Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon

Diễn Đàn của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  GalleryGallery  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Keywords
sáng nguyet quang bich chất phải hoang quynh Saigon ngam truyện không chuyen Trung VNCH linh quan Chung chẳng Nguyen nhac Nhung thuoc trong ngắn quốc
Latest topics
» "Chinh Phụ Ngâm & Vườn hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng"
Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeThu Apr 04, 2024 12:38 am by Admin

» "Chinh Phụ Ngâm & Vườn hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng"
Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeThu Apr 04, 2024 12:09 am by Admin

» "Chinh Phụ Ngâm & Vườn hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng"
Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeThu Apr 04, 2024 12:09 am by Admin

» qua đi thôi bão nổi
Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeSat Mar 11, 2023 3:11 am by Admin

» Cụ Hoang Xuân Hãn
Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeSun May 08, 2022 10:37 pm by Admin

» Giáo dục VNCH - Giáo dục con đường khai phóng
Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeMon Jan 10, 2022 4:06 am by Admin

» Suy tư về kiếp người - Về Cùng Cát Bụi
Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeSun Jan 09, 2022 4:25 am by Admin

» AI ĐÃ HẠ GỤC CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN?
Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeSat Jan 08, 2022 2:41 am by Admin

» NHẠC THIỀN - Cõi Thiền trong Âm Nhạc
Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeThu Jan 06, 2022 4:11 am by Admin

May 2024
MonTueWedThuFriSatSun
  12345
6789101112
13141516171819
20212223242526
2728293031  
CalendarCalendar
Affiliates
free forum

Affiliates
free forum


 

 Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng”

Go down 
3 posters
Tác giảThông điệp
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Empty
Bài gửiTiêu đề: Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng”   Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeWed Jan 02, 2013 11:52 pm

.


BỆNH UNG THƯ MẮT… Cao Xuân Huy Mỉm Cười Nơi Chín Suối

Phila Tô


Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” 9k=

Người lính già “Tháng Ba Gẫy Súng” đã đi xa, mi đã khép lại vĩnh viễn vì bệnh ung thư mắt, nhưng tiếng cừơi khề khà bên bàn cafe, nhừa nhựa bên ly bia và cái giọng ngọng nghịu của ông “đại tá hưu” trong “Thư Saigòn” vẫn còn đây. Bạn bè vẫn nhớ đến anh, nhớ chỉ để mà nhớ đến một người lính sống có tình, chiến đấu hết mình bên đồng đội, nhưng ngừơi thân của anh, những đứa con nhớ đến bố thì lại tiếp tục công việc của bố còn dở dang, làm những việc thật nhỏ để hy vọng có kết quả thật to lớn. Kết quả không phải để giúp bố quay lại với con, mà kết quả ấy nếu thành công thì sẽ giúp những bệnh nhân như bố có cơ may đựơc qua khỏi chứng bệnh quái ác, quái ác như tử thần rình rập và bất ngờ đột nhập vào bất cứ ai.

Cháu Xuân Dung đã tình nguyện tham gia cuộc chạy việt dã để gây quý giúp tổ chức OMF sớm tìm ra liệu thuồc trị bệnh công hiệu. Xin quý độc giả nghe cháu Xuân Dung, con gái Cao Xuân Huy, tâm sự với Bố:

***

Bố Yêu Quý.

Con dự cuộc chạy bộ này cho bố. Con chạy cho bố vì sự chịu đựng, quyết tâm, và nhất là nỗi đau đớn (của cuộc chạy đường dài này) nhắc con nhớ lại sức mạnh và ý chí của bố khi phải đối diện với một điều kinh khủng và hoàn toàn mù mờ lúc đó. Lời chẩn đoán của bác sĩ là một cú shock cho bố và con, vì mình hoàn toàn không biết mức độ của nó như thế nào. “Choroidal Melanoma” là hàng chữ mình đọc trong kết quả thử máu, nhưng bố và con, mình chỉ biết hỏi nhau và tự hỏi “Ung thư mắt?” “Dữ vậy sao?” . Chúng ta chẳng biết gì hết, Bố ơi, bố cũng chẳng biết bệnh tình mình thế nào hết.

Con ước gì lúc đó mình biết nhiều hơn thế, con ước gì lúc đó bố có nhiều cách chữa trị để lựa chọn, con ước gì lúc đó có cách chữa bệnh cho bố…
Vì vậy, cuộc chạy này của con là để cho bố. Con chạy cuộc đua này để ủng hộ cho tổ chức đang nỗ lực tìm ra cách chữa trị căn bệnh đó.
Con biết là bố sẽ hãnh diện khi biết con bố làm chuyện này. Mỗi ngày con tìm thấy phấn khởi và động lực trong cuộc sống từ bố và cuộc đời bố đã sống. Con biết là bố lúc nào cũng bên con, và con biết là  bố sẽ có mặt ở đó khi con vượt đích đến của cuộc đua,

Con yêu bố


***

Sau khi thưa chuyện với bố xong thì cháu Bé mới nhận ra đoạn đường chạy đua này xa quá xa, chí mong chạy đều bước, nhưng sức “e không kham nổi đoạn đường dài” nên cháu Bé đành thưa chuyện với những ngừơi thân trong gia đình để tiếp sức cho cháu sao cho về đến mức cuộc chạy marathon mà không quan tâm tới thứ hạng. Mục tiêu xa hơn cao hơn, lý tưởng hơn đó là nhờ sự tiếp sức mà cháu có thể lạc quan nghĩ đến sự thành công, tìm ra liều thuốc hữu hiệu để trừ căn bệnh quái ác cho tha nhân. Thư của cháu như sau:


Thưa Các Bác, Các Chú:

Như nhiều bác, nhiều chú đã biết, hồi tháng Hai 2005 bố cháu được bác sĩ cho biết ông bị mắc chứng ung thư Choroidal Melanoma và tháng Mười Một năm 2010 thì bố cháu mất khi khối ung thư di căn phá nát gan ông. Khi ung thư chạy xuống gan thì bố cháu có rất ít lựa chọn. Ông chỉ có thể chọn, hoặc theo 1 cách hoá trị hầu như đã bị coi là vô hiệu quả, hoặc tham dự một cuộc khảo cứu của các bác sĩ chuyên khoa ung thư ở Viện Đại học UCLA thí nghiệm một loại thuốc mới cho các bệnh nhân bị ung thư  Metastatic Uveal Melanoma. Bố cháu đã quyết định chọn cách chữa thí nghiệm này.

Khi bố cháu chọn cách chữa trị có hy vọng có thể cứu được mạng mình, và nếu thành công, sẽ cứu mạng được biết bao nhiêu người nữa, cả nhà cháu đã dấy lên niềm hy vọng. (Một trong những điều quan trọng nhất  mà cháu và gia đình học được từ kinh nghiệm này là chúng ta cần có hy vọng, cần có nhiều  hy vọng, khi đương đầu với một thứ đáng sợ và độc địa như bệnh ung thư!) Thế nhưng không may, loại thuốc mới này không thành công trong trường hợp của bố cháu, và 8 tháng sau khi biết tin ung thư đã di căn xuống gan, cháu mất bố!

Với cháu và gia đình, chuyện bị mất vĩnh viễn người bố thân yêu là điều khủng khiếp không thể nào diễn tả nổi, và như các bác, các chú chắc cũng hiểu được, hoàn toàn thay đổi cuộc đời cháu.
Giờ đây, sau khi có thời gian để nguôi ngoai niềm đau mất bố, cháu nhất quyết dấn thân để đóng góp vào việc giúp đỡ những người đang trải qua những gì bố cháu đã phải chịu đựng, bằng cách giúp  tổ chức Ocular Melanoma Foundation (OMF) gây quỹ tài trợ các cuộc khảo cứu nhằm tìm ra phương thức điều trị tốt hơn và hy vọng có được cách chữa được chứng ung thư này.

Cháu sẽ dự cuộc chạy Việt dã Surf City Half Marathon vào ngày 3 tháng Hai 2013 để tưởng niệm bố cháu, và để gây quỹ giúp tổ chức Ocular Melanoma Foundation, là nơi mà cháu đã từng nhờ cậy nhiều lần trong suốt thời gian bố cháu mang bệnh. Đây là lần chạy thứ nhì của cháu, và cháu đang cố sức tập luyện ráo riết hơn nữa vì biết rằng có nhiều người ủng hộ cháu.
Mọi sự đóng góp dù nhiều hay ít của các bác, các chú đều rất được trân trọng và sẽ giúp cháu đạt được muc tiêu tự đặt ra là gây được $1,500 cho OMF.

Các bác, các chú không thể biết được rằng tất cả những gì các bác các chú đã chia sẻ, nâng đỡ cháu trong suốt thời gian khó khăn nhất của đời mình vừa qua có ý nghĩa thâm sâu đến độ nào, và cháu không thể nào có đủ lời, đủ cách để bày tỏ hết tấm lòng biết ơn các bác, các chú.
Cháu xin được chân thành tạ ơn về tất cả những gì mà mọi người đã làm cho cháu và gia đình, cháu cũng xin cám ơn nếu được các bác, các chú hỗ trợ cho một việc làm có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với cháu như thế này,

Nếu các bác, các chú có lòng ủng hộ cho cháu, xin vào địa chỉ này .


(xxxxx@yahoo.com)(địa chỉ này cháu gửi cho người thân nên tôi xin cất đi).

