Tiêu đề: Quân Lực VNCH Tử Chiến Trong Giờ 25 Thu Apr 25, 2013 12:56 am
Quân Lực VNCH Tử Chiến Trong Giờ 25
Mường Giang
Sau khi được 400 ngàn quân Trung Cộng phòng thủ đất Bắc, cộng sản Hà Nội xua toàn bộ quân đội xâm lăng miền Nam. Mai mỉa nhất là lúc mà Dương Văn Minh cùng nội các mới, hy vọng được hoà hợp hoà giải với VC, để chúng chia chức nhín cho một chút quyền trong cái chính phủ liên hiệp, nếu có cũng chỉ là thứ bù nhìn, như MTGPMN được dựng lên, từ 12/1960 tới tháng 05/1975. Ðây chính là thời điểm, mà Bắc Bộ Phủ gọi là giờ G, ngày N, để tổng tấn công chiếm Sài Gòn. Ðó là lúc nửa đêm 29/04/1975, thời gian Hà Nội quy định cho tất cả các cánh quân, từ năm hướng tiến vào thủ đô. Ðây cũng là thời gian qui định cho bọn đặc công, biệt động nằm vùng, chui ra khỏi các hang ổ để gây hỗn loạn trong thành phố, chỉ đường, bắt tay cho bộ đội miền Bắc.
Tại Mặt Trận Miền Ðông Nam Phần, từ sau ngày SÐ18BB và Lữ Ðoàn 1 Dù, rút lui an toàn về Bà Rịa, Quân Ðoàn III đã tái phối trí lại các phòng tuyến mới vào những ngày cuối tháng 04/1975.
Vì SÐ18BB của Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo bị thiệt hại nặng nề sau 12 ngày ác chiến với cọng sản Bắc Việt. Ngoài Trung Ðoàn 48/18 của Trung Tá Công, tương đối quân số còn nguyên vẹn, các Trung Ðoàn 52/18 của Ðại Tá Ngô Kỳ Dũng, tại Mặt Trận Ngã Ba Dầu Giây-Túc Trưng, thiệt hại hơn 80 % quân số và Trung Ðoàn 43/18 của Ðại Tá Lê Xuân Hiếu, tử thủ trong thị xã Xuân Lộc, thiệt hại trên 30 % nhất là Tiểu Ðoàn 2/43/18 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế, là đơn vị cuối cùng rời Long Khánh. Do đó sau khi chỉnh đốn lại đơn vi, SÐ18BB được giao trách nhiệm phòng thủ tuyến phía đông Sài Gòn, từ kho đan thành Tuy Hạ chạy dài tới Tổ g Kho Long Bình. Riêng BCH Hành quân của SÐ18BB đặt tại căn cứ Hải Quân Cát Lái. Phòng tuyến của SÐ18BB tiếp giáp với vị trí phòng thủ của Lực lượng Nhảy Dù, Trường Thiết Giáp và Bộ Binh Thủ Ðức.
Tỉnh Phước Tuy và Ðặc Khu Vũng Tàu, trong đó có quốc lộ 15 được Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù, SÐ3BB phối họp với các lực lượng ÐPQ + NQ của Phước Tuy và Bình Thuận di tản từ miền Trung vào. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh SÐTQLC kiêm Tổng trấn đặc khu Vũng Tàu. Riêng SÐ3BB từ vùng1CT di tản vào, quân số kể luôn SÐ1BB cộng được hơn 1000 người, lập thành 2 tiểu đoàn thuộc Trung Ðoàn 2/3 và 56/3 vẫn do Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh làm tư lệnh. SD3BB được tăng cường thêm Chi đoàn 2/15 Thiết Kỵ và Lữ Ðoàn 1 Dù, bảo vệ QL15, thị xã Bà Rịa-Vũng Tàu.
Tỉnh Biên Hoà và phi trường do Lực lượng III xung kích của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, được tăng phái thêm 2 Lữ đoàn 147 và 258 TQLC phòng thủ. Từ ngày 28/04/1975, để bảo vệ thành phố Biên Hoà, Liên Ðoàn 81 Biệt Kích Dù bố trí trong phi trường giữ mặt bắc Bộ tư Lệnh QÐIII. Một TĐ/TQLC thuộc Lữ Ðoàn 2 bảo vệ BTL. QÐIII, các thành phần còn lại của Lữ Ðoàn, phòng thủ mặt nam BTL. Quân Ðoàn. Lữ Ðoàn Nhảy Dù giữ hai Cầu Mới và Sắt cùng các nút chận vào thị xã. Riêng Lực Lượng III Xung kích gồm Chiến Ðoàn 315phòng thủ từ Ngã ba Hố Nai đến Ngã tư Lò Than. Chiến đoàn 322 giữ từ Ngã tư Lò Than tới cổng phi trường Biên Hoà và Chiến đoàn 318 từ phi trường tới Cầu Mới.
Về phía bắc Sài Gòn có SÐ25BB của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá được tăng phái thêm hai Liên Ðoàn 8 và 9 Biệt Ðộng Quân, trách nhiệm Tây Ninh và Củ Chi-Hậu Nghĩa. Mặt trận phiá bắc tỉnh Bình Dương là trách nhiệm của SÐ5BB của Chuẩn Tướng Lê NguyênVỹ, kể cả Trung Ðoàn 8/5 của Ðại Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng tăng phái cho Lực Lượng III Xung kích của Tướng Khôi ở Hưng Lộc, vừa được trả về. Phòng tuyến phía nam Sài Gòn là Long An, có SÐ22BB ở Bình Ðịnh di tản tới, phối hợp với Lực Lượng 99 Tuần Thám Ngăn Chặn của Hải Quân và ÐPQ + NQ Long An, từ lâu nổi tiếng là kiêu dũng thiện chiến, không kém gì quân chủ lực. Như vậy trừ ba SD7, 9 và 21BB của QÐIV phải bảo vệ lãnh thổ của các tỉnh thuộc Vùng 4/CT. Phía VNCH chỉ còn lại : sáu Sư Ðoàn gồm SÐ5, 18, 22, 25 bô binh + Hai Lữ Ðoàn 1 và 4 Nhảy Dù + Sư đoàn TQLC + Lực Lượng III Xung Kích + Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù + 4 LiênÐoàn BDQ + ÐPQ và NQ + 625 chiến xa đủ loại và 400 pháo, tất cả chừng 240 ngàn người, để bảo vệ Sài Gòn. Trong khi đó VC tung vào 5 lộ quân với quân số trên 280 ngàn, gồm 15 Sư đoàn BB + 5 Lữ đoàn biệt lập + 4 Lữ đoàn thiết giáp + 6 Trung Ðoàn Ðặc công. Tất cả được trang bị đầy đủ với các vũ khí bom đạn hiện đại, không thua gì quân đội Mỹ.
Từ chiều ngày 29/04/1975, hai Bộ Tư Lệnh Không quân và Hải quân VNCH đã di tản chiến thuật, kể cả Tướng Nguyễn Văn Toàn (Tư lệnh QÐIII) và Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng TMT từ chức. Do đó, Tổng Thống mới nhậm chức là Dương Văn Minh, cử Tướng Vĩnh Lộc lên thế chức Tổng Tham Mưu Trưởng. Ðến tối cùng ngày, tướng Lộc ra lệnh cho SÐ18BB về bố trí từ Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hoà, tới Thủ Ðức.
Từ đầu tháng 04/1975, trường Bộ Binh Thủ Ðức đã dời về Long Thành-Biên Hoà, đông nghẹt sinh viên các khoá, trong đó có hai quân trường từ Ðà Lạt di chuyển về là Trường Võ Bị và Chiến Tranh Chính Trị. Lúc 8 giờ tối ngày 27/04/1975, trường Bộ Binh lại có lệnh di chuyển trở về trường củ ở Thủ Ðức. Tới 8 giờ sáng ngày 30/04/1975, có bốn T54 của cộng sản Bắc Việt từ Xa Lộ Biên Hoà, tấn công trường, bị Pháo Binh 105 bán trực xạ cháy 3 chiếc tại chỗ. Nhưng chiếc còn lại đã nhập dược vào trung tâm, sau khi thoát được các tầm đạn M72 của sinh viên, bắn tử thượng Trung Tá Ông Văn Tuyên, Trung Sĩ I Nhân và 5 sinh viên, cùng 10 người bị thương, trong số này có Trung Tá Vương Bá Thuần. Cuối cùng chiếc tăng trên bò ra khỏi trường và bi M72 bắn đứt xích, nằm tại Niệm Phật Ðường cạnh Chợ Nhỏ, nhưng vẫn tác xạ dữ dội vào trường. Giờ chót, có hai sinh viên Thủ Ðức, chưa được gắn Alpha, tình nguyện mang lựu đạn lân tinh loại xuyên phá, mới tiêu diệt được chiếc T54 này.
Cũng tại Long Bình vào sáng ngày 29/04/1975, Tiểu đoàn 43 thuộc Liên Ðoàn 4 BDQ, do Thiếu Tá Xẻn làm TĐT, được lệnh của Biệt Khu Thủ Ðô, tăng phái phòng thủ Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Từ 2 giờ 30 chiều cùng ngày, VC đã về tới Trung Chánh-Hóc Môn, sau khi chiếm được Căn cứ Ðồng Dù của SÐ25BB, căn cứ Pháo binh Lòng Tảo và đánh tan Trung Ðoàn 46/25BB trên QL số 1 từ Củ Chi về Tân Phú Trung. Lúc đó Trường Quân Vận đối diện với TTHL Quang Trung cũng đã mất, nên Chiến xa của VC bắt đầu tấn công trung tâm, nhưng không ngờ trong đó không phải chỉ có tân binh quân dịch, mà còn sự hiện diện của một tiểu đoàn BÐQ vơí hơn 500 tay súng, suốt cuộc chiến, đã cùng với các TĐ41, 42, 44 là những cọp ba đầu rằn tung hoành như chỗ không người trong mật khu sình lầy của Vùng 4 Chiến thuật. Tối 29/04/1975, qua hệ thống truyền tin của TĐ43BÐQ, mới biệt BTL Biệt Khu Thủ Ðô đã bỏ chạy, chỉ còn các sĩ quan cấp uý ở lại nhưng BCH. Biệt Ðộng Quân và tướng Ðổ Kế Giai vẫn còn nguyên vẹn tại Trại Tô Hiến Thành. Bên trong chiến hào của TTHL Quang Trung, cũng như suốt đoạn đường từ ngã ba Trung Chánh - Hóc Môn, về tới Ngã tư Bảy Hiền, các đơn vị kiệt hiệt nhất của QLVNCH như BÐQ, Biệt Cách Dù và Nhảy Dù đang đợi chờ một trận đánh cuối cùng dũng liệt như SÐ18BB, LÐ1ND, TĐ82BÐQ và ÐPQ Long Khánh, tại Xuân Lộc, thì trưa 30/04/1975 bị Dương Văn Minh ban lệnh buông súng rã ngũ, một cách tức tủi đoạn trường.
5 giờ chiều ngày 29/04/1975, các mặt trận, lính vẫn chiến đấu không ngừng nghĩ. Tại Biên Hoà, các đơn vị TQLC, Biệt Cách Dù và các Chiến Ðoàn thuộc Lực Lượng III Xung Kích, đã ngăn chống VC tại các phòng tuyến vô cùng đẫm máu kinh hoàng.
Tại BCH, Thiết Giáp trong trại Phù Ðổng, cũng là nơi đặt tạm BTL.QÐIII từ Biên Hoà di tản về, cũng như Trung Tâm Hành Quân /BTTM/QLVNCH gần như không còn đại bàng để nhận tin chiến trường và quyết định lệnh lạc. Cho tới 22 giờ 30 đêm 29/04/1975, Phế tướng Nguyễn Hữu Có, người vào năm 1965 bị Nguyễn Cao Kỳ lột chức và bắt ở lại Hồng Kông không cho về nước, cách đó vài giờ, vừa được TT. Dương Văn Minh gắn cho cái lon Trung Tướng, lên máy ra lệnh cho SÐ18BB của Thiếu Tướng Ðảo và LL3XK của Tướng Khôi, cố gắng giữ yên phòng tuyến trong đêm 29/04/1975, để rạng sáng ngày 30/04/1975 sẽ có hoà bình vì cộng sản Bắc Việt đã chịu hoà họp hoà giải hoà chung máu lệ với TT. Minh và lực lượng thứ ba đối lập.
Nhưng 23 giờ 45 đêm 29/04/1975, Bắc Việt đã không hoà hợp mà lại tấn công dữ dội bằng bộ binh và chiến xa khắp các phòng tuyến tại Biên Hoà. Hai bên gần như cận chiến với khoảng cách chừng 10-15m, nhất là tại phòng tuyến do quân Dù, TQLC và Chiến Ðoàn 315 của Trung Tá Ðổ Ðức Thảo có chiến xa M48 tham chiến.
2 giờ sáng ngày 30/04/1975, phòng tuyến SÐ18BB của Tướng Ðảo tại Long Bình bị VC tràn ngập, quân ta từ Nghĩa Trang Quân Ðội Biên Hoà phải rút về Thủ Ðức.
Riêng Chiến Ðoàn 3, thuộc Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù của Thiếu Tá Phạm Châu Tài, quân số hơn 1000 người, từ Biên Hoà được điều động về bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu từ 5 giờ 30 ngày 26/04/1975. Bộ Chỉ Huy Chiến Ðoàn đóng tại Building số 1, đối diện vối Trại Võ Tánh. Các Biệt đội 811 của Ðại Uý Lâm đóng trong Lục Quân Công Xưởng. Biệt đội 812 của Ðại Uý Ánh đóng ở giữa cổng sau TTM và Tổng Y Viện Cộng Hoà. Biệt đội 813 của Ðại Uý Thạch rải quân từ Ngã Tư Bảy Hiền tới Trại Phi Long của Nhảy Dù và Biệt Ðội 815 của Ðại Uý Lợi là lực lượng trừ bị của Chiến Ðoàn, đóng trước cổng Bộ TTM.
Từ ngày 28/04/1975, các đại bàng ở Bộ TTM, Bộ Tư Lệnh QD3, Quân Khu Thủ Ðô... từ Ðại Tướng trở xuống đã di tản chiến thuật, nên coi như không còn ai ra lệnh cho thuộc cấp dưới quyền. Về việc tên phi công nội tuyến Nguyễn Thành Trung, dẫn đoàn máy bay của KQ.VNCH bỏ lại ở Phù Cát, Phan Rang vào oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất, không bị Chiến Ðoàn 3 Biệt Cách Dù bắn hạ, vì đã tưởng là phe ta làm đảo chánh.
Chiều ngày 29/04/1975, tướng Vĩnh Lộc được TT Minh cử làm Tổng Tham Mưu Trưởng thay Cao Văn Viên, còn Nguyễn Hữu Có thì gắn 3 sao, xưng là Tổng Tham Mưu Phó. Ngoài ra còn có VC nằm vùng Nguyễn Hữu Hạnh, cũng được Dương Văn Minh gắn sao tướng, dù Có và Hạnh đã bị giải ngũ từ lâu. Mới đây VC lại cho các tên hề Có, Hạnh và Triệu Quốc Mạnh làm cuộc phỏng vấn cuội tại Sài Gòn, do bọn Việt gian Hải Ngoại từ Canada về thực hiện, rồi đem phát trên đài để lừa bịp người Việt trong và ngoài nước, một cách trơ trẽn vì câu chuyện lãng xẹt của đám sâu bọ, từng làm xấu hổ danh dự và thể thống của người lính VNCH năm nào.
Từ 6 giờ 30 sáng ngày 30/04/1975, VC pháo kích bừa bãi hoả tiễn 122 ly vào khu dân cư đông đúc, có mấy trái rớt xuống đường Võ Di Nguy, làm nhiều đồng bào thương vong. Các trái khác rơi vào vòng thành Bộ TTM. Trên các đường phố dẫn tới Ðại Lộ Chí Lăng, chiến xa Bắc Việt đã xuất hiện, bắn vào Bệnh Viện Vì Dân tại Ngã Tư Bảy Hiền nhưng bị Biệt Cách Dù, dùng súng đại bác M90 ly không giựt, chỉ trong vòng 15 phút, bắn cháy 6 chiếc T54, PT76 cùng với một khẩu pháo phòng không có bánh xe kéo, với nhiều đặc công bị chết, nằm rải rác từ Bảy Hiền tới Bộ TTM.
09 giờ 30 sáng ngày 30/04/1975, Dương Văn Minh ra lệnh cho Chiến Ðoàn 3 Biệt Cách Dù, lúc đó còn đang tử chiến với VC, phải ngưng đánh nhau, để chờ đầu hàng. Tuy nhiên nhiều toán không tuân lệnh, vẫn tiếp tục bắn vào các đoàn xe của VC, sau đó tự tử tập thể bằng lựu đạn vào giờ thứ 25. Riêng 2 Chiến Ðoàn Biệt Cách Dù do Ðại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy, sáng ngày 30/04/1975, từ Suối Máu rút về Nghĩa trang Quân Ðội Biên Hoà, khi nghe lệnh Dương Văn Minh bắt đầu hàng, nên cũng rã ngũ tại đây.
Sài Gòn náo loạn khắp nơi, dân chúng ùn ùn kéo tới các ngân hàng rút tiền ký thác. Các Toà Ðại Sứ lần lượt đóng cửa, cũng như nhiều Hãng Máy bay ngưng hoạt động vì sợ hoạ lây. Hòn Ngọc Viễn Ðông như đã chết vào những ngày gần cuối tháng 04/1975 Thế rồi 9 giờ 30 sáng ngày 30/04/1975, trong lúc mọi người đang mê tỉnh trong cơn hấp hối của đất nước, thì Dương Văn Minh vì nghe lời xúi dại của bọn thân Cộng như Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Hữu Hạnh, nên lợi dụng chức vụ Tổng Thống tổng tư lệnh quân đội, ép QLVNCH buông súng rã ngủ, trong khi tất cả còn đang tử chiến với giặc ngoài biên đình.
Phút cuối vẫn còn một số đơn vị Dù, TQLC, BÐQ, Biệt Cách Dù... không thèm nghe lệnh của Dương Văn Minh. Họ chận đánh cộng sản Bắc Việt, trên các đường phố Hồng Thập Tự, Thị Nghè. Tại Ðại lộ Thống Nhất, lính Dù và BÐQ bắn M72 vào xe tăng VC khi chúng tiến vào chiếm Dinh Ðộc Lập.
Ðúng 12 giờ 30 trưa ngày 30/04/1975, lá cờ vàng ba sọc đỏ của quốc dân VN treo trên nóc Dinh Tổng Thống VNCH bị giặc tước bỏ. Dương văn Minh và toàn bộ nội các có mặt tại dinh, bị bộ đội miền bắc, nhốt giữ tại chỗ, dù từ lớn tới nhỏ, đã sùi bọt mép nịnh bợ ca tụng chúng. Nhục nhã muôn đời là cả đám bị thu hình trước ống kính của hằng trăm nhà báo ngoại quốc. Cũng vào giờ phút mà Dương văn Minh bị còng tay gục đầu, thì tại Bộ Quốc Phòng, Trung Tá Nguyễn văn Cung, thuộc SÐ18BB khi nghe tin đầu hàng đã tự sát. Nhiều lính Dù cũng dùng súng M16 kết liễu đời trai trước Tổng Cục Chiến Tranh Chính trị. Trong trại Hoàng Hoa Thám, một toán lính Nhảy Dù, nắm tay làm thành vòng tròn, rồi mở chốt lựu đạn để cùng chết tập thể. Một Ðại Uý Cảnh Sát tự bắn vào đầu chết trước Quốc Hội. Trong khi đó các tướng lãnh Phạm văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Lê nguyên Vỷ, Phạm Văn Hai... cũng quyên sinh khi thành mất. Ðó là những hình ảnh tuyệt vời, ngàn đời khắc sâu trong tâm khảm của người Việt và những trang sử bất diệt của dân tộc.
Sài Gòn đã chết từ đó, dân chúng thành đô dửng dưng trước chủ mới. Cùng lúc, có nhiều con khỉ trong sở thú, vừa được sổ chuồng, cổ quàng khăn đỏ, tay phất cờ máu, trang bị súng đạn lượm được của lính bõ bên vệ đường, chễm chệ trên các xe quân đội, tung tăng múa rối khắp đường phố, cổ võ, làm oai, hoan hô, đã đảo một cách lố bịch.
Trưa đó, 125 nhà báo ngoại quốc còn nán lại, đổ xô tới chiêm ngưỡng những anh hùng cách mạng, mà từ năm 1960-1975, họ đã không ngớt xưng tụng và tô son đánh phấn khắp thế giới không tiếc lời. Nhưng sự thật đã làm té ngửa các trái tim thú vật, khi biết được tất cả chỉ là sự tuyên truyền lừa bịp của miệng lưỡi cọng sản, mục đích để cho thế giới có thành kiến không tốt và ghét bỏ VNCH. Có như vậy họ mới bỉ ổi ca tụng một chiều cuộc xâm lăng miền Nam của Bắc Việt, mà không cầ n phải tìm hiểu sự thật.
Luân Ðôn và Hoa Thịnh Ðốn.
Ngày nay, lịch sử đã ngừng lại và quay tròn đúng vào thời điểm củ trên đất nước tội nghiệp VN. Cả hai: Tài phiệt Hoa Kỳ và cọng sản đệ tam quốc tế cũng đều vì quyền lợi riêng tư của mình, nên muối mặt đổi thù thành bạn. Lần này không còn có chiêu bài VN là tiền đồn chống cộng, nên người Mỹ đã công khai tới VN qua danh phận lái buôn lái súng. Hiện trong cộng đảng cầm quyền đã manh nha hai phe theo Tàu, theo Mỹ. Nhưng dù VN có theo phe nào chăng nửa, thì chắc chắn đất nước chúng ta cũng sẽ bị cuốn hút theo vết xe lịch sử, khi Trung Cộng công khai gây nên thế chiến lần thứ 4 tại Á Châu-Thái Bình Dương.
Ðọc và viết lịch sử, không phải để khóc hận than thân, mà là lấy đó làm một kinh nghiệm để hành động cứu nước trong thực tại và tương lai. Năm 1954, khi cọng sản đệ tam chiếm được miền bắc, một số ít trí thức khoa bảng chạy vào làm trùm tại VNCH, nên họ chẳng hề biết gì về kinh nghiệm sống chung với VC. Ngày 30/04/1975, khi VC chưa vào Sài Gòn, số trí thức khoa bảng trên lại ù trốn chạy sang Mỹ hay ngoại quốc. Họ không hề biết thế nào là sự đổi đời của phận người xuống hàng súc vật. Ở ngoại quốc, vì quá tự do, nên vẫn chứng nào tật đó, coi sự hiểu biết của mình ngang hàng với lãnh tụ, muốn ai cũng phải theo ý và đứng sau lưng mình. Họ vì không sống thật với lịch sử nên chẳng bao giờ có kinh nghiệm lịch sử, vẫn ảo tưởng xây lâu đài và chức phận trên cát biển, vẫn ngây thơ muốn hoà hợp hoà giải, với một đảng cướp tàn bạo bất lương, qua bảy mươi năm chỉ lừa bịp lường giết đồng bào và ban nước mình mà thôi. Tệ nhất là mình và gia đình lúc nào cũng thích sang giàu hạnh phúc nơi thiên đường Âu Mỹ, mà mồm thì luôn xuí người khác, nếu đi hết biển, thì phải trở về để làm nô lệ cho cộng sản.
Cũng may bọn người này không nhiều và ngày nay hầu hết đều giống như những bình vôi gìa nua, mà Phan Khôi từng ví với bọn cán ngố miền bắc trong tác phẩm « Trăm Hoa Đua Nở », chỉ nổ trên giấy hay nằm trơ trọi trong góc đời hiu quạnh về chiều..
Thảm thê cho thân phận nhược tiểu VN, hết bị Tàu đô hộ tới Pháp, Nhật, Mỹ, Liên Xô... rồi nay lại làm đầy tớ cho cả thế giới, mà điển hình nhất là hình ảnh của những công nhân lao động và phụ nữ bị bán ra nước ngoài. Không biết bao giờ đất nước và đồng bào mới thoát được nổi thống hận trên, để cho con cháu có cơ hội ngẩn mặt nhìn trời, người Việt Tỵ Nạn tha phương, trở về cố quốc, một cõi lòng mà ai cũng hoài vọng ao ước, khi quê hương không còn bóng dáng lá cờ máu và đảng CSQT .
Ba mươi lăm năm trước, đầu tháng 04/1975 Cộng Sản Bắc Việt chiếm Phước Long, mở đầu cuộc xâm lăng VNCH, đưa cả nước và dân tộc Việt vào tận cùng của địa ngục trần gian. Ðầu năm 2010 tới nay, cả nước đang đắm chìm trong ách nô lệ của Tàu đỏ, đưa đồng bào cả nước vào tận cùng cảnh nghèo đói thảm tuyệt, chưa từng thấy trong dòng Việt Sử. Có điều chỉ có người dân nghèo mới nhận chịu nổi đau cùng khốn này, còn đảng, cán bộ nhà nước và Việt kiều... thì làm gì bị ảnh hưởng tới thời cuộc đổi thay, vì vàng đô la vơ vét mấy chục qua, xài phí biết bao giờ mới cạn?
Mường Giang Từ Xóm Cồn Ha Uy Di Quôc Hận 30/04/2010
.
P-C Khách viếng thăm
Tiêu đề: 30-4-1975 Những Giờ Phút Cuối Cùng Sat Apr 27, 2013 6:24 pm
.
30-4-1975 Những Giờ Phút Cuối Cùng
Vương Hồng Anh
- Hơn 1 ngàn Cộng quân tử trận, 32 chiến xa CSBV bị bắn cháy trong trận chiến sáng ngày 30-4-1975 tại phòng tuyến Sài Gòn
Vào những ngày cuối cùng của tháng 4/1975, trong khi những người lãnh đạo tối cao của quốc gia và quân đội tìm mọi cách để ra đi, thì tại mặt trận vòng đai Sài Gòn và ngay trong Thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, người lính Quân lực VNCH từ anh binh nhì cho đến các trung đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng... thuộc các binh đoàn bộ chiến, vẫn giữ vững tay súng tử chiến với Cộng quân đến phút cuối cùng.
Từ 0 giờ sáng đến 10 giờ ngày 30/4/1975, trên các cửa ngõ vào thủ đô Sài Gòn, những người lính Bộ binh, Nhảy Dù, Biệt kích Nhảy Dù, Biệt động quân, Thiết giáp, Thủy quân Lục chiến... đã đánh trận cuối cùng trong đời lính của họ: 32 chiến xa và gần 30 quân xa Cộng quân bị bắn cháy, hơn 1,000 Cộng quân tan xác... Đó là chiến tích của người lính VNCH tại mặt trận Thủ Đô Sài Gòn trong buổi sáng cuối cùng của cuộc chiến, trước khi ông Dương Văn Minh ra lệnh Quân lực VNCH buông súng vào lúc 10 giờ 15 phút ngày 30/4/1975. Trong những giờ phút cuối cùng này, tại Sài Gòn, trái tim của Việt Nam Cộng Hòa, có rất nhiều sự kiện diễn ra dồn dập, những trận đánh hào hùng và bi tráng của một số đơn vị Nhảy Dù, Biệt Cách Nhảy Dù... trước giờ G.
- Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH, những giờ cuối cùng:
Trưa ngày 29 tháng 4/1975, các vị tướng có thẩmquyền tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH đã ra đi. Đại tướng Viên rời Việt Nam từ chiều 28/4/1975 cùng với Chuẩn tướng Thọ (trưởng phòng 3); Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng Liên quân Bộ Tổng tham mưu kiêm Tổng cục trưởng Tiếp vận ra đi vào lúc 11 giờ 30 ngày 29/4/1975. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Biệt khu Thủ đô cũng đã "chia tay" với các cộng sự viên của mình từ sáng ngày 29/4/1975. Để có tướng lãnh chỉ huy Quân đội, tân Tổng thống Dương Văn Minh đã cử một số tướng lãnh và cựu tướng lãnh giữ các chức vụ trọng yếu: Trung tướng Vĩnh Lộc giữ chức Tổng Tham mưu trưởng; Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn tướng, đã về hưu từ tháng4/1974, làm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng; cựu Thiếu tướng Lâm Văn Phát, được cử làm Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô; chuẩn tướng Lê Văn Thân, nguyên Tư lệnh phó Quân khu 2,làm Tư lệnh phó phụ giúp Tướng Phát; Chuẩn tướng Nguyễn Văn Chức, nguyên Cục trưởng Công binh, Thứ trưởng Định cư trong Nội các Nguyễn Bá Cẩn, giữ chức Tổng cụctrưởng Tiếp vận.
Sau khi nhận chức Tổng tham mưu trưởng, chiều 29/4/1975, Trung tướng Vĩnh Lộc đã triệu tập một cuộc họp với các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đang còn ở lại Sài Gòn tại phòng họp bộ Tổng Tham Mưu và yêu cầu "mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm việc vớitất cả trách nhiệm".
- Trận chiến tại các cửa ngõ vào Sài Gòn:
Tại phòng tuyến Củ Chi, tối 29/4/1975, toàn bộ quân trú phòng và bộ Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh mở đường máu về Hóc Môn. Riêng Chuẩn tướng Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư đoàn và một Thượng sĩ cận vệ tên Ngọc đã phải thay nhau làm khinh binh với chiến thuật cá nhân để thoát khỏi vòng vây của Cộng quân. Cuối cùng vị tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh bị lọt vào tay địch khi ông và người cận về gần đến Hóc Môn.
Tại mặt Nam của Sài Gòn, ngay từ ngày 28/4/1975, bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô không còn quân trừ bị để giải tỏa áp lực của Cộng quân. Một liên đoàn Biệt động quân đang hành quân dọc theo quốc lộ 4 phía nam Bến Tranh đã được điều động về quận lỵ Cần Đước theo liên tỉnh lộ 5A vào buổi trưa và đặt dưới quyền điều động của bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Liên tỉnh lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng VNCH không thể phá vỡ được các chốt chận của Cộng quân tại cầu Nhị Thiên Đường (khu vực này bị Cộng quân chiếm từ rạng sáng ngày 29/4/1975).
Trong khi trận chiến xảy ra tại nhiều nơi thì kho đạn Thành Tuy Hạ lại bị pháo kích nặng nề nên phát nổ nhiều nơi. Hệ thống truyền tin liên lạc với bộ chỉ huy Kho đạn bị mất vào lúc 1 giờ chiều. Xe tăng Cộng quân xuất hiện tại Cát Lái và bắn vào cầu tàu chất đạn chưa được bốc dỡ.
Tại cụm phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân Vận (gần trung tâm huấn luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lươn Bà Quẹo; Bình Thới-Ngã ba Bà Quẹo; Bảy Hiền-Lăng Cha Cả, đơn vị Nhảy Dù phòng ngự tại đây đã nỗ lực ngăn chận Cộng quân. Những người lính Dù không hề nao núng, bình tĩnh chuẩn bị cho trận đánh giờ thứ 25.
Tại vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu, một chiến đoàn thuộc Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù do thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã dàn quân chận địch, từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6 chiến xa Cộng quân và nỗ lực đánh bật địch ra khỏi trận địa.
- Những trận đánh trước giờ G...
Từ sáng sớm ngày 30 tháng 4, tại các mặt trận quanh Sài Gòn và Biên Hòa, các đơn vị của Sư đoàn 5BB, Sư đoàn 18BB, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, các đơn vị Dù, Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân... đều đặt trong tình trạng sẵn sàng ứng chiến để chận đánh Cộng quân. Tại bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Thiếu tướng Lâm Văn Phát từ sáng sớm đã dùng trực thăng bay quan sát tình hình, vừa đáp xuống bộ Tư lệnh ông gọi máy liên lạc với Chuẩn tướng Tần, sĩ quan cao cấp nhất của Không quân vào lúc đó. Tướng Phát yêu cầu Tướng Tần cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích Cộng quân đang chuyển quân dọc theo con đường từ ngả tư Bảy Hiền lên đến Hóc Môn.
Trong khi các đơn vị VNCH đang nỗ lực đẩy lùi Cộng quân ra khỏi bộ Tổng tham mưu, thì vào 10 giờ 15 phút, tân Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngưng chiến. Trước đó vài phút, chiến đoàn Biệt Cách Dù đang tung các đợt phản công để đánh bật địch quanh vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu. Khi nhận được lệnh ngưng bắn, Thiếu tá Phạm Châu Tài, chiến đoàn trưởng Biệt Cách Dù đã lấy xe jeep vào Bộ Tổng Tham Mưu, ông được anh em binh sĩ gác cổng cho biết là Trung tướng Vĩnh Lộc, Tân Tổng Tham mưu trưởng, đã ra đi lúc 6 giờ sáng, tất cả tướng lãnh và các đại tá đã họp với Thiếu tá Tài về kế hoạch phòng thủ Tổng hành dinh bộ Tổng Tham mưu trong đêm 29/4/1975, cũng không còn ai.
Trước tình hình đó, Thiếu tá Tài đã bốc điện thoại quay số gọi về văn phòng Tổng Tổng phủ, gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh ở đầu giây. Ông Hạnh hỏi Thiếu tá Tài là ai? Vị chiến đoàn trưởng đã trả lời: "Tôi là chiến đoàn trưởng Biệt cách Nhảy Dù đang trách nhiệm bảo vệ bộ Tổng tham mưu, tôi xin được gặp Tổng thống". Vài giây sau, thiếu tá Tài nghe tiến ông Dương Văn Minh nói ở đầu máy: "Đại tướng Dương Văn Minh nghe đây, có chuyện gì đó?" Thiếu tá Tài trình bày: "Tôi đang chỉ huy cánh quân tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng Tham mưu thì có lệnh ngưng bắn, nhưng Cộng quân vẫn tiến vào, tôi đã liên lạc với bộ Tổng Tham mưu nhưng không có ai, nên muốn nói chuyện với Tổng thống là Tổng Tư lệnh Tối cao của Quân đội để xin quyết định." Tướng Minh trả lời: "Các em chuẩn bị bàn giao đi!". Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại: "Bàn giao là như thế nào thưa Đại tướng, có phải là đầu hàng không?", Tướng Minh đáp: Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập. Nghe tướng Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài nói ngay: "Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào dinh Độc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng thống". Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói tiếp: "Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước 2 ngàn cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở bộ Tổng tham mưu." Tướng Minh trả lời: "Tùy các anh em".
Theo lời Thiếu tá Tài, sau này, khi bị CQ giam trong trại tù, ông đã găp trung tá Võ Ngọc Lan, Liên đoàn trưởng Liên đoàn phòng vệ Tổng thống Phủ. Trung tá Lan nói với Thiếu tá Tài: "Lúc đó, moa đứng cạnh ông tướng Minh, moa nghe toa nói vào cứu Tổng thống". Thiếu tá Tài giải thích: "Tổng thống là vị lãnh đạo tối cao của Quân lực, phải cứu ông ra để có người chỉ huy Quân đội".
Tài Liệu Đặc Biệt: Mật Trình Của Tướng Weyand & Tài Liệu Tướng Nguyễn Văn Hiếu
- Từ chuyến viếng thăm VN của Đại tướng Weyand, đến cái chết bí ẩn của Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó hành quân Quân đoàn 3, ngày 8-4-1975.
Như đã trình bày, vào tuần lễ cuối cùng của tháng 3/1975, Tổng thống Ford đã cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để tìm hiểu tình hình. Đại tướng Weyand là một vị tướng đã từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV).
Đại tướng Weyan đã thăm và tìm hiểu tình hình VN từ ngày 28/3/1975 đến ngày 4/4/1975. Trở về Mỹ, ông đã làm một phúc trình đặc biệt lên Tổng thống Ford về tình hình VN và những đề nghị khẩn cấp để cứu nguy VNCH.
Đại tướng Weyand quỳ gối cắm hương tại nghĩa trang quân đội VNCH. Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh quân đoàn III đứng phía sau.
Bốn ngày sau khi Đại tướng Weyand rời VN, vào ngày 8 tháng 4/1975, trong khi Cộng quân khai triển lực lượng để mở cuộc tấn công vào Long Khánh, thì tại Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 ở Biên Hòa, Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó Quân đoàn 3, đã chết một cách bí ẩn ngay tại văn phòng. Những người gần văn phòng của Tướng Hiếu nghe 1 tiếng súng nổ, 1 đại tá chạy qua thì thấy Tướng Hiếu nằm bất động trên chiếc ghế bành bàn giấy. Một giòng máu tươi chảy chan hoà xuống mặt và ngực. Một viên đạn đã xuyên qua trán đi thẳng lên óc. Viên đạn này còn trớn bay lên trần nhà, soi thủng một lỗ.
- Tập tài liệu đặc biệt "Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu", và những bí mật về những phúc trình của Sứ quán Mỹ tại Sài Gòn, và của Đặc sứ Tổng thống Mỹ.
30 năm sau ngày VNCH bị bức tử, những bí ẩn về cái chết của Tướng Nguyễn Văn Hiếu, từng là Phụ tá Phó Tổng tổng thống VNCH Trần Văn Hương đặc trách bài trừ tham nhũng, cùng những tài liệu mật về những phúc trình của Đại sứ Bunker, của các tướng lãnh Mỹ, đã được công bố qua tập tài liệu: "Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Một viên ngọc quân sự ẩn tàng", dày 546 trang, khổ giấy lớn, do ông Nguyễn Văn Tín, em ruột của Tướng Hiếu, sưu tầm và biên soạn với tất cả tấm lòng của một người em đối với người anh được đồng đội vinh danh là "dũng tướng". Tập tài liệu vừa được phát hành vào cuối tháng 4/1975. Theo ghi nhận của một số cựu sĩ quan cao cấp và cựu viên chức Chính phủ VNCH, đây là tập tài liệu có giá trị về phương diện lịch sử và chiến sử với những bài viết, tài liệu về các cuộc hành quân lớn trên chiến trường VN, về sự tham chiến của Hoa Kỳ tại VN, về thực trạng chính trị xã hội VN, thông qua đời binh nghiệp của Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu từ khi theo học khóa 3 sĩ quan hiện dịch trường Võ bị Liên quân Đà Lạt năm 1950 cho đến tháng 4/1975 qua các chức vụ: sĩ quan phòng 3 Bộ Tổng tham mưu, Trưởng phòng Quân đoàn 1, Tham mưu trưởng Sư đoàn 1 Bộ binh, Tham mưu trưởng Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, Tư lệnh Sư đoàn 22, Tư lệnh 5 Bộ binh, Tư lệnh phó Quân đoàn 1, Phụ tá Phó Tổng thống đặc trách bài trừ tham nhũng, và chức vụ cuối cùng là Tư lệnh phó đặc trách hành quân của Quân đoàn 3.
- Báo cáo lượng định tình hình VNCH của Đại tướng Weyand đệ trình lên Tổng thống Ford.
Trở lại chuyến thị sát tình hình VN của Tướng Weyand, sau khi trở về Mỹ, vị đại tướng này đã làm phúc tình lên Tổng thống Ford. Phúc trình này đã được dịch và phổ biến trong tập tài liệu "Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu" (trang 315-328). Sau đây là những điểm chính của bản phúc trình mà Đại tướng Weyand đệ trình lên Tổng thống.
- Phần mở đầu, Đại tướng Weyand viết như sau:
"Vâng theo chỉ thị của Tổng Thống, tôi đã viếng thăm Nam Việt Nam trong thời gian từ 28/3 đến 4/4. Tôi đã hoàn tất công việc lượng định tình hình hiện tại đó, đã phân tách Chính Phủ Cộng Hòa Việt Nam có những dự tính nào để phản công sự gây hấn từ phía Bắc Việt, đã cam kết với Tổng Thống Thiệu sự hỗ trợ kiên trì của Tổng Thống trong thời gian khủng hoảng này, và đã kiểm điểm các lựa chọn và các đường lối hành động mà Hoa Kỳ có thể thi hành để trợ giúp Nam Việt Nam."
"Tình hình quân sự hiện tại đang lâm vào tình trạng gây cấn, và sự tồn tại của Nam Việt Nam trong tư thế một quốc gia đứt đoạn tại các tỉnh phía nam thật là mong manh. Chính Phủ Nam VN đang bên bờ vực thẳm của một sự thất bại quân sự hoàn toàn. Tuy nhiên, Nam Việt Nam dự tính tiếp tục chống cự với phương tiện có trong tay, và, nếu được phép dưỡng thở, có thể tái tạo khả năng chiến đấu tùy thuộc vào sự yểm trợ chiến cụ về phía Hoa Kỳ cho phép. Tôi xác tín là chúng ta có bổn phận phải hiến sự hỗ trợ này cho họ."
"Chúng ta đã tới Việt Nam, trước tiên là để hỗ trợ nhân dân Nam Việt Nam - chứ không phải để đánh bại Bắc Việt. Chúng ta đã chìa bàn tay ra cho nhân dân Nam Việt Nam, và họ đã nắm lấy bàn tay ấy. Giờ đây họ cần tới bàn tay đó hơn bao giờ hết. Bằng mọi giá chúng ta đã trợ giúp cho 20 triệu người. Họ đã nói với cả thế giới là họ lo sợ cho tính mạng của họ. Họ là những người ưa chuộng các giá trị trùng hợp với các giá trị của các hệ thống không cộng sản, họ tha thiết đeo đuổi cơ hội tiếp tục phát triển một lối sống khác lối sống của những người hiện sống dưới ách Bắc Việt."
- Về phần viện trợ, Đại tướng Weyand ghi nhận:
"Mức độ yểm trợ hiện tại của Hoa Kỳ bảo đảm cho sự thất bại của Chính Phủ Nam VN. Trong số 700 triệu mỹ kim cho tài khóa 1975, số còn lại 150 triệu mỹ kim có thể xử dụng trong một thời gian ngắn cho một cuộc tiếp tế qui mô; tuy nhiên, nếu muốn đạt được một cơ may thành công thật sự, cần có lập tức thêm 722 triệu mỹ kim để đưa Nam Việt Nam tới một thế phòng thủ tối thiểu chống lại sự xâm chiếm được Nga và Tàu hỗ trợ. Sự viện trợ bổ túc này của Hoa Kỳ hợp với tinh thần và ý định của Hiệp Định Ba Lê. Hiệp Định này vẫn là phương thức thực tiễn làm việc cho một sự thỏa hiệp ôn hòa tại Việt Nam."
"Việc xử dụng hỏa lực không quân Hoa Kỳ để tăng cường khả năng Nam Việt Nam chống lại sự xâm chiếm của Bắc Việt sẽ đem lại sự hỗ trợ cả trên hai bình diện chiến cụ và tâm lý đối với Chính Phủ Nam VN và đồng thời sẽ đem lại một thế trì hoãn cần thiết trên chiến trường. Tuy nhiên tôi nhìn nhận những phiền phức khả quan về mặt pháp lý và chính trị nếu thi hành chọn lựa này."
- Về kế hoạch di tản, Đại tướng Weyand đề nghị:
"Xét về mặt biến chuyển nhanh chóng của các biến cố, Tổng Thống cần phải quan tâm tới một vấn đề khác. Dựa trên các lý do thận trọng, Hoa Kỳ phải có ngay bây giờ một kế hoạch di tản đại qui mô 6 ngàn kiều dân Mỹ và hàng vạn người Nam Việt Nam và Đệ Tam Quốc Gia mà chúng ta có bổn phận phải bảo vệ. Bài học tại Đà Nẵng cho thấy công việc di tản này đòi hỏi tối thiểu một chiến đoàn Hoa Kỳ của một sư đoàn tăng cường yểm trợ bởi không lực tác chiến để dập tan pháo binh và hỏa lực phòng của Bắc Việt. Khi tình thế đòi hỏi, một lời xác định công khai về chính sách này phải được công bố và Bắc Việt phải được cảnh cáo một cách rõ ràng: về ý định của Hoa Kỳ sẽ dùng tới vũ lực để bảo toàn tính mạng của các người được di tản. Hành Pháp phải được Quốc Hội cho toàn quyền xử dụng các hình phạt quân sự chống lại Bắc Việt nếu họ cản trở công cuộc di tản."
"Thế giới đánh giá sự trung tín của Hoa Kỳ trên tư cách một đồng minh tại Việt Nam. Để duy trì sự tin tưởng đó, chúng ta phải thực hiện một nỗ lực tối đa trong việc hỗ trợ cho Nam Việt Nam ngay bây giờ."
- Về vai trò và các lựa chọn hành động của Hoa Kỳ, Đại tướng Weyand đề nghị và phân tích như sau:
"Điều gì Hoa Kỳ làm, hay không làm, trong những ngày tới có lẽ là yếu tố định đoạt cho những biến cố xảy ra trong mấy tuần tới; điều này cũng đúng đối với điều gì Sàigòn hay Hànội làm hay không làm. Một mình Hoa Kỳ không thể cứu vãn Nam Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ có thể, cho dù có vô tình đi nữa, xô đẩy Nam Việt Nam xuống hố chôn."
"Đề nghị cụ thể của tôi có thể được phân thành hai loại. Có những hành động ngắn hạn - một phần về mặt thể lý nhưng chính yếu về mặt tâm lý - cần để nâng tinh thần Nam Việt Nam và, nếu có thể, ép buộc đình trệ hành động. Điều này chỉ mua được thời giờ, nhưng trong tình thế hiện tại thời giờ là điều tối cần. Thứ đến, có những hành động dài hạn, tuy mang tính chất vật chất nhưng cũng có khía cạnh tâm lý mạnh mẽ, cần thiết nếu muốn Nam Việt Nam có tí hy vọng tồn tại trước sự tàn phá của Bắc Việt hay thương thảo một hiệp ước khác hơn là đầu hàng."
"Điều kiện tiên quyết và cấp bách là Việt Nam cảm thấy Hoa Kỳ ủng hộ. Cảm quan này quan trọng về mọi mặt. Cảm quan Hoa Kỳ giảm thiểu ủng hộ Nam Việt Nam khuyến khích Bắc Việt tiếp tục tấn công. Chính cảm quan này đã khiến Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu triệt thoái khỏi các vị trí lẻ tẻ và lộ liễu tại các tỉnh phía bắc. Cảm quan này được cấu tạo bởi các hành động sau đây: Ngay sau khi ký kết Hiệp Định Ba Lê, 1.6 tỷ mỹ kim được đệ trình để cung ứng cho nhu cầu của Nam Việt Nam cho tài khóa 1974; 1.126 tỷ mỹ kim được xuất ra- thanh thỏa 70% nhu cầu. Tiếp sau đó 500 triệu mỹ kim còn lại bị từ khước không được tháo khoán. Đối với tài khóa năm nay, 1.6 tỷ được đệ trình để duy trì khả năng tự vệ của Nam Việt Nam; 700 triệu được chấp thuận- thanh thỏa 44 nhu cầu. Những hành động này đã giúp khai sinh khủng hoảng tin tưởng khiến Chính Phủ Nam VN dùng tới biện pháp triệt thoái chiến lược."
"Điều then chốt cho sự tồn tại sống còn của quốc gia Việt Nam nằm trong khả năng của Chính Phủ NVN ổn định tình thế, và đem các nguồn lực quân sự chống đối lại sức tấn công của Bắc Việt. Khả năng ổn định tình thế này tùy thuộc, một phần lớn, vào khả năng thuyết phục hạ tầng giới quân nhân và dân sự là chưa đến nỗi mất tất cả, và còn có thể chận đứng Bắc Việt. Tuy đó là trách vụ chính của Chính Phủ Việt Nam, các hành động về phía Hoa Kỳ mang tính chất quyết liệt trong việc tái tạo niềm tin."
"Hành động mà Hoa Kỳ có thể làm để gây nên ấn tượng tức khắc cho Việt Nam- Bắc lẫn Nam -là dùng không lực Hoa Kỳ để chận đứng thế tấn công hiện tại của Băc Quân. Cho dù chỉ giới hạn trên phần đất Nam Việt Nam và chỉ thực hiện trong một thời gian giới hạn, những tấn công này sẽ gây tổn thất lớn lao cho lực lượng viễn chinh Bắc Việt về mặt nhân sự và quân cụ, và sẽ tạo một chấn động về mặt tâm lý đối với các chiến binh xâm lăng. Những tấn công không tập này cũng sẽ khiến giới lãnh đạo Hà nội phải đắn đo suy nghĩ, thái độ mà hiện giờ họ không có, đến hậu quả tai hại có thể xảy đến nếu họ làm ngơ lời cam kết chính thức họ đã hứa với Hoa Kỳ."
"Giới lãnh đạo quân sự Nam Việt Nam thuộc mọi cấp bậc đều luôn lập đi lập lại tầm mức quan trọng của sử dụng B-52 phản công chống lại một lực lượng địch to lớn hơn và quan điểm này hợp lý về mặt quân sự. Tôi ý thức đến các khó khăn về mặt pháp lý và chính trị gây nên bởi việc thi hành biện pháp không tập này."
"Một việc quan trọng mà Hoa Kỳ cần phải làm là xác định cách rõ ràng Hoa Kỳ quyết tâm ủng hộ Nam Việt Nam. Việc này phải bao gồm lời minh định tích cực của Tổng Thống và các giới chức cao cấp Mỹ. Tinh thần suy sụp của dân chúng Việt Nam đã hứng khởi lên rõ rệt khi phái đoàn Hoa Kỳ do Tổng Thống phái đi với nhiệm vụ điều tra tình hình đặt chân tới Sàigòn. Có thêm những hành động tương tợ như vậy sẽ minh chứng mối quan tâm của Hoa Kỳ. Cộng thêm vào các lời xác định của Ngành Hành Pháp, cần thêm nỗ lực tạo một mối quan tâm chung tại mọi lãnh vực trên đất Hoa Kỳ. Sự ủng hộ từ các thành viên của Quốc Hội; xác định lập trường ủng hộ từ các nhân vật có trọng trách trong và ngoài chính phủ; và sự thông cảm trong giới báo chí Hoa Kỳ sẽ cải biến cảm quan về phía Hoa Kỳ liên quan đến tình hình tại Việt Nam."
Vương Hồng Anh Source: "quehuongngaymai.com
.
LHSon Khách viếng thăm
Tiêu đề: Tưởng Niệm 30-04-75: Trong 5 Ngày Cuối Cùng Của Cuộc Chiến Tranh VN Mon Apr 29, 2013 3:31 pm
. Tưởng Niệm 30-04-75: Trong 5 Ngày Cuối Cùng Của Cuộc Chiến Tranh VN
Tướng Trần Quang Khôi
Những Ngày Cuối Cùng của tháng 4 năm 1975 với Tướng Trần Quang Khôi
Tình hình vào hạ tuần tháng 4/75 biến chuyển dồn dập. Áp lực địch ở mặt trận phía Đông ngày càng nặng, tôi được Quân Đoàn tăng cường Trung Đoàn 8/SĐ5BB do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy. Lực lượng địch và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III giằng co dữ dội trên tuyến Hưng Lộc, Ngã Ba Dầu Giây. Tôi buộc phải sử dụng hai quả bom CBU 55 của Không Quân Biên Hòa để chận đứng địch và giải cứu Chiến Đoàn 52/SĐ18-BB của Đại Tá Dũng khỏi bị tiêu diệt. Ở Sài Gòn có âm mưu lật đổ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tôi được móc nối đảo chánh nhưng cương quyết từ chối và tuyên bố chống lại. Phi trường Biên Hòa đóng cửa.
Ngày 20/4-75 SĐ18BB của Tướng Lê Minh Đảo rút bỏ Xuân Lộc về Long Bình. Ngày 21/4/1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức. Ngay ngày hôm sau, tại mặt trận, tôi viết thư cho Trung Tướng Charles Timmes, phụ tá Đại Sứ Martin ở Sài Gòn, đại ý nói: “Thưa Trung tướng, trong khi tôi đang ngăn chận các sư đoàn Cộng Sản ở đây thì cũng là lúc quốc hội Hoa Kỳ đang thảo luận có nên tiếp tục viện trợ thêm 300 triệu Mỹ kim cho Quân Lực VNCH không? Tình hình gần như tuyệt vọng. Tôi nghĩ rằng cho dù ngay bây giờ quốc hội Hoa Kỳ có chấp thuận viện trợ cho quân lực chúng tôi đi nữa thì cũng đã quá muộn rồi. Tuy nhiên tôi và toàn thể quân nhân các cấp thuộc quyền tôi nguyện sẽ chiến đấu đến phút cuối cùng. Tôi chỉ xin Trung Tướng giúp cho gia đình tôi được di tản đến một nơi an toàn…”
Sau khi SĐ18BB được nghỉ 5 ngày bổ sung quân số và dưỡng quân, ngày 25/4/1975 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III điều động đơn vị này lên mặt trận Trảng Bom, Hưng Lộc, Ngã Ba Dầu Giây để thay thế Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III được rút về Biên Hòa dưỡng quân. Trung Đoàn 9/SĐ5BB được hoàn trả về hậu cứ ở Lai Khê. Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III trở thành lực lượng trừ bị Quân Đoàn.
Về tới Biên Hòa chưa kịp nghỉ ngơi, ngay chiều ngày 25/4/1975, có tin lực lượng địch chiến trường ???) Thiết Giáp và tiến ra hướng Quốc Lộ 15. Có lệnh Quân Đoàn, tôi liền phái Chiến đoàn 322 tăng cường 1 Tiểu đoàn TQLC do Trung Tá Nguyễn Văn Liên chỉ huy tấn công theo hướng Ngã Ba Long Thành và trường Thiết Giáp. Chiến đoàn vừa rời Quốc Lộ 15 tiến về hướng trường Thiết Giáp, thì chạm địch nặng và giao tranh dữ dội với chúng đến khuya, bắn cháy 12 chiến xa T-54 buộc chúng phải rút vào bên trong. Chiến thắng này làm nức lòng toàn dân ở Biên Hòa. Sau khi kiểm soát kết quả trận đánh, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân đoàn III hứa sẽ thưởng 1,200,000 đồng cho các chiến sĩ có công diệt chiến xa địch, mỗi chiếc hạ được 100,000 đồng.
Ngày 29/4/1975 có lệnh mới của Quân Đoàn. Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III ngoài Liên đoàn 33 BĐQ, được tăng phái thêm: Lữ đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, Lữ đoàn 4 Nhảy Dù (1 Tiểu đoàn) và Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù, yểm trợ hỏa lực trực tiếp có: Tiểu đoàn 46 PB-155ly và Tiểu đoàn 61 PB-106 ly Quân Đoàn.
12 giờ trưa ngày 29/4/1975, Trung Tướng Toàn triệu tập một phiên họp khẩn cấp tại Bộ Tư Lệnh SĐ18BB ở Long Bình. Chỉ có Toàn, Đảo và tôi. Anh chỉ tay lên bản đồ ra lệnh cho SĐ18BB của Đảo phòng thủ khu vực Long Bình và kiểm soát xa lộ Biên Hòa, kế đó ra lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III của tôi phòng thủ bảo vệ thành phố Biên Hòa và đặt lực lượng Địa Phương Quân (ĐPQ) và Nghĩa Quân (NQ) của Tiểu Khu Biên Hòa dưới quyền kiểm soát của tôi. Sau này đi tù, tôi mới biết ngay lúc này phía bên khu vực SĐ25BB ở Củ Chi đã bị địch chiếm, SĐ25BB đã bị đánh tan và Tướng Lý Tòng Bá đã bị địch bắt. Nguyễn Văn Toàn giấu tôi và Lê Minh Đảo tin xấu này. Anh chuẩn bị sắp xếp để bỏ trốn.
Vừa nhận nhiệm vụ xong, tôi chợt thấy xuất hiện Đại Tá Hiếu, Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 43/SĐ18BB với giọng run run xúc động, Hiếu báo cáo: quân địch đang tấn công Trảng Bom và Trung đoàn 43BB đang rút quân về hướng Long Bình, mặt Đảo cau lại, Toàn nổi giận la hét Hiếu bắt Hiếu phải đem quân trở lại vị trí cũ, Hiếu làm như tuân lệnh, chào và lui ra. Trong thâm tâm tôi, tôi biết là mặt trận phía Đông Biên Hòa ở Trảng Bom của SĐ18BB khó có thể cầm cự nổi vì SĐ18BB đã bị kiệt sức sau trận đánh lớn ở Xuân Lộc không được bổ sung. Sự sụp đổ chỉ là vấn đề thời gian. Giao nhiệm vụ cho tôi và Đảo xong, Toàn đứng dậy bắt tay hai chúng tôi và nói: “Hai anh cố gắng, tôi sẽ bay về Bộ Tổng Tham Mưu xin yểm trợ cho hai anh.” Xoay qua tôi, anh nói tiếp: Còn số tiền thưởng 1,200,000, tôi sẽ cho người mang đến Lữ đoàn.” Đấy là những lời nói cuối cùng của Tư Lệnh Quân Đoàn III.
Về đến Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III, tôi liền họp các Lữ đoàn Trưởng, Liên đoàn Trưởng, Chiến đoàn Trưởng, và các Đơn Vị Yểm Trợ. Tiểu Khu Trưởng và Tiểu Khu Phó Biên Hòa đã bỏ trốn từ mấy ngày trưc. Trước hết, tôi ban hành lệnh thiết quân luật ở Biên Hòa kể từ 15 giờ 00 ngày 29/4/1975, chỉ thị cho các đơn vị ĐPQ và NQ chung quanh thị xã Biên Hòa bố trí tại chỗ, ở đâu ở đó, không được rời vị trí, không được di chuyển. Cảnh sát Biên Hòa chịu trách nhiệm an ninh bên trong thành phố. Triệt để thi hành nguyên tắc nội bất xuất, ngoại bất nhập. Để phòng thủ bảo vệ thành phố Biên Hòa, tôi phối trí Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III như sau:
- Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù: Bố trí trong khu phi trường Biên Hòa, giữ mặt Bắc BTL/Quân đoàn III. - Lữ đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC): 1Tiểu đoàn bảo vệ BTL/Quân đoàn III, 1Tiểu đoàn bố trí phòng thủ mặt Nam BTL/Quân đoàn III. - Lữ đoàn 4 Nhảy Dù (1Tiểu đoàn): Tổ chức phân tán thành nhiều tiểu đội chiến đấu nhỏ, giữ Cầu Mới và Cầu Sắt Biên Hòa, và đặt các nút chận trên đường xâm nhập vào thành phố Biên Hòa. - Chiến đoàn 315: Bố trí án ngữ từ ngã Tý Lò Than đến ngã Tư Lò Than (gần trại Ngô Văn Sáng). - Chiến đoàn 322: Bố trí án ngữ từ ngã tư Lò Than đến cổng phi trường Biên Hòa (trừ bị 1). - Chiến đoàn 318: Bố trí án ngữ từ cổng phi trường Biên Hòa đến Cầu Mới Biên Hòa (trừ bị 2). - Pháo Binh: Kế hoạch yểm trợ hỏa lực. - BTLLĐ3KB/Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III: Đặt tại tư dinh Tư Lệnh Quân Đoàn III.
Vào khoảng 15 giờ 00 ngày 29/4/1975, tôi đang ăn cơm trưa với Bộ Tham Mưu trong tư dinh Tư Lệnh Quân Đoàn, thì thình lình chiếc trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn đáp xuống bãi đáp trong vườn hoa tư dinh bên cạnh chiếc trực thăng chỉ huy của tôi. ThiếuTá Cơ (phi công) vào chào tôi và báo cáo cho tôi biết. Sau khi rời Long Bình, Cơ đưa Tướng Toàn và bộ hạ ra Vũng Tàu, nơi đó anh thấy có các Tướng Lãm và Hiệp chờ Tướng Toàn, rồi cả 3 người cùng đi bằng tàu đánh cá ra Hạm Đội Mỹ ở ngoài khơi. Tin Toàn bỏ trốn không làm tôi ngạc nhiên. Anh Cơ xin được ở lại làm việc với tôi. Tôi đồng ý vì đơn vị trực thăng của anh giờ này không còn ở Biên Hòa nữa.
Lúc 17 giờ 00 ngày 29/4/1975, tôi dùng xe Jeep có hộ tống đi một vòng quan sát tình hình trong và chung quanh thành phố Biên Hòa. Tình hình chung có vẻ yên tĩnh, dân chúng không ra đường, phố xá đóng cửa. Vào khoảng 18 giờ 00, quân cộng sản bắt đầu xâm nhập vào mặt Bắc và Đông Bắc thành phố từ hướng phi trường đụng với quân Biệt Cách Dù và TQLC. Giao tranh bắt đầu, 1 cánh quân BĐQ của Chiến đoàn 315 cũng đụng địch ở gần trại Ngô Văn Sang. Địch bám sát vào tuyến phòng thủ mặt Bắc và Đông Bắc của quân ta. Hai bên bám trận địa nằm cách nhau 10-15 mét. Cho đến giờ phút này, quân ta chiến đấu vững vàng tự tin. Không có tình trạng bỏ ngũ. Dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của hỏa lực Thiết Giáp, quân ta đẩy địch ra xa tuyến phòng thủ.
Lúc 20 giờ 00 tôi gọi trại Phù Đổng ở Sài Gòn. Nơi đây là Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp và là nơi Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III vừa đặt bản doanh. Có trả lời nhưng không một ai có thẩm quyền để nhận báo cáo của tôi hoặc liên lạc với tôi. Tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, không có cách gì liên lạc được. Tôi nóng lòng chờ lệnh của Sài Gòn. Tôi tự hỏi Đại Tướng Dương Văn Minh, tân Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh Quân Đội có giải pháp gì không? Có lệnh gì mới cho chúng tôi không?
Đến 22 giờ 10 có chuông điện thoại reo, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có gọi tôi ở đầu giây: “Tôi là Trung Tướng Có đây, tôi đang ở bên cạnh Đại Tướng, anh cho chúng tôi biết tình hình ở Biên Hòa như thế nào?” Thưa Trung Tướng, tôi giữ thị xã Biên Hòa, Lê Minh Đảo giữ Long Bình, Toàn đã bỏ chạy, phi trường Biên Hòa địch chiếm, áp lực địch rất nặng ở hướng Bắc và Đông Biên Hòa.” 1, 2, 3 phút trôi qua, ở đầu giây, Tướng Có nói tiếp ” “Đại tướng hỏi anh có thể giữ vững Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng mai, để Đại tướng nói chuyện với bên kia được không?” Tôi trả lời không do dự ” Được, tôi có thể giữ vững Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng mai.” Trong máy điện thoại, tôi nghe văng vẳng tiếng nói của Tướng Có báo cáo lại với Đại tướng Minh. Cuối cùng Tướng Có nói: “Lệnh của Đại tướng cho anh: Chỉ huy phòng thủ bảo vệ Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng ngày 30/4/1975. Chúc anh thành công.” Tôi đáp nhận.
Vào khoảng 23 giờ 45 khuya, địch bắt đầu pháo dữ dội vào thị xã Biên Hòa, chúng tập trung một lực lượng hỗn hợp bộ binh chiến xa cấp Trung đoàn từ Ngã Ba Hố Nai – Xa Lộ tấn công về hướng Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III. Chiến đoàn 315 của Trung Tá Đỗ Đức Thảo xông ra chận địch. Hỏa lực chiến xa M-48 của ta áp đảo địch. Giao tranh quyết liệt. Một số chiến xa địch bị bắn cháy. Địch rút lui.
Lúc 02 giờ 00 sáng ngày 30/4/1975, Tướng Lê Minh Đảo gọi tôi ở đầu máy PC-25: “Báo anh hay tôi bị quân địch tràn ngập, Long Bình đã bị chúng chiếm.” Tôi liền hỏi: “Anh hiện giờ ở đâu? Có cần gì tôi không?” Đảo đáp: “Tôi hiện ở gần Nghĩa trang Quân Đội, đang rút đi về hướng Thủ Đức.” Tôi cảm thấy đau buồn và tội nghiệp Lê Minh Đảo vô hạn. Những năm cuối cùng của cuộc chiến, tôi và Đảo rất vất vả. Hai chúng tôi có mặt ở khắp các mặt trận, vì Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III của tôi là lực lượng cơ động số 1, và SĐ18BB của Đảo là lực lượng cơ động số 2 của Quân Đoàn. Trong tù, bọn cán bộ cộng sản rất để ý đến hai chúng tôi vì đã gây cho chúng rất nhiều tổn thất nghiêm trọng và chúng coi hai chúng tôi là hai tên chống cộng “điên cuồng” nhất.
Vào khoảng 03 giờ 30 sáng, địch lại pháo vào Biên Hòa, lần này chúng pháo rất mạnh và chính xác. Tôi đoán chúng định tấn công dứt điểm Biên Hoà sau khi đã chiếm được Long Bình. Tôi chuẩn bị sẽ tung cả 3 Chiến đoàn Thiết Giáp vào trận đánh quyết định, nhưng thật bất ngờ, chúng vừa xuất hiện 1 đoàn chiến xa dẫn đầu, bộ binh theo sau, liền bị Chiến đoàn 315 đánh chận đầu và bọc sườn, chúng bèn rút chạy ngược ra xa lộ. Kể từ đó, thị xã Biên Hòa trở nên yên tĩnh.
Đúng 08 giờ 00 sáng ngày 30/4/1975, tôi cố gắng gọi về Bộ Tổng Tham Mưu để liên lạc với Trung Tướng Nguyễn Hữu Có nhưng không được. Tôi liền họp các Lữ đoàn Trưởng, Liên đoàn Trưởng, Chiến đoàn Trưởng, và các Đơn vị trưởng Yểm Trợ. Chúng tôi trao đổi tin tức và thảo luận tình hình ở mặt trận, tình hình trong thành phố Biên Hòa. Áp lực địch bên ngoài không còn nữa. Chung quanh bên ngoài thị xã, chỉ có hoạt động lẻ tẻ của du kích, bên trong thành phố vắng vẻ. Đặc biệt đêm qua, tôi có cho tăng cường canh giữ nhà giam Biên Hòa. Không có tình trạng dân chúng xuống đường hô hào ủng hộ cộng sản. Tôi sung sướng nhất là thấy tinh thần của chiến sĩ ta rất tốt, không có tình trạng đào ngũ. Tuyệt nhiên cũng không có tình trạng hãm hiếp cướp bóc trong thành phố, các sĩ quan thi hành quân lệnh nghiêm chỉnh. Trong đêm qua có nhiều tốp lính bạn thuộc SĐ18BB rã ngũ định chạy qua thành phố, tôi ra lệnh chận lại, đuổi họ trở ra, cương quyết không cho vào thành phố đang giới nghiêm vì sợ có tình trạng gây mất tinh thần rã ngũ giây chuyền như đã xảy ra ở miền Trung trước đây.
Bây giờ là 08 giờ 30 ngày 30/4/1975, tôi kết luận buổi họp: “Biên Hòa không còn là mục tiêu tấn công của địch nữa. Tôi nghĩ rằng giờ này các lực lượng chủ lực cộng sản BV đang tập trung tấn công Sài Gòn. Rõ ràng chúng bỏ Biên Hòa, dồn lực lượng đánh vào Thủ Đô. Chúng ta mất liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu. Bây giờ tôi quyết định kéo toàn bộ Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III về tiếp cứu Sài Gòn.” Tất cả các Đơn vị trưởng ủng hộ quyết định này của tôi.
Tôi liền ban hành Lệnh Hành Quân và điều động Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III tiến về Sài Gòn theo kế hoạch sau đây: Lấy đường xe lửa Biên Hòa-Sài Gòn và xa lộ Đại Hàn làm hai trục tiến quân chính.
a) Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù + Lữ đoàn 4 Nhảy Dù (1 Tiểu đoàn) do Đại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy: Tiến bên phải đường sắt hướng Sài Gòn. Đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, co cụm lại, bố trí bên phải đường sắt, chờ lệnh.
b) Lữ đoàn 2 TQLC do Trung Tá Liên (TQLC) chỉ huy: Tiến bên trái đường sắt hướng Sài Gòn. Đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, co cụm lại, bố trí bên trái đường sắt, chờ lệnh.
c) Lữ đoàn 3 Kỵ Binh + Liên đoàn 33 BĐQ: Bố trí yểm trợ quân BCD, ND, và TQLC rời vị trí phòng thủ, rút an toàn qua Cầu Mới Biên Hòa trước. Sau đó, lấy xa lộ Đại Hàn làm trục chính, tiến về Sài Gòn theo thứ tự như sau:
- Chiến đoàn 315 do Trung Tá Đỗ Đức Thảo chỉ huy: Đi trước, đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, bố trí bên này cầu Bình Triệu, chờ lệnh. - Chiến đoàn 322 do Trung Tá Nguyễn Văn Liên (TG) chỉ huy: Đi sau CĐ 315, đến ngoại ô Bắc Sài Gòn, bố trí sau CĐ 315, chờ lệnh. - Chiến đoàn 318 do Trung Tá Nguyễn Đức Dưỡng chỉ huy: Đi sau cùng, đến Sài Gòn, bố trí sau BTL và Đơn vị Yểm Trợ, chờ lệnh.
Trước khi lên trực thăng Chỉ Huy, tôi duyệt đoàn quân lần cuối. Quân ta từ từ rời thành phố Biên Hòa trong vòng trật tự, quân phục chỉnh tề, tác phong nghiêm chỉnh, không hề nao núng, giống y như những lần hành quân trước đây khi còn Đại Tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy xông trận trên chiến trường Campuchia. Lúc này là 09 giờ 00 ngày 30/4/1975.
Tôi lên trực thăng Chỉ Huy của Tướng Toàn do Thiếu Tá Cơ lái, chiếc trực thăng Chỉ Huy thứ hai bay theo sau. Tôi cho trực thăng bay lượn trên thành phố Biên Hòa, quan sát thấy tình hình bên dưới vẫn yên tĩnh. Các cánh quân ta vẫn tiến đều đặn về hướng Sài Gòn. Những ổ kháng cự, những chốt của địch dọc trên trục tiến quân của ta bị đè bẹp hoặc bị nhổ nhanh chóng. Tôi đang suy nghĩ và lo lắng. Tôi lo vì không liên lạc được với SàiGòn, khi quân ta về đến nơi, sợ quân bạn ở Biệt Khu Thủ Đô bắn lầm. Tôi đang miên man suy nghĩ cách đối phó thì đột nhiên Thiếu Tá Cơ hỏi tôi: “Thiếu Tướng có muốn ra đi không? Tôi sẽ đưa Thiếu Tướng đi.” Tôi liền hỏi lại: “Còn anh thì sao?” “Khi đưa Thiếu Tướng đi xong, tôi sẽ trở về, tôi sẽ ở lại với vợ con còn ở Biên Hòa.” “Cám ơn anh, tôi cũng ở lại với anh em. Tôi đã quyết định việc này từ lâu rồi.”
Chúng tôi bay về hướng Gò Vấp, tôi biểu Cơ lấy cao độ. Xa xa phía dưới, tôi thấy những đoàn quân xa chở đầy quân, những chiến xa, những pháo kéo của quân CSBV như những con rắn dài trên xa lộ Biên Hòa và trên Quốc Lộ 13 bò vô Sài Gòn. Hai trực thăng của chúng tôi đáp xuống trại Phù Đổng nơi đặt BCH TGB và BTL/Quân đoàn III. Tôi vội đi vào văn phòng tìm sĩ quan trực. Tôi thấy các nhân viên văn phòng chạy qua lại nhớn nhác. Tôi không gặp một ai có thẩm quyền, chỉ có 1 Trung úy mang huy hiệu Quân đoàn III, tôi nói tôi muốn sử dụng điện thoại để liên lạc với BTL Biệt Khu Thủ Đô (BKTĐ) báo cho họ biết gấp các cánh quân của tôi sắp về tới cửa ngõ Bắc Sài Gòn để tránh bắn lầm nhau. Tôi gọi nhiều lần, gọi một cách tuyệt vọng, không có ai ở đầu máy trả lời. Rồi tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, cũng không liên lạc được. Lúc bấy giờ tôi nghe nhiều loạt đạn pháo binh địch nổ ở hướng sân bay TSN. Giờ này, các cánh quân Thiết Giáp của tôi cũng vừa đến Bình Triệu gần khu nhà thờ Fatima.
Trong khi tôi đang lúng túng trong việc liên lạc với BKTĐ và Bộ Tổng Tham Mưu, thì thình lình tôi nghe lời kêu gọi ngưng chiến đấu của Tổng Thống Dương Văn Minh phát ra từ một máy thu thanh đâu đấy. Tôi nhìn đồng hồ tay: 10 giờ 25 phút.
Thế là hết. Kể từ giờ phút này, tôi tự chấm dứt quyền chỉ huy của mình và xem nhiệm vụ của LĐ3KB và Luc Luợng Xung Kích Quân Đoàn III đến đây là kết thúc. Tôi để cho các đơn vị tự động buông vũ khí đầu hàng theo lệnh của Tổng Thống. Tôi không có gì để nói thêm, chỉ thầm cám ơn tất cả các chiến hữu đã cùng tôi chiến đấu đến phút cuối cùng của cuộc chiến và cùng tôi giữ tròn khí tiết của người chiến sĩ đối với Quân Đội và Tổ Quốc.
Quan Điểm và Kết Luận
Sau khi ngưng chiến theo lệnh của Tổng Thống Dương Văn Minh, tôi bị địch bắt, truy vấn, tù đầy 17 năm và sang Mỹ năm 1993 theo diện tỵ nạn chính trị. Mỗi năm cứ đến ngày 30/4, tôi đọc đi đọc lại nhiều bài viết của bên cộng sản cũng như của bên ta về cuộc chiến Việt Nam. Có không ít bài viết lờ mờ hoặc viết sai về một số sự kiện trong cuộc chiến. Đặc biệt khi viết về Biên Hòa thì không có bên nào nói đúng. Ai cũng biết Biên Hòa là vị trí chiến lược số 1 của miền Nam, Việt Nam, phi trường Biên Hòa còn là nơi đặt bản doanh BTL/Quân đoàn III và Vùng III Chiến Thuật, đầu não của bộ máy quân sự miền Đông. Biên Hòa là cửa ngõ quan trọng bậc nhất ở phía Bắc thủ đô Sài Gòn. Để mất Biên Hòa là mất Sài Gòn, mất miền Nam Việt Nam.
Nhưng cho đến bây giờ, tôi chưa thấy một tài liệu nào nói rõ về Biên Hòa trong những ngày cuối cùng của chiến tranh VN. Thế mà tôi vẫn giữ im lặng cho đến ngày hôm nay, vì nghĩ rằng cuối cùng rồi sự thật lịch sử cũng được phơi bày. Vả lại khi viết về cuộc chiến tranh mà mình là nhân chứng trực tiếp, không khỏi phải nói nhiều rất nhiều về mình, cái mà tôi không hề thích vì như Pascal nói: “Cái tôi là đáng ghét” (Le moi est haissable). Nhưng anh Nguyễn Minh Tánh đã viết sai sự thật về Lữ Đoàn 3-Kỵ Binh (LĐ3KB) do tôi chỉ huy, đã xúc phạm đến DANH DỰ của chúng tôi nên tôi có bổn phận với những người đã hy sinh và những người còn sống, phải cải chính và nói lại cho rõ để không phụ lòng những chiến sĩ anh hùng đã cùng tôi chấp nhận ở lại chiến đấu đến cùng.
Những năm đầu trong ngục tù, cán bộ cộng sản luôn truy vấn tôi kịch liệt. Chúng làm tổng kết chiến tranh để rút kinh nghiệm chiến trường, chúng ngạc nhiên trước sức chiến đấu của LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III, đặc biệt chúng bắt tôi viết đề tài Những nguyên nhân nào mà LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III do tôi chỉ huy không bị tan rã trước sức tấn công của quân đội cách mạng.
Chính miệng chúng nói với tôi: “Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III là đại đơn vị duy nhất của Quân Đội SàiGòn chiến đấu tới cùng cho đến khi có lệnh ngưng bắn.” Chúng kể ra những thành tích chiến đấu của Chiến đoàn 318 trên chiến trường Campuchia thời Tướng Đỗ Cao Trí của LĐ3KB và Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn III mà chúng gọi là những tội ác “Trời không dung Đất không tha” và kết tội tôi đã kéo dài chiến tranh nhiều năm.
Chúng đã chọn và định đưa một số chúng tôi ra Tòa Án Chiến Tranh của chúng để xét xử như những tội phạm chiến tranh nếu không có áp lực mạnh mẽ của Hoa Kỳ và Cộng Đồng thế giới tự do cũng như của dư luận Quốc Tế lúc bấy giờ.
Tôi không hề ân hận việc mình đã làm, không hề hối tiếc hay than van về những hậu quả mà mình phải gánh chịu sau khi bị bắt. Nếu phải làm lại từ đầu, thì tôi cũng vẫn làm như thế. Tôi biết rằng làm như thế là tôi mất tất cả, mất tất cả trừ DANH DỰ.
Tướng Trần Quang Khôi
.
tranvu Khách viếng thăm
Tiêu đề: Trận Đánh Cuối Cùng Của QLVNCH Tại Cầu Tân Cảng (+Video) Wed May 01, 2013 7:47 pm
.
Trận Đánh Cuối Cùng Của QLVNCH Tại Cầu Tân Cảng (+Video)
Saigon le 28-04-1975.
Jean Larteguy, nhà báo Pháp có mặt tại miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối của Saigon ghi lại như sau khi tới thăm một đơn vị Dù cố thủ tại Saigon ngày 28/04/1975:
“ . . . Họ không buồn rầu, và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một cuộc thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau, và liệng cho nhau những chai Coca-Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu nầ . Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon.
Và những binh sĩ tuyệt vời nầy vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ trong giờ phút sinh tử này Một trong các cấp ấy là một Đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao, ông trả lời:
- Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người chiến đấu tới giây phút cuối cùng. Ông hãy nói cho thế giới biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh. . .”
Lartéguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên Trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa…
"… Và trong những bộ đồng phục mới, giày chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Chỉ còn thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng".
Một đồng nghiệp của Lartéguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan:
- Các anh có biết là sắp bị giết chết không ? Một thiếu úy trả lời : - Chúng tôi biết chứ. - Vì sao? - Tại vì chúng tôi không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Sau đó Jean Larteguy trở về Pháp, và đã làm cho cả thế giới ngạc nhiên với những gì ông viết ra về những người lính VNCH.
***
Hình như những SVSQ này di tản từ Đà lạt xuống Huấn Khu Thủ Đức có nhiệm vụ gác các lô cốt trên quốc lộ 1 , bảo vệ Long Bình và tham gia trận chiến tại Tân Cảng (cầu xa lộ). Sau đây xin mời các bạn vào YouTube xem lại trận đánh ngày 28/04/1975, 2 ngày trước khi Sài gòn bị dứt điểm.
Saigon in the last two days (April 28th 1975): The final desperate battle of South Vietnamese troops to hold their capital Saigon and to keep access open for the flood of refugees fleeing on 1st national road from the attacks of the North Vietnamese. Many thanks to these heroes for still keeping up their courage in the last days of war; you will never be forgotten...
tranvu Khách viếng thăm
Tiêu đề: Sáng 30-4-1975 Những Đơn Vị Nào Tiến Về Giải Cứu Thủ Ðô Sàigòn Bỏ Ngỏ? Fri May 03, 2013 9:46 pm
Sáng 30-4-1975 Những Đơn Vị Nào Tiến Về Giải Cứu Thủ Ðô Sàigòn Bỏ Ngỏ?
Tình hình chiến sự
Trong những năm từ 1973 đến 1975, CSHN đã rốc hết láng (lực lượng) vào canh bạc Nam VN vì biết chắc là HK sẽ không quay trở lại NVN.
Ngày 13/12/74: CSHN cho tiến hành chiến dịch Tây Nguyên. Khởi đầu là đánh chiếm tỉnh Phước Long gần biên giới Miên Việt. Cộng quân phải mất 20 ngày mới chiếm được PL. Tiếp theo đó là Cộng quân đánh chiếm Ban Mê Thuột (14/3/75); Tuy Hòa; Bình Ðịnh, Huế, và Ðà Nẵng.
Ngày 14/3/75: Trong buổi họp tại Cam Ranh, TT Thiệu đột nhiên ra lệnh cho Tướng Ngô Quang Trưởng bỏ Vùng I và các lực lượng QÐII/VIICT rút về Nha Trang_. Dường như sau này TT Thiệu có nói: ông bỏ những phần đất đó như là một hình thức “tháu cáy” trong canh bạc xì-phé với hy vọng là quân Mỹ sẽ quay trở lại! Thực tế, sự tháu cáy dại dột đó đã chỉ mở ra cơ hội tốt cho các lực lượng của CSHN được thể kéo rốc xuống phía nam uy hiếp các cửa ngõ vào Sàigòn và đưa ra yêu sách là TT Thiệu phải chịu từ chức để cho Dương Văn Minh lên làm TT mà nhiệm vụ duy nhất của ông Minh là ra lệnh cho các lực lượng VNCH buông súng.
Ngày 9/4/75: CSBV tiến đánh Xuân Lộc, Long Khánh nhưng bị lực lượng SÐ18BB và Lữ Ðoàn 1 Dù đẩy lui.
Ngày 16/4/75: TT Thiệu tuyên bố “Chiến Thuật Co Cụm”, bỏ ngỏ Vùng Một và Vùng Hai để hy vọng HK trở lại.
Ngày 16/4/75: Tại Vùng Ba, LLXKQÐIII do Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi chỉ huy đã giao tranh dữ dội với Cộng quân tại Ngã Ba Dầu Giây và Hồng Lôc, Tướng Khôi đã dùng 2 trái bom CBU-55 để tiêu diệt khoảng một trung đoàn Cộng quân và giải cứu Chiến Ðoàn 52/SD18 của Ð.T. Ngô Kỳ Dũng.
Ngày 20/4/75: Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh QÐIII, lệnh cho Tướng Lê Minh Ðảo bỏ Xuân Lộc rút quân về Long Bình, Biên Hòa và LLXKQÐIII trấn tại Dầu Giây-Hưng Lộc. Cũng trong ngày này, Ðại Sứ HK Graham Martin gặp TT Thiệu và yêu cầu ông Thiệu nên từ chức để sớm có thương thuyết với CS bằng chính phủ mới của DVM. Chiều ngày hôm đó thì Phan Rang lọt vào tay Cộng quân và Cộng quân cũng cố tình xua cho dân chúng di tản để làm rối loạn tinh thần dân chúng ở Sàigòn.
Trong thời gian từ 20/4/75 đến 30/4/75: Vùng 4CT tương đối yên tĩnh mặc dù một số lực lượng CS của Công Trường 4 CS cố gắng tấn công và pháo kích vào những điểm trọng yếu như Chi Khu Phong Ðiền, Phi Trường Trà Nóc, và Bình Thủy.
Ngày 21/4/75: TT Thiệu tuyên bồ từ chức theo lời khuyến cáo của Ðại Sứ HK, Graham Martin! Ngày hôm sau, Tướng Khôi viết thư gửi Trung Tướng Charles Timmes, phụ tá của Ðại Sứ Martin, đại ý nói rằng:
Thưa Trung Tướng, Trong khi tôi đang ngăn chặn các sư đoàn CS tại đây thì cũng là lúc Quốc Hội HK đang thảo luận có nên tiếp tục viện trợ thêm 300 triệu Mỹ Kim cho QLVNCH hay không? Trong tình hình gần như tuyệt vọng, tôi nghĩ rằng dù cho ngay bây giờ Quốc Hội HK có chấp thuận viện trợ cho QLVNCH đi chăng nữa thì cũng đã quá muộn rồi. Tuy nhiên tôi và toàn thể quân nhân các cấp thuộc quyền tôi nguyện sẽ chiến đấu đến phút cuối cùng. Tôi chỉ xin Trung Tướng giúp cho gia đình tôi được di tản tới một nơi an toàn…
Ngày 25/4/75: LLXKQÐIII được lệnh rút về Biên Hòa dưỡng quân. Sư Ðoàn 18BB của Tướng Lê Minh Ðảo thay thế trấn giữ Trảng Bôm, Hưng Lộc vàø Ngã Ba Dầu Giây. Nhưng ngay chiều hôm đó, Công quân đánh Trường Thiết Giáp. Tướng Khôi cho Chiến Ðoàn 322 được tăng cường thêm 1 Tiểu Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến của Tr.T. Nguyễn Văn Liên ra đối địch. Cộng quân bị thiệt hại 12 Chiến Xa T-54 và 1 Trung dội bộ binh phải tháo chạy vào rừng cao su.
Ngày 29/4/75: Sáng ngày 29/4, có lệnh tăng cường thêm cho LLXKQÐIII Lữ Ðoàn 468 TQLC và Lữ Ðoàn 2 Nhẩy Dù và nhận lệnh bảo vệ Thành Phố Biên Hòa. Ðến trưa thì Tướng Toàn họp khẩn cấp tại BTL/SD18BB tại Long Bình chỉ thị: Tướng Lê Minh Ðảo giữ Long Bình và Xa Lộ Biên Hòa; Tướng Trần Quang Khôi phòng thủ TP Biên Hòa. Ngay khi vừa chỉ thị xong, bất thần Đại Tá Hiếu xuất hiện báo cáo Trung Ðoàn 43/SÐ18BB đóng tại Trảng Bôm bị áp lực Cộng quân phải rút vào Long Bình. Thực ra thì vào lúc đó, SÐ25BB đã bị đánh tan và Tướng Lý Tòng Bá đã bị bắt.
Riêng khu vực Lai Khê được SÐ5BB của Tướng Lê Nguyên Vỹ bảo vệ, tình hình khá yên tĩnh. Nhưng sáng hôm sau khoảng 10 giờ 30, khi nghe T.T. DVM tuyên bố buông súng, Tướng Lê Nguyên Vỹ cho kéo cờ trắng. Sau đó, ông nghiêm trang chào quốc kỳ rồi trở về văn phòng tự sát.
Tóm lại, rõ ràng trong khoảng một tuần lễ cuối cùng của Tháng Tư, 1975, Cộng quân đã chỉ dùng một số đơn vị nhỏ cầm chân lực lượng VNCH tại chỗ và tập trung các mũi dùi tấn công từ hướng đông theo hướng tây-nam, mượn Quốc Lộ 1 và Xa Lộ Biên Hòa tiến thẳng vào Sàigòn lúc đó hầu như bỏ ngỏ, không bố phòng.
Ðể chặn đường tiến quân của QÐIV của Tướng Nguyễn Khoa Nam, Cộng quân đã đóng chốt tại vài nơi trên Quốc Lộ 4 thuộc Long An.
Từ Vũng Tầu về Saigòn, Quốc Lộ 15 bị cắt đứt giao thông bởi một đơn vị chiến xa của Cộng quân.
Tại Vùng 3, Lực Lượng Xung Kích QÐIII đóng tại Biên Hòa là đại lực lượng mà Cộng quân đáng e ngại nhất lại chỉ được lệnh phòng thủ Biên Hòa.
Tướng Khôi kể lại trong tập Danh Dự và Tổ Quốc, trang 11: Vào khoảng 15 giờ ngày 29/4/75, tôi đang ăn cơm trưa với Bộ Tham Mưu trong tư dinh Tư Lệnh QÐ, thình lình có chiếc trực thăng của Tướng Toàn đáp xuống vườn hoa tư dinh, bên cạnh chiếc trực thăng chỉ huy của tôi. Thiếu Tá Cư Pilot vào chào tôi và báo cáo cho tôi biết: sau khi rời Long Bình, Cư đưa Tướng Toàn và bộ hạ ra Vũng Tầu, nơi đó có các Tướng Hoàng Xuân Lãm và Phan Hòa Hiệp chờ Tướng Toàn, rồi cả ba người cùng đoàn tùy tùng đáp tầu đánh cá ra hạm đội Mỹ ở ngoài khơi. Tin Tướng Toàn bỏ ngũ không làm tôi ngạc nhiên. Thiếu Tá Cư xin ở lại với tôi. Tôi đồng ý.
Về phía Cộng quân, Thượng Tướng Hoàng Cầm, Tư Lệnh Quân Ðoàn 4 CSBV, kể lại trong nhật ký: Ngày 29/4, ngay khi trời vừa sáng, sư đoàn 341 tiến công luôn với 5 xe tăng dẫn đầu, đập tan nhiều ổ đề kháng của địch. Mười giờ, đội hình sư đoàn tiến đến ngã ba Hố Nai đi Biên Hòa phải dừng lại vì gặp phải 4 tuyến hào phía trước, xe tăng không qua được. Súng nổ dữ dội suốt đêm từ phía Biên Hòa dội về sở chỉ huy quân đoàn và ở đó hỏa châu hắt lên một quầng sáng. Ðúng là trận chiến căng thẳng để đưa đội hình qua sông. Khu vực xẩy ra trận đánh ác liệt ở Ngã Ba Tân Hiệp. Ở đây cũng là một trận địa chống tăng với tuyến hào chống tăng vắt qua đường bao vây lấy căn cứ. Lúc ấy đã là 2 giờ sáng 30 tháng 4. Trời sáng mà không thanh toán được cái lá chắn này thì làm sao vào được Sàigòn sớm?
Trận Chiến Cuối Cùng của LLXKQÐIII tại Biên Hòa
Ðể phòng thủ Biên Hòa, Tướng Khôi đã bố trí như sau:
Chiến Ðoàn 322 phòng thủ ở phía nam Phi Trường Biên Hòa và giữ Mạn Bắc Bộ Tư Lệnh QÐIII. Lữ Ðoàn 468 TQLC giữ Mạn Nam TP Biên Hòa. Lữ Ðoàn 2 Nhẩy Dù giữ Cầu Mới , Cầu Sắt Biên Hòa và các nút chận trên các đường xâm nhập vào Biên Hòa. Chiến Ðoàn 315 án ngữ Ngã Ba Xa Lộ Biên Hòa, giữ Mạn Ðông. Chiến Ðoàn 318 àn ngữ từ cổng Phi Trường Biên Hòa đến Cầu Mới, chịu trách nhiệm Mạn Tây.
Khoảng 18:00: Cộng quân bắt đầu xâm nhập vào vị trí từ Mạn Bắc và Ðông Bắc đụng phải Chiến Ðoàn 322 và 315 và bị đẩy lui. Tình hình sau đó trở nên khá yên tịnh.
Khoảng 22:00 giờ: Tướng Nguyễn Hữu Có, phụ tá của TT Dương Văn Minh, gọi điện cho Tướng Khôi truyền đạt lệnh của TT Dương Văn Minh bảo vệ Biên Hòa cho tới 08:00 giờ sáng ngày 30/4/75 để ông ta nói chuyện với “bên kia”(!).
Khoảng 23:45 giờ khuya: Cộng quân lại bắt đầu pháo kích dữ dội vào thành Phố Biên Hòa và đồng thời tập trung một lực lượng gồm bộ binh và chiến xa tấn công vào hướng Bộ Tư Lệnh QÐIII. Chiến Ðoàn 315 xông ra chặn địch và Cộng quân phải rút lui.
Lúc 02:00 giờ sáng ngày 30/4/75: Tướng Lê Minh Ðảo báo cáo Phòng Tuyến Long Bình đã bị địch tràn ngập và lực lượng của ông đang rút về hướng Thủ Ðức.
Lúc 03:00 giờ sáng: địch lại pháo kích dữ dội và chính xác hơn vào TP Biên Hòa. Ðoàn chiến xa của địch vừa xuất hiện đã bị bắn hạ và chúng tháo chạy ngược ra xa lộ Biên Hòa. Kể từ đó, TP Biên Hòa lại trở lại yên tĩnh.
Các Ðơn Vị Nào về Giải Cứu Thủ Ðô?
Ðúng 08:00 giờ sáng ngày 30/4/75, không liên lạc được với Bộ Tổng Tham Mưu, Tướng Khôi quyết định họp các đơn vị trưởng lại trao đổi tin tức. Tất cả cùng quyết định kéo quân về giải cứu Thủ Ðô.
Lữ Ðoàn 2 Nhẩy Dù do Tr.T. Nguyễn Lô chỉ huy tiến theo Ðường Sắt phía phải về Saigòn. Lữ Ðoàn 468 TQLC của Tr.T. Huỳnh Văn Lượm tiến theo phía trái Ðường Sắt. Lữ Ðoàn 3 KB và Liên Ðoàn 33 BÐQ tiến theo Xa lộ Biên Hòa về Saigòn. Chiến Ðoàn 315 của Tr.T. Ðỗ Ðức Thảo tiến về Cầu Bình Triệu. Chiến Ðoàn 322 của Tr.T. Nguyễn Văn Liên tiến theo sau Chiến Ðoàn 315. Chiến Ðoàn 318 của Tr.T. Nguyễn Ðức Dương đi đoạn hậu sau các đơn vị yểm trợ
Ðúng 09:00: toàn bộ lực lượng lên đường. Các ổ kháng cự dọc đường của địch đã bị đè bẹp nhanh chóng. Trong giờ phút chót này, Tướng Khôi kể lại, phi công lái trực thăng cho ông là Th.Tá Cư (nguyên là phi công của Tướng Toàn) đề nghị đưa Tướng Khôi đi lánh nạn, nhưng Tướng Khôi từ chối. Từ trên trực thăng, Tướng Khôi nhìn đoàn quân xa, chiến xa, xe kéo pháo của Cộng quân đang bò vào Saigòn theo Xa Lộ Biên Hòa và Quốc Lộ 13.
10:25 giờ sáng 30/4/75: Tướng Khôi nghe thấy lệnh buông súng tại chỗ của TT Dương Văn Minh và các cánh quân thiết giáp đã tới gần Nhà Thờ Fatima, Bình Triệu. Tướng Khôi tự chấm dứt quyền chỉ huy và để cho quân sĩ tự động tan hàng.
.
tranvu Khách viếng thăm
Tiêu đề: Re: Quân Lực VNCH Tử Chiến Trong Giờ 25 Tue Apr 01, 2014 9:33 am
Những trận đánh cuối cùng trong tháng Tư, 1975 tại Long Thành & Thủ Đức
Trần Lý
Trận đánh tại khu huấn luyện Long Thành, ngày 26-28, tháng Tư năm 1975
Trường Bộ Binh là một quân trường chuyên đào tạo các sĩ quan trừ bị cho Quân Lực VNCH. Trước 1974, trường tọa lạc tại Thủ Đức, và từ đầu năm 1974 được dời về Long Thành, một cơ sở mới nằm bên cạnh Quốc Lộ 15 (Từ SàiGòn đi Vũng Tàu) cách quận lỵ Long Thành khoảng 5 km. Tại đây, trường Bộ Binh kết hợp với Trường Thiết Giáp và Trung Tâm Huấn Luyện Yên Thế của Lực Lượng Đặc Biệt (nơi huấn luyện Biệt Kích) để lập thành khu huấn luyện Long Thành. (Trường Thiết Giáp đặt tại căn cứ Bearcat cũ, nơi trú đóng của lực lượng Thái Lan khi tham chiến tại VN). Chỉ Huy Trưởng Trường Bộ Binh kiêm nhiệm chức vụ chỉ huy trưởng khu huấn luyện. Từ tháng Tư/75 Đại Tá Trần Đức Minh là chỉ huy trưởng Huấn Khu. Trường Võ Bị Đà Lạt, sau khi di tản (ngày 30 tháng 3 năm 1975) qua ngã Sông Pha, Phan Rang, Bình Tuy và được chuyển vận bằng C-130 về SàiGòn, sau đó được tạm trú tại Trường Bộ Binh Long Thành và đã cho ra trường tại đây 2 khóa 28 và 29, còn lại các SVSQ thuộc các khóa 30 và 31.
Kế hoạch tấn công của CSBV: Hướng Tây-Nam của cuộc tấn công vào Sài Gòn của CSBV được giao cho Quân Đoàn 2 BV. Lực lượng này gồm: -Các sư đoàn Bộ Binh CSBV 325 và 304 -Lữ đoàn Pháo binh 164 -Lữ đoàn xe tăng và thiết giáp 203 -Sư đoàn phòng không 673 -Lữ đoàn công binh 219 -Trung đoàn đặc công 116. Lực lượng này có khoảng 54 xe tăng, 35 thiết giáp, 223 xe kéo pháo; 87 khẩu 130 mm và 105 mm; 136 khẩu cao xạ. Tổng số quân lên đến 40 ngàn, do Tướng BV Nguyễn Hữu An chỉ huy và Tướng Lê Linh làm Chính Ủy. Kế hoạch dự trù tấn công trên mặt trận chính bề ngang khoảng 80 km. Các mục tiêu chính gồm khu huấn luyện Long Thành (BV gọi là căn cứ Nước Trong), Chi khu Long Thành, Chi khu Nhơn Trạch để sau đó tiến 2 ngả một về Sài Gòn và một về Vũng Tàu.
Kế hoạch phòng thủ của Quân Lực VNCH: Để đối phó với hướng tấn công này (VNCH xem là Đông-Bắc của SàiGòn), Quân Lực VNCH chỉ huy động được những lực lượng còn lại của SĐ 18 Bộ Binh (còn 2 Chiến đoàn), Lực lượng Xung Kích QĐ 3, riêng Lữ đoàn 1 Dù được giao nhiệm vụ giữ Bà-Rịa-Vũng Tàu.. thay vào đó là LĐ 258 TQLC.Tư Lệnh chiến trường là Tướng Nguyễn văn Toàn (Tư Lệnh QĐ III VNCH) cùng các Tướng Lê minh Đảo (Tư Lệnh SĐ 18), Tướng Trần Quang Khôi (Tư Lệnh Lực Lượng Xung Kích). Các lực lượng cơ hữu của khu huấn luyện Long Thành gồm quân số cơ hữu và các SVSQ đang thụ huấn tại các Trường Bộ Binh, Trường Thiết Giáp và Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Kích Yên Thế. Vào đầu tháng Tư năm 1975, Trường Bộ Binh có khoảng 4000 Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị thuộc các khóa gối đầu nhau; ngoài ra vào cuối năm 1974, Trường tiếp nhận khoảng 1000 quân nhân thuộc Quân Chủng Không Quân đang theo học các ngành tại HK phải về nước do cắt giảm viện trợ. Ngoài ra còn có các lớp Sĩ Quan khóa sinh gồm chừng 500 người. Số SVSQ Võ Bị Đà Lạt và quân nhân cơ hữu của Trường Võ Bị khoảng 500 người. - Khu huấn luyện Long Thành được đặt dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Trần Đức Minh (quyền Chỉ Huy Trưởng Trường Bộ Binh thay thế Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi từ tháng Tư-1975). - Trường Thiết giáp do Đại Tá Huỳnh văn Tám chỉ huy.
Về quân số cơ hữu của Trường Bộ Binh: - Ngày 22 tháng Tư, 1975, một nửa quân số thuộc các đơn vị của Trường Bộ Binh cùng với những đơn vị thuộc các Trường Võ Bị QG Đà Lạt (từ Đà Lạt di tản về), được lệnh rút về Huấn Khu Thủ Đức (Trường Bộ Binh Thủ Đức cũ). Một nửa quân số ở lại để phòng thủ Trường, lực lượng này do Đ/Tá Lê văn Phú, Tham mưu trưởng Huấn Khu chỉ huy. Trong lúc này, Tướng Nguyễn Bảo Trị, Tổng cục trưởng TC Quân Huấn chỉ định Đ/Tá Lộ công Danh, Liên đoàn trưởng LĐ Sinh viên SQ Trường Bộ Binh làm Quyền Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Đà Lạt thay thế Tướng Lâm Quang Thơ. -Lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân của Chi Khu Long Thành dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Hà văn Sáu, Quận trưởng kiêm Chi khu trưởng.
Những diễn biến tại khu vực trong tháng Tư/1975:
Từ đầu tháng Tư/75, CQ đã mở những cuộc tấn công thăm dò vào Khu vực khu huấn luyện Long Thành, dùng đặc công xâm nhập vào các Trường Thiết Giáp và Trung Tâm Huấn Luyện Yên Thế nhưng bị đẩy lui sau khi chịu nhiều tổn thất. Ngày 8 tháng Tư năm 1975, QĐ III VNCH được tăng phái Lữ đoàn 468 TQLC, TĐ 8 TQLC được giao nhiệm vụ đóng tại Long Thành để ngăn chặc địch quân từ hướng Long Khánh, giữ an ninh ngoại vi cho các căn cứ Long Bình và Bộ Tư Lệnh QĐ (Biên Hòa). Ngày 10 tháng Tư: QĐ III được tăng phái thêm Lữ đoàn 4 Dù. LĐ này được giao trách nhiệm bảo vệ các khu vực Tam Hiệp-Biên Hòa-Long Thành. Ngày 21 tháng Tư: VNCH rút khỏi Long Khánh từ chiều 20/4 và về đến địa điểm tập trung tại Đức Thạnh (Phước Tuy) vào chiều 22/4. Liên tỉnh lộ 2 được chọn làm lộ trình rút quân, dài khoảng 40 km từ Tân Phong, qua Đức Thành, Long Lễ. Cuộc rút quân được xem là thành công, bảo toàn lực lượng. LĐ 1 Dù được giao nhiệm vụ bảo vệ Quốc Lộ 15 , từ Long Thành đến Bà Rịa. SĐ 18 và các đơn vị tăng phái di chuyển vầ căn cứ Long Bình.
Diễn tiến trận đánh:
7 giờ sáng ngày 26 tháng Tư, Cộng quân bắt đầu tấn công thăm dò bằng các đơn vị trinh sát của SĐ 304 CSBV. Những cuộc chạm súng nhỏ diễn ra với các đơn vị tiền đồn của khu huấn luyện Long Thành. Chiến đoàn 322 / LLXK QĐ III VNCH được lệnh di chuyển về Long Thành để tiếp cứu. Chiến đoàn 322 được tăng cường thêm một TĐ TQLC tiến theo QL 15 và đụng nặng với CQ trong khu vực rừng cao su, tại Dốc 47, bắn hạ 12 chiến xa BV (Tướng Trần Quang Khôi trong "Danh Dự và Tổ Quốc"). 5 giờ chiều 26/4, trận tấn công chính thức bắt đầu bằng cuộc pháo kích dữ dội của Cộng quân, sau đó SĐ 325 CSBV dùng bộ binh cùng sự yểm trợ của xe tăng đồng loạt tấn công vào các cứ điểm phòng thủ của khu huấn luyện nhưng không vượt nổi hàng rào phòng ngự kiên cố của Trường Bộ Binh. Riêng Trường Thiết Giáp và TT Huấn Luyện Yên Thế bị mất liên lạc sau đó. Quận Long Thành cũng bị tấn công, nhưng giữ vững vị trí trong đêm. Đ/Tá Huỳnh văn Tám, Chỉ Huy Trưởng Trường Thiết Giáp bị mất tích từ chiều tối 26/4 sau khi lọt vào ổ phục kích của CQ trên đường trở về sau cuộc họp bên Trường Bộ Binh. Tài liệu CSBV ghi lại: Trong trận tấn công vào Trường Thiết Giáp, CQ chỉ hoàn toàn làm chủ vào chiều 29/4 với sự thiệt hại gần 200 quân. Sáng 27 tháng Tư: CSBV dùng SĐ 325 tấn công vào sườn trái của vòng đai phòng thủ khu huấn luyện đồng thời SĐ 304 tấn công vào hướng chính diện. Các mũi tấn công này đều có xe tăng và pháo yểm trợ. Cũng từ 5 giờ chiều, CQ dùng Trung đoàn 101 (SĐ 325 CSBV) tấn công quận lỵ Long Thành, dùng Tr/Đ 46/325 tiến vòng để chiếm ngã ba Phước Thiền và Tr/Đ 18/325 bao vây Bỉm Sơn. Tất cả các cứ điểm trên đều do ĐPQ và Nghĩa quân Long Thành chống giữ. Một lực lượng khoảng 2 ĐĐ /TĐ 1-TQLC cũng hoạt động trong khu vực ngã ba QL15 và Liên tỉnh lộ 10 (gần đầu dốc 47). Tại chốt phòng thủ này, LL TQLC có 2 M-48 yểm trợ đã chống trả cuộc tấn công của CQ cho đến chiều 28/4 mới bị tràn ngập.
Theo Vũ Trọng Hóa, TM trưởng của Tr/Đ18/SĐ 325 CSBV thì CQ mở đầu cuộc tấn công bằng một cuộc pháo kích dữ dội gần 700 đạn pháo bắn vào Chi khu Long Thành trong vòng nửa giờ: Loạt đạn đầu bắn phá khu vực Cầu Xéo và loạt thứ nhì vào Quận đường và khu vực đặt 2 đại bác 105 ly của Quận. Bộ binh có xe tăng yểm trợ đồng loạt tấn công. Chi khu Long Thành phản ứng bằng pháo yểm trợ từ Bến Sắn và Phước Hòa, tuy nhiên sau đó CSBV đã tập trung pháo binh, bắn trên 2000 quả đạn vào các điểm đặt pháo của VNCH. Sáu giờ chiều, xe tăng CSBV (thuộc Lữ đoàn 203/325) tiến vào đường Nguyễn An Ninh, Long Thành nhưng bị chặn tại đây. Lực lượng địa phương VNCH, luồn theo các ngõ hẻm để tập kích. Trận đánh kéo dài đến 10 giờ đêm, CSBV tiến chiếm các tiền dồn quanh thị xã như cầu Quán Thủ, Ngã Ba Cầu Xéo, Liên Kim Sơn, các chốt Cầu Đen, Bàu Cá. Địa Phương Quân Long Thành bắn cháy nhiều xe tăng của CSBV (trong đó một chiếc ngay tại cổng chính dinh quận, một chiếc khác bên chi khu). Trung Tá Hà văn Sáu rút ra bên ngoài, xin chi viện từ tiểu khu Biên Hòa nhưng không được đáp ứng và vẫn tiếp tục chiến đấu đơn độc chống trả lực lượng CQ. Mãi đến 4 giờ 30 chiều ngày 27, CSBV mới chiếm được khu vực Quận Long Thành. Lực lượng còn lại của Chi Khu rút về Ấp Thái Lạc và cố thủ tại đây đến chiều 28 tháng Tư. (Vũ Trọng Hóa ghi lại cuộc kháng cự tại Ấp Thái lạc gậy thiệt hại nặng cho Tiểu đoàn 1/ Trung đoàn101 CQ, trong đó gần 100 cán binh bị hạ kể cả Tiểu đoàn trưởng CQ Nguyễn Ánh Dương). Đêm 27 tháng Tư, Cộng quân tập trung lực lượng quyết thanh toán Trường Bộ Binh. Sáng 28, trước tình hình nguy ngập do lực lượng quá đông của quân CSBV, Đ/Tá Lê văn Phú quyết định rút quân và lực lượng còn lại lui về Huấn Khu Thủ Đức. Tài liệu của CSBV ghi lại: Trong ngày 27 tháng Tư, SĐ 5 KQVNCH dùng 115 phi vụ để oanh kích vào đội hình của Cộng quân và bị hạ đến 2 F-5, 4 A-37, 3 Skyraider A-1 và 1 UH-1 A. Phối kiểm với các phi công KQ VNCH thì không ai biết gì về con số phi vụ cũng như con số phi cơ bị hạ?
Về phần Skyraider A-1: Đại Úy Trần văn Phúc, người bay những phi vụ A-1 cuối cùng trên không phận Sài Gòn cho biết: 'Sau 6 tháng đình động 2 Phi đoàn A-1 được lệnh bay lại, trưa ngày 3 tháng Tư, 1975 các phi công PĐ 518 bắt đầu bay 'quen tay' và đến 5 tháng Tư được biệt phái xuống Cần Thơ, sau đó 19 tháng Tư trở lại Biên Hòa. Ông cho biết hầu như không còn sự phối hợp giữa KQ và Bộ Binh như trước: trong nhiều phi vụ tuy bay bao vùng tại Long Khánh, Ông phải tự tìm 'mục tiêu' (?) và tùy nghi thả bom vào những vùng khả nghi có tập trung quân của CSBV. Trong ngày 27 tháng Tư, các phi vụ của Đ/Úy Phúc và các phi công khác bay trên vùng trời Long Bình nhưng không được sử dụng? Chiếc A-1 sau cùng bị bắn hạ là chiếc do Th/Tá Trương Phùng bay ngày 29 tháng Tư trên không phận Sài Gòn.
Các F-5 hầu như không còn hoạt động hành quân vào giai đoạn cuối cùng này. Một số phi vụ A-37 được điều hành từ Cần Thơ. Một lý do được giải thích là 'BV đã sử dụng hỏa tiễn tầm nhiệt Strella và súng phòng không có radar điều khiển nên F-5 và A-37 không thể cất cánh oanh tạc được' (Hà Mai Việt trong Thép và Máu, trang 204). Không có những ghi nhận chính thức về hoạt động của các trực thăng võ trang. Riêng trong bài "Những ngày cuối trên đất Đồng Nai", Phó Tỉnh Trưởng Biên Hòa Nguyễn Nhơn ghi lại: 'Sáng 28/4, từ văn phòng nhìn về phía núi Châu Thới, chiếc trực thăng đang quần đảo, phóng rocket ì ầm, yểm trợ lực lượng dù (?) đánh dẹp chốt đặc công VC ở chân núi'. Đ/Úy Nguyễn văn Việt TĐ 46 Pháo Binh (theo CĐ 322/LLXK) ghi lại trong trận đụng độ ở Dốc 47: 'Gần trưa, một chiếc phản lực bay qua đầu chúng tôi, rồi nhào xuống thả một trái bom, rơi trúng phia bên kia đường cách bộ CH Chiến đoàn khoảng 200m..' (Nguyễn văn Việt trong "Pháo thủ 46 kể chuyện cũ") Một sĩ quan thuộc TĐ 1/ TQLC kể lại: '...vì áp lực mạnh của cánh quân CSBV từ Bình Tuy băng qua, KQ ta yểm trợ bằng các phi tuần A-37 dội bom xuống mặt trận. Một trái bom đã rơi vào làn ranh của hai bên.' (Tháng Tư ra trường.)
Trường hợp TĐ 82 BĐQ, được Th/Tá Vương Mộng Long TĐT ghi lại trong Hồi Ký, "Tháng Tư lại về": 'Ngày 28 tháng Tư, TĐ đang nghỉ dưỡng quân tại Long Bình thì được lệnh vào vùng hành quân tại phía sau Trường Bộ Binh Long Thành. Quân số do đi phép và tập trung bất ngờ nên chỉ còn 161 người lên đường với nhiệm vụ ngăn chặn địch từ hướng Bắc tiến về. TĐ đóng quân tại một ngọn đòi nhỏ là 'một tiền đồn cũ, có 3 lô cốt nhỏ, không hầm hố địa đạo, không hàng rào... nên chỉ chất những viên đá tổ ong thành một chiến lũy cấp thời..' Ngay tối 28, CQ huy động lực lượng Bộ Binh có xe tăng yểm trợ, dùng xe chiếu sáng chiến trường để tấn công. Sau 3 đợt tấn công dữ dội, và 6-7 tăng bị bắn cháy. CQ đã tràn ngập vị trí phòng thủ của TĐ 82 BĐQ. TĐ hết M-72, lựu đạn và chiến đấu đơn độc không có phi-pháo yểm trợ. Còn lại 107 người, tìm đường rút về Căn cứ Long Bình qua ngã Hố Nai (Biên Hòa) Cuộc rút lui bi thảm này, vượt các ổ phục kích và pháo của Cộng quân để cuối cùng chỉ còn lại 67 người và tan hàng tại Cầu Hàng vào sáng 30 tháng Tư… Tuyến phòng thủ Huấn Khu Long Thành được xem là bỏ ngỏ từ ngày 29/ 4. CQ tiến về SàiGòn, nhưng vẫn gặp sự kháng cự của những đơn vị còn lại của Quân Lực VNCH. Những trận đánh cuối cùng tiếp diễn dù không còn 'Đại bàng'...như các trận Cầu Rạch chiếc, trận khu huấn luyện Thủ Đức…"
Ghi thêm:
Đại Úy Phúc (Phi Long 51) cho biết thêm một số chi tiết về A-1 trong bài như sau: 'Sau khi trở về Biên Hòa ngày 19 tháng Tư năm 1975, chúng tôi không còn bay yểm trợ tiếp cận (Close Air Support) cho quân bạn mà phải bay bao vùng hàng nhiều giờ rồi được các phi cơ quan sát (L-19) chỉ điểm oanh tạc những vùng nghi ngờ đóng quân của CSBV. Chỉ riêng ngày 27/4/1975 vào khoảng 2 giờ trưa, Tôi cùng Đ/Úy Trần Công Quận bay bao vùng ở Long Khánh, vì không có phi cơ quan sát, tôi phải tự tìm mục tiêu và oanh tạc đoàn xe công voa đang di chuyển từ Bắc xuống Nam ở Trảng Bom. Bây giờ tôi mới hiểu lý do tại sao chúng tôi bị bắn bởi hàng rào phòng không dày đặc, chỉ cách phi cơ tôi vài mươi mét tại Long Bình ở cao độ 5000 bộ... Chúng đặt hơn 30 khẩu phòng không (có radar hướng dẫn) từ 23 ly, 37 ly và 57 ly rải rác khắp vùng Long Khánh để bảo vệ các cánh quân Bộ Binh tiến chiếm khu huấn luyện Long Thành. Rất tiếc chúng tôi hoàn toàn không hay biết, thật quá phí số bom này và tôi xin thành thật xin lỗi toàn thể chiến hữu tại khu huấn luyện Long Thành… (Điện thư trao đổi giữa Đ/Úy Phúc và tác giả Trần Lý ngày 20/5/1975)
------
Những trận đánh cuối cùng tại khu huấn luyện Thủ Đức, ngày 30 tháng Tư năm 1975
Bài 'Trận đánh không có đại bàng tại Huấn Khu Thủ Đức ngày 30/4/1975', trong tập sách 'Những trận đánh không tên trong Quân sử' (Tập 2), ở Chương 8 (trang105-119) đã được nhà văn Hải Triều viết và dựng lại theo lời kể của các Đại Úy Thảo của Trường Quân Báo và Đại Úy Trần văn Trung của Trường Tổng Quản Trị, được ghi là có mặt và tham dự trực tiếp vào trận đánh. Tuy nhiên, do được 'dựng lại' nên một số chi tiết chưa thật sự chính xác. Diễn tiến trận đánh xin được viết lại dưới đây, tổng hợp từ các bài phỏng vấn Đại Tá Phạm Đức Minh, Chỉ Huy Trưởng khu huấn luyện Long Thành, người đã ở lại cuối cùng và đã tủi hờn bàn giao khu huấn luyện cho CSBV ( bài ' Trường Mẹ, Bạn, Anh em, và..' của tác giả Băng Đình phỏng vấn Đ/Tá Minh phổ biến trên Tuần san Chính Luận, Seattle, 2005. Đại Tá Minh mất tại Kirland, tiểu bang Washington tháng 11-2009). Ngoài ra một số chi tiết được trích từ bài 'Những ngày cuối cùng của Trường Bộ Binh' của tác giả Nguyễn Ngọc Thạch, Trưởng Phòng Kế Hoạch của Trường Bộ Binh lấy từ trang mạng Batkhuat.net.
Tình hình Huấn Khu Thủ Đức trong những ngày cuối cùng:
Từ khi Trường Bộ Binh chuyển ra Long Thành, Tổng Cục Quân Huấn đã tổ chức khu huấn luyện Thủ Đức gồm một số trường như Trường Tổng Quản Trị, Trường Hành Chánh Tài Chánh, Trường Quân Báo, Trường Quân Nhu, Trường Quân Cụ, Trường Quân Nhạc, Trường Võ Thuật Thể Dục...Trong những ngày cuối cùng, Chỉ Huy Trưởng Huấn Khu Thủ Đức là Đại Tá Trần văn Tự Sau ngày Tổng Thống Thiệu từ chức (21 tháng Tư), toàn thể Sinh Viên Sĩ Quan Trường Bộ Binh (Long Thành) và SVSQ Võ Bị Đà Lạt, dưới quyền Đ/Tá Minh đã được di chuyển về Thủ Đức (Xem bài Trận Huấn Khu Long Thành). Khi về Thủ Đức, theo sự thỏa thuận giữa Đ/Tá Minh và Đ/Tá Tự, lực lượng HK Long Thành chịu trách nhiệm phòng thủ, bảo vệ HK Thủ Đức, còn lực lượng cơ hữu của Thủ Đức phụ trách chống đặc công trong phạm vi Trường. Chiều tối 27 tháng Tư, các lực lượng còn lại của Trường Bộ Binh Long Thành, sau khi chống trả cuộc tấn công của SĐ 325 CSBV trong suốt 2 ngày 26 và 27, đã phải rút về Thủ Đức. Sau khi mọi thành phần của Trường Bộ Binh từ Long Thành về đến Thủ Đức. Tổng cộng quân số tại Thủ Đức lên khoảng 6000 người gồm SVSQ và quân nhân cơ hữu (Một số bài viết, kể cả bài phỏng vấn Đ/Tá Minh ghi lại, cho rằng Trường ĐH Chiến Trị Đà Lạt sau khi di tản cũng về Huấn Khu Long thành và Thủ Đức, nhưng trên thực tế Trường ĐH CTCT được đưa về hậu cứ của TĐ 30 CTCT tại Biên Hòa và sau đó từ Biên Hòa rút về hậu cứ TĐ 50 CTCT).
Ngay từ hạ tuần tháng Tư, khi nhận lệnh từ Tổng Cục Quân Huấn chuẩn bị làm nhiệm vụ phòng thủ Sài gòn, Trường Bộ Binh đã cấp tốc tổ chức các đơn vị tác chiến: Các sĩ quan huấn luyện viên được đưa xuống các Tiểu đoàn SVSQ làm Trung đội trưởng, các ban Tham mưu TĐ và LĐ được thành lập. Nói chung có 2 Liên đoàn tác chiến, mỗi LĐ khoảng 2500 người. Trang bị không hoàn chỉnh, các võ khí cá nhân và cộng đồng như M-16, đại liên M-60, cối 81, do rút từ huấn luyện nên tạm đủ, phần M-79 và súng chống tăng M-72 tương đối ít. Về Pháo Binh có một trung đội 105 rút từ Long Thành về, cùng với 4 khẩu 175 không rõ của đơn vị nào từ Long Khánh chạy về khu huấn luyện Thủ Đức (trong lực lượng rút về từ Long Thành còn có một số quân nhân di tản từ Trường Pháo binh Dục Mỹ, Nha Trang).
Tại Thủ Đức, lực lượng của Trường Bộ Binh được bố trí thành ba tuyến: -Tuyến tiền đồn do Khối Yểm trợ công vụ của Trường trấn giữ các điểm ngoại vi. -Tuyến ngoài hàng rào chung quanh Trường do một Liên Đoàn SV phòng thủ. -Tuyến trong do một LĐ SV khác trấn giữ. -Trừ bị là một Tiểu đoàn SV, trích từ tuyến trong và ĐĐ 966 Địa phương Quân của Tiểu khu Gia Định biệt phái dài hạn cho khu huấn luyện Thủ Đức dể lo an ninh bãi tập. (SVSQ Võ Bị Đà lạt thuộc thành phần trừ bị này).
Theo Đ/Tá Minh, mối lo ngại nhất là thiếu võ khí chống xe tăng và tập trung quân trú phòng trong một diện tích tương đối hẹp khó tránh thiệt hại khi bị CQ pháo kích. Đ/Tá cũng cho biết: 'Về phương diện quân sự, khi còn ở Long Thành, Trường Bộ Binh nằm dưới sự yểm trợ trực tiếp của Bộ Tự Lệnh QĐ III. Khi di chuyển về Thủ Đức lại trực thuộc thuộc Biệt Khu Thủ Đô. Nhưng từ cuối tháng Tư, hệ thống chỉ huy đã rất lỏng lẻo..' 'Những ngày cuói tháng Tư, Trường Bộ Binh hoàn toàn bị cô lập, không hề nhận được bất cứ lệnh lạc nào từ Quân Đoàn III cũng như từ Biệt Khu TĐ. Cho đến ngày 28/4 chỉ liên lạc độc nhất được với Tướng Nguyễn Bảo Trị, Tổng cục trưởng TC Quân Huấn để nhận những chỉ thị 'khích lệ' tinh thần…' Sáng 29 tháng Tư, Trường Bộ Binh Thủ Đức hoàn toàn mất liên lạc với bên ngoài. (Đây là thời điểm tự tan rã của Bộ TTM Quân Lực VNCH, xin xem bài SàiGòn ngày 29 của Trần Lý: Tư Lệnh QĐ III, Tướng Toàn sau khi ra lệnh cho Tướng Khôi trụ lại, đã bay ra Hạm đội Mỹ. Bộ Tư Lệnh QĐ III không còn khả năng chiến đấu, chỉ còn Lực Lượng Xung Kích của Tướng Khôi tiếp tục. Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, Tướng Minh cũng di tản).
Trận đánh cuối cùng: 30 tháng Tư năm 1975
Sáng 30 tháng Tư, CSBV từ Nhơn Trạch bắt đầu pháo kích lác đác vào Trường Bộ Binh Thủ Đức. (Quân đoàn 2 CSBV sau khi thanh toán tuyến phòng thủ Long Thành chiều ngày 28/4 , tập trung lực lượng để tiến thẳng về SàiGòn qua hướng cầu Đồng Nai nhưng bị giữ chân tại đây trong suốt ngày 29, Trường Bộ Binh Thủ Đức không còn là mục tiêu chiến luợc hay chiến thuật gì nữa. Pháo CQ chỉ nhằm mục đích bắn quấy rối). Khoảng 8 giờ 30 sáng, Đại Úy Hiếu TĐT TĐ 5/SVSQ, phụ trách phòng thủ vòng đai Trường phía xa lộ báo cáo thấy đoàn xe CQ di chuyển trên xa lộ về hướng Sài Gòn. Trung tâm Hành quân của Trường điện thoại cấp báo về Biệt Khu Thủ Đô, nhưng không còn ai bên Biệt Khu trả lời (?). Đ/Tá Minh quyết định dùng mọi cỡ pháo binh khả dụng của Trường (gồm các pháo đội từ các nơi tạm gửi tại đây) bắn chận về hướng Đông khoảng giữa cầu Đồng Nai và Nghĩa Trang Quân Đội. Pháo binh CSBV cũng phản pháo và gửi một đơn vị Thiết Giáp về tấn công Thủ Đức. Đài quan sát đặt trên tháp nước cấp báo xe tăng CSBV xuất hiện tại khu Nhà máy lọc nước tại Ngã Tư Thủ Đức và tiến về Trường theo hướng Chợ Nhỏ. Một chiếc T-54 đơn độc chạy thẳng vào cổng chính, ủi sập các chướng ngại vật, chạy thẳng vào trong nội vi trường, vừa chạy vừa bắn loạn xạ..Trong khi đó, một ổ đại liên của CQ bắn yểm trợ từ cầu Bến Nọc bao phủ khu vực cổng số 9. Lực lượng trú phòng dùng đủ mọi loại súng bắn vào chiếc xe tăng CQ nhưng không chặn được. Chiếc tăng dùng đại bác bắn xập Trung tâm Hành Quân (dễ nhận diện do nhiều cột ăng-ten). Thiếu Tá Làu, thuộc Trường Tổng Quản tri, may mắn, thoát nạn. Bộ Chỉ huy nhẹ của Trường đang đóng tại Tư dinh CHT gần đó bên ngoài nên còn hoạt động được nhưng giới hạn. Liên lạc với các Trường khác kể như gián đoạn. Chiếc T-54 sau đó từ Vũ Đình Trường quay chạy về hướng Cổng số 9, nhưng gặp sức kháng cự của các SVSQ nên lại quay đầu và vẫn bắn loạn, tiếp tục gây một số thương vong trong đó có Th/Tá Vương bá Thuận gẫy chân, Tr/Tá Ông Nguyễn Tuyền (thuộc Văn phòng Phụ Tá Kiểm huấn Trường Bộ Binh) tử thương. Đủ loại súng nhỏ tập trung vào chiếc tăng và hầu như vô hiệu. Sau cùng Đ/Úy Ngữ ĐĐ trưởng ĐĐ 663 (?) ĐPQ đã dùng M-72 để bắn đứt xích chiếc tăng này nơi gần Miếu Tiên Sư. Tuy nằm tại chỗ nhưng súng trên pháo tháp vẫn quay bắn lung tung. Liền đó một SVSQ thuộc Tiểu Đoàn 1 SVSQ , TĐ của SVSQ Không Quân gởi sang học Quân sự, đang ở phòng tuyến gần đó đã bò ra, leo lên pháo tháp và thả một quả lựu đạn vào bên trong. Chiếc T-54 bị tiêu diệt hẳn. (Sau này phối kiểm lại được biết đây là một SVSQ thuộc ĐĐ 2 SVKQ). Lục soát trong xe, lực lượng trú phòng thu được 3 võ khí cá nhân.
Trận đánh diệt chiếc T-54 này được một SVSQ thuộc Tiểu đoàn Không quân ghi lại trong bài 'Cổng số 9 Trường Bộ Binh Ngày 30 tháng Tư năm 1975' trên Diễn đàn Phi Dũng như sau: ' Đọc bài 'Trận đánh không có Đại Bàng' cùng ký tên của ba người là Lê Nguyễn, Trần văn Trung và Hải Triều, đọc xong tôi nhận thấy cần phải bổ túc thêm cho chính xác, vì khóa 73F của chúng ta và một số ít SVSQ/KQ khóa khác là quân chủ lực của Trường Thủ Đức trong ngày 30 tháng Tư, 1975... Tiểu đoàn Không Quân của Trườg Bộ Binh Long Thành gồm những SVSQ từ khắp nơi quy tụ về: từ những người đang học bay bên Mỹ, những người đã đậu Anh ngữ đang chờ đi Mỹ, những người ở Nha Trang đều chung số phận do cắt giảm ngân sách quân viện. TĐ KQ được thành lập tại Long thành vào đầu năm 1974. Giai đoạn thụ huấn của SVSQ Trừ bị Thủ Đức là 9 tháng, nên trong vài ngày cuối của cuộc chiến, các khóa khác đã ra Trường, còn lại KQ là khóa sinh kỳ cựu, tính từ ngày nhập ngũ, các khóa sinh KQ, ai cũng gần hoặc hơn 3 tuổi lính.
Di tản từ Long Thành về Thủ Đức ngày 28 tháng Tư, SVSQ Không Quân được giao nhiệm vụ làm kháng tuyến chính án ngữ 4 mặt của Quân Trường, được trang bị hỏa lực tối đa ngoài cấp số. Tất cả các đơn vị khác, vì là khách nên được nằm bên trong, gọi là kháng tuyến phụ.
Dưới quyền Đ/Úy Thu, ĐĐT và Tr/Úy Triều Tr/Đội trưởng, ĐĐ4 , mang khăn quàng màu vàng đóng quân ngay cổng số 9 của Quân Trường Thủ Đức. Tại cổng số 9, phía trước có những thùng phuy làm rào cản, dọc theo tuyến có hàng rào kẽm gai và ngoài lơp rào là một hệ thông giao thông hào rộng và sâu để cản chiến xa. Hướng phải của cổng số 9, khoảng 150 m có một lô cốt xây bằng xi măng lớn có nhiều lỗ châu mai. Tuần sự ĐĐ khăn vàng nằm tại đây, có máy truyền tin và súng ông, đạn dược dự trữ đủ loại. ĐĐ 4 canh gác nghiêm ngặt và hầu như không ngủ được trong suốt đêm 29... Sáng 30, bỗng nhiên nhiều tiếng la hốt hoảng 'xe tăng, xe tăng', không thấy gì nhưng súng đạn nổ dòn tan dọc theo tuyến của cổng số 9, một chiếc T-54 nòng súng phun ra lửa khói, tiếng đạn rít ngang đầu… Lửa đủ màu bay quanh chiếc tank mà nó cứ tiếp tục lăn bánh gần sát giao thông hào, những ngọn lửa của M-72 che khuất chiếc xe cùng theo những tiếng 'cháy rồi, cháy rồi' inh òi, lửa tắt, bánh xe vẫn còn lăn, nhiều ngọn lửa khác tiếp tục, nòng đại bác của tank vẫn tiếp tục bắn. Chiếc tank bị cản bởi giao thông hào nên sau đó thụt lùi và chạy về hướng cổng số 1, và bị hạ tại đây. Khoảng 10 giờ 20, lệnh đầu hàng và bàn giao do TT Dương văn Minh tuyên bố đã chấm dứt cuộc kháng cự tại Huấn Khu Thủ Đức. Đ/Tá Minh đã buộc bàn giao Huấn Khu Thủ Đức cho Đại diện Quân BV và sau đó bị tạm giữ trên lầu tư dinh CHT. Các SVSQ và quân nhân cơ hữu của Huấn Khu thay đồ dân sự và tự động tan hàng.
Trong bài 'Trường Mẹ, Bạn, Anh em, Và...' theo Tác giả Băng Đình, Đại Tá Minh xin gửi những lời sau: 'Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả các quân nhân và Sinh Viên Sĩ Quan của Trường Bộ binh cũng như các Quân Trường tái phối trí đã cùng tôi chiến đấu đến phút chót tại ngọn đồi Tăng Nhơn Phú vào ngày 30 tháng Tư năm 1975 để bảo vệ Tổ Quốc cũng như thanh danh của Quân Trường. Tôi cũng xin kính cẩn tưởng niệm hương hồn các quân nhân của Trường Bộ Binh đã hy sinh vào giờ phút sau cùng của cuộc chiến tranh chồng chất oan khiên suốt mấy chục năm trời. Đối với tất cả quý vị từng là SVSQ Trừ Bị Thủ Đức, tôi xin kính báo: Quý vị có thể tự hào về những khóa đàn em của quý vị, vào ngày 30 tháng Tư, 1975, không những đã hiên ngang dùng súng cá nhân nã vào xe tăng hung hãn của địch mà còn can trường nhẩy lên chiến xa liệng lựu đạn diệt thù nữa.
Trần Lý (Tháng Năm, 2013) .
LHSon Khách viếng thăm
Tiêu đề: Re: Quân Lực VNCH Tử Chiến Trong Giờ 25 Thu Apr 03, 2014 11:35 pm
Thiết Giáp tại mặt trận Tây Bắc Xuân Lộc, tháng 4/1975
Sau khi chiếm Tây nguyên, đại binh Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) gồm hàng chục sư đoàn Bộ Binh có chiến xa và trọng pháo yểm trợ đã lần lượt chiếm các tỉnh miền Trung và tiếp đến Phan Rang, Phan Thiết, Bình Tuy, Lâm Ðồng cũng rơi vào tay chúng.
Cuối tháng 3 năm 1975, quận Ðịnh Quán thuộc Tiểu Khu Long Khánh bị tràn ngập bởi Sư Ðoàn 341 CSBV. Lực Lượng Ðặc Nhiệm 52 (LLÐN 52) được thành lập, án ngữ tại xã Túc Trưng (trên quốc lộ 20 cách ngã ba Dầu Giây 25 km về hướng Bắc), để ngăn chận bước tiến của địch gồm các đơn vị trực thuộc Sư Ðoàn 18 Bộ Binh như sau:
* Trung Ðoàn 52 Bộ Binh (Ðại Tá Ngô Kỳ Dũng chỉ huy, cũng là chiến đoàn trưởng), với 3 tiểu đoàn: - Tiểu đoàn 1/52 (Thiếu Tá Cam Phú, tiểu đoàn trưởng) - Tiểu đoàn 2/52 (Ðại Úy Huỳnh Văn Út, tiểu đoàn trưởng) - Tiểu đoàn 3/52 (Thiếu Tá Phan Tấn Mỹ, tiểu đoàn trưởng) * Thiết đoàn 5 kỵ binh (Trung Tá Trần Văn Nô, thiết đoàn trưởng) - Chi đoàn 1/5 chiến xa (Ðại Úy Lê Ðức Việt, chi đoàn trưởng) - Chi đoàn 2/5 thiết kỵ (Ðại Úy Vũ Ðình Lưu, chi đoàn trưởng) - Chi đoàn 3/5 thiết kỵ (Ðại Úy Lê Sơn, chi đoàn trưởng) * Tiểu Ðoàn 182 Pháo Binh * Lực lượng tăng phái: Công binh và đơn vị hỏa tiễn TOW * Ðịa Phương Quân: một tiểu đoàn và Nghĩa Quân thuộc Tiểu Khu Long Khánh
Lực Lượng Ðặc Nhiệm 52 được thành lập nhằm ngăn chặn đại binh CSBV đang tiến công dữ dội về hướng Nam (Biên Hòa, Saigon). Chiến trường khốc liệt máu lửa chính của những ngày tháng 4 là địa danh ngã ba Dầu Giây, cũng là giao điểm của quốc lộ 1 và quốc lộ 20 cách thị xã Xuân Lộc 12 km về hướng Tây.
Vùng Túc Trưng, Kiệm Tân Gia Kiệm là vùng đất đỏ miền Ðông trù phú, với vườn cao su bạt ngàn và ruộng rẫy xanh tươi. Cư dân phân nữa là công nhân cạo mủ cho đồn điền cao su và xen kẽ là nhũng rẫy cà phê xanh tươi bát ngát, những vườn sầu riêng, chôm chôm, xoài và các loại trái cây khác của nông dân bản địa. Họ là những người miền Bắc di cư năm 1954. Sau bao năm dài thanh bình thịnh vượng của miền Nam tự do, nay lại phải tức tưởi gồng gánh lánh nạn cộng sản một lần nữa. Trước mắt tôi, dài theo QL 20 xuôi về hướng Biên Hòa Sài Gòn cả dòng người chạy giặc bằng mọi phương tiện từ thô sơ đến cơ giới. Chiếc xe gắn máy hai bánh phải chở đến 4, 5 người nheo nhóc trẻ con. Chiếc xe lam cong cả nhíp với bao người đu bám xung quanh. Xe bò, xe trâu, xe thồ tấp nập di chuyển về một chiều. Tất cả cùng một hướng xuôi Nam, nơi họ tin tưởng rằng còn là phần đất tự do được bảo vệ, che chở bởi người lính Việt Nam Cộng Hòa. Trên tất cả mọi khuôn mặt từ những ông bà già đến đứa trẻ con đều lộ vẻ hốt hoảng, nặng trĩu lo âu không biết chuyện gì sẽ xảy ra cho gia đình họ trong những ngày sắp tới.
Ðêm 3 tháng 4 năm 1975, trời vừa tối, một trung đoàn của Sư Ðoàn 341 CSBV tấn công vào đồn Ðịa Phương Quân ở cầu La Ngà thuộc Chi khu Ðịnh Quán, tỉnh Long Khánh. Lực lượng trú phòng một tiểu đoàn trừ bị và một chi đội Thiết Vận Xa M113 (thuộc CÐ 2/5 TK) bảo vệ cầu La Ngà (cầu La Ngà nằm trên quốc lộ 20 cách ngã ba Dầu Giây 29 km về hướng Bắc). Chúng pháo kích ác liệt suốt đêm và sau đó là tấn công biển người. Rạng sáng ngày 4 tháng 4, Thiếu Úy Nho - chi đội trưởng M113 Thiết Kỵ - báo cáo cho tôi (chi đoàn trưởng Chi Ðoàn 2/5 thiết kỵ): “2 xe M113 bị bắn cháy, đồn Ðịa Phương Quân bị tràn ngập, địch đang cận kề.” Tôi ra lệnh cho Th/úy Nho dùng hết hỏa lực chống trả và rút lui bằng đường rừng theo cánh rừng chồi xuôi về phía Túc Trưng nơi có quân bạn. Chi đội này có 4 xe 113 thì 2 xe bị bắn cháy, 2 xe bất khiển dụng vì bị bắn đứt xích. Th/úy Nho cũng đã dụ địch bằng hai M113 bất khiển dụng. Ông lệnh cho anh em binh sĩ dùng dây thun cột mỏ vịt 2 trái lựu đạn rồi rút chốt bỏ vào thùng xăng, một lúc sau hai chiếc M113 cháy nổ dữ dội. Hơn nửa giờ, Chi Ðoàn 2/5 Thiết Kỵ đã đến bắt tay với chi đội và một trung đội Ðịa Phương Quân trở về Túc Trưng. Riêng phần chi đội thiệt hại 4 xe M113 và 5 hy sinh và bị thương.
Ngày 5 tháng 4, 1975, địch bao vây thị xã Xuân Lộc. Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh được lịnh rút về Long Khánh để tăng cường phòng thủ Xuân Lộc. Chỉ còn Chi Ðoàn 2/5 Thiết Kỵ và 1 chi đội chiến xa M41 của Chi Ðoàn 1/5 CX ở lại tiếp tục tăng phái cho LLÐN 52.
Cầu La Ngà đã bị chiếm, áp lực của địch rất nặng nề với khoảng cách chỉ còn 9 km từ cầu La Ngà đến Túc Trưng nên ngày 8 tháng 4, 1975 Lực Lượng Ðặc Nhiệm 52 lui binh về hướng Nam lập căn cứ dã chiến tại ấp Nguyễn Thái Học, nằm trên QL 20 cách ngã ba Dầu Giây 4km về hướng Bắc. Ðây là một ấp nhỏ, chung quanh là vườn cao su bạt ngàn. Dân cư phần lớn là phu cạo mủ của đồn điền, một số nhỏ là nông dân làm các rẫy cây ăn trái ven lộ. Hầu hết dân chúng đã di tản khỏi ấp khi thấy chiến trận đã cận kề.
Ngày 9 tháng 4, 1975, Quân Ðoàn 4 của CSBV bắt đầu mở cuộc tấn công vào thị xã Xuân Lộc với cường độ khốc liệt tiền pháo hậu xung. Ngày 11 tháng 4, 1975, Tiểu Ðoàn 2/52 tăng cường bảo vệ Xuân Lộc. Thời điểm này, LLÐN52 chỉ còn 2 tiểu đoàn Bộ Binh, Chi Ðoàn 2/5 Thiết Kỵ 1, chi đội chiến xa M41, Ðại Ðội 52 Trinh Sát, Tiểu Ðoàn Pháo Binh 182, Công Binh và đơn vị hỏa tiễn TOW; đối diện với Sư Ðoàn 341 CSBV tăng cường chiến xa và pháo tầm xa.
Ngày 12 tháng 4, Chi Ðoàn 2/5 và một đại đội của Tiểu Ðoàn 1/52 (trừ bị) hành quân mở rộng phòng tuyến an ninh xuống ngã ba Dầu Giây. Chi đoàn băng qua vườn cao su di chuyển lên hướng Ðông (Long Khánh) dọc theo phía Nam quốc lộ 1 cạnh khu nhà Tây (ấp Trần Hưng Ðạo, dân địa phương còn gọi là ấp 97, cách ngã ba Dầu Giây 4km). Bất ngờ đụng phải một lực lượng CSBV phòng thủ kiên cố, cuộc giao tranh cực kỳ quyết liệt. Sau hơn nửa giờ, một Thiết Vận Xa M113 của Thiếu Úy Sơn bị bắn cháy, Thiếu Úy Sơn thoát thân ra ngoài với thân thể bốc lửa. Phía Nam của đội hình chi đoàn xe của Thiếu Úy Chiến cũng trúng đạn, Thiếu Úy Chiến và Binh Nhất Thành hy sinh. Tuy vậy, kỵ mã sắt vẫn còn khả năng tác chiến dưới sự điều động của Trung Sĩ Hiếu, một hạ sĩ quan hành quân dày dạn kinh nghiệm mặc dù đã bị thương, vừa bắn trả vừa lui lại phía sau. Sau nhiều giờ giằng co, chi đoàn lùi về hướng ngã ba Dầu Giây và bố trí phòng thủ đêm trong rừng cao su tại đây. Một đêm không thể chợp mắt được vì phía xa, hàng trăm ánh đèn soi sáng chập chờn. Tôi bảo thiếu úy tiền sát viên pháo binh xin pháo. Khi tiếng “depart” pháo thì ánh sáng đèn tắt ngấm, sau loạt pháo chúng lại tiếp tục soi đèn. Tôi bồn chồn đi vội lại xem tình hình anh em hy sinh và bị thương. Tổng kết ngày hôm đó, chi đoàn 3 hy sinh, 3 bị thương. Bên phía Bộ Binh 2 hy sinh và 4 bị thương nằm rải rác trong các xe. Quỳ xuống gốc cây cao su, tôi làm dấu Thánh Giá và cầu nguyện cho linh hồn các anh sớm về chốn bình yên vĩnh hằng. Các anh đã trả nợ nước non, tôi cầu xin các anh che chở cho những người còn lại thoát khỏi cơn hiểm nguy còn chập chùng trước mặt. Vĩnh biệt các anh với đôi mắt ngấn lệ. Nhưng đêm đó địch không đánh, có thể vì chưa biết chính xác vị trí của chúng tôi.
Ngày 13 tháng 4, 1975, lực lượng chúng tôi lại lùi về hướng căn cứ Bộ Chỉ Huy Chiến Ðoàn LLÐN ở ấp Nguyễn Thái Học và tái bố trí phòng thủ trong rừng cao su cách Căn cứ 1.5 km, cạnh QL 20. Ðến trưa, chúng tôi lại hứng pháo, CSBV pháo từng chập, đạn nổ khắp nơi, xung quanh, trên đầu, những cành lá cao su và miểng đạn bay tung tóe. Hạ sĩ Thảo, Hiệu thính viên Truyền Tin đã ngã gục trên người tôi, máu anh đã nhuộm đỏ bộ quân phục màu xanh của tôi. Sau tiền pháo là hậu xung, chúng ồ ạt tấn công. Với địa hình đã chuẩn bị sẵn sàng, Thiết Giáp bố trí vòng tròn, Bộ Binh đào hầm sâu xen kẽ, chúng tôi sẵn sàng chờ địch tới. Cường độ trận đánh thật ác liệt, địch ẩn núp sau các gốc cây cao su to, hết lớp này đến lớp khác bò tới, Thiết Giáp bắn đỏ nòng các khẩu đại liên 50 và 30. Khói súng không thoát khỏi các tàng cao su dày đặc, mờ mờ như màn sương. Hơn 1 giờ giao tranh, với lòng quả cảm và kinh nghiệm chiến đấu Kỵ Binh và Bộ Binh đã đẩy lùi được địch. CSBV rút lui với tổn thất nặng nề. Xác địch nằm rải rác trong vườn cao su từ gần đến xa, đếm không xuể. Bộ Binh lao lên thu chiến lợi phẩm gom thành một đống cao đủ loại vũ khí. Tinh thần mọi binh sĩ cả Thiết Giáp và Bộ Binh lên cao, hăng hái sau nhiều ngày lui binh từ chết đến bị thương. Số vũ khí tịch thu được tôi cho 1 chiến xa M41 cán nát vì có giữ cũng vô ích, cần chỗ trong xe để chở thêm đạn dược, xăng dầu, lương khô sẵn sàng cho những ngày sắp tới.
Trinh sát báo về, địch quân chỉ còn cách căn cứ không đầy 2km. Tôi gọi 18 (danh hiệu truyền tin của Ðại Tá Ngô Kỳ Dũng) xin chi đoàn về bố trí phòng thủ ở Bộ Chỉ Huy Chiến Ðoàn (LLÐN 52) để tải thương và tiếp tế. Chúng tôi về và bố trí các xe thành một vòng cung rìa ấp Nguyễn Thái Học, giữa các xe là Bộ Binh của Ðại Ðội 52 Trinh Sát. Công việc xong lúc 6 giờ tối.
Ðêm đó, 13 tháng 4, ngã ba Dầu Giây được phòng thủ bởi Tiểu Ðoàn1/52 Trừ Bị, Sư Ðoàn 6 CSBV tràn ngập. Mất ngã ba Dầu Giây, toàn bộ lực lượng Ðặc Nhiệm 52 còn lại như cá nằm trên thớt, tứ bề thọ địch. Trên QL20 địch đã tiếp cận đơn vị chúng tôi. Phía Nam trên QL1, địch đã chiếm ấp Trần Hưng Ðạo và giao tranh với chúng tôi trọn ngày hôm qua. Ðêm nay lại mất Dầu Giây nữa. Tình hình mặt trận chắc còn tệ hơn lực lượng Pháp đóng tại Ðiện Biên Phủ vào năm 1954.
Ngày 14 tháng 4, 1975, một ngày yên bình hiếm hoi, sáng dậy tôi mới biết là mình còn sống. Tôi xin trực thăng tản thương, tiếp tế xăng dầu, đạn dược lương khô được chở theo bằng xe M548 (một loại xe tải chạy bằng xích) và GMC. Tôi cho anh em kiểm tra bảo trì xe, vũ khí sau 2 ngày liên tục quần thảo với CSBV, sẵn sàng cho một cuộc giao tranh mới.
Tôi cùng các đơn vị trưởng trực thuộc có cuộc họp khẩn cấp tại Trung Tâm Hành Quân của LLÐN 52. Nơi họp là một căn hầm kiên cố do Công Binh xây dựng vách dày 1 mét, nóc với hàng chục lớp bao cát. Sau cuộc họp tôi được biết tình hình vô cùng nguy ngập. Trên tấm bản đồ Hành quân nhiều ký hiệu màu đỏ chỉ LLCSBV đang bao vây và tiếp cận chúng tôi gồm Sư Ðoàn 341, Sư Ðoàn 6, Trung Ðoàn 95 thuộc Sư Ðoàn 325, 2 Trung Ðoàn Ðịa phương 33 và 274.
Trong khi đó LLÐN52 thì có Tiểu Ðoàn 1/52 kiệt sức và thiệt hại nặng (200 hy sinh và bị thương). Tiểu đoàn 3/52 trấn giữ đồi Móng Ngựa (hướng Tây Bắc cách Xuân Lộc 12km) để yểm trợ Bộ chỉ huy LLÐN52. Một trung đội hỏa tiễn TOW. Chi đoàn 2/5 Thiết Kỵ, Ðại Ðội 52 Trinh Sát, Pháo Binh, Công Binh.
So sánh lực lượng thì quân số CSBV 20 còn quân ta chỉ có 1. Ðịch dùng lực lượng áp đảo này để mong xóa sổ toàn bộ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ở đây, để mở đường cho đại binh CSBV tiến chiếm Saigon. Trong những ngày kịch chiến vừa qua, chỉ có Pháo Binh yểm trợ cầm chừng vì mặt trận Xuân Lộc đang hồi quyết liệt, nên tất cả các phi tuần oanh tạc đều tập trung vào đó. Ðơn vị tiếp ứng là Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh thì bị chận đứng tại ấp Hưng Nghĩa hai ngày không tiến lên hướng Dầu Giây nổi. Trên QL1, địch quân bao vây thị xã Xuân Lộc và khống chế một đoạn đường dài 20km từ ngã ba Cua Heo ven thị xã Xuân Lộc đến ấp Hưng Nghĩa thuộc xã Hưng Lộc. Phía QL20, địch quân chiếm toàn bộ tỉnh Lâm Ðồng, Chi Khu Ðịnh Quán, Túc Trưng, Gia Kiệm. Lực lượng ta như một ốc đảo trên sa mạc, bốn bề là địch quân. Ra khỏi phòng họp hành quân, tôi không về xe vội. Ngồi xuống 1 thân cây ngã, lấy thuốc ra hút. Miệng cay xè, râu ria tua tủa vì mấy đêm không ngủ. Nhìn về hướng chi đoàn các binh sĩ đang tất bật lau chùi vũ khí chuẩn bị cho trận kịch chiến sắp tới, biết chắc là sẽ xảy ra, bất cứ lúc nào, hôm nay, ngày mai. Cường độ đánh sắp tới chắc sẽ vô cùng khốc liệt, ai còn, ai mất? Ðem thân làm lính Kỵ Binh thì ngày xưa lấy da ngựa bọc thây, ngày nay nguyện chết trong lòng xe bọc thép. Bất giác tôi nhớ đến 4 câu thơ cổ của Tàu mà bây giờ không còn nhớ tên tác giả:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi Dục ẩm tì bà mã thượng thôi Túy ngọa sa trường quân mặc tiếu? Cổ lai chinh chiến kỹ nhân hồi
(Bồ đào chén ngọc khuyên mời Tiếng tì trên ngựa dục người ra đi Sa trường nghiêng ngả cười chi? Xưa nay chinh chiến mấy khi trở về)
Dòng suy nghĩ miên man, thân nhân của đồng đội tôi sẽ đau khổ như thế nào khi biết chồng con họ không bao giờ trở lại sau tấm thảm kịch này? Nghĩ đến H. người vợ hiền thục, thủy chung tháng nào cũng lặn lội thăm chồng trong vùng hành quân xa xôi: Tây Ninh, Rạch Bắp, Dầu Tiếng, Bình Giã, Căn cứ 4... Thằng bé D. mới vừa 3 tuổi và con bé L. 2 tuổi, cứ thấy cha cười toe toét đòi bồng. H. ơi! Liệu anh có về được để gặp em và 2 con không?
Về lại xe tôi gọi các sĩ quan chi đội trưởng phổ biến tình hình. Gương mặt mọi người nặng trĩu nhưng không ai lộ vẻ hốt hoảng, hoang mang. Chấp nhận đối mặt với mọi tình huống xấu nhất! Ðêm đó toàn thể quân nhân từ Kỵ Binh đến Bộ Binh, Pháo Binh. Từ cấp chỉ huy cao nhất đến anh tân binh vừa bổ sung đơn vị tuần qua đều không ai ngủ được, căng mắt nhìn bóng đêm. Bóng dáng tử thần lảng vảng mọi nơi, trên không trung, từ hàng trăm gốc cao su già mập mờ trong màn sương, từ những tàng cây rậm rạp ven suối... Nhưng đêm đó Cộng quân không tấn công. Ðịnh chơi trò hú tim sao đây?
Con suối Gia Nhan rộng chừng 10 mét, chảy vòng cung ôm trọn hướng Nam và Tây Bắc ấp Nguyễn Thái Học, bọc lấy Ðồi Móng Ngựa; mùa này khô cạn, nước chảy róc rách. Hai bên bờ là cây cối rậm rạp, chằng chịt dây leo, rất dễ cho địch quân len lỏi tiếp cận đơn vị chúng tôi.
Ngày 15 tháng 4, 1975, ngày dài nhất đã đến. Rạng sáng, đồi Móng Ngựa nơi đóng quân dã chiến của Tiểu Ðoàn 3/52 hứng pháo, lúc càng dồn dập. Pháo 130 ly, hỏa tiễn 122 ly, cối 82 ly từ nhiều hướng nổ chụp lên đồi Móng Ngựa. Cả ngàn trái trên vị trí diện tích chưa đầy 5km vuông. Sau chừng 1 giờ mưa pháo, Trung Ðoàn 95 của Sư Ðoàn 325 CSBV tấn công biển người vào vị trí phòng thủ của Tiểu Ðoàn 3/52 từ ven suối Gia Nhan. Các pháo đội của Tiểu Ðoàn Pháo Binh 182 bắn yểm trợ tối đa từ căn cứ ấp Nguyễn Thái Học. Nhưng không bao lâu chính vị trí Pháo Binh của TÐ 182 PB cũng bị đè bẹp bởi mưa pháo 130 ly và hỏa tiễn 122 của CSBV, hết phương yểm trợ cho Tiểu Ðoàn 3/52. Tới trưa sau hơn 4 giờ giằng co từng mét đất, đồi Móng Ngựa bị tràn ngập. Những lời yêu cầu tuyệt vọng của các đại đội trưởng của TÐ 3/52: Trung Úy Nguyễn Thanh Trường, Trung Úy Mai Mạnh Liêu mà tôi nghe được qua hệ thống truyền tin của LLÐN52, xin phi pháo dội nát đồi Móng ngựa, Pháo Binh cứ bắn lên đầu họ, họ đã bị tràn ngập. Lời yêu cầu lặp đi lặp lại vài lần rồi tắt hẳn. Tôi ứa nước mắt khi nghe những lời yêu cầu này. Thật là bi hùng, mã thượng. Các cao điểm bảo vệ Bộ Chỉ Huy Chiến Ðoàn đã hoàn toàn bị địch khống chế. Tới 4 giờ chiều, Ban Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 3/52 len lỏi địa thế rậm rạp rút được về bố trí tại phía Tây quốc lộ 20, gần ấp Nguyễn Thái Học.
Mất Ðồi Móng Ngựa, căn cứ chiến đoàn bị pháo liên tục. Mặt khác, Sư Ðoàn 6 CSBV được bổ sung thêm 2 Trung Ðoàn địa phương là Trung Ðoàn 33 và 274 bắt đầu tấn công căn cứ chiến đoàn từ hướng Nam, Ðông và hướng Bắc là hướng Ðồi Móng Nhựa vừa chiếm được. Bắt đầu 1 giờ chiều, căn cứ nằm trong biển lửa, hàng ngàn quả pháo đủ loại dội lên đầu chúng tôi. Khoảng 2 giờ trưa, hầm của Bộ Chỉ Huy Chiến Ðoàn hứng hàng chục quả đạn pháo 130 ly chính xác nên sụp đổ. Như một trận đại hồng thủy đổ ập xuống Bộ Chỉ Huy Căn Cứ, Tôi đứng trong xe, nhìn thấy toàn bộ Bộ Chỉ Huy chạy băng qua bên kia quốc lộ 20 vào vườn cao su.
Và tiếp theo, địch bắt đầu tấn công chúng tôi, dưới ánh nắng gay gắt. Bò sau hàng trăm gốc cao su già tiến tới, len lỏi bờ suối chạy lên. Sau hàng chục quả mìn định hướng (mìn Claymore) được kích hỏa nổ vang trời,và tiếp theo, 4 khẩu đại bác76 ly của chi đội chiến xa M41, 20 khẩu đại liên 50, 40 khẩu đại liên 30, 3 khẩu cối 81 ly, 3 khẩu 106 ly không giật và hàng trăm vũ khí cá nhân, M16, M79 của Bộ Binh đồng loạt khai hỏa vang cả một góc trời chiến địa. Bên kia, từng lớp từng lớp người như những con thiêu thân, lao lên và ngã gục. Cơn cuồng phong dữ dội không quật nổi tinh thần quyết chiến của con cháu Thánh Gióng. Giữa hỗn độn âm thanh súng đạn của ta của địch, tôi nhận được báo cáo một chiến xa M41 và một M113 bị bắn cháy, một M113 bị đứt xích vì B40. Tuyến một của Ðại Ðội 52 Trinh Sát đã bị cày nát. Phía sau xe chỉ huy của tôi, chiếc M548 và chiếc GMC chở đạn cũng bị pháo trúng và bốc cháy. Rất may ngày hôm trước các xe này đã tiếp tế nhiên liệu và đạn cho tất cả xe trong chi đoàn, nếu bằng không trên 5,000 lít xăng dầu, cả tấn đạn các loại chắc chắn xe chỉ huy của tôi và vài chiếc M113 gần đó sẽ bị hỏa thiêu. Trong lúc vạn tử nhất sinh, Thiếu Tá Nguyễn Thanh Trước, Tiểu Ðoàn 182 Pháo Binh mặt mày đen sạm vì khói súng, cố gắng kéo hai khẩu 105 ly còn lại ra sát phòng tuyến trực xạ vào địch quân.
Tình thế cực kỳ hiểm nghèo, tôi buộc lòng phải liên lạc với Ðại Tá Ngô Kỳ Dũng chiến đoàn trưởng để xin lệnh rút lui, nguy ngập quá, trước sau gì cũng bể tuyến vì lực lượng địch quá đông và hung hãn. Lúc đó, Ðại Úy Mừng đại đội trưởng 52 Trinh Sát leo lên xe tôi và bảo: “Lưu ơi! Rút lui mày ơi.” Tôi với tay bịt miệng anh ta và nói: “Tao đang liên lạc với 18 (danh hiệu truyền tin của Ðại Tá Dũng) im chút coi.”
Hôm nay, Ðại Úy Mừng khác chi lạ. Cách đây hơn năm, ở Bến Cát, An Ðiền, Rạch Bắp, Ðại Úy Mừng ngày đó tự tin, giọng nói oang oang, tiếng cười sảng khoái. Nhìn ông bụi đất đầy người, bộ quân phục tác chiến lấm lem, nhàu nát, mặt mày như được vẽ màu ngụy trang trông te tua quá!
Tôi bảo Ðại Úy Mừng cho anh em lên xe gấp, kể cả bị thương và tử thương đều được đưa lên xe càng nhanh càng tốt rồi ra lệnh rút lui qua bên kia QL 20,vào vườn cao su. Ðoạn hậu là 3 xe M41 và 2 chi đội Thiết Kỵ dưới sự điều động của chi đoàn phó là Ðại Úy Hồ Thúc Hạ, và phá hủy chiếc M113 bất khiển dụng còn lại.
Xe chỉ huy của tôi vừa trờ qua chiếc xe Jeep bể bánh tôi nhìn thấy chú chó cưng Lucky nằm bẹp dưới gầm xe. Lòng tôi lại chợt nhói lên. Con chó cưng trung thành, hằng sáng thường cắn mùng đánh thức tôi dậy để khi tôi uống cà phê, rót cho nó 1 dĩa nhỏ cà phê bốc khói. Chó mà ghiền cà phê! Tôi nhờ anh xạ thủ đại liên xoay nòng qua, một loạt đạn bắn tung chiếc xe Jeep... Lúc đó, Ðại Úy Hạ cũng cho bắn cháy chiếc M113 và hai khẩu pháo 105 ly anh hùng.
May mắn làm sao, chi đoàn và đại đội Trinh Sát đã rút lui an toàn dưới làn mưa pháo của địch. Vừa vào sâu được trong vườn cao su phía Tây bên kia QL20 và bố trí xong, tôi liên lạc với Ðại Tá Dũng. Ông đến và lên xe tôi. Nếu không nhờ cặp lon đại tá trên bâu áo, tôi đã không nhận ra ông. Trước đây 24 giờ, ông oai phong,với giọng miền Nam ấm áp, rộn ràng, mệnh lệnh chắc nịch có phần cộc cằn. Ngay trước mắt tôi lúc đó, cả thân thể quần áo ông nhuộm đỏ màu đất và đen màu thuốc súng, lượm thượm chỉ có đôi mắt là sáng quắc đầy nghị lực. Ngay lập tức tôi cũng nhận ra mình hình dáng cũng không khác ông và Ðại Úy Mừng. Màu xanh olive của chiến bào nay đã thành màu loang lổ nâu đen đỏ lem luốt tả tơi. Chúng tôi trao đổi chừng 10 phút thì ngoài đường dầu, người dân chạy loạn báo là hàng đoàn chiến xa CSBV đang chạy xuống từ Gia Kiệm. Tiếp liền đó, một xe M113 lại bị bắn bởi 75 ly không giật. Ðến nay tôi nhớ mãi hình ảnh anh lính lái xe Nghiêm khôn ngoan và dũng cảm, đã lái chiếc xe ra khỏi đội hình phòng thủ chạy lẹ ra hướng quốc lộ 20, một khoảng xa.Tới đó anh liền nhảy ra khỏi xe thoát thân bằng cửa tài xế. Vừa chạy được khoảng 100 mét, chiếc M113 bật cháy ngùn ngụt.
Chưa bao giờ tôi có cái cảm giác vừa buồn vừa đau khổ như lúc nầy, miệng thì khô đắng, mắt cay xè. Chỉ trong 12 ngày chi đoàn mất 8 xe M113 và 1 xe M41, chỉ còn lại 15 xe. Ðịch quân nhất quyết xóa sổ chúng tôi. Hướng Ðông, nơi chúng tôi vừa lui quân, địch đã xuất hiện. Hướng Tây vườn cao su tức hướng ấp Bàu Hàm nhìn bằng mắt cũng thấy địch quân lố nhố. Hướng Bắc, tức hướng Gia Kiệm địch bắt đầu tấn công mạnh. Hướng Nam tức hướng ngã ba Dầu Giây súng nổ như bắp rang. Tứ bề thọ địch. Nếu còn chần chờ không quyết định nhanh, chúng tôi, LLÐN52 sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. Ðịch quân đã bịt kín tất cả mọi nẻo đường. Tôi liền nghĩ ngay phải mở đường máu xuyên qua vòng vây. Nhìn qua Ðại Tá Dũng, tôi đọc được trong ánh mắt của ông. Chúng tôi gần như cùng nói một lúc: “Mở đướng máu.” Tôi vội vã cho lệnh Bộ Binh lên xe, gần xe nào lên xe ấy. Chúng tôi quyết định mở đường máu về phía Tây vườn cao xu hướng về ấp Bàu Hàm (một ấp nhỏ của người Nùng chuyên sống về nghề rẫy hoa màu phụ cách ngã ba Dầu Giây 7 km về hướng Tây Bắc).
Dựa vào hỏa lực mạnh, di chuyển nhanh của thiết giáp, và yếu tố bất ngờ, chúng tôi xuyên phá vòng vây. Ba chiến xa M41 dẫn đầu, các xe M113 bố trí trái, phải rồi cùng tiến về phía trước với đội hình quả trám. Cũng may vườn cao su non nên chiến xa dễ dàng cán rạp đè bẹp hầm hố địch. Tất cả các súng liên tiếp nhả đạn. Ðại bác 76 ly của chiến xa M41 hạ thấp nòng bắn trước đầu xe bằng đạn nổ, xới tung từng hầm hố. Hàng chục khẩu đại liên 50 và đại liên 30, hàng trăm cây M79 và M16 thi nhau bắn xối xả trước, bên hông xe để địch không ngóc đầu lên bắn B40 và đại bác 75 ly. Ðịch quân chống trả mãnh liệt nhưng thiết giáp càn qua đầu mà tiến chúng bung ra khỏi chốt chạy tán loạn và bị bắn hạ. May mắn thay, chi đoàn có 2 hạ sĩ quan trưởng xa và 2 anh tài xế là người địa phương trước làm rẫy ở ấp Bàu Hàm. Họ đóng góp quan trọng vào việc dẫn đoàn quân thoát nhanh và chính xác ra khỏi vòng vây địch quân. Vừa di chuyển vừa bắn. Không biết bao nhiêu trở ngại gặp phải: suối sâu, đá lớn, gốc cao su lớn vừa cưa chưa mục, lởm chởm dễ dàng làm trật xích chiến xa. Hỏa lực địch chống trả nặng nề nhất trong bề dày 500 mét đầu, tới gần bờ suối Bàu Hàm, áp lực nhẹ dần.
Hơn một giờ hành quân vượt thoát, lực lượng chúng tôi bắt tay được với Chi Ðoàn 1/18 Thiết Kỵ do Ðại Úy Hà Trung Hiếu bạn cùng khóa với tôi làm chi đoàn trưởng thuộc Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh. Ðến gần ấp Bàu Hàm, chúng tôi bố trí phòng thủ trong một khu rừng chồi thưa thớt. Xa xa,về hướng ấp Nguyễn Thái Học lửa còn cháy đỏ cả vòm trời. Lúc đó là 8 giờ tối ngày 15 tháng 4, 1975, một ngày dài nhất trong cuộc đời binh nghiệp của tôi. Trên bầu trời hàng chục ánh hỏa châu treo lơ lửng cộng với khói, và những áng mây trôi lững lờ, tất cả quyện vào nhau tạo thành một thứ ánh sáng vàng vọt buồn phiền. Nơi đóng quân cây cối, xe cộ, bóng người lúc ẩn lúc hiện chập chờn ma quái.
Tôi mời Ðại tá Dũng ở lại xe, ăn cơm và nghỉ ngơi qua đêm. Ăn cơm gạo sấy nóng và cá Tuna. Thiết giáp lúc nào cũng được ăn cơm nóng, chỉ cần đổ nước vào bịch gạo sấy, treo ở nắp bô xe là có cơm nóng ăn khi tới chỗ dừng quân.
Người lính của tôi bưng ra một nón sắt đầy nước mời Ðại Tá Dũng và tôi rửa mặt. Hai người vội vàng bốc nước vào mặt để xóa bớt những bụi, khói mồ hôi bám dầy từ sáng đến giờ rồi ra tuyến phòng thủ. Ông và tôi đến từng chi đội để kiểm tra đôn đốc và quan trọng là khen ngợi để củng cố tinh thần anh em binh sĩ; Ở đó tất cả các y tá làm việc hết sức mình. Cả hai dừng lại từng xa đội để thăm hỏi.Những cảnh tượng quá đau thương. Tim tôi nhói lên mỗi khi những người lính Bộ Binh, Thiết Giáp, Pháo Binh rên rỉ. Họ cố gắng chịu đựng những cơn đau nhức. Vết thương đã được băng bó tạm thời nhưng cũng làm cho họ vô cùng đau đớn. Lòng tôi quặn thắt trước những chiến hữu đã hy sinh vì tổ quốc nằm gọn trong chiếc poncho buồn thảm. Trong các xe M113 nhiều thương binh, nhưng đã tối và tình hình còn nguy hiểm nên không thể tản thương được. Tôi ngậm ngùi trở về xe chỉ huy với Ðại Tá Dũng.
Hai người, Ðại Tá Dũng và tôi nhìn nhau rồi cúi mặt, cơm nuốt không vô mặc dù từ sáng sớm đến giờ không có gì bỏ bụng ngoài một ly cà phê nóng. Trong lòng dâng tràn nổi nghẹn ngào. LLÐN52 đã gánh vác một công việc quá lớn, quá tầm tay. Không được yểm trợ phi pháo, không được các đơn vị bạn tiếp cứu. Cơ sự đã thế này biết tỏ cùng ai! Tổng kết tình hình nhân lực vô cùng đau đớn, 3 phần 4 quân số bị thương hoặc hy sinh của Trung Ðoàn 52 Bộ Binh. Về thiết giáp, 9 chiến xa và M113 bị tiêu hủy, hơn 1/4 quân số bị loại ra khỏi vòng chiến đấu chỉ trong 12 ngày đêm. Canh bạc thua gần trắng tay. Ôi! phải chăng đây là đỉnh tột cùng của đau thương và nghiệt ngã đời lính? Chúng tôi không thể hình dung nổi ngày mai của cuộc chiến sẽ như thế nào, cho tôi và đồng đội thân yêu của tôi.
Ngày 16 tháng 4, 1975: Sáng sớm toàn bộ Chiến Ðoàn 52 còn lại di chuyển ra hương lộ đất đỏ nối liền QL1 và ấp Bàu Hàm. Chúng tôi vừa đến cùng một lúc với đoàn xe GMC và Hồng Thập Tự để tản thương và đưa Trung Ðoàn 52 Bộ Binh về Long Bình.
Tôi tiễn Ðại Tá Dũng đến tận xe jeep của ông, chào tạm biệt và bắt tay từ giã, ông bắt tay tôi thật chặt, thật lâu và nói hy vọng chúng ta còn gặp nhau trên cùng một chiến trường và cảm ơn với giọng trầm buồn. Nhưng vận nước nổi trôi, từ đó đến giờ tôi và ông chưa một lần gặp mặt. Tôi trở lại và đứng nghiêm trên xe, và hầu hết Kỵ Binh của chi đoàn đều đứng nghiêm đưa tay chào khi đoàn xe bắt đầu chuyển bánh. Chào vĩnh biệt các anh đã anh dũng hy sinh vì nước non, bây giờ các anh đang được vui sống muôn đời; “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Kinh Hòa Bình). Chào tạm biệt các anh đã hiên ngang chiến đấu, can trường xả thân vì dân tộc trong suốt thời gian 12 ngày đêm vừa qua cùng với Chi Ðoàn 2/5 Thiết Kỵ. Nguyện cầu cho các anh gặp nhiều may mắn trong thời gian tới. Tất cả đều đứng nghiêm chào cho đến khi đoàn xe khuất hẳn sau đám bụi đỏ mịt mù.
Kỵ Binh Vũ Ðình Lưu (Chi đoàn trưởng Chi Ðoàn 2/5 Thiết Kỵ) .
tranvu Khách viếng thăm
Tiêu đề: Re: Quân Lực VNCH Tử Chiến Trong Giờ 25 Thu Apr 10, 2014 12:12 am
.
30/4/1975: LỰC LƯỢNG VNCH TỬ CHIẾN TẠI THỦ ĐÔ SÀI GÒN Tử Thủ Sau Lệnh Đầu Hàng: Giết 1,000 VC, Diệt 32 Xe Tăng CS
Viet Bao -Vương Hồng Anh
Lời tòa soạn: Trong tinh thần tưởng niệm "Ngày 30-4-1975", nhìn lại cuộc diện Việt Nam 30 năm về trước, VB trân trọng giới thiệu loạt bài tổng hợp về một số sự kiện quan trọng xảy ra từ ngày 10/3/1975 đến cuối tháng 4/1975. Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi ký của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc phòng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa; hồi ký của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, một số bài viết của các nhân chứng, từng giữ các chức vụ trọng yếu trong Chính phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và tài liệu riêng của Việt Báo.
* Hơn 1 ngàn Cộng quân tử trận, 32 chiến xa CSBV bị bắn cháy trong trận chiến sáng ngày 30-4-1975 tại phòng tuyến Sài Gòn
Vào những ngày cuối cùng của tháng 4/1975, trong khi những người lãnh đạo tối cao của quốc gia và quân đội tìm mọi cách để ra đi, thì tại mặt trận vòng đai Sài Gòn và ngay trong Thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, người lính Quân lực VNCH từ anh binh nhì cho đến các trung đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng... thuộc các binh đoàn bộ chiến, vẫn giữ vững tay súng tử chiến với Cộng quân đến phút cuối cùng.
Từ 0 giờ sáng đến 10 giờ ngày 30/4/1975, trên các cửa ngõ vào thủ đô Sài Gòn, những người lính Bộ binh, Nhảy Dù, Biệt kích Nhảy Dù, Biệt động quân, Thiết giáp, Thủy quân Lục chiến... đã đánh trận cuối cùng trong đời lính của họ: 32 chiến xa và gần 30 quân xa Cộng quân bị bắn cháy, hơn 1,000 Cộng quân tan xác... Đó là chiến tích của người lính VNCH tại mặt trận Thủ Đô Sài Gòn trong buổi sáng cuối cùng của cuộc chiến, trước khi ông Dương Văn Minh ra lệnh Quân lực VNCH buông súng vào lúc 10 giờ 15 phút ngày 30/4/1975. Trong những giờ phút cuối cùng này, tại Sài Gòn, trái tim của Việt Nam Cộng Hòa, có rất nhiều sự kiện diễn ra dồn dập, những trận đánh hào hùng và bi tráng của một số đơn vị Nhảy Dù, Biệt Cách Nhảy Dù... trước giờ G.
* Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH, những giờ cuối cùng:
Trưa ngày 29 tháng 4/1975, các vị tướng có thẩmquyền tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH đã ra đi. Đại tướng Viên rời Việt Nam từ chiều 28/4/1975 cùng với Chuẩn tướng Thọ (trưởng phòng 3); Trung tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng Liên quân Bộ Tổng tham mưu kiêm Tổng cục trưởng Tiếp vận ra đi vào lúc 11 giờ 30 ngày 29/4/1975. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Biệtkhu Thủ đô cũng đã "chia tay" với các cộng sự viên của mình từ sáng ngày 29/4/1975. Để có tướng lãnh chỉ huy Quân đội, tân Tổng thống Dương Văn Minh đã cử một số tướng lãnh và cựu tướng lãnh giữ các chức vụ trọng yếu: Trung tướng Vĩnh Lộc giữ chức Tổng Tham mưu trưởng; Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn tướng, đã về hưu từ tháng4/1974, làm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng; cựu Thiếu tướng Lâm Văn Phát, được cử làm Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô; chuẩn tướng Lê Văn Thân, nguyên Tư lệnh phó Quân khu 2,làm Tư lệnh phó phụ giúp Tướng Phát; Chuẩn tướng Nguyễn Văn Chức, nguyên Cục trưởng Công binh, Thứ trưởng Định cư trong Nội các Nguyễn Bá Cẩn, giữ chức Tổng cụctrưởng Tiếp vận.
Sau khi nhận chức Tổng tham mưu trưởng, chiều 29/4/1975, Trung tướng Vĩnh Lộc đã triệu tập một cuộc họp với các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đang còn ở lại Sài Gòn tại phòng họp bộ Tổng Tham Mưu và yêu cầu "mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm việc với tất cả trách nhiệm".
* Trận chiến tại các cửa ngõ vào Sài Gòn:
Tại phòng tuyến Củ Chi, tối 29/4/1975, toàn bộ quân trú phòng và bộ Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh mở đường máu về Hóc Môn. Riêng Chuẩn tướng Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư đoàn và một Thượng sĩ cận vệ tên Ngọc đã phải thay nhau làm khinh binh với chiến thuật cá nhân để thoát khỏi vòng vây của Cộng quân. Cuối cùng vị tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh bị lọt vào tay địch khi ông và người cận về gần đến Hóc Môn.
Tại mặt Nam của Sài Gòn, ngay từ ngày 28/4/1975, bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô không còn quân trừ bị để giải tỏa áp lực của Cộng quân. Một liên đoàn Biệt động quân đang hành quân dọc theo quốc lộ 4 phía nam Bến Tranh đã được điều động về quận lỵ Cần Đước theo liên tỉnh lộ 5A vào buổi trưa và đặt dưới quyền điều động của bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Liên tỉnh lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng VNCH không thể phá vỡ được các chốt chận của Cộng quân tại cầu Nhị Thiên Đường (khu vực này bị Cộng quân chiếm từ rạng sáng ngày 29/4/1975).
Trong khi trận chiến xảy ra tại nhiều nơi thì kho đạn Thành Tuy Hạ lại bị pháo kích nặng nề nên phát nổ nhiều nơi. Hệ thống truyền tin liên lạc với bộ chỉ huy Kho đạn bị mất vào lúc 1 giờ chiều. Xe tăng Cộng quân xuất hiện tại Cát Lái và bắn vào cầu tàu chất đạn chưa được bốc dỡ.
Tại cụm phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân Vận (gần trung tâm huấn luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lươn Bà Quẹo; Bình Thới-Ngã ba Bà Quẹo; Bảy Hiền-Lăng Cha Cả, đơn vị Nhảy Dù phòng ngự tại đây đã nỗ lực ngăn chận Cộng quân. Những người lính Dù không hề nao núng, bình tĩnh chuẩn bị cho trận đánh giờ thứ 25.
Tại vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu, một chiến đoàn thuộc Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù do thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã dàn quân chận địch, từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6 chiến xa Cộng quân và nỗ lực đánh bật địch ra khỏi trận địa.
* Những trận đánh trước giờ G...
Từ sáng sớm ngày 30 tháng 4, tại các mặt trận quanh Sài Gòn và Biên Hòa, các đơn vị của Sư đoàn 5BB, Sư đoàn 18BB, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, các đơn vị Dù, Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân... đều đặt trong tình trạng sẵn sàng ứng chiến để chận đánh Cộng quân. Tại bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Thiếu tướng Lâm Văn Phát từ sáng sớm đã dùng trực thăng bay quan sát tình hình, vừa đáp xuống bộ Tư lệnh ông gọi máy liên lạc với Chuẩn tướng Tần, sĩ quan cao cấp nhất của Không quân vào lúc đó. Tướng Phát yêu cầu Tướng Tần cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích Cộng quân đang chuyển quân dọc theo con đường từ ngả tư Bảy Hiền lên đến Hóc Môn.
Trong khi các đơn vị VNCH đang nỗ lực đẩy lùi Cộng quân ra khỏi bộ Tổng Tham Mưu, thì vào 10 giờ 15 phút, tân Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngưng chiến. Trước đó vài phút, chiến đoàn Biệt Cách Dù đang tung các đợt phản công để đánh bật địch quanh vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu. Khi nhận được lệnh ngưng bắn, Thiếu tá Phạm Châu Tài, chiến đoàn trưởng Biệt Cách Dù đã lấy xe jeep vào Bộ Tổng Tham Mưu, ông được anh em binh sĩ gác cổng cho biết là Trung tướng Vĩnh Lộc, Tân Tổng Tham mưu trưởng, đã ra đi lúc 6 giờ sáng, tất cả tướng lãnh và các đại tá đã họp với Thiếu tá Tài về kế hoạch phòng thủ Tổng hành dinh bộ Tổng Tham mưu trong đêm 29/4/1975, cũng không còn ai.
Trước tình hình đó, Thiếu tá Tài đã bốc điện thoại quay số gọi về văn phòng Tổng Tổng phủ, gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh ở đầu giây. Ông Hạnh hỏi Thiếu tá Tài là ai? Vị chiến đoàn trưởng đã trả lời: "Tôi là chiến đoàn trưởng Biệt cách Nhảy Dù đang trách nhiệm bảo vệ bộ Tổng tham mưu, tôi xin được gặp Tổng thống". Vài giây sau, thiếu tá Tài nghe tiến ông Dương Văn Minh nói ở đầu máy: "Đại tướng Dương Văn Minh nghe đây, có chuyện gì đó?" Thiếu tá Tài trình bày: "Tôi đang chỉ huy cánh quân tử chiến với Cộng quân ở Bộ Tổng Tham Mưu thì có lệnh ngưng bắn, nhưng Cộng quân vẫn tiến vào, tôi đã liên lạc với bộ Tổng Tham mưu nhưng không có ai, nên muốn nói chuyện với Tổng thống là Tổng Tư lệnh Tối cao của Quân đội để xin quyết định." Tướng Minh trả lời: "Các em chuẩn bị bàn giao đi!". Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại: "Bàn giao là như thế nào thưa Đại tướng, có phải là đầu hàng không?", Tướng Minh đáp: Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập. Nghe tướng Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài nói ngay: "Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào dinh Độc Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng thống". Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói tiếp: "Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước 2 ngàn cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở bộ Tổng Tham Mưu." Tướng Minh trả lời: "Tùy các anh em".
Theo lời Thiếu tá Tài, sau này, khi bị CQ giam trong trại tù, ông đã găp trung tá Võ Ngọc Lan, Liên đoàn trưởng Liên đoàn phòng vệ Tổng thống Phủ. Trung tá Lan nói với Thiếu tá Tài: "Lúc đó, moa đứng cạnh ông tướng Minh, moa nghe toa nói vào cứu Tổng thống. "Thiếu tá Tài giải thích: "Tổng thống là vị lãnh đạo tối cao của Quân lực, phải cứu ông ra để có người chỉ huy Quân đội." .
LHSon Khách viếng thăm
Tiêu đề: Re: Quân Lực VNCH Tử Chiến Trong Giờ 25 Sat Apr 12, 2014 11:52 am
30/4/75: Trận đánh tại cầu Tân Cảng Sài Gòn của Tiểu đoàn 12 Nhảy Dù
Khoảng giữa tháng 4 năm 1975, TĐ12ND trực thuộc Lữ đoàn 4 Nhảy Dù (LĐ4ND) được đặt trong tình trạng ứng chiến cho bộ Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô (BTL/BKTĐ), TĐ (-) bố trí trong khuôn viên của Thảo cầm viên Sài Gòn còn 1 Đại đội nằm tại khu vực BỘ Canh Nông ở góc đường Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phan Thanh Giản với nhiệm vụ trấn giữ cầu Phan Thanh Giản.
Khoảng giữa trưa ngày 28/04/1975, Trung tá Lê Minh Ngọc, LĐT/LĐ4ND, cho lệnh Thiếu tá Nguyễn Văn Ngiêm, TĐT/TĐ12ND, trình diện BTL/BKTĐ để nhận lệnh hành quân. Tại đây, TĐ12ND được thông báo tình khu vực sắp hành quân và nhận lệnh cho xuất quân ngay.
Lệnh Hành Quân: Tình hình
* Quân CS: Một lực lượng VC cấp đại đội đã bắt đầu chiếm đóng phía đông đầu cầu xa lộ (Tân Cảng) và khu vực phía đông của cầu. Địch sử dụng hỏa lực Thượng liên đặt trên lầu của hồ tắm Thiên Nga (nằm cách đầu cầu khoảng 100m) khống chế phần giữa cầu khiến đơn vị Địa Phương Quân (ĐPQ) từ phần đầu cầu phía Tây không thể tiến qua phản công được. Chúng đang tìm cách chiếm nốt cây cầu. Giao thông trên xa lộ giữa Sài Gòn và Biên Hòa bị gián đoạn.
* QLVNCH: Hai Đ/ĐPQ dưới quyền chỉ huy của Trung tá Tiểu khu phó Tiểu khu Gia Định (TKGĐ) đang phản công để tái chiếm đầu cầu nằm về hướng Biên Hòa. Hải quân Tân Cảng cung cấp tàu bè làm phương tiện vượt sông cho TĐ.
* Nhiệm vụ: TĐ phối hợp với TKTĐ và Hải quân Tân Cảng để phản công tái chiếm phần cầu bị địch chiếm giữ và khai thông xa lộ trong thời gian ngắn nhất.
* Ý định hành quân: TĐ sẽ sử dụng tàu bè của Hải quân Tân Cảng để vượt sông từ hai mặt nam và bắc của cây cầu và hai cánh quân sẽ tấn công các vị trí của địch từ hai gọng kìm này. Cánh quân A gồm BCH/TĐ và các ĐĐ 120, 123, 124 sẽ vượt sông từ khu vực cư xá Thanh Đa, cánh quân B do Thiếu tá TĐP Nguyễn Trọng Nhi sẽ vượt sông từ khu vực Tân Cảng với 2 Đ 121 và 122.
* Diễn tiến - Khoảng 15 giờ toàn bộ TĐ dùng GMC từ Thảo cầm viên qua cầu Thị Nghè theo đường Hùng Vương rồi theo Hàng Xanh tới cầu Kinh. Tại đây cánh quân A được mấy chiếc giang đỉnh chở qua bờ sông Sài Gòn. Cánh quân B di chuyển bộ dọc theo các khu vực nhà ven sông để di chuyển về cầu Tân Cảng. ĐĐ 121 của Trung úy Nguyễn Văn Nam được Thiếu tá Nhi chỉ định nằm lại tại chân cầu làm lực lượng trừ bị và hỗ trợ cho cánh quân B vượt sông, phần còn lại gồm BCH nhẹ cùng Đ 122 của Đại úy Đỗ Việt Hùng được xà lan Hải quân đưa qua sông. Có lẽ do những tiếng súng nổ rền vang trên cầu nên ĐĐ 122 đổ bộ lên bờ đông sông Sài Gòn không bị địch phát hiện. Khoảng 16:30g, ĐĐ 122 lặng lẽ vượt mấy con rạch nhỏ nằm song song với xa lộ và tấn công lên các lều của mấy quán giải khát dựng dọc theo bờ nam của xa lộ. Súng bắt đầu nổ và các binh sĩ nhảy dù nhanh chóng chiếm được một số lều do VC chiếm tại đó. Mục tiêu cuối cùng là quán Cây Dừa cũng bị chiếm sau hơn 30 phút giao tranh. Một số địch nhảy xuống mấy con rạch để chạy trốn cũng bị rượt bắt, một số ít đầu hàng, còn phần đông bị thương do đạn bắn theo hoặc do lựu đạn ném xuống rạch.
Người lính Việt Nam Cộng Hòa giữ vững tay súng bảo vệ cầu Tân cảng, cửa ngỏ vào thủ đô Sài Gòn sáng 29/04/1975
Trong khi đó, cánh quân A sau khi vượt sông bắt đầu tiến nhanh qua khu làng Báo Chí rồi trực chỉ hồ tắm Thiên Nga. ĐĐ 124 của Trung úy Nguyễn Văn Tùng tiến chiếm chùa Kỳ Quang. Chùa này nằm cùng phía với hồ tắm Thiên Nga ở phía bắc ven xa lộ và cách hồ tắm khoảng hơn 400m. Từ chùa ĐĐ124 tấn công từ hướng đông thẳng xuống hồ tắm. ĐĐ 123 của Trung úy Sơn Bum dưới sự yểm trợ của súng cối 81 mm của ĐĐ 120 của Trung úy Thượng cũng bắt đầu tiến sát và tấn công hồ tắm từ hướng bắc. Khoảng 1800g làm chủ hồ tắm. Địch bỏ lại khoảng trên 10 xác chết. Trên lan can lầu xác hai xạ thủ thượng liên chân đều bị xích vào thành lan can. Cánh quân A bắt đầu lục soát về phía chân cầu. Đến 1900g TĐ hoàn tất nhiệm vụ chiếm lại phần dầu cầu nằm ở hướng đông cùng dọn dẹp sạch sẽ khu vực này. Tổng kết hành quân, TĐ12ND tổn thất không đáng kể, địch để lại khoảng hơn 40 xác chết. TĐ bắt được hơn 20 tù binh, phần đông đều thuộc TĐ4 đặc công của quận Thủ Đức.
TĐ được lệnh bố trí phòng thủ khu vực phía đông của cầu. Khoảng 2000g Trung tá Lê Minh Ngọc cho lệnh TĐ gởi 1 ĐĐ lên trấn giữ khu vực ngã tư xa lộ - Thủ Đức.
Ngày 29/4/75 - Tình hình trong ngày vô sự. Khoảng 2200g một số quân xa chở binh sĩ và gia đình cùng thiết giáp từ hướng Biên Hòa đổ về Sải Gòn đều bị TĐ chận lại bên này cầu. Một vị Đại tá thuộc Quân đoàn III và một vị Trung tá mang bảng tên Quý yêu cầu TĐ cho đám gia đình quân nhân qua cầu vào Sài Gòn đồng thời cũng cho Thiếu tá Nhi biết là trên Biên Hòa đã được lệnh rút về Sải Gòn. Thiếu tá Nghiêm quyết định cho đám này qua ngoại trừ mấy xe thiết giáp nằm lại phòng thủ chung với TĐ. Thiếu tá Nghiêm cũng cho lệnh rút ĐĐ 123 của Đại úy Hùng đang trấn giữ tại ngã tư xa lộ - Thủ Đức rút về. Tình hình trong đêm tương đối yên lặng.
Ngày 30/4/75 - Khoảng 07:30g TĐ nhận lệnh cho đoàn thiết giáp của Quân đoàn III vào Sài Gòn để họ bố trí dọc khu vực đường Hàng Xanh. Khoảng 10:00g Tướng Dương Văn Minh cho lệnh buông súng. TĐ họp các ĐĐT để cho họ biết tin này và sau đó để họ tùy nghi. Thiếu tá Nhi đã ngậm ngùi vứt hộp bấm ngòi nổ của khối thuốc nổ cỡ 2000kg TNT gài tại cần Tân Cảng xuống sông Sài Gòn.
cầu Tân Cảng Sài Gòn
Trúc Lâm Yên Tử .
LHSon Khách viếng thăm
Tiêu đề: Re: Quân Lực VNCH Tử Chiến Trong Giờ 25 Sat Apr 25, 2015 9:06 am
Một tư liệu lịch sử: 30/4/1975 Biên Hòa đã không thất thủ
Một tư liệu quý qua cuộc phỏng vấn Chuẩn tướng (1) Quân lực VNCH Trần Quang Khôi – chỉ huy Lữ đoàn 3 Kỵ binh có nhiệm vụ phòng thủ thành phố Biên Hòa vào những ngày cuối cuộc chiến 1975:
“Có không ít bài viết lờ mờ hoặc viết sai về một số sự kiện trong cuộc chiến. Đặc biệt khi viết về Biên Hòa thì không có bên nào nói đúng. Ai cũng biết Biên Hòa là vị trí chiến lược số 1 của Miền Nam Việt Nam, phi trường Biên Hòa còn là nơi đặt bản doanh BTL/Quân đoàn III và Vùng III Chiến Thuật, đầu não của bộ máy quân sự miền Đông. Biên Hòa là cửa ngõ quan trọng bậc nhất ở phía Bắc thủ đô Sài Gòn. Để mất Biên Hòa là mất Sài Gòn, mất miền Nam VN.
Nhưng cho đến bây giờ, tôi chưa thấy một tài liệu nào nói rõ về Biên Hòa trong những ngày cuối cùng của chiến tranh VN. Thế mà tôi vẫn giữ im lặng cho đến ngày hôm nay, vì nghĩ rằng cuối cùng rồi sự thật lịch sử cũng được phơi bày…”
(Theo “Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi : 5 Ngày Cuối Cùng Của Cuộc Chiến Tranh Việt Nam“)
***
” Đã sang ngày 28 tháng 4, như Bộ chỉ huy chiến dịch thông báo, hầu hết các hướng phát triển thuận lợi, các binh đoàn chủ lực đã tới trước cửa ngõ Sài Gòn, Còn ở hướng đông, Quân đoàn 4 chúng tôi vẫn gặp phải khó khăn trong nhiệm vụ phát triển về hướng Biên Hoà, vì địch lập tại đây một tuyến phòng thủ và cũng tại đây “lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Đông Dương, địch cấu trúc các tuyến hào chống tăng để chặn đối phương.
…
Ngoài hầm hào, rào kẽm gai bãi mìn chống bộ binh ở các căn cứ, đồn bót sẵn có từ trước, địch đã thiết kế những trận địa mới, đào hào, rải mìn chống tăng, đưa các xe tăng M.41, M.48 nằm sâu dưới các ụ đất, các hầm hào có bao cát bao quanh, chĩa nòng pháo về các con đường tiến của xe tăng ta. Ngoài ra địch còn biến các dãy phố, nhà dân, công sở, nhà thờ, trường học, bệnh viện thành trận địa. Chúng chất lên đó những bao cát thành lô cốt, hoả điểm, thành những ổ đề kháng lợi hại. Chúng đặt súng M.72 hoả tiễn chống tăng, súng máy 12,7 ly, ĐKZ 57 trên những tháp chuông, cửa sổ nhà tầng, sẵn sàng nhả đạn, chặn đường tiến của ta. ” ( trích Hồi ký Hoàng Cầm ).
***
Lữ đoàn 3 cùng Liên đoàn 33 Biệt động quân, Trung đoàn 8 Bộ binh – thuộc sư đoàn 5, cũng như Địa phương quân và Nghĩa quân Biên Hòa đã chặn đứng cuộc tấn công vào Biên Hòa của quân đội Bắc Việt – Sư đoàn 341 do Thượng tướng Hoàng Cầm chỉ huy. Họ đã đứng vững, bảo vệ thành công thành phố Biên Hòa đến ngày 30/04/1975.
Đến rạng sáng ngày 30/04/1975 quân đội Bắc Việt rút lui bỏ Biên Hòa, đi đường vòng qua Biên Hòa để hợp quân đánh vào Sài Gòn. Chuẩn tướng Trần Quang Khôi đã quyết định chia Lực Lượng Xung Kích Quân đoàn 3 thành ba cánh quân trong vòng trật tự, quân phục chỉnh tề, tác phong nghiêm chỉnh, không hề nao núng rời thành phố Biên Hòa về giải cứu thủ đô Sài Gòn. Trên đường hành quân thì nghe lời kêu gọi ngưng chiến đấu của Tổng thống Dương Văn Minh.
Chiến Xa M-41 và Thiết Vận Xa M-113.
***
Theo Wikipedia tiếng Việt thì:
“Ngày 29/4/1975 vào khoảng 18 giờ, địch quân bắt đầu xâm nhập vào vị trí từ Mạn Bắc và Ðông Bắc đụng phải Chiến Ðoàn 322 và 315 và bị đẩy lui. Tình hình sau đó trở nên khá yên tĩnh.Khoảng 23:45 giờ khuya: địch quân lại bắt đầu pháo kích dữ dội vào thành Phố Biên Hòa và đồng thời tập trung một lực lượng gồm bộ binh và chiến xa tấn công vào hướng Bộ Tư Lệnh QÐIII. Chiến Ðoàn 315 xông ra chặn địch và Cộng quân phải rút lui.Lúc 03:00 giờ sáng: địch lại pháo kích dữ dội và chính xác hơn vào TP Biên Hòa. Ðoàn chiến xa của địch vừa xuất hiện đã bị bắn hạ và chúng tháo chạy ngược ra xa lộ Biên Hòa. Kể từ đó, TP Biên Hòa lại trở lại yên tĩnh.“
***
Trước đó, cuộc lui binh rối loạn ở Vùng I Chiến Thuật miền Trung đã ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần chiến đấu của binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa.
Ngoài ra, những tin tức về sự thất thủ chưa xác thực với tình hình chiến sự ở các thành phố lớn như Nha Trang, Đà Lạt… của các đài nước ngoài như BBC cũng gây ảnh hưởng hoang mang không ít.
Đến khi Chuẩn tướng Trần Quang Khôi được tỵ nạn chính trị sang Hoa Kỳ sau 17 năm tù đày trong trại cải tạo CS, tướng lĩnh Mỹ mới biết sự thật rằng Biên Hòa không hề thất thủ.
Trong khi Liên Xô và Trung Quốc tăng cường viện trợ thêm nhiều khí tài tối tân cho đồng minh Cộng Sản của mình là quân đội Bắc Việt cho cuộc chiến Việt Nam, thì chính phủ Hoa Kỳ đã cắt giảm rất lớn và đột ngột viện trợ cho quân lực VNCH – sau khi đã rút hết quân đội Mỹ ra khỏi VN. Quân viện VNCH đã bị hạn chế đáng kể : ”Hồi đó mỗi khẩu pháo 105 ly bắn 1000 trái hoặc không hạn chế. Sau đó chỉ được bắn 6 trái một ngày… “
Theo lời kể của Chuẩn tướng VNCH Trần Quang Khôi: Sau cuộc chiến 75, trong hồi ký “ Đại thắng mùa Xuân “ của Đại tướng Bắc Việt Văn Tiến Dũng đã không nhắc đến trận Biên Hòa. Ngay cả Thượng tướng Hoàng Cầm – người chỉ huy trực tiếp đánh chiếm Biên Hòa không thành công, cũng đã im lặng. Mãi đến năm 1995, khi Chuẩn tướng Trần Quang Khôi công khai nhắc đến trận chiến này, Thượng tướng Hoàng Cầm mới cải biên trong Hồi ký của ông về sự thật này.
Trong hồi ký ”Chặng đường mười nghìn ngày“ ( in lần thứ hai ) của Thượng tướng Hoàng Cầm khi tấn công Hố Nai – Biên Hòa có đoạn:
„ Ngoài hầm hào, rào kẽm gai bãi mìn chống bộ binh ở các căn cứ, đồn bót sẵn có từ trước, địch đã thiết kế những trận địa mới, đào hào, rải mìn chống tăng, đưa các xe tăng M.41, M.48 nằm sâu dưới các ụ đất, các hầm hào có bao cát bao quanh, chĩa nòng pháo về các con đường tiến của xe tăng ta. Ngoài ra địch còn biến các dãy phố, nhà dân, công sở, nhà thờ, trường học, bệnh viện thành trận địa. Chúng chất lên đó những bao cát thành lô cốt, hoả điểm, thành những ổ đề kháng lợi hại. Chúng đặt súng M.72 hoả tiễn chống tăng, súng máy 12,7 ly, ĐKZ 57 trên những tháp chuông, cửa sổ nhà tầng, sẵn sàng nhả đạn, chặn đường tiến của ta.“
Về vấn đề Sư đoàn 341 của Thượng tướng Hoàng Cầm bỏ Biên Hòa, đi đường vòng hợp quân tấn công Sài Gòn được viết một cách khéo léo như sau:
” Nhưng địch ở đây – căn cứ Biên Hoà – khu vực phòng thủ mạnh nhất của địch trước cửa ngõ Sài Gòn vẫn tiếp tục chống trả, kể cả những tên đang lẩn lút. Các đơn vị Quân đoàn chưa vượt sang tây sông Đồng Nai. Bốn giờ sáng, phân đội đi đầu của Sư đoàn 7 tiến đến cầu sắt xe lửa Biên Hoà nhưng tăng không qua được vì cầu này yếu, trọng tải chỉ đảm bảo xe 12 tấn. Cầu Mới bị địch phá.
…
Sau khi Bộ tư lệnh Quân đoàn thống nhất quyết tâm bằng bất cứ giá nào phải đánh chiếm cho được Biên Hoà trước 0 giờ ngày 30 tháng 4, tôi lệnh cho các đơn vị:
– Sư đoàn 6 bỏ các vị trí, các căn cứ còn lại ở Hố Nai, tiến theo bên trái đường số 1, đánh chiếm sở chỉ huy quân đoàn 3 và cầu Ghềnh, thọc sang bờ tây sông đánh chiếm đầu cầu, giữ bàn đạp. – Sư đoàn 341 vòng qua phía bắc, đánh chiếm sân bay Biên Hoà. – Sư đoàn 7 đột phá từ Hố Nai, đập vỡ lá chắn địch ở ngã ba Tam Hiệp, cố gắng đưa đội hình sang tây sông Đồng Nai trong đêm. „
…
Khi được tin sở chỉ huy nhẹ của quân đoàn 3 chuyển về Gò Vấp tối 29 tháng 4, qua đài kỹ thuật Lê Minh Đảo cầu cứu Bộ Tổng Tham mưu nguỵ rút quân sang bờ tây sông Đồng Nai, trong khi các lực lượng ta vẫn còn bị địch chặn ở ngã ba Hố Nai đi Biên Hoà… Sau khi điện xin ý kiến và được Bộ chỉ huy chiến dịch chấp thuận về trường hợp Sư đoàn 7 không theo kế hoạch cũ, tôi ra lệnh, lúc ấy là 6 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975 “
***
Bài viết của Chuẩn tướng Trần Quang Khôi cũng có đoạn:
„ Bây giờ là 08 giờ 30 ngày 30-4-75, tôi kết luận buổi họp: “Biên Hòa không còn là mục tiêu tấn công của địch nữa. Tôi nghĩ rằng giờ này các lực lượng chủ lực cộng sản BV đang tập trung tấn công Sài Gòn. Rõ ràng chúng bỏ Biên Hòa, dồn lực lượng đánh vào Thủ Ðô. Chúng ta mất liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu. Bây giờ tôi quyết định kéo toàn bộ Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn III về tiếp cứu Sài Gòn.”
Quân lính Nam Việt Nam và nhóm phóng viên truyền hình Phương Tây tìm chỗ trú ẩn trước đạn pháo của người Bắc Việt ở cầu Tân Cảng, Sài Gòn, 28 tháng Tư 1975. Hình AP Photo Hoanh.
Dưới đây là trích đoạn bài viết ( đã bị xóa ) của tờ báo „Quân Đội Nhân Dân„ viết về Chuẩn tướng Trần Quang Khôi:
„ Khoảng 5 ngày trước khi chế độ Sài Gòn sụp đổ, Trần Quang Khôi vẫn “thể hiện” với quân lính và cấp trên sự “can trường” của mình. Sáng 30-4-1975, khi thấy Biên Hòa đã không còn là mục tiêu bị tấn công bởi Quân Giải phóng đang tập trung tiến về Sài Gòn, trong “canh bạc” cuối, Trần Quang Khôi đã họp bàn với chỉ huy các đơn vị thuộc lực lượng xung kích Quân đoàn 3 để đi đến quyết định: Kéo toàn bộ lực lượng về tiếp cứu Sài Gòn. „
Huỳnh Minh Tú – tham khảo và biên tập từ nhiều nguồn:
Tiêu đề: Re: Quân Lực VNCH Tử Chiến Trong Giờ 25 Wed Apr 20, 2016 2:35 pm
Cuộc Chiến Đấu Bi Hùng của Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu
Đào Vũ Anh Hùng
LTS – Bài viết dưới đây đã được nữ xướng ngôn viên Liên Bích của đài phát thanh VBS, Dallas đọc trong buổi lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực 19-6-97 tại Arlington, Texas, gây xúc động toàn thể cử tọa.
Bài ca ly biệt của quân lực VNCH được diễn tả bằng những hành động ngoạn mục, những trận đánh ngoạn mục của người lính VNCH trong trận thư hùng với các binh đoàn cộng sản lần cuối, vào giờ phút hấp hối của miền Nam. Đó là những trận đánh cực cùng dũng cảm, bi thương, hùng tráng và tuyệt vọng, trước sự chứng kiến của hàng trăm ký giả, phóng viên ngoại quốc, những nhà ngoại giao, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu quân sử.
Đó là thiên anh hùng ca bất khuất của một quân lực trong suốt hơn hai mươi năm chống giữ và bảo vệ cái tiền đồn của thế giới tự do trước làn sóng xâm lăng cộng sản. Thiên anh hùng ca bất hủ đã được nhiều nhân chứng tôn vinh và ngưỡng phục. Sau cuộc tan hoang, miền Nam Việt Nam bị mất về tay cộng sản, nhiều người đã công khai nói lên lòng cảm phục cùng sự thương tiếc cho một quân lực hùng mạnh và quả cảm đã gánh chịu một kết thúc đau thương ngập tràn uất hận.
Ký giả Peter Kahn của đại nhật báo The Wall Street Journal, dưới cái tựa "Truy Điệu Nam Việt Nam", ngày 2-5-75, nghĩa là hai ngày sau khi Saigon sụp đổ, đã ngậm ngùi kết luận, "Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm và không phải họ luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ không có quốc gia nào có thể chịu đựng được một cuộc chiến dai dẳng và tàn khốc đến như vậy ... Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của mọi người!..."
David Halberstam, một ký giả Mỹ đầy thiên lệch khi nhận định về chiến tranh Việt Nam, nhưng khi chứng kiến sự sụp đổ của miền Nam, cũng phải phẫn nộ thú nhận trên tờ Newsweek, "Tất cả những sự thất bại lịch sử, và tất cả những sự hèn nhát tồi tệ của các nhà lãnh đạo Tây phương đều chồng chất lên lưng những người lính Nam Việt Nam. Thật là bất lương và bất công! Sự nhục nhã là của chúng ta chứ không phải là của quân đội VNCH!"
Hầu hết các phóng viên báo chí, các ký giả ngoại quốc trước đây từng công khai bênh vực và nghiêng hẳn về phe Việt cộng, đã phản tỉnh, đã sám hối khi chứng kiến sự kháng cự dũng mãnh, hào hùng và bi thảm của những đơn vị quân đội ở lại chiến đấu đến người lính cuối cùng, đến giọt máu cuối cùng. Pière Darcourt đã nồng nhiệt ca tụng lòng dũng cảm của quân lực VNCH ở Xuân Lộc, của một đơn vị Nhảy Dù ở Lăng Cha Cả, của anh em Biệt Kích 81 ở Bộ Tổng Tham Mưu và dành hẳn một đoạn dài mô tả cuộc chống trả hiên ngang của các sinh viên trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt trên các đường phố Saigon. Người ta đã nói rất nhiều đến những tấm gương tuẫn tiết của các vị tướng anh hùng, những cuộc tự sát tập thể của những người lính vô danh không chịu đầu hàng kẻ thù, nói đến những kỳ tích chiến đấu của những đơn vị quân lực miền Nam.
Một trong những trận đánh anh hùng ấy đã làm mủi lòng biết bao nhiêu người, đã gây xúc động biết bao nhiêu con tim. Những giòng nước mắt đã dàn dụa đổ xuống khi chứng kiến sự chống trả tuyệt vời và ngoạn mục, có thể nói trên thế giới, không một quân sử nước nào có được.
Đó là cuộc chống trả của các Thiếu Sinh Quân ở Vũng Tầu trong đêm 29 và gần trọn ngày 30-4-75, khi cộng quân xâm nhập và chiếm đóng các vị trí trọng yếu trong thị xã. Vũng Tàu coi như bỏ ngỏ và rơi vào tay cộng quân, ngoại trừ một cứ điểm duy nhất còn chống cự do những thiếu niên tuổi 12, 13 ... đến 17 tự lập phòng tuyến quyết tâm tử thủ. Cứ điểm đó là trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu và những chiến sĩ gan dạ anh hùng đó là những thiếu sinh măng trẻ của trường. Địch đã tung ra hai tiểu đoàn xung kích bao vây cứ điểm cuối cùng này nhưng chúng đã gặp phải một lực lượng vũ trang đáng kể hiên ngang đương đầu với chúng.
Cộng sản đã coi thường những chú lính sữa chưa bao giờ biết mùi trận mạc. Chúng bắc loa kêu gọi các em đầu hàng và buông lời dậm dọa. Tiếng loa vừa dứt, Việt cộng nhận được ngay một tràng đại liên thay cho câu trả lời, gọn gàng và cương quyết của gần 400 tay súng tí hon. Tiếp theo là hàng trăm mũi súng nhắm thẳng vào bọn Việt cộng bên ngoài, phẫn nộ nẩy cò. Vài tên bộ đội bị đốn ngã ngay trong loạt đạn đầu tiên. Bọn Việt cộng phải đứng khựng lại trước tinh thần quyết tử của 400 hậu duệ anh hùng Trần Quốc Toản. Chúng không dám tấn công ngay vì các em quá nhỏ và vì có sự hiện diện của đồng bào. Chúng lui ra xa tránh đạn, bắc loa ra lệnh các em phải đầu hàng đúng 9 giờ 30 sáng hôm sau, ngày 30 tháng Tư 1975.
Mặc Việt cộng kêu gọi và đe dọa, Thiếu Sinh Quân vẫn kiên trì tử thủ, khiêng chướng ngại vật làm tuyến phòng ngự, tổ chức giao liên, tiếp tế đạn dược, nước uống và lương khô, cứu thương và cứu hỏa. Anh lớn chỉ huy các em nhỏ, áp dụng tuyệt vời những bài học quân sự và kỹ thuật tác chiến đã được giảng dạy ở quân trường. Đúng 9 giờ 30 sáng ngày 30-4, cộng quân ra lệnh gọi đầu hàng lần chót nhưng các chiến sĩ tí hon vẫn kiên quyết kháng cự, trả lời chúng bằng những loạt đạn dữ dội hơn.
Việt cộng nổi cơn khát máu. Chúng khai hỏa, mở cuộc tấn công ào ạt mong giải quyết chiến trường nhanh chóng. Nhưng chúng phải lập tức dội ngược lại, không ngờ sức chống cự quá mãnh liệt và hỏa lực từ bên trong bắn ra vô cùng chính xác vào những cái bia sống - những cái bia người "sinh Bắc tử Nam"! Các em chưa bao giờ được bắn, nay đã bắn với tất cả căm thù, mong giành lại những gì sắp bị cướp mất.
Thiếu Sinh Quân có đầy đủ vũ khí cá nhân và vũ khí cộng đồng. Ngoài ra còn có lợi điểm là các công sự phòng thủ trong trường, vừa đánh vừa di chuyển, ẩn núp trong khi bộ đội cộng sản lớ ngớ như bầy chuột chù ra ngoài ánh sáng. Lại có những thanh thiếu niên và quân nhân vỡ ngũ từ bên ngoài, hào hứng và kích động, tìm cách lẻn vào tăng cường tay súng, nhập cuộc cùng các Thiếu Sinh Quân chiến đấu ngay trong sân trường hay đột kích, đánh bọc hậu bọn bộ đội khiến chúng nao núng và rối hoảng. Việt cộng bắn sập một khoảng tường nhưng không thể nào vượt qua lưới đạn của các chiến sĩ nhỏ tuổi mà can trường. Các em đã chiến đấu thật gan dạ, nhanh nhẹn, khôn ngoan, phối hợp nhịp nhàng và kỷ luật như những đơn vị tinh nhuệ, thiện chiến, nhà nghề. Đây là trận đánh thực sự đầu tiên mà cũng là trận đánh cuối cùng của các em còn dở dang khóa học. Trận đánh quyết tử đã đi vào lịch sử.
Các thiếu sinh quân chiến đấu không nao núng dù có nhiều em ngã gục. Những đứa con bé bỏng của quê hương đã chết trong giờ phút cuối cùng của miền Nam, khi tóc còn xanh, rất xanh, mộng đời chưa trọn. Đồng bào chứng kiến cảnh bi thương này đã oà lên khóc. Có những bà mẹ kêu gào, lăn xả vào cản ngăn, trì kéo ngọn súng bọn bộ đội để che chở cho những thiếu niên ở bên trong. Tiếng nổ, tiếng hò hét, tiếng kêu khóc, tiếng loa uy hiếp của Việt cộng đã tạo nên một không khí chiến trường lạ lùng chưa từng thấy… Các Thiếu Sinh Quân chiến đấu với tất cả nhiệt tình và sinh lực tuổi trẻ, hăng say, hào hứng như đang tham dự một trò chơi lớn.
Cuộc chống cự kéo dài đến 3 giờ chiều. Cho tới khi kho đạn dược đã cạn và kho lương bị bốc cháy, các Thiếu Sinh Quân mới bằng lòng cho Việt cộng thương thảo. Họ đòi hỏi Việt cộng chấp nhận một giờ ngưng bắn, sau đó sẽ buông súng và mở cổng.
Các em đã dùng một giờ ngưng bắn để thu dọn chiến trường, săn sóc đồng đội bị thương, gói liệm thi hài những vị tiểu anh hùng đã gục ngã và chuẩn bị làm lễ hạ kỳ. Họ không để cho bọn cộng sản làm nhục lá cờ vàng ba sọc đỏ, lá cờ biểu tượng thiêng liêng gói ủ hồn dân tộc mà họ đã thề nguyền phải thương yêu và bảo vệ.
Chừng hơn một trung đội Thiếu Sinh Quân đã tập họp trước sân cờ, đứng trang nghiêm và thành kính nhìn lên lá quốc kỳ còn nguyên vẹn màu tươi thắm bay phất phới trên nền mây ngọc bích. Hai Thiếu Sinh Quân lớp 12 là Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Văn Chung bước tới, đứng nghiêm trước kỳ đài theo lễ nghi quân cách, dơ tay chào. Họ từ từ nắm từng nấc dây, cho lá cờ hạ xuống thật chậm và từ tốn như cố kéo dài cái phút giây thiêng liêng cảm động đó, nước mắt chảy đầm đìa.
Tất cả Thiếu Sinh Quân từ trong các từng lầu, từ các hố cá nhân, các giao thông hào, sau những gốc cây, sau những bờ tường, trên mái nhà ... không ai bảo ai, đồng loạt đứng bật giậy, đồng thanh cất tiếng hát bài quốc ca. Gần 400 giọng hát hùng tráng cất lên, vang khắp sân trường. Bọn địch nghe, ngơ ngác không phản ứng. Tiếng hát phủ tràn trên tuyến địch, vang đến tận Bãi Dâu, đến tận Bến Đình ... Mọi người dân Vũng Tàu đều nghe và rúng động. Tiếng hát bay ra biển khơi, bay lên trời cao, âm thanh lồng lộng theo gió chiều, đất trời cũng ngẩn ngơ rớm lệ khi nghe tiếng hát.
Các Thiếu Sinh Quân đã làm lễ mai táng đất nước, đã trang nghiêm rửa sạch tấm bia danh dự của quân đội Cộng hòa, đã vuốt mắt cho Mẹ Việt Nam yên nghỉ qua lễ hạ kỳ lần cuối. Họ hát bằng tiếng nấc thê lương và phẫn uất từ sâu thẳm trái tim, nước mắt chảy ra ràn rụa, nghẹn ngào. Đồng bào cũng thổn thức hát theo và thương tủi khóc theo.
Thời gian ngưng đọng lại trong giờ khắc thiêng liêng, bi thảm, xúc động và lẫm liệt đó. Cho đến bây giờ, hàng chục năm sau, nhiều người vẫn còn nghe văng vẳng trong sâu thẳm buồng tim thắt nghẹn, tiếng bi thương hùng tráng của các em Thiếu Sinh Quân hát bài Quốc ca trên đất nước lần cuối cùng, trong ngày cuối cùng của tháng Tư đen, ngày oan khiên định mệnh của dân tộc Việt.
Đào Vũ Anh Hùng
.
NHViet
Posts : 595 Join date : 23/08/2012
Tiêu đề: Re: Quân Lực VNCH Tử Chiến Trong Giờ 25 Mon Apr 25, 2016 5:34 pm
Trận Đánh Quyết Tử trên Cầu Saigon 30-4-1975
Phim tài liệu về những ngày cuối tháng 4/1975: Những chiến sĩ hào hùng và những người dân tự vệ nhất quyết đánh giặc cộng đến cùng. Những cảnh người dân lũ lượt chạy giặc, không muốn sống với lũ mọi của "thiên đàng" cộng sản.
.
NTcalman
Posts : 614 Join date : 13/03/2012
Tiêu đề: Re: Quân Lực VNCH Tử Chiến Trong Giờ 25 Wed Apr 17, 2019 1:40 pm
.
Người Chiến Sĩ VNCH Ngày Cuối Cùng Của Cuộc Chiến
Anh hùng tử khí hùng bất tử…
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn Cờ còn nước đánh phải đành thua (*) Vào ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi mà mọi giới đều hiểu rằng không còn gì có thể cứu vãn được nữa thì người chiến sĩ VNCH vẫn chiến đấu dũng cảm. Những tài liệu sau đây cho chúng ta khẳng định như thế:
1/ Tài liệu của Không Lực Hoa Kỳ – chương trình di tản “Frequent Wind” có viết rằng: Trong khi phi trường bị tấn công thì 2 chiếc Al (Skyraider chiến đấu có cánh quạt của Không lực VNCH) đã bay lượn trên không phận Saigon để truy lùng các vị trí pháo kích của địch. Một trong hai chiếc bị hỏa tiễn SA-7 bắn hạ.
Trong khi đó, nhiều người đã không e sợ, đổ xô ra ngoài để nhìn một chiếc phi cơ “Rồng lửa” AC-119 đang nhào lộn và xả súng (đại liên 6 nòng Gatling) bắn một vị trí của bộ đội Bắc Việt ở ngay gần cuối hướng đông Tân Sơn Nhất. Vào khoảng 7 giờ sáng 29/4, chiếc phi cơ anh dũng của VNCH đã bị trúng hỏa tiễn SA-7 của địch và bốc cháy rồi đâm nhào xuống mặt đất.
Trong một bức thư của một phi công VNCH gửi cho Clyde Bay ở Trung Tâm Di Tản Nha Trang, kể lại chuyện những phi công của Không Lực VNCH vào sáng ngày 29 tháng 4, vẫn tiếp tục thực hiện các phi vụ tấn công vào các đoàn xe tăng địch, khi chúng tiến về phía thủ đô Saigon. Theo lời của Trung Úy Coleman “ít nhất những người này đã là những chiến sĩ đã chiến đấu một cách anh dũng và hi sinh đến giọt máu cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp, trong một trận chiến biết chắc là thua, nhưng vẫn sẵn sàng hi sinh”.
2/ Tài liệu trích trong cuốn Việt Nam và Chiến Lược Domino của Bạch Long (từ trang 312 đến 314) Nhưng sự bất ngờ cho Cộng sản đã xảy ra ngay tại cửa ngõ vào Saigon. Khoảng gần một ngàn chiến sĩ của Chiến đoàn 3 Biệt Kích Dù và một số biệt kích, Nhảy Dù và quân nhân khác, có nhiệm vụ bảo vệ bộ Tổng Tham Mưu từ ngày 26 tháng 4, đã sẵn sàng chờ “đón” quân Cộng sản. Trong ngày 29 tháng 4, tướng Lâm Văn Phát đã có can đảm đứng ra nhận chức tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô với mục đích cầm quân chiến đấu bảo vệ Saigon. Tướng Phát đã ra lệnh cho các cánh quân Nhảy dù, Biệt Cách, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến… phải ngăn chận quân Cộng Sản kéo vào Saigon từ hai ngả Ngả tư Bảy Hiền và Hàng Xanh… Tướng Phát kể lại rằng ông chỉ còn vỏn vẹn 60 xe tăng M-41 và M-48 với những đơn vị lẻ tẻ để đối đầu với 16 sư đoàn Bắc Việt và 3 sư đoàn Việt Cộng với hàng ngàn xe tăng, đại pháo và tấn công từ hai ngả vào Saigon.
Nhưng dù ở trong tình thế tuyệt vọng như vậy, tướng Phát và những người đầu hàng. Họ vẫn phải chiến đấu đến cùng! (Cần phải nói rằng các đơn vị lớn Thủy Quân Lục Chiến cực kỳ anh dũng và đã bị tan rã gần hết trước ngày 30 tháng 4, ở vùng Một và vùng Hai, và trong những trận rút bỏ khác.) Những người lính chiến đấu này không có… radio! Họ không cần biết rằng quân Cộng sản đang thắng thế. Họ không cần biết tổng thống tạm thời Dương Văn Minh đang sửa soạn đầu hàng, dâng miền Nam cho Cộng sản. Họ không cần biết rằng tình hình đã hoàn toàn tuyệt vọng, không còn một chút hi vọng ngăn chân quân đội Bắc Việt. Họ chỉ biết chiến đấu chống Cộng và tiêu diệt quân Cộng sản, và hình như họ chưa bao giờ có tư tưởng bỏ chạy hay đầu hàng! Họ hờm súng đợi quân thù Cộng sản và sẵn sàng nhả đạn. Các xe tăng Cộng sản hứng những loạt đạn đầu tiên và bất ngờ. Trong thành phố đang hỗn loạn tinh thần, tiếng đạn nổ như mưa bão xen lẫn với tiếng súng lớn, đã làm cho sự hỗn loạn gia tăng.
Trong thời gian thật ngắn khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, 17 xe tăng Cộng sản bị trúng đạn cháy đen nằm rải rác từ Ngả tư Bảy Hiền đến cổng trại Phi Long và đến đường Cách Mạng… Pháo tháp xe tăng T-55 bằng thép dầy 12 inches (30 phân tây) bị bắn thủng như bằng… bột, chứ không phải bằng thép! Lỗ đạn không lớn lắm. Hình như vào giờ chót người Mỹ viện trợ cho một loại súng bắn xe tăng đặc biệt, loại 106 ly (?), để bắn xe tăng. Đạn xuyên phá qua thép dầy nhất và lực cản của thép đã làm cho nhiệt độ gia tăng tới gần 3000 độ C, nướng chín quân lính Cộng sản ở trong xe tăng.
Cánh quân Cộng Sản từ Long Khánh kéo về Saigon qua Hàng Xanh, Thị Nghè bọc xuống trước Sở Thú để tiến vào dinh Độc Lập thì bị quân Nhẩy Dù án ngữ. Quân Nhẩy Dù bị dồn về bảo vệ vòng đai Saigon. Họ không còn việc gì khác hơn là chiến đấu đến cùng từ đường vòng đai xa lộ Đại Hàn đến ngã tư Hàng Sanh về đến đại lộ Thống Nhất, nhà thờ Đức Bà. Hầu như những cánh quân Cộng sản đầu tiên tiến vào Saigon theo ngả này đều bị Nhảy Dù tiêu tiệt hết. Tổng cộng trong khoảng từ 7 giờ sáng đến 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, hơn 20,000 quân Bắc Việt, 32 xe tăng và gần 30 quân xa (Molotova) chở đầy lính Cộng Sản bị bắn cháy, chết hết, trong phạm vi thành phố Saigon. Tất cả hai cánh quân Việt cộng đều khựng lại.
Bộ chỉ huy Cộng sản cuống cuồng vội giục Dương Văn Minh phải đích thân ra lệnh cho tướng Lâm Văn Phát, thiếu tá Tài để ra lệnh cho Biệt Cách Dù và quân Nhảy Dù ngưng chiến đấu. Tất cả những người lính chiến đấu can trường nhất của VNCH lúc đó mới hiểu rằng miền Nam đã bị kẹt vào cái thế phải thua. Họ ném bỏ súng đạn trút bỏ quần áo trận và lẫn lộn vào dân chúng, tìm đường về nhà.
Một câu chuyện khác do tướng Lâm Văn Phát kể lại là sau khi Dương Văn Minh điện thoại cho ông phải ra lệnh ngưng bắn thì ông xuống dưới nhà. Dưới chân cầu thang, một người Quân Cảnh đã đứng nghiêm chào ông và nói: “Vĩnh biệt thiếu tướng”, rồi rút súng bắn vào đầu tự tử.
Khi vị tư lệnh cuối cùng của Biệt Khu Thủ Đô đến Tổng Tham Mưu thì thấy chung quanh cột cờ lớn có khoảng hơn 300 binh sĩ Biệt Cách và sĩ quan chỉ huy họ đang đứng thành vòng tròn và hờm súng vào… lưng nhau, sẵn sàng nhả đạn tự tử tập thể. Tướng Phát phải nói với họ trong nước mắt rằng quân đội VNCH đứng vững cho đến giờ chót là nhờ tinh thần kỷ luật. Vậy lúc này đã có lệnh buông súng thì anh em ai về nhà nấy mà lo cho gia đình. Tự tử không có ích lợi gì cho mình cả. Các quân nhân nghe lời, chỉ có một vài sĩ quan trẻ tuổi đã tự tử. Đến 1 giờ trưa, tướng Phát bàn giao Biệt Khu Thủ Đô cho tướng Việt Cộng Ba Hồng. Sau đó tướng Ba Hồng mời tướng Phát đến Tổng Tham Mưu. Tại đây, khoảng 500 chiến xa T. 55 của Cộng quân nằm kín chung quanh cột cờ. Đáng lẽ những chiến xa này đã đi thẳng sang Tây Ninh theo đường vòng đai Saigon. Nhưng sự đầu hàng của Dương Văn Minh đã thay đổi hết kế hoạch tiến đánh Thái Lan của Cộng sản (tướng Lâm Văn Phát đã từ trần trong tuổi già tại Santa Ana, California ngày 30 tháng 10, 1998).
Nhưng hai trận đánh trên đây cũng chưa phải là trận đánh cuối cùng trong ngày 30 tháng 4. Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu đã chiến đấu mãnh liệt từ trong khuôn viên trường cho đến khoảng 2 giờ trưa. Lúc này, Cộng Sản đã cầm chắc cái thắng trong tay nên chúng không muốn chết thêm nữa. Chúng ngưng bắn và điều đình với các em. Các em đòi chúng phải ngưng bắn và rút ra xa để các em tự giải tán. Khoảng ba giờ chiều, các em hát bài quốc ca, làm lễ hạ cờ. Xong rồi bỏ đồng phục, mặc quần áo thường và từ từ ra khỏi trại, nước mắt ràn rụa trên má…
3/ Tài liệu: báo Wall Street Journal số ngày 2 tháng 5 năm 1975, bài bình luận của ký giả Peter Kahn, từng đoạt giải Pulitzer, có tựa đề “Truy Điệu Nam Việt Nam”. Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậy… Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc.
Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ. Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương. Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta.
"Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn”
4/ Tài liệu của ký giả người Pháp Jean Larteguy, đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng ở Saigon ngày 29 và 30 tháng 4-75. Thứ Hai 28/4/75 Saigon sáng nay yên tĩnh. Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong những khu vườn. Họ không buồn rầu và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một một thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau và liệng cho nhau những chai Coca Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu này. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon. “Và những binh sĩ tuyệt vời này vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao? Ông trả lời: “Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người lính cuối cùng chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.
Sau khi Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Larteguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị VNCH tại Saigon, và ghi lại như sau: “Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan này khuyên họ nên ngưng chiến đấu. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết.” Larteguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa. “… Và trong những bộ đồng phục mới, giầy chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Họ ra đi thật hào hùng, đi như diễn binh, chỉ thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng.”
Một đồng nghiệp của Larteguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan: “Các anh có biết là sắp bị giết chết không?” Một thiếu úy trả lời: “Chúng tôi biết chứ!” Vì sao? – Tại vì chúng tôi không chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng Sản! “…Các xe tăng đầu tiên của Cộng sản vào Saigon từ phía đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòa… Bộ binh thì tiến từ phía Bến Cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn này chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiều.
Từ ngày hôm trước các đơn vị cộng quân này đã bị chận tại gần Hóc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của Sư Đoàn Dù trấn giữ dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh,
sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị Cộng quân bị thiệt hại nhiều. Sau đó chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon. Một lần trước trụ sở Cảnh sát Công Lộ, nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng Cộng sản đề bẹp. Lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính Dù võ trang đại liên và Bazzoka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát. “Đến chiều tối 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đêm để rút về đồng bằng…” Darcourt cho biết đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.