc nhiên hay giận dỗi Mason. Tôi biết chấp nhận thực tế, biết mình biết người. Tuy nhiên, tôi hy vọng không có nhiều người nhìn thấy. Tôi ghét cảnh người ta nhìn tôi. Tôi bắt đầu cắn ngón tay cái.
Khi nhạc ngừng, tôi hòa mình vào dòng nữ sinh đang đổ về cuối phòng tập thể dục. Coi như chẳng có chuyện gì xảy ra, tôi nhủ với lòng mình. Cứ vờ như bây giờ mới bắt đầu.
Ban nhạc tiếp tục chơi. Có sự dịch chuyển trong đám bạn nữ chúng tôi đứng đông dày ở cuối sàn nhảy, người thưa đi một cách nhanh chóng. Nam đến, nữ ra. Lonnie đã ra sàn. Cô gái bên kia cũng vậy. Không ai mời tôi. Tôi nhớ có một bài viết trên tạp chí mà Lonnie và tôi đã đọc khuyên: Hãy lẳng lơ trong ánh mắt, tiếng cười, giọng nói! Đơn giản, rõ ràng thế, nhưng bao cô gái và tôi đã quên. Tôi quá căng thẳng, sợ hãi và xấu xí. Tôi hít một hơi thật sâu và cố gắng nới lỏng gương mặt. Tôi nở nụ cười. Nhưng tôi cảm thấy lố bịch, mỉm cười với ai chứ. Và tôi quan sát thấy nhiều cô gái trên sàn nhảy đã không mỉm cười vẻ ngái ngủ, sưng sỉa.

Các cô gái vẫn đang tiến ra sàn. Một số chán chường ra cùng nhau. Nhưng hầu hết được bạn trai mời. Những cô gái béo, những cô mặt mụn trứng cá, một cô nghèo bận váy khoác áo gió bởi không có đầm, họ đã được mời, họ đang khiêu vũ. Tại sao chọn họ mà không chọn tôi? Mọi người trừ tôi? Tôi có đầm nhung đỏ, tóc uốn, chất khử mùi và nước hoa… Hãy cầu nguyện, tôi nghĩ. Dù không thể nhắm mắt nhưng tôi nói thầm trong đầu, “Mời tôi, làm ơn,” Tôi cho hai tay ra sau lưng, nắm lại theo “kiểu tuyệt chiêu”, dấu hiệu bí mật mà Lonnie và tôi thường sử dụng để nguyện cầu khỏi bị kêu lên bảng trong giờ Toán.
Chẳng có tác dụng. Những gì tôi e sợ đã trở thành sự thật: bị bỏ rơi. Có điều gì đó khó giải thích, không phải do mặt mụn cũng không bởi hơi thở nặng mùi… Nhưng có điều chắc chắn là tôi cảm thấy khó ở, người như muốn bệnh. Tôi vội vã lướt qua một hoặc hai cô gái cũng bị bỏ lại và đi vào khu vệ sinh nữ. Tôi giấu mình trong một gian buồng hẹp.
Giữa các điệu nhảy các cô gái vào ra ngoài một cách nhanh chóng chỗ tôi đang ẩn nấp. Có rất nhiều phòng nên không ai nhận thấy tôi không phải là một kẻ “cư ngụ tạm thời.” Trong suốt thời gian khiêu vũ, tôi lắng nghe những bản nhạc mà tôi thích nhưng không còn cơ hội thể hiện điệu nhảy nữa. Tôi chỉ muốn trốn ở đây, rồi lẻn về nhà.

Một thời điểm nào đó, sau khi nhạc nổi lên, tôi thấy một người phía sau. Cô ấy sẽ mắc cười vì tôi đã ở trong này quá lâu. Tôi nghĩ tốt hơn là mình đi ra ngoài và rửa tay, và có thể trong thời gian đó cô ấy sẽ đi.
Đó là Mary Fortune. Tôi biết rõ tên bởi cô ấy là người tổ chức sự kiện, sắp xếp chương trình buổi khiêu vũ này. Cô ấy đã đến từng lớp tìm tình nguyện viên trang trí. Cô ấy học lớp 11 hoặc 12.
“Ở đây mát mẻ dễ chịu thật,” cô ấy nói. “Tôi nóng bức quá.”
Cô vẫn còn chải tóc khi tôi rửa tay xong. “Bạn khoái ban nhạc chứ?” cô ấy hỏi.
“Cũng được.” tôi thực sự không biết phải nói gì. Tôi ngạc nhiên nhìn một người đàn chị đang phí thời gian bắt chuyện với mình.
“Tôi thì không, không thể chịu được. Tôi ghét nhảy khi tôi không khoái ban nhạc.”
Tôi chải tóc, cô ấy dựa vào bồn, nhìn tôi.
“Tôi không muốn nhảy và đặc biệt chả khoái ở lại đây. Chúng ta hãy đi chỗ nào đó làm điếu thuốc.”
“Ở đâu?”
“Thôi mà, đi, tôi sẽ chỉ cho.”

Phía cuối phòng vệ sinh có cánh cửa lớn không khóa và dẫn vào một phòng kho tối om ngổn ngang giẻ lau và xô thùng. Cô ấy bảo tôi giữ cửa mở để cô ấy tìm công tắc. “Tôi không thể bật đèn vì e có người nhìn thấy,” cô ấy nói. “Đây là phòng của người trông nom tòa nhà.” Tôi ngộ ra rằng dân chơi thể thao và các vận động viên luôn luôn rành về các tòa nhà; họ biết rõ mọi ngõ ngách để luồn lách trái phép và nơi cất giữ mọi thứ. “Cẩn thận! Chỗ kia có cầu thang,” cô ấy nói. “Cầu thang này dẫn lên một phòng kho trên tầng hai. Cửa trên khóa, vì vậy chúng ta sẽ ngồi trên bậc thềm. Ngay cả khi có người nào đó tình cờ đến đây, họ cũng không nhìn thấy chúng ta.”
“Họ sẽ không ngửi thấy mùi khói chứ?” tôi nói.
“Ồ, không.”
Trên cao có một cái cửa sổ lấy cho chúng tôi một chút ánh sáng. Mary Fortune có thuốc lá và diêm trong ví. Trước đây tôi không hút thuốc trừ những điếu Lonnie và tôi tự quấn bằng giấy – sợi thuốc bên trong Lonnie thóm của cha.
“Lý do duy nhất tôi đến tối nay,” Mary Fortune nói, “là vì tôi chịu trách nhiệm khâu trang trí và tôi muốn thấy, bạn biết đấy, tất cả mọi thứ trông thế nào thôi, còn những thứ khác… sao phải bận tâm chứ? Tôi không mê trai.”

Trong luồng ánh sáng chiếu xuống từ cánh cửa sổ trên cao, tôi có thể thấy khuôn mặt nhỏ đầy vẻ khinh miệt của cô ấy. Da mặt của cô ấy bị nám, sần, nổi đầy mụn trứng cá, răng hô. Nó khiến cô ấy trông khắc khổ, già dặn – ra dáng chỉ huy.
“Hầu hết con gái đều vậy. Bạn không nhận thấy điều đó à? Có hàng đống con gái mê trai mà bạn có thể hình dung ra ngay tại trường này đó.”
Tôi rất biết ơn sự niềm nở ân cần của cô ấy – cô ấy đi cùng, tâm sự, làm bạn với tôi và còn cho thuốc lá nữa. Tôi trả lời cô ấy là tôi cũng nghĩ như vậy.
“Như hồi chiều. Chiều nay tôi đã cố đốc thúc họ trang trí hoa, treo chuông, mành… Họ chỉ thượng lên thang và ẻo lả cợt đùa với con trai. Họ không quan tâm đến công việc, chả để ý xem thử trang trí như thế đã được chưa. Nhận việc, làm tình nguyện viên… đó chỉ là một cái cớ. Mục đích duy nhất trong cuộc đời của họ là phí thời gian làm trò ngố hay lả lơi với con trai. Đối với tôi, họ là lũ ngốc.”

Chúng tôi nói về những người giáo viên, và những chuyện ở trường. Cô ấy tâm sự với tôi rằng cô ấy muốn trở thành một giáo viên Thể dục và cô ấy sẽ phải đi học đại học nếu muốn biến ước mơ trở thành hiện thực, nhưng cha mẹ của cô ấy không có đủ tiền. Cô ấy cho biết cô ấy đã lên kế hoạch làm việc cho chính mình. Dù sao đi nữa thì cô ấy cũng muốn tự lập, cô sẽ phụ việc trong các tiệm ăn và vào mùa hè cô ấy sẽ nhận làm công việc đồng áng. Nghe cô nói, tôi cảm thấy mọi buồn đau của mình phai nhạt, tan biến dần, lòng nhẹ hẳn. Vậy là vẫn có những người đã phải chịu đựng nỗi bất hạnh, sự thất bại giống như tôi – tôi nhận ra điều đó – nhưng cô ấy tràn đầy nghị lực, niềm kiêu hãnh và lòng tự trọng. Cô đã nghĩ đến nhiều việc khác để làm.
Chúng tôi đã ở đó chuyện trò và hút thuốc trong thời gian âm nhạc tạm dừng khá lâu – có lẽ là thời gian giải lao, mọi người ở ngoài đó ăn bánh rán và uống cà phê. Khi âm nhạc tiếp tục trở lại, Mary nói: “Xem nào, chúng ta có phải quẩn quanh ở đây nữa thêm nữa không nhỉ? Hãy khoác áo vào và đi thôi. Tại sao chúng ta không tới quán uống sôcôla nóng, thoải mái nói chuyện?”
Chúng tôi tìm lối ra, qua căn phòng của người trông nom tòa nhà, mang theo tàn tro và những mẩu thuốc lá thừa. Tới phòng kho, chúng tôi dừng lại nghe ngóng để chắc chắn rằng không có ai trong phòng vệ sinh. Chúng tôi lại trở ra chỗ sáng và phủi tàn tro chỗ nhà vệ sinh. Chúng tôi phải đi ra, cắt ngang qua sàn nhảy để đến phòng thay đồ bên cạnh cửa ra vào.

Một điệu nhảy mới vừa bắt đầu. “Đi men theo mép ngoài sàn nhảy,” Mary nói. “Sẽ không có ai để ý thấy chúng ta.”
Tôi cắm cúi theo cô ấy, không nhìn ai cả, cũng không tìm kiếm Lonnie. Lonnie có lẽ sẽ không phải là người bạn của tôi nữa, dù sao thì… không thân thiết như trước. Cô ấy thuộc loại người mà Mary sẽ gọi là mê trai.
Giờ đây tôi thấy rằng mình chả e ngại, sợ hãi gì, rằng tôi đã quyết bỏ lại buổi khiêu vũ phía sau. Tôi sẽ không chờ đợi bất cứ ai chọn mình mời nhảy. Tôi đã có kế hoạch của riêng mình. Tôi không cần phải gượng cười hoặc làm dấu nguyện cầu may mắn nữa. Nó không còn quan trọng với tôi. Tôi đang kiếm chút sôcôla nóng cùng với một người bạn của tôi.
Một anh chàng, đứng chắn ngay trên lối tôi đang đi, nói câu gì đó với tôi. Tôi nghĩ chắc anh nhắc tôi là tôi vừa đánh rơi cái gì đó hay có lẽ anh bảo rằng tôi không thể đi theo lối đó hay là phòng thay đồ đã khóa rồi. Tôi không hiểu rằng anh đã mời tôi nhảy cho đến khi anh nói lại câu ấy. Đó là Raymond Bolting lớp tôi, người mà tôi chưa bao giờ nói chuyện, một câu với anh cũng chưa hề, từ khi tôi được xuất hiện trên cõi người tới lúc ấy. Anh nghĩ là tôi đã tỏ ý nhận lời, đã đáp yes. Anh đặt tay lên eo tôi và như thể vô tình, tôi bắt đầu khiêu vũ.
Chúng tôi di chuyển vào giữa sàn nhà. Tôi đang nhảy. Chân tôi không còn run rẩy nữa và tay tôi cũng chẳng đổ mồ hôi. Tôi đang khiêu vũ cùng một chàng trai, chàng trai đã mời tôi khiêu vũ. Không ai bảo anh phải làm vậy, không cần phải làm vậy, nhưng anh đã làm, đã mời tôi – chỉ vậy thôi. Điều ấy có thể xảy ra chứ, tôi có thể tin được chăng, sau tất cả mọi chuyện, không có gì vấn đề với tôi, phải vậy?
Tôi nghĩ tôi nên nói với anh rằng đó là một sai lầm, rằng tôi chỉ định rời khỏi đây, tôi đang làm điều đó và tôi sẽ uống sôcôla nóng cùng chị bạn của tôi. Nhưng tôi đã không nói lời nào. Nét mặt của tôi đã có sự điều chỉnh, vẻ tự nhiên, tinh tế. Không cần phải cố, nét lơ đãng hay vẻ u ám tự dưng tan biến hệt bao cô gái đã được các chàng trai lựa chọn, những người đã được mời nhảy, đã khiêu vũ. Đây là gương mặt mà Mary Fortune đã thấy, khi cô ấy nhìn ra qua cửa phòng thay đồ, chiếc khăn của cô ấy đã được quấn quanh đầu rồi. Tôi thực hiện một động tác yếu ớt, vẫy vẫy cô ấy bằng bàn tay đặt trên vai anh, biểu lộ rằng tôi rất lấy làm tiếc, tôi xin lỗi vì tôi cũng không biết những gì đã xảy ra nữa và tỏ ý rằng cô ấy không cần đợi tôi đâu. Sau đó, tôi quay đầu sang hướng khác, và rồi khi nhìn lại thì cô ấy đã đi khỏi.

Raymond Bolting đưa tôi về nhà còn Harold Simons đưa Lonnie về nhà. Cả bọn chung đường đến tận ngõ rẽ vào nhà Lonnie. Các chàng trai đang tranh luận về khúc côn cầu, môn thể thao mà Lonnie và tôi chẳng rành và không thể góp chuyện. Sau đó, chúng tôi tách thành hai cặp và Raymond vẫn tiếp tục nói với tôi về chính cái đề tài anh đang bàn luận với Harold. Anh dường như không nhận thấy rằng người tiếp chuyện anh – thay vì Harold – bây giờ là tôi. Một đôi lần tôi định nói, “À, mình không biết. Mình có xem trận đó đâu,” nhưng sau một hồi tôi quyết định chỉ nói, “Ừ, hừm,” và hình như chỉ thế thôi cũng là tất cả những gì cần thiết.
Một câu khác mà anh đã nói là, “Mình không hay… nhà bạn lại xa đến thế cơ đấy,” rồi sụt sịt. Cái lạnh cũng làm tôi hơi khó chịu, chảy nước mũi, muốn hắt xì. Tôi lần tay vào bao đựng kẹo trong túi áo, tìm thấy một miếng giấy thấm từ đời nảo đời nao. Tôi không biết liệu tôi có nên đưa cho anh hay không, nhưng anh khụt khịt dữ quá nên cuối cùng tôi nói: “Mình chỉ còn mỗi miếng giấy thấm này, nó thậm chí… có thể không sạch, nó có thể… dính mực. Nhưng nếu mình đã xé đôi ra thì cả hai đều có một cái gì đó để…” “Cảm ơn,” anh nói. “Mình chắc dùng được mà.”

Đó là một tín hiệu tốt. Tôi nghĩ về cái việc tôi đã làm tại cổng nhà tôi. Khi tôi nói: “Thôi, chúc ngủ ngon,” và sau khi anh nói, “Ồ, ngủ ngon. Tạm biệt,” anh nghiêng người về phía tôi rồi hôn tôi – nhanh và gọn, với điệu bộ của một người chỉ cần nhìn qua là biết rõ việc mình cần làm – nơi khóe môi. Sau đó, anh quay lui, trở lại hướng thị trấn. Anh không bao giờ biết rằng anh đã cứu tôi, rằng anh đã mang tôi từ miền Mary Fortune u tối trở về thế giới bình thường.
Tôi đã đi vòng, tới cửa sau của ngôi nhà tôi đang sống, suy nghĩ mông lung. Tôi đã tham gia một buổi khiêu vũ và một chàng trai đã đưa tôi về nhà và hôn tôi. Tất cả là sự thật. Tôi vẫn còn sống. Cuộc đời tôi vẫn còn nhiều điều có thể và biết bao diệu kỳ còn phía trước. Tôi đã đi qua cửa sổ nhà bếp và tôi trông thấy mẹ tôi.

Mẹ đang ngồi đó, bên lò sưởi, hơ ấm đôi chân trần. Mẹ đang uống trà, tay mẹ cầm tách trà – không thấy một cái đĩa nhỏ. Mẹ đang ngồi và chờ tôi về, chỉ vậy, để nghe tôi kể về mọi chuyện đã xảy ra. Và tôi sẽ không làm điều đó, tôi sẽ không bao giờ kể với mẹ, không thể, mãi mãi không thể. Nhưng khi vào, tôi nhìn thấy bữa tối chuẩn bị sẵn trong nhà bếp, và nhận ra gương mặt ngái ngủ, nhợt nhạt, già nua của mẹ hằn rõ sự nóng ruột bởi đợi chờ, nhận ra dáng vẻ ốm yếu, bóng hình nhạt nhòa của mẹ trong chiếc áo kimono có họa tiết cánh hoa nhàu xơ, bạc thếch thì tôi chợt hiểu được bổn phận lớn lao, trĩu nặng và bí ẩn của mình. Mình phải vui vẻ, phải hạnh phúc. Và chỉ chút xíu nữa thôi là tôi đã thất bại – tôi đã hầu như không làm tròn cái bổn phận nặng nề khó hiểu đó. Và dường như chẳng khi nào tôi thích vậy cả và mẹ không hề biết đâu, bây giờ cũng như sau này.
Tôi sẽ không bao giờ để mẹ biết. Tôi sẽ không làm mẹ thêm lo.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeWed Feb 27, 2019 12:35 am

.
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel The-ultimate-safari-3-638
Nữ văn sĩ Nam Phi, Nadine Gordimer (1923-2014) là người dấn thân chống kỳ thị chủng tộc, bà đã đoạt giải thưởng Nobel văn chương năm 1991.


tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Z

Sáu tấc đất
- NADINE GORDIMER (Nam Phi - Nobel 1991
)

Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Nam Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Nam Phi cấm đoán. N. Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.

Truyện ngắn Sáu tấc đất (Six feet of the country) dưới đây viết về đề tài những người nhập cư nghèo khổ, bất hạnh. Cái chết của một trong những người khốn khổ này là trung tâm câu chuyện. Nó cho thấy cách ứng xử của một xã hội quan liêu, phi lý không tình người và nỗi thống khổ lẫn sự nhẫn nhục vô bờ của những người thân, người chết sống dưới đáy xã hội; lồng vào đó là xung đột ngấm ngầm và ẩn giấu giữa 2 chủng tộc: trắng/đen, 2 giai tầng: giàu/nghèo. Được kể dưới ngôi thứ nhất - Tôi với điểm nhìn trần thuật khách quan, dửng dưng gắn với quan điểm của người da trắng, giàu nhưng có lương tri. Cách mở chuyện hơi dài, nhưng thắt nút và mở nút khéo, giọng kể vừa uể oải vừa mềm mại pha lẫn châm biếm.

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel 1386644311-2

Tôi và vợ tôi là Lerice thật sự không phải là nông dân. Để thay đổi cuộc sống, chúng tôi mua một trang trại nằm trên một con đường lớn, cách Johannesburg mười dặm. Tất nhiên trang trại không giải quyết được chuyện gì cho chúng tôi nhưng nó đã gây ra nhiều việc không trông đợi. Lerice sẽ nghỉ ngơi tại trang trại một hoặc hai tháng, sau đó sẽ giao lại cho những người giúp việc để lần nữa đi tìm một vai diễn thích hợp và trở thành một nữ diễn viên kịch như nàng mong muốn. Nàng lao vào điều hành trang trại với tất cả mê say như những mê say đã từng làm gợi lên cảm hứng cho các nhà soạn kịch. Tôi chắc đã bỏ trang trại từ lâu nếu không có nàng. Tay nàng trước đây nhỏ nhắn, mảnh mai và khéo léo, không trang sức cầu kỳ, giờ cứng như gan bàn chân chó.

Tất nhiên tôi chỉ có mặt ở trang trại vào buổi chiều và vào những ngày nghỉ cuối tuần. Tôi là thành viên của một hãng lữ hành đang làm ăn phát đạt và như tôi nói với Lerice, thì hãng cần phải như thế để có thể giúp tài trợ cho trang trại. Chuyện là thế dù tôi không đảm đương nổi công việc của trang trại, dù cái mùi ngai ngái của đàn gà mà Lerice nuôi làm cho tôi ghê sợ, phải tránh xa bãi nuôi, thì trang trại vẫn đẹp tuyệt vời, đặc biệt là vào những sáng chủ nhật, khi tôi thức dậy và đi ra bãi giữ ngựa. Tôi không chỉ ngắm nhìn những hàng cây chà là, hồ cá, chim sẻ đá đang tắm mình trong những buổi sớm ngoại ô mà còn ngắm nhìn những chú vịt trong đầm nước, những chú bò nhỏ người, chắc khỏe, mắt lơ mơ đầy thèm khát nhưng mệt mỏi đang dịu dàng liếm những chị bò cái. Lerice bước ra, tóc chưa chải, tay cầm cái vòi tắm gia súc. Nàng sẽ đứng và nhìn lơ mơ một lát, như thường thấy khi nàng đóng kịch. “Ngày mai chúng sẽ kết bạn”, nàng nói. “Đã là ngày thứ hai rồi. Anh hãy nhìn xem, anh chàng này yêu nàng ấy nhiều làm sao”...

Khi khách khứa đến thăm chúng tôi vào chiều chủ nhật, có thể tôi sẽ nói với khách mà như nói với chính tôi, khi tôi rót nước mời khách. “Hàng ngày lúc lái xe trở về nhà, băng qua những dãy nhà thị thành, anh tự hỏi làm sao chúng ta có thể chịu nổi... Tụi em có muốn đi loanh quanh không?”. Tôi đưa cô gái đẹp và anh chồng trẻ của cô ấy xuống bên bờ sông, bít tất dài của cô gái bị vướng vào bẹ bắp, chân bước qua những đống phân bò đầy ruồi nhặng. Cô gái vừa đi vừa nói “Thành phố quỉ quái căng thẳng. Anh bất mãn để đi tìm cơ hội chứ gì! Tuyệt vời thôi. Anh “bắt cá hai tay” khá thật”.
Và trong khoảnh khắc, tôi hoan hỉ như thể đã đạt được mục đích - những mục đích mà suốt đời có cố tôi cũng không thể - như thế sự thật là nếu bạn định “bắt cá hai tay” thì rất có thể không phải là một hay hai mà thay vào đó bạn phải đối mặt với tình huống thứ ba, một tình huống mà bạn chẳng bao giờ được chỉ vẽ...

Nhưng trong những khoảnh khắc hào hứng, khi tôi thấy Lerice xăng xái như đang bị chọc giận, tôi thấy nàng như là diễn viên, và khi nàng thấy cái mà nàng gọi là sự “ganh tị” của tôi đối với khả năng gây nên sự xăng xái của nàng là bằng chứng cho biết tôi không xứng là người bạn đời của nàng, lúc ấy chúng tôi mới tin là chúng tôi đã thật sự thoát khỏi sự căng thẳng của thành phố mà khách của chúng tôi nói. Khi người Johannesburg nói đến sự căng thẳng, họ không có ý nói đến đám đông người vội vã trên đường phố, đến sự vật lộn vì tiền hay sự cạnh tranh của thành phố nói chung. Họ muốn nói đến súng dưới cái gối của người da trắng. Họ muốn nói đến những khoảnh khắc lạ kỳ trên hè phố, khi người da đen không bước bên cạnh người da trắng.

Xa ở miền quê, cách thành phố mười dặm, cuộc sống dễ chịu. Ở miền quê do vẫn còn rơi rớt lại những dấu vết của thời sơ khai nên quan hệ của chúng tôi với người da đen còn rất phong kiến. Tôi cho rằng như thế là không đúng và lỗi thời; ở trang trại của tôi, cuộc sống dễ chịu hơn. Cửa sổ nhà chúng tôi không có chấn song chống trộm, chúng tôi không mua súng. Các cậu trai người ở của Lerice cùng với vợ con của họ sống trên đất của chúng tôi. Họ có thể ủ rượu mà không sợ bị cảnh sát bố ráp. Sự thật là chúng tôi luôn có phần tự hào bởi những người nghèo đó không có gì phải sợ khi sống cùng chúng tôi. Lerice còn trông nom con cái của họ bằng tấm lòng của một phụ nữ không sinh được một đứa con nào, và nàng còn chữa bệnh cho họ, cả người lớn và trẻ con, xem họ như những đứa bé những khi họ bị bệnh.

Do đó mà chúng tôi không thật ngạc nhiên khi vào một buổi tối mùa đông vừa rồi, cậu Albert đến gõ cửa lúc chúng tôi đã đi ngủ. Tối ấy tôi không ngủ cùng giường với Lerice mà ngủ ở phòng khách, vì Lerice làm tôi bực dọc, không thích nựng nịu nàng, đơn giản chỉ vì cái mùi bột talcum ngòn ngọt mà nàng xức sau khi tắm đã làm tôi khó chịu. Nàng đến phòng khách và gọi tôi dậy. “Albert nói có một cậu nào đó bị bệnh rất nặng”, nàng nói. “Anh đến đó xem sao. Không phải ngẫu nhiên mà cậu ấy đánh thức chúng ta dậy vào giờ này”.
“Mấy giờ rồi?”
“Mấy giờ cũng được chứ sao”, Lerice phát cáu lập luận.
Nàng đến lay tôi và tôi lơ mơ thức dậy. Thật ngốc nghếch khi không ngủ chung giường với nàng. Sau đó tôi biết việc nàng chẳng thèm nhìn tôi khi chúng tôi nói chuyện vào bữa ăn sáng hôm sau là do nàng đã bị tổn thương, bị tôi xúc phạm vì tôi đã không ngủ cùng giường. Và tôi đi ra khỏi nhà.
“Cậu nào bị bệnh?”, tôi hỏi Albert khi chúng tôi bước theo ánh đèn pin lẹt xẹt.
“Thưa ông chủ, anh ấy bị bệnh rất nặng”, cậu ta đáp.
“Nhưng là ai? Có phải Franz không?”. Tôi nhớ là tuần vừa rồi Franz bị ho nặng.
Albert không trả lời; cậu ta dẫn đường cho tôi và bước đi bên cạnh tôi trong đám cỏ khô cao ngồng. Lúc ánh sáng đèn pin quất vào mặt cậu ta, tôi thấy cậu ta rất bối rối. “Thế ai bệnh làm sao?”, tôi hỏi.
Cậu ta cúi thấp đầu để tránh bị ánh đèn pin quất vào. “Tôi không biết, thưa ông chủ, Petrus bảo tôi đi”.

Bực dọc, tôi thúc cậu ta đi nhanh về phía các túp lều. Và ở đó trên chiếc giường khung sắt với các chân làm bằng gạch, có một thanh niên đã chết. Trên trán anh ta vẫn còn những giọt mồ hôi nhỏ lạnh ngắt, thi thể anh ta vẫn còn ấm. Các cậu người ở im lặng và rã rời đứng xung quanh giường, như khi họ đứng xung quanh trong nhà bếp lúc có ai đó phát hiện là đã làm vỡ một cái đĩa. Có một chị vợ của một cậu nào đó lẩn quẩn trong bóng tối, hai tay vặn vẹo vào nhau dưới tạp dề.
Từ hồi chiến tranh tới giờ tôi mới thấy người chết. Nhưng cái chết này rất khác. Tôi cũng thấy bất lực, ngơ ngẩn như những người đứng xung quanh. “Sao như vậy?”, tôi hỏi.
Người phụ nữ vỗ nhẹ vào ngực và lắc đầu chỉ về phía người chết. Chắc là anh ta bị chết vì bệnh viêm phổi.
Tôi quay sang Petrus. “Cậu ta là ai vậy? Cậu ta làm gì ở đây?. Ánh sáng của ngọn nến trên nền túp lều cho thấy Petrus đang khóc. Cậu ta theo tôi bước ra ngoài.
Khi chúng tôi đã ở trong bóng tối bên ngoài túp lều, tôi đợi cậu ta nói. Nhưng cậu ta không nói. “Nào Petrus, cần phải nói cho tôi biết cậu ấy là ai. Cậu ấy có phải là bạn của cậu không?”
“Thưa ông chủ, nó là em của tôi. Nó từ xa đến đây để tìm việc”.

Câu chuyện làm cho tôi và Lerice có chút giật mình. Người thanh niên ấy từ xa đến Johannesburg để tìm việc, bị cảm lạnh do dọc đường phải ngủ ngoài trời, và đã bị ngã bệnh khi đến được chỗ người anh trai là Petrus ba ngày trước đây. Các cậu người ở của chúng tôi sợ không dám nhờ chúng tôi giúp đỡ vì chúng tôi chẳng bao giờ nghĩ đến sự hiện diện của anh ta ở trang trại. Người vùng bị chận lại, không cho vào Nam Phi, trừ phi họ có giấy phép; người thanh niên kia là dân nhập cư bất hợp pháp đến tìm việc. Có rất nhiều người bà con của họ phải cuốc bộ bảy tám trăm dặm từ những nơi nghèo đói để đến với thiên đường của sự rách rưới, của các cuộc bố ráp, của các khu ổ chuột là Egoli - Thành phố Vàng, như tiếng Bantu dùng để chỉ Johannesburg. Đồng ý cho một người như thế nằm ở trang trại chúng tôi cho đến khi được một người nào đó thuê mướn là cả một vấn đề. Người thuê mướn phải là người sẵn lòng nếu như bị truy tố, do đã thuê mướn một người nhập cư bất hợp pháp thay vì nên thuê mướn những người hợp pháp, được các nhà chức trách thành phố xác nhận.

Vâng, đây là một người chẳng bao giờ còn có thể thức dậy được nữa.
“Anh nên nhắc họ là họ có thể báo cho chúng ta biết”, sáng hôm sau Lerice nói “Khi có người bệnh, ít nhất anh phải...”. Khi nàng bị căng thẳng vì một chuyện gì đó, nàng hay đứng giữa phòng, như một người sắp đi xa, vân vê những vật dụng thân quen nhất, như thể nàng chưa bao giờ thấy chúng. Tôi nhận thấy sự có mặt của Petrus ở nhà bếp vào sáng hôm sau đã làm cho nàng có cái dáng vẻ gần như là xúc phạm cậu ta.
Bất luận thế nào tôi thật sự cũng không có thời gian và không thích nhúng tay vào mọi chuyện dù nhìn vào ánh mắt đầy sự cảnh báo và giận dỗi của Lerice. Tôi biết là nàng muốn chúng tôi nhúng tay vào. Nàng là kiểu phụ nữ không quan tâm đến dáng vẻ của mình, dù dáng vẻ đó là thoải mái hay kỳ quặc; tôi không nghĩ là nàng sẽ quan tâm đến ngay cho dù nàng biết được dáng vẻ của mình rất lạ lùng, còn khuôn mặt thì rất khó coi. Tôi nói, “Được rồi, anh sẽ là người làm hết mọi chuyện nhơ bẩn”.
Nàng vẫn trừng nhìn tôi, tra vấn tôi bằng ánh mắt ấy, làm mất thời giờ, nếu nàng biết được như thế.
“Anh sẽ báo cho cơ quan y tế biết”, tôi nói lặng lẽ. “Các cậu người ở không thể mang anh ta đi chôn được. Hơn nữa, chúng ta thật sự chưa biết anh ta chết vì bệnh gì”.
Nàng vẫn cứ bình chân như vại, như thể nàng đã thôi không quan tâm đến vấn đề nữa, đơn giản chỉ vì nàng không còn thèm nhìn tôi.
Tôi không biết tôi bị phát cáu từ lúc nào. “Không khéo thứ bệnh làm cho cậu ta chết có thể lây lan”, tôi nói.
“Ai mà chắc được phải không em?”. Không có câu trả lời.
Tôi không thích việc phải nói chuyện một mình. Tôi bước ra ngoài gọi cậu người ở mở gara và chuẩn bị cho chuyến đi buổi sáng đến thành phố.

Như tôi đã đoán trước, sự việc trở nên rắc rối. Tôi phải thông báo cho cảnh sát cũng như cơ quan y tế biết và phải trả lời nhiều câu hỏi tẻ nhạt: Tôi đã quên không để ý đến sự có mặt của người đã chết như thế nào? Nếu tôi không giám sát những người ở thì làm sao tôi chắc được là những chuyện như thế sẽ không xảy ra vào bất cứ lúc nào? Vân vân, vân vân. Và khi tôi nổi nóng và nói với họ rằng nếu các cậu người ở của tôi đã làm xong phần việc của họ thì tôi không có quyền và cũng không muốn chõ mũi vào cuộc sống riêng tư của họ, tôi đã nhận được từ gã trung sĩ cảnh sát thô thiển một cái nhìn không động não suy tính mà do sự dung tục của một kẻ bị lý thuyết về chủng tộc thượng đẳng xâm chiếm - một cái nhìn vô nghĩa, ngu xuẩn. Gã nhìn tôi và cười toe toét, vừa khinh thị, vừa vui thích trước sự ngốc nghếch của tôi.

Tôi lại còn phải giải thích cho Petrus hiểu tại sao các nhà chức trách y tế phải mang xác đi để khám nghiệm tử thi và khám nghiệm tử thi là gì. Vài ngày sau khi tôi gọi đến cơ quan y tế để biết kết quả thì như chúng tôi nghĩ, người ta đã báo cho chúng tôi biết nguyên nhân tử vong là do viêm phổi và người chết đã được chôn cất tử tế. Tôi đi ra chỗ Petrus đang trộn cám cho gà và nói với cậu ta là mọi việc đều tốt đẹp, không có trục trặc gì cả, em trai cậu ta chết do đau ở ngực, Petrus đặt hộp thiếc đựng cám gà xuống và nói: “Khi nào chúng tôi có thể mang nó về, thưa ông chủ?”.
“Mang về?”.
“Xin ông chủ vui lòng hỏi họ là khi nào chúng tôi phải đến đó?”.
Tôi vô trở lại nhà và gọi Lerice. Nàng từ phòng ngủ bước xuống cầu thang và tôi nói: “Giờ anh không biết phải làm gì đây. Anh đã báo cho Petrus biết và cậu ta lặng lẽ hỏi khi nào thì các cậu ấy có thể đến và mang xác về. Các cậu ấy muốn tự mình chôn người đã chết”.
“Vâng, anh nên đi trở lại và nói cho cậu ta biết. Anh phải nói. Tại sao anh không nói?”.

Khi tôi đi ra trở lại để tìm Petrus, tôi thấy cậu ta rất nhún nhường. “Này, Petrus”, tôi nói, “cậu không thể đến và mang xác em trai cậu về. Người ta đã làm mọi chuyện - Người ta đã chôn rồi - cậu hiểu chứ?”.
“Ở đâu, thưa ông chủ?”, cậu ta nói chậm chạp, ngơ ngẩn, như thể cậu ta đang nói điều gì đó sai trái.
“Cậu biết đấy, em cậu là người lạ. Người ta biết em cậu không phải ở trang trại này và không nghĩ cậu ấy có người thân ở đây, do đó họ nghĩ họ phải chôn cất cậu ấy”. Chôn cất cho người nghèo chưa hẳn là lạ một đặc ân với họ.
“Ông chủ, xin ông giải thích với họ” Nhưng cậu ta không có ý muốn biết nơi chôn cất. Cậu ta dễ dàng quên đi cái cơ quan chức năng khó hiểu đã chôn em cậu; cậu muốn đưa xác về.
“Nhưng Petrus”, tôi nói, “làm sao tôi có thể mang xác em cậu về được.  Em cậu đã được mai táng rồi. Tôi chẳng thể nào giải thích được với họ”.
“Ôi, ông chủ!”. Cậu ta đứng đó, hai tay dính cám lem nhem duỗi thẳng xuống hai bên hông, một góc miệng giật giật.
“Trời ạ, Petrus, người ta sẽ không nghe tôi! Dù sao đi nữa thì người ta cũng không. Tôi xin lỗi, tôi chẳng thể làm gì được. Cậu hiểu chứ!”.
Cậu ta cứ đứng nhìn tôi, có lẽ cậu ấy nghĩ rằng người da trắng có đủ mọi thứ, có thể làm bất cứ chuyện gì; nếu họ không làm là bởi họ không làm.
Và sau đó trong bữa ăn tối, Lerice bắt đầu. “Ít nhất anh cũng nên gọi cho các nhà chức trách”, nàng nói.
“Lạy Chúa, vậy chứ em nghĩ anh là ai? Anh có thể làm cho người chết sống lại được sao?”.
Nhưng tôi không thể cạnh khoé chỉ vì cái trách nhiệm buồn cười đang đè trên cổ tôi. “Gọi cho họ”, nàng tiếp tục. “Và ít ra anh có thể nói lại với cậu ta rằng anh đã gọi và người ta giải thích là không thể”.
Sau khi uống cà phê, nàng biến mất chỗ nào đó trong nhà bếp. Một lát sau, nàng trở lại và nói, “Bố của họ sẽ từ xa đến dự đám tang. Ông ấy có giấy phép và đang trên đường đi”.

Thật không may, việc đem xác về là không thể. Các nhà chức trách nói dù có phần trái với quy định nhưng nếu đáp ứng được các yêu cầu vệ sinh, họ sẽ cho phép khai quật. Với sự giúp đỡ của người làm dịch vụ tang lễ, tôi biết rằng việc khai quật sẽ tốn hai mươi pao. A, tôi nghĩ, vấn đề là ở chỗ này. Với tiền lương năm pao một tháng, Petrus sẽ không có hai mươi pao. Chắc chắn tôi sẽ không cho cậu ta số tiền đó. Tôi sẽ không đắn đo chi ra hai mươi pao hoặc hơn để trả tiền cho bác sĩ và mua thuốc thang để giúp cho anh ta khi anh ta còn sống. Một khi anh ta đã chết rồi thì tôi không có ý định khuyến khích Petrus quẳng đi số tiền còn lớn hơn cả tiền mua sắm quần áo của gia đình cậu ta trong cả một năm.
Tối đó trong nhà bếp, khi tôi nói với cậu ta, cậu ta nói, “Hai mươi pao?”.
Tôi nói, “Đúng vậy, hai mươi pao”.
Nhìn vào mặt cậu ta, tôi bỗng có cảm giác cậu ta đang tính toán. Nhưng khi cậu ta nói lại lần nữa, tôi nghĩ chắc cần phải suy xét lời nói ấy. “Chúng tôi phải trả hai mươi pao!”, cậu ta nói bằng giọng xa vắng, như thể một ai đó đang nói về một điều không thể với tới nên đành thôi không dám nghĩ tới nữa.
“Được rồi, Petrus”, tôi nói cho có rồi đi trở vô phòng khách.

Sáng hôm sau, trước khi tôi đi vào thành phố, Petrus xin gặp tôi. “Xin ông chủ nhận cho”, cậu ta nói và luống cuống đưa cho tôi một nắm tiền. Người nghèo thường là bên nhận chứ hiếm khi là bên đưa cho nên họ thực sự không biết làm thế nào để đưa tiền cho một người da trắng. Và đây, hai mươi pao tiền lẻ, có những tờ đã nhàu nát như giẻ rách, có những tờ còn tương đối mới, thẳng thớm. Đó là tiền của Franz, của Albert, của chị nội trợ Dora, của cậu làm vườn Jacob và có Chúa mới biết được đó còn là tiền của ai nữa trong số những người ở và những người mướn đất của chúng tôi. Khi cầm tiền, tôi giận hơn là ngạc nhiên; giận vì những người nghèo đã làm một cuộc quyên góp cho một việc vô bổ. Tôi nghĩ, người nghèo ở khắp mọi nơi đã sống thắt lưng buộc bụng để mong được chết thanh thản. Điều đó thật khó hiểu đối với những người như tôi và Lerice - những người xem cuộc sống là một cái gì đó cần phải được tận hưởng một cách xa hoa, còn chết là sự chấm dứt.

Chiều thứ bảy, những người ở được nghỉ việc, do vậy đó là một ngày thích hợp để tổ chức đám tang. Petrus và bố cậu ta mượn chiếc xe lừa để lên thành phố chở quan tài về. Trên đường về, Petrus nói với Lerice rằng mọi thứ đều tốt đẹp; quan tài đang đợi họ và được bịt kín để tránh cái cảnh tượng không hay do nó đã được chôn hai tuần lễ rồi. (Trước đó các nhà chức trách và người làm dịch vụ tang lễ đã thoả thuận êm xuôi với nhau về việc khai quật). Cả buổi sáng, quan tài được đặt trong lều của Petrus, đợi đưa đi chôn ở nghĩa trang nhỏ cạnh hàng rào phía đông trang trại của chúng tôi. Nghĩa trang ấy có từ thời vùng đất này còn là một khu vực canh tác lẻ tẻ chứ chưa có điền trang nông thôn hiện đại như bây giờ. Hết sức tình cờ, tôi có mặt cạnh hàng rào phía đông lúc đám tang đi qua do Lerice lại một lần nữa quên bẵng đi lời hứa với tôi, làm cho không khí ở nhà vào chiều cuối tuần trở nên ngột ngạt. Trước đó, tôi trở về nhà và rất tức giận khi thấy cô ấy chểnh mảng và dơ bẩn, đầu tóc từ tối hôm trước đến lúc ấy vẫn chưa chải và để dầu vecni chảy lênh láng khắp phòng khách. Do vậy, tôi cầm gậy và đi chơi gôn. Vì bực bội mà tôi quên mất đi đám tang và chỉ chợt nhớ ra khi thấy đoàn người đưa tang đi trên lối mòn dọc theo hàng rào tiến về phía tôi. Từ chỗ tôi đứng, có thể nhìn thấy rõ các ngôi mộ trong nghĩa trang và ngày hôm ấy nắng chiếu sáng lấp lánh các mảnh gốm vỡ, các cây thánh giá nghiêng lệch và các hũ đựng nước mưa và hoa héo.

Tôi thấy có chút lúng túng không biết có nên tiếp tục đánh gôn hay là nên dừng lại cho đến khi đám tang đi qua hết. Chiếc xe lừa kêu cót két và rít theo từng vòng quay của bánh xe và chuyển động chậm chạp, lưỡng lự theo hai chú lừa. Bụng các chú lừa chềnh ểnh, đầu ngập dưới càng xe, tai vểnh ra sau, vâng phục và buồn bã như đám đàn ông, đàn bà đang chậm rãi theo sau. Ôi, những con lừa kiên nhẫn. Nhìn cảnh chúng kéo xe có thể hiểu tại sao chúng trở thành những biểu tượng trong Kinh Thánh. Sau đó đám tang đi đến chỗ tôi đứng và dừng lại, do đó tôi phải đặt gậy xuống. Quan tài được khiêng xuống. Đó là chiếc quan tài làm bằng gỗ, được đánh vecni bóng loáng, nhìn như một vật dụng rẻ tiền. Các chú lừa giật giật tai để đuổi ruồi. Petrus, Franz, Albert và ông lão nâng quan tài lên vai và đoàn người tiếp tục bước đi. Đó thật sự là một khoảnh khắc bối rối. Tôi đứng đực ra bên hàng rào, im lặng còn đoàn người thì chầm chậm đi qua, đầu cúi gằm. Bốn người đàn ông cong lưng dưới chiếc quan tài bằng gỗ bóng loáng và những người đưa tang bước đi chậm chạp. Tất cả họ là những người ở của chúng tôi hoặc là người ở của trang trại láng giềng - những người hay tuỳ tiện tán gẫu về công việc của chúng tôi. Tôi nghe có tiếng ông lão thở.
Tôi cúi xuống nhặt gậy thì nghe có tiếng trong đoàn người đang nghiêm trang bước đi phát ra một tiếng kêu lạ. Tôi cảm nhận ngay tiếng kêu ấy, như đang cảm nhận một luồng hơi nóng trong không khí hay một dòng nước lạnh trong con suối yên tĩnh, thình lình bám lấy chân mình. Ông lão đang thì thầm điều gì đó; đoàn người dừng lại, bối rối và co cụm lại với nhau. Có người nào đó bảo họ tiếp tục đi, người khác thì xì xào bảo họ im lặng. Tôi thấy dù họ bối rối nhưng họ không thể phớt lờ lời của ông lão. Đó là những lời thì thầm như lời của một nhà tiên tri, dù không rõ nhưng có thể hiểu được. Góc quan tài nơi ông lão khiêng võng xuống, dường như ông ấy đang cố thoát ra khỏi sức nặng của nó. Petrus phản đối ông lão.

Cậu bé được cắt cử ở lại coi lừa vứt dây cương và chạy lại xem. Không hiểu tại sao nhưng tôi cũng vạch hàng rào thép gai chạy theo cậu ta, như kiểu người ta thường bu quanh một người nào đó bị ngất trong rạp chiếu phim.
Petrus đưa mắt nhìn tôi, nhìn mọi người, vẻ bối rối và sợ hãi. Ông lão đã hoàn toàn rút vai ra khỏi quan tài, chỉ còn lại ba người và do không thể tiếp tục khiêng đi, họ đặt quan tài xuống ngay trên lối mòn. Một làn bụi mỏng bay lên chiếc quan tài bóng loáng. Tôi không hiểu ông lão nói gì và lưỡng lự định hỏi. Ông ấy tiến đến chỗ tôi, đưa tay ra và bắt tay tôi và nói với tôi điều gì đó dù tôi không hiểu lời nhưng nghe giọng điệu thì tôi biết đó là những lời biểu thị sự kinh ngạc.
“Có chuyện gì vậy Petrus? Có điều gì không ổn?”, tôi gặng hỏi.
Petrus buông thõng hai tay, đầu cúi xuống, xây xẩm, quay cuồng rồi bỗng cậu ta ngẩng đầu lên nhìn tôi. “Bố nói: con trai tôi không nặng như thế này?”.
Im lặng. Tôi có thể nghe được tiếng ông lão thở; ông ấy để miệng hở ra một ít, như thường thấy ở người già. “Con trai tôi còn trẻ và ốm”, cuối cùng ông ấy nói bằng tiếng Anh.

Lại im  lặng. Sau đó có tiếng xì xào râm ran. Ông lão la lối mọi người; răng ông ấy chỉ còn mấy chiếc vàng và xỉn, ông có bộ râu quai nón xum xuê, đã hoa râm, chắc đã mọc từ đời thuở nào xa lắc, giờ hiếm thấy. Lời nói của ông rất gãy gọn, có hiệu lực đặc biệt do có lẽ đó là dấu hiệu khôn ngoan của tuổi tác - nó chuyển tải những ý tưởng sâu sắc khủng khiếp nhờ nó mang theo trong nó sự đúng đắn đến kinh ngạc. Ông đã làm cho họ bị sốc còn họ thì nghĩ ông lẩm cẩm nhưng họ phải nghe theo ông. Ông lấy tay nậy nắp quan tài và ba người đàn ông khiêng quan tài tiến tới giúp ông. Sau đó ông ngồi xuống đất, vẻ già nua, yếu ớt, không nói một lời, chỉ run rẩy đưa tay về phía quan tài rồi thẫn thờ với tay về phía mọi người.
Đám người vây quanh ông già và chiếc quan tài, (tôi cũng vậy), rồi bỗng họ lặng yên nhưng vài phút sau vỡ oà lên kinh ngạc. Họ há hốc mồm và ồn ào bàn tán. Tôi để ý thấy cậu bé giữ lừa chồm lên chồm xuống, gần như phát khóc vì giận dỗi do những tấm lưng ở người lớn đã che mất quan tài, làm cậu nhìn không được.

Trong quan tài là một người trước đây chưa ai nhìn thấy: một người bản xứ da hơi sáng, thân hình nặng nề, trên trán có một vết sẹo, còn những mũi khâu có thể thấy rõ. Người này có lẽ do bị đánh trong một cuộc cãi vã, rồi bị thương nặng và chết.
Tôi mất một tuần tranh cãi với các nhà chức trách về vụ việc. Tôi có cảm giác là họ sửng sốt mà nói ngắn gọn đó là do lỗi của họ. Tuy nhiên họ cần sự giúp đỡ để khắc phục sự nhầm lẫn do người chết là một người không được biết tên. Họ nói với tôi, “Chúng tôi đang tìm kiếm” và “Chúng tôi đang rà soát”. Mỗi lần dẫn tôi vào nhà xác họ đều nói, “Đấy! Xin dở tấm vải lên, xem có phải là em trai cậu người ở của ngài không! Có rất nhiều khuôn mặt da đen, chắc cũng có một khuôn mặt mà ngài tìm. Và mỗi chiều khi tôi về nhà, Petrus đã đợi tôi ở nhà bếp, “vâng, họ đang cố gắng. Họ vẫn đang tìm kiếm. Tôi cũng đang theo dõi giúp cậu”, tôi nói với cậu ta. “Lạy Chúa, tôi phải mất quá nhiều thời gian, mà lẽ ra tôi phải dành khoảng thời gian đó cho hãng lữ hành, để chạy đôn chạy đáo khắp các xó xỉnh để theo dõi vụ này”, tôi nói với Lerice vào một buổi tối.

Khi tôi nói, nàng và Petrus cùng đưa mắt nhìn tôi và thật kỳ quặc, lúc ấy họ nhìn thật giống nhau, mặc dù nói ra điều này thật trái tai: Vợ tôi có trán cao, trắng trẻo và có thân hình mảnh mai của một phụ nữ Anh, trong khi cậu người ở có bàn chân trần chai cứng, quần kaki bó túm ở gối và mồ hôi ứa ra từ da, nhễ dại, có mùi rất khó chịu.
“Chuyện gì làm cho anh quá giận dữ, quá lo lắng vậy?”, bỗng Lerice hỏi.
Tôi trừng mắt nhìn nàng. “Đây là vấn đề có tính nguyên tắc. Tại sao họ lại lừa đảo, mang xác đi rồi lại bỏ trốn? Đây là lúc các nhà chức trách đó phải thức tỉnh, phải nhìn vào việc làm của gã viên chức chịu trách nhiệm về vụ này”.
Nàng nói, “Ôi dào”. Và khi Petrus từ từ mở cửa nhà bếp để đi ra vì thấy câu chuyện chẳng còn liên quan đến mình, nàng cũng quay đi.

Mỗi buổi chiều tôi đều phải làm “công tác tư tưởng” cho Petrus nhưng rồi mỗi chiều, giọng nói của tôi và những gì tôi nói đều không có gì khác nhau nên hy vọng càng lúc càng mờ mịt. Cuối cùng thì chuyện đã trở nên rõ rành rành là chúng tôi sẽ không bao giờ mang được xác của cậu em trai Petrus về, vì không ai thực sự biết cậu ta đang ở đâu. Hay là cậu ta đã được chôn ở một nghĩa trang nào đó, nơi mà các ngôi mộ đều giống hệt nhau? Hay là cậu ta đang nằm ở một ngôi nhà nào đó không phải nhà của cậu? Hay là cậu ấy chỉ còn là một bộ xương ở một trường y nào đó? Có Chúa mới biết được. Cậu ta chẳng để lại một dấu tích trên đời này cả.
Sau khi biết rõ là không tìm được xác, bằng một giọng điệu e dè, Petrus xin tôi hãy cố gắng lấy lại tiền.
“Nghe giọng cậu ta nói, em sẽ nghĩ cậu ta đang bòn tiền của người quá cố”, sau đó tôi nói với Lerice. Nhưng như tôi đã kể, Lerice vì quá căng thẳng với vụ việc nên chẳng có nổi một cái cười mỉa mai.
Tôi cố gắng lấy lại tiền; Lerice cũng cố gắng. Nhưng rõ ràng là phần lớn tiền ấy đã được trả cho người làm dịch vụ tang lễ và anh ta đã làm xong phần việc của mình. Do vậy, toàn bộ số tiền kia đã được dùng một cách hoang phí, thậm chí còn là rất hoang phí bởi đó là tiền của người nghèo.

Ông lão đến từ xa có tầm vóc giống với ông bố của Lerice, nhờ đó nàng đã cho ông một bộ đồ của bố nàng vào mùa đông. Ông lão trở về nhà, tươm tất hơn lúc đến.

TRẦN NGỌC HỒ TRƯỜNG dịch
(Dịch từ The International Story,
NXB St Martin” s Press, New Yorl, 1994)
(nguồn: TCSH số 218 - 04 - 2007)


Được sửa bởi PVChuong ngày Sun Sep 29, 2019 1:42 pm; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeSat Mar 02, 2019 10:40 pm

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel 9202074dce511a5634e41eac08b519d6

CON QUỶ GIÀ
- Pearl Buck (Nobel 1938)


Cố nhiên bà lão Vương biết có chiến tranh. Từ lâu, mọi người đều đã biết chiến tranh tiếp diễn và bọn Nhật đang giết người Trung Hoa. Tuy nhiên, điều đó không hiện thực và chẳng hơn gì lời đồn đại vì không có ai trong dòng họ Vương bị giết cả. Làng Vương Tam Lý trên bờ sông Hoàng Hà, vốn là làng của bộ tộc bà lão Vương, chưa hề trông thấy một tên Nhật nào hết. Thành thử họ có bàn bạc gì về bọn Nhật thì cũng chỉ là nói có thế thôi.

Đó là một buổi chiều đầu mùa hạ, và sau bữa ăn chiều, bà cụ Vương leo các bậc lên đê, như mọi ngày, để xem mực nước sông đã dâng đến đâu. Bà sợ con sông này hơn bọn Nhật. Bà biết con sông có thể làm gì. Và lần lượt, dân làng theo bà lên đê và giờ đây, họ đứng đăm đăm nhìn dòng sông nước vàng đục tinh quái cuộn mình như một bầy rắn nghiến ngấu cắn vào bờ đê cao.
- Ta chưa bao giờ thấy nó lên cao thế vào cỡ này, bà Vương nói. Bà ngồi xuống một cái ghế tre do gã cháu nội Tiểu Trư mang tới cho bà và nhổ xuống nước.
- Cái con sông quỷ già này còn tệ hơn bọn Nhật, Tiểu Trư nói bạt mạng.
- Đồ ngu dại! Bà Vương vội mắng. Khéo Hà Bá nghe thấy đó. Nói chuyện gì khác đi.
Thế là họ bàn tán về bọn Nhật... chẳng hạn, anh Vương chủ lò bánh, cháu gọi bà cụ Vương bằng bà bác, hỏi: làm sao nhận ra được bọn Nhật khi thấy chúng đến đây, bà cụ Vương quả quyết:
- Các cháu sẽ nhận ra được bọn chúng. Bà đã có lần trông thấy một người nước ngoài. Y còn cao hơn mái chìa nhà bà, tóc màu bùn và mắt màu mắt cá. Kẻ nào trông không giống chúng ta - đó là một tên Nhật.
Mọi người lắng nghe vì bà là người già nhất trong làng và bất kỳ điều gì bà nói ra đều giải quyết một vấn đề gì đó.
Thế rồi Tiểu Trư lên tiếng theo cái lối đâm ngang của gã: - Bà không nhìn thấy chúng được đâu, bà ạ. Chúng nó nấp ở trên trời, trong những chiếc máy bay.
Bà Vương không trả lời ngay. Giá như trước đây, ắt bà đã quả quyết: “Bao giờ ta trông thấy máy bay thì ta mới tin là có nó”. Song le, đã có biết bao điều bà không tin mà vẫn có thực - chẳng hạn, Hoàng hậu mà bà không tin là có thể chết, thì lại chết thật.
Lại nữa, như nền Cộng hoà, mà bà cũng chả tin vì bà không biết nó là cái gì. Bà không biết, nhưng bây giờ bà chỉ lặng lẽ nhìn quanh con đê, nơi tất cả đang ngồi quây lấy bà. Trời rất dễ chịu và mát rượi, bà thấy chẳng việc gì cả nếu nước sông không dâng to đến mức thành lụt lội.
- Ta chả tin là có bọn Nhật, bà nói dứt khoát.
Mọi người cười bà một chút, nhưng không ai nói gì. Có người châm ống điếu cho bà - đó là vợ Tiểu Trư, cháu dâu cưng của bà - và bà hút.
- Hát đi, Tiểu Trư! Một người nào đó đề nghị.
Thế là Tiểu Trư hát một bài hát cổ bằng một giọng cao, run run. Bà lão Vương nghe và quên hẳn bọn Nhật. Buổi chiều thật đẹp, trời quang tĩnh đến nỗi rặng liễu rủ trên đê soi bóng xuống cả dòng nước ngầu bùn. Mọi vật đều yên bình. Hơn ba mươi nóc nhà họp thành làng tải ra rải rác mé dưới, không gì có thể phá vỡ sự yên bình này. Nói cho cùng, bọn Nhật cũng là người.
- Bà vẫn nghi ngờ những cái máy bay ấy, bà nhẹ nhàng nói với Tiểu Trư khi anh ngừng hát.
Nhưng không trả lời bà, anh lại tiếp sang bài khác.

Năm này sang năm khác, bà đã qua những buổi tối mùa hè như thế này
trên mặt đê. Lần đầu tiên vào lúc bà mười bảy tuổi, vừa mới cưới, chồng bà kêu to gọi bà ra khỏi nhà để lên đê và bà tới náu trong đám phụ nữ, mặt đỏ bừng bừng và hai tay xoắn vào nhau vặn vẹo, trong khi cánh nam giới hò la và bỡn cợt bà. Mặc dù thế, họ đều mến bà: “Cậu vớ được miếng thịt bỏ bát thật ngon lành”, họ nói với chồng bà như vậy: “Chân khí to”, chồng bà đáp, vẻ không tán thành, nhưng bà có thể thấy là ông vừa ý, thế là bà dần dần hết nhút nhát bẽn lẽn.
Tội nghiệp, ông đã bị chết đuối trong một vụ lũ lụt từ hồi còn trẻ. Và bà đã mất bao nhiêu năm chạy thầy chùa cầu xin cho ông thoát khỏi ngục tĩnh tội. Cuối cùng, bà đâm mỏi mệt, một phần cũng vì phải lo toan gánh vác tất cả, nào con nhỏ, nào ruộng vườn, cho nên khi thiền sư ngon ngọt dỗ:
“Mười quan tiền bạc nữa là anh ấy sẽ thoát khỏi hoàn toàn”, bà liền hỏi: “Vậy anh ấy còn mắc cái gì trong đó?”
- Chỉ còn bàn tay phải nữa thôi, nhà sư đáp.
Ấy thế là bà hết kiên nhẫn. Mười quan tiền bạc! Chừng ấy đủ nuôi cả nhà bà đến hết mùa đông. Vả lại bà còn phải thuê lao động để đóng góp phần mình vào việc sửa chữa đê cho khỏi bị lụt nữa.
- Nếu chỉ còn một bàn tay thì anh ấy có thể tự lực rút ra được, bà rắn rỏi nói.

Bà vẫn thường tự hỏi: tội nghiệp con người khờ khạo, chả biết anh ấy đã rút ra được chưa. Cũng như ban đêm bà thường buồn bã nghĩ rằng ông ấy vẫn nằm đó, đợi bà làm một cái gì để cứu ông ấy, ông là loại người như thế đó. Thôi được, có lẽ để khi nào vợ Tiểu Trư đẻ đứa con đầu lòng yên ổn trót lọt và bà dư dật thêm một chút, thì bà sẽ trở lại lo nốt việc cứu ông ra khỏi ngục tĩnh tội. Dù sao thì cũng chả thật vội lắm…
- Bà ơi, bà phải về đi thôi, giọng vợ Tiểu Trư nhẹ nhàng nói. Bây giờ, mặt trời đã lặn rồi, đang có sương mù dâng lên từ mặt sông.
- Ồ chắc ta phải về thôi, bà lão Vương tán thành.
Bà đăm đăm nhìn dòng sông một lúc. Cái con sông này, nó chứa đầy cả cái tốt lẫn cái xấu. Khi nào ngăn chặn cẩn thận, nó tưới nước cho ruộng đồng, nhưng hễ thả lỏng một vài phân là nó xô vỡ bờ như một con rồng gầm thét.
Chính chồng bà đã bị cuốn đi như thế - ông đã không trông nom cẩn thận đoạn đê của mình. Ông luôn luôn đi vá đê, luôn luôn đắp thêm đất lên mặt đê, thế rồi, trong một đêm, nước dâng cao và bục qua. Ông chạy ra khỏi nhà và bà bế đứa con trèo lên mái, nhờ đó, hai mẹ con sống sót trong khi ông thì chết đuối. Thế rồi họ lại đẩy con sông trở về sau những thân đê và lần này, nó đã ở lại đấy. Ngày ngày, bà đích thân đi tới đi lui, xem xét đoạn đê được giao cho làng phụ trách. Cánh nam giới cười nói với nhau:
“Nếu đê có làm sao thì có bà nội báo cho chúng ta biết”.

Chẳng bao giờ có ai trong số họ nảy ra ý nghĩ chuyển làng cách xa dòng sông. Họ Vương đã sống ở đây bao đời, một số thế hệ luôn luôn thoát khỏi nạn lụt và càng chiến đấu với con sông dữ dằn hơn bao giờ hết. Đột nhiên, Tiểu Trư ngừng hát.
- Trăng đang lên kìa! Anh kêu lên. Thế là không tốt đâu, máy bay thường đi vào những đêm sáng trăng.
- Mày học ở đâu những điều đó về máy bay vậy?
Bà lão Vương thốt lên. Tao thấy phát ớn, bà nói thêm, giọng nghiêm nghị đến nỗi không ai dám lên tiếng. Trong sự im lặng đó, bà vịn vào cánh tay vợ Tiểu Trư, chậm rãi bước xuống những bậc đất dẫn vào làng, tay kia dùng chiếc ống điếu làm gậy chống.
Đằng sau bà, dân làng từng người một lục đục theo xuống đi ngủ. Không ai dám ra về trước bà, nhưng cũng không ai ở lại lâu sau khi bà đã về.
Và cuối cùng, trong chiếc giường của mình đằng sau những rèm vải bông xanh ngăn muỗi mà vợ Tiểu Trư cài ghép thật kín, bà thiếp đi trong giấc ngủ bình yên. Trước đó, bà đã nằm thao thức một lúc nghĩ về bọn Nhật và thắc mắc tại sao chúng lại muốn đánh nhau. Chỉ có những kẻ rất thô lỗ mới muốn chiến tranh. Bà hình dung những người trong óc to lớn thô lỗ. Nếu họ đến, ta phải dỗ ngọt họ, bà nghĩ, mời họ uống trà và giảng giải cho họ điều phải trái - Có điều, tại sao họ lại phải đến một cái làng nông nghiệp thanh bình?

Cho nên, bà hoàn toàn không chờ đợi vợ Tiểu Trư thét lên bảo bà là bọn Nhật đã đến, bà ngồi dậy trên giường, miệng lẩm bẩm: “Các chén trà... đồ trà…”
- Bà không có thì giờ đâu! Vợ Tiểu Trư la lên. Chúng đến đây rồi… Chúng đến đây rồi.
- Đâu? Bà lão Vương hỏi to, lúc này đã tỉnh hẳn.
- Ở trên trời! Vợ Tiểu Trư rền rĩ.
Thế là họ chạy cả ra, trong tang tảng bình minh và ngước nhìn lên. Trên kia, như đàn ngỗng trời bay trong mùa thu, có những hình cánh chim to đùng.
- Cơ mà chúng là cái gì vậy? Bà lão Vương kêu lên.
Thế rồi, như một quả trứng bạc rơi, một cái gì trôi thẳng xuống và rớt vào một cánh đồng ở đầu đằng kia làng. Một cột đất phụt lên và tất cả chạy tới xem. Thấy một cái hố đường kính khoảng gần mười mét, to như cái ao. Họ sửng sốt không thốt lên lời, thế rồi, chưa ai kịp nói gì thì một quả trứng nữa và một quả nữa đã lại bắt đầu rơi và tất cả mọi người đều chạy, chạy… Tất cả mọi người có nghĩa là trừ bà cụ Vương.
Khi vợ Tiểu Trư nắm tay bà để lôi đi, bà cụ Vương giật ra và ngồi xuống, dựa vào bờ đê.
- Bà không thể chạy được, bà nói. Bảy mươi năm nay, bà không chạy, vì trước đó bà đã bó chân. Cháu đi đi. Tiểu Trư đâu rồi?
Bà nhìn quanh. Tiểu Trư đã biến mất rồi.
- Y như ông nội nó, bà nhận xét, bao giờ cũng chạy trước tiên.
Nhưng vợ Tiểu Trư không muốn để bà lại, có nghĩa là chỉ chịu rời khi bà nhắc rằng đó là bổn phận của cô.
- Nếu Tiểu Trư chết, bà nói, thì điều cần thiết là con trai nó phải được sinh ra trót lọt. - Và khi cô gái vẫn còn chần chừ, bà lấy chiếc ống điếu gõ nhẹ vào cô “Đi đi, đi đi” bà kêu lên.
Thế là, một cách miễn cưỡng, bởi lúc này, hai bà cháu gần như không
nghe thấy nhau vì tiếng gầm rú của những chiếc máy bay bổ nhào, vợ Tiểu Trư đành chạy đi cùng những người khác.

Lúc này, mặc dù mới có mấy phút trôi qua, làng đã tan tành và những mái rạ cùng rui mè gỗ đang cháy đùng đùng. Tất cả mọi người đều bỏ chạy.
Qua chỗ bà cụ Vương, họ la bà đi theo và bà vui vẻ đáp lại:
- Ta đi đây… ta đi đây!
Nhưng bà không đi. Bà ngồi lại một mình: giờ đây, bà đang theo dõi một cảnh tượng phi thường.
Vì chẳng mấy chốc đã có mấy chiếc máy bay khác đến, bà chẳng biết là từ đâu, nhưng chúng đánh như những chiếc lúc đầu. Mặt trời chiếu xuống những cánh đồng lúa đang chín và trong không khí mùa hè trong veo, đám máy bay phăng phăng lao vun vút và khạc vào nhau. Khi nào kết thúc cuộc này, bà nghĩ bụng, bà sẽ quay về làng xem có sót lại gì không. Đó đây, một bức tường vẫn còn đứng vững chống đỡ cho một cái mái, từ đây, bà không nhìn thấy nhà mình được. Nhưng bà không phải không quen với chiến tranh. Có lần, bọn đạo tặc đã đến cướp phá làng và hồi đó, nhà cửa cũng bị đốt. Ờ, bây giờ chuyện đó lại xảy ra. Đốt nhà thì có thể là chuyện thường thấy, nhưng cái trò giao tranh loang loáng ánh bạc, lao vun vút trong không trung này thì chưa hề. Bà chẳng hiểu mô tê gì cả - những vật đó là gì làm sao chúng trụ lại được ở trên trời, thật không biết đằng nào mà lần.
Bà đành chỉ ngồi nhìn, mỗi lúc một đói.
“Mình những muốn nhìn một chiếc ngay gần kề”, bà nói to ý nghĩ của mình. Và giữa lúc đó, như đáp lại nguyện ước của bà, một chiếc trong đám đột nhiên chúc xuống và lảo đảo xoay lộn như bị thương, nó đâm xuống một cánh đồng mà Tiểu Trư vừa mới cày vỡ hôm qua để gieo đậu tương.
Và phút chốc, bầu trời lại trống không và trên mặt đất chỉ còn cái vật bị thương này cùng bản thân bà.

Bà thận trọng nhấc mình lên khỏi mặt đất, ở tuổi này, bà chẳng cần phải sợ cái gì. Bà quyết định là mình có thể lại gần xem nó là cái gì. Thế là, chống chiếc ống điếu bằng tre, bà chậm rãi đi qua cánh đồng. Đằng sau bà, trong sự yên tĩnh đột ngột, vài ba con chó làng xuất hiện và đi theo, len lét trườn mình bám sát bà. Khi đến gần chiếc máy bay rơi, chúng sủa như điên. Rồi bà lấy chiếc ống điếu đánh chúng:
- Im, bà mắng, vừa mới đây cũng đủ ầm ĩ để vỡ tai tao rồi còn gì.
Bà gõ gõ vào chiếc máy bay.
- Kim loại, bà bảo lũ chó. Chắc chắn là bạc đây, bà nói thêm. Đem nấu chảy ra, cả làng sẽ giàu to.
Bà đi quanh, xem xét thật kỹ. Cái gì làm cho nó bay được nhỉ? Nom nó như chết rồi. Không có gì động đậy hoặc phát ra tiếng gì bên trong nó. Rồi đi sang mé nó lật nghiêng, bà trông thấy một gã trai trẻ trong đó, lụn xuống thành một đống trong chiếc ghế nhỏ. Lũ chó gầm gừ, nhưng bà lại đánh và chúng lùi lại.

- Cậu chết rồi ư? Bà lễ phép hỏi.
Gã trai trẻ, nghe tiếng bà, gã cử động nhưng không nói gì. Bà tiến lại gần hơn và ngó vào cái hốc chỗ gã ngồi. Mạn sườn gã chảy máu.
- Bị thương! Bà kêu lên. Bà nắm lấy cổ tay gã.
Cổ tay ấm nhưng cứng đơ, và khi buông ra, nó rơi bịch vào thành cái hốc.
Bà nhìn gã chòng chọc. Tóc gã đen, da ngăm ngăm như người Trung Hoa. “Chắc cậu ta là người phương Nam”, bà nghĩ thầm. Chà, điều chủ yếu là gã còn sống.
- Cậu nên chui ra thì hơn. Già sẽ đắp cỏ thuốc vào mạn sườn cho cậu.
Gã thanh niên lí nhí điều gì nghe không rõ.
- Cậu bảo gì? Bà hỏi. Song gã không nhắc lại.
“Ta hãy còn khoẻ chán”, bà cả quyết như vậy sau một lát. Thế là bà vươn tay vào, ôm lấy ngang lưng gã vừa từ từ kéo gã ra, thở hổn hà hổn hển.
May sao, gã là người nhỏ con và rất nhẹ. Khi bà đưa được gã xuống đất, gã có vẻ như tìm thấy lại được chân mình; gã đứng run rẩy, bám lấy bà và bà xốc gã lên. - Bây giờ, nếu cậu đi được về nhà già, bà nói, già sẽ xem xét có cỏ thuốc ở đấy không?
Rồi gã nói một câu gì rất rành rõ. Bà lắng nghe và không hiểu một tiếng nào. Bà lùi ra khỏi gã và nhìn chằm chằm.
- Cái gì thế? Bà hỏi.
Gã chỉ lũ chó. Chúng đang đứng gầm gừ, lông cổ dựng đứng. Rồi gã lại nói, đang nói thì gục xuống đất. Lũ chó xô đến, thành thử bà phải vung hai tay đánh đuổi chúng.
- Cút đi! Bà quát. Ai bảo chúng mày định giết cậu ấy? Thế rồi, sau khi chúng lùi lại, bà xoay xở cách nào đó vực được gã lên lưng mình, và run rẩy, nửa cõng nửa kéo lê, bà tha gã về một ngôi làng bị tàn phá và đặt gã trên đường để đi tìm nhà, dắt cả lũ chó theo sau.

Nhà bà đi tong rồi. Bà tìm thấy chỗ đó khá dễ dàng: nó đối diện với cửa cống ăn vào đê. Trước đây, chính bà vẫn thường ngắm nhìn cái cửa cống ấy.
Thần tình làm sao, giờ đây nó không hề bị hư hại, cả con đê cũng không vỡ. Dựng lại nhà thì cũng khá dễ thôi. Có điều hiện tại, nó đi tong rồi.
Cho nên bà quay trở lại chỗ gã thanh niên. Gã nằm y nguyên trong tư thế bà đã đặt gã, dựa vào bờ đê, thở hổn hển và tái xanh tái xám. Gã đã mở phanh áo ngoài và cầm một cái túi nhỏ, lấy ra những băng vải, cùng một lọ đựng thứ gì đó. Và gã lại nói, và bà không hiểu mô tê gì. Gã bèn ra hiệu và bà thấy là gã cần nước, cho nên bà nhặt một chiếc bình vỡ trong đám vô số bình lọ vung vãi trên đường và lên đê múc đầy nước sông, mang xuống, rửa vết thương cho gã, và bà xé những dải gã rút ra từ những cuộn băng.
Gã biết cách đắp vải lên vết thương hoác miệng và gã ra dấu cho bà theo đó mà làm. Suốt thời gian đó, gã cố nói cho bà điều gì, song bà chẳng hiểu gì sất.
- Chắc là cậu ở phương Nam đến, bà nói. Cũng dễ thấy là gã có học vấn. Nom gã rất thông minh.
- Già nghe cậu nói tiếng khác với tiếng vùng này.
Bà khẽ cười một chút để khiến gã yên tâm thoải mái, song gã chỉ lầm lầm nhìn bà bằng cặp mắt lờ đờ. Cho nên bà tươi tỉnh nói:
- Giờ mà già này kiếm được cái gì cho hai ta ăn thì hay quá.
Gã không trả lời. Thực tế, gã nằm ngật ra sau, thở dốc nặng nề hơn và trân trân nhìn vào khoảng không như thể bà chẳng nói gì.
- Có cái ăn, cậu sẽ đỡ hơn, bà nói tiếp. Già cũng thế, bà nói thêm. Bà bắt đầu cảm thấy đói không sao chịu nổi.
Bà chợt nghĩ ra là ở cửa hàng anh Vương, có thể có chút bánh mì. Cho dù có lấm bụi vì vữa đổ thì vẫn cứ là bánh mì. Bà sẽ tới xem. Nhưng trước khi đi, bà dịch gã lính đi một tý cho gã nằm vào mép bóng râm của một cây liễu mọc trên bờ đê. Rồi bà đến cửa hàng bánh. Lũ chó đã đi khỏi rồi.

Như mọi thứ khác, cửa hàng bánh cũng tan hoang, không có ai ở đó. Thoạt đầu, bà không trông thấy gì ngoài đống vách lụn đổ. Nhưng rồi bà nhớ ra rằng lò ở ngay bên trong cửa ra vào, mà khung cửa thì còn đứng thẳng, đó một đầu hồi mái. Bà đứng giữa khung cửa ấy, và đưa tay lần lần dưới lớp mái đổ bên trong, bà sờ thấy cái vung gỗ của cái chảo sắt. Bên dưới vung, có thể có bánh mì hấp.
Bà nhẹ nhàng, thận trọng luồn cánh tay vào. Mất một lúc lâu, nhưng ngay cả nhẹ tay thế mà vôi, bụi cũng bốc mù lên khiến bà nghẹn thở. Tuy nhiên, bà đã đoán đúng. Bà lách bàn tay dưới vung chảo và sờ thấy lớp cùi mịn chắc của những ổ bánh mì hấp và lần lượt lôi ra bốn ổ.
- Khó mà chết nổi đồ cóc già như ta đây, bà vui vẻ nhận xét chẳng với ai cả và trên đường về, bà bắt đầu ăn một ổ. Giá có một mẩu tỏi và một chén trà... song thời buổi này, người ta không thể có đủ mọi thứ được. Chính lúc ấy, bà nghe thấy có những tiếng người.
Khi đến quãng có thể thấy gã lính, bà trông thấy một đám lính khác chẳng biết từ đâu đến vây quanh gã. Họ đứng nhìn xuống gã thương binh lúc này đang nhắm nghiền mắt.
- Mẹ già ơi, mẹ vớ đâu được tên Nhật này vậy?
Họ la hỏi bà.
- Tên Nhật nào? Bà bước đến chỗ họ, hỏi.
- Tên này! Họ nói lớn.
- Cậu ta là một tên Nhật à? Bà kêu lên, kinh ngạc hết sức. Cơ mà nom cậu ấy giống như chúng ta… mắt cậu đen… da cậu…
- Nhật đấy! Một người trong bọn họ hét lên với bà.
- Ờ, bà điềm tĩnh nói, cậu ta từ trên trời rơi xuống.
- Cho tôi mấy ổ bánh mì ấy! Một người khác thét.
- Lấy đi, bà nói, trừ ổ này để cho cậu ấy.
- Để cho một con khỉ Nhật ăn bánh mì thơm ngon à? Người lính nọ quát.
- Ta đồ rằng cậu ấy cũng đói chứ, bà lão Vương đáp. Bà bắt đầu ghét bọn này. Song le, xưa nay bao giờ bà cũng vẫn ghét bọn lính tráng.
- Ta muốn các người đi khỏi đi, bà nói. Các người làm gì ở đây? Làng ta xưa nay vẫn yên bình.
- Quả thật là giờ đây làng mẹ nom rất yên bình đấy, một gã trong bọn nhe răng cười nói, yên bình như một nấm mồ vậy.
- Ta đồ là thế, bà tán thành. Rồi bà hỏi: Tại sao nhỉ? Đấy là điều ta không hiểu.
- Tại sao ư? Vì chúng muốn chiếm đất đai của ta, thật thế đấy.
- Đất đai của ta! Bà lặp lại. Chà! Chúng không thể lấy đất đai của ta được.
- Không bao giờ! Họ hét lớn.

Nhưng suốt thời gian đó, trong khi họ vừa nói chuyện vừa nhai bánh mì đã chia cho nhau, họ luôn quan sát chân trời phía đông.
- Tại sao các người cứ nhìn hoài về hướng đông thế. Bà lão Vương hỏi.
- Bọn Nhật từ phía đó tới, gã lấy bánh mì trả lời - Các người chạy trốn bọn chúng à? Bà ngạc nhiên, hỏi.
- Bọn tôi chỉ có một dúm người, gã phân trần. Bọn tôi được để lại bảo vệ một làng - làng Bảo An thuộc hạt…
- Ta biết làng ấy, bà cụ Vương ngắt lời. Cậu không cần phải nói dài dòng. Hồi con gái, ta đã ở đấy. Ông lão Bảo chủ tiệm trà ở phố chính ra sao rồi? Đó là anh trai ta đấy.
- Mọi người ở đó đều chết cả rồi, gã kia đáp. Bọn Nhật đã chiếm làng - một đạo quân lớn đã đến cùng với súng ống ngoại quốc và xe tăng, vậy bọn tôi làm gì được?
- Cố nhiên chỉ còn cách tẩu thoát mà thôi, bà tán thành. Tuy nhiên, bà cảm thấy choáng váng, sây sẩm. Vậy là ông anh trai duy nhất còn lại của bà đã chết! Giờ đây bà là người cuối cùng của gia đình cụ thân sinh ra bà.
Nhưng bọn lính lại tản đi, để bà lại một mình.
- Chúng sẽ đến đây, cái bọn lùn đen trũi ấy, họ nói. Tốt hơn hết là chúng ta đi tiếp thôi.
Tuy nhiên, một người - anh chàng xin bánh mì - nán lại một lúc đăm đăm nhìn gã thanh niên bị thương từ nãy nằm không nhúc nhích, mắt nhắm nghiền.
- Nó chết chưa? Anh ta hỏi. Rồi, bà Vương chưa kịp trả lời anh ta đã rút từ thắt lưng ra một con dao ngắn. - Chết hay không, tôi cũng phải cho nó một vài nhát dao này…
Nhưng bà lão Vương đã đẩy anh ta ra.
- Cậu không được thế, bà hách dịch nói. Nếu có chết rồi thì hà cớ chi phải để nó mang cái xác nát bươm xuống ngục tĩnh tội. Chính ta đây cũng là một phật tử tín thành.
Anh chàng cả cười: “À, thì thôi, nó chết rồi”, anh ta đáp; rồi thấy đồng đội đã cách xa, anh bèn chạy theo.

Đây là một tên Nhật ư? Còn lại một mình với cái thân hình bất động, bà thử nhìn kỹ nó. Lúc này, mắt gã nhắm nghiền, bà có thể thấy gã trẻ măng.
Bàn tay mềm oặt trong cơn bất tỉnh, nom như tay trẻ con, chưa định hình và còn đang phát triển. Bà sờ nắn cổ tay gã, nhưng không thấy tí mạch nào. Bà cúi xuống, gí vào môi gã nửa ổ bánh mì bà chưa ăn tới.
- Ăn đi, bà nói rất to và rất rành rọt, bánh mì đấy!
Nhưng không hề thấy trả lời. Rành là gã chết rồi. Chắc là gã chết trong khi bà đang moi bánh trong lò ra.
Vậy chả còn gì khác để làm ngoài việc tự bà ăn nốt ổ bánh. Và ăn xong, bà tự hỏi chẳng biết mình còn cần phải đi theo vợ chồng Tiểu Trư và toàn thể dân làng hay không. Mặt trời đang lên và mỗi lúc một nóng. Nếu phải đi thì đi luôn cho được việc. Nhưng trước hết bà phải leo lên đê để xem hướng đã. Họ đã đi thẳng về hướng tây và mạn này là một dải đồng bằng lớn trải đến tận cuối tầm mắt. Thậm chí bà có thể nhìn thấy một đám đông cách hàng dặm. Dù sao đi nữa, bà cũng có thể nhìn thấy làng bên và có lẽ họ đang ở đó.

Thế là bà chậm rãi leo lên đê, người nóng ran. Tới mặt đê, có một ngọn gió hây hẩy, thật dễ chịu. Bà choáng người thấy nước sông mấp mé ngọn đê.
Chà, nó vừa mới lên trong giờ qua.
- Đồ quỷ già? Bà nghiêm nghị nói. Mặc cho Hà Bá nghe thấy nếu ông ấy muốn. Ông ấy thật là ác, thế đấy - giữa lúc có bao chuyện rối ren thế này, lại còn doạ lụt nữa.
Bà cúi xuống, vã nước vào má và cổ tay. Nước mát lạnh, hình như ở nơi nào đó vừa mới mưa. Rồi bà đứng dậy nhìn quanh. Phía tây không có gì ngoài tốp lính vẫn nửa đi nửa chạy ở tận xa và đằng trước họ là làng bên in mờ mờ trên một gò đất dài. Tối mai là bà đến làng ấy. Chắc hẳn vợ chồng Tiểu Trư đang chờ bà ở đó.
Bà vừa toan xuống khỏi mặt đê và khởi hành thì trông thấy một cái gì đó trên đường chân trời phía đông. Thoạt đầu, chỉ là một đám mây bụi rất lớn.
Nhưng khi bà nhìn kỹ lại, nó rất nhanh chóng trở thành một lô những chấm đen và những vật lấp lánh. Rồi bà thấy ra đó là cái gì. Đó là một đám người - một đạo quân. Bà lập tức biết đó là đạo quân nào.
“Đó là bọn Nhật”, bà nghĩ bụng. Phía bên trên chúng là những máy bay cánh bạc vè vè. Chúng lượn vòng như đang tìm kiếm ai.
“Ta chẳng biết chúng bay đang tìm ai”, bà lẩm bẩm, “Trừ phi là ta và vợ Tiểu Trư. Cả họ chỉ còn mấy bà cháu ta. Chúng bay đã giết ông anh Bảo của ta rồi”.
Bà đã gần như quên là ông Bảo đã chết. Giờ thì bà nhớ lại rất rõ nét. Ông có cái tiệm thật tuyệt. - Lúc nào cũng sạch tươm, trà ngon và bánh bao nhân thịt, giá lúc nào cũng thế. Ông Bảo là người tốt. Ngoài ra, còn bà vợ và bảy đứa con ông thì sao? Chắc họ cũng đã bị giết cả rồi. Bây giờ, những tên Nhật ấy đang tìm bà. Bà chợt nghĩ ra là chúng có thể dễ dàng nhìn thấy bà ở trên đê. Thế là bà lật đật bò xuống.
Xuống đến nửa chừng, bà bỗng nghĩ đến cái cửa cống. Cái con sông già cốc đế này, từ thuở ban sơ chỉ độc gieo tai họa cho người. Tại sao bây giờ nó không thể bù đắp lại chút ít mọi thứ độc ác nó đã làm nhỉ? Nó lại đang mưu toan điều độc ác, định lén trào qua bờ. Ờ, tại sao lại không nhỉ? Bà phân vân một lúc. Cố nhiên, thật đáng tiếc là cậu thanh nhiên Nhật vừa chết sẽ bị cuốn vào dòng nước lụt.
Cậu ta nom thật xinh trai và bà đã cứu cậu ta khỏi bị đâm nát người. Cố nhiên, chả bằng cứu sống cậu ta, song kể ra cũng gần gần như thế. Nếu cậu ta còn sống thì chắc hẳn sẽ được cứu thoát. Bà đến gần gã, kéo lên đến bờ đê. Rồi bà lại đi xuống.

Bà thừa biết cách mở cống. Bất kỳ đứa trẻ con nào cũng biết mở cửa kênh dẫn thuỷ nhập điền.
Nhưng bà còn biết cách mở toang cánh cửa cống lớn nữa kia. Vấn đề là liệu bà có thể mở đủ nhanh để né tránh kịp không?
“Ta chỉ là một mụ già mà thôi”, bà lẩm bẩm. Bà lưỡng lự thêm một giây nữa.
Ờ, kể ra cũng tiếc là không được thấy đứa bé vợ Tiểu Trư đã sinh ra, thế nhưng con người ta không thể thấy hết được mọi thứ. Bà đã thấy ối sự việc trên đời này. Dù sao đi nữa cũng phải có lúc kết thúc những điều mình thấy.
Bà lại liếc về phía đông. Bọn Nhật đang đi qua dải đồng bằng. Một tuyến đen dài, điểm hàng nghìn chấm lấp lánh. Nếu bà mở cái cửa cống này, dòng nước hung dữ sẽ ầm ầm đổ về phía chúng, ào vào cánh đồng, cuộn sóng thành một con hồ rộng nhấn chìm chúng cũng nên. Chắc chắn chúng sẽ không thể tiếp tục tiến lại gần bà, gần vợ chồng Tiểu Trư đang chờ bà ở đằng kia. Ờ, hai vợ chồng Tiểu Trư... chúng sẽ thắc mắc về bà - nhưng chúng sẽ không bao giờ ngờ rằng sự việc lại như thế này. Thành một câu chuyện hay đấy - giá bà có thể kể được cho ai nghe thì khoái biết mấy.

Bà quả quyết quay về phía cửa cống. Ờ, có người chiến đấu bằng máy bay, có người bằng súng ống, nhưng người ta cũng có thể chiến đấu bằng một con sông nếu như nó dữ dằn như con sông này. Bà vặn mạnh một cái chốt gỗ to tướng giật ra. Nó đầy rêu xanh bạc, trơn tuột. Nước vọt ra thành một tia mạnh. Khi nào bà giật thêm một chốt nữa, những cái còn lại sẽ tự khắc bật ra thôi. Bà bắt đầu kéo và cảm thấy nó tuột ra khỏi lỗ một chút.
“Làm thế này, mình có thể thoát được tĩnh tội”, bà nghĩ, “và biết đâu họ chả để cho mình đem theo ông xã luôn thể. Một bàn tay của ông ấy so với cái này thì nghĩa lý gì? Thế rồi chúng mình sẽ...”

Cái chốt đột ngột tuột hẳn ra và cánh cửa bung mạnh, đập vào người bà, làm bà không thở được.
Bà chỉ còn kịp há mồm bảo con sông:
- Làm tới đi, con quỷ già!
Rồi bà cảm thấy nó túm lấy bà, tung lên trời. Nó ở bên dưới bà và xung quanh bà. Nó vui vẻ lăn bà ra chỗ này chỗ kia và rồi, bao bọc và ôm chặt lấy bà, nó ào ào lao tới quân thù.

DUƠNG TUỜNG dịch
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeThu Mar 07, 2019 9:21 am

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel 2Q==

TUNG CÁNH
Doris Lessing (1919-2013)
(Nobel 2007) 


Trên đầu ông lão là một chuồng chim câu cao nằm trên cột sàn có lưới sắt bao bọc, bên trong đầy những chú chim dáng vẻ oai vệ đang làm dáng. Ánh dương hắt lên những bộ lông ngực màu xám của chúng làm thành những sắc cầu vồng nho nhỏ.   

Những tiếng “gù gù” của bọn chim bên tai khiến lòng ông như lắng lại, ông vươn tay ra hướng đến con yêu quý nhất, một con câu nhà còn nhỏ và béo ú. Nó vẫn đứng đấy, hếch ánh mắt sáng, lanh lợi khi thấy ông. 
“Nào, ngoan nào, ngoan nào” ông nói khi túm được nó. Ông đem xuống, và cảm nhận được những móng vuốt lạnh lẽo đỏ màu san hô đang bấu chặt lên ngón tay mình. Hài lòng, ông nhẹ áp con chim vào ngực rồi tựa vào cây, nhìn đăm đăm khung cảnh buổi chiều muộn nơi bên kia chuồng chim. Trong cảnh nhập nhoạng, vùng đất trồng thoáng chốc biến thành những cục đất đầy bụi trải dài tận chân trời. Cây cối mọc đầy nơi thung lũng và cỏ xanh rậm rì dọc bên đường. Mắt ông nhìn khắp con đường dẫn về nhà và ông bắt gặp hình ảnh cô cháu gái đang đung đưa trên cánh cổng, bên dưới tán cây đại. Tóc cô xõa dài xuống lưng, óng ả trong ráng chiều; còn đôi chân dài để trần thì không ngừng đập đập vào những thân cây đại có sắc nâu nổi bật giữa bờ rào trổ đầy hoa.   
Cô đang nhìn chăm chú như thể chờ đợi điều gì đó nơi con đường dẫn vào làng phía xa xa quá khỏi những bụi cẩm chướng, quá khỏi ngôi nhà họ đang ở.   

Tâm trạng ông lão bỗng thay đổi. Ông thận trọng nhấc cổ tay mình ra khỏi ngực khi cảm thấy con chim sắp bay xổ ra và tóm lấy nó ngay khi nó vừa dang cánh. Bên dưới những ngón tay của ông con vật bụ bẫm đang cố gắng chòi đạp; thình lình một cảm giác tức giận dâng lên, ông nhốt con chim vào một hộp nhỏ và cài chặt then lại. “Giờ thì ở yên đó nhé” lão càu nhàu rồi quay lưng lại. Tiếp đó ông thận trọng đi dọc theo hàng rào đến bên cô cháu, lúc này đang vòng tay sau ót, khẽ lắc lư ca hát. Âm thanh thanh thoát và tràn đầy hạnh phúc ấy hòa quyện cùng tiếng “gù gù” ngân nga của lũ chim, và cơn giận trong lòng ông một tăng lên.   
“Này!” ông lão hét lên khi thấy cháu mình nhảy qua rào, ngoái nhìn lại có vẻ dè chừng cánh cổng. Ánh nhìn tránh né, cô nhanh nhẩu cất giọng chào ông: “Chào ông ngoại”. Sau khi khẽ liếc nhìn về phía con đường đằng sau cô lễ phép tiến lại gần ông.   
“Đang đợi Steven hử?” ông lão hỏi mà các ngón tay của ông cong lại tựa móng vuốt trong lòng bàn tay.   
“Có phản đối gì không?” cô cháu khẽ hỏi lại, vẫn tránh nhìn thẳng ông.   
Ông lão bước đến đối diện cháu với mình, đôi mắt ông thu hẹp lại, đôi vai khom lại tựa hồ đang phải chịu đựng một nỗi đau: những con chim đỏm dáng, ánh dương rực rỡ, những đóa hoa muôn màu và cả cô cháu nữa. Ông nói: “Cháu nghĩ đã đủ lớn để cặp bồ đấy phỏng?”   
Cô gái làm điệu bộ hất đầu xưa cũ và hờn dỗi: “Ông ngoại!”   
“Cháu muốn bỏ nhà đi phải không? Cháu nghĩ có thể chạy chơi vòng quanh những cánh đồng vào buổi tối ư?”   
Nụ cười của cô làm ông nhớ lại hình ảnh ông thường thấy mỗi đêm trong tháng hè ấm áp cuối cùng này: tay trong tay tung tăng trên con đường dẫn vào làng với gã trai cường tráng con người đưa thư. Nỗi phiền muộn bốc lên tới đầu và ông quát lên đầy tức tối: “Ông sẽ bảo mẹ đấy!”   
“Méc đi!” cô cháu đáp lại, cười phá lên rồi đi về phía cổng.   
Khúc ca của cô mới thật khó chịu làm sao:   
“Em yêu anh rất nhiều. Em mang đầy hình ảnh anh sâu thẳm trong tim…”    “Rác rưởi” ông lão thét to. “Rác rưởi. Rặt những từ vớ vẩn!”   

Ông lão giận dữ lẩm bẩm khi quay lại chuồng chim, nơi ông tìm thấy niềm an ủi so với ngôi nhà ông đang cùng sống với con gái mình, con rể và lũ trẻ. Tuy nhiên giờ đây ngôi nhà đã trống vắng. Bọn trẻ đều đã đi xa, mang theo chúng tiếng cười đùa, những trò chòng ghẹo lẫn nhau. Ông lão cũng bị bỏ rơi, không còn ai quan tâm và cảm thấy cô độc khi sống với người phụ nữ có vầng trán vuông, đôi mắt điềm tĩnh - con gái ông.   
Ông lão dừng lại, thì thầm, trước chuồng chim, bực bội khi nghe những tiếng “gù gù” say mê của lũ chim. Từ phía cổng cô cháu hét lên: “Vô méc đi! Méc đi, còn chờ gì nữa?”   
Ông lão dùng dằng quay về nhà, nhưng vẫn liếc những cái nhìn nhanh, liên tục đầy đau khổ và kêu gọi về phía cháu mình. Nhưng cô vẫn không thèm nhìn lại. Thái độ cô ngang ngạnh nhưng chứa nhiều khao khát của tuổi trẻ khiến ông cảm thấy thương cô hơn và đâm hối hận. Ông lão dừng lại. “Ông không có ý đó” ông thì thầm, chờ đợi cô quay lại và chạy đến bên mình. “Ông không có ý…”   
Cô không hề quay lại. Cô đã không còn nhớ đến ông rồi. Trên đường chàng trai Steven xuất hiện, cầm theo vật gì trong tay. Một món quà cho cháu mình? Lòng ông trở nên sắt lại khi thấy cánh cổng bật ngược về và đôi trẻ ôm chầm lấy nhau. Dưới những bóng râm màu hơi sẫm của cây đại, cháu của ông, đứa cháu yêu quý, đang nằm trong tay của thằng con người đưa thư, và mái tóc cô xõa qua vai hắn.   
“Thấy hết rồi nhé!” ông hét lên đầy khinh bỉ. Bọn chúng vẫn đứng đấy. Ông bèn sầm sầm bỏ đi vào ngôi nhà có tường quét vôi trắng nhỏ bé, dưới chân ông vang lên tiếng cót két đầy tức giận của hàng hiên. Con gái ông ngồi may ở phòng ngoài, và đang xỏ kim trước ngọn đèn.   
Ông lão lại dừng lại, nhìn lần nữa ra sau vườn. Đôi trẻ lúc này đang nắm tay nhau đi tản bộ giữa những bụi cây, thỉnh thoảng lại cười phá lên. Ông thấy cháu mình đột nhiên láu lỉnh rụt tay khỏi cậu bạn trai và chạy trốn vào các lùm hoa còn cậu ta thì đuổi theo. Ông nghe chúng la hét, cười giỡn rồi thì im lặng.   
“Không thể thế được”, ông lão lẩm nhẩm một cách khó chịu. “Không thể thế được. Tại sao chúng không thể thấy chứ? Chạy nhảy và cười đùa, và hôn nhau và hôn nhau. Chúng mày thật quá lắm.”   
Ông nhìn cháu mình với vẻ khinh thường đầy căm tức, và rồi đâm khó chịu với chính bản thân. Cả hai chúng nó đều bị bắt quả tang nhưng cháu ông vẫn thoải mái đùa nghịch.
“Tại sao nó lại không thấy chứ?” Ông lão ước chi đứa cháu, lúc này đang nằm dài trên đám cỏ dày xanh rì bên cạnh cậu bạn của mình, biến đâu cho khuất mắt.   

Con gái ông bỗng nhìn lên, đôi lông mày khẽ nhướng lên chịu đựng.   
“Ba cho chim đi ngủ chứ?” Bà ta hỏi đùa.   
“Lucy”, ông lão gọi gấp gáp. “Lucy…”   
“Dạ, có chuyện gì nào?”   
“Nó đang ở trong vườn với thằng Steven”.   
“Ba à, ngồi xuống đi, và dùng tách trà nhé”.   
Ông lão dậm chân liên tục lên chỗ sàn gỗ đã bị trũng xuống và la lên: “Nó sẽ cưới thằng ấy. Ba bảo cho biết nhé, rồi nó sẽ cưới thằng ấy chẳng mấy chốc đâu!”   
Con gái lão vội đứng dậy, dọn bàn và mang đến cho lão một tách trà.    “Ba không uống trà lúc này. Ba bảo không cần cơ mà”   
“Rồi, rồi” giọng con lão vỗ về. “Nhưng chúng cưới nhau thì có sao đâu? Tại sao lại không kia chứ?”   
“Nó mới mười tám tuổi. Mới mười tám thôi biết không!”   
“Con mười bảy đã lấy chồng rồi, mà có thấy sao đâu.”   
“Láo”, ông lão giận dữ. “Nói láo. Mày có hối tiếc đấy. Tại sao mày ép các con mày lấy chồng như vậy? Chính mày đã làm điều này. Làm thế để làm gì hử? Tại sao?”   
“Ba đứa kia đều gia đình êm ấm cả. Chúng đều là những chàng rể tốt. Vậy tại sao Alice không vậy chứ?”   
“Nhưng nó là đứa út”, ông lão rầu rĩ. “Ta không thể giữ nó lại lâu hơn chút sao?”
“Coi nào, Ba. Nó chỉ ở cuối con đường kia thôi. Nó vẫn về thăm ba mỗi ngày cơ mà”.   
“Nhưng chẳng thể nào như trước cả”. Ông lão lại nhớ đến ba đứa cháu trước đây, chúng mau chóng thay đổi hẳn đi, từ những đứa trẻ quyến rũ, nhí nhảnh và nghịch ngợm bỗng trở nên chững lại, nghiêm túc hẳn lên.
“Ba chẳng hề thay đổi kể từ khi chúng con kết hôn”, con lão đáp. “Tại sao vậy? Luôn luôn là thế. Lúc con kết hôn, ba cũng khiến con thấy như thể đó là một sai lầm rất nghiêm trọng. Đến lượt tụi nhỏ, cũng thế. Ba khiến chúng sợ hãi và lo lắng theo suy nghĩ của ba. Hãy để Alice yên. Nó cảm thấy hạnh phúc, thế là được rồi”. Bà ta khẽ thở dài, mắt bà nán lại một chút nơi khu vườn còn vương nắng.   
“Con nói chúng có thể kết hôn ư?” ông lão hỏi đầy hoài nghi.   
“Vâng, Ba à. Có gì khiến chúng không thể nhỉ?” Giọng con lão đáp lại cương quyết và bà ta lại tiếp tục công việc may đang dang dở.   

Lão bật khóc, rồi bước ra hàng hiên. Những giọt nước mắt ướt đẫm cằm lão, lão lần túi lấy khăn ra lau. Khu vườn vắng lặng.   
Từ một góc trong vườn bọn trẻ bỗng tiến đến, song chúng không còn vẻ gì chống đối lão nữa. Một con chim câu đang đậu trên cổ tay thằng con người đưa thư, ánh nắng yếu ớt óng trên bộ lông ngực của nó.   
“Cho ông à?” ông lão hỏi vừa hỏi vừa lau đi những giọt nước mắt nơi cằm. “Cho ông thật à?”   
“Ông thích nó chứ?” cô cháu lúc này nắm chặt tay lão và lắc lắc. “Của ông đấy, Ngoại à. Steven mang nó cho ông đấy”. Đôi trẻ tíu tít quanh lão đầy tình cảm, chúng cố làm cho lão quên đi những giọt nước mắt và u sầu. Bọn chúng, mỗi đứa một bên, vừa nắm tay lão, dẫn lão đến bên chuồng chim vừa nói đủ chuyện vui, âu yếm lão rằng chẳng có gì thay đổi cả, sẽ chẳng điều gì khiến chúng thay đổi, và rằng chúng vẫn luôn ở bên lão. Con chim như là bằng chứng vậy, chúng nói, mắt ánh lên những tia hạnh phúc khi ấn nó vào tay lão. “Ngoại, giữ nè. Của ngoại đấy”.   
Chúng háo hức theo dõi hành động của lão khi lão cầm con vật trong tay, vuốt nhẹ tấm lưng mềm mại, tỏa ra hơi ấm của những tia nắng chiều, khi lão ngắm nghía con vật vung vẩy đôi cánh và cố giữ thăng bằng.   
“Ông phải nhốt nó một thời gian”, cô cháu nói với giọng thân mật “cho đến khi nó quen với nơi này, và xem như tổ của nó”.   
“Chà, trứng đòi khôn hơn vịt nữa đấy”, giọng lão nghe “gừ gừ”.   

Sau khi đợi lão nguôi bớt, bọn trẻ cười phá lên rồi rút lui, ra phía cánh cổng nơi khu vườn. “Chúng cháu vui khi thấy ông thích nó”. Hơn tất cả, mối quan tâm chúng dành cho lão khiến lão không còn cảm thấy cô đơn nữa; điều này khiến nỗi buồn, giận của lão nguội dần đi cũng như niềm vui của những chú cún con được lăn mình trên cỏ mượt. Bọn trẻ lại quên lão. Cũng được thôi, lão thầm nhủ, tuy cảm thấy cổ họng nấc lên và môi run nhẹ. Lão cầm con chim mới trên tay, vuốt nhẹ bộ lông óng mượt của nó. Sau đấy lão nhốt nó vào chuồng và mang con lão yêu thích nhất ra.  
“Giờ mày có thể bay đi rồi đấy”, lão nói to lên. Lão cầm hờ nó, sẵn sàng thả ra trong khi nhìn xuống khu vườn hướng có tụi trẻ. Rồi thì ghìm lại nỗi đau mất mát, lão nâng con chim lên và trông nó vút ra. Một loạt những tiếng vù vù từ các đôi cánh vang lên, cả đàn trong chuồng cũng bay vụt vào trời chiều.   

Nơi cánh cổng Alice và Steven ngừng trò chuyện và ngước cổ nhìn những con chim.   
Nơi hàng hiên, con gái lão đứng lặng, tay vẫn cầm bộ đồ may che mắt nhìn.   
Với lão thời gian như ngừng trôi trước hành động tự nguyện này, thậm chí những chiếc lá cũng không lay động.   
Lau khô mắt, đôi tay xuôi hai bên hông, lão đứng đó lặng yên dõi mắt vào bầu trời.   
Bầy chim bay chấp chới, phát ra tiếng rít từ những đôi cánh đang ra sức vẫy đập, tựa dải sáng màu bạc càng lúc càng cao hơn, ngang qua mảnh ruộng màu tối sẫm, những rặng cây um tùm và thảm cỏ xanh tươi cho đến khi chúng như trôi bồng bềnh trong ánh dương hệt một đám bụi mù. Chúng đảo một vòng tròn thật rộng rồi chao cánh tạo thành những ánh sáng lóa, tiếp đó nối tiếp nhau từng con một cả bầy quay trở về với những rặng cây, thảm cỏ, đồng ruộng, hay thung lũng, nơi chúng có thể ẩn náu khi đêm xuống từ trời cao lộng gió.   

Cả khu vườn rộn lên tiếng huyên náo của bầy chim trở lại. Rồi thì lại trở nên tĩnh lặng, bầu trời hóa trống không. Lão chầm chậm quay xuống khu vườn, nhướng đôi mắt mỉm cười kiêu hãnh với cháu của mình. Cô gái đang nhìn lão chăm chú, không mỉm cười. Nhưng mở to đôi mắt, và hơi tái đi trong cái lạnh buổi đêm về, và lão thấy từng giọt nước mắt tuôn rơi lã chã trên khuôn mặt cô.

Dịch giả: Bùi Nguyễn Quý Anh
Dịch từ nguyên tác “Flight”
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeThu Mar 28, 2019 12:10 am

.
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Th?id=OIP.qoHd-eJIKakQku09Jxf__wHaDf&pid=15


Tình quê
- Pearl Buck (Nobel 1938)


Đoàn người kéo lê những bước chân mệt mỏi đi xuyên qua kinh thành, họ có cảm tưởng như kẻ xa lạ lạc loài mặc dầu quê hương của họ chỉ cách con đường họ đang đi có vài trăm dặm.
Đồng ruộng, mảnh đất quê nghèo của họ nghe chừng như xa xôi ngàn dặm. Họ có cảm tưởng như bỗng nhiên bị một sức mạnh kỳ quái kéo ra khỏi thế giới quen thuộc để ném vào nơi vô định.

Họ chỉ quen với những con đường làng và đồng ruộng, cho nên khi đặt chân lên đường phố nhộn nhịp chốn kinh thành, họ hết sức bỡ ngỡ.
Phố phường đầy dẫy đồ vật suốt đời họ chưa hề thấy. Chẳng hạn như xe hơi, nhưng họ vẫn không chú ý một thứ gì. Họ chỉ bước đi, mắt mở trừng nhưng chẳng thấy gì, như những kẻ mộng du.
Nếu họ không nhìn ai thì cũng không ai nhìn họ.
Thành phố có quá nhiều người tị nạn, cả ngàn người, đói rách, tạm nương náu dưới những tấm đệm chiếu căng lên thay lều ở ngoài thành.
Hằng ngày, bất cứ vào giờ nào, cũng có từng đoàn người đói rách lang thang, bồng con dắt vợ tiến về các lều tạm trú.
Nếu có một thị dân nào trông thấy đoàn người khốn khổ này thì họ kêu lên:
- Lại thêm một số tị nạn! Chừng nào mới hết tai nạn này? Rồi đây thành phố sẽ chết đói cả lũ vì có thêm quá nhiều miệng ăn!

Nỗi lo sợ đến lượt mình thiếu ăn khiến cho người ta thêm dửng dưng, lạnh lùng với những người tị nạn.
Có những chủ quán đã tàn nhẫn xua đuổi những kẻ hành khất chầu chực trước cửa hàng giờ để xin một ít cơm thừa canh cặn.
Người ta cũng trở nên gay gắt với những phu xe mà con số tăng lên gấp mười lần, và phần đông là những người tị nạn.
Những anh phu xe chính cống hành nghe lâu năm đâm ra thù oán những ông bạn đồng nghiệp bất đắc dĩ, và những người đói khát chịu rước khách với bất cứ giá nào, khiến giá cả hạ xuống đến một mức quá thấp làm cả giới đều bị thiệt.
Thành phố tràn ngập những người tị nạn. Họ đi xin làm những nghề không cần khéo léo để kiếm cơm. Mỗi sáng đều có một số người nằm kềnh ra đường chết cóng vì lạnh. Những chuyện đó quá thông thường đối với dân chúng thị thành. Không ai buồn chú ý đến toán tị nạn mới tới.

Nhưng những người này không phải như những người tị nạn trước.
Họ không ồn ào, không sẵn sàng để gây gổ, giành giựt như những kẻ khác. Họ là hạng người mà bất cứ nước nào cũng hãnh diện có những người dân như thế.
Người ta thấy họ là người cùng một địa phương. Áo quần cùng một thứ vải xanh đậm may cẳt theo kiểu xưa, vạt và tay dài.
Đàn ông lẫn đàn bà đều cao lớn, nhưng bàn chân đàn bà nhỏ xỉu vì phong tục bó chân từ bé.
Trong đám đông có vài cậu thiếu niên. Mấy đứa trẻ nhỏ được ngồi lủng lẳng trên mấy chiếc thúng cha chúng gánh trên vai.
Tuyệt nhiên không có con gái hay trẻ nhỏ sơ sinh trong bọn.

Mỗi ngưòi đàn ông, cả đến các cậu thiếu niên đều có vác bao, bị trên vai. Họ cẩn thận mang theo mền, gối. Tất cả đều sạch sẽ. Ngoài ra người ta còn thấy một cái nồi sắt nhô lên các bao, bị. Nhưng trong các giỏ xách, không có một chút lương thực nào.
Sự kiện thiếu thức ăn được xác nhận khi người ta nhìn kỹ vào mặt đám người tị nạn.
Một cái liếc nhanh dưới ánh sáng lờ mờ của buổi hoàng hôn, người ta không thấy gì khác thường. Nhưng khi nhìn kỹ, thì người ta thấy rõ đoàn người đang đói và tuyệt vọng. Họ đã gần kề tử thần nên không trông thấy gì. Cảnh lạ không đánh thức được tánh hiếu kỳ của họ.
Đoàn người này đã ở lì lại làng cho đến giờ phút chót, cho đến khi nạn đói thúc đẩy họ lên đường. Cho nên họ lầm lũi tiến bước, âm thầm, xa lạ, như những kẻ biết mình sắp chết, không còn thiết tha gì đến sự sống.

Người đi sau cùng là một cụ già nhỏ thó. Dù vậy, ông cũng gánh trên vai một gánh như những kẻ khác.
Đồ vật mang theo cũng gồm chiếc mền xếp gọn và một cái nồi. Mặc dầu gánh nhẹ, nhưng đối với ông lão, nó cũng quá nặng. Vì ông lão đã quá tuổi để làm lụng nếu ở vào thời bình và có lẽ ông cũng không quen làm những công việc lao động trong những năm qua.
Ông thở hổn hển trong khi lảo đảo bước, hai mắt nhìn những người đi trước. Ông sợ bị bỏ rơi ở phía sau. Trên mặt nhăn nheo của ông hiện rõ vẻ sợ hãi của kẻ hấp hối.

Bỗng ông không bước được nữa. Ông đặt gánh xuống đất, ngồi trên vệ đường. Đầu ông gục xuống giữa hai đầu gối, mắt nhắm lại thở dồn dập. Sự cố gắng quá sức khiến máu chạy dồn lên thái dương.
Ngọn đèn của chiếc xe bán mì gần đó hắt ánh sáng vào ông lão. Một khách đi đường dừng lại, nhìn ông rồi lẩm bẩm: “Mình tự hứa không bố thí nữa vì phải để dành cho mình. Nhưng thấy ông lão này, mình không thể làm ngơ. Mình cho ông lão số tiền mình vừa kiếm được trong ngày hôm nay mà mình định để dành cho ngày mai. Ngày mai mình sẽ kiếm cái khác”.
Người này móc trong túi một đồng bạc và sau một lúc do dự, ấp úng, y nói:
- Ông ơi, ông cầm lấy cái này để mua mì ăn đỡ đói.
Ông lão từ từ ngẩng đầu lên. Khi thấy đồng bạc, ông không đưa bàn tay ra nhận. Ông nói:
- Cám ơn ông. Nhưng tôi không phải là hành khất. Chúng tôi có ruộng đất phì nhiêu và trước đây chúng tôi không hề đói khát như ngày nay. Nhưng năm nay, nước sông dâng lên, ngập lụt. Dù cho ruộng đất phì nhiêu, người ta cũng phải chết đói về nạn lụt. Cả đến lúa giống của chúng tôi cũng không còn. Chúng tôi đã ăn hết lúa giống. Tôi đã bảo người ta là tôi không thể ăn lúa giống. Nhưng chúng nó hãy còn trẻ và háu đói nên ăn hết sạch.

Người kia bỏ đồng tiền vào túi ông lão, bảo:
- Xin ông cứ nhận cho tôi.
Rồi y thở dài, tiếp tục rảo bước. Ông lão đi về phía xe mì bán rong.
Anh bán mì hỏi:
- Ông ăn mấy bát?
Bây giờ ông lão mới thò tay vào túi, ông tìm thấy hai đồng tiền, một đồng, một bạc. Ông đáp:
- Một bát cũng đủ rồi!
Anh bán mì ngạc nhiên:
- Ông chỉ ăn có một bát nhỏ sao!
Ông lão đáp:
- Không phải cho tôi.
Anh bán mì ngạc nhiên, nhưng cũng tiếp tục nấu mì. Xong rồi, anh đưa bát mì, bảo:
- Mì đây!
Và anh ta chờ xem ai sẽ ăn.

Bây giờ ông lão mới đứng lên một cách khó nhọc, hai bàn tay run rẩy bưng tô mì đến cái thúng bên kia.
Trong khi anh bán mì tò mò đứng nhìn, ông lão kéo chiếc mền qua một bên để thấy gương mặt nhăn nheo của một cậu bé đang nằm trong cái thúng, hai mắt nhắm nghiền.
Người ta có thể tưởng cậu bé đã chết nếu ông lão không đỡ nó lên để cho miệng nó kê sát vào vành tô.
Ông lão khuyến khích:
- Ăn đi con! Ăn đi!
Anh bán mì:
- Cháu ông?
Ông lão gật đầu:
- Phải. Nó là cháu nội. Con của con trai tôi. Cả hai con trai và con dâu tôi đều chết chìm khi vỡ đê.

Cậu bé ăn xong, ông lão lấy mền đắp lại cẩn thận rồi le lưỡi liếm sạch những cọng mì còn sót lại. Liếm xong ông lão trả bát lại cho anh bán mì, y như là ông đã ăn xong.
Anh bán mì ngạc nhiên không thấy ông lão bảo nấu thêm tô nữa.
- Ông không ăn? Ông còn một đồng bạc kia mà!
Ông lão lắc đầu:
- Không. Đồng bạc này để mua lúa giống, khi tôi thấy đồng bạc này là tôi nghĩ ngay đến việc mua lúa giống. Chúng nó đã ăn hết lúa giống rồi. Mà không có lúa giống thì lấy gì gieo mạ làm mùa?
Anh bán mì:
- Nếu tôi không quá nghèo thì tôi có thể biếu ông một bát mì. Nhưng biếu không tô mì cho người có một đồng bạc thì...
Anh lắc đầu lúng túng.
Ông lão nói:
- Cám ơn chú em. Nhưng tôi không xin chú bố thí cho tôi. Tôi biết là chú không thể hiểu được. Nhưng nếu chú có đất ruộng, chú sẽ hiểu là phải giành lúa giống để làm mùa. Nếu không thì năm tới sẽ còn có nạn đói nữa. Điều quan trọng mà tôi có thể giúp cho thằng cháu của tôi hiện nay là tìm một ít lúa giống cho nó. Nếu tôi chết thì người khác sẽ gieo số lúa giống đó. Đất ruộng phải được gieo giống.

Ông lão cất gánh lên vai, đôi chân run rẩy. Ông nhìn con đường dài trước mắt, lảo đảo tiến bước.



tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel 15-favorite-quotes-on-solitude-9-728
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeTue May 21, 2019 7:08 pm

.
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Images?q=tbn:ANd9GcSMzoDU3cucXYBHTFtWCXb18EWnRYPnR7kAqB73AUD5ujxYwdfJ

TÔI, NHƯ MỘT NGƯỜI THỢ SĂN   
- Doris Lessing (1919-2013) (Nobel 2007) 


Bây giờ, cứ hễ mà tôi gặp hạng người thích đuổi chim grouse [viii] hay rượt cá hồi (tôi nghĩ mấy chữ này được dùng đúng nghĩa), họ thường hay nghe tôi nói, “săn gì cũng thế, nếu nói về một môn thể thao lành mạnh, cứ thả một đàn trĩ ra đồng trống cho tôi.” Rồi từ đó, tôi tiếp tục ngẫu nhiên nhắc đến tên những loại thú lớn hơn - nai và sư tử, và cứ thế mà tiếp tục - chẳng bao lâu ngay cả mấy anh chàng thợ săn ngon lành nhất, gan lì nhất, cũng phải xì ra lòng ghen tị của họ vì họ tưởng là tôi đã trải toàn vẹn tuổi xuân của tôi ở sa mạc safari. Tôi giữ sự thật chỉ riêng mình tôi biết.   
Không phải là tôi chưa hề thấy sư tử lần nào. Tôi đã từng đương đầu với chúng, và nhiều con thú rất hay rất lạ khác, trong sở thú ở Luân Đôn, nơi thỉnh thoảng tôi đến để thưởng lãm. Và trên đất đai ở quê nhà tôi, Mashonaland, miền Nam của Rhodesia, hang ổ của biết bao nhiêu loại thú khác đã có một thời rất phát triển và, theo như ý kiến của riêng tôi, chưa hề được phát triển. Tôi chẳng mấy quan tâm. Tôi chẳng bao giờ cần biết mấy chuyện đó.   

Đi kèm theo sự hững hờ của tôi với mấy trò đi săn, không cần biết săn lớn hay săn nhỏ, là một sự thật. Toàn thể cái chuyện phức tạp này thật ra chỉ là sự cạnh tranh giữa anh em tôi và cái tính ngang bướng như con trai của tôi (tôi chống đối với tất cả mọi thứ). Chuyện này bắt đầu từ hồi xa xưa, khi anh tôi được tặng cho một khẩu súng trường .22 - nhưng có lẽ, tốt nhất là tôi nên đi ngược lại quá khứ xa hơn một chút nữa, lúc anh ấy được cho cái xe đạp, anh cỡi nó một cách dễ dàng ngay lần đầu tiên đi thử. Trong khi tôi chỉ có thể nhìn nó rùng mình sợ hãi. Tôi quyết định con gái mà đi xe đạp của con trai ngó bộ không thích hợp, vì thế tôi nhất định đòi một cái cho riêng mình, dù rằng tôi biết rất rõ là với tình trạng tài chánh của gia đình cái giây phút tôi có được cái xe đạp tôi muốn sẽ bị đẩy lùi cho tới vô hạn. 
 
Với cái thái độ không đáng tín nhiệm và luôn né tránh này, cũng dễ đoán được chuyện gì sẽ xảy ra khi khẩu súng trường .22 xuất hiện, vào một trong những ngày trường học nghỉ lễ anh tôi về nhà. Anh cầm nó lên, nheo mắt nhắm một con chim nhỏ đang đậu trên một cái cành cách chừng 30 mét, cân nhắc bấm cò, và con chim rơi xuống, chết toi. Tôi còn nhớ anh có vẻ không vui bởi vì vết bắn không xuyên qua mắt. Đối với anh, vì thế, săn bắn ngay lập tức mang một sắc thái thích hợp hơn; bắn một con chim đang đậu là quá kém cỏi thấp hèn đối với anh. Anh sẽ không bắn ngoại trừ khi anh có thể có một chỗ đứng thích hợp, không được quá thẳng góc dĩ nhiên cũng không thể song song, mà phải hơi xiên xiên lệch đi một chút, để bắn con chim đang bay ngược hướng chừng 50 mét, và phải có một cơn gió mạnh ngăn cách anh và con chim. Còn nói về mấy con mễn - không những chỉ có rất nhiều trong sân nhà tôi mà thịt của mễn còn rất ngon - anh nhất định không chịu giết dù chỉ một con ngoại trừ khi anh đã sắp xếp trước một buổi rình mò bò lê lết đến kiệt lực qua bụi rậm, tốt nhất là lội qua bùn đặc sệt.   
Một ngày kia, and giao cho tôi khẩu súng trường của anh, tôi nói là tôi không cần nó mà cũng chẳng thích nó. Tại sao tôi không giữ đúng lập trường này, một sự thật đơn giản như vậy, tôi không thể tưởng tượng được. Tôi còn viện dẫn là ngay cả những người như Jim Thợ Săn và Bill Voi cũng thường dùng một loại súng khác, shotgun [ix] để bắn chim đang bay và nai đang chạy, và họ không bao giờ nghĩ đến chuyện dùng súng trường .22, nhưng ông anh tôi không có vẻ gì lay chuyển. Tôi cũng đoán là anh tôi chẳng nghe lời tôi.   

Sau khi anh tôi vào trường trở lại, tôi lén vào phòng anh và lấy khẩu .22 ngâm trong một vũng dầu phế thải. Anh tôi đã ngâm khẩu súng trong ấy để tránh han rỉ trong thời gian anh đi học. Tôi bỏ ra khoảng một tuần chập chững tập tháo mở và lắp ráp trở lại cây súng này, rồi tôi tập lắp đạn vào và tháo đạn ra. Khi tôi làm được việc này ngay cả khi nhắm mắt lại, tôi xách cây súng ra ngoài đồng và đi xông vào trong mấy bụi cây.
Chung quanh nhà tôi có rất nhiều bụi cây - đầy suốt cả bao nhiêu dặm đường hướng nào cũng thế. Hoang dã, không người cư ngụ, một thiên đàng tuyệt vời cho những ai thích đi săn. Tôi nhớ rất rõ ràng, ngày đầu tiên, tôi nhởn nhơ đi lang thang, nghĩ đến Guinevere [x] và Anne of Green Gables [xi], cho đến khi một con bò kudu [xii] rất to, hình như nó ngắm nhìn tôi đã lâu lắm từ trên ổ mối, dậm chân rồi bỏ chạy trốn. Tôi nhìn nó chạy đi. (Anh tôi, không cần phải nói, đã bắn cả chục con kudu xuyên qua mắt với những điều kiện vô cùng khó khăn mà anh ấy tự đặt ra.)  
Sau đó có một con mễn xuất hiện, tôi để súng trường lên vai và bắn lia lịa nhưng không có kết quả, bởi vì nó biến mất trước khi tôi có thể định thần.   
Đó là một ngày thật đáng thất vọng, và những ngày tiếp theo cũng chẳng tốt đẹp hơn. Có một ngày, tôi đang ngồi trên một hòn đá ở một chỗ khá quang đãng trong rừng. Khi ấy có một con trĩ lững thững đi ngang qua, sau đó đến một đàn trĩ cỡ chừng 20 con, đi hàng một. Tôi nâng súng và bắn từng con một. Nó cũng giống như trò chơi bắn trong hội chợ, với thỏ, hay bất cứ loại thú nào mình thích, di chuyển trước mặt mình thành đoàn. Tôi bắn trượt một hơi cả hai chục con trĩ, và tôi nghĩ bắn sẽ dễ biết bao nhiêu nếu người ta tập cho mấy con trĩ này đứng yên. Từ ý nghĩ này sự thành công của tôi được sinh ra, và bởi vì nó đặt hoàn toàn lên thói quen của trĩ, tôi sẽ diễn tả chúng từ bây giờ, từ quan điểm của một người đi săn, chứ không phải quan điểm của một nhà khoa học thiên nhiên.
Trĩ thường đi thành từng đàn cỡ chừng từ 10 cho đến 200 con. Người ta có thể nghe tiếng của chúng từ xa bởi vì tụi nó kêu những tiếng nghe “chinh, chinh” giống như mình cọ đá vào nhau dưới nước. Khi bị quấy nhiễu, điều này rất thường xảy ra, bởi vì tiếng kêu chinh chinh quảng cáo cho kẻ thù biết sự hiện diện của chúng khi chúng vẫn còn ở xa hàng dặm; chúng than phiền náo loạn và chạy tứ tán thật nhanh. Nếu chúng cứ tiếp tục giữ cái thói quen chạy tứ tán rất nhanh này, thật không dễ gì bị làm hại. Nhưng chúng lại không như thế - tính tò mò là điểm yếu của chúng. Rất thường xuyên, trước khi chúng chạy với bất cứ khoảng cách nào, chúng thường bay lên cây để nghe ngóng xem chuyện gì xảy ra. Cánh của chúng rất yếu, và một khi đậu lên cây chúng rất miễn cưỡng phóng mình bay trở lại vào không trung.   

Sau khi quan sát những dữ kiện này và tất cả những điều lợi hại dính líu đến chúng, tôi bỏ ra một ngày cầm súng đi lang thang cho đến khi tôi nghe tiếng kêu “chinh, chinh.” Tôi bò về hướng ấy. Xong tôi chọi một hòn đá to vào bầy trĩ. Chúng chạy tán loạn, như để biểu diễn, nguyên đàn trĩ bảy mươi bốn con đều bay tuốt lên cây chung quanh tôi. Tôi biết là bảy mươi bốn con vì tôi ngồi trên gốc cây đếm chúng và tìm xem con nào trẻ nhất và béo nhất. Xong tôi cẩn thận nhắm bắn. Con trĩ nghe ngóng, lại đậu xuống và nhìn một chiếc lá nhỏ không còn bị dính vào cái lá to như lá dương xỉ trên đầu nó nữa rồi bay là là xuống chân tôi. Tôi thử bắn thêm lần nữa. Chỉ vào lúc này cái khó của việc giữ cho cái báng súng không run mới trở nên rõ rệt với tôi. Và tôi có toàn bộ thì giờ trong cuộc đời để bắt đầu tập bắn. Tôi đi đến một cái cây gần đó và đặt báng súng dựa vào thân cây làm điểm tựa.   
Con trĩ tôi chọn cách tôi chỉ chừng ba bốn thước. Tôi giữ khẩu súng thật yên, vừa đủ lâu để bắn vào ức của nó. Nó ngã xuống, và tôi bồi thêm một phát, vào trong mắt, rồi xách nó về nhà. Gia đình tôi, như bình thường, đoán là tôi bắn trúng cánh nó, rồi trúng mắt nó - phát súng đầu tiên không ai để ý - và một lá thư mang tin này ngay lập tức được gởi cho anh tôi.   

Từ đó về sau, kỹ thuật của tôi, dù không mấy thay đổi, cũng có tăng tiến phần nào. Thí dụ như, mặc dù một con chó săn được huấn luyện đúng cách không mấy hữu dụng với tôi, tôi cũng có một con chó rất tuyệt vời cho mục đích của tôi. Tôi dẫn chó theo. Nó chạy thẳng vào tiếng “chinh, chinh” ngay lập tức khi nó nghe, và khi tôi chạy đến kịp, cả chục con trĩ đã bay đậu lên cây khắp mọi nơi ngắm con chó đang nhảy tưng tưng và sủa um sùm phía dưới chúng, làm chúng nó bị chi phối quên sự có mặt của tôi rất đúng điệu. Trong khi đó tôi chỉ việc nâng súng lên và thong thả mà chọn con mồi.   
Một con trĩ bị thôi miên bởi tiếng chó sủa thường lộ vẻ sợ bằng cách quay chầm chậm vòng tròn ở chỗ nó đậu, nhưng nó quay chung quanh cái trục của nó và nhiều hay ít trở nên một mục tiêu khá rõ ràng. Có lần có con trĩ đang đậu trong bụi cây thấp bị con chó hấp dẫn đến nỗi tôi có thể nghiêng người chộp cặp giò của nó ra khỏi cành cây nó đang đậu. Sau đó tôi bẻ cổ nó. Tôi chưa bao giờ thổ lộ cái trường hợp đáng phỉ nhổ này với ai cả. Khi tôi mang con trĩ về, tôi giải thích là viên đạn trúng cái mỏ của nó và làm nó tê liệt, và nói một cách lơ đãng để cho nó giống như một trong những trò tàn bạo của anh tôi.   
Tôi biết rất rõ là khi anh tôi về là tôi hết có cơ hội dùng súng. Nhưng ngay buổi tối đầu tiên về nhà anh kéo tôi vào trong bụi, nói, “Nào trổ tài cho tao xem.”   
Con chó phóng vào đàn trĩ sủa ỏm tỏi. Tôi bắn đại một phát cẩu thả vào con chim đang bay lên cành, nhún vai, và tự phê bình khá khắc nghiệt, “Bắn dở òm.” Anh tôi, dĩ nhiên, ngay lập tức xem như mọi trò thể thao săn bắn với đàn chim đó đã chấm dứt, nhưng cái con chó cứ sủa dấm dẳng dưới vài con chim khá mập mạp khi hai anh em tôi bỏ đi tìm các mục tiêu khác đang bay trong không gian.  
 
Chuyện này cứ tiếp tục xảy ra vài ba lần. Mẹ tôi than phiền là tủ thức ăn trống trơn. May sao, anh tôi bắn một con mễn ở khá xa phía dưới chân đồi trong bóng tối chập choạng. Chúng tôi ăn thịt mễn cả tuần (cái bất lợi chính của người sống trong thiên đàng của thợ săn là cái tẻ nhạt của thức ăn) và tôi có thể nói rằng chẳng có cái gì gọi là tinh thần thể thao nếu chúng ta bắn giết thú vật khi chúng ta không cần phải có thức ăn.
Nhưng còn hơn mười ngày nghỉ lễ anh tôi ở nhà, chắc chắn tôi không thể nào tránh khỏi cái chuyện bị lột mặt nạ bắn dở. Tôi cố gắng trì hoãn chuyện này bằng cách nói là tôi không thể bắn giết súc vật vì lý do tâm lý, nhất là tôi không bắn được lúc tôi bị quan sát. Tôi tự tách riêng đi vào trong bụi một mình, anh tôi lặng lẽ bí mật theo dõi và bắt gặp tôi đang bắn một con chim trĩ chỉ chừng một thước rưỡi. Tôi cự anh bảo rằng anh quỷ quyệt và không biết nể nang gì ai, nhưng anh không nghe gì cả có lẽ vì bị chấn động tinh thần quá độ. Anh có cảm tưởng như đây là một cái tát vào danh dự của gia đình mạnh đến nỗi anh không nói một lời trong bữa ăn tối. Tôi nghĩ anh đang tìm cách thổ lộ sự thật với bố tôi mà không làm cho ông thất vọng hay bị tổn thương ghê gớm cho lắm.   

Đêm ấy, anh tôi dùng đèn pha đi săn. Săn đèn pha kiểu của anh thì cũng vẫn được xem như thể thao, bởi vì anh cho là đối tượng bị bắn của anh có rất nhiều cơ hội để chạy thoát. Chỉ có mấy người vụng về, bắn dở mới dùng đèn xe hơi. Anh chỉ đeo một cái đèn xe đạp khá yếu lên trán của anh và đi vào trong đêm tối như là một anh hùng dởm Cyclops. Cách ứng dụng bình thường là làm cho mấy con thú ngó sững vào đèn, rồi mon men đến càng gần càng tốt con thú đang bị đèn thôi miên đến chết sững và bắn nó. Cách săn của anh tôi có nghĩa là con thú sẽ hiếu kỳ nhưng không chết cứng. Nó có rất nhiều cơ hội để chạy trốn.   
Sau cuộc thám hiểm này anh trở lại có vẻ buồn thê thảm. Rõ ràng, anh thấy hai con mắt xanh lè cách chừng mười lăm mét. Chúng không nhúc nhích. Anh hét đuổi chúng, nhưng chẳng hề gì. Anh tắt đèn và bắn vào mục tiêu của mình. Chúng cũng không thèm chạy. Anh bắn nữa. Chắc chắn là không thể nào anh bắn trật cả, nhưng anh cũng bắn ít nhất là thêm ba lần nữa. Xong rồi anh đi thẳng đến chỗ mục tiêu của anh, đinh ninh trong lòng sẽ bắt được năm cái xác chết nằm chồng lên nhau. Nhưng anh tìm thấy ở đó hai con sâu lân tinh trên khúc gỗ. Chuyện này xảy ra làm tổn thương lòng tự hào của anh đến độ anh quên kể cho bố mẹ biết chuyện gian dối của tôi. Chuyện này, té ra lại là chuyện may của cả gia đình, đó là sau khi anh đi học trở lại tôi vẫn có thể cung cấp thịt ăn cho gia đình tôi cho đến một ngày đẹp trời tôi được rời nhà để vào ở trong thành phố nơi có rất nhiều văn minh và hạnh phúc.   

Tài đi săn của tôi cũng khá hữu dụng trong nhiều dịp khác. Khi tôi ở trong thành phố, tôi đính hôn với, hay liên hệ với - chữ chính xác để diễn tả tình cảm này luôn luôn lẩn tránh tôi - một chàng trẻ tuổi, người mà theo bất cứ cách định nghĩa nào cũng là một người thích đi săn, như thích một môn thể thao. Quan niệm về danh dự của anh rất phức tạp, và luôn luôn làm cho tôi phải quay vào trong nội tâm của mình hàng giờ để suy ngẫm, kết quả tôi nghiệm ra là chúng tôi không thích hợp với nhau. Anh ấy, ngược lại, không đồng ý với tôi. Anh cố gắng thuyết phục tôi. Anh nói sở dĩ tôi miễn cưỡng trói số phận tôi vào số phận anh ấy bởi vì tôi còn trẻ dại nông nổi. Lúc ấy tôi chỉ mới mười sáu tuổi thôi.
Trong các tính tốt đức hạnh của anh, anh ấy luôn có những ý kiến về chuyện đi săn, đi bắn, và đi câu. Những ý kiến này có thể được xem như là lý thuyết căn bản. Anh đoạt rất nhiều huy chương vàng và huy chương bạc cho tài bắn chính xác của anh. Lẽ tất nhiên anh rất nôn nóng có dịp thi thố tài năng ở nông trại nhà tôi. Bởi vì sau khi rời Tô Cách Lan cả mười năm anh chưa có dịp đặt chân vào sân bắn nào cả.   
Sau một thời gian tôi cứ viện hết lý do này tới lý do khác, nhưng cuối cùng tôi hết có lý do để từ chối, chúng tôi về thăm nhà một buổi cuối tuần. Tôi dẫn anh đi bắn trĩ, bởi vì tôi nổi tiếng nhờ chuyện này. Nhưng dĩ nhiên, tôi ấn khẩu súng vào tay anh; tôi tự chối bỏ cá nhân tôi một cách thật thích hợp với vai trò của bà chủ nhà. Ngay lập tức anh cho thấy là anh được nuôi dưỡng và giáo dục chu đáo đúng đắn bằng cách anh nói là chưa bao giờ anh được nghe ai nói đến đi săn chim bằng súng trường cả. Nhưng anh sẽ thử. Anh bắn hụt rất nhiều chim trĩ chạy trên mặt đất, điều này không đáng ngạc nhiên mấy, mấy con chim này chạy rất nhanh. Rồi anh lại bắn hụt cả mấy con chim đậu trên cây. Anh chẳng bắn trúng con nào cả. Bắt đầu từ lúc ấy anh bắt đầu trở nên vô cùng khó chịu, quạu cọ, gắt gỏng. Anh nhét cây súng trường trở lại vào tay tôi và nói, “Nào, bây giờ đến lúc em dạy cho tôi xem bắn như thế nào.”   
Bầy trĩ lúc này đã đậu an toàn trên mấy bụi cây. Chúng tôi lấy đá ném chúng, ngay cả rung mấy bụi cây, nhưng chúng không sợ cũng chẳng chịu nhúc nhích. Tôi không thể bắn được. Chúng tôi bắt đầu đi về nhà dọc theo đường rầy xuyên qua mấy lùm cây. Lúc ấy tôi cầu nguyện là xin đừng có đàn chim trĩ thứ hai nào xuất hiện cả. Tôi tính, nếu tôi nghe tiếng kêu “chinh, chinh” tôi sẽ nói thật to để nhận chìm tiếng kêu của chúng. Bất thình lình, anh ấy kêu to, “Nhìn kìa! Đây là cơ hội của em!”
Cách xa chúng tôi cả trăm mét, có một con chim đa đa đang thập thò giữa những chỗ bánh xe lăn mòn trên đường. Tôi không chắc ngay cả anh tôi có thể bắn trúng được. Có một cơn gió thổi làm tung bụi. Tôi chộp cơ hội, và, lầm bầm, “Cái đám bụi chết toi này,” Tôi bắn đại vào trong đám bụi không cần nhắm.   
Khi bụi lắng xuống. Con chim đa đa chết ngỏm, bị bắn xuyên qua đầu - cú bắn di động, từ phía sau, cách khoảng gần sáu chục mét. Tôi tháo băng đạn một cách thiện nghệ, và người bạn đồng hành của tôi bắt đầu đi lảng xa ra, khoảng cách giữa chúng tôi tăng lên gấp đôi. Tôi không nói gì cả, dĩ nhiên; mình không nên khoác lác.   

Anh ấy bắt đầu than phiền là anh không quen dùng khẩu súng này, là ít ra là cũng đã mười năm anh không hể bắn một mục tiêu di động, và cứ thế mà tiếp tục. Anh tiếp tục chữa thẹn cho mình ở buổi ăn tối. Bố tôi im lặng. Tôi tưởng đó là chuyện bình thường - bố bận suy nghĩ về một việc gì đó - nhưng cuối cùng tôi nhận biết ông im lặng bởi vì ông không vui khi quan niệm về cái tốt và cái đúng của ông bị va chạm.   
Một người săn giỏi, tôi nhớ, không bao giờ đổ thừa sự thất bại của mình lên thời tiết, hay vận may, hay bất cứ điều gì ngoại trừ chính cá nhân mình. Tôi chưa bao giờ hiểu tại sao, nhưng đó là những quy luật trong thế giới của đàn ông.

Ngày hôm sau, bố tôi nói một cách không vui là không có gì thể thao cho bằng bộc lộ những yếu kém thấp hèn của một người đàn ông, và, do đó ông ủng hộ chuyện tôi từ hôn, hay cắt đứt liên hệ, trong cái cách danh dự nhất. Không lâu sau, tôi học được một nguyên tắc không bao giờ thay đổi - đó là săn bắn bất cứ loại thú nào cũng đều không tốt - và với nguyên tắc này tôi không bao giờ cầm súng nữa.


-------------
[viii] Loại chim đi trên mặt đất màu nâu đỏ, chân có lông được thợ săn yêu chuộng
[ix] Loại súng dài bắn bằng đạn nhỏ bằng chì, mỗi lần có thể bắn chừng năm hay sáu viên đạn
[x] Truyện cổ tích lịch sử của nước Anh, vợ của vua Arthur người yêu Hiệp Sĩ Lancelot
[xi] Nhân vật của một tác giả người Gia Nã Đại, một cô gái mồ côi được nhận làm con nuôi. Cô có mái tóc màu đỏ hung và có lần cô nhuộm tóc thành màu xanh lá cây.

[xii] Loại thú mà người ta rất thích săn, giống nai nhưng to bằng con ngựa.

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Lessing-understand
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeWed May 29, 2019 3:38 pm

.
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Images?q=tbn:ANd9GcRMvUoM0brsAGGEiaffcifwY7wFRfCm5WJ9coimCzbvMyO0Ihn3tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Article-0-1978473C00000578-703_306x423


BỨC THƯ TÌNH KHÔNG GỬI
- Doris Lessing (1919-2013) (Nobel 2007)  


Phải, em nhìn thấy ánh mắt của vợ anh chĩa vào em khi nghe em nói “tôi không cần chồng vì tôi có quá nhiều rồi”.   

Cô ấy không đưa mắt nhìn anh chắc vì sau đó lúc về nhà, cô ấy sẽ bảo “chị ấy nói hay quá” còn anh thì nói “đừng quên cô ấy là nghệ sĩ”. Anh nói đúng câu mà chắc em cũng sẽ nói trong trường hợp đó khi cô ấy lắng nghe. Em mong thế vì em biết kiểu người như anh.   
Em sẽ không tha thứ cho anh nếu cô ấy không nghe anh nói dù điều đó chẳng có nghĩa lý gì. Giống như em sống cô đơn, không kén cá chọn canh thì anh phải có vợ hiền giống tính anh. Những người chồng em, những người đàn ông từng đốt cháy lòng em (vợ anh sẽ cười khi thấy em nói vậy) đều đáng giá như anh. Em tự hạ mình khi thấy vẻ mặt xúc phạm của vợ anh. Liệu cô ấy có biết em đang đóng kịch không nhỉ? Không, em không thể tha thứ cho anh dù chỉ vì vợ anh.   
Nếu em bảo “tôi không cần chồng, tôi có quá nhiều người yêu” thì chắc mọi người ngồi ở bàn ăn sẽ phá lên cười theo kiểu người ta lại phát hiện thêm một điều tầm thường nữa ở em, một ngôi sao đang tàn, nhan sắc cằn cỗi... “Tôi có quá nhiều người tình, họ vừa can đảm vừa tởm lợm”. Câu nói nhẹ nhàng cho bất cứ “nữ diễn viên còn đẹp nhưng đã tàn” nào đó nhưng lại không hợp với em vì em đâu có vô danh mà là Victoria Carrington, người hiểu rõ quá khứ và tương lai của mình. Em biết cảm giác tha thứ là gì (không phải cho em vì chẳng có gì quan trọng cả). Anh có hình dung nếu em bảo “tôi là nghệ sĩ lưỡng tính, trong tôi có nhân vật nam đóng vai đối nghịch với nhân vật nữ, hồn tôi biến thành nam từ cội nguồn sáng tạo”. Ồ, em đâu ngốc đến nỗi không biết dùng các loại phương ngữ trong thời đại chúng ta. Cứ hình dung nếu em thốt ra những lời như vậy đêm qua. Mọi người, trừ anh, sẽ khó chịu và tru tréo lên rằng là diễn viên mà còn tỏ vẻ thông minh. Có lẽ thật lòng họ không tin rằng một diễn viên thì phải ngu ngốc nhưng họ cố ý nói ngược lại cho có vẻ khác biệt. Nhưng họ đã lặng thinh khi em nói không cần chồng vì đã có nhiều rồi, thái độ đó còn hơn cả sự xúc động thái quá, giống một lời than trách mà họ buộc phải thừa nhận.

Anh có bao giờ nghĩ từ “xúc động” chỉ dành riêng cho diễn viên? Có một buổi chiều em đến xem Irma Painter vào vai một vở kịch mới. Khi vở diễn kết thúc, em đến chúc mừng (để chị ấy biết em có đến xem kịch mà không cảm thấy bị xúc phạm. Vả lại, em ngại phải quay lại lần nữa). Ngồi trong phòng thay đồ, em ngắm chị ấy trong lúc chị ấy đang lau son phấn trên mặt. Bọn em sàn sàn tuổi nhau, cùng vào nghề một năm, em thấy khuôn mặt mình trong khuôn mặt chị ấy làm em hiểu ra rằng mọi diễn viên thực thụ đều có khuôn mặt đúc khuôn nhau. Không phải lớp mặt nạ mà là khuôn mặt chính đã tàn phai do lúc nào cũng phải chuẩn bị đeo một khuôn mặt khác, giống những thứ được treo trên tường chờ được dỡ xuống đem ra dùng. Khuôn mặt thật đó sau khi được lau chùi kỹ lưỡng có cái nhìn trống rỗng, giống một chiếc bàn hay mặt sàn nhà gỗ, tầm thường, kém cỏi che giấu nhân cách và cá tính của bọn em qua thời gian.   
Đột nhiên, em ngắm nhìn khuôn mặt đó (chúng em được coi là đối thủ vì đều là những diễn viên tầm cỡ) với lòng biết ơn vì em biết cái nhìn trống rỗng đó đang dò xét bọn em dưới một bức màn bao phủ bằng son phấn, luôn bị lợi dụng cho những linh hồn khác, dù chúng em luôn vào vai hàng nghìn phụ nữ xinh đẹp, đoan trang, tử tế.   
Tại bữa tiệc đó, ai cũng ăn mặc chải chuốt còn em lại cố hóa trang sao cho có khuôn mặt lãnh cảm, không phô trương chỉ để dành cho riêng em. Thay bằng khuôn mặt sắc nét, dịu dàng và nồng cháy khiến đàn ông khao khát tuy họ không để ý xem có phải mặt em không là khuôn mặt trống rỗng, tàn tạ do làm việc quá sức. Tối qua khi ngồi đối diện vợ chồng anh, cô ấy thật dễ thương và tốt bụng, khuôn mặt xinh đẹp không trang điểm luôn thể hiện rằng cô ấy chỉ nghĩ đến anh thôi, em hiểu ngay trông em ra sao. Khuôn mặt trắng bệch như chảy tan ra trước vẻ đẹp đó, nụ cười méo xệch cố làm ra vẻ ngọt ngào nhức nhối, cố che giấu những giọt lệ chỉ trực trào ra cho đến tận bây giờ... Nhưng em biết, ai cũng vậy, dù người ta có biết chuyện hay không đều cho rằng khuôn mặt chân thực, nghiêm nghị, mệt mỏi kia đang sẵn sàng đóng kịch ngay cả trước sự đổ vỡ đó, khác với vai diễn của một diễn viên nổi tiếng đang bị xúc động khiến em đã thốt ra “tôi không cần lấy chồng vì tôi có quá nhiều rồi”. Nhưng anh cũng hiểu là nếu cả buổi tối em không nói lời nào thì người ta cũng sẽ bảo “cô ấy xúc động vì cô ấy là diễn viên mà”.   

Điều em nói là thật đấy, em không có tình nhân, em đã có nhiều chồng kể từ khi...
Đó là lý do em viết bức thư này cho anh với lòng biết ơn vì anh đã bước vào đời em. Mà có lẽ cũng vì đêm nay em không chịu nổi cô đơn cho vai diễn cuộc đời mình.   
Thời thiếu nữ, bất cứ người đàn ông nào em từng gặp hay chỉ nghe nói đến hoặc nhìn thấy hình trên báo, đều là người em yêu. Em coi anh ta là người yêu vì em có quyền đó mặc dù người đó chưa từng nghe nói đến tên em hoặc thấy em xấu xí. Hồi con gái em không hấp dẫn, ánh mắt ngơ ngác, da trắng nhợt, tóc đỏ, non nớt. Em chỉ đẹp khi hóa trang lên sàn diễn thôi... Người đó có thể thấy em chán ngắt nhưng em yêu anh ta. Em có nhiều người tình trong cõi mơ hơn thực tế. Chẳng có chàng trai nào trong đời đẹp như người trong mộng, dù người đó không có đôi môi, cánh tay nhưng làm em lại ngất ngây, giống như Chúa Trời vậy. Giấc mơ đó hiện hữu cho đến khi em cưới người chồng đầu tiên, rồi người thứ hai mặc dù sau nhiều năm em vẫn không hiểu gì về tình yêu.

Năm em 32 tuổi, em bị ốm thập tử nhất sinh. Không ai hiểu nguyên nhân mà chỉ mình em hiểu. Em không được nhận vai em mong ước đến điên dại. Em ốm vì tuyệt vọng nhưng giờ thì em hiểu tại sao em lại không được nhận vai đó. Em đã quá già.   
Em chỉ có thể đóng vai các cô gái trẻ duyên dáng ngây thơ, xin Chúa tha tội, em tưởng mình là họ thêm vài năm nữa trong khi vở diễn lại kéo dài vô tận, nên em chỉ sống bằng ảo tưởng mà thôi. Tương lai sẽ ra sao khi em đã gần 40 tuổi, quá già để vào vai những cô nàng trẻ trung. Giống như nhiều diễn viên phải đốt cháy hình ảnh cô gái xinh tươi đó rồi mang vết thương âm ỉ không thành sẹo hết đời. Em sẽ chỉ còn được nhận những vai vớ vẩn trước khi thành diễn viên từng có một thời...   
Khi đó em đã nằm liệt giường mà chẳng muốn thuốc thang chữa trị gì cả, kinh hoàng nghĩ đến gánh nặng năm tháng, không biết đến sống chết, tương lai ra sao cho đến khi đem lòng yêu ông bác sĩ chữa trị cho mình. Thật kỳ diệu khi lần đầu em biết nói lời yêu cứ như em chưa từng qua hai lần đò, mơ đến hàng đám đàn ông. Em không thể bắt nạt anh ấy, lần đầu tiên mới có một người đàn ông đúng nghĩa, em không thể bắt anh ấy làm theo ý mình, không biết đôi môi và cánh tay anh ấy ra sao. Khi là người tình của em, anh ấy là người quyết định còn em giống như một cô gái yếu đuối, khao khát chờ đốt cháy.   
Anh ấy chắc có yêu em nhưng không như em yêu anh ấy, rồi anh ấy bỏ em một cách hợp lý. Em tưởng như chết đi được nhưng lại thầm biết ơn những gì đã có, lần đầu tiên em được vào vai một người đàn bà khác vai diễn cô gái dễ thương muôn thuở hay nữ anh hùng. Em đã vượt qua chính mình, lại được sinh ra một lần nữa, chỉ mình em hiểu là do mối tình với người đàn ông đó, người chồng đầu tiên của em (em tự gọi thế dù ai cũng coi anh ấy là vị bác sĩ đã có một cuộc tình thoảng qua với em).   
Anh ấy là người chồng đầu của em, đã làm thay đổi đời em. Sau anh ấy, trong cơn bất hạnh cô đơn điên cuồng, em tưởng như có thời em đã kết hôn với anh ấy và em có thể ngủ với nhiều người đàn ông (giờ thì đúng vậy nhưng trước đây chỉ trong mơ) nhưng không nghĩ đang chiếm hữu một người đàn ông, người đã tạo ra em trong anh ấy và hòa quyện vào em, em không thể lợi dụng, thao túng, sở hữu hay bắt anh ấy làm theo ý mình.
  
Cứ như thế em sống như đã chết, trống rỗng, khô héo dù sự nghiệp của em đạt tới đỉnh cao. Em không có người yêu cả thực lẫn mơ, em sống như một nữ tu sĩ, như gái còn trinh.   
Có điều lạ là năm 35 tuổi lần đầu tiên em thấy mình như gái trinh, tiết hạnh, không cho ai đụng vào. Em cô đơn hoàn toàn. Những người đàn ông tán tỉnh, ham muốn em như chạm phải tấm gương sắc lạnh. Chính vì vậy em thấy mình còn trinh nguyên ở tuổi 35. Những cô gái bình thường cảm thấy gì nhỉ? Phải chăng họ đang đeo quanh mình chiếc vòng trinh tiết chờ một người hùng đến đập vỡ? Em lại khác, em là gái tân không giữ mình để chỉ đáp ứng đòi hỏi của một người đàn ông.   
Không biết trong bao lâu em bắt đầu cảm thấy mình sắp thành bà già. Em sống không tình yêu, không thành đạt, khô héo vì không được vuốt ve. Công việc của em đều đều, cứng nhắc.   
Em tự lui về, không chọn được ai cũng chẳng có ai nhòm ngó. Ai hỏi thì em đáp “vẫn vậy, chưa có gì hay cả”. Trên hết, em hiểu mối liên kết giữa đời với em, hiểu lô gích cuộc đời không đổi thay. Em đã từng được yêu một lần trong đời nhưng đã qua, đời em đã chìm trong khô héo, em tỉnh táo đến lạnh lùng. Em thành một mệnh phụ tên tuổi, tóc đỏ, thông minh (tất nhiên dễ xúc động), đôi mắt xanh ánh lên vẻ hóm hỉnh. Cuộc đời đã qua rồi, cần chấp nhận nó và làm việc như cần phải vậy.
  
…   
Em là dòng nước trong đó có nhiều sinh vật bơi lội, anh giống như một đứa trẻ có làn da nâu sáng bóng, dòng nước như tay em mơn trớn thân anh nhưng không chạm vào anh. Cũng bàn tay đó tối mai trên sân khấu sẽ chìa ra cho hàng trăm con người thấy tình yêu chắt lọc từ nỗi đau bị từ khước trong sự lặng câm.
Em là thế giới trong đó anh hít thở, cười vui với đời. Mỗi khoảnh khắc, em cùng anh tạo ra hàng nghìn sinh vật nhỏ li ti rồi đem phân phát, tay ta tung chúng vào không gian thành những cánh chim tự do.   
Em giống như không gian rộng lớn tỏa tiếng sấm rền trong tâm hồn con người, ngồi xổm lên sự ngái ngủ, sự nặng nề vô định, chậm chạp, quanh co giống như bóng tối trong căn phòng mục nát, em phải lấy hết sức để làm tan cơn ngái ngủ, như được sinh ra để lấy ánh sáng trí tuệ bao quanh không cho vết bẩn hắc ám của nó bám vào cây cối, những vì sao và anh.   

Buổi sáng in dấu lên bức tường gạch, bóng cây đã nhạt nhòa còn em đang hình dung xem tối nay mình bước ra sân khấu ra sao, với vẻ trinh khiết lạnh lùng cùng những nguyên tắc. Em sẽ ngước mặt lên (khuôn mặt thời con gái) và đưa tay ra cho khán giả bằng vẻ ấm áp vừa được anh ban tặng.
Vậy thì, anh yêu của em, hãy trở về với vợ, đặt đầu cô ấy vào vai mình để cả hai chìm vào giấc ngủ ngọt ngào trong tình anh. Em thả cho anh được tận hưởng niềm vui của riêng anh mà không có em. Em rời bỏ anh vì tình anh. Em bỏ anh cho anh sống đời anh.

Dịch giả: Bích Diệp  

.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeSat Jun 08, 2019 8:00 pm

.
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Images?q=tbn:ANd9GcSHqxvAO8aYmAbAyzt_shTKMfh3NbWbSjXl7vOsgh7mugPkM0rw

Các Mặt Trăng Của Sao Mộc
- Alice Munro (Nobel 2013)
Nguyên tác: The Moons of Jupiter


Tôi tìm thấy ba tôi trong cánh bệnh viện về tim, ở tầng thứ tám của Bệnh Viện Đa Khoa Toronto. Ông nằm trong một phòng riêng hai giường. Giường kia trống. Ông nói bảo hiểm bệnh viện của ông chỉ trả một giường, và ông lo lắng ông có thể phải trả thêm tiền.
"Ba không bao giờ đòi một phòng riêng hai giường", ông nói.
Tôi cho ông biết có lẽ các phòng đều đầy hết. "Không. Ba thấy một số giường trống khi họ đẩy ba đi ngang." "Vậy thì có lẽ vì ba cần phải gắn cái máy đó," tôi nói. "Ba đừng lo. Nếu họ tính thêm chi phí cho ba, họ sẽ cho ba biết."
"Có lẽ như vậy", ông nói. "Họ sẽ không muốn những người vô danh nào đó vào đây. Ba nghĩ ba được bảo hiểm cho vấn đề nầy."
Tôi nói chắc chắn là ông được.
Ngực của ông dán nhiều dây điện. Một màn hình nhỏ treo phía trên đầu nằm. Trên màn hình một đường răng cưa sáng được liên tục viết ra. Dòng viết kèm theo một tiếng bíp điện tử lo lắng. Tình trạng trái tim của ông được thể hiện. Tôi cố gắng không để ý đến. Dường như đối với tôi sự chú ý cặn kẻ như vậy - trong thực tế, làm cho bi thảm một hoạt động bí mật nhất - là đi tìm rắc rối. Bất cứ cái gì phơi bày ra theo cách đó có khuynh hướng bùng lên và phát điên.
Ba tôi không có vẻ bận tâm. Ông nói họ đã cho ông thuốc an thần. Con biết, ông nói, những viên thuốc hạnh phúc đó. Ông có vẻ bình tĩnh và lạc quan thật.

Đêm hôm trước là một câu chuyện khác. Khi tôi đưa ông vào bệnh viện, đến phòng cấp cứu, mặt ông đã nhợt nhạt và miệng ông khép kín. Ông đã mở cửa xe, đứng lên và lặng lẽ nói, "Có lẽ tốt hơn con có thể lấy cho ba một chiếc xe lăn." Ông sử dụng một giọng nói mà ông luôn dùng trong cơn khủng hoảng. Một lần, ống khói của chúng tôi bị cháy, đó là vào một buổi trưa chủ nhật và tôi ở trong phòng ăn đang ghim một cái váy tôi may. Ông bước vào và nói cũng với giọng nói thực tế, cảnh báo là, "Janet. Con có biết bột làm cho bánh nở ở đâu không?" Ông muốn ném nó vào để dập tắt lửa. Sau đó, ông nói, "Ba đoán đó là lỗi tại con - may áo một ngày chủ nhật."
Tôi phải chờ hơn một giờ trong phòng chờ đợi cấp cứu. Họ cho gọi một chuyên gia tim mạch đang có mặt trong bệnh viện, một người đàn ông trẻ. Ông gọi tôi ra hành lang và giải thích với tôi rằng một trong những van tim của ba tôi đã bị suy thoái rất tệ đến độ phải cần một cuộc giải phẫu ngay lập tức.
Tôi hỏi ông cái gì sẽ xảy ra nếu không.
"Ông ấy phải nằm trên giường," bác sĩ nói.
"Bao lâu?"
"Có lẽ ba tháng."
"Tôi muốn nói là, ông sẽ sống được bao lâu?"
"Đó cũng là những gì tôi muốn nói," bác sĩ trả lời.
Tôi đến gặp ba tôi. Ông đang ngồi trên giường trong một góc sau bức màn. "Xấu, phải không con?", ông nói. "Ông có nói với con phần trên cái van không?"
"Không đến nổi xấu, ba" tôi nói. Sau đó, tôi lặp đi lặp lại, thậm chí phóng đại, bất cứ điều hy vọng gì bác sĩ đã nói. "Ba không bị nguy hiểm ngay lúc này. Tình trạng thể chất của ba tốt, nếu không".
"Nếu không," ba tôi nói, ủ rũ.

Tôi mệt mỏi vì lái xe - chạy lên đến Dalgleish, để đón ông, và trở lại Toronto từ buổi trưa - và lo lắng về việc trả lại chiếc xe thuê đúng thời hạn, và bực dọc bởi một bài báo tôi đã đọc trong một tạp chí tại phòng chờ đợi. Nó nói về một nhà văn khác, một người phụ nữ trẻ hơn, đẹp hơn, có thể tài năng hơn tôi. Tôi đã ở bên Anh hai tháng và vì vậy tôi không nhìn thấy bài viết này trước đây, nhưng trong tâm trí tôi vừa chợt nghĩ là ba tôi có lẽ đã xem qua. Tôi có thể nghe ông nói, A, ba không thấy bài nào nói về con trong tạp chí Maclean. Và nếu ông đã đọc một cái gì đó về tôi ông sẽ nói, A, ba không nghĩ quá nhiều về bài viết đó. Giọng của ông sẽ hài hước và dễ dãi nhưng sẽ tạo ra trong tôi một tinh thần mơ mộng quen thuộc. Điều mà ông muốn nhắn với tôi rất đơn giản: Phải nỗ lực phấn đấu cho tiếng tăm, sau đó vì nó mà xin lỗi. Được hoặc không được, con vẩn bị khiển trách.
Tôi không ngạc nhiên bởi tin tức của bác sĩ. Tôi đã chuẩn bị để nghe một cái gì đó như vậy và hài lòng với bản thân đã tiếp nhận một cách bình tĩnh, giống như tôi sẽ hài lòng khi băng bó một vết thương hay nhìn xuống từ ban công không chắc của một tòa nhà cao. Tôi nghĩ, Phải, đúng lúc; phải có một cái gì đó, đây rồi. Tôi không cảm thấy bất cứ sự phản đối nào mà tôi có thể có hai mươi, thậm chí mười năm trước. Khi tôi nhìn thấy từ mặt ba tôi rằng ông đã cảm thấy - việc từ chối vụt lên trông ông sẵn sàng như thể ông ba mươi hay bốn mươi tuổi trẻ hơn - trái tim của tôi cứng lại, và tôi nói với một giọng vui vẻ, phiền não. "Rất nhiều nếu không, ba à" tôi nói.
Ngày hôm sau, ông trở lại bình thường.
Đó là những gì tôi đã nhận thấy. Ông nói rằng hình như ông cảm thấy bây giờ người bác sĩ trẻ có vẻ hơi quá háo hức để giải phẫu. "Một người thích sử dụng con dao", ông nói. Ông vừa chế giễu vừa khoe tiếng lóng của bệnh viện. Ông nói một bác sĩ khác đã khám nghiệm ông, một người đàn ông lớn tuổi hơn, và đã cho biết ý kiến của ông là nghỉ ngơi và uống thuốc có thể là giải pháp.
Tôi không hỏi giải pháp gì.
"Ông nói ba có một van bị hỏng, đúng vậy. Chắc chắn là có vài thiệt hại. Họ muốn biết nếu ba đã bị sốt phong thấp lúc nhỏ. Ba nói ba không nghĩ vậy. Nhưng lúc đó phân nửa thời gian ba không được chẩn đoán bệnh ba đã có. Ba của ba không phải là người để đi tìm bác sĩ."

Những tư tưởng về thời thơ ấu của ba tôi, mà tôi luôn luôn hình dung ảm đạm và nguy hiểm - trang trại nghèo, các chị em sợ hãi, người cha khắc nghiệt - làm cho tôi khó chấp nhận cái chết gần kề của ông. Tôi nghĩ đến lúc ông bỏ nhà đi để làm việc trong các tàu thuyền trên hồ, chạy dọc theo đường rầy xe lửa, hướng về Goderich, trong ánh sáng ban tối. Ông thường kể về chuyến đi nầy. Một nơi nào đó dọc theo đường rầy, ông tìm thấy một cây mộc qua. Cây mộc qua rất hiếm trên phần đất nước của chúng tôi; trong thực tế, tôi chưa bao giờ thấy cây nào. Cũng chưa tìm thấy được cây mà ba tôi đã gặp, mặc dù có một lần ông đã chở chúng tôi đi một chuyến thám hiểm để tìm nó. Ông nghĩ rằng ông biết ngã tư ở gần đó, nhưng chúng tôi không thể tìm thấy. Ông không thể ăn được trái, tất nhiên, nhưng ông đã bị ấn tượng bởi sự tồn tại của nó. Điều đó khiến ông nghĩ rằng ông đã bước vào một phần mới của thế giới.
Đứa trẻ trốn thoát, người sống sót, một ông già bị kẹt ở đây vì trái tim hỏng. Tôi không theo đuổi những ý nghĩ đó. Tôi không quan tâm nhớ đến những thời trẻ của ông. Ngay cả phần ngực trần của ông, dầy và trắng - ông có cơ thể của một người lao động của thế hệ ông, hiếm khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời - là mối nguy hiểm cho tôi; nó trông rất mạnh mẽ và trẻ trung. Chiếc cổ nhăn nheo, bàn tay và cánh tay đầy tàn nhang với tuổi, cái đầu hẹp, lịch sự, với mái tóc và ria mép thưa thớt bạc màu, là những gì mà tôi quen thuộc hơn.
"Bây giờ, tại sao ba muốn mình giải phẫu?" Ba tôi nói một cách hợp lý. "Hãy nghĩ đến những nguy cơ ở tuổi của ba, và để làm gì? Một vài năm ở bên ngoài. Ba nghĩ điều tốt nhất cho ba là về nhà và nghỉ ngơi. Chịu thua một cách nhẹ nhàng. Đó là tất cả những gì con có thể làm, ở độ tuổi ba. Thái độ của mình thay đổi, con biết không. Mình trải qua vài thay đổi về tinh thần. Nó có vẻ tự nhiên hơn."
"Cái gì tự nhiên, ba?" Tôi nói.
"A, cái chết. Mình không thể có cái gì tự nhiên hơn. Không, ba muốn nói, một cách cụ thể, là sẽ không giải phẫu."
"Điều đó có vẻ tự nhiên hơn sao ba?"
"Đúng."
"Tùy ba," tôi nói, nhưng tôi đã chấp nhận. Đó là điều tôi mong đợi ở ông. Bất cứ lúc nào tôi nói với ai về ba tôi, tôi nhấn mạnh tánh độc lập, tự túc, nhẫn nại của ông. Ông làm việc trong một nhà máy, ông làm việc trong khu vườn của ông, ông đọc sách lịch sử. Ông có thể kể về những vị hoàng đế La Mã hay các cuộc chiến tranh Balkan. Ông không bao giờ ồn ào.

Judith, con gái nhỏ của tôi đã đến gặp tôi ở Phi Trường Toronto hai ngày trước. Cô đi cùng Don, người bạn trai cô đang sống chung với. Họ lái xe đi Mexico vào buổi sáng, và trong khi tôi ở Toronto tôi đến ở trong căn hộ của họ. Hiện giờ, tôi sống ở Vancouver. Đôi khi tôi nói trụ sở chính của tôi là Vancouver.
"Nichola đâu?" Tôi hỏi, nghĩ ngay đến một tai nạn hoặc uống quá liều thuốc. Nichola là con gái lớn của tôi. Cô từng là một sinh viên Nhạc Viện, sau đó cô trở thành một cô hầu bàn lo rượu, sau cùng cô không có việc làm. Nếu cô đã có mặt tại sân bay, tôi có lẽ sẽ nói một cái gì đó sai. Tôi có thể sẽ hỏi về những kế hoạch của cô, và cô sẽ vuốt lại mái tóc của mình một cách duyên dáng và hỏi lại: "Kế hoạch?" - Như thể đó là một từ ngữ tôi đã chế ra.
"Con biết điều đầu tiên mẹ sẽ hỏi là về Nichola," Judith nói.
"Không phải. Mẹ nói chào các con và mẹ -"
"Chúng con lấy túi xách cho mẹ", Don nói một cách trung lập.
"Chị ấy khỏe chứ?"
"Con chắc chắn chị ấy khỏe," Judith cho biết, tạo ra một vẻ đùa vui.
"Mẹ sẽ không giống như vậy nếu con là người không có ở đây."
"Tất nhiên là mẹ sẽ như vậy."
"Mẹ sẽ không như vậy. Nichola là con cưng của gia đình. Mẹ biết, chị ấy lớn hơn con bốn tuổi."
"Mẹ cần biết." Judith nói cô không biết chính xác Nichola ở đâu. Cô nói Nichola đã dọn ra khỏi căn hộ của cô (một ổ rác!) và cô ấy thực sự có gọi điện thoại (thật là cả một thỏa thuận, bạn có thể nói, Nichola gọi điện thoại) để nói cô muốn được biệt lập trong một thời gian nhưng cô không sao cả.
"Con nói với chị ấy là mẹ sẽ lo lắng," Judith nói một cách tử tế hơn trên đường đi đến xe van của họ. Don đi trước mang va li của tôi. "Nhưng mẹ đừng lo. Chị ấy không sao, tin con đi."
Sự hiện diện của Don khiến tôi không thoải mái. Tôi không thích anh ta nghe những điều này. Tôi nghĩ đến các cuộc trò chuyện giữa Don và Judith. Hoặc Don và Judith và Nichola, bởi vì Nichola và Judith đôi khi có quan hệ tốt. Hoặc Don và Judith và Nichola và những người khác mà thậm chí tôi không biết tên. Họ có thể sẽ nói về tôi. Judith và Nichola so sánh các ghi nhận, những giai thoại liên quan; phân tích, hối hận, đổ lỗi, tha thứ. Tôi ước gì tôi đã có một đứa con trai và một đứa con gái. Hoặc hai đứa con trai. Họ sẽ không làm như vậy. Con trai sẽ không có thể biết quá nhiều về tôi.
Tôi cũng đã làm điều tương tự ở tuổi đó. Khi tôi ở tuổi Judith bay giờ, tôi nói chuyện với bạn bè trong nhà ăn trường đại học hoặc, đêm khuya, vừa uống cà phê trong những căn phòng rẻ tiền của chúng tôi. Khi tôi ở tuổi Nichola bây giờ, tôi đã có Nichola nằm trong một cái nôi nhỏ có thể mang theo hoặc bế nó trong lòng tôi, và tôi thường uống cà phê suốt các buổi chiều mưa ở Vancouver với một người bạn hàng xóm, Ruth Boudreau, cô ấy đọc rất nhiều và hoang mang với hoàn cảnh của cô, như tôi vậy. Chúng tôi nói chuyện về cha mẹ, tuổi thơ, mặc dù trong một thời gian không để cập đến hôn nhân của chúng tôi. Chúng tôi đối xử với cha mẹ tận tâm thế nào, lên án cuộc hôn nhân của họ, tham vọng sai lầm của họ hoặc sợ hãi tham vọng, chúng tôi đã xếp tất cả lại đàng hoàng thế nào, xác định chúng để không có một thay đổi nào có thể xảy ra. Cả một giả thuyết.

Tôi nhìn Don đi phía trước. Một anh chàng cao lớn, vẻ khổ hạnh, đội một kết Thánh Phanxicô trên mái tóc đen, một rìa râu gọn gàng. Anh có quyền gì để nghe nói về tôi, để biết những điều chính bản thân tôi có lẽ đã quên? Tôi quyết định rằng râu và kiểu tóc của anh bị ảnh hưởng.
Một lần, khi các con tôi còn nhỏ, ba tôi nói với tôi: "Con biết những năm con còn trẻ - A, tất cả đó chỉ là một bóng mờ đối với ba. Ba không thể phân biệt năm này với năm kia." Tôi cảm thấy bị xúc phạm. Tôi nhớ mỗi năm riêng biệt với nỗi đau và rõ ràng. Tôi có thể nói tôi bao nhiêu tuổi khi tôi đi ra nhìn những váy dạ hội trong cửa tiệm Quần Áo Phụ Nữ Benbow. Mỗi tuần suốt mùa đông một chiếc váy mới, nổi bật bằng kim tuyến và vải lưới, mầu hồng và hoa cà, ngọc xanh, thủy tiên vàng - và tôi như một tín đồ ngoan đạo lạnh cóng trên vỉa hè ướt tuyết. Tôi có thể nói tôi bao nhiêu tuổi khi tôi giả mạo chữ ký của mẹ tôi trong một bản báo cáo xấu, khi tôi bị bệnh sởi, khi chúng tôi dán đầy giấy phòng phía trước. Nhưng những năm mà Judith và Nichola còn nhỏ, khi tôi sống với cha của các con - đúng, mờ nhạt là từ ngữ dành cho thời gian này. Tôi nhớ treo tã ra, mang vào và gấp tã lại; tôi có thể nhớ các quầy bếp của hai ngôi nhà và nơi để giỏ quần áo. Tôi nhớ những chương trình truyền hình - Popeye Sailor, The Three Stooges, Funorama. Khi đến giờ xem Funorama, đó là lúc để bật đèn lên và nấu bữa ăn tối. Nhưng tôi không thể phân biệt những năm đó. Chúng tôi sống bên ngoài Vancouver ở một vùng ngoại ô ký túc xá: Dormir, Dormer, Dormouse - một cái tên gì như vậy. Luc đó, tôi luôn luôn buồn ngủ, mang thai làm tôi buồn ngủ, và những cử bú ban đêm, và cơn mưa vùng Bờ Biển Phía Tây. Cây bách hương đen nhỏ giọt, cây nguyệt quế bóng láng nhỏ giọt; người vợ ngáp, ngủ trưa, đi chơi, uống cà phê, và gấp tã; người chồng về nhà ban đêm từ thành phố phía bên kia bờ. Mỗi đêm tôi hôn người chồng trở về trong chiếc áo Burberry ướt sũng và hy vọng anh có thể đánh thức tôi dậy; tôi dọn món thịt và khoai tây và một trong bốn loại rau mà anh cho phép. Anh ăn một cách ngon miệng ồn ào, sau đó ngủ thiếp đi trên ghế dài ở phòng khách. Chúng tôi ở tuổi đôi mươi nhưng đã trở thành một cặp trong phim hoạt hình tuổi trung niên nhiều hơn là khi chúng tôi sẽ sống đến thời điểm đó.
Những năm khó khăn là những năm con cái sẽ nhớ suốt đời. Những góc sân tôi chưa bao giờ đến sẽ luôn ở trong đầu của nó.
"Nichola không muốn gặp mẹ sao?" Tôi hỏi Judith.
"Thường chị ấy không muốn gặp ai hết", cô nói. Judith đi lên phía trước và chạm vào tay của Don. Tôi biết cử chỉ này – biểu hiệu một xin lỗi, một an tâm lo lắng. Cô sờ một người đàn ông như vậy để nhắc nhở anh là cô cảm ơn, là cô biết anh đang làm một cái gì đó vì cô, mà anh cảm thấy phiền hoặc hơi đe dọa nhân phẩm của anh. Nó làm cho tôi cảm thấy già hơn các cháu nếu nhìn thấy con gái tôi chạm vào một người đàn ông - một cậu bé - như vậy. Tôi cảm thấy nổi bồn chồn buồn bã, có thể đoán được sự quan tâm dịu dàng của cô. Đứa con thẳng thắn, lùn và mập, tóc vàng và công bình của tôi. Tại sao tôi nghĩ cô sẽ không nhạy cảm, mà sẽ luôn luôn chân thật, nặng nề, tự tin? Cũng giống như tôi đi khắp nơi nói rằng Nichola ranh mãnh và cô độc, lạnh lùng, quyến rũ. Nhiều người phải biết những điều đó sẽ mâu thuẫn với những gì tôi nói.

Buổi sáng Don và Judith lên đường đi Mexico. Tôi quyết định muốn gặp ai đó không liên hệ đến tôi, và không mong đợi bất cứ điều gì đặc biệt ở tôi. Tôi gọi một người yêu cũ, nhưng điện thoại của anh được trả lời bằng một cái máy: "Đây là Tom Shepherd. Tôi sẽ vắng mặt nguyên tháng chín. Xin vui lòng để lại tin nhắn, tên và số điện thoại."
Giọng nói của Tom nghe có vẻ rất dễ chịu và quen thuộc đến độ tôi mở miệng để hỏi anh ý nghĩa của sự điên rồ này. Sau đó, tôi gác máy. Tôi cảm thấy như thể anh đã cố tình bỏ rơi tôi, như thể chúng tôi đã dự định gặp nhau ở một nơi công cộng và sau đó anh không xuất hiện. Một lần, anh đã làm như vậy, tôi nhớ.
Tôi rót một ly rượu vermouth, mặc dù chưa phải là giờ trưa, và tôi gọi điện cho ba tôi. "A, thật là ngẫu nhiên", ông nói. "Mười lăm phút nữa là con sẽ hụt ba rồi."
"Ba đi xuống phố?"
"Xuống phố Toronto." Ông giải thích là ông sẽ đi bệnh viện. Bác sĩ của ông ở Dalgleish muốn các bác sĩ ở Toronto khám nghiệm ông, và đã đưa cho ông một lá thư gởi cho họ trong phòng cấp cứu.
"Phòng cấp cứu?" Tôi hỏi.
"Không phải một trường hợp khẩn cấp. Ông chỉ có vẻ nghĩ rằng đây là cách tốt nhất để giải quyết. Ông biết tên của một đồng nghiệp ở đó. Nếu ông lấy cho ba một buổi hẹn, nó có thể mất vài tuần."
"Bác sĩ có biết là ba sẽ lái xe đi Toronto không?" Tôi hỏi.
"A, ông không có nói là ba không thể."
Kết quả sau cùng của chuyện này là tôi thuê một chiếc xe, lái đi Dalgleish, chở ba tôi trở lại Toronto, và đưa ông vào phòng cấp cứu lúc bảy giờ tối hôm đó.
Trước khi Judith rời nhà tôi nói với cô, "Con chắc chắn Nichola biết mẹ đang ở đây?"
"Có, con có nói với chị ấy", cô nói.
Đôi khi điện thoại reo lên, nhưng đó luôn luôn là một người bạn của Judith.
"Tốt! Có vẻ như ba sẽ giải phẫu," ba tôi nói. Đó là vào ngày thứ tư. Ông đã thay đổi hoàn toàn qua đêm. "Có vẻ như tốt hơn là ba nên làm."
Tôi không biết ông sẽ muốn tôi nói cái gì. Tôi nghĩ có lẽ ông nhìn tôi để có một phản đối, một cố gắng để ngăn cản ông.
"Khi nào họ sẽ làm chuyện đó?" Tôi hỏi.
"Sau ngày mai."
Tôi nói tôi cần đi nhà vệ sinh. Tôi đến phòng y tá và tìm thấy một người phụ nữ tôi nghĩ là y tá trưởng. Cô có mái tóc màu bạc, tử tế, và vẻ nghiêm trọng.
"Có phải là ba tôi sẽ giải phẫu sau ngày mai không?" Tôi hỏi. "Ồ, đúng vậy."
"Tôi chỉ muốn nói chuyện với ai đó về vấn đề này. Tôi nghĩ đã có một quyết định cuối cùng là tốt hơn ông không nên. Tôi nghĩ đó là vì tuổi của ông."
"Nhưng, đó là quyết định của ông và của bác sĩ." Cô ấy mỉm cười với tôi bình thản. "Thật khó để lấy các quyết định này."
"Những thứ nghiệm của ông thế nào?"
"A, tôi không nhìn thấy tất cả."
Tôi chắc chắn cô đã có xem. Sau một lúc, cô nói, "Chúng ta cần phải thực tế. Nhưng các bác sĩ ở đây rất tốt."
Khi tôi quay trở lại vào phòng, ba tôi nói, bằng một giọng ngạc nhiên, "Biển không bờ."
"Ba nói cái gì?" Tôi nói. Tôi tự hỏi nếu ông đã phát hiện ra bao nhiêu thời gian hay ít hơn ông có thể hy vọng. Tôi tự hỏi nếu những viên thuốc đã đưa ông vào một trạng thái phởn phơ không đáng tin cậy. Hoặc nếu ông muốn chơi trò đỏ đen. Một lần, khi ông nói chuyện với tôi về cuộc đời của ông, ông nói: "Vấn đề là ba luôn luôn sợ lấy cơ hội."

Tôi hay kể với mọi người là ông không bao giờ nói một cách tiếc nuối về cuộc đời ông, nhưng đó không đúng sự thật. Chỉ là vì tôi không lắng nghe. Ông nói phải chi ông gia nhập Quân Đội như một thương gia - ông sẽ khá hơn. Ông nói phải chi ông tự lập, như một người thợ mộc, sau chiến tranh. Phải chi ông rời khỏi Dalgleish. Một lần, ông nói, "Một cuộc sống lãng phí, phải không?" Nhưng ông nói chỉ cho vui về ông thôi, bởi vì nó quá bi đát để nói. Khi ông trích dẫn thơ, cũng vậy, ông luôn có một vẻ nhạo báng trong giọng nói, để che đậy sự phô trương và niềm vui.
"Biển không bờ", ông nói một lần nữa. “Phía sau ông là vùng đảo Azores màu xám / Đằng sau các Cửa của Hercules / Phia trước ông chỉ là những biển không bờ. Đó là những gì diễn ra trong đầu của ba đêm qua. Nhưng con có nghĩ ba có thể nhớ loại biển gì không? Ba không thể. Biển cô đơn? Biển trống? Ba đã đi đúng hướng nhưng ba vẩn không thể nhớ ra được. Nhưng lúc bấy giờ khi con bước vào phòng và ba không hề suy nghĩ đến nó nữa, từ ngữ xuất hiện trong đầu ba. Luôn luôn là như vậy, phải không con? Thật không hẳn tất cả đều đáng ngạc nhiên. Ba hỏi tâm trí của ba một câu hỏi. Câu trả lời ở đó, nhưng ba không thể nhìn thấy tất cả các kết nối mà tâm trí thực hiện để có được nó. Giống như một máy vi tính. Không có gì bên ngoài hết. Con biết, trong trường hợp của ba điều này đúng, nếu có bất cứ điều gì con không thể giải thích ngay lập tức, có một sự cám dỗ lớn để biến nó thành cả một bí ẩn. Có một sự cám dỗ lớn để tin vào - Con biết."
"Linh hồn?" Tôi nói, một cách nhẹ nhàng, cảm thấy một cơn vội vã kinh khủng của tình thương và chấp nhận.
"Ồ, ba đoán con có thể gọi như vậy. Con biết, khi ba mới bước vào phòng này có một đống sách báo ở đây bên giường. Ai đó đã bỏ lại - một trong những loại báo lá cải ba không bao giờ đặt mắt tới. Ba bắt đầu đọc. Ba sẽ đọc bất cứ cái gì. Có một loạt bài đăng trong đó về những kinh nghiệm cá nhân của những người đã chết, nói một cách y tế - chủ yếu là tim ngừng đập - và đã được đưa trở lại cuộc sống. Đó là những gì họ nhớ về thời gian khi họ đã chết. Kinh nghiệm của họ."
"Ba thấy thú vị hay không?" Tôi hỏi.
"Ồ, thú vị. Ồ có chứ. Họ bay lên trần nhà rồi nhìn xuống chính họ và thấy các bác sĩ đang làm việc trên thân xác của họ. Sau đó họ bay xa hơn và nhận ra một số người mà họ biết đã chết trước họ. Không hẳn họ nhìn thấy những người đó chính xác nhưng giống như cảm nhận được họ. Đôi khi như có một tiếng ồn ào và đôi khi như có một ánh sáng hoặc màu sắc xung quanh một người?"
"Hào quang?"
"Đúng. Nhưng không có người. Đó là tất cả những gì họ cảm nhận được trong thời gian ấy, sau đó họ thấy mình trở lại trong cơ thể và cảm thấy tất cả nỗi đau sinh tử và tiếp theo đó - họ đã trở lại với cuộc sống".
"Ba thấy nó có vẻ thuyết phục không?"
"Ồ, ba không biết. Tất cả chỉ tùy theo con có muốn tin điều này hay không thôi. Và nếu con sẽ tin, hay nghiêm túc, ba nghĩ con nên nhìn tất cả mọi vấn đề khác một cách nghiêm trọng mà họ in ra trong những sách báo này."
"Họ còn nói những gì khác nữa?"
"Những chuyện vô lý - phương pháp chữa trị ung thư, chữa trị chứng hói đầu, chuyện đau bụng về thế hệ trẻ và những người ăn tiền xã hội. Những tin nhảm về ngôi sao điện ảnh." "Ồ, có. Ba biết."
"Trong trường hợp của ba, con cần phải để ý", ông nói, "còn không con sẽ bắt đầu tự đánh lừa con." Sau đó, ông nói, "Có một vài chi tiết thực tế chúng ta cần phải giải quyết," và ông nói với tôi về di chúc của ông, ngôi nhà, miếng đất ở nghĩa trang. Tất cả mọi thứ đều đơn giản.
"Ba có muốn con gọi điện cho Peggy?" Tôi hỏi. Peggy là em gái tôi. Cô kết hôn với một nhà thiên văn học và sống tại thành phố Victoria.
Ông có nghĩ về điều đó. "Ba nghĩ chúng ta phải nói với họ," cuối cùng ông nói. "Nhưng nói với họ đừng lo sợ."
"Dạ được rồi."
"Không, chờ một phút. Sam phải đi dự một hội nghị vào cuối tuần này, và Peggy dự định đi cùng với anh ta. Ba không muốn họ thắc mắc về việc thay đổi kế hoạch của họ."
"Ba có biết hội nghị ở đâu không?"
"Amsterdam", ông hãnh diện nói. Ông rất tự hào về Sam, và theo dõi những cuốn sách và bài viết của anh ấy. Ông sẽ chọn lên một cuốn và nói, "Hãy nhìn xem, con thấy không? Và ba không thể hiểu một chữ nào trong đó!" với một giọng kinh ngạc vừa hàm chứa một vẻ chế giễu.
"Giáo sư Sam", ông sẽ nói. "Và ba đứa bé Sams." Đó là cách ông gọi mấy đứa cháu trai của ông, chúng thật giống cha trong trí não và gần như trong cách huênh hoang dễ mến - một sự khoe khoan ngây thơ đầy năng lượng. Họ đi học ở một trường tư với kỷ luật thời xưa và bắt đầu học toán ở lớp năm. "Và những con chó", ông có thể liệt kê thêm, "đã học được cách vâng lời ở trường. Và Peggy..."

Nhưng nếu tôi nói, "Ba có cho rằng cô ấy cũng đã vâng lời khi đi học không?" Ông sẽ ngưng trò chơi ngay. Tôi tưởng tượng khi ông gặp Sam và Peggy ông nói về tôi cùng một cách - ám chỉ tánh yếu đuối của tôi như ông ám chỉ tánh buồn tẻ của họ, nói những chuyện đùa nhẹ nhàng về tôi, không hoàn toàn che giấu sự ngạc nhiên của ông (hoặc ông giả vờ không che giấu) rằng người ta trả tiền cho những bài tôi viết. Ông phải làm như vậy để ông không bao giờ có vẻ khoe khoang, nhưng ông sẽ ngưng ngay lại khi nói đùa quá lố. Và tất nhiên là tôi tìm thấy sau đó, trong nhà, những thứ của tôi ông đã giữ - một vài tạp chí, báo cắt, những thứ tôi không bao giờ bận tâm đến.
Bây giờ những ý nghĩ của ông di chuyển từ gia đình của Peggy đến gia đình tôi.
"Con có tin tức gì của Judith không?", ông hỏi.
"Chưa có, Ba."
"A, còn khá sớm. Họ có định ngủ trong xe không?" "Dạ có."
"Ba đoán cũng đủ an toàn, nếu họ dừng lại ở đúng nơi." Tôi biết ông sẽ phải nói cái gì đó nữa và đó sẽ như là một lời nói đùa.
"Ba đoán họ đặt một tấm bảng ở chính giữa, như những người tiền phong?" Tôi mỉm cười nhưng không trả lời.
"Ba hiểu là con không có phản đối?"
"Dạ không," tôi nói.
"Tốt, ba cũng luôn tin như vậy. Không bao giờ xen vào chuyện của con cái. Ba cố gắng không nói gì hết. Ba không bao giờ nói gì hết khi con chia tay với Richard."
"Ba muốn nói cái gì? Chỉ trích?"
"Đó không phải là chuyện của ba."
"Không,"
"Nhưng điều đó không có nghĩa là ba hài lòng."
Tôi ngạc nhiên - không chỉ ở những gì ông nói nhưng ở cảm giác của ông rằng ông có quyền, ngay cả bây giờ, để nói. Tôi phải nhìn ra ngoài cửa sổ và xuống giao thông để tự kiểm soát.
"Ba chỉ muốn con biết," ông nói thêm.
Đã lâu lắm, ông nói với tôi một cách nhẹ nhàng, "Thật buồn cười. Richard khi lần đầu tiên ba gặp anh ta nhắc ba nhớ đến những gì ba của ba thường nói. Ông đã nói nếu người đó thông mình phân nửa như anh ta nghĩ, thì anh ta thông mình gấp đôi hơn sự thật."
Tôi quay lại để nhắc ông về điều này, nhưng thấy mình nhìn vào dòng trái tim của ông đang viết. Không phải như là có điều gì không ổn, một sự khác biệt trong tiếng bíp và điểm. Nhưng nó có ở đó.
Ông thấy nơi tôi đang nhìn. "Lợi thế không công bằng", ông nói.
"Có chứ," tôi nói. "Con cũng sẽ đòi được gắn vào máy nữa."
Chúng tôi cười, chúng tôi hôn nhau đàng hoàng; tôi rời khỏi phòng. Ít nhất ông đã không hỏi tôi về Nichola, tôi nghĩ.

Buổi chiều hôm sau tôi không đến bệnh viện, vì ba tôi cần làm một số thử nghiệm nữa, để chuẩn bị cho cuộc giải phẫu. Thay vào đó tôi sẽ gặp ông vào buổi tối. Tôi thấy mình lang thang qua các cửa tiệm, thử quần áo trên đường Bloor. Một mối bận tâm với thời trang và dáng người của tôi đã xâm nhập vào tôi như một cơn đau đầu dữ dội. Tôi nhìn những người phụ nữ trên đường phố, nhìn các quần áo trong cửa hàng, cố gắng khám phá một chuyển đổi nào có thể thực hiện được với những gì tôi sẽ phải mua. Tôi nhận ra tại sao có nỗi ám ảnh này nhưng rất khó khăn để loại nó đi. Có người đã nói với tôi rằng chờ đợi tin tức về sự sống-hay-chết, họ đã đứng trước một tủ lạnh mở ra ăn bất cứ cái gì họ thấy - khoai tây luộc lạnh, tương ớt, cả chén kem. Hoặc họ không thể ngừng chơi những trò giải ô chữ. Chú ý thu hẹp vào một cái gì đó – vài giải trí – nắm lấy, trở nên nghiêm túc một cách điên cuồng. Tôi lục tìm quần áo trên các mắc áo, mặc thử vào trong phòng thay đồ nhỏ nóng bức trước tấm gương tàn nhẫn. Tôi đổ mồ hôi, một hoặc hai lần tôi nghĩ tôi có thể ngất xỉu. Trở ra đường lại, tôi biết tôi cần phải rời khỏi con đường Bloor, và quyết định đi đến viện bảo tàng.
Tôi nhớ một thời điểm khác, ở Vancouver. Đó là khi Nichola vào mẫu giáo và Judith là một em bé. Nichola đã đi gặp bác sĩ vì bị cảm, hoặc có thể để kiểm tra sức khỏe thường xuyên, và thử nghiệm máu cho thấy một cái gì đó về bạch huyết cầu - hoặc là số lượng quá nhiều hoặc là nó to hơn bình thường. Bác sĩ đòi thử nghiệm thêm, và tôi đã mang Nichola đến bệnh viện để làm. Không ai đề cập đến bệnh bạch cầu nhưng tôi biết, tất nhiên, những gì họ đang tìm kiếm. Khi tôi cho Nichola về nhà tôi nhờ người giữ Judith ở lại buổi chiều và tôi đi mua sắm. Tôi mua chiếc váy táo bạo nhất mà tôi chưa từng có, một áo lụa màu đen với những sợi dây được sắp xếp cột lại ở phần trên phía trước. Tôi nhớ buổi chiều mùa xuân tươi sáng đó, đôi giày gót nhọn trong cửa tiệm, đồ lót in với những đốm con báo.
Tôi cũng nhớ lúc về nhà từ Bệnh Viện St Paul qua Cầu Lions Gate trên chiếc xe buýt đông người và bế Nichola trên đầu gối. Bé đột nhiên nhớ tên gọi cây cầu bằng tiếng trẻ thơ và thì thầm với tôi: "Cầu - qua cầu." Tôi không tránh né chạm vào con tôi - Nichola mảnh mai và duyên dáng ngay cả lúc đó, với một cái lưng đẹp và tóc mịn đen - nhưng nhận ra tôi chạm vào bé với một sự khác biệt, mặc dù tôi không nghĩ có thể hiểu được bao giờ là cái gì. Có một sự chăm sóc - không phải chính xác là một sự rút lui nhưng một chăm sóc – mà tôi không cảm thấy gì nhiều. Tôi thấy các hình thức của tình thương có thể được duy trì như thế nào với một người bị kết án nhưng với tình thương trong thực tế được đo lường và kỷ luật, bởi vì bạn cần phải tồn tại. Nó có thể thực hiện thật kín đáo để đối tượng đuợc chăm sóc như vậy sẽ không nghi ngờ, cũng như không để bé nghi ngờ bản án của cái chết. Nichola không biết, sẽ không bao giờ biết. Đồ chơi và những nụ hôn và những trò đùa sẽ ào đến bao phủ cho bé, bé sẽ không bao giờ biết, mặc dù tôi lo lắng bé sẽ cảm thấy ngọn gió thổi giữa các vết nứt của những ngày nghỉ lễ được chế tạo, những ngày bình thường được chế tạo. Nhưng tất cả đều tốt. Nichola không có bệnh bạch cầu. Cô lớn lên - vẫn còn sống, và có thể hạnh phúc. Biệt lập.
Tôi không thể nghĩ ra bất cứ cái gì trong bảo tàng mà tôi thực sự muốn xem, vì vậy tôi đi ngang qua và vào hành tinh hệ. Tôi chưa bao giờ đến đây. Chương trình sẽ bắt đầu trong mười phút. Tôi đi vào trong, mua vé, xếp hàng. Có cả một lớp toàn học sinh, có thể vài lớp, với các giáo viên và bà mẹ tình nguyện đi theo. Tôi nhìn xung quanh để xem nếu có người lớn nào khác đi một mình. Chỉ có một thôi - một người đàn ông với khuôn mặt đỏ và đôi mắt sưng húp, trông như thể ông nên vào đây để khỏi đi đến một quán rượu.

Bên trong, chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế thoải mái tuyệt vời được nghiêng về phía sau để nằm xuống như trong một loại võng, chú ý hướng đến vòm trần nhà, nó nhanh chóng chuyển màu xanh đậm, với một vành ánh sáng mờ nhạt xung quanh. Âm nhạc tuyệt dịu, chỉ huy trổi lên. Người lớn chung quanh nhắc nhở các em giữ im lặng, cố gắng không làm ồn với những túi khoai tây sột soạt của họ. Sau đó, tiếng nói của một người đàn ông, một giọng nói chuyên nghiệp hùng hồn, bắt đầu nói chậm chạp, xuất phát từ những bức tường. Giọng nói nhắc nhở tôi một chút về cách xướng ngôn viên đài phát thanh sử dụng để giới thiệu một tác phẩm âm nhạc cổ điển hoặc mô tả sự tiến hành của Hoàng Gia vào Tu Viện Westminster nhân dịp một buổi lễ hoàng gia. Có một hiệu ứng thính phòng vang lên thật nhẹ.
Trần nhà tối lấp lánh đầy sao. Chúng xuất hiện ra không phải tất cả cùng một lúc nhưng từng cái một, đúng như cách các ngôi sao thực sự hiện ra ban đêm, mặc dù nhanh hơn. Dải Ngân Hà xuất hiện, di chuyển gần hơn; các vì sao bơi vào ánh sáng và tiếp tục đi, biến mất ở các cạnh của màn hình bầu trời hoặc phía sau đầu của tôi. Trong khi dòng ánh sáng tiếp tục, tiếng nói trình bày các sự kiện tuyệt vời. Một vài năm ánh sáng nữa, nó tuyên bố, mặt trời xuất hiện như một ngôi sao sáng, và các hành tinh không nhìn thấy được. Một vài chục năm ánh sáng nữa, mặt trời không nhìn thấy được, hoặc là, bằng mắt thường. Và khoảng cách đó - vài chục năm ánh sáng - chỉ là khoảng một phần ngàn của khoảng cách từ mặt trời đến trung tâm của thiên hà của chúng ta, một thiên hà, mà bản thân nó chứa khoảng hai trăm tỷ mặt trời. Và là, lần lượt, một trong hàng triệu, có lẽ hàng tỷ, thiên hà. Vô số lặp đi lặp lại, vô số các biến thể. Tất cả những hình ảnh này quay cuồng trong đầu tôi, cũng như những cuộn sét đánh.
Bây giờ chủ nghĩa hiện thực đã bị bỏ rơi, thay vào đó sự giả tạo quen thuộc. Một mô hình của hệ thống năng lượng mặt trời quay đi xa một cách thanh lịch. Một con bọ sáng chói cất cánh khỏi mặt đất, hướng về sao Mộc. Tôi đặt tâm trí tránh né và thu hẹp một cách nghiêm khắc để ghi lại những sự kiện. Khối lượng của sao Mộc to gấp hai lần rưỡi tất cả các hành tinh khác cộng lại. Vết Đỏ Lớn. Mười ba mặt trăng. Qua sao Mộc, một cái nhìn vào quỹ đạo khác thường của Sao Diêm Vương, các vòng băng của sao Thổ. Trở lại Trái Đất và di chuyển vào sao Kim nóng và rực rỡ. Áp suất khí quyển chín mươi lần nhiều hơn của chúng ta. Sao Thủy không trăng quay ba lần trong khi bay quanh mặt trời hai lần; một sự sắp xếp kỳ lạ, không hoàn toàn đáp ứng như những gì họ thường cho chúng ta biết - nó chỉ quay một lần khi nó đi vòng quanh mặt trời. Không có bóng tối vĩnh viễn gì cả. Tại sao họ lại đưa ra thông tin tự tin như vậy, chỉ để thông báo sau đó là nó hoàn toàn sai lầm? Cuối cùng, hình ảnh đã từng quen thuộc trong các tạp chí: đất đỏ của sao Hỏa, bầu trời sáng rực màu hồng.

Khi chương trình kết thúc tôi ngồi ở ghế, trong khi trẻ em trèo qua tôi, không có một ý kiến về bất cứ điều gì họ vừa nhìn hoặc nghe thấy. Họ vây quanh phiền nhiễu những người trông giữ đòi thức ăn và vui chơi giải trí nữa. Một cố gắng đã được thực hiện để kéo được sự chú ý của các em, để chúng ngưng uống nước ngọt trong hộp và ăn khoai tây chiên và thay vào đó bằng những dự kiến biết và chưa biết khác nhau và những tính bao la khủng khiếp, và dường như đã thất bại. Cũng là một điều tốt, tôi nghĩ. Đa số trẻ em có một khả năng miễn nhiễm tự nhiên, và nó không nên bị xáo trộn. Đối với người lớn nào muốn phàn nàn, những người thúc đẩy chương trình này, không phải là họ tự miễn nhiễm đến mức mà họ có thể đặt vào các hiệu ứng thính phòng, âm nhạc, trang nghiêm như ở nhà thờ, mô phỏng kinh sợ mà họ cho là họ phải cảm thấy? Kinh sợ - Cái gì sẽ như vậy? Một cơn rùng mình khi bạn nhìn ra ngoài cửa sổ? Một khi bạn biết nó là cái gì, bạn sẽ không muốn đến gần nữa.
Hai người đàn ông bước vào với chổi để quét các mảnh vụn khán giả đã để lại. Họ nói với tôi chương trình tiếp theo sẽ bắt đầu trong bốn mươi phút. Trong khi chờ đợi, tôi phải đi ra.
"Con đi xem buổi diễn ở hành tinh hệ," Tôi nói với ba tôi. "Nó rất là thú vị - về hệ thống năng lượng mặt trời." Tôi nghĩ thật là ngớ ngẩn tôi đã sử dụng từ ngữ: "thú vị." "Nó hơi giống như một ngôi đền giả tạo," tôi nói thêm.
Ông đã bàn luận ngay. "Ba nhớ khi họ tìm thấy sao Diêm Vương. Đúng tại nơi họ nghĩ rằng nó phải ở đó. Thủy, Kim, Trái Đất, Hỏa", ông đọc tiếp. "Mộc, Thổ, Hải-không, Thiên Vương, Hải Vương, Diêm Vương. Có đúng không?"
"Dạ đúng," tôi nói. Tôi cảm thấy vui vì ông đã không nghe những gì tôi nói về ngôi đền giả. Tôi chỉ muốn nói một cách trung thực, nhưng nó có vẻ bóng bẩy và cao cấp.
"Ba nói cho con biết các mặt trăng của sao Mộc."
"A, ba không biết những cái mới. Có cả một nhóm mới, phải không?"
"Hai cái. Nhưng chúng không phải là mới."
"Mới cho chúng ta," ba tôi nói. "Con có vẻ khá tráo trở bây giờ mà ba sắp sửa nằm dưới con dao."
"Dưới con dao. Cả một biểu hiện."
Ông không nằm trên giường tối nay, đêm cuối cùng của ông. Ông đã được tháo ra khỏi bộ máy, và đang ngồi trong một chiếc ghế cạnh cửa sổ. Chân ông để trần, ông mặc một cái áo choàng bệnh viện, nhưng ông không có vẻ tự giác hoặc không ổn. Ông có vẻ chu đáo nhưng hài hước, một người niềm nở.
"Ba chưa cho biết tên những cái cũ," tôi nói.
"Cho ba thời gian. Galileo đặt tên cho chúng. Io. "
"Đó là một sự khởi đầu."
"Các mặt trăng của sao Mộc là các thiên thể đầu tiên được phát hiện với kính viễn vọng." Ông nói điều này một cách nghiêm trọng, tựa như ông có thể nhìn thấy câu đó trong một cuốn sách cũ. "Cũng không phải là Galileo đặt tên chúng; đó là nguoi Đức. Io, Europa, Ganymede, Callisto. Tất cả đó con."
"Dạ." "Io và Europa, có phải họ là bạn gái của sao Mộc không ba?" "Ganymede là một cậu bé. Một bé chăn cừu? Ba không biết Callisto là ai."
"Con nghĩ cô ấy cũng là một bạn gái," tôi nói.
"Vợ của Jupiter - vợ của Jove biến cô thành một con gấu và nhốt cô lên trên bầu trời. Gấu Lớn và Gấu Nhỏ. Gấu Nhỏ là em bé của cô."
Loa phát thanh nói đã hết giờ thăm viếng.
"Con sẽ gặp lại ba khi ba ra khỏi thuốc mê," tôi nói.
"Được."
Khi tôi đi tới cửa, ông gọi tôi, "Ganymede không phải là một người chăn cừu. Anh ta là người hầu rượu của Jove."

Khi tôi rời khỏi hành tinh hệ chiều hôm đó, tôi đã đi qua viện bảo tàng để đến khu vườn Tàu. Tôi nhìn thấy mấy con lạc đà bằng đá một lần nữa, các chiến binh, ngôi mộ. Tôi ngồi trên một băng ghế nhìn về phía đường Bloor. Thông qua các bụi cây trường xanh và hàng rào sắt cao tôi thấy nhiều người đi qua trong ánh sáng mặt trời của cuối buổi chiều. Dù sao chương trình vũ trụ đã mang lại cho tôi những gì tôi muốn - giúp tôi bình tĩnh lại, trút bỏ ra. Tôi thấy một cô gái nhắc tôi nhớ đến Nichola. Cô mặc một chiếc áo khoác và mang một cái túi thực phẩm. Cô ấy thắp hơn Nichola - không thực sự giống cô nhiều gì cả - nhưng tôi nghĩ tôi có thể nhìn thấy Nichola. Cô sẽ đi bộ dọc theo một con đường nào đó có lẽ cách đây không xa - nặng gánh, bận tâm, một mình. Cô là một trong những người trưởng thành trong thế giới hiện nay, một trong những người mua sắm đi về nhà.
Nếu tôi nhìn thấy cô ấy, tôi có thể chỉ ngồi và nhìn, tôi quyết định như vậy. Tôi cảm thấy như một trong những người đã bay lên trần nhà, thưởng thức một cái chết ngắn gọn. Một sự nhẹ nhõm, trong khi nó kéo dài. Ba tôi đã chọn và Nichola đã chọn. Một ngày nào đó, có thể là gần đây, tôi sẽ có tin của cô ấy, nhưng nó cũng sẽ vậy thôi.
Tôi định đứng dậy và đi đến ngôi mộ, nhìn vào các chạm khắc, những hình ảnh bằng đá, khắp tất cả con đường xung quanh đó. Tôi luôn có ý định đến xem và tôi không bao giờ làm. Và lần này cũng vậy. Trời đã bắt đầu lạnh ở bên ngoài, vì vậy tôi vào trong để uống cà phê và ăn một cái gì đó trước khi tôi quay trở lại bệnh viện.
.

Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeTue Sep 10, 2019 11:57 am

.
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Da7b485f49c08840877eeebdc84a1f0e

BỨC THƯ TÌNH KHÔNG GỬI
Doris Lessing (1919-2013)
(Nobel 2007)

Phải, em nhìn thấy ánh mắt của vợ anh chĩa vào em khi nghe em nói “tôi không cần chồng vì tôi có quá nhiều rồi”.   
Cô ấy không đưa mắt nhìn anh chắc vì sau đó lúc về nhà, cô ấy sẽ bảo “chị ấy nói hay quá” còn anh thì nói “đừng quên cô ấy là nghệ sĩ”. Anh nói đúng câu mà chắc em cũng sẽ nói trong trường hợp đó khi cô ấy lắng nghe. Em mong thế vì em biết kiểu người như anh.   

Em sẽ không tha thứ cho anh nếu cô ấy không nghe anh nói dù điều đó chẳng có nghĩa lý gì. Giống như em sống cô đơn, không kén cá chọn canh thì anh phải có vợ hiền giống tính anh. Những người chồng em, những người đàn ông từng đốt cháy lòng em (vợ anh sẽ cười khi thấy em nói vậy) đều đáng giá như anh. Em tự hạ mình khi thấy vẻ mặt xúc phạm của vợ anh. Liệu cô ấy có biết em đang đóng kịch không nhỉ? Không, em không thể tha thứ cho anh dù chỉ vì vợ anh.   
Nếu em bảo “Tôi không cần chồng, tôi có quá nhiều người yêu” thì chắc mọi người ngồi ở bàn ăn sẽ phá lên cười theo kiểu người ta lại phát hiện thêm một điều tầm thường nữa ở em, một ngôi sao đang tàn, nhan sắc cằn cỗi... “Tôi có quá nhiều người tình, họ vừa can đảm vừa tởm lợm”. Câu nói nhẹ nhàng cho bất cứ “nữ diễn viên còn đẹp nhưng đã tàn” nào đó nhưng lại không hợp với em vì em đâu có vô danh mà là Victoria Carrington, người hiểu rõ quá khứ và tương lai của mình.

Em biết cảm giác tha thứ là gì (không phải cho em vì chẳng có gì quan trọng cả). Anh có hình dung nếu em bảo “Tôi là nghệ sĩ lưỡng tính, trong tôi có nhân vật nam đóng vai đối nghịch với nhân vật nữ, hồn tôi biến thành nam từ cội nguồn sáng tạo”.
Ồ, em đâu ngốc đến nỗi không biết dùng các loại phương ngữ trong thời đại chúng ta. Cứ hình dung nếu em thốt ra những lời như vậy đêm qua. Mọi người, trừ anh, sẽ khó chịu và tru tréo lên rằng là diễn viên mà còn tỏ vẻ thông minh. Có lẽ thật lòng họ không tin rằng một diễn viên thì phải ngu ngốc nhưng họ cố ý nói ngược lại cho có vẻ khác biệt. Nhưng họ đã lặng thinh khi em nói không cần chồng vì đã có nhiều rồi, thái độ đó còn hơn cả sự xúc động thái quá, giống một lời than trách mà họ buộc phải thừa nhận.

Anh có bao giờ nghĩ từ “xúc động” chỉ dành riêng cho diễn viên? Có một buổi chiều em đến xem Irma Painter vào vai một vở kịch mới. Khi vở diễn kết thúc, em đến chúc mừng (để chị ấy biết em có đến xem kịch mà không cảm thấy bị xúc phạm. Vả lại, em ngại phải quay lại lần nữa). Ngồi trong phòng thay đồ, em ngắm chị ấy trong lúc chị ấy đang lau son phấn trên mặt. Bọn em sàn sàn tuổi nhau, cùng vào nghề một năm, em thấy khuôn mặt mình trong khuôn mặt chị ấy làm em hiểu ra rằng mọi diễn viên thực thụ đều có khuôn mặt đúc khuôn nhau. Không phải lớp mặt nạ mà là khuôn mặt chính đã tàn phai do lúc nào cũng phải chuẩn bị đeo một khuôn mặt khác, giống những thứ được treo trên tường chờ được dỡ xuống đem ra dùng.
Khuôn mặt thật đó sau khi được lau chùi kỹ lưỡng có cái nhìn trống rỗng, giống một chiếc bàn hay mặt sàn nhà gỗ, tầm thường, kém cỏi che giấu nhân cách và cá tính của bọn em qua thời gian.   

Đột nhiên, em ngắm nhìn khuôn mặt đó (chúng em được coi là đối thủ vì đều là những diễn viên tầm cỡ) với lòng biết ơn vì em biết cái nhìn trống rỗng đó đang dò xét bọn em dưới một bức màn bao phủ bằng son phấn, luôn bị lợi dụng cho những linh hồn khác, dù chúng em luôn vào vai hàng nghìn phụ nữ xinh đẹp, đoan trang, tử tế.   
Tại bữa tiệc đó, ai cũng ăn mặc chải chuốt còn em lại cố hóa trang sao cho có khuôn mặt lãnh cảm, không phô trương chỉ để dành cho riêng em. Thay bằng khuôn mặt sắc nét, dịu dàng và nồng cháy khiến đàn ông khao khát tuy họ không để ý xem có phải mặt em không là khuôn mặt trống rỗng, tàn tạ do làm việc quá sức. Tối qua khi ngồi đối diện vợ chồng anh, cô ấy thật dễ thương và tốt bụng, khuôn mặt xinh đẹp không trang điểm luôn thể hiện rằng cô ấy chỉ nghĩ đến anh thôi, em hiểu ngay trông em ra sao. Khuôn mặt trắng bệch như chảy tan ra trước vẻ đẹp đó, nụ cười méo xệch cố làm ra vẻ ngọt ngào nhức nhối, cố che giấu những giọt lệ chỉ trực trào ra cho đến tận bây giờ...
Nhưng em biết, ai cũng vậy, dù người ta có biết chuyện hay không đều cho rằng khuôn mặt chân thực, nghiêm nghị, mệt mỏi kia đang sẵn sàng đóng kịch ngay cả trước sự đổ vỡ đó, khác với vai diễn của một diễn viên nổi tiếng đang bị xúc động khiến em đã thốt ra “Tôi không cần lấy chồng vì tôi có quá nhiều rồi”. Nhưng anh cũng hiểu là nếu cả buổi tối em không nói lời nào thì người ta cũng sẽ bảo “cô ấy xúc động vì cô ấy là diễn viên mà”.   
Điều em nói là thật đấy, em không có tình nhân, em đã có nhiều chồng kể từ khi...
Đó là lý do em viết bức thư này cho anh với lòng biết ơn vì anh đã bước vào đời em. Mà có lẽ cũng vì đêm nay em không chịu nổi cô đơn cho vai diễn cuộc đời mình.   

Thời thiếu nữ, bất cứ người đàn ông nào em từng gặp hay chỉ nghe nói đến hoặc nhìn thấy hình trên báo, đều là người em yêu. Em coi anh ta là người yêu vì em có quyền đó mặc dù người đó chưa từng nghe nói đến tên em hoặc thấy em xấu xí. Hồi con gái em không hấp dẫn, ánh mắt ngơ ngác, da trắng nhợt, tóc đỏ, non nớt. Em chỉ đẹp khi hóa trang lên sàn diễn thôi...
Người đó có thể thấy em chán ngắt nhưng em yêu anh ta. Em có nhiều người tình trong cõi mơ hơn thực tế. Chẳng có chàng trai nào trong đời đẹp như người trong mộng, dù người đó không có đôi môi, cánh tay nhưng làm em lại ngất ngây, giống như Chúa Trời vậy. Giấc mơ đó hiện hữu cho đến khi em cưới người chồng đầu tiên, rồi người thứ hai mặc dù sau nhiều năm em vẫn không hiểu gì về tình yêu. Năm em 32 tuổi, em bị ốm thập tử nhất sinh. Không ai hiểu nguyên nhân mà chỉ mình em hiểu. Em không được nhận vai em mong ước đến điên dại. Em ốm vì tuyệt vọng nhưng giờ thì em hiểu tại sao em lại không được nhận vai đó. Em đã quá già.   

Em chỉ có thể đóng vai các cô gái trẻ duyên dáng ngây thơ, xin Chúa tha tội, em tưởng mình là họ thêm vài năm nữa trong khi vở diễn lại kéo dài vô tận, nên em chỉ sống bằng ảo tưởng mà thôi. Tương lai sẽ ra sao khi em đã gần 40 tuổi, quá già để vào vai những cô nàng trẻ trung. Giống như nhiều diễn viên phải đốt cháy hình ảnh cô gái xinh tươi đó rồi mang vết thương âm ỉ không thành sẹo hết đời. Em sẽ chỉ còn được nhận những vai vớ vẩn trước khi thành diễn viên từng có một thời...   
Khi đó em đã nằm liệt giường mà chẳng muốn thuốc thang chữa trị gì cả, kinh hoàng nghĩ đến gánh nặng năm tháng, không biết đến sống chết, tương lai ra sao cho đến khi đem lòng yêu ông bác sĩ chữa trị cho mình. Thật kỳ diệu khi lần đầu em biết nói lời yêu cứ như em chưa từng qua hai lần đò, mơ đến hàng đám đàn ông. Em không thể bắt nạt anh ấy, lần đầu tiên mới có một người đàn ông đúng nghĩa, em không thể bắt anh ấy làm theo ý mình, không biết đôi môi và cánh tay anh ấy ra sao. Khi là người tình của em, anh ấy là người quyết định còn em giống như một cô gái yếu đuối, khao khát chờ đốt cháy.   
Anh ấy chắc có yêu em nhưng không như em yêu anh ấy, rồi anh ấy bỏ em một cách hợp lý. Em tưởng như chết đi được nhưng lại thầm biết ơn những gì đã có, lần đầu tiên em được vào vai một người đàn bà khác vai diễn cô gái dễ thương muôn thuở hay nữ anh hùng. Em đã vượt qua chính mình, lại được sinh ra một lần nữa, chỉ mình em hiểu là do mối tình với người đàn ông đó, người chồng đầu tiên của em (em tự gọi thế dù ai cũng coi anh ấy là vị bác sĩ đã có một cuộc tình thoảng qua với em).   
Anh ấy là người chồng đầu của em, đã làm thay đổi đời em. Sau anh ấy, trong cơn bất hạnh cô đơn điên cuồng, em tưởng như có thời em đã kết hôn với anh ấy và em có thể ngủ với nhiều người đàn ông (giờ thì đúng vậy nhưng trước đây chỉ trong mơ) nhưng không nghĩ đang chiếm hữu một người đàn ông, người đã tạo ra em trong anh ấy và hòa quyện vào em, em không thể lợi dụng, thao túng, sở hữu hay bắt anh ấy làm theo ý mình. 
 
Cứ như thế em sống như đã chết, trống rỗng, khô héo dù sự nghiệp của em đạt tới đỉnh cao. Em không có người yêu cả thực lẫn mơ, em sống như một nữ tu sĩ, như gái còn trinh.   
Có điều lạ là năm 35 tuổi lần đầu tiên em thấy mình như gái trinh, tiết hạnh, không cho ai đụng vào. Em cô đơn hoàn toàn. Những người đàn ông tán tỉnh, ham muốn em như chạm phải tấm gương sắc lạnh. Chính vì vậy em thấy mình còn trinh nguyên ở tuổi 35. Những cô gái bình thường cảm thấy gì nhỉ? Phải chăng họ đang đeo quanh mình chiếc vòng trinh tiết chờ một người hùng đến đập vỡ? Em lại khác, em là gái tân không giữ mình để chỉ đáp ứng đòi hỏi của một người đàn ông.  
 
Không biết trong bao lâu em bắt đầu cảm thấy mình sắp thành bà già. Em sống không tình yêu, không thành đạt, khô héo vì không được vuốt ve. Công việc của em đều đều, cứng nhắc.   
Em tự lui về, không chọn được ai cũng chẳng có ai nhòm ngó. Ai hỏi thì em đáp “vẫn vậy, chưa có gì hay cả”. Trên hết, em hiểu mối liên kết giữa đời với em, hiểu lô gích cuộc đời không đổi thay. Em đã từng được yêu một lần trong đời nhưng đã qua, đời em đã chìm trong khô héo, em tỉnh táo đến lạnh lùng. Em thành một mệnh phụ tên tuổi, tóc đỏ, thông minh (tất nhiên dễ xúc động), đôi mắt xanh ánh lên vẻ hóm hỉnh. Cuộc đời đã qua rồi, cần chấp nhận nó và làm việc như cần phải vậy.

Em là dòng nước trong đó có nhiều sinh vật bơi lội, anh giống như một đứa trẻ có làn da nâu sáng bóng, dòng nước như tay em mơn trớn thân anh nhưng không chạm vào anh. Cũng bàn tay đó tối mai trên sân khấu sẽ chìa ra cho hàng trăm con người thấy tình yêu chắt lọc từ nỗi đau bị từ khước trong sự lặng câm.
Em là thế giới trong đó anh hít thở, cười vui với đời. Mỗi khoảnh khắc, em cùng anh tạo ra hàng nghìn sinh vật nhỏ li ti rồi đem phân phát, tay ta tung chúng vào không gian thành những cánh chim tự do.   
Em giống như không gian rộng lớn tỏa tiếng sấm rền trong tâm hồn con người, ngồi xổm lên sự ngái ngủ, sự nặng nề vô định, chậm chạp, quanh co giống như bóng tối trong căn phòng mục nát, em phải lấy hết sức để làm tan cơn ngái ngủ, như được sinh ra để lấy ánh sáng trí tuệ bao quanh không cho vết bẩn hắc ám của nó bám vào cây cối, những vì sao và anh.
  
Buổi sáng in dấu lên bức tường gạch, bóng cây đã nhạt nhòa còn em đang hình dung xem tối nay mình bước ra sân khấu ra sao, với vẻ trinh khiết lạnh lùng cùng những nguyên tắc. Em sẽ ngước mặt lên (khuôn mặt thời con gái) và đưa tay ra cho khán giả bằng vẻ ấm áp vừa được anh ban tặng.  

Vậy thì, anh yêu của em, hãy trở về với vợ, đặt đầu cô ấy vào vai mình để cả hai chìm vào giấc ngủ ngọt ngào trong tình anh. Em thả cho anh được tận hưởng niềm vui của riêng anh mà không có em. Em rời bỏ anh vì tình anh. Em bỏ anh cho anh sống đời anh.

Dịch giả: Bích Diệp
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeTue Sep 24, 2019 9:45 am

.
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel 175px-Selma_Lagerlof_%281908%29%2C_painted_by_Carl_Larsson
Selma Lagerlöf (1858-1940)
Nhà văn nữ Thụy Điển, đoạt giải Nobel Văn học năm 1909.
Bà là nhà văn nữ đầu tiên trên thế giới đoạt giải thưởng này.

BỨC CHÂN DUNG NGƯỜI MẸ

- Selma Lagerlöf  (Nobel 1909)


Căn nhà của ông lão Matxơn là một trong số một trăm căn nhà của xóm chài, tất cả đều nhất loạt giống nhau, từ hình dáng, kích thước, số cửa sổ và chiều cao ống khói.
Nhà nào cũng bày biện những đồ đạc như nhau; mép cửa sổ nhà nào cũng trồng một thứ hoa, tủ nhà nào những vỏ ốc và những cành san hô giống nhau, tường nhà nào cũng treo những phong tục cổ.
Phía trên giường nằm của lão Matxơn, trên vách có treo một bức chân dung bà mẹ của lão. Một đêm kia lão mơ thấy bức chân dung đi ra ngoài khung, đến trước mặt lão và tuyên bố với một giọng quyền uy: "Matxơn, con phải lấy vợ".

Lão Matxơn ra sức trình bày với bức chân dung rằng lão không thể nào làm được điều ấy: lão đã sáu mươi hai tuổi. Nhưng bức chân dung cứ nhắc lại một cách kiên quyết hơn: "Matxơn, con phải lấy vợ".
Từ trước đến nay lão Matxơn vẫn rất tôn kính bức chân dung bà mẹ. Bao nhiêu năm nay, trong những trường hợp khó khăn, đó là người cố vấn duy nhất của lão, và lão đã luôn luôn gặp điều tốt lành khi theo đúng những lời khuyên của bức chân dung. Nhưng lần này cái ý kiến mới lạ của nó làm cho lão ngạc nhiên vì trái hẳn với những quan niệm xưa nay của nó. Mặc dầu đang thiu thiu ngủ, Matxơn vẫn nhớ lại rõ ràng cái việc đã xẩy ra lần đầu tiên khi lão muốn lấy vợ. Đúng vào lúc lão đang mặc bộ quần áo cưới thì cái đinh đỡ khung chân dung bị long ra, và bức chân dung rơi ngay xuống. Đó là một lời cảnh cáo mà lúc ấy lão không hề quan tâm. Nhưng chẳng bao lâu sau lão phải hối hận vì điều này.
Cuộc hôn nhân ngắn ngủi ấy của lão rất bất hạnh.
Lần thứ hai khi lão mặc bộ quần áo cưới, bức chân dung lại đổ xuống một lần nữa. Lần này lão không dám trái ý và bỏ mặc tất cả họ hàng bạn bè cùng cô dâu, lão ba chân bốn cẳng chạy trốn, xuống tầu xin làm thủy thủ, đi hết một vòng quanh thế giới rồi mới dám đánh bạo trở về nhà. Ấy thế mà bây giờ lại chính bức chân dung từ trên tường đi xuống và ra lệnh cho lão phải cưới vợ! Mặc dù lòng kính trọng sâu sắc, lão vẫn cho phép mình nghĩ rằng bức chân dung chế giễu lão. Nhưng bức chân dung một khuôn mặt hết sức dày dạn mà những cơn gió dữ dội và những ngọn sóng mặn chát đã khắc họa nên đường nét, bức chân dung ấy vẫn giữ vẻ nghiêm nghị và, với cái giọng đã quen nói to một cách khác thường sau bao nhiêu năm hò hét mời chào khách mua cá ở chợ, với giọng nói ấy, bức chân dung nhắc lại mệnh lệnh: "Con phải lấy vợ, Matxơn".

Lão Matxơn van xin bức chân dung hãy nghĩ đến cái xã hội mà lão đang sống. Một trăm căn nhà trong xóm đều có những mái nhọn và những bức vách trát torsi trắng như nhau. Tất cả những thuyền trong xóm đều cùng một kiểu và xếp đặt dụng cụ giống nhau. Không người nào trong xóm làm một việc khác đời. Nếu bà mẹ còn sống thì chắc sẽ là người đầu tiên phản đối một cuộc hôn nhân vô lý như vậy. Chẳng phải ngày xưa bà đã rất mực yêu cầu mọi người tôn trọng phong tục và tập quán đó sao? Vậy thử hỏi từ bao giờ đã sinh ra cái phong tục và tập quán cho một người gần thất tuần đi lấy vợ?
Thế là bức chân dung giơ bàn tay đeo đầy nhẫn lên nghiêm khắc ra lệnh cho lão phải tuân lời. Từ trước đến nay, mỗi khi bà mẹ xuất hiện như vậy với chiếc áo dài có riềm bằng lụa trơn đen thì cả người bà như toát ra một uy lực thần bí. Nhìn thấy cái trâm cài đầu và sợi dây chuyền nặng trĩu bằng vàng của bà, bao giờ Matxơn cũng bị xúc động mạnh mẽ. Nếu bà chỉ mặc bộ xống áo hằng ngày đi chợ, đầu chít cái khăn kẻ ô vuông, ngực đeo tạp dề bằng vải dầu bám đầy vết máu và vảy cá thì bà đã chẳng gây ra cho lão một niềm kính sợ sâu sắc như vậy.

***

Sáng hôm sau, lão Matxơn thức dậy lòng đầy lo lắng. Lão chẳng hề có ý cưỡng lại bức chân dung của bà mẹ là người chắc chắn biết rõ hơn lão rằng lợi ích chân chính của lão là như thế nào. Nhưng lão run lên khi nghĩ đến những ngày khủng khiếp sắp tới.
Lão liền xin kết hôn với cô con gái xấu nhất của người dân chài nghèo nhất. Đó là một cô gái so vai rụt cổ và hàm răng dưới nhô ra. Bố mẹ cô gái nhận lời và họ ấn định ngày sẽ cùng nhau ra tỉnh để ký hôn ước.

Con đường từ xóm ra thị xã đi qua hướng đồng cỏ nước mặn gió thổi vật vờ và những bãi đầm lầy. Đường dài đến một dặm; và có một truyền thuyết cho rằng dân trong xóm giàu đến nỗi có thể rải những đồng bạc trắng đẹp suốt cả chiều dài con đường. Nếu đúng như vật hì con đường mòn này sẽ mang một vẻ duyên dáng kỳ lạ biết! Nó sẽ sáng loáng như cái bụng con cá đầy vẩy trắng, uốn khúc ngoằn ngoèo giữa những bụi cói và những vũng nước thỉnh thoảng vang lên tiếng kêu oàm oạp của bầy nhái bén. Cây bạch cúc trang trang điểm cho vùng đất bị con người bỏ quên này sẽ soi bóng xuống những đồng tiền nhẵn nhụi được gìn giữ giữa những mũi gai nhọn tua tủa của cây gai. Tiếng gió sẽ vang vọng biết bao khi thổi vào đám lau sậy và những sợi điện thoại! Có lẽ lão Matxơn sẽ cảm thấy chút nào êm ái khi đặt những đồng bạc leng keng; có điều chắc chắn là lão phải đi trên con đường này nhiều lần hơn là lão mong muốn.
Giấy tờ của lão không hợp lệ. Cái việc liều lĩnh ngày trước, khi lão bỏ rơi cô vợ mới cưới, làm cho việc ký hôn ước bị chậm trễ. Phải chờ ông mục sư viết thư xin hội nghị giáo chủ cho phép lão được ký kết một cuộc hôn nhân mới. Công việc bị kéo dài.
Thế là mỗi lần văn phòng của ông mục sư mở cửa là lão Matxơn lại ra tỉnh để gặp ông. Lão im lặng và bình tĩnh ngồi chờ cho đến khi tất cả những người khác về hết. Lúc ấy lão mới đứng dậy và hỏi ông mục sư đã nhận được bức thư nào chưa?
- Chưa, chưa nhận được.
Ông mục sư nhìn lão già ngồi trên cái ghế dài, mặc bộ quần áo dệt kim bằng sợi thô, chân mang đôi ủng đi biển cao ống, nét mặt thô ráp và thông minh, đầu đội cái mũ vải trùm lên mái tóc dài màu xám, lão già ấy đang chờ được phép cưới vợ. Và ông mục sư kinh ngạc thầm khen tình yêu ở một người già lại có quyền lực mạnh mẽ đến thế, chẳng hề ngã lòng trước bao nhiêu trở lực.
- Ông Matxơn nóng lòng ký kết cuộc hôn nhân này lắm nhỉ? - Một hôm ông mục sư hỏi.
- Hừm, hừm, xong việc càng chóng càng hay.
- Thế ông không cho rằng từ bỏ việc này đi thì lại càng hay hơn sao? Ông chẳng còn trẻ trung gì nữa.
- Ông mục sư không nên quá ngạc nhiên như vậy, - lão già trả lời chống chế.
Và lão nói thêm: "Tôi biết rằng tôi già rồi, nhưng tôi phải lấy vợ, nhất thiết phải lấy vợ."
Thế rồi tuần này qua tuần khác, lão trở đi trở lại suốt sáu tháng ròng. Vì mãi sáu tháng sau, lời chuẩn y mới được gửi đến.

Suốt thời gian này, lão Matxơn mất ăn mất ngủ. Bất cứ ở đâu, từ trên bãi cỏ xanh phơi những tấm lưới nâu, dọc theo những đập chắn sóng bằng xi măng của bến cảng, cho đến tận ngoài khơi, nơi họ đuổi theo những bầy cá mới, đâu đâu lão cũng nghe thấy tiếng xì xào ngạc nhiên và tiếng cười nhạo báng nổi lên rào rào như một cơn bão.
- Chả, chả, lão lại sắp lấy vợ. Cái lão Matxơn lần trước đã co cẳng chuồn ngay buổi sáng ngày lễ cưới của lão ấy mà!
Cả cô dâu, cả lão cũng chẳng được buông tha. Nhưng điều tệ hại nhất là không ai thấy điều này là lố bịch hơn chính lão. Bức chân dung bà mẹ làm cho lão suýt phát điên lên được.

***

Buổi chiều ngày chủ nhật hôm ký hôn ước, để tránh sự tò mò và những lời châm chọc phiền toái, lão Matxơn một mình lánh ra con đường kè và đi đến tận tháp đèn biển. Ở chân tháp, lão thấy vị hôn thê của mình đang khóc. Lão hỏi chuyện nàng có phải trước đây nàng đã muốn lấy người khác? Mới đầu nàng không trả lời gì cả. Nàng lấy móng tay cậy những miếng vôi ở tường và thả rơi xuống biển.
- Hay cô đã yêu một người khác chăng?
- Không, chẳng có ai cả.

Ở tháp đèn, cảnh thật đẹp. Nước biển trong vắt vỗ ì oạp xung quanh, bờ biển bằng phẳng, những căn nhà đều tăm tắp trong xóm, thành phố ở phía xa xa. Tất cả đều tắm trong ánh sáng của biển Sund và trong vẻ đổi mới của nó. Thỉnh thoảng từ đám sương mù xôm xốp thường nổi bập bềnh ở chân trời phía tây ló lên một chiếc thuyền chài. Chiếc thuyền chạy theo một đường vát táo bạo và tiến gần bến cảng. Nó vui vẻ lao vào cảng qua một cửa vịnh hẹp, nước reo tung tóe bắn lên mũi thuyền. Những chiếc buồm bỗng hạ xuống, đám bạn chài vẫy vẫy chiếc mũ của họ và giữa khoan thuyền lấp lánh mẻ cá vừa đánh được.

Trong khi lão Matxơn đang đứng trên đường kè thì một chiếc thuyền chạy vào bến. Một chàng trai đang ngồi cầm lái bỏ mũ ra và chào cô gái trẻ. Lão già thấy lóe lên một tia sáng trong đôi mắt vị hôn thê của mình. "Chà, - lão tự nhủ, - cô em đã phải lòng anh chàng đẹp trai nhất xóm. Anh chàng ấy chẳng bao giờ cô em lấy được đâu. Cô em lấy ta còn hơn là chờ đợi hắn."
Thật không có cách nào thoát khỏi ý muốn của bức chân dung bà mẹ! Nếu cô gái yêu một người mà may ra cô có cơ lấy được thì lão Matxơn sẽ cho phép mình từ bỏ cuộc hôn nhân. Nhưng trong trường hợp này thì lão chẳng có lý do gì chính đáng để trả lại tự do cho cô gái.

***

Mười lăm ngày sau thì tổ chức đám cưới, và sau đó chẳng bao lâu, cơn bão tháng mười một ập đến.
Một trong những chiếc thuyền nhỏ của xóm chài bị mất cả cột buồm lẫn bánh lái, và hoàn toàn hư hại trôi bập bềnh trên sóng biển Sund. Lão Matxơn và năm người khác đi trên chiếc thuyền ấy lênh đênh như vậy trong hai ngày hai đêm. Khi người ta cứu được thì họ đã gần chết vì đói và rét. Mọi vật trên thuyền đều đóng băng và quần áo của họ bắt đầu đông cứng lại. Sức khỏe của lão Matxơn chẳng bao giờ hồi phục được nữa. Lão ốm mòn mỏi trong hai năm rồi chết.
Bấy giờ nhiều người mới lấy làm lạ rằng làm sao lão lại nghĩ đến lấy vợ đúng vào lúc trước khi xẩy ra tai nạn, bởi vì người vợ bé nhỏ mà lão đã chọn trở thành một người chăm sóc bệnh nhân giỏi. Nếu lão chỉ có một thân một mình thì không biết sẽ ra sao? Cả xóm chài đều thừa nhận rằng cả đời lão chưa bao giờ làm được một việc khôn ngoan hơn thế; và người đàn bà bé nhỏ được mọi người mến phục vì đã tận tụy chăm sóc chồng.
Người ta bảo nhau: "Cô ấy rồi sẽ lấy được chồng khác dễ như bỡn".

Suốt thời gian bị bệnh, ngày nào lão Matxơn cũng kể cho cô vợ trẻ nghe câu chuyện bức chân dung.
- Khi tôi chết, em sẽ lấy bức chân dung ấy, - lão nói. - Vả lại tất cả những gì của tôi thì em cũng sẽ lấy hết đi thôi.
- Thôi đi, ông đừng có nói chuyện ấy...
- Em sẽ lấy bức chân dung bà mẹ tôi, và sau này khi có người đến hỏi làm vợ, em cứ đem bức chân dung ra mà chiêm nghiệm. Tôi quả quyết với em rằng, trong cả xóm này, không có ai thành thạo về hôn nhân hơn bức chân dung ấy.

NGỌC THỌ dịch
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeSun Sep 29, 2019 1:48 pm

.

Hôi của
- Nadine Gordimer (Nam Phi - Nobel 1991)


Ngày nảy ngày nay [1] có một trận động đất: nhưng đó là trận động đất mạnh nhất từng ghi nhận được kể từ khi người ta chế ra thang độ Richter để đo lường những cảnh báo ngày tận thế. Nó lật nghiêng cả một thềm lục địa. Những chấn động này thường gây lũ lụt; trận này thì ngược lại, nó đẩy lùi đại dương như bằng một cú thổi phù vĩ đại. Những gì ẩn kín nhất của thế giớichúng ta lồ lộ bày ra: nào những xác tàu đắm, mặt tiền những ngôi nhà, những ngọn chúc đài phòng khiêu vũ, nào bồn tắm, rương của bọn cướp biển, màn hình tivi, xe ngựa phát thư, thân máy bay, đại bác, tượng bán thân bằng cẩm thạch, súng AK, mui xe du lịch, bình đựng nước thánh, máy rửa chén tự động, máy vi tính, những thanh gươm bám đầy hàu, những đồng tiền biến thành đá. Cái nhìn sửng sốt lướt nhanh giữa những vật đó; đám người vừa mới rời bỏ những ngôi nhà lung lay của họ để chạy lên những ngọn đồi ven biển giờ lại chạy xuống.
Nơi đâu tiếng gầm rống và gào thét của đất vừa mới làm họ kinh hãi, giờ có một sự im lặng trần trụi. Nước bọt của biển sáng lấp lánh trên những vật này; dường như thời gian không tồn tại, chưa bao giờ tồn tại dưới đó, nơi tính vật chất của quá khứ và hiện tại nằm ngổn ngang không theo thứ tự thời gian; tất cả là một, tất cả chẳng là gì - hoặc tất cả đều có thể có cùng một lúc.

Người ta nháo nhào chạy đi lấy; lấy, lấy. Cái này ấy à lúc nào, bất cứ lúc nào cũng có giá, một lúc nào đó sẽ có giá, cái nọ có thể hữu ích, cái này là gì đây, ờ chắc có người biết, cái này hồi xưa chắc là của người giàu, cái này giờ là của tôi, nếu mày không chộp cái ở đằng kia thì sẽ có kẻ khác chộp đó, chân lê lết trơn chuội trên rong biển và thụt sâu vào cát sũng, những thực vật biển há hốc mồm nhìn họ, chẳng ai nhận thấy rằng không có một con cá nào, mọi cư dân của chốn dưới đất này đã bị nước cuốn sạch.
Cơ hội hôi của các cửa hàng - vốn là thói quen thường tình của thiên hạ trong những thời loạn lạc - thật không có gì sánh nổi. Niềm vui cuồng loạn khiến cho đàn ông, đàn bà và con cái họ có đủ sức lôi ra khỏi bùn và cát những gì mà chính họ chẳng biết rằng họ muốn, lảo đảo đi tới đi lui càng lúc càng nhanh; đấy không chỉ là thủ lợi nhờ tình huống ngẫu nhiên, đó còn là cướp đoạt sức mạnh của tự nhiên, cái sức mạnh từng khiến họ cuống cuồng chạy trong vô vọng.
Lấy, lấy; trong khi vơ vét, họ có thể quên rằng nhà họ đã đổ nát hoang tàn và họ đã mất sạch những thứ của cải bị ràng buộc với thời gian. Họ xé rách sự im lặng bằng những tiếng í ới gọi nhau và dưới những tiếng gọi đó, giống như tiếng kêu của những con hải cẩu vắng mặt, họ không nghe một âm thanh từ xa đang tiến đến gần như một làn gió khổng lồ. Và biển trở lại, vùi lấp họ để làm giàu thêm kho tàng của nó.

Đó là những gì thiên hạ biết; trong những mẩu tin truyền hình thật ra chẳng có gì để chiếu ngoài lớp váng màu thiếc của những vực sâu, trong những bài phỏng vấn những kẻ nhu nhược, gan cóc tía hay thận trọng đã không rời những ngọn đồi mà chạy xuống cùng đám người hôi của kia, cũng như các bài báo mô tả những cái xác mà vì lý do nào đó biển đã khước từ, dập trở lại một nơi nào đó trên bờ biển.
Nhưng nhà văn biết một điều mà không ai khác biết: sự thay đổi lớn lao của trí tưởng tượng.
Giờ nghe đây: có một người suốt đời luôn mong muốn một cái gì đó. Ông ta có lắm thứ đồ - một số trong đó mắt ông thường xuyên bắt gặp, nên ông hẳn phải thích, ông không nhận thấy rằng đáng lẽ ông không nên mua một số trong đó nhưng vứt bỏ thì cũng chẳng được, có một cái đèn kiểu tân nghệ thuật ông dùng để đọc sách, và trên đầu giường ông có một bức tranh in Nhật Bản, bức Làn sóng lớn của Hokusai, thật ra ông không sưu tập đồ phương Đông, mặc dù nếu nó đã ở trên tường đối diện ông, hẳn nó không chỉ là một phần của đồ đạc trong nhà mà là một cái gì hơn thế, nó đã khuất tầm nhìn bên trên đầu ông suốt nhiều năm. Tất cả những vật đó - nhưng không phải cái này.
Ông về hưu, ly dị đã lâu, chọn một biệt thự cũ nhưng đủ tiện nghi trên ngọn đồi bên bờ biển làm nơi trú ẩn, quay lưng lại trước sự tấn công của thành phố. Một phụ nữ người làng đến để nấu nướng và quét dọn cho ông, ngoài ra thì chẳng giao thiệp với ông về bất cứ chuyện gì. Đó là một cuộc sống quá êm ả, ông đã gặp quá đủ những sự quấy rầy, dù dễ chịu hay không, nhưng cái cảnh tượng ông nhìn thấy từ cửa sổ nhà mình, một chuyện chưa bao giờ có thể xảy ra, chưa bao giờ được hạ cố ban cho con người, là một thứ mệnh lệnh. Ông là một trong những người lao ra giữa đáy biển lấp lánh, cái kho tàng mảnh vụn của quá khứ, vẫn là nó đấy, phô ra trần trụi.

Cũng như tất cả những người hôi của khác mà ông không trà trộn vào và cũng chẳng có cái gì chung với họ, ông hộc tốc chạy từ vật này qua vật khác, lật tung những mảnh vỡ đồ sứ, những bức tượng tạo nên bằng sự hủy diệt, ruồng bỏ và gỉ sét, những thùng rượu nho ngâm nước biển, một chiếc môtô đua đâm xuống biển, một cái ghế nha sĩ, bước chân ông dẫm lên những cái xương sườn người đang phân hủy và những thứ trời ơi đất hỡi nào đó ông chẳng biết là gì. Nhưng không như những người khác, ông chẳng lấy gì - cho đến khi, kìa, được trang điểm bằng những lọn rong biển màu nâu cam, kẹt cứng vỏ xà cừ và lỗ chỗ san hô màu đỏ, là vật ấy. (Một cái gương?) Dường như điều không thể là có thật; ông biết nó nằm chính ở đây, dưới đáy biển, chính vì vậy mà ông không biết nó là gì, không bao giờ có thể tìm thấy nó trước kia. Nó chỉ có thể bị phát lộ bởi một cái gì chưa từng xảy ra, cơn bùng nổ lớn nhất của trái đất chúng ta từng được đo trên thang Richter.
Ông nhặt nó lên, cái vật đó, cái gương, cát rơi ra khỏi nó, nước - vốn là cái nhìn trong sáng cuối cùng còn lại dành cho nó - lăn ra khỏi nó, ông mang nó đi cùng với ông, mang cái vật mà rốt cuộc là sở hữu của ông.
 
Và ngọn sóng lớn đến từ sau đầu giường ông cuốn ông đi. Tên ông, cái tên từng nổi tiếng trong giới cai trị trước kia ở thủ đô, không có trong số những người sống sót. Cùng với ông, giữa xương cốt những nạn nhân mới nhất, cùng những tên cướp biển và ngư phủ thuở xa xưa, có những kẻ mà dưới thời độc tài đã nhảy từ máy bay xuống để cùng sự đồng lõa của biển - sẽ không ai tìm thấy họ. Ai đã nhận ra họ, ngày ấy, nơi họ nằm?
Không hoa cẩm chướng, cũng chẳng hoa hồng trôi trên biển. Năm sải nước sâu.

Trần Tiễn Cao Đăng dịch từ nguyên bản tiếng Anh: Loot 

Chú thích:
[1] Nguyên văn: Once upon our time, nhại lại câu thường gặp trong các truyện cổ tích: “Once upon a time” (ngày xửa ngày xưa); ND
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeSat Oct 05, 2019 8:35 am

.
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Images?q=tbn:ANd9GcQBNxzIUR9SIzfidf78_R1aijR4lVV0UWJ051VXMeVHy2rsSrAZcQ

CÁI TÌM ĐƯỢC

- NADINE GORDIMER (NOBEL 1991)


Mặc xác chúng mày.
Người đàn ông từng gặp nhiều bất hạnh với đàn bà đã quyết định sống độc thân một thời gian.
Vì tình, đã hai lần anh kết hôn. Anh dọn ngôi nhà sạch hết những thứ mà vì lẽ gì đó cô vợ hai tận tâm đã bỏ sót khi rời đi cùng thu nhập - những bức tranh, cốc hiếm, kể cả mấy chai rượu hảo hạng dưới hầm. Anh vứt bỏ những cuốn sách mà cô vợ đầu tiên đã viết những dòng chữ yêu thương lên tờ ngỏ bằng tên của một cô dâu mới. Rồi anh đi nghỉ không có phụ nữ đi cùng. Bởi lẽ đầu tiên anh có thể nhớ; nhưng những ả đốn mạt và đĩ thõa anh nghĩ mình đã yêu ấy hoá ra lại tráo trở hệt như mấy cô vợ trung thực luôn thề thốt yêu thương anh suốt đời.

Anh một mình đến bãi tắm nơi những tảng đá lồi lõm nhô ra biển, sóng vỗ ì oạp tạo thành những hốc nước. Không có cát. Trên những phiến đá tựa chỗ kẹo nấu sôi, có vằn, sọc và lốm đốm, nhiều người - cả phụ nữ - nằm trên những chiếc chiếu bạc muối, xoa dầu thơm lên người. Năm ấy, tóc họ búi cao và được giữ lại bằng những vòng hoa nhân tạo đàn hồi hoặc buông xuống - họ bước khỏi mặt nước với những chuỗi pha lê bóng loáng trên ngực - từ cái cài mạ vàng có khoen móc vào tai đung đưa lấp lánh. Ngực để trần. Họ đeo mảnh vải hình tam giác lộn ngược có thể phát sáng trước vùng sinh dục bằng một sợi dây chạy qua kẽ mông nối với dây chạy vòng qua bụng và eo. Từ góc nhìn của anh, khi họ đi xuống biển thì trông họ khoả thân hoàn toàn; rồi khi họ rời mặt biển, hổn hển thở với vẻ hài lòng, tiến vào tầm nhìn của anh thì ngực họ dập dềnh, rũ xuống khi họ cúi người, cười vang trong lúc lau mình, chải tóc và bôi dầu. Cơ thể của vài người được chia ra từng phần rõ như mảnh vải được nhuộm kỹ: những cái sọc, những mảnh trắng hoặc đỏ tuỳ theo chỗ được quần áo che tránh khỏi sự thiêu đốt của mặt trời. Núm vú của đôi người đỏ ửng như những quả dâu tây, có thể thấy ngay họ đã không chịu bôi dầu. Có cả đàn ông nhưng anh không nhìn đàn ông.
Khi anh nhắm mắt, lắng nghe biển thì anh có thể ngửi thấy mùi đàn bà - mùi dầu.
Anh bơi nhiều. Ra tận vùng vịnh phẳng lặng, giữa những người lướt gió dang tay giữ những cánh buồm sặc sỡ hay gần bờ nơi một tấm ván trượt hất tung bọt nước trắng xoá trùm lên đầu anh. Một nhóm các bà mẹ trẻ đưa con vào chỗ nước nông. Da thịt mềm mại, trần truồng áp sát da thịt mẹ chúng, những đứa trẻ bám chặt, sau đó tách ra nhưng dường như chúng vẫn có một phần da thịt đàn bà nơi chúng được hoài thai bởi những đàn ông như anh. Anh nằm phơi khô mình trên tảng đá. Anh thích độ lồi lõm của đá nhưng anh phải cựa quậy điều chỉnh các khớp xương sao cho các đường cong trên cơ thể thoải mái hơn trên mặt đá. Anh ngủ. Anh thức giấc nhìn những cái chân cạo lông đang đi gần đầu anh - đàn bà. Nước từ mái tóc ướt vung vẩy rơi xuống đôi vai ấm áp của anh. Đôi khi anh thấy mình lặn bên dưới họ, thân hình với làn da nhám của anh lướt qua như một chú cá mập.

Như cánh đàn ông thường làm trên bờ khi cô đơn, anh liệng đá xuống biển, nhớ cách giữ chúng nhảy lướt trên mặt nước. Nằm úp mặt xuống những lạch nước nhỏ cuối cùng, anh nhặt một vốc đầy đá biển bóng láng, đưa lại gần và bắt đầu quan sát như thể người lớn dừng lại xem trẻ con tần ngần ngắm một bông hoa, một chiếc lá - một viên đá, với những sọc cát của nó, thành phần màu sắc bí ẩn, độ lóng lánh ẩn chứa bên trong, sự cảm nhận (của chính anh) đã khám phá: hình thù quả trứng hay bầu dục của nó được bàn tay xoa dầu của biển mài nhẵn bóng.
Thật ra, những viên đá ấy không phải tất thảy đều là đá. Có những mẩu hình thoi màu hổ phách dẹt mà đại dương cắt ngọc đã đánh bóng từ những chai bia vỡ. Có cả những mẩu thuỷ tinh xanh da trời và xanh đậm (từ cái chai bị chìm khác) mà có thể chuyển sang màu lục ngọc và màu ngọc lục bảo.
Trẻ con nhặt chúng để vào mũ hoặc vào xô. Rồi một chiều nọ, trong mớ tài sản trộn lẫn với những mẩu nhựa dẻo bị vứt khỏi tàu chở hàng và cả những vật dụng bằng nhựa nổi lềnh bềnh tấp lên mọi bến bờ trên toàn thế giới, anh tìm thấy giữa những viên đá anh đang gạn trong tay giống như ông thầy tu lần tràng hạt, một vật quí giá thực sự. Giữa những viên cuội thuỷ tinh màu là một chiếc nhẫn kim cương sapphire.
Nó không nằm trên bề mặt bờ biển đá nên rõ ràng là đã không bị một trong số những phụ nữ hôm ấy đánh rơi. Một người yêu, (hay là vợ bất hợp pháp) của một quý ông giàu có rớt khỏi thuyền ở ngoài kia, đeo đồ trang sức trong lúc đang cố vứt bỏ những vật vướng khác, hẳn đã để một trong số những chiếc nhẫn tuột khỏi tay chìm xuống nước, mà không hề phát hiện ra mãi cho đến khi lên lại boong thì vội đi tìm chế độ bảo hiểm trong lúc biển cứ kéo chiếc nhẫn chìm xuống sâu, sâu hơn nữa; và rồi thuỷ triều từ ngày này sang ngày khác, năm này nối năm kia dần dần xô dạt nó vào bờ. Chiếc nhẫn tuyệt đẹp mặt sapphire hình chữ nhật rộng được bao quanh bằng những viên kim cương tròn và một viên kim cương lớn được đặt một bên mặt đá sáng nối nó với vòng tròn được chạm sâu.

Mặc dù chiếc nhẫn được mấy ngón tay của anh tình cờ đào lên từ độ sâu chừng một tấc rưỡi nhưng anh vẫn nhìn quanh như thể chủ nhân của nó chắc chắn đang đứng bên cạnh.
Nhưng họ vẫn mải miết bôi dầu, lau bọn trẻ, nhổ lông mày qua những chiếc gương bé xíu, họ ngồi gác chân, vú uể oải tựa lên các bàn thấp nơi bọn bồi nhà hàng đã đặt mấy đĩa salad và những chai rượu vang. Anh mang chiếc nhẫn đến nhà hàng; có lẽ ai đó đã kể là bị mất. Chủ nhà hàng bước lùi lại. Bà ta hẳn đang được đề nghị mua món hàng ăn cắp của một kẻ gian lận. Chiếc nhẫn giá trị lắm. Hãy mang nó đến đồn cảnh sát.
Nghi ngờ dấy lên cảnh giác; có lẽ, trong nhà hàng ngoại quốc này, đã có nguyên nhân khiến người ta nghi ngờ. Thậm chí cả cảnh sát. Nếu không có ai nhận chiếc nhẫn thì một quan chức bản địa nào đó sẽ đút túi. Khác nhau là thế đấy - anh đút chiếc nhẫn vào túi hoặc an toàn hơn là vào túi đeo vai đang đựng tiền, thẻ tín dụng, chìa khoá xe và kính râm. Rồi anh quay lại bãi biển, nằm trên đá, giữa đám đàn bà. Suy nghĩ.

Anh đăng lời nhắn tin trên tờ báo địa phương.
Nhẫn được tìm thấy trên bãi tắm Blue Horizon, thứ ba, mồng một, kèm theo số điện thoại và số phòng của anh ở khách sạn. Bà chủ nhà hàng nói đúng; có rất nhiều cú điện thoại. Vài cú là của đàn ông nói rằng vợ, mẹ, bạn gái họ đã thật sự mất nhẫn ở bãi tắm ấy. Khi anh đề nghị họ miêu tả, họ thử vận may: một chiếc nhẫn kim cương. Nhưng khi bị buộc miêu tả chi tiết hơn thì họ chỉ có thể nói vòng vo.
Nếu là giọng phụ nữ khéo nịnh và tán tỉnh vờ vĩnh (thậm chí đôi người còn sụt sùi) được phát hiện là giọng đàn bà đàng điếm luống tuổi thì anh cúp máy ngay khi thị ta cố miêu tả chiếc nhẫn bị mất của mình.
Nhưng nếu giọng ấy quyến rũ và thỉnh thoảng trẻ trung, dịu dàng kể cả có phần do dự vì sự nói dối táo bạo thì anh mời người ấy đến khách sạn nhận dạng chiếc nhẫn.

Hãy miêu tả nó.
Anh để họ ngồi thoải mái trước ban công thoáng đãng với luồng sáng ngoài biển dò xét nét mặt họ.
Duy chỉ một người thuyết phục được anh rằng nàng thực sự đã đánh mất chiếc nhẫn; nàng miêu tả chi tiết rồi bỏ đi sau khi xin lỗi vì đã làm phiền anh. Những người khác - đôi người hấp dẫn hay thậm chí cực kỳ xinh đẹp, ăn vận trang nhã - hẳn đến vì mục đích khác nếu họ không bỏ đi cùng với sự miêu tả bịa đặt về chiếc nhẫn. Họ dường như tính toán chiếc nhẫn là một chiếc nhẫn; nếu có giá trị thì nó phải là nhẫn kim cương và một hoặc hai người tỏ ra thông minh khi xác nhận, vâng, chiếc nhẫn còn có mặt đá quý nhưng nó là đồ gia bảo (của bà) nhưng họ thực sự không biết tên của loại đá đó.
Thế còn màu sắc? Hình dáng?
Họ bỏ đi như thể bị xúc phạm; hoặc họ cười ngớ ngẩn như cảm thấy có lỗi, chỉ vì liều mạng mà họ đến thôi, thực là buồn cười. Và họ khó có thể giữ được lịch sự khi bỏ đi.

Rồi có một người mà giọng nói chẳng giống bất kỳ giọng của những người đã gọi, giọng nhã nhặn của ca sĩ, nghệ sĩ, có lẽ biểu lộ sự nhút nhát. Tôi đã hết hi vọng. Về việc tìm lại nó... chiếc nhẫn của tôi. Nàng đọc lời nhắn tin rồi nghĩ, không, không, chẳng ích gì đâu. Nhưng nếu có cơ hội là một phần triệu. Anh mời nàng đến khách sạn.
Nàng chắc đã bốn mươi, có vẻ đẹp tự nhiên với đôi mắt phớt xanh, tĩnh lặng đầy ấn tượng và chẳng cần trang điểm gì cả ngoài mái tóc đen màu lông công. Mái tóc mọc lên từ vùng đầu cao trên cái trán rộng và được búi thành cuộn quanh đầu, bóng mượt như những sợi lông chim mịn màng. Chẳng có lấy một nếp nhăn nào ở khoảng đôi đầu vú và cả mảng thịt săn chắc nơi vùng cổ của chiếc váy đen như tóc nàng. Bàn tay nàng sinh ra là để đeo nhẫn; nàng ngửa hai lòng bàn tay, xoè rộng các ngón cái và những ngón còn lại: Và khi động tác kết thúc, tôi thấy một tia sáng loé lên trong dòng nước.

Tả nó đi.
Nàng nhìn thẳng anh, ngẩng đầu để hướng cái nhìn ra xa và bắt đầu nói. Nàng nói rất tỉ mỉ, bạch kim và vàng... anh biết đấy, thật khó miêu tả chính xác một vật mình dùng quá lâu mà lại không còn để ý đến nó. Một chiếc nhẫn kim cương lớn... rất nhiều. Ngọc lục bảo và đá đỏ... ngọc rubi, nhưng tôi nghĩ chúng đã long ra trước khi...
Anh bước lại ngăn kéo của cái bàn trang điểm kiêm bàn viết của khách sạn và kéo từ dưới những tờ bìa miêu tả nhà hàng, chương trình TV cáp và dịch vụ phòng có sẵn, ra một phong bì.
Nhẫn của cô đây anh nói. Ánh mắt nàng không đổi. Anh đưa cái phong bì về phía nàng. Tay nàng chầm chậm lướt về phía anh như thể đang ở dưới nước.
Nàng cầm chiếc nhẫn từ tay anh rồi đeo vào ngón giữa tay phải. Nó không vừa nhưng nàng điều chỉnh động tác bằng sự thay đổi nhanh nhẹn và chiếc nhẫn trượt khít vào ngón tay thứ ba.

Anh đưa nàng đi ăn tối, chuyện chiếc nhẫn không được đả động gì đến. Thế là lần nữa, nàng trở thành người vợ thứ ba của anh. Hai người sống với nhau tâm đầu ý hơn hơn bất kỳ đôi vợ chồng nào khác.

LÊ HUY BẮC dịch
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeSun Dec 08, 2019 8:54 am

.
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Images?q=tbn:ANd9GcSV1FHWilSbQrak5sBD3jZFkfgCwhHoroNh7mXZGskwLG-c_ib9&s

Pearl Buck (1892-1973) sinh ở Hillsboro, West Virginia, là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc.
Năm 1925, Pearl Buck bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên East Wind: West Wind (Gió Đông, gió Tây). Sau đó hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng khác về đề tài Trung Quốc ra đời.
Năm 1938 Pearl Buck nhận giải Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực.
(Wikipedia)


tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel 51+JgNU8xjL._AC_UY218_ML3_

Có Một Đêm Giáng Sinh 
- Pearl Buck (Nobel 1938)


Bây giờ là Đêm Giáng Sinh. Trong nhà thật là yên tĩnh, những chiếc vớ dài treo bên lò sưởi, những vòng hoa ô-rô bên cửa sổ và tôi đặt gói quà cuối cùng dưới chân cây Giáng Sinh. Hằng năm tôi rất trân quý những phút cuối cùng này trước khi đi lên lầu. Tôi cảm thấy căn nhà ấm áp quanh tôi, sống động với những ký ức quá khứ và đời sống hiện tại, những thành quả của ngày hôm qua và những mong chờ của ngày mai. Những biến cố lạ lùng và tuyệt diệu thường xảy ra với tôi vào ngày Giáng Sinh, và tôi có thói quen chờ đợi những việc bất ngờ, một niềm vui hơn các niềm vui khác. Tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra trong năm nay?

Trong lúc tôi suy nghĩ, không hiểu tại sao tôi nhớ tới một Giáng Sinh cách đây lâu lắm rồi, ở một nơi rất xa xôi. Tôi nghĩ tới một đêm trước ngày Giáng Sinh, cũng giống như ngày hôm nay. Lúc đó tôi còn trẻ và mới lập gia đình với một người đàn ông mà tôi chưa biết rõ. Tại Trung Hoa lúc đó, ít nhất trong cái xã hội nhỏ của người Trung Hoa nơi chúng tôi cư ngụ, một cô gái rất khó được gặp một thanh niên một mình, hoặc gặp nhiều lần. Dĩ nhiên cũng có những lá thư, nhưng trước khi chúng tôi kết hôn, chúng tôi rất ít gặp nhau. Bây giờ tôi sống một mình với chàng trong mùa Giáng Sinh. Chúng tôi là hai người Mỹ duy nhất trong một cổ thành nhỏ thuộc miền bắc Trung Hoa, và tôi cố gắng không cảm thấy cô đơn. Tuy nhiên cha mẹ tôi sẽ đến mừng lễ Giáng Sinh với chúng tôi, và tôi đã hớn hở mong đợi gặp cha mẹ tôi biết bao! Trong nhiều ngày tôi đã làm những sửa soạn tỉ mỉ, và lần đầu tôi đã tự làm một con ngỗng thay vì gà tây mà nơi ở hẻo lánh của chúng tôi không có; tám chiếc bánh gạo nếp rất quý, và tám loại mứt, thay vì làm bánh nhân mận; những cành tre có lá vẫn còn xanh và những trái berries đỏ thay thế cho cành ô-rô.
Rồi vào đúng buổi sáng ngày 24, một điện tín báo tin mẹ tôi không khỏe nên không đến được, và cha tôi phải ở lại với mẹ tôi.
Giáng Sinh bỗng trở nên trống rỗng, và việc mừng lễ phải bãi bỏ. Dĩ nhiên tôi cố gắng giấu sự thất vọng của tôi, nhưng ngày hôm ấy sao dài thế và tôi vui mừng khi buổi tối đến và tôi có thể thắp ngọn đèn dầu hôi — ở thị trấn của chúng tôi không có điện. Tôi nhớ lại tôi chơi vài bản nhạc Giáng Sinh, và chúng tôi nói chuyện về những Giáng Sinh thời thơ ấu của chúng tôi, của chàng trong một nông trại phủ tuyết tại Mỹ, và của tôi trong một căn nhà Trung Hoa thuộc miền nhiệt đới, cho đến lúc tới giờ đi ngủ.

Tôi nhớ lại lúc đó tôi không ngủ được. Sau khoảng một giờ, ngay lúc gần nửa đêm, tôi ngồi dậy và đi ra cửa sổ phòng khách. Tôi trông thấy một ngôi sao sáng lấp lánh bên trên bức tường thành, nhưng rất xa. Đúng lúc ấy tôi nghe thấy một tiếng gõ cửa, một tiếng gõ cửa thật khẽ và ngập ngừng. Ai đến vào giờ này? Quân cướp thường dòm ngó vùng này. Có lẽ tôi không nên mở cửa. Nhưng rồi tôi vẫn mở cửa. Một em bé đứng đó, một em bé trai người Trung Hoa, mười tuổi – sau này em cho tôi biết – nhưng trông chỉ độ năm hoặc sáu tuổi. Em rất gầy và rách rưới, nhưng cho đến ngày hôm nay tôi vẫn nhớ đôi mắt của em. Em có một cặp mắt to và rất đen trên một bộ mặt gầy nhỏ bé đẹp như thiên thần, trán cao và chiếc cằm nhọn bên dưới cái miệng đẹp đẽ và bình thản. Thực vậy, bộ mặt em rất là lạ lùng. Tái mét và tiều tụy, nhưng khuôn mặt thực là bình thản, tự tin và vô tư. Em không nói gì cả, chỉ đứng đó ngẩng lên nhìn tôi.
Tôi hỏi bằng tiếng Trung Hoa: “Em là ai?”
“Em chẳng là ai cả,” tiếng trả lời bằng một giọng đặc Bắc kinh.
“Nhưng tên em là gì?”
“Em không có tên.”
“Cha mẹ em ở đâu?”
“Em không có cha mẹ.”
Tôi nhìn người khách lạ chăm chú như thể là một người vừa từ trên trời rơi xuống vậy. Mà có lẽ đúng thế. Tôi hỏi tiếp:
“Em từ đâu đến?”
“Chẳng từ đâu cả.”
“Và em cũng không đi đâu cả phải không?”
“Không đi đâu cả.”
“Thế tại sao em đến với tôi?”
Người khách nhỏ lắc đầu, không thể trả lời câu hỏi này. Em chỉ nhìn tôi với cặp mắt to trong sáng ấy.
Về phần tôi, tôi đứng chết trân tại đó. Cậu bé đáng yêu và cô đơn này là ai? Một tên ăn mày? Nhưng tại sao lại ở đây, trước cửa nhà chúng tôi, và tại sao lại là đêm nay vào lúc nửa đêm?
Tôi bảo em: “Vào đây. Chắc em đói lắm.”
Cậu bé lặng lẽ bước vào. Lúc đó tôi thấy rõ em thực là gầy và bơ phờ vì một cuộc hành trình dài. Em cố gắng không run vì lạnh và bước tới lò sưởi. Trong lò vẫn còn những hòn than hồng cuối cùng và em đưa hai bàn tay vào sưởi cho ấm, hai bàn tay nhỏ thực là đẹp thanh tú, nhưng bẩn đen vì đất, và mái tóc cũng phủ bụi thành màu nâu. Hiển nhiên em đã đi bộ trong một thời gian quá lâu, và chắc đã trải qua những nỗi xúc động đến nỗi không nhớ được gì cả.

Tôi lẳng lặng dẫn em vào phòng tắm và tắm cho em thật sạch; rồi tôi lấy một bộ quần áo ngủ bằng vải ấm, cắt ngắn ống tay áo và ống quần và đưa cho em mặc. Tôi phải dùng một sợi giây buộc ngang thắt lưng nhỏ bé của em để cho quần khỏi tuột. Rồi tôi dọn đồ ăn cho em, gồm có trứng bác, bánh mì và sữa hộp. Em chưa hề biết sữa là gì, chỉ ngửi rồi lễ phép đẩy lui ra.
Tôi hỏi: “Em uống trà nhé?”
“Xin không dám phiền bà.”
Tôi nấu trà và em uống một cách ngon lành. Tôi dọn một chỗ ngủ cho em ngay trên chiếc ghế dài trong phòng khách, và ngồi cạnh em cho đến lúc em ngủ. Tôi trở lại giường ngủ, và lần này không biết tại sao tôi ngủ được.
Buổi sáng khi tôi vào phòng khách thì người khách nhỏ đã dậy rồi. Em đang ngồi xếp chân trên sàn nhà, yên lặnh thích thú ngắm cây Giáng Sinh.
Tôi hỏi em: “Sáng nay em có nhớ ra được em là ai không?”
Em mỉm cười e lệ nhìn tôi và lắc đầu. Rồi em nói một cách giản dị: “Em tới đây để sống với bà.”
Và đấy câu chuyện bắt đầu như thế. Cậu bé sống với chúng tôi ngày Giáng Sinh và tôi không còn nhớ đến ai nữa. Vì ngày hôm đó các cửa tiệm đều mở cửa như mọi ngày, tôi dẫn em đi mua quần áo và cậu bé cư xử tự nhiên như thể đã từng sống với chúng tôi từ trước vậy. Chúng tôi đặt tên cho em là Noel, và nếu có người bạn hoặc người láng giềng Trung Hoa nào biết em từ đâu tới hoặc em là ai thì họ cũng không nói cho chúng tôi biết. Họ chỉ nói là họ chưa bao giờ gặp em, và em thì không nhớ được bất cứ điều gì của đời em trước buổi tối Giáng Sinh ấy, ngoại trừ em biết rằng em rất mệt mỏi, đói khát và có người chỉ cho em gõ cửa nhà chúng tôi. Dĩ nhiên tôi biết em không phải là Chúa Hài Đồng, hoặc một người tương tự như vậy, nhưng em đã nhắc nhở tôi đến Chúa Hài Đồng, lúc đó và mãi mãi cho tới lúc em chết. Em cũng chết rất trẻ và cũng chết một cách mà người ta có thể nói là chết cho người khác.

Đó là chuyện xảy ra nhiều năm về sau này. Trong lúc đó Noel sống với chúng tôi, đi học và trưởng thành. Tôi không nhớ có bao giờ Noel gây phiền hà không. Em rất ham học. Người ta rất thích em nhưng em không chơi thân với ai hết. Bao giờ em cũng như xa cách, vui vẻ và giúp đỡ mọi người, nhưng vẫn xa cách.
Noel trở nên một thanh niên cao, mảnh khảnh và xuất sắc. Em muốn là bác sĩ và đã trở thành một bác sĩ giỏi, một bác sĩ hiếm hoi có thể chữa bệnh cho người nghèo khó cũng tận tụy và quý mến như với mọi người khác. Nhưng không ai có thể hiểu rõ được em. Tôi nghĩ tôi cũng không hiểu được em. Noel có vẻ rất vị tha, hoàn toàn tận tụy với người bệnh. Em lúc nào cũng lặng lẽ, trầm tư, cặp mắt mở to và thanh thản. Những bàn tay thanh tú của em đã trở thành bàn tay của một bác sĩ giải phẫu tài ba. Dường như Noel sẽ tiếp tục sống như thế mãi mãi, và tất cả chúng tôi quý trọng em vì lòng nhân hậu của em.
Rồi chiến tranh tới và Trung Hoa bị phân chia làm hai. Khắp nơi cộng sản và Quốc dân đảng giao chiến với nhau, và trong thị trấn của chúng tôi, cả hai phe quốc gia và cộng sản đều tức giận Noel vì em chữa cho tất cả những thương binh mà không cần biết người bị thương thuộc phe nào. Khi cộng sản chiến thắng và người Mỹ chúng tôi phải rời bỏ Trung Hoa. Tôi muốn Noel ra đi với chúng tôi, tôi năn nỉ em, hứa hẹn em sẽ có nhiều cơ hội học hỏi về y khoa nữa. Nhưng em từ chối, mỉm cười và dịu dàng nói:
“Em phải ở lại với đồng bào em. Họ sẽ cần em hơn bao giờ hết.”
Tôi phản đối: “Nhưng cộng sản sẽ không để cho em còn là em nữa.”
“Em là một bác sĩ. Họ không thể phủ nhận được điều đó. Họ cần bác sĩ.”
Thế là chúng tôi chia tay, và tôi cảm thấy như bỏ lại một người em trai. Thoạt đầu chúng tôi viết thư cho nhau, nhưng về sau dường như tốt hơn là không nên viết nữa – Noel sẽ bị nghi ngờ bởi vì những lá thư từ Mỹ quốc, và tôi cũng bị nghi ngờ vì những lá thư đến từ Trung cộng.
Rồi tôi biết được cái chết của em. Một người bạn trốn khỏi Trung Hoa và kể cho tôi nghe. Người bạn cho biết Noel sống cô đơn một mình và lúc nào cũng bù đầu với công việc. Em là bác sĩ duy nhất trong một khu vực rộng hàng trăm dậm vuông, và người bệnh tìm đến em từ mọi nơi, đặc biệt là những thương binh của cả hai phe. Em được phe thắng cảnh cáo rằng em chỉ được chữa cho các thương binh cộng sản thôi, và không được phép chữa cho quân địch của họ. Em chỉ mỉm cười không nói gì, và vẫn tiếp tục chữa cho bất cứ ai đến với em.
Một đêm, Noel bị đánh thức dậy và khi ra cửa em trông thấy ba người, những người trông có vẻ bình thường. Họ xin em đi chữa bệnh cho một người bệnh chỉ cách đó vài căn nhà thôi. Em cài nút áo và bước đi với họ. Khi vừa rẽ khỏi góc phố, họ bắn em chết ngay tức khắc.

Đó là tất cả những gì tôi biết. Nhưng không phải cái chết của em mà tôi nghĩ đến tối nay, mà chính là hình ảnh của em khi tôi gặp lần đầu đêm Giáng Sinh năm ấy, đã lâu lắm rồi, một đứa bé không biết từ đâu, không tên, đã tới cửa nhà tôi.

.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeThu Dec 26, 2019 1:55 pm

.

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel 8a15e01b515bb805e14a

Ba truyện chớp của Olga Tokarczuk
- Olga Tokarczuk  (Nobel 2018)

- Chuyển ngữ: Trần C. Trí
 

Nhà văn nữ người Ba Lan Olga Tokarczuk sinh ngày 29 tháng Một năm 1962. Bà còn là một nhà hoạt động xã hội và một trí thức được mô tả là tác giả thành công cả về mặt nghệ thuật cũng như thương mại giữa những người cùng thời. Năm 2018, bà nhận giải thưởng Man Booker International (giải thưởng ở Anh Quốc dành cho các tác phẩm ngoại ngữ xuất sắc được dịch qua tiếng Anh) với tiểu thuyết Bieguni (bản dịch tiếng Anh là Flights (‘Những Chuyến Bay’) của Jennifer Croft).
Tháng 10 năm 2019, bà được vinh dự nhận giải Nobel văn chương của năm 2018, bị trì hoãn vì vụ bê bối tình dục của một thành viên trong hội đồng chấm giải.


(Chuyển ngữ từ bản dịch tiếng Anh của Jennifer Croft)

 
Phòng Trưng Bày Dị Vật


Hồi giờ tôi vốn không bao giờ mê những viện bảo tàng nghệ thuật. Tôi thà đi xem các phòng trưng bày dị vật còn hơn. Đó là những bộ sưu tập các món đồ hiếm hoi, độc đáo, kỳ cục hay đáng kinh khiếp. Những món đồ đó hiện hữu trong bóng tối của tâm thức chúng ta. Khi chúng ta ngắm những vật đó, chúng nhảy xổ ra khỏi tầm mắt của chúng ta. Vâng, đúng là tôi bị cái hội chứng không lấy gì làm hay ho này. Tôi không bị những bộ sưu tập ở những chỗ gần trung tâm thành phố thu hút, mà chỉ thích những nơi nào nho nhỏ nằm gần các bệnh viện. Thường thì những bộ sưu tập như vậy bị dời xuống tầng hầm vì người ta cho rằng chúng không xứng đáng với những địa điểm triển lãm có giá trị, và cũng vì chúng gợi lên cái gu đáng ngờ của những ai sưu tập chúng. Một con kỳ nhông hai đuôi, nằm tênh hênh trong một cái hũ cao cao, chờ ngày phán xét - bởi chưng muôn loài trên thế giới cuối cùng rồi cũng sẽ sống lại. Quả thận của một con cá heo ngâm trong phoọc-môn. Sọ của một con cừu, hoàn toàn dị dạng, có hai cặp mắt, hai đôi tai và hai cái miệng, đẹp không thua gì hình dạng của một vị thánh cổ đại có hai bản tính. Một thai nhi phủ đầy hạt đậu có dán nhãn viết cẩn thận bằng nét chữ thảo bay bướm “bào thai cổ Phi Châu 5 tháng”. Được sưu tập qua bao nhiêu năm tháng, những vật thể thiên nhiên đáng kinh khiếp này, cái thì có hai đầu, cái thì không có đầu, cái chưa mở mắt chào đời, thảy đều trôi nổi vật vờ trong hoá chất phoọc-môn. Hoặc giả xét trường hợp cái quái thai dính lẹo đến tận ngày nay vẫn còn trưng bày tại viện bảo tàng ở Pennsylvania - nơi tiến trình nghiên cứu hình thái học bệnh lý về một bào thai có một cái đầu và hai thân thể đã khiến người ta phải đặt lại vấn đề đối với nền tảng luận lý, xác quyết rằng 1=2. Và sau cùng là những mẫu vật cây nhà lá vườn nổi lềnh bềnh: những quả táo từ năm 1848, ngủ say trong rượu cồn, hình dạng méo mó; rõ ràng là có ai đó đã công nhận cái quyền trường sinh bất tử của những vật thể thiên nhiên đáng kinh khiếp này, và rằng chỉ có những gì lạ đời mới hòng được sống sót.

Tôi đã dấn bước trên đường viễn du như thế, chậm mà chắc, lần theo những lỗi lầm hay sai sót của tạo hoá.
Tôi tập thói quen viết trên xe lửa, trong khách sạn, trong những phòng đợi, hay trên cái bàn dùng làm khay để thức ăn trên máy bay. Tôi ghi chép trong bữa ăn trưa, dưới gầm bàn, hay trong buồng tắm. Tôi viết trong cầu thang của bảo tàng viện, trong tiệm cà phê, trong xe, hay bên lề xa lộ. Tôi ngoáy vội trên những mẫu giấy nhỏ, trong tập vở, trên bưu thiếp, trên bàn tay còn lại, trên giấy ăn, hay trên rìa sách. Thường đó là những câu ngắn, những hình vẽ nho nhỏ, nhưng cũng có lúc tôi chép lại những lời trích dẫn từ báo chí. Đôi khi có một hình bóng nào đó chợt nổi lên trong đám đông, thế là tôi vội đổi lộ trình của mình để đi theo nó trong chốc lát để bắt đầu câu chuyện của nó. Đó là một phương pháp khá hay mà tôi càng ngày càng trở nên thành thạo. Qua nhiều năm tháng, thời gian đã trở thành một đồng minh của tôi, như nó đã từng làm như vậy với mọi người đàn bà – tôi trở thành vô hình, nhìn xuyên thấu. Tôi có thể đi khắp nơi như một bóng ma, nhìn người ta mà họ không biết, nghe họ tranh cãi với nhau, nhìn họ ngủ, đầu gục lên ba lô, thấy họ lẩm bẩm nói một mình, không biết có tôi trước mặt, cứ nhếch môi tạo thành hình dạng những từ ngữ mà tôi sẽ phát âm giùm cho họ ngay.

 
Bảy Năm Du Ngoạn

“Năm nào chúng tôi cũng đi chơi, bảy năm nay rồi, từ lúc chúng tôi cưới nhau tới giờ,” người thanh niên trên chuyến tàu lửa thổ lộ. Anh ta mặc một cái áo măng-tô đen thật lịch lãm, tay xách một cái va-li trông khá giống một cái hộp chạm trổ cầu kỳ thường dùng để đựng dao muỗng.
Anh ta nói tiếp: “Chúng tôi chụp vô số hình, sắp xếp theo thứ tự nhất định. Miền nam nước Pháp, Tunisie, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý, Crete, Croatia - kể cả vùng Scandinavia nữa. Anh ta bảo hai vợ chồng cứ coi đi coi lại những tấm hình ấy không biết bao nhiêu bận: đầu tiên là cùng với mọi người trong gia đình, rồi với đồng nghiệp ở chỗ làm việc, cuối cùng là đến bạn bè, sau đó những tấm hình được cẩn thận cho vào các bìa nhựa, y như các vật chứng trong tủ của một viên thám tử - bằng chứng là họ đã đến những nơi đó.
Qua cửa sổ, anh ta trầm ngâm ngắm nhìn cảnh vật dường như đang vội vã chạy về một nơi nào đó. Chẳng hiểu anh ta có nghĩ câu nói “chúng tôi đã đến nơi đó” thật sự có ý nghĩa gì không. Hai tuần ở Pháp bây giờ đã đi về đâu? Những tuần lễ mà hôm nay chỉ còn gói ghém lại thành một vài kỷ niệm - cơn đói thình lình ập đến bên bức thành thời trung cổ trong thành phố và buổi chiều chập choạng tại một quán cà-phê có mái ngói phủ đầy dây leo. Na Uy đâu mất rồi? Chỉ còn nhớ lại cái lạnh lẽo của mặt nước hồ và ngày hôm đó như không bao giờ muốn chấm dứt, cảm giác thú vị được mua ly bia cuối cùng trước khi tiệm đóng cửa, hay lúc bàng hoàng nhìn cái vịnh lần trong tiên trong đời.

“Những gì tôi đã thấy đã trở thành của riêng tôi,” người thanh niên đột ngột kết luận, trở nên linh hoạt lại, vừa nói vừa khẽ vỗ bàn tay vào đùi mình.

 
Theo Lời Cioran


Một người khác - mềm mỏng và rụt rè - luôn luôn cầm theo một cuốn sách của Cioran khi đi du lịch hay đi làm, loại sách có những bài viết rất ngắn. Trong khách sạn, ông thường để nó trên cái tủ nhỏ đầu giường. Sáng nào cũng vậy, vừa thức giấc là ông lại mở nó ra ở một trang nào bất chợt để tìm những lời hướng dẫn cho ngày hôm ấy. Ông cho rằng tất cả những khách sạn ở Âu châu nên đổi các cuốn Thánh Kinh thành sách của Cioran càng sớm càng tốt. Từ Lỗ mã Ni qua đến Pháp. Làm như vậy với mục đích tiên đoán về tương lai, vì cuốn Thánh Kinh không còn hữu hiệu nữa. Chẳng hạn như vào ngày thứ Sáu của tháng Tư hay ngày thứ Tư của tháng Mười hai mà đọc một câu bất chợt như câu này thì phỏng được ích lợi gì: “Hết thảy đồ vật dùng để phụng sự trong đền thờ, dù với công dụng gì đi nữa, kể cả những cây cọc trong đền thờ hay ngoài sân, đều phải làm bằng đồng” (Sách Xuất Hành 27:19). Đọc như vậy thì biết làm cái gì? Dù sao đi nữa, ông ta bảo rằng cũng không nhất thiết phải là Cioran. Ông ta nói tiếp, ánh mắt đầy vẻ thách thức: “Cứ tự nhiên gợi ra một ý gì khác cũng được.”

Tôi không nghĩ ra được điều gì cả. Ông ta lấy trong ba-lô ra một cuốn sách mỏng đã sờn cũ, mở đến một trang bất chợt. Nét mặt ông ta rạng rỡ hẳn lên.
“Thay vì để ý đến gương mặt của những người qua lại trên đường phố, tôi thường nhìn vào chân của họ, và thấy tất cả những týp người bận rộn đều bước đi thật hối hả - để về đâu vậy? Vì thế tôi thấy rõ rằng sứ mạng của chúng ta chính là nhìn vào cát bụi để đi tìm một điều bí ẩn mà tầm nghiêm trọng đã bị tước bỏ đi mất cả.”
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeSat Apr 04, 2020 7:00 am

.
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Th?id=OIP.qoHd-eJIKakQku09Jxf__wHaDf&pid=15

Lòng Cha Mẹ   
- Pearl Buck (Nobel 1938)


Trận lụt thật là ghê gớm. Nước ngập cả một vùng. Trên mặt nước bao la ấy chỉ còn một mô đất dài và hẹp khô ráo. Nơi đây người tị nạn kéo nhau đến bám víu vào để sống. Mỗi gia đình chiếm một chặng đất. Tất cả đồ đạc chỉ còn một chiếc ghế gỗ, một chiếc bàn thô kệch, một hòm đựng quần áo và một cái chảo úp trên cái lò đất lạnh lẽo ám khói. Những cái chảo ấy đã bị "lạnh lẽo" từ lâu bởi vì người ta không tìm đâu ra một thanh củi khô để nấu nướng. Nước đã cuốn đi tất cả. Những đống đồ đạc trên là tất cả sự nghiệp còn lại của những gia đình nghèo sống trong vùng. Một số lớn đã bị chôn vùi trong lòng nước bạc, cả những đống lúa sắp chín. Người ta đã đổ mồ hôi xuống mùa lúa ấy nhưng thế là hết, không lấy lại được chút gì.

Đây là một nhóm người vây quanh những vật dụng mà họ đã cứu được khỏi lụt: một người đàn ông, một người đàn bà và một bầy con.
Hình như có sự xích mích âm thầm giữa hai vợ chồng ấy cho nên tất cả đều im lặng khó chịu. Cái gì đã xảy ra?
Người chồng, một tá điền trẻ, tức bực nhìn vợ gã, đôi mắt buồn rầu. Lấy nhau rất sớm, vợ chồng gã đã có được năm đứa con, đứa đầu gần tám tuổi. Nước da đã sạm đen và trông gã khỏe mạnh, lanh lợi, nhưng hôm nay trông gã tiều tụy hốc hác vô cùng.
Gã cũng như những nông dân khác mà cuộc đời chỉ có độc một cái vinh dự là có được những đám ruộng cày sâu, những đồng lúa vàng và những hoa lợi tốt. Gã tự hào với những kết quả thâu lượm bằng mồ hôi nước mắt ấy và gã sung sướng tỏ ra cần cù, đảm đang như vậy.
Trong cảnh khổ sở cay đắng vì thiên tai địa nạn bây giờ, mặt gã cũng còn giữ đôi nét nghị lực nhưng đôi mắt thật thà của gã đã tràn đầy niềm thất vọng.

Vợ gã thỉnh thoảng liếc trộm chồng rồi quay nhìn chỗ khác. Trước kia chị là một thôn nữ đẹp có đôi má tròn mịn. Chân chị đi đất và thân hình cân đối của chị đã gầy đi rất nhiều. Đôi mắt bây giờ đã quầng thâm và mái tóc dài đen của chị đã biến thành màu hung hung, rối tung bởi vì đã lâu ngày không chải. Chị le lưỡi liếm đôi môi khô lạnh. Mấy đứa con quấn quít xung quanh chị làm chị bận rộn luôn luôn. Hai đứa nhỏ nhất không bao giờ rời mẹ. Một đứa nằm gọn trong lòng chị, bám lấy đôi vú như bám vào hai miếng thịt khô, trống rỗng. Dù sao, nguồn sinh lực khô cạn ấy cũng an ủi nó đôi phần vì ta thấy nó bớt rên khóc trong một lúc. Chị còn ẵm trên tay một đứa bé gái độ hai tuổi, ốm yếu. Con bé nằm im, nín lặng, Ba đứa lớn hoạt động hơn, nhưng nếu có đứa nào lảng xa hay bén mảng đến gần bờ nước chị đã kêu chu chéo lên. Chị lo ngại và chỉ muốn chúng đứng gần trong vòng tay của chị.

Đêm đến, nỗi lo ngại của chị càng tăng lên. Chị cố thức ngủ để giữ mấy đứa con cạnh mình - Gió rít lên và chung quanh một bể nước bao la mờ mờ rùng rợn. Mỏi mệt quá thiếp đi, khi tỉnh dậy, chị hoảng hốt đưa tay sờ mấy đứa con: "Đây, cả năm đứa đây rồi" "Con Tý đâu? à! Đây rồi".
Người chồng cựa mình. Chị hỏi:
- Làm gì đấy "mình"? Có chuyện gì thế?
Thỉnh thoảng, người chồng thốt lên lời than oán, nguyền rủa bâng quơ. Chị biết vì sao chồng chị cằn nhằn như vậy. Chị lặng im. Trong đêm tối, thỉnh thoảng chị vùng dậy, đến bên mấy đứa con.

Sáng ngày, chị cố gắng tỏ ra hoạt động vui vẻ làm như chị sắp sửa làm nhiều món ăn. Chị múc nước đổ vào một cái bầu, trong đấy có một ít hột gạo. Chị cố nói bằng giọng vui tươi:
- ồ! Còn nhiều bột lắm. Thật thế. Thì ra mình không nghĩ đến, chúng ta có thể ăn được nhiều ngày nữa.
Chị chia phần, có ý để phần nhiều cho chồng ăn. Hai đứa lớn càu nhàu. Chị cố dàn xếp cho chúng im lặng. Chị liếc trộm chồng trong khi người chồng nhìn tất cả bằng đôi mắt buồn rầu và không thốt ra lời. Chị để dành cho mình một chén nhỏ và giả bộ hì hục nuốt. Chị không dám ăn hết phần của chị, viện cớ là không đói lắm hay đau bụng, khi chồng chị nhìn đi chỗ khác, chị vội vàng đút cho hai đứa bé.
Nhưng chồng chị đã biết. Gã nổi cáu khi thấy chị làm như vậy, gã hét lên:
- Tôi không muốn "mình" nhịn đói để chết dù "mình" cứu sống được một đứa con!
Gã tỏ ra bằng lòng khi thấy chị đưa chén lên miệng. Chị nuốt phần còn lại trong chén từ từ làm như chị đã ăn nhiều lắm.

Tất cả cử chỉ của vợ đã làm cho gã biết là không còn gì để ăn được nữa và gã đau đớn nhìn bầy con kêu gào đòi ăn thêm... Chúng không im lặng theo lời mẹ chúng mắng nữa và bắt đầu khóc lên ầm ĩ. Tội nghiệp, xưa kia chúng to béo, có gì thiếu cho chúng nó đâu. Chúng nó không hiểu vì sao nước lại ngập cả vùng này và nghĩ rằng cha chúng phải tìm cách cứu vãn tình trạng nguy khốn ấy chứ.
Gã đến bờ nước ngồi lặng im, hai tay bịt lấy tai trong khi bầy con khóc náo loạn. Gã nhìn ra vũng nước lụt mênh mông, mặt gã tái đi trông rất thiểu não. Hình như có cái gì đau xót lắm đang cấu xé gã.
Chị vợ hoảng sợ khẽ van bầy con:
- Nín đi! Nín đi! Đừng làm bố giận! Nín đi!
Mấy đứa nhìn mặt chị sợ sệt nín thinh vì chúng đoán chừng có chuyện gì xảy ra.

Sự xích mích âm thầm nhưng đau đớn giữa hai vợ chồng vẫn tiếp diễn. Ngày lại ngày qua, bột gạo trong thùng đã vơi dần nhưng nước lụt và mưa gió vẫn còn ngự trị không giảm chút nào. Rồi mỗi đêm qua, người mẹ vẫn thấp thỏm đếm từng đứa con.
Nhưng chị không thể vĩnh viễn thức ngủ được nữa. Một đêm kia chị mệt lả vì đói và thiếp đi khi nào không biết. Hai cánh tay chị rã rời ôm mấy đứa con nhưng chị mê man chẳng biết gì cả khi chồng chị lay nhẹ hai đứa con gái nhỏ trở dậy.
Hai đứa ngoan ngoãn theo gã trong bóng tối, đến một quãng xa. Lát sau gã trở về một mình, ngã quỵ xuống nằm dài. Thỉnh thoảng, vài tiếng thở dài của gã nức lên não ruột.

Tờ mờ sáng, chị vợ vùng dậy hoảng hốt vì chị vừa biết mình đã ngủ quá mê. Chị run run sờ mấy đứa con.
- Hai đứa kia đâu rồi?
Chị la lên và nhìn xuống phía dưới. Chị chạy đến bên chồng vồ lấy gã và hét:
- Hai đứa nhỏ đâu rồi?
Gã ngồi chồm hổm trên đất, hai gối ôm lấy đầu nín lặng. Chị quay cuồng mất cả bình tĩnh và khóc òa lên như điên. Chị nắm lấy vai chồng lay mạnh, chu chéo:
- Tôi là mẹ chúng! Trời ơi! Tôi là mẹ chúng!

Tiếng kêu của chị đánh thức tất cả mọi người chung quanh trên miếng đất tang tóc ấy. Nhưng không có một tiếng đáp lại. Người ta bàn tán với nhau và hình như đã hiểu chuyện xảy ra.
Chị vợ gào lên thảm thiết, giọng đứt quãng:
- Một người mẹ, không bao giờ... làm một việc như thế... chỉ có những người cha... không biết thương con... mà chỉ tiếc một số gạo để nuôi chúng...

Người chồng đang ủ rũ bỗng ngẩng đầu lên nhìn vợ trong ánh sáng mờ mờ và nói qua kẽ răng:
- "Mình" tưởng rằng tôi không thương con à!
Gã quay mặt và sau một phút im lặng, gã nói tiếp:
- "Chúng sẽ không đói nữa"...
Rồi thốt nhiên, nước mắt gã trào ra.
Vợ gã nhìn gã nghẹn ngào.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeFri May 08, 2020 6:26 am

.
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Quote-there-is-always-a-third-possibility-as-long-as-you-have-the-ability-to-find-it-selma-lagerlof-71-43-40

Selma Lagerlöf (1858-1940)
Nhà văn nữ Thụy Điển, đoạt giải Nobel Văn học năm 1909.
Bà là nhà văn nữ đầu tiên trên thế giới đoạt giải thưởng này.


Câu Chuyện Vợ Một Người Dân Chài
- Selma Lagerlöf (Nobel 1909)


Ở cuối xóm chài, trên một gò thấp cát trắng có một túp nhà tranh nhỏ. Túp nhà xây dựng chẳng ra gì nên không được đứng cùng hàng với những căn nhà nhỏ khác đều đặn và sạch sẽ ở xung quanh bãi cỏ xanh rộng rãi, nơi những vòng lưới màu nâu nằm phơi nắng. Tưởng như túp nhà này tự tách khỏi hàng lối và bị đẩy ra tận cồn cát. Người đàn bà góa khốn khổ, là người đã thiết kế và tự xây dựng túp nhà này đã xây dựng những bức tường thấp hơn những bức tường của tất cả các nhà khác, còn cái mái nhọn thì cao hơn bất cứ mái nhà nào trong thôn. Nền nhà thấp hơn mặt đất. Cửa sổ dù không cao, không rộng, những cũng chạy suốt từ mặt đất đến mái nhà. Bếp lò cũng như chuồng ngỗng đều không đặt được trong gian nhà độc nhất chật hẹp phải vây thêm ra ngoài tường. Túp nhà này không giống như những nhà khác, chẳng có một mảnh vườn để cho dây bìm bìm leo quanh cây phúc bồn tử, và cây ngưu bàng che mất một nửa tàn lá cây mộc hương. Trong tất cả các loại cây chỉ có cây ngưu bàng là chịu mọc theo túp nhà tranh này đến tận cồn cát. Về mùa hè những cây ấy cũng khá lộng lẫy với tán lá tươi mát màu xanh thẫm và những bông hoa đỏ nở tung giữa đám gai nhọn có móc. Nhưng đến mùa thu, khi những ngọn cây đã cứng lại và hạt đã già thì ngưu bàng không thèm làm dáng nữa, nó khô quắt lại, trở nên xấu xí và đám lá rách của nó phủ đầy tang tóc dưới những mạng nhện bụi bám đầy.
Túp nhà tranh này không bao giờ ở được quá hai đời chủ, bởi vì những bức tranh torsi của nó chỉ có thể đỡ được cái mái nặng trong hai thế hệ thôi, và bao giờ chủ túp nhà cũng là những người đàn bà góa khốn khổ. Người quả phụ hiện đang ở trong túp nhà này ưa ngắm những cây ngưu bàng, nhất là về mùa thu, khi cây đã khô đi và bám vào những tảng đá. Những cây này nhắc bà nhớ lại những người đàn bà trước kia ở đây và đã xây dựng lại túp nhà: đó là một người đã khô héo và úa tàn, và cũng có khả năng bám móc và níu giữ, Con người khốn khổ ấy đã sử dụng tất cả sức lực của mình cho đứa con mà bà phải đẩy vào đời. Nghĩ đến điều này, người chủ hiện nay của túp nhà vừa muốn cười lại vừa muốn khóc. Nếu bà lão đã quá cố ấy không có cái bản chất bám giữ như cây ngưu bàng thì sự việc có lẽ đã xoay chuyển khác đi, nhưng biết rằng như vậy có tốt hơn không nhỉ?

Người quả phụ thường ngẫm nghĩ miên man đến sự tình cờ đã đưa bà đến giải bờ biển bằng phẳng này của xứ Xcani bên cạnh eo biển hẹp giữa những người dân bình lặng và chậm chạp này. Bởi vì bà sinh ra ở một hải cảng nhỏ của nước Na Uy, dưới những thung núi dốc đứng, trước mặt biển rộng; và mặc dầu gia đình lâm vào cảnh khó khăn nghèo túng sau khi ông bố mất đi, người con gái con nhà buôn bán này vẫn quen nhìn thấy quanh mình cuộc sống tấp nập. Bà đã nhiều lần tự kể lại cho mình nghe lịch sử của chính mình, như người ta đọc lại một quyển sách khó hiểu để thử rút ra ý nghĩa của nó.
Số phận kỳ lạ của con người này đã bắt đầu như sau: một buổi tối, từ cửa hiệu khâu nơi nàng làm việc trở về nhà, nàng bị hai người thủy thủ tấn công; một người thủy thủ thứ ba cứu nàng thoát nạn. Anh ta đã đương đầu với một hiểm họa chết người thật sự; và anh ta đưa nàng về đến tận nhà. Nàng đưa anh vào, giới thiệu anh với mẹ và các em gái rồi phấn khích thuật lại hành động của anh. Nàng thấy như cuộc sống của mình thêm phần giá trị khi có một người khác dám liều thân để bảo vệ nó. Gia đình nàng đã tiếp đón chàng thủy thủ trẻ rất niềm nở và mời chàng luôn luôn trở lại chơi với gia đình mỗi khi chàng có dịp.
Chàng tên là Borje Ninxơn, làm thủy thủ trên một chiếc tàu nhỏ có hai buồm của xứ Xcani, tàu Anbectina. Trong suốt thời gian tàu còn đậu ở cảng, chàng hầu như ngày nào cũng đến nhà những người bạn mới của mình; và chẳng bao lâu, cả nhà không ai muốn tin rằng chàng chỉ là một thủy thủ bình thường. Lúc nào chàng cũng diện với chiếc cổ bẻ trắng lốp và bộ quần áo thủy thủ bằng dạ đẹp. Thẳng thắn, nhanh nhẹn, tư cách của chàng chẳng khác gì người cùng đẳng cấp với gia đình này. Chàng chẳng bao giờ nói gì với họ, nhưng cả nhà đều có cảm tưởng chàng là con trai của một quả phụ giàu có. Sở dĩ chàng đi làm một chân thủy thủ bình thường là vì không sao cưỡng được lòng yêu thích đi biển và là để chứng minh cho mẹ chàng biết sở thích ấy của chàng là nghiêm túc; nhưng sau khi vượt qua thử thách thì mẹ chàng sẽ mua cho chàng một chiếc tàu.
Thế là gia đình người Na Uy này, đã từ lâu không đi lại chơi bời với những người quen biết cũ nữa, đón tiếp chàng chẳng chút nghi ngại. Tính tình xốc nổi và ăn nói lém lỉnh, chàng miêu tả ngôi nhà của mình có mái nhọn và cao, trong phòng có cái bếp lò lớn kiểu cổ, cửa sổ có những ô kính nhỏ. Chàng cũng kể về những đường phố lặng lẽ của thành phố quê hương mình và những dãy nhà cùng một kiểu như nhau. Còn nhà của chàng với những mảng trang trí nhô ra thụt vào đã tạo một sự tương phản thú vị với quang cảnh xung quanh. Và những người nghe chàng kể chuyện đều thấy hiện ra sau lưng chàng một ngôi nhà cổ giàu sang có hình trang trí ở đầu hồi, một kiểu nhà cổ có tầng gác nhô ra gây nên một cảm giác dễ chịu của sự phong lưu và cổ kính.

Cô thiếu nữ rất sớm nhận ra là chàng đã yêu mình; và điều đó làm cho mẹ và các em nàng vui mừng. Chàng trai Thụy Điển trẻ tuổi và giàu có này đã được trời phái đến để bù đắp cho sự nghèo túng của họ. Dù nàng không yêu chàng đi nữa thì cũng không bao giờ nghĩ đến chuyện xua đẩy chàng đi. Một người bố, một người anh chắc chắn là đã tìm cách dò la tìm hiểu về người khách lạ này, nhưng mẹ nàng cũng như nàng chẳng hề cẩn thận nghĩ đến điều đó. Về sau này, nàng mới hiểu ra rằng chính mẹ con nàng đã hầu như đẩy chàng đến chuyện nói dối. Lúc đầu không hề có ý nghĩ xấu, chàng đã để cho trí tưởng tượng của họ gán cho chàng những tài sản lớn; rồi đến khi thấy họ sung sướng biết mấy khi tưởng chàng giàu có thì chàng đã sợ mất nàng nên không dám cho họ tỉnh ngộ nữa.
Hai người đính hôn với nhau lúc chàng ra đi, và khi con tàu hai buồm trở lại thì họ làm lễ cưới. Nàng có hơi thất vọng khi thấy chàng trở lại mà vẫn chỉ là anh thủy thủ thường; nhưng chắc là hợp đồng thủy thủ của chàng chưa hết hạn. Chàng cũng chẳng mang đến món quà nào của mẹ chàng. Nhưng chắc là bà già đã hy vọng cho con trai bà sẽ lấy một đám khác. Vậy phải chờ đến lúc Axtid về gặp bà và chinh phục được cảm tình của bà. Kể ra nếu họ biết xét đoán cẩn thận thì mặc dầu tất cả những điều nói dối của chàng, họ cũng có thể thấy được là chàng nghèo.
Vì người vợ trẻ muốn được đi du lịch trên chiếc tàu buồm, nên ông chủ tàu mời nàng ở trong cabin của ông, và nàng sung sướng nhận lời. Borje hầu như được miễn tất cả mọi công việc, và chàng dành phần lớn thời gian của mình để trò chuyện cùng Axtid trên boong. Chàng hào phóng ban cho nàng cái hạnh phúc tưởng tượng, cái hạnh phúc mà chính chàng đã sống suốt cả đời mình. Chàng càng nghĩ đến túp nhà tranh bé nhỏ nằm ngập trong cát, lại càng vẽ lên thật cao ngôi nhà mà chàng những muốn đưa nàng vào. Theo lời kể của chàng, người thiếu phụ nhẹ nhàng lướt đi giữa một bến cảng kết đầy hoa và giăng đầy cờ để chào đón người vợ mới cưới của Borje Ninxơn. Nàng ngồi xe để chạy qua một cổng chào, trong khi những người đàn ông cứ nhìn theo nàng mãi và những người phụ nữ thì tái mặt đi vì ghen tức. Cuối cùng chàng đưa nàng vào một ngôi nhà cổ kính có những người hầu mái tóc bạc phơ cúi gập mình chào nàng và mời nàng ngồi vào bàn tiệc bày la liệt những bộ đồ cổ bằng bạc.
Sau này khi nàng đã biết rõ sự thật, ý nghĩ đầu tiên của nàng là viên thuyền trưởng đã đồng tình với Borje để lừa dối nàng; nhưng rồi nàng phải hoàn toàn thừa nhận là không đúng như vậy. Trên chiếc tàu này, mọi người có thói quen nói về Borje như là một người khá giả. Họ có một kiểu đùa cợt ưa thích là nói chuyện một cách rất nghiêm chỉnh về tài sản và gia đình bề thế của chàng. Họ tưởng rằng nàng cũng nói đùa như họ. Vậy là đến khi chiếc thuyền buồm thả neo ở bến cảng gần làng của Borje nhất, nàng vẫn còn tưởng mình là vợ của một người giàu có.

Borje được nghỉ phép một ngày một đêm để đưa vợ về nhà mẹ chàng và sắp đặt lại cuộc sống mới cho vợ.
Khi hai người đi đến bến tầu mà dáng lẽ phải có những lá cờ phất phới và đám đông reo hò chào đón đôi vợ chồng trẻ thì ở đó chỉ thấy vắng lặng như thường lệ. Borje nhận thấy cô vợ thất vọng đưa mắt nhìn quanh.
- Chúng mình đến sớm quá, - chàng nói. - Thời tiết tốt nên chuyến đi được rút ngắn lại rất nhiều! Họ chẳng cho xe đến, giờ ta phải đi bộ một quãng khá xa, vì nhà ta ở ngoài thành phố.
- Có hề gì, anh Borje? - Nàng trả lời. - Ngồi im mãi một chỗ rồi, bây giờ đi bộ càng tốt.
Và họ bắt đầu lên đường, con đường ghê tởm mà sau này, cả đến lúc đã già, nàng không thể nghĩ đến mà không rên lên khổ não và co quắp cả hai bàn tay vì đau đớn. Họ đi theo những đường phố rộng và vắng vẻ mà nàng thấy đúng như chàng đã tả. Nhìn cái nhà thờ âm u và những ngôi nhà trát torsi cao bằng nhau một loạt, nàng tưởng như gặp lại bạn cũ của mình. Nhưng còn cái đầu hồi nhọn và cái cầu thang viền lan can đẹp thì ở đâu nhỉ?
Borje gật đầu ra hiệu với nàng tưởng như chàng đoán được điều nàng đang nghĩ.
- Còn xa đấy, chàng nói.
Ôi, sao mà chàng không biết thương xót, sao mà chàng không làm cho bay tiêu tan ảo mộng ngay đi! Giá lúc ấy chàng thú nhận ngay tất cả thì có lẽ nàng không mảy may oán giận vì nàng còn quá yêu chàng. Chàng đã thấy nỗi lo sợ bị lừa dối của nàng mỗi lúc một tăng lên, mà chàng vẫn còn tiếp tục nói dối. Đó là điều làm cho nàng đau khổ, là điều nàng không bao giờ hoàn toàn tha thứ cho chàng được. Mặc dù nàng tự nhủ rằng lúc đầu chàng muốn đưa nàng đi khá xa để không thể bỏ chàng được nữa; nhưng chàng cứ cố tình nói dối mãi làm cho tâm hồn nàng lạnh giá đi như một tảng băng không còn tình yêu nào có thể làm tan đi được.
Vậy là họ đã vượt qua thành phố và đi vào cánh đồng. Nàng nhìn thấy những khúc hầm hào tối om và những lũy đất cao mọc đầy cỏ xanh, đó là những di tích thành lũy phòng ngự ngày xưa của thành phố. Ở những chỗ hào lũy nối nhau vây quanh một pháo đài nổi lên những tháp canh lớn màu xám và một ngôi nhà dáng rất cổ. Nàng rụt re bước qua nhưng Borje lại rẽ sang phải đi theo một lũy đất chạy dọc bờ biển.
- Đây là đường tắt, - chàng nói khi thấy nàng ngạc nhiên vì phải đi vào một lối hẹp.

Chàng trở nên lầm lì. Sau này nàng mới hiểu ra rằng lúc ấy chàng đã thấy khổ tâm lắm vì phải đưa vợ đến túp nhà tranh tồi tàn trong xóm, đã thấy chẳng sung sướng gì khi lấy một người vợ địa vị cao hơn mình, và đã lo sợ không hiểu lúc biết rõ sự thật thì nàng sẽ xử trí ra sao?
Sau khi hai người im lặng đi dọc theo các bờ lũy, nàng nói: - Anh Borje, chúng mình đi đâu thế này? Chàng giơ tay chỉ vào xóm, nơi mẹ chàng ở trong túp nhà tranh, trên cồn cát. Nhưng nàng lại tưởng chàng chỉ vào một trong những trang trại đẹp ở rìa cách đồng và nàng lại tin tưởng.
Rồi hai người
đi xuống những đồng cỏ nước mặn vắng tanh vắng ngắt, và nỗi lo âu lại chiếm lấy lòng nàng. Nơi đây, nhiều loại cỏ mọc xanh um vui mắt, nhưng đối với nàng chỉ là một đầm lầy xấu xí. Gió thổi không ngừng, rít lên quanh nàng và thì thầm với nàng những chuyện tai ương phản bội. Borje bước nhanh. Họ đã vượt qua đồng cỏ nước mặn và đi vào xóm. Trên đoạn đường cuối cùng, nàng không dám hỏi một câu nào khác. Nhưng khi thấy một dãy nhà nữa hiện ra thì nàng lại khấp khởi mừng thầm. Có lẽ, có lẽ anh ấy đã không nói dối.
Những hy vọng của nàng đã bị lay chuyển một cách tàn nhẫn đến nỗi nàng sẽ rất vui lòng bước vào một trong những căn nhà nhỏ bé xinh xẻo có những bông hoa và những riềm cửa trắng hiện ra sau những ô cửa kính sáng loáng này. Nàng thấy tiếc phải vượt qua... 
Bỗng nhiên nàng thấy ở cuối xóm một túp nhà lụp xụp tồi tàn; và đối với nàng túp nhà ấy hình như nàng đã nhìn thấy từ lâu bằng đôi mắt của tâm hồn trước khi nhìn thấy nó thực sự.
- Có phải đấy không? - Nàng hỏi và dừng lại ở chân cồn cát.
Chàng gật đầu và tiếp tục đi đến túp nhà tranh.
- Khoan đã! - Nàng kêu lên, - chúng ta cần phải nói cho nhau rõ về chuyện này. Chàng quay lại phía nàng.
- Anh đã nói dối! - Nàng nói với giọng đe dọa. - Anh đã lừa tôi; anh đã làm điều tàn tệ hơn cả kẻ thù tàn tệ nhất của tôi. Vì sao vậy?
- Anh muốn lấy em làm vợ, - chàng khẽ lúng túng trả lời.
- Giá anh nói dối vừa vừa thôi thì còn được. Nhưng sao anh lại nhồi vào đầu tôi toàn những chuyện giàu sang? Bịa ra nào là đầy tớ, nào là cổng chào để làm gì? Anh tưởng tôi tham của lắm sao? Anh không cảm thấy tôi yêu anh đến mức độ có thể theo anh đi bất cứ nơi nào à? Sao anh lại nhẫn tâm lừa dối tôi cho mãi đến phút cuối cùng như vậy?
- Em có muốn vào nhà nói chuyện cùng mẹ anh không? - Chàng thì thầm trong cơn tuyệt vọng.
- Tôi chẳng thiết vào.
- Thế em định trở về?
- Làm sao tôi có thể trở về được? Làm sao tôi có thể gây cho gia đình tôi một nỗi buồn lớn lao như vậy? Cả nhà tôi đã tưởng tôi được hưởng hạnh phúc và giàu sang! Nhưng tôi cũng sẽ không ở trong nhà anh. Tay làm hàm nhai, tôi chẳng lo gì.
- Em hãy ở lại, em hãy ở lại, - chàng van xin. - Anh làm như vậy cũng chỉ vì muốn lấy được em thôi.
- Nếu anh thú thật với tôi sớm hơn một chút thì tôi đã ở lại. - Phải, em sẽ ở lại nếu anh như anh giàu mà lại nói là nghèo.
Nàng nhún vai và bỏ đi vừa lúc cách cửa túp nhà tranh mở ra và bà mẹ Borje xuất hiện. Đó là một bà già nhỏ bé quắt queo, mồm móm mém, da nhăn nhúm. Trông bề ngoài bà có vẻ già, song chắc chưa nhiều tuổi và cũng còn minh mẫn.
Có lẽ bà đã nghe được một phần câu chuyện và đoán được phần kia, chứng cớ là bà đã tìm được ngay cách thu xếp.
- Vậy đó, - bà nói. - Con đã dẫn về cho mẹ cô dâu con nhà tử tế, và theo như mẹ thấy thì con lại còn bịa chuyện dối trả nữa kia. Bà dịu dàng lại gần Axtid và vuốt ve má nàng.
- Con vào đây với mẹ, tội nghiệp cho con. Mẹ biết con mệt mỏi và kiệt sức rồi. Đây là túp lều của mẹ, của riêng mẹ, thằng kia sẽ không vào đâu. Vào đi, vào đi con. Bây giờ con là con gái mẹ và mẹ sẽ không để con vào nhà ai khác. Bà vuốt ve thiếu phụ, vỗ về nàng rất dịu dàng và đẩy nàng vào cửa. Cuối cùng Axtid vào nhà, còn Borje ở lại bên ngoài. Bà già hỏi han nàng con cái nhà ai, sự việc xảy ra như thế nào, và bà khóc lóc cho số phận của nàng, làm cho Axtid cũng tự mình phải khóc. Rồi bà nghiêm khắc lên án con trai. Phải, Axtid làm vậy là đúng: không thể trong nhà một người như hắn được. Hắn luôn luôn nói dối. Nhưng xưa nay dáng người và vẻ mặt của hắn vẫn đẹp làm sao! Ngay từ khi hắn còn bé tí tẹo, mẹ hắn đã lấy làm lạ sao hắn lại sinh ra làm con nhà nghèo. Người ta cứ tưởng hắn là một hoàng tử bị lạc. Không bao giờ hắn chịu yên phận. Hắn nhìn mọi vật với con mắt của người quyền quý, và khi lòng tự ái của hắn nổi lên, hắn không còn giữ chừng mực gì nữa. Mẹ hắn đã vì thế mà bao lần phải khóc. Nhưng những chuyện bịa của hắn chưa từng làm hại ai bao giờ. Trong vùng này người ta biết nó, người ta chỉ cười thôi. Thật ra mà nói thì chắc lần này thằng bé tội nghiệp đã bị cám dỗ ghê lắm...
Rất lạ lùng là một thằng con nhà dân chài lại biết đi lừa người ta như vậy. Axtid có nghĩ đến điều ấy không? Cái thằng này có thông thạo lề thói lịch sự và những thói quen của người giầu có, đến nỗi ai cũng tin chắc nó là con nhà giầu. Chắc chắn là nó đã bị lầm lạc trong cuộc sống. Chứng cớ là nó chưa bao giờ có ý định chọn một người vợ cùng đẳng cấp.

Bà già cứ nói, cứ nói. Axtid lặng im. - Con thấy không, - bà nói tiếp, - mẹ chẳng có thể làm cho nó bỏ được thói kiêu ngạo và ý muốn huyênh hoang, nhưng một người đàn bà khác khôn hơn mẹ có lẽ sẽ làm được. Thằng con của mẹ nó tốt bụng và có năng lực: cái đó chắc cũng đáng để thử xem... Nhưng ngày mai mẹ sẽ để con đi, mẹ hứa như vậy.
- Đêm nay anh ấy sẽ ngủ đâu? Đột nhiên Axtid hỏi.
- Mẹ nghĩ nó sẽ ngủ ngoài trời, trên bãi cát. Chắc nó không dám đi xa đâu.
- Để anh ấy vào nhà thì hơn. Axtid nói. 
- Không, con yêu quý của mẹ, chắc con chẳng muốn nhìn thấy nó; vả lại nó có ngủ ngoài trời cũng chẳng hề gì; mẹ sẽ đưa cho nó một cái chăn. Quả thật đêm ấy chàng ngủ trên bãi cát, và sáng hôm sao bà mẹ sai chàng ra thành phố vì bà không muốn Axtid nhìn thấy chàng. Và bà tiếp tục nói chuyện với nàng, và bà đã giữ được nàng lại không phải bằng áp lực mà bằng lời nói, không phải bằng mưu mẹo và cung cách màu mè, mà bằng lòng nhân hậu thật sự.
Cuối cùng khi bà đã thuyết phục được cô con dâu ở lại với người con trai bà, khi bà đã thấy hai người trẻ tuổi hòa giải với nhau và bà đã làm cho Axtid tin rằng thiên chức của nàng đích thị là làm vợ của Borje Ninxơn và đem lại cho chàng tất cả những điều tốt lành mà nàng có thể làm được; khi bà lão đã hoàn thành cái nhiệm vụ ấy, - cái nhiệm vụ không phải chỉ làm trong một ngày hay một tuần, - khi ấy bà mới nhắm mắt.
Trong cuộc đời của người đàn bà luôn luôn lo lắng cho đứa con trai của mình ấy, Axtid thấy ít ra cũng còn có một ý nghĩa, nhưng trong cuộc đời của chính mình, nàng chẳng thấy có một ý nghĩa nào. Cưới nhau được mấy năm thì Borje bị chết đuối; đứa con độc nhất của họ cũng chết khi còn trẻ. Nàng đã chẳng làm cho chồng sửa đổi được tính nết. Nàng đã chẳng dạy được cho chồng tính thật thà và đứng đắn. Nhưng cuộc sống đã làm cho chính nàng thay đổi. Axtid càng ngày càng hòa mình với đám dân chài.

Nàng không bao giờ muốn gặp lại một người nào trong gia đình nàng, bởi nàng lấy làm xấu hổ bởi vì mình giống như những người đàn bà trong xóm chài về mọi mặt. Cuộc đời của nàng đã giúp ích được gì cho ai? Nàng sinh sống bằng việc trông nom và vá lại những tấm lưới cho những người đánh cá; nhưng nàng không biết mình sống để làm gì. Giá như ít ra nàng đã làm cho một người, chỉ một người thôi được sung sướng hoặc trở nên tốt hơn...
Không bao giờ nàng tự nhủ rằng một con người đã coi cuộc đời của mình là hoài phí vì đã không làm được điều gì tốt lành cho ai cả, lại có thể do ý nghĩ khiêm nhường như vậy, cứu vớt được linh hồn của mình.

NGỌC THỌ dịch
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitimeWed Jun 03, 2020 5:13 pm

.
tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel About+Doris+Lessing+%281919+%E2%80%93+2013%29


KHÔNG BÁN TRÒ PHÙ THỦY
- Doris Lessing (1919-2013)(Nobel 2007) 


Ông bà Farquar đã không có con từ nhiều năm trước khi bé Teddy được sinh ra; và họ rất vui khi thấy sự mừng rỡ của những người đầy tớ, đến trại tặng quà nào gà và trứng và hoa khi họ đến ăn mừng đứa bé, trầm trồ khen cái đầu nhiều lông tơ vàng và đôi mắt xanh của nó. Họ chúc mừng bà Farquar như bà đã đạt được một thành quả to lớn, và bà ta cũng cảm thấy như vậy - nụ cười bà dành cho những người bản xứ đang vây quanh thán phục trông thật ấm áp và biết ơn.      

Sau này, khi Teddy cắt tóc lần đầu, đầu bếp Gideon nhặt những chùm tóc mềm mại màu vàng lên từ mặt đất, và cầm chúng một cách cung kính. Rồi lão mỉm cười nhìn thằng nhỏ và bảo: “Cái Đầu Vàng Bé Tí.” Cách gọi đó trở thành tên địa phương cho thằng bé. Gideon và Teddy là bạn tri kỷ ngay từ lúc đầu. Lúc Gideon làm xong công việc, lão lại bồng Teddy lên vai và ngồi dưới bóng mát một cây to, và chơi đùa với thằng nhỏ, tạo hình những đồ chơi hiếu kỳ từ những nhánh lá cây cỏ, và nặn hình những con thú từ đất ướt. Lúc Teddy tập đi, chính Gideon là người hay thường khom mình trước thằng nhỏ, cục cục những lời cổ vũ, cuối cùng bắt kịp thằng bé khi nó té, tung nó lên không đến khi cả hai cười đến hết hơi. Bà Farquar rất yêu mến lão đầu bếp vì tình thương gã dành cho con của bà.   
Teddy là đứa con duy nhất; và một ngày nào đó Gideon bảo: “À, bà ơi, bà ơi, Thượng Đế trên kia gửi cho chúng ta đứa này. Cái Đầu Vàng Bé Tí là của cải quý giá nhất trong nhà chúng ta”. Vì hai chữ “chúng ta” đó mà bà Farquar chợt nhận thấy một cảm xúc ấm áp với lão đầu bếp của bà; và cuối tháng đó bà tăng lương cho lão. Lão đã giúp việc với bà đã nhiều năm; một trong số ít những người bản xứ có vợ và con ở chung trong trại và không bao giờ phải về làng thăm gia đình, xa cả mấy trăm dặm. Đôi khi người ta thấy một đứa bé da đen, sinh cùng lúc Teddy ra đời, nhoi đầu ra khỏi bụi cây, với nỗi kinh sợ, nhìn đứa bé da trắng với mái tóc vàng phi thường và đôi mắt xanh miền Bắc. Hai đứa nhỏ nhìn nhau chăm chú, và có một lần Teddy đưa tay ra tò mò rờ má và tóc của đứa bé da đen.   
Gideon nhìn thấy, lắc đầu ngạc nhiên, bảo: “À, bà ơi, cả hai chúng là con nít, rồi một đứa sẽ lớn lên làm chủ, một đứa lớn lên làm tôi tớ”, và bà Farquar buồn rầu cười bảo “Ừ, Gideon ạ, tôi cũng đang thầm nghĩ như vậy.” Bà thở dài. “Đây là ý trời”, Gideon nói, lão cũng đã từng đi truyền giáo. Ông bà Farquar rất sùng đạo; và sự sùng kính đó trói chặt chủ tớ gần nhau hơn.
   
Khi Teddy khoảng sáu tuổi, nó được cho một cái xe nhỏ, và khám phá ra sự quyến rũ của tốc độ. Cả ngày nó chạy lòng vòng trong trại, ra vô những bụi hoa, xen vào giữa những bầy gà quác quác và những con chó tức tối, rồi chấm dứt bằng một cái xâm vòng cung hoa mắt vào cửa bếp. Ở đó nó khóc: “Gideon nhìn nè!” Và Gideon lại cười lớn và bảo: “Giỏi lắm, Cái Đầu Vàng Bé Tí ạ.” Đứa con trai nhỏ nhất của Gideon, bây giờ đã đi chăn, từ trại lên nhà trên để coi cái xe. Nó sợ đến gần xe, nhưng Teddy thì lại khoe khoang trước mặt nó. “Thằng đen” Teddy la lớn “tránh ra cho tao đi.” Và rồi nó chạy vòng quanh thằng bé da đen đến khi đứa nhỏ nó đâm ra sợ hãi, và chạy về bụi cây.   
“Tại sao cậu làm nó sợ?” Gideon hỏi, quở mắng một cách nghiêm trọng.  
Teddy chống đối: “Nó chỉ là một thằng đen thôi mà” và cười lớn.
Lúc đó, sau khi Gideon quay mặt đi chỗ khác không nói một lời, mặt thằng bé sầm xuống. Rồi nó đi vào nhà tìm một quả cam và đem tới cho Gideon nói: “Cái này của ông.” Nó không đủ can đảm xin lỗi; nhưng nó cũng không muốn mất cảm tình của Gideon.
Gideon cầm quả cam lưỡng lự và thở dài. “Rồi cậu sẽ sớm đi học, Cái Đầu Vàng Bé Tí” lão vừa nói vừa suy nghĩ “Và rồi cậu sẽ lớn lên.” Lão lắc đầu nhẹ nhàng và bảo “Và đời là thế.” Lão có vẻ như đang cách xa Teddy, không phải vì lão giận, nhưng trong cách một người chấp nhận một sự kiện không thể nào tránh được. Một đứa nhỏ đã nằm trong tay lão và cười với lão: một đứa nhỏ đã đeo vai lão và đùa chơi với lão. Bây giờ Gideon sẽ không cho da thịt lão chạm vào da thịt của đứa bé da trắng. Lão rất ân cần, nhưng có một cái gì rất nghiêm trang trong giọng lão làm Teddy bĩu môi quay đi. Còn nữa, cái gì đó làm nó trở thành một người đàn ông: với Gideon thì nó lịch sự, và hành xử đúng nguyên tắc, và nếu nó vào nhà bếp cần điều gì, nó vào trong tư cách một người đàn ông da trắng đối với một người hầu, chờ đợi người ta tuân lệnh.

Nhưng hôm mà Teddy lạng quạng vào bếp ôm mặt la khóc vì đau đớn, Gideon buông rơi cái nồi canh nóng mà lão đang cầm, nhào đến cạnh đứa nhỏ, và gỡ tay nó ra. “Con rắn!” lão la lên. Teddy đang chạy xe hồi nãy, và ngừng lại nghỉ chân bên cạnh một chậu hoa lớn. Một con rắn, đuôi quấn vào mái nhà, phì nọc độc thẳng vào mắt đứa bé.
Bà Farquar chạy xuống bếp vì những tiếng động. “Nó sẽ mù mất” bà than khóc, ôm Teddy vào lòng. Đôi mắt của Teddy, chắc chỉ còn sáng được khoảng nửa giờ, đã sưng lên to bằng nắm tay. Cái mặt trắng nhỏ nhoi của Teddy méo mó theo những u nhồi rỉ nước tím ngắt. Gideon bảo: “Đợi tôi tí, bà ạ, tôi sẽ đi lấy thuốc”. Rồi lão chạy vào lùm cây.   
Bà Farquar đem đứa nhỏ vào nhà và rửa mắt nó với thuốc tím. Bà nghe loáng thoáng lời Gideon nói; nhưng khi bà thấy những thuốc chữa của mình không công hiệu, và nhớ ra những lần bà thấy những người bản xứ mù, vì bị rắn độc phun, bà bắt đầu mong đợi lão đầu bếp trở về, nhớ lại những gì nghe được về sự hiệu nghiệm của những dược thảo địa phương. Bà đứng bên cạnh cửa sổ, ôm trong lòng đứa bé trai đang khóc lóc sợ hãi, và nhìn chòng chọc vào bụi cây. Chỉ vài phút sau bà thấy Gideon trở về, và trong tay cầm một cành cây.   

“Bà ơi, đừng sợ,” Gideon bảo, “cái này sẽ chữa mắt của Cái Đầu Vàng Bé Tí.” Lão xé lá khỏi cành cây, để lại một cái rễ nhỏ nhiều cùi màu trắng. Không cần rửa, lão bỏ cái rễ vào miệng nhai mãnh liệt, và rồi ngậm bã trong miệng khi lão giằng lấy đứa nhỏ từ tay bà Farquar. Lão kẹp Teddy ở giữa hai đầu gối, và ép hai đầu ngón tay cái vào đôi mắt sưng to, đến mức đứa nhỏ thét lên và bà Farquar la lên chống lại: “Gideon, Gideon.”
Nhưng Gideon không để ý đến bà. Lão quỳ bên cạnh đứa nhỏ đang quằn quại, kéo mí mắt nó mở ra để tròng mắt hiện ra, và rồi lão nhổ rất mạnh, một vài lần, vào một mắt, và mắt kia.
Cuối cùng lão nâng Teddy lên một cách nhẹ nhàng đặt vào lòng mẹ nó, và nói: “Mắt cậu rồi sẽ lành.”
Nhưng bà Farquar vẫn đang than khóc trong kinh sợ, và không đủ sức cám ơn lão: khó mà tin được là Teddy vẫn thấy đường. Vài tiếng sau chỗ sưng biến mất. Mắt vẫn bỏng rát và mọng nhưng Teddy đã có thể nhìn thấy. Ông bà Farquar vào bếp tìm Gideon và tạ ơn lão nhiều lần. Họ cảm thấy bất lực với lòng biết ơn: không biết làm gì để bày tỏ lòng dạ mình. Họ tặng Gideon nhiều món quà cho vợ con lão, và tăng lương cho lão thật nhiều, nhưng những thứ này không thể bù lại với đôi mắt hoàn toàn lành mạnh của Teddy.
Bà Farquar bảo: “Gideon, Chúa đã chọn lão làm công cụ cho ơn lành của Ngài” và Gideon bảo: “Dạ, bà ơi, Chúa rất bao dung.”   

Này nhé, khi một sự việc như vậy xảy ra trên một nông trại, chẳng bao lâu thì tất cả mọi người đều biết. Ông bà Farquar kể cho láng giềng của họ nghe và câu chuyện được bàn tán từ đầu quận đến cuối quận. Rừng cây đầy bí mật. Không ai có thể sống ở Châu Phi, hay ít nhất là trên thảo nguyên, mà không sớm biết rằng đã có một kiến thức cổ xưa về lá cây và đất đai và mùa màng - và, thêm nữa, có thể điều quan trọng nhất, về những ngõ nghách tăm tối nhất của tâm trí con người - là di sản của người da đen. Khắp quận người ta kể chuyện, nhắc lại cho nhau nghe những điều đã xảy ra với mình.   
“Nhưng bảo này, chính mắt tôi trông thấy. Rắn phì cắn đấy. Cánh tay thằng nhỏ sưng tới cùi chỏ, trông như cái bọng đái đen bóng. Nó đờ người đi độ nửa phút, gần chết. May là có ông thầy chạy vô bụi hái mấy cái lá xanh đó, bôi lên chỗ bị cắn, rồi bữa sau thằng nhỏ đi làm lại được, mà chỉ còn thấy hai cái lỗ nhỏ trên da thôi.”   
Họ kể nhau nghe mấy chuyện như vậy. Mà gần như lúc nào họ cũng làm có vẻ nghiêm trọng hơn, bởi vì mặc dầu ai cũng biết rừng rậm Phi châu có lắm thứ thuốc quí giá, trong vỏ cây, lá cây thường thấy, trong rễ má, nhưng khó mà biết được sự thật từ người địa phương.   

Dần dần chuyện cũng đến tai dân ở phố; có lẽ trong một buổi tiệc tùng chiều tối, hay trong những lần họp mặt, một bác sĩ, tình cờ có mặt ở đó, chất vấn. “Nhảm nhí,” ông nói. “Chuyện nói cho quá. Chúng tôi luôn luôn kiểm lại mấy chuyện như vậy, mà lần nào cũng chả thấy gì.”   
Dù gì đi nữa, sáng hôm đó có một chiếc xe lạ lái đến trại. Một người làm việc trong phòng thí nghiệm trong phố bước ra khỏi xe, với mấy thùng chứa đầy ống nghiệm và hóa chất.   
Ông bà Farquar bối rối, mặt mày vui vẻ và thỏa mãn. Họ mời nhà khoa học dùng cơm trưa, và họ kể lại câu chuyện từ đầu, chắc là lần thứ một trăm. Nhỏ Teddy cũng có đó, đôi mắt xanh của nó rạng rỡ, như để minh chứng một sự thật. Nhà khoa học giải thích về lợi ích cho nhân loại nếu có thể thương mại thứ thuốc mới này; và hai vợ chồng Farquar còn hả dạ hơn nữa: họ tính tình đơn giản, tử tế, thích nghĩ rằng họ làm được một cái gì đó tốt lành.
Nhưng khi ông khoa học bắt đầu nói đến chuyện tiền bạc, cử chỉ của họ tỏ ra khó chịu. Cảm tưởng của họ về phép mầu đó (họ vẫn nghĩ về nó như thế) rất mạnh, sâu và sùng bái, họ cho rằng nghĩ về tiền bạc với nó là chuyện xấu xa. Ông khoa học, nhìn thấy được điều đó qua nét mặt họ, đem câu chuyện trở lại điểm đầu tiên, về sự tiến bộ cho loài người. Có lẽ ông ta hơi hời hợt: đây không phải là lần đầu ông tìm cách mua chuộc một thứ thuốc hay.   

Cuối cùng, sau bữa ăn trưa, ông bà Farquar gọi Gideon vào phòng khách, giải thích cho lão hay rằng ông chủ đây là Bác Sĩ Lớn từ Phố Lớn, và ông ta bỏ công đi tới đây để gặp lão. Nghe xong, lão Gideon có vẻ sợ; lão không hiểu; bà Farquar phải nói thêm Ông Chủ Lớn đến cũng vì chuyện kì diệu lão đã giúp cho cặp mắt của Teddy.   
Lão Gideon nhìn từ bà Farquar sang ông Farquar, nhìn tới thằng bé, nó trông ra vẻ quan trọng ra phết trong cuộc. Cuối cùng, lão miễn cưỡng nói: “Ông Chủ Lớn muốn biết tôi dùng thuốc gì?” Lão tỏ vẻ ngờ vực, như thể lão không tin hai người bạn lâu năm có thể phụ lòng lão cách đó. Ông Farquar phải giải thích cách nào thuốc hay có thể làm được từ rễ cây, đem bán thế nào, cả ngàn người, da đen da trắng dọc cả đại lục Phi châu, sẽ được cứu nhờ vào thuốc nếu chẳng may bị rắn độc phì vào mắt. Lão Gideon lắng nghe, mắt lão chăm chăm xuống đất, trán dúm dó khổ nhọc. Khi ông Farquar nói xong, lão chẳng trả lời.
Ông khoa học, từ nãy giờ vẫn ngả người vào cài ghế bành, nhâm nhi cà phê và miệng cười mỉm hồ nghi, bây giờ nói thêm vào, giải thích lại từ đầu, với chữ lời khác, về việc bào chế thuốc và tiến bộ khoa học. Ông ta còn muốn tặng lão Gideon một món quà.   

Không ai lên tiếng sau lời giải thích này. Lão Gideon thờ ơ bảo rằng lão không nhớ gì về cái thứ rễ cây ấy. Mặt lão sưng sỉa và tỏ vẻ không thân thiện, ngay cả khi lão nhìn ông bà Farquar, người ông thường vẫn xem như bạn lâu năm Họ bắt đầu cảm thấy khó chịu; và họ như trút bỏ cảm giác, qua cách buộc tội của lão, họ đã làm điều sai quấy.
Thay vào đó họ nghĩ rằng lão ta không biết điều. Nhưng đó cũng là lúc họ nhận ra rằng lão ta sẽ không bao giờ nhượng bộ. Thứ thần dược đó mãi mãi sẽ không ai biết đến và hoàn toàn vô dụng ngoại trừ cho một số nhỏ người bản xứ có kiến thức, những người có thể chỉ đào mương cuốc rãnh địa phương trong một cái áo tơi tả và cái quần ngắn vá víu, nhưng lại là sinh trưởng vào gia đình một thầy chữa gia truyền, là con cháu của những ông lang thuốc già mang mặt nạ gớm ghiếc, với mấy mẩu xương và những phù phép hoang thô chỉ là vẻ bề ngoài, che đậy những quyền lực và hiểu biết thực sự.   
Gia đình Farquar có thể đạp lên cây thuốc đó năm chục lần một ngày khi họ bước từ nhà ra vườn, từ chuồng bò sang ruộng bắp, nhưng họ sẽ không bao giờ biết nó.   
Nhưng họ vẫn tiếp tục thuyết phục và tranh luận, với tất cả sự bực tức; mà lão Gideon vẫn khăng khăng nói rằng lão không thể nhớ; hoặc chả có rễ cây gì hết, hay lúc này không phải mùa của nó, hay mắt Teddy được chữa lành không phải là từ rễ cây, nhưng là do nước bọt từ miệng lão ta. Lão đổi từ câu này qua câu khác, mà chẳng để ý chúng có nghịch lý hay không. Lão bướng bỉnh và thô lỗ. Ông bà Farquar khó lòng nhận ra được người đầy tớ già trung thành, hiền hòa trong gã đàn ông Phi châu ngu dốt cứng đầu ngược ngạo này. Lão ta đứng đó trước mặt họ, mắt nhìn thấp, tay táy máy cái tạp dề, lặp đi lặp lại bất cứ câu chối từ ngu xuẩn nào đó lão nghĩ được trong đầu.
  
Rồi tự dưng lão ta như chịu nhượng thế. Lão ngẩng đầu lên, ném một cái nhìn dài, trống rỗng, giận dữ vào đám người da trắng, với lão họ như đám chó sủa ẳng ẳng quanh lão, rồi bảo: “Tôi dẫn mấy người xem rễ thuốc.”    Họ bước hàng một ra khỏi nhà, đi dọc theo con đường mòn.
Trưa tháng mười hai nóng rát da, bầu trời đầy những cụm mây mưa nóng bức. Mọi thứ đều nóng: mặt trời như một đĩa đồng xoáy trên đầu, hơi nóng rung trên cánh đồng, đất như cháy dưới chân, gió đầy bụi thổi khô khốc, nong nóng vào mặt. Một ngày khiếp sợ, một ngày người ta chỉ nên nằm dưới hiên nhà với ly nước đá lạnh, nơi mà họ vẫn thường ở khoảng giờ này.  
Đôi lúc, nhớ lại trong ngày rắn cắn, lão chỉ tốn mười phút để tìm ra rễ thuốc, có kẻ lên tiếng hỏi: “Còn xa không, Gideon?” Và lão Gideon, chẳng màng quay đầu lại, trả lời với sự lễ phép cau có: “Tôi đang tìm rễ thuốc, xếp.”
Và thực vậy, lão ta thỉnh thoảng nghiêng người xuống, đưa tay rề rà trên cỏ với một cung cách hời hợt bất nhã. Hai tiếng đồng hồ, lão dẫn họ qua bụi cây lùm cỏ, dọc theo mấy đường mòn lạ quắc, trong cơn nóng cháy, đến nỗi họ ướt thẫm mồ hôi, đầu họ nhức bưng bưng. Cả bọn họ im lặng: ông bà Farquar im vì họ tức giận; người khoa học im vì ông ta cảm thấy mình được minh chứng một lần nữa: không hề có thứ rễ thuốc như thế. Im lặng của ông ta là một im lặng tế nhị.   

Cuối cùng, khoảng sáu dặm xa khỏi nhà, lão Gideon chợt quyết định rằng như thế cũng đã đủ; hay có lẽ cơn giận của lão cũng đã nguôi nhiều. Chả màng gì lắm, lão bứt một chùm hoa màu xanh giữa đám cỏ, thứ hoa có đầy dẫy trên đường họ đã đi qua nãy giờ. Chẳng nhìn đến nửa con mắt, lão đưa chùm hoa cho ông khoa học, rồi bước nhanh một mình về nhà.    
Khi về lại nhà, ông khoa học vào nhà bếp cám ơn lão Gideon: ông ta rất lễ độ, dù trong mắt lộ vẻ thích thú. Lão ta không có ở đó. Ném chùm hoa vào phía sau xe, ông khách quí rời trang trại lái xe về lại nơi làm việc.   
Lão Gideon trở vào nhà bếp chuẩn bị bữa ăn tối, nhưng lão hờn dỗi. Lão trả lời ông Farquar như một người giúp việc miễn cưỡng. Mấy ngày sau, họ mới trở lại xem nhau như cũ.   
Ông bà Farquar hỏi thăm đây đó về rễ thuốc từ những người làm việc trong trại. Đôi khi, họ nhận được câu trả lời với những cái nhìn nghi kỵ. Đôi khi, người bản xứ bảo: “Chúng tôi không biết. Chưa bao giờ nghe nói về rễ thuốc này.” Một gã chăn bò, đã làm việc cho gia đình lâu năm, có ít nhiều tin tưởng đến ông bà, cho hay: “Ông bà đi hỏi tên trẻ trong nhà bếp ấy. Hắn ta là thầy thuốc đấy. Hắn là con trai của một ông thầy lúc trước ở vùng đó, không có bệnh gì ông ta không chữa được.” Rồi gã lễ độ nói thêm: “Dĩ nhiên, ông ta không giỏi như bác sĩ của người da trắng, chúng tôi biết vậy, nhưng với chúng tôi, ông ta là hay lắm rồi.”   

Bẵng đi sau đó, khi không còn buồn phiền giữa ông bà Farquar và lão Gideon, họ bắt đầu nói diễu: “Khi nào ông tìm rễ thuốc trị rắn cho tụi tôi, Gideon?”. Và lão cười, lắc đầu, hơi khó chịu, bảo: “Tôi đã chẳng tìm cho bà chủ rồi à, bà chủ quên rồi sao?”   
Sau đó nữa, Teddy, đã đi học, vào nhà bếp, hỏi: “Ông già ranh, Gideon! Ông có nhớ lần ông lừa đám chúng tôi, bắt đi hết mấy dặm đường trên đồng cỏ không? Xa đến nỗi cha tôi phải cõng tôi đó!”
Và lão Gideon ôm bụng cười lễ độ. Cười đã, lão chợt thẳng người dậy, chùi nước mắt, buồn bã nhìn Teddy, đang ranh mãnh cười toe toét ngang qua nhà bếp: “À, Cái Đầu Vàng Bé Tí, cậu lớn nhanh ghê chưa! Chẳng bao lâu cậu sẽ trưởng thành và có trang trại riêng…”.

Dịch giả: Đỗ Lê Anh Dao & Vi Lãng
Nguyên tác “No Witchcraft For Sale”, trong tập truyện ngắn African Stories, NXB Simon and Schuster, 1965
.
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel   tran - Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Tập Truyện Ngắn các Nhà Văn Nữ được giải Nobel
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Tập Truyện Ngắn các tác giả được giải Nobel
» Tập Truyện Heinrich Böll Nobel 1972: Đêm Thánh Vô Cùng, Nàng Anna xanh xao, ...
» Aung San Suu Kyi – The Lady: Người đàn bà không biết sợ
» Lịch sử và những điều cần biết về giải Nobel
» Tập Truyện Hermann Hesse Nobel 1946: Đâu Mái Nhà Xưa, Iris - Huệ Tím, Ảo Hóa, ...

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon  :: ĐỀ TÀI :: Văn Hóa, Nghệ Thuật :: Văn-
Chuyển đến