***

Mặc dù thư của cháu Bé chỉ gửi cho những ngừơi thân thuộc trong gia đình, nhưng chú Hùng, một đồng đội của Huy, từ Úc Châu sang thăm Huy, ở bên cạnh Huy và khi Xuân Huy gẫy súng lần thứ 2 thì lo hậu sự cho Huy, nên chú Hùng đã nhận ra lý tưởng cao đẹp của cô cháu gái, cháu biết nghĩ đến tha nhân thì mục tiêu của cháu không thể chỉ gói gọn trong tình thân mà phải vượt ra xa hơn.

Không ai hiểu cháu Bé hơn chú Hùng, chính tay chú đã cầm “tông-đơ” vừa ứa nước mắt vừa hớt trọc đầu đứa con gái cưng, theo nguyện vọng của con để tặng mái tóc dài óng mựơt cho những thiếu nữ chữa bệnh bằng phương pháp “ki-mô” và cháu mang “đầu trọc” cùng bạn bè xuống phố để chia sẻ nổi buồn với người rụng tóc đồng thời gây quỹ cho hội ung thư. Giọt nứơc mắt trước đây hãnh diện vì con đã hy sinh mái tóc cho ngừơi mắc bệnh nan y thì nay chú Hùng hãnh diện vì cháu Bé quyết tâm chọn mục tiêu cao cả. Mặc dù cháu không yêu cầu, nhưng chú Hùng vẫn gửi thư đến đồng đội của Cọp Biển Cao Xuân Huy, thơ rằng:

***

Thưa Huynh Đệ Cọp Biển,

Tháng 11 năm 2010, người anh em của chúng ta, Cao Xuân Huy, qua đời vì chứng ung thư mắt. Anh để lại vợ và 2 con. Cháu gái thứ nhì (Xuân Dung, Beatrice, tự là  Bé) hiện đang là một cố vấn tâm lý giáo dục cho học sinh Trung học ở California . Bé đã ở bên cạnh bố suốt thời gian điều trị cho đến ngày cuối.

Chứng ung thư mắt mà Huy mắc phải, tuy không hiếm, nhưng ở nơi Huy, là chuyện bất trị (vì di căn xuống gan, và khi đã chạy sang nơi khác, chỉ 15% có thể sống thêm được trong vòng 5 năm kể từ ngày biết có bệnh). BS Ngô Thế Vinh đã giải thích về chứng ung thư mắt nơi Huy sau khi Huy ra đi.
Cho đến giờ này y khoa vẫn chưa có cách gì chữa trị chứng ung thư mắt, như Huy đã gặp. Và tổ chức Ocular Melanoma Foundation vẫn tiếp tục nghiên cứu hy vọng có thể một ngày tìm ra phương thức chữa trị một cách hiệu quả chứng bệnh quái ác hàng năm cướp đi bao mạng sống.
Từ khi biết bố bị chứng Ocular Melanoma, cho đến lúc bố mất, Bé đã thường xuyên liên lạc với Ocular Melanoma Foundation để hỏi thăm, tìm hiểu về chứng bệnh này, cũng như đã nhờ sự gíup đỡ của OMF trong việc tìm kiếm cách thức điều trị cho bố.

Vì thế, để bày tỏ lòng nhớ thương bố một cách cụ thể và có ý nghĩa, cũng vì biết ơn tổ chức OMF, Bé quyết định dự cuộc chạy bán Việt dã Surf City Half Marathon  gây quỹ cho OMF vào ngày 3 tháng Hai, năm 2013.
Chạy một đoạn đường 21 cây số chắc chắn không phải là chuyện ai cũng làm được. Bé biết là để có thể hoàn tất cuộc đua, cháu cần phải có thể lực và sức chịu đựng dẻo dai. Nhưng cháu nhất quyết phải làm bằng được, chỉ vì muốn có một chút đóng góp cụ thể cho tổ chức mà cháu và bố cháu đã mang ơn. Và nhất là  vì Bé muốn chia sẻ nỗi đau đớn và chịu đựng của bố cháu suốt thời gian đau đớn vì bệnh. Bé đã ráo riết tập luyện bấy lâu nay và đang chờ đến ngày đó.

Bé viết thư cho bạn bè, thân hữu trong vòng gia đình thân thuộc báo tin cháu sẽ làm việc này để nhớ đến bố.
Cháu không hề nhờ tôi chuyển thư này đến các bác các chú trong gia đình TQLC của bố, nhưng tôi tự nhận bổn phận gửi đến quý NT và các CH của Cao Xuân Huy, những người mà Huy luôn coi là một phần đời không thể phân ly của mình, với ước mong các bác, các chú của Bé cùng chia sẻ với cháu, lòng thương yêu và tưởng nhớ đến người bạn, người anh em của mình.

(Ó Biển Như Hùng)

***

Nếu cuộc đời bằng phẳng cả thì nào dễ biết ai hơn ai? Nếu sáng vác ô đi, tối vác về, sáng lên xe chiều xuống ngựa đã có cơm ngon canh ngọt bên vợ đẹp con khôn chờ sẵn thì sao hiểu đựơc tình người đồng sở đồng đơn vị. Nhưng “Tháng Ba Gẫy Súng” Cao Xuân Huy thì có những ngừơi anh, người em cùng súng gẫy như Huy, cùng sống thác bên nhau trong những ngày cuối Tháng Ba năm ấy.

Sáng dậy, họ chia nhau nắp nước bi đông
Giữa đại dương mênh mông.
Trên bãi cát Thuận An, bên bờ biển Đông mà chết khát
Trưa hôm ấy, hết đạn, họ chia nhau những viên cuối cùng

Và đêm hôm ấy họ nằm trên bãi cát ngó đèn “kéo quân” của tàu thuyền ngoài biển khơi, ngó trăng sao trên trời cao mà lòng cùng ngao ngán.
Bãi cát mênh mông, đại dương mênh mông và trời cao mênh mông nhưng Cao Xuân Huy cùng đồng đội thì mang nỗi buồn mênh mông,
Chôn chân tại chỗ, móc túi tìm đạn thì chỉ thấy những viên bi.
Bắn súng bằng miệng đế át tiếng AK
Sáng hôm sau họ lại chia nhau…, không phải hớp nứơc, bịch gạo xấy mà là trái “mãng cầu gài” M26!
Một trái không đủ chia nhau,
Ai may mắn banh xác nằm lại trên cát rồi đi vào lòng đaị dương
Ai không may thoát chết thì tử thần đến bắt cho tay vào còng!

Cao Xuân Huy có những đồng đội như thế, cháu Bé có những chú bác như thế thì chuyện có những đứa con cháu biết nghĩ đến tha nhân không có chi lạ. Chỉ lạ khi không nhận ra nghĩa cử của thế hệ thứ hai. Vì vậy sau khi chú Hùng loan tin nghĩa cử cùa cháu Xuân Dung, con gái Xuân Huy, thì những đồng đội của Bố Huy đã tiếp sức cho cháu vượt qua đoạn đừơng chiến binh, vựợt gấp đôi chỉ tiêu mà cháu tự đặt ra trong thời gian ng
n nhất.

Những đứa con ngoan và có hiếu thì không có cha chú thiếu bổn phận.
Cám ơn các chú các bác, cám ơn cháu Bé Xuân Dung
TQLC Cao Xuân Huy đang mỉm cừơi nơi chín suối.

Phila Tô
(T.Vấn 2012)

.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Empty
Bài gửiTiêu đề: Cao Xuân Huy và “Tháng Ba gãy súng”   Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeThu Jan 03, 2013 5:41 pm

Cao Xuân Huy và “Tháng Ba gãy súng”

Mặc Lâm, phóng viên RFA
2010-05-02

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Vietnam-war-1966-305
Chiến trường Việt Nam ngày 16 tháng 5 năm 1966

Tác phẩm “Tháng Ba gãy súng” của tác giả Cao Xuân Huy đã tái bản được 10 lần và chính tác giả cũng bất ngờ với kết quả này. Trong không khí của những ngày cuối tháng Tư, mời quý vị nghe lại một câu chuyện mà bất cứ người dân Việt Nam nào khi nghĩ đến cũng đều xót xa trong lòng cách này hay cách khác.


Gãy súng chứ không buông súng


Cuộc chiến dù đã qua đi nhưng những hình ảnh bạo tàn của nó không dễ gì phai nhòa trong lòng nhiều người, đặc biệt đối với những ai trực tiếp chịu những va đập vào những giây phút cuối cùng trước khi lịch sử Việt Nam lật sang một trang mới.

Cao Xuân Huy: Tôi viết vào khoảng giữa nữa cuối năm 84, lúc mà mới vượt biên qua chừng độ năm bảy tháng gì đó. Bắt đầu viết thì nhà văn Nguyễn Mộng Giác ổng đăng trên tờ báo hàng tuần ở đây, vừa viết xong thì cũng vừa đăng xong rồi thì in luôn thôi, in vào khoảng 85 ông ạ.

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Image

Các chiến sĩ VNCH trong một buổi tập trận. Photo courtesy of history.army.mil.

Cao Xuân Huy vừa cho chúng ta biết hoàn cảnh ra đời của “Tháng Ba gãy súng”. Một hoàn cảnh khá bất ngờ đối với hành trình đầy thử thách của một nhà văn, khởi đầu một cách tình cờ và kéo dài vài chục năm sau đó chỉ với sức mạnh thôi thúc nói lên một sự thật, sự thật mà nhiều người muốn biết về cuộc chiến này.

Cao Xuân Huy: Thật sự khi mà cầm bút viết tôi chỉ vì một điều ấm ức rằng là một ông tướng cũ của mình ổng tuyên bố rằng "để mất nước (là) tội chung mọi người, lớn tội lớn, bé tội bé" thì tôi không đồng ý điều đó, tại vì chúng tôi đánh nhau đến viên đạn cuối cùng rồi bị bắt thì không phải là chúng tôi có tội. Tôi tức quá về điều đó, tôi viết ra, mà viết nửa chừng rồi thôi, thế rồi vì ở chung nhà với Nguyễn Mộng Giác, ổng lấy ổng đem đăng, xong rồi hết thì ổng thúc, cứ hết thì ổng thúc, hết thì thúc, thì cứ thế mà viết thôi. Đó là cái khởi đầu của quyển sách.

Còn sinh hoạt về văn chương, những lúc đó thì tôi không có dính tới văn chương, anh ạ. Mãi về sau này, sau khi quyển sách ra xong rồi người ta gọi tôi là nhà văn, xong rồi lại ở chung với ông Giác, với lại Hoàng Khởi Phong, cùng với nhau làm tờ Văn Học. Thế rồi cuối cùng tôi làm tổng thơ ký tờ báo Văn Học, xong rồi cuối cùng mấy năm sau này thì ông Giác giao luôn tờ Văn Học cho tôi và tôi làm chủ biên luôn. Đến bây giờ thì tờ tạp chí Văn Học đã tạm đóng cửa rồi vì lý do sức khỏe của tôi.


Cao Xuân Huy thú nhận ông không phải là nhà văn ngay từ trang đầu của “Tháng Ba gãy súng”, ông viết chỉ vì khao khát và bị thúc đẩy nhằm phản biện lại lời tuyên bố của một ông tướng.

Trong lời tựa ông viết: "Quyển sách này không hề là tiểu thuyết mà là một hồi ký, bởi vì tôi chưa từng là một người cầm bút và tôi cũng không biết cách sắp xếp câu chuyện như thế nào. "Tháng Ba"thì mọi người đã rõ, còn "gãy súng" - tôi muốn nói lên một điều đau lòng cho những thằng lính cầm súng, khẩu súng mà không có đạn thì giá trị không bằng một khúc cũi mục.

Chính tôi đã dẫn đại đội xung phong lên chiếm mục tiêu mà chỉ bắn bằng mồm. Súng của chúng tôi có phải đã bị bẻ gãy không, khi mà vẫn có thể tiếp tế đạn cho chúng tôi để chúng tôi chiến đâu? Ai đã bẻ gãy súng của chúng tôi?

Tôi đặt chữ "gãy súng" cho quyển sách là như vậy. Tôi gọi "Tháng Ba gãy súng" là hồi ký vì tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm về những điều tôi viết. Tất cả những địa danh, những tên người, tên đơn vị, tất cả những diễn tiến đều là thật, thật một trăm phần trăm. Tôi không lồng vào đấy bất cứ một hư cấu nhỏ nào. Chắc chắn là tôi đã quên khá nhiều chi tiết. Và với cấp bậc và chức vụ thấp kém của tôi, chắc chắn là có rất nhiều dữ kiện mà tôi đã không được biết."


Hồi ký chứ không phải tiểu thuyết


Tác giả xác nhận không hề có một chút hư cấu nào được ông mang vào tác phẩm. Ông thuật lại những sự việc xảy ra cho ông và đồng đội với tất cả những chi tiết nhỏ nhất. Trong những hoàn cảnh gần kề với cái chết được ông viết lại sinh động đến nỗi khá nhiều độc giả cứ nghĩ đây là những trang tiểu thuyết chiến tranh. Trong một đoạn cuối của lời tựa, ông xác nhận: "Tôi viết lại hoàn toàn sự thật những điều mắt thấy, tai nghe, những điều tôi đã nhận lệnh và đã thi hành.

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Image

Hình bìa sách "Tháng Ba Gãy Súng"

Nếu "Tháng Ba gãy súng" là tiểu thuyết thì tôi lại phải thêm một câu màu mè đại khái "những nhân vật và những sự việc đều do sự tưởng tượng của tác giả, mọi sự trùng hợp chỉ là ngẫu nhiên ngoài ý muốn...", trong khi tôi chỉ có một điều ngoài ý muốn là tôi đã không đủ khả năng để viết tất cả những điều tôi phải viết."

Cao Xuân Huy: Không có một hư cấu nào hết, tức là tôi nhớ đến đâu tôi viết đến đó, vì nó là hồi ký thành thử ra không có hư cấu. Và nhân vật trong đó là nhân vật thật hết. Một số nhân vật trong đó hiện giờ còn đang sống ở Mỹ này.

Nơi trang 89, Cao Xuân Huy kể lại một trận đánh được xem là bị buộc phải mở đường máu mà với số lượng binh sĩ hiện diện cùng với tình hình bi đát ở những giây phút cuối của cuộc chiến, ông và đồng đội hiểu rất rõ cái chết đang sát một bên lưng và sự chọn lựa nào cũng đều vô vọng.

Ông viết: "Còn nỗi bi thảm nào hơn tình thế của chúng tôi trong lúc này. Có những người tìm cái sống trong cái chết, ít ra họ còn cái hy vọng tìm thấy cái sống, mặc dù rất nhỏ nhoi, hy vọng nhỏ đến đâu cũng vẫn là hy vọng. Một mảnh ván mục giữa biển cũng là hy vọng. Còn chúng tôi, miếng ván mục cũng không trông thấy. Chúng tôi không thất vọng, chúng tôi không tuyệt vọng, mà chúng tôi vô vọng. Chúng tôi, những thằng thanh niên khỏe mạnh, yêu đời, rất ham sống, đang ngồi mơ được giậm chân tại chỗ này, đánh nhau để rồi chết tại đây cho đỡ mệt chứ không muốn mở đường máu để chết dần chết mòn dọc đường, cuối cùng đến được một chỗ cũng để chết. Cái chết kiểu này quả tình không hứng thú tí nào hết."

Đối với một người lính trong một binh chủng được xem là ưu tú nhất của QLVNCH thì chấp hành lệnh của thượng cấp là điều tất nhiên. Chấp hành bất cứ lúc nào và trong bất cứ hoàn cảnh nào được người ta gọi đó là kỷ luật quân đội. Tuy nhiên, người lính ngao ngán nhận ra họ tuân hành mệnh lệnh của cấp chỉ huy trong khi chính những người ra lệnh cho họ cố thủ, mở đường máu hay tấn công, lại không có mặt tại nơi xảy ra cuộc chiến.

Cao Xuân Huy viết: "Nghĩ đến chuyện phải mở đường máu, phải di chuyển cho mệt rồi cuối cùng cũng chết, nhưng đã có lệnh chuẩn bị tức là sẽ đến lúc thi hành, quả là ngao ngán. Tôi không muốn thi hành cái lệnh này, nhưng tôi lại không thể không thi hành lệnh, vậy thì cách giải quyết tốt nhất để không phải thi hành lệnh là chết trước, chết ngay tại đây, trong lúc này. Tôi không muốn mệt nhọc hơn nữa để kéo dài cái sống thêm được vài tiếng đồng hồ.

Tôi đi một vòng dọc theo tuyến của đại đội để kiểm soát lính tráng. Lần này tôi đi theo đúng nghĩa của tiếng đi, thẳng lưng mà đi. Cứ thẳng lưng như vậy tôi đi trong ánh sáng chập chờn của những trái hỏa châu chiếu đến kéo dài những bóng đen rung rinh của những luồng dương mờ dần rồi đen thui. Trời lại sáng lên, bóng đen của những luồng dương lại rõ nét, ngắn hơn, lại kéo dài ra, mờ dần. Đột nhiên tôi bị hất ngã và không biết gì nữa".


Mở được đường máu chưa phải là kết thúc. Bi kịch chỉ bắt đầu khi tác giả dẫn một toán lính tìm lối thoát vào Nam bằng đường biển. Con tàu duy nhất có thể đón ông và toán lính lại trở thành nơi chiến đấu, chiến đấu giữa những người lính với nhau để giữ mạng sống.

Tại trang 101 ông viết: "Con tàu khá nhỏ, sức chứa tối đa theo tôi ước lượng chỉ có thể chứa được hơn ngàn người, đó là đã kể đến trường hợp nem người như nem cối, vậy mà số người muốn được lên tàu, cũng theo ước lượng của tôi, có đến trên chục ngàn.

Chắc chắn sẽ xảy ra một cuộc thi tuyển bằng bắp thịt và giá phải trả bằng máu, bằng sinh mạng của từng thí sinh để kiếm được một chỗ trên tàu. Một cuộc thi không có trọng tài, không có giám thị, không có hội đồng giám khảo, mà cuộc thi chỉ có những thí sinh là những người đang chạy cho xa Việt cộng, đang liều mạng sống để khỏi rơi vào tay Việt cộng.

Trước những sự thật được tận mắt chứng kiến với đầy đủ những hình ảnh nản lòng, cảm giác của tác giả ra sao về những người mà trước đây ít lâu là cấp chỉ huy, là những người được xem là anh hùng, dày dạn trong chiến đấu? Cao Xuân Huy cho biết ý nghĩ của mình:

Sự thật có một số những sự việc nó xảy ra mà không được đẹp thì nó không phải là chính cái tính chất của nhân vật đó, mà nó ở cái lúc, cái thời gian đó, cái lúc đó phản ứng của người ta như vậy, chứ không phải là lúc nào người ta cũng thế, thành thử ra lỡ lúc đó phải chịu thôi.

Cuốn sách được khép lại ở những đoạn cuối cùng từ trang 163, Cao Xuân Huy kể lại cảnh những người lính thất thểu một đoàn dài khi trở thành tù nhân bị dẫn đi và bị bắn giết như thế nào. Trong đoạn văn này, từng giọt máu như đang rỉ ra theo gót chân của đoàn tù.


Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Image

Các chiến sĩ VNCH trong một cuộc hành quân. Photo courtesy of wikimedia.

Máu theo chân, máu đổ khắp nơi khi từng viên đạn bắn đi, từng người một ngã xuống, ngã xuống...người còn sống không biết bao giờ thì đến phiên mình, tất cả chờ đợi cái chết đến, chờ đợi trong hãi hùng, trong khủng khiếp: "Lúc nãy ở bờ bên kia phá chúng tôi được nếm mùi cướp bóc thổ phỉ và bây giờ trên con đường đất hai bên là ruộng, là lùm, là bụi này, chúng tôi được thưởng thức món giết người.

Đoàn tù chúng tôi đi thất thểu trên đường, đoành một tiếng, một xác người ngã xuống bờ ruộng, đoành một tiếng, một xác người nữa ngã xuống bờ ruộng. Một người đi ngay bên cạnh tôi bị bắn vào đầu, máu và óc văng dính cả vào người tôi. Trò bắn giết rất kỳ cục và khó hiểu! Những người bị bắn chết và những người không bị bắn hay chưa bị bắn đều không hiểu tại sao bọn Việt cộng lại bắn người này mà không bắn người kia.

Chúng tôi rất hoang mang, nhưng lúc này không có ai phản ứng gì. Mọi người vẫn cứ lầm lũi, thất thểu đi. Đói, khát, mệt mỏi và luộm thuộm lếch thếch, chúng tôi đi, hoang mang không hiểu bao giờ đến lượt mình bị bắn. Số người bị bắn mỗi lúc dĩ nhiên mỗi nhiều hơn. Tất cả lon lá đã được gỡ ra từ sáng khi chúng tôi mới nhận được quần áo mang từ bờ biển vào. Râu ria trên mặt biểu hiệu cho chức cấp -hiểu theo nghĩa Việt cộng- cũng không phải, vì nhiều người để râu, trong đó có cả tôi, không hay chưa bị bắn. Nhiều người râu ria nhẵn nhụi thì đã bị bắn."


Và cuối cùng thì tác giả cùng nhiều đồng đội của ông cũng dừng chân tại một chỗ không ai mong muốn. Tuy nhiên cái chỗ được gọi là trại giam này lại là nơi quyết định sự sống còn của họ: "Chúng tôi bị đưa về căn cứ La Sơn nhốt tạm để sau đó hạ sĩ quan và binh sĩ bị đưa nhốt ở Khe Tre, Nam Đông. Đám sĩ quan chúng tôi bị đưa về cây số 23, gần ngay chỗ ban chỉ huy Tiểu đoàn 4 ít ngày trước, đối diện với làng Đồng Lâm. Khoảng giữa tháng Tư chúng tôi bị đưa về trại tù binh chính thức nằm phía Bắc Khe Sanh, sát biên giới Lào, ở ngay đầu nguồn sông Bến Hải."

Họ đã được phân phối đi tới các trại tù khác nhau. Số phận những người lính này sau đó không ai biết ra sao, nhưng có một điều Cao Xuân Huy tin chắc rằng, ông và đồng đội của ông đã trả đầy đủ bồn phận đối với tổ quốc, và ông cùng đồng đội có quyền hãnh diện, ưỡn ngực và nói to rằng: họ là người lính chiến, đúng nghĩa là lính chiến trong bất cứ thời đại nào...


Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng”   Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeThu Oct 09, 2014 5:50 pm


Cao Xuân Huy - Mùa Thu Gãy Cánh


Thụy Khuê    

   
Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” BuiVanPhu_20180328_ThangBaGaySung_H01_CaoXuanHuy
Nhà Văn Cao Xuân Huy và tác phẩm "Tháng Ba Gãy Súng"

Cao Xuân Huy có người cha đi kháng chiến, để lại vợ con trong thành. Rồi, 1954, ông ngoại bị đấu tố, người cậu cấp bách đem cháu, 7 tuổi, vào Nam. Mẹ ở lại Hà Nội đợi bố. Về, nhưng người cha kháng chiến, gốc tư sản, địa chủ, không thể "can thiệp" cho người mẹ khỏi diện "tự lực cánh sinh" (như đi "kinh tế mới"). Rồi họ chia nhau con cái: mẹ để lại con gái cho bố, vào Nam với con trai. Xa cách, mỗi người lập một gia đình khác, có các con khác. Huy được cậu và bà ngoại nuôi. Như một định mệnh, chuyện nhà Huy trùng hợp với chuyện đất nước, với truyền thuyết Sơn tinh Thủy tinh, với bao gia đình thời chia đôi Nam-Bắc.

Ở Bắc: Người cha làm báo Sáng Tạo


Người cha ở Bắc tham gia Nhân văn Giai phẩm. Thực ra, ông không ở trong Nhân Văn Giai Phẩm, mà ở nhóm Điện ảnh kịch trường, hồi ấy có hai nhóm: Thụy An-Phan Tại và Trần Thịnh-Trần Công. Cao Nhị, cha Huy, trong nhóm thứ nhì.

Họ chủ trương thành lập một hội điện ảnh độc lập. Đả phá phim tuyên truyền của Liên Xô. Đổi mới kịch nghệ và điện ảnh theo đường lối Tân hiện thực Ý, Nhật và đề cao phim Anh, Mỹ. Thụy An, Trần Công, Cao Nhị, Nắng Mai Hồng, Vũ Phạm Từ, Kỳ Nam... viết những bài giới thiệu, phê bình điện ảnh, hoặc tổ chức chiếu lại những phim hay, những kiệt tác tân hiện thực như Miếng cơm cay đắng(Riz amer), Chiếc xe đạp (La bicyclette) của Ý, Rashomon, Những đứa trẻ Hiroshima, Anh gắng nuôi con của Nhật, Hamlet của Anh, v.v...

Người ta thường nhắc đến Nhân Văn và Giai Phẩm, nhưng không mấy ai biết đến Sáng Tạo[1].

Sáng Tạo do Trần Thịnh chủ nhiệm, Cao Nhị thư ký toà soạn. 5/11/1956, Sáng Tạo ra đời, hai hôm trước ngày khai mạc Liên hoan phim Liên Xô.

"Tội trạng" của Sáng Tạo được nêu rõ như sau:

 "Nửa tháng "Liên hoan phim Liên Xô" khai mạc vào ngày 7-11-56, thì đúng ngày 5-11-56, Giai phẩm mùa thu tập III xuất bản, trong đó có đăng bài "Chúng ta gắng nuôi con", hoạt cảnh của Chu Ngọc, đả kích không tiếc lời vào phim Liên Xô. Cùng ngày 5-11-56, báo Sáng Tạo ra số đầu, đã lộ ngay ý định xấu đối với phim Liên Xô.

 Ngày 20/11/56, báo Nhân Văn số 5 lại đăng bài "Mấy bộ phim dở" của Cao Nhị. Cùng ngày ấy báo Sáng Tạo ra số 2, càng đả kích sống sượng hơn nữa vào các phim Liên Xô đang chiếu. (...)

 Những bài như trên phải được đặt bên cạnh bao nhiêu bài khác của Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Lê Đạt, Trần Dần, v.v… đang nhan nhản lúc bấy giờ ở các số Nhân văn, Giai phẩm thì mới thấy đầy đủ tính chất nguy hiểm của nó" [2]

Cao Nhị, trong bài tự kiểm thảo, cũng "nhận tội":
"Tôi nhận làm thư ký toà soạn báo Sáng Tạo, tờ báo chuyên đả kích phim ảnh Liên Xô và đả kích lãnh đạo trên mặt sân khấu và điện ảnh. Sáng Tạo chỉ ra được hai số rồi chết. Thế nhưng hai số đó cũng gây ra một số tác hại đáng kể với những bài của Trần Công, Nắng Mai Hồng, Phan Vũ, Vũ Phạm Từ, Kỳ Nam, v v ... " [3]

Trong bài kiểm thảo này, Cao Nhị xác nhận trách nhiệm lựa chọn bài vở, viết những bài trên Sáng Tạo và trên các báo Cứu Quốc, Hà Nội Hàng Ngày, Độc Lập... phê phán điện ảnh Liên Xô và tổ chức điện ảnh doanh nghiệp của miền Bắc.

Qua bài "Nửa tháng liên hoan phim Liên Xô: Mấy bộ phim dở" của ông đăng trên Nhân Văn số 5, chúng ta có thể thấy cách ông phê bình một số phim Liên Xô, đang chiếu trong Liên hoan như thế nào. Riêng về nội dung phim Ngai vàng sụp đổ, ông viết:

"Anh đi dẹp giặc, chị ở nhà đợi anh, trong cơn binh lửa, chị mắc tai ương; nhưng đến khi giặc tan, anh chị lại gặp nhau, gia đình đoàn tụ, vui vẻ cả. Nhưng ác một điều, câu chuyện tình đó đã lồng vào nhiều câu chuyện khác: âm mưu thắng đế quốc, dũng khí của nhân dân, tài đánh nhau của bộ đội, lại cả bộ mặt nham hiểm gớm ghiếc thằng địa chủ đi ăn cướp ái tình. Người xem rất kêu về cái đoạn kết dựng lên cái ngai vua rồi đạp nó gục xuống, tượng trưng cho ngai vàng sụp đổ. Nhưng tôi không nói tới diễn xuất hay những màn bố trí giả tạo. Điều quan trọng hơn, là công chúng xem phim rất không hài lòng về cái lối xây dựng phim, xây dựng con người rất vá víu, chắp nối ấy, nó không tài nào đi sâu và thể hiện được đúng hình dáng con người thật. Kinh nghiệm trong các tác phẩm văn nghệ Việt Nam mấy năm nay, kịch hay chuyện nói đến một trăm thứ và đều đá thêm một tí tình cho nó có “yêu đương”. Đó là lối xây dựng công thức không thế làm thoả mãn người xem."

Và đến phim Hai sĩ quan, Cao Nhị cho rằng: "Tịnh không bắt gặp con người thực, một anh đại úy có thực (...) Mặc dầu báo điện ảnh Liên Xô khen: “Hai sĩ quan nói lên một cuộc tình son sắt và dũng cảm…”, tôi chỉ thấy tình yêu đó là giả tạo, vì lẽ giản dị cặp tình nhân đó phải lao vào nhiều tình huống ly kỳ, lằng nhằng, nghĩa là cũng giả tạo nốt. (...)

... mấy bộ phim Liên Xô khác được hoan nghênh trong năm nay như Nữ tài tử dạy hổ hoặc Người yêu phương xa thì thực chất nó như thế nào? Con người trong phim rất nhạt, tình yêu lại càng nhạt hơn. Và cái lối xây dựng chủ đề tình yêu nhẹ nhàng, công thức gán ghép gợi cười cho người xem bằng những trò hiểu lầm nghộ nghĩnh không thể đáp ứng được với những đòi hỏi của người xem có suy nghĩ (...)

Tôi đơn cử ra hai bộ phim Ngai vàng sụp đổ và Hai sĩ quan, không phải để phân tích sâu xa vì nó dở quá, không biểu hiện được gì, ý tôi muốn để chúng ta cùng rút kinh nghiệm trong việc làm kịch bản phim hiện nay". [4]

Với những dòng "phạm thượng" như thế, người cha, sau Nhân Văn, bị cấm sáng tác, nhưng vẫn làm thơ chui, cho mình. Bà chị là người duy nhất thuộc hết thơ em. Khi Huy về thăm cha tại Hà Nội, năm 2002, định in một tập thơ cho bố, nhưng bà bác đã mất vài năm trước rồi.

Trong Nam: Người con đi lính và đi tù


Nhắc lại lời người cha phê bình những tác phẩm điện ảnh của Liên Xô năm 1956 ở miền Bắc, để thấy cái gan Cao Nhị trong bối cảnh toàn trị thời ấy và cũng để hiểu cái gan của người con trong một bối cảnh khác, xung vào Thủy quân lục chiến, một binh chủng dữ dội của miền Nam: hai bối cảnh, cùng một dòng máu, cùng một lá gan.

Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1978, người cha Sáng tạo-Nhân văn tìm đến thăm con ở trại cải tạo Thanh Hoá, nhưng không được vào, lại lặn lội trở về, cái ba lô thăm nuôi con cũng không nhận được.

Năm 1979, hai cha con gặp nhau lần đầu tại trại Bình Điền, Huế. Bố nói: "Mày ăn thịt gà đi, thịt gà này chú Phùng Quán làm cho mày đấy". Người con cảm động tưởng mình có họ với chú Phùng Quán, tác giả những câu thơ mà anh đã thuộc lòng từ nhỏ: "Yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét; Dù ai cầm dao dọa giết, cũng không nói ghét thành yêu". Bố hỏi: "Mày ghét Cộng sản lắm hay sao mà đi cái thứ lính ác ôn này?". Con nói: "Ghét thì con không ghét, có thù oán gì đâu, nhưng gặp đâu thì bắn đó". "Thế mày bắn cả bố mày à?"... [5]

Đó là câu chuyện giữa hai cha con năm 1979 mà Cao Xuân Huy thuật lại cho Trần Văn Thủy một đêm họp bạn ở Cali. Sau câu hỏi là những chấm chấm. Hình như con không trả lời. Hình như "bố con nói với nhau vài câu chẳng ra làm sao cả".

Không có trả lời nào cho một câu hỏi như thế. Không có câu hỏi nào, cho một đất nước như thế. Người bố gọi cái thứ lính mà con đi ấy là lính ác ôn. Lính thủy quân lục chiến ngoài Bắc gọi là lính thủy đánh bộ.

Nhưng người cha đã biết gì về thứ lính ác ôn này? Bao nhiêu người ở Bắc đã biết gì về thứ lính thủy đánh bộ này, ngoài hai chữ ác ôn? Bao nhiêu người trong Nam biết gì về thủy quân lục chiến, trừ hình ảnh: dữ dằn, cảm tử.

Xa nước từ 1962, tôi cũng không biết gì về thủy quân lục chiến. Là người chống chiến tranh, tôi nghĩ ai vào thủy quân lục chiến là người thích đánh nhau, hiếu chiến.

Bởi lúc đó chưa có Tháng ba gẫy súng, chưa ai biết Cao Xuân Huy.

Tháng ba gẫy súng


Tháng ba gẫy súng [6] đưa người đọc vào những cạm bẫy không ngờ: Tước đoạt ở họ những thành kiến cố hữu. Làm cho họ mất hẳn "nhân tính", thứ nhân tính từ chương, viết hoa, đạo đức giả của xót thương vô tận, của niềm nhớ khôn nguôi, của ngụy tạo tình cảm, ngụy tạo ngôn ngữ, ngụy tạo "dân tộc, tổ quốc".

Tháng ba gẫy súng đặt họ vào môi trường khốc liệt của những con người không có lựa chọn nào ngoài đường chết, của đám tàn quân thua trận, hết đạn, cấp trên phản bội bỏ họ giữa đường, của đám quân dân hỗn loạn, bạn đồng hành đào ngũ, của những kẻ để tìm đường sống phải giết người, phải dẵm đè lên nhau mà chết, ở một cửa bể, một ngày tháng ba 1975.

Tháng ba gẫy súng, với thứ ngôn ngữ trần trụi của người lính "chưa từng viết văn bao giờ", đã lột trần một thứ nhân tính khác của con người: tham sống, sợ chết, hèn nhát, phản bội, dã man, tàn bạo. Mọi bộ mặt đều bị lột trần trước cửa tử, cái xấu cái tốt không thể giấu được qua lớp son phấn bề ngoài của đạo đức xã hội. Con người lộ hẳn thân thể trần truồng với lục phủ ngũ tạng, như bị giải phẫu bất ngờ, không kịp phòng bị. Ở cái tư thế ấy, ngôn ngữ cũng trần truồng, không che đậy.

Tháng ba gẫy súng là thứ ngôn ngữ tồng ngồng ấy, mà người "có học", mà cấp thượng lưu trí thức, mà những nhà làm văn chương thường gọi một cách khinh bỉ là "ngôn ngữ lính tráng". Vì thứ ngôn ngữ ấy mà nhiều người không muốn, không dám hay chỉ miễn cưỡng gọi Huy là nhà văn, không coi Tháng ba gẫy súnglà tác phẩm văn học, mà chỉ là một cuốn hồi ký chân thật, bởi một tác phẩm văn học thì phải có văn chương, chứ đâu lại câu cú thô tục thế này.

Ở Tháng ba gẫy súng, chửi thề là vai chính. Những câu chủ chốt đều có chửi thề.

Bởi mỗi chửi thề là một thái độ, phản ánh một tình cảm, một nguyện vọng: yêu thương, hắt hủi, oán giận, ăn năn, hối hận, mắng mỏ, sai bảo, dã man, tàn bạo...

"Đụ mẹ, ông về đại đội liền bây giờ!" là mệnh lệnh của ngưòi tiểu đoàn trưởng, mắng mỏ, nhưng khoan hồng, không phạt vì tội ba gai trình diện trễ.

"Đù má, lâu dzậy mảy?". Là sự chờ đợi và vui mừng phía người chửi. Là sự hoàn hồn phía người nghe, kẻ một mình đang đêm tìm về đơn vị, mò mẫm trong rừng đầy địch và mìn... Tiếng chửi chấm dứt nỗi sợ, triệt tiêu viễn ảnh của cái chết. Tiếng chửi là tiếng sống.

"Đụ mẹ, đi đâu về trễ vậy cha nội" tiếng chửi là tiếng mắng yêu của đồng đội.

"Đụ mẹ, không tin thằng nào hết, giấy tờ giả thiếu chó gì. Ông cho tôi biết nó người Bắc hay người Nam", tiếng chửi là tiếng nghi ngờ của chỉ huy, là lệnh khám xét kẻ lạ, một mệnh lệnh phân biệt ta địch: tiếng Bắc là địch, tiếng Nam là ta. Một mệnh lệnh lô-gích nhưng éo le: Huy người Bắc 100%, nếu căn cứ vào giọng Bắc-Nam để phân biệt ta-địch, chuyến này chắc chết!

"Đụ mẹ, mình bị bỏ rơi rồi". Tiếng chửi thề thất vọng gần như vô vọng, tuyệt vọng.

"Đụ mẹ, tao đếm tới ba, không nhẩy xuống biển tao bắn", tiếng chửi thề dã man phi lý của thần chết: kẻ có súng uy hiếp kẻ không súng, một thuỷ quân lục chiến uy hiếp một bộ binh.

Cao Xuân Huy sử dụng tiếng chửi như một ngôn ngữ, ngôn ngữ của sự thật, ngôn ngữ lính tráng, ngôn ngữ thủy quân lục chiến. Tiếng chửi nhấn lời nói mạnh hơn, làm tình cảm sâu đậm hơn: cho yêu thương thương yêu hơn, cho bạo tàn tàn bạo hơn. Tiếng chửi tiềm ẩn nỗi khốc liệt trong tâm cảm nhà văn. Tiếng chửi là tính thủy quân lục chiến trong con người. Tiếng chửi giấu nỗi hoang mang, che sự sợ hãi, ẩn nỗi kinh hoàng của những người phải thường trực xung phong đối đầu với cái chết.

Cao Xuân Huy chỉ dùng tiếng chửi thề, nói tục, cho đồng bạn, đôi khi dùng cả cho người lính địch (trong Vài mẩu chuyện), như để chào đón và trân trọng kẻ cùng thuyền. Không thấy Huy đặt vào miệng những kẻ chỉ huy phản bội một tiếng chửi thề nào.

Tiếng chửi trong Tháng ba gẫy súng là tiếng thoát ra từ con tim, là tiếng cao quý của tình bạn, tình đồng đội, tình người mà những kẻ hèn nhát không được quyền sử dụng. Huy không cho phép họ dùng thứ tiếng cao quý ấy.

Việc chuyển hoá những âm thanh thô tục thành cao quý, không phải ai cũng làm được. Huy làm được bởi anh không nhận mình là nhà văn nên không bị cái bổn phận làm văn chương của bọn nhà văn chi phối. Nhưng việc nói tục không dễ, làm sư hổ mang như Lục Tổ lại càng khó hơn, bởi ăn tục nói tục là con dao hai lưỡi, nếu nội lực không thâm hậu, tất cả sẽ chỉ trần trụi là sự tục tĩu.

Ngôn ngữ trong Tháng ba gẫy súng là ngôn ngữ ngắn, gọn của những người luôn luôn đối diện với cái chết. Sống và biết mình có thể chết bất cứ lúc nào. Thời giờ của họ bị giới hạn. Đích của họ là sống đến ngày mai, sống từ sáng đến tối, từ trưa đến tối, từ giờ này đến giờ khác, từ phút này đến phút khác. Vì vậy họ không thể "mất thì giờ" cho việc nói. Họ phải kiệm lời. Không dài dòng văn tự. Họ là những người lính thủy quân lục chiến, họ là những người luôn luôn sẵng sàng bước vào cửa tử, đùa giỡn với cái chết:
"Em đào sẵn cái hố cho hai thầy trò mình nằm thoải mái. Nếu lỡ có chết chỉ việc lấp cát là êm - Đụ mẹ, trù ẻo mày"
Mắng yêu cái chết: "Đụ má, chết sớm dzậy mày?"
Rủ nhau chết:
"Hồi nãy tụi nó tự tử nhiều quá, hay là mình tự tử luôn đi ông thầy"

Những câu chuyện tiếu lâm như thế trải dài trên con đường triệt thoái về chỗ chết của họ.

Tính chất khôi hài trong tác phẩm như những giọt rượu mạnh, rót vào cổ họng người lính xung phong, cho họ quên sợ, cho máu họ chai đi, họ được bọc thép trước cái chết.

Tinh thần thủy quân lục chiến là tinh thần kỷ luật tuyệt đối, phải đạt mục tiêu cuối cùng bất kể giá nào, dù phải nhận những mệnh lệnh ngu xuẩn nhất, dù cấp trên đã hèn nhát bỏ đi, dù súng đạn đã hết, dù bạn bè đã chết, dù cái chết đang chờ trước mặt.

Họ là người lính của nước cờ đầu và của nước cờ cuối, họ phải đổ bộ ở những nơi nguy hiểm nhất. Họ được giao cho những trách nhiệm chết người: phải mở đường máu. Phải đi đoạn hậu. Phải giữ trật tự khi lính làm loạn...

Nhưng cũng những người lính đó, khi đã mất chỉ huy, họ có thể phạm những tội dã man nhất, tàn bạo nhất.

Cửa biển Thuận An, sáng 26/3/1975:

"Chiếc tàu bắt đầu kéo bửng, những người bám vào bửng tàu được nâng lên cao khỏi mặt nước, một số người may mắn rơi ngay vào trong lòng tàu, số còn lại lần lượt rơi xuống biển

Bửng tàu đã được kéo lên hoàn toàn nhưng không khép kín nổi vì giữa bửng và thành tàu đã kẹp cứng một thân người. Người bị kẹp nửa thân trên nằm trong lòng tàu, nửa thân dưới thò ra ngoài, hai chân giãy giụa, đạp đạp trong không khí được chừng nửa phút rồi ngay đơ. Hai cái chân của người xấu số trở thành có ích cho nhiều người còn ở dưới nước, họ bám vào đó để tiếp tục leo lên tàu. Lúc đầu hai cái chân còn đủ hai ống quần, dần dần chẳng còn gì cả và cuối cùng, cả hai chân đều bị gãy. Nhưng gãy thì gãy, người ta vẫn bám vào đó để leo lên tàu. Ít ra cũng có đến cả chục người leo được lên tàu nhờ cặp chân đó. Và chắc chắn sẽ còn được thêm nhiều người nữa nếu...

Chiếc tàu phụt khói từ từ quay mũi ra biển.
Chân vịt đạp nước đẩy không biết bao nhiêu người ra xa tàu, và không biết là đã chém đứt bao nhiêu người.
Thân tàu quay ngang đập vỡ không biết bao nhiêu đầu người, và không biết đã nhận chìm bao nhiêu người xuống sâu dưới đáy tàu.
Biết bao nhiêu người đã chết vì chiếc tàu quay mũi.

Nhưng...
Chiếc tàu đã không ngừng quay khi cái mũi đã hướng ra biển. Mà, chiếc tàu vẫn tiếp tục quay, mũi tàu lại từ từ hướng vào bờ.
Chân vịt lại chém thêm không biết là bao nhiêu người.
Thân tàu lại đập vỡ thêm không biết là bao nhiêu cái đầu, và lại nhận chìm thêm không biết là bao nhiêu người xuống sâu dưới đáy tàu.

Tại sao chiếc tàu bỗng dưng quay đúng một vòng tròn để làm chết biết bao nhiêu là người như vậy?
Ðã có những xác chết trôi nổi dập dềnh xen lẫn với những xác sống đang cố bơi ra tàu hoặc đang cố giữ cho mình không trở thành xác chết.
Chiếc tàu lại nằm im như đang mời gọi.

Chúng tôi ở cách xa vùng mặt trận có đến nửa cây số, tiếng súng chỉ nghe văng vẳng, nhưng chết chóc lại nhiều hơn có đến cả trăm lần.

Ủa, tại sao lại có người từ trên tàu nhảy xuống biển, không lẽ mắt tôi đã hoa lên vì rượu. Không phải một người, hai người mà là rất nhiều. Rõ ràng là mắt tôi trông thấy người ta leo qua lan can tàu, có người còn ngần ngừ, có người không ngần ngừ nhảy xuống biển. Lại có người lao mình qua lan can tàu để nhảy xuống biển.

Không tin nổi ở mắt mình mặc dầu tôi đã dụi mắt thật nhiều lần. Tôi hỏi Sĩ:
"Mày có thấy người ta nhảy từ trên tàu xuống biển không?"
Sĩ cũng ngạc nhiên không kém tôi.
"Ðụ mẹ, kỳ quá mày!"

Chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, nhưng chúng tôi không có thời giờ để ngạc nhiên. Hai chiếc M-113 chở đầy người chạy từ hướng mặt trận đã cán bừa lên những người vừa từ biển lên còn đang nằm vật ra mà thở, và cán luôn cả những người không kịp chạy tránh đường.
Vừa thấy bóng thiếu úy Ngô Du - một trung đội trưởng của đại đội tôi - từ dưới biển trở lên, đang lảo đảo như muốn ngã gần mé nước, tôi và Sĩ chạy vọt tới đỡ và kéo Du chạy thật nhanh vừa kịp chiếc M-113 chạy lướt qua sát người chúng tôi.

Hai chiếc M-113 lội xuống nước để ra chiếc tàu.
Những cái bánh xích đua nhau cán lên đầu của không biết bao nhiêu là người đang nhấp nhô từ bờ ra đến tàu.

Ra đến nơi, chuyển hết người lên tàu xong, hai chiếc xe lội nước quay đầu lội vào bờ. Lại không biết bao nhiêu là đầu người bị nghiền nát bởi những cái bánh xích.
Vào đến bờ, hai chiếc M-113 ngừng lại. Từ vị trí tài xế, một cái đầu thò ra, nhìn quanh rồi la lớn.

"Ai muốn lên tàu thì leo lên tôi chở ra."
Lúc đầu nhiều người ngần ngại, nghi ngờ, nhưng rồi lác đác cũng có người leo lên. Có đến cả 15 phút mà hai chiếc M-113 vẫn chưa đầy người.

Cái đầu lại thò ra, nhìn quanh rồi la lớn.
"Leo lên gấp đi mấy cha, tôi ra chuyến này không trở vô nữa đâu."
Lại có thêm vài người leo lên.

Tôi phân vân trong sự chọn lựa. Nên hay không nên leo lên. Tôi hỏi Sĩ:
"Lên không mày?"
Sĩ lắc đầu:
"Tao không muốn chạy thoát bằng cái chết của những người đang lóp ngóp dưới kia."

Câu nói của Sĩ đã cho tôi một quyết định:
"Mẹ kiếp, có mày có tao hay không có mày không có tao thì những người đang lóp ngóp dưới kia cũng sẽ bị những cái xích sắt này cán. Ðừng có triết lý ba xu thằng con trai."
Sĩ cười bướng:
"Tao có nói khác gì mày đâu, nhưng tao không."
"Ðược rồi, phụ tao đưa thằng Du lên."
Sĩ và tôi đưa thiếu úy Du lên thiết vận xa. Trước khi leo lên, tôi nắm chặt vai Sĩ:
"Hy vọng sẽ gặp mày ở Ðà Nẵng."
Sĩ nhìn tôi cười:
"Ðụ mẹ, đồ cải lương, cút mẹ mày đi thằng con trai."
Hai chiếc M-113 lại lội nước ra tàu.

Lần này tôi mục kích tận mắt những cái xích sắt nghiến nát những đầu người. Tiếng máy nổ và tiếng nước vỗ đã át đi những tiếng thét tiếng la và có thể, cả tiếng vỡ của những cái đầu, nhưng không có gì có thể che lấp được những mảnh quần áo và mầu đỏ của máu cuộn theo chiều quay của xích sắt. Màu đỏ của máu và những mảnh vải cuộn theo chúng tôi suốt cả lộ trình khoảng một trăm thước. Màu đỏ của máu và những mảnh quần áo chắc chắn còn dính cả thịt còn trồi lên, trồi lên xen lẫn với bọt nước phía sau chúng tôi. Không hiểu tôi có dã man không, không hiểu tôi có chai đá không, không hiểu tôi đã trở thành súc vật chưa, hay vì tôi đã nhìn thấy quá nhiều cái chết từ sáng đến giờ, hay vì tôi đã yên tâm trên đường ra tàu an toàn mà tôi rất thản nhiên, lòng tôi rất bình thản khi nhìn những cái chết, quá nhiều cái chết ngay dưới chỗ mình ngồi, bị chết bằng ngay cái phương tiện mình đang sử dụng. Tôi nhìn những cái chết như một kẻ bàng quan, vô thưởng vô phạt" (trang 114- 119).

 
Cảnh này, đã được trực tiếp đưa lên các kênh truyền hình thế giới những ngày cuối tháng ba: Một con tàu đầy người, những thân người cố gắng trèo lên và những thân người rơi xuống biển.

Một người viết hồi ký sẽ kể rõ hơn rằng: "Chiếc tàu dành riêng bốc thủy quân lục chiến, bị bộ binh và thường dân chen nhau trèo lên. Lính thuỷ quân lục chiến dùng võ lực bắt họ nhẩy xuống biển". Lời thuật có tính thông tin, không gây một cảm xúc gì.

Đọc Tháng ba gẫy súng, hiện cảnh bày ra hãi hùng với những chủ thể can phạm:
Trước hết là cái bửng tàu. Cái bửng tàu kẹp cứng một thân người, bản dạo đầu của tội ác.

Kế đến hai chân của người bị kẹp, hai chân người chết tức khắc trở thành một vật, khiến cho cả chục người leo được lên tàu nhờ cặp chân đó. Người sống đã mất hết "nhận định", mất hết "nhân tính", chỉ còn nghĩ đến "nhân mạng" của mình.

Tiếp đến là cái chân vịt, và cái thân tàu. Rõ ràng là chiếc tàu có nhiệm vụ cứu người, nhưng cái chân vịt của nó đã cắt đứt bao nhiêu thân người và cái thân tàu đã cán bao nhiêu mạng và nhận chìm bao nhiêu mạng nữa xuống biển.

Rồi hai chiếc thiết giáp chở lính thủy quân lục chiến ra tàu, chúng có nhiệm vụ cứu người, nhưng những xích sắt của chúng nghiền nát bao nhiêu đầu người...

Sự kinh hoàng đến từ sự kiện: Những kẻ sát nhân ở đây không phải là người mà là vật: Bửng tàu, chân vịt, thân tàu, xe tăng. Tất cả đều bị đảo lộn. Vật trở thành người. Và người trở thành vật: Tôi nhìn những cái chết như một kẻ bàng quan.

Nhưng vô cảm vẫn chưa phải là tội ác, mới chỉ là bản dạo đầu của tội ác.

Nội dung tội ác đến sau:
"Người trên tàu phần lớn là Thủy Quân Lục Chiến (...)
Chưa kịp tìm chỗ ngồi, tôi nghe một tiếng súng nổ.

Hai người lính Thủy Quân Lục Chiến cúi xuống khiêng xác một người lính Bộ Binh vừa bị bắn chết ném xuống biển. Một người lính Thủy Quân Lục Chiến khác đang gí súng vào đầu một trung úy Bộ Binh ra lệnh:
"Ðụ mẹ, có xuống không?"
"Tôi lạy anh, anh cho tôi đi theo với."
"Ðụ mẹ, tao đếm tới ba, không nhảy xuống biển tao bắn."
"Tôi lạy anh mà, tôi đâu có gia đình ở ngoài này."
"Ðụ mẹ, một."
"Tôi lạy anh mà, anh đừng bắt tôi ở lại, anh muốn lạy bao nhiêu cái tôi cũng lạy hết.
Tôi lạy anh, tôi lạy anh."
"Ðụ mẹ, hai."
"Trời đất, mình đồng đội với nhau mà, anh không thương gì tôi hết. Tôi lạy anh mà."
"Ðụ mẹ, ba."
Tiếng ba vừa dứt, tiếng súng nổ.

Người trung úy Bộ Binh ngã bật ngửa ra, mặt còn giữ nguyên nét kinh hoàng. Viên đạn M-16 chui vào từ đỉnh đầu. Xác của anh ta được hai người lính Thủy Quân Lục Chiến khác khiêng ném xuống biển.

Tên lính vừa bắn người thản nhiên tiếp tục chĩa súng vào đầu một thiếu tá Bộ Binh đang sợ hãi nằm mọp người ở cạnh đó, mặt lạnh băng đầy sát khí:
"Ðụ mẹ, tới thằng này, mày có xuống không?"
Ông thiếu tá Bộ Binh này hơi lớn tuổi, mặt cắt không còn hột máu, run lên cầm cập, năn nỉ:
"Anh tha cho em, anh tha cho em."
"Ðụ mẹ, một."
"Thôi, thôi, thôi anh để em xuống."
Lết ra tới lan can tàu, ông ta quay lại năn nỉ lần chót:
"Anh tha cho em, anh thương em với."
"Ðụ mẹ, hai."
Biết là không thể năn nỉ, xin xỏ gì được, ông ta vừa khóc vừa nhảy xuống biển. (Trang 120-122).

"Chiếc tàu dành riêng đón thủy quân lục chiến, vì vậy lính thủy quân lục chiến dí súng vào đầu lính bộ binh bắt buộc họ phải rời tàu, nhảy xuống biển". Một người viết hồi ký sẽ ghi như vậy.

Và như vậy là đúng với sự thật, đúng luật, đúng những gì khán giả được xem trực tiếp trên truyền hình rồi, còn nói gì được nữa?

Nhưng với những "đụ mẹ, một; đụ mẹ, hai; đụ mẹ, ba" Cao Xuân Huy đã xoay trở tình thế, đã đổi trắng thành đen, đã đảo luật thành vô luật, đảo luật thành tội ác, bất nhân, đã tạo sự phi lý phi thường.

Mấy ai có khả năng đạt được "công tác" ấy với vài ba dòng chữ?

Cách xoay trở tình thế như thế đã khiến Tháng ba gẫy súng trở thánh tác phẩm chống chiến tranh mãnh liệt nhất mà văn học Việt nam có được trong nửa thể kỷ vừa qua. Chỉ với hoạt cảnh kinh hoàng ở cửa Thuận một sáng tháng ba, Huy đã khắc cái án tử hình lên mặt chiến tranh, trên đầu những người bị nghiền nát vì xích xe tăng, vì cái bửng, vì cái chân vịt của con tàu "cứu người" trên mặt biển.

***

Tại sao một người có nụ cười hiền như Huy, ăn nói nhẹ nhàng như Huy và ẩn trong một thân thể cường tráng, một bộ râu hùm, là cái e thẹn gần như rụt rè của một người con gái, như Huy, lại xung vào Thủy quân lục chiến?

Bởi vì người cha. Huy có dòng máu Nhân Văn trong người. Dòng máu chạy trong tĩnh mạch, có da che đậy, người ngoài không nhìn thấy. Chính cái dòng máu ấy, đã chi phối đời Huy, một đời chống chiến tranh, nhưng không trốn được đi lính. Một đời thanh niên xuống đường, chống chính trị, nhưng phải xông vào cuộc chiến, do bọn người chính trị hai miền gây ra.

 Đã phải đi lính, thì chọn ngành nào đích thực là lính. Thế thôi. Chứ có thù hận gì. Chọn Thủy quân lục chiến vì là thứ lính đánh trận tới nơi tới chốn. Vì thế Huy không trả được lời cha: Thế mày bắn cả bố mày à? Mà có thì cũng sẽ là: Bắn chứ, trận địa mù mịt biết ai là ai?

Điều Huy biết chắc: đã đi lính thì phải chiến đấu như một người lính, đến lệnh cuối cùng. Huy không bỏ cuộc. Trận Cửa Việt 1972, đánh đến đúng giờ ngừng bắn, dù đồng đội đã chết gần hết. Mang nạng gỗ về Sài gòn. 1975, đang nghỉ phép, dù người cậu biết rõ tình thế, khuyên cháu nên đào ngũ, ở lại Sàigòn. Huy vẫn ra Quảng Trị. Bởi không thể để "chúng nó" xoay sở một mình. Ăn nói làm sao với "chúng nó" khi gặp lại nhau.

Người ta tin Huy nói thật, vì người ta thấy Huy đã sống như thế nào: Ở hải ngoại, Huy làm báo Văn Học, làm với tinh thần ba gai thủy quân lục chiến. Nguyễn Mộng Giác có lần than phiền: "Cái thằng! Bài nào không ưng là nó bỏ sọt rác!". Hẳn là bài của những "chức sắc" trong làng văn mà ông chủ bút không thể từ chối. Huy tổng thư ký bèn quyết định dùm anh Giác. Bởi Huy chẳng sợ ai.

Thủy quân lục chiến với văn học thì có gì chung nhau đâu? Có. Chung nhau một sự dọc ngang nào biết trên đầu có ai, và một sự không bỏ cuộc, dù thế nào đi nữa.

Nhà văn đích thực không sợ ai, càng không sợ sự danh tiếng.

Nhà văn đích thực không bỏ cuộc giữa đường. Người bỏ cuộc là người amateur, người tài tử. Nhà văn đích thực viết tới lúc chết. Huy viết ít, nhưng viết tới lúc chết.

Huy làm tờ Văn Học tới lúc mọi người đã bỏ cuộc, độc giả bỏ báo, vẫn làm. Ung thư mắt, vẫn làm. Chỉ đến khi vừa bệnh, vừa thất nghiệp, Huy mới nghỉ. Nghỉ một năm thì chết: Huy làm báo Văn Học với tinh thần thủy quân lục chiến. Làm tới chết.

Người ta tin Huy nói thật, vì người thấy Huy chết như thế nào: Vẫn nụ cười hiền rất trẻ, không thể gọi Huy là ông, dù Huy đã hơn sáu mươi. Bệnh đã đại thắng, Huy phải lui dần, nhưng vẫn chống cự: Râu hùm chỉ còn lác đác. Vai năm tấc rộng thân mười thước cao đã co lại, nhẹ hẫng. Từ Hải không ngồi dậy được nữa, không ăn được nữa, không uống được nữa, không ngủ được nữa, nhưng đôi mắt vẫn sáng lên khi nghe bạn kể chuyện văn học, vẫn cười khi nghe bạn pha trò. Minh âu yếm hỏi chồng: Anh uống tý sữa nhá. Huy gật. Minh phân bua: có bạn vui mới gật, thường thì chỉ lắc đầu. Nhìn Minh, biết là Huy có Phúc.

Huy không ký được nữa, nhưng vẫn dặn vợ tặng bạn cuốn sách cuối cùng, vừa in xong cách đây vài tháng. Với tính khiêm nhượng cố hữu, Huy đặt tên nó làVài mẩu chuyện. Chuyện chứ không phải truyện. Đến chết vẫn không chịu nhận mình là nhà văn. Huy chết như một người thủy quân lục chiến.

Khiêm nhượng vì Huy gọi Tháng ba gẫy súng là hồi ký, và cứ nhất quyết chỉ là hồi ký.

Ai cũng có thể viết hồi ký. Sang, hèn, có tài, bất tài, đều có thể viết hồi ký. Nhưng không phải ai cũng viết được tiểu thuyết, chỉ nhà văn mới viết được tiểu thuyết. Không phải cuốn hồi ký nào cũng trở thành tiểu thuyết. Một cuốn hồi ký đạt được tầm cỡ nào đó, mới trở thành tiểu thuyết: tức là khi những cá nhân trong tác phẩm đã nhẩy ra khỏi vị trí riêng tư của mình để trở thành nhân vật mà nhiều người có thể nhìn soi mình trong đó. Cái tôi trong hồi ký là cái tôi riêng của một người tên A, sinh năm X, tại tỉnh Y, kể lại chuyện mình và chuyện  người khác trong những quan hệ cá nhân, có tính chất kê khai, tài liệu. Cái tôi trong hồi ký là cái tôi cá nhân, cái tôi xác định.

Cái tôi trong tiểu thuyết là cái tôi bất định của một nhân vật nào đó trong xã hội loài người. Cái tôi trong Tháng ba gẫy súng đã thoát khỏi cá nhân Cao Xuân Huy, trung uý, đại đội phó đại đội 4, tiểu đoàn 4 Kình ngư, thuộc lữ đoàn 1 thủy quân lục chiến, để trở thành một người lính thuỷ quân lục chiến, rồi một người lính, rồi một con người.

Tác phẩm Tháng ba gẫy súng sẽ tồn tại như lịch sử môt người lính bại trận trong những ngày cuối cùng của một trận chiến, không biết ở đâu.

Câu chuyện của cá nhân Cao Xuân Huy trong hồi ký đã trở thành tiểu thuyết vì sự thật và hư cấu trùng hợp đến xương tủy, nó chấm dứt là câu chuyện của một người để trở thành câu chuyện của muôn người, nó trở thành phổ quát.

Vài mẩu chuyện


Hai mươi nhăm năm sau Tháng ba gẫy súng, Vài mẩu chuyện [7] ra đời.Tháng ba gẫy súng in chữ to, 177 trang, chữ nhỏ chắc chỉ được độ 120 trang. Vài mẩu chuyện, 80 trang chữ nhỏ. Là bởi Huy lười. Lười nhưng thấu suốt mọi lẽ: viết nhiều mà làm gì! Nhà văn lớn đến thế nào, rồi thì cũng chỉ được ký ức văn học giữ lại một vài cuốn là cùng.

Cao Xuân Huy đã lựa trước những dòng đáng đọc nhất của mình. Và cũng lại vẫn khiêm tốn đặt tên nó là Vài mẩu chuyện, để gián tiếp không nhận mình là nhà văn. Nhà văn viết truyện, còn Huy kể chuyện. Nhưng lần này, chuyện của Huy cũng lại bị trở thành truyện, tức là tác phẩm văn học. Mười truyện ngắn: Miếng ăn, Người muôn năm cũ, Quyền tối thiểu, Cái lưỡi câu, Ngu như lợn, Vải bao cát, Hành phương nam, Chờ tôi với, Mai thảo, Trả lại tiền.

Vài mẩu chuyện trả Huy lại với đời thường.

Đời cải tạo: miếng ăn, quyền tối thiểu, cái lưỡi câu, ngu như lợn,
Đời nhìn lại chiến tranh: người muôn năm cũ, hành phương nam, chờ tôi với.
Đời làm văn, làm báo: Mai Thảo.
Đời sống: trả lại tiền.

Vài mẩu chuyện khép lại quỹ đạo chiến tranh để "nối vòng tay lớn".

Vài mẩu chuyện đằm hơn Tháng ba gẫy súng, những cơn đau nhẹ hơn nhưng tiến sâu hơn, như giữa hai đợt tấn công, cơ thể ung thư được hưởng vài giờ hưu chiến. Huy đã gặp Thạch Lam trong lối viết nhẹ nhàng mà đứt ruột. Mỗi truyện ngắn như một sợi tóc vướng trong hệ thần kinh của con người đã trải qua kinh nghiệm chiến trường hãi hùng như thế, không thể nào kéo nó ra được. Ở những người lính Mỹ không biết viết văn, đã có hội chứng Việt Nam.

Miếng ăn, quyền tối thiểu, cái lưỡi câu, ngu như lợn, mỗi truyện dàn dựng như một bi kịch mà tính bi đát đi đoạn hậu. Phải đọc đến câu cuối mới thấy kinh hoàng. Huy không dùng bất cứ một hình ảnh ghê rợn nào, đôi khi còn đùa cợt nữa, nhưng cái kinh hoàng khám phá ở đoạn cuối bao giờ cũng là bản chất của con người.

Ở những hồi ký viết về trại cải tạo, cái "ác ôn" thường được chĩa vào "quản giáo", cái ngu si đần độn thường được chĩa vào "cán ngố", tạo sự căm thù và đôi khi bật ra những nụ cười khả ố.

Ở Cao Xuân Huy, dù "cái đói, cái thèm, đeo đẳng hành hạ con người hết ngày này tháng nọ, năm nào, ngày nào, tháng nào,giờ nào, cái đói cũng bám chặt lấy dạ dày, cái thèm lúc nào cũng bám chặt lấy đầu óc", thì cái "ác ôn" vẫn không chiếu vào cán bộ, mà chiếu vào "anh em", vào những kẻ được tiếp tế mừa mứa, ăn thừa đổ đi, trong khi người bạn nằm cạnh đắp chăn chặn đói (Miếng ăn).Nội soi bao giờ cũng nguy hiểm hơn ngoại cảnh. Huy đã chiếu cái "ác ôn" vào bản chất con người, không chiếu vào "địch". Trong những năm tù, thế nào Huy chẳng gặp quản giáo ác ôn, nhưng Huy khác người vì sự lựa chọn đó.

Vì vậy những mẩu chuyện của anh thoát khỏi vòng hồi ký, thoát khỏi một câu chuyện, đề trở thành truyện ngắn, thành một tác phẩm nhân bản, giải giới cho những thù hận thường tình. Sự lựa chọn của Huy dường như không do một toan tính văn học. Tự bẩm sinh con người Huy như thế.

Vải bao cát và quyền tối thiếu là hai trường hợp phi thường của người tù cải tạo thèm sex đến cực độ mà lại từ chối sex. Ở quyền tối thiểu, người tù được hưởng "ân huệ" chăn chiếu với vợ khi người vợ đến thăm nuôi, nhưng Toàn đã từ chối "ân huệ" này: Việc vợ chồng là chuyện tự nhiên, là quyền tối thượng của con người. Khi được ban phát như một ân huệ, nó trở thành không thể chấp nhận được. Thành nhịn. Nhịn để giữ trọn tiết khí. Giữ trọn quyền sống tối thiểu của con người.

Ở vải bao cát, một trường hợp lạ lùng khác: Một ngày trong trại cải tạo, người ta tải vào một thiếu nữ bị trúng mảnh đạn M-79 khi đang cuốc đất. Bao nhiêu dồn nén sinh lý lâu ngày trồi lên xục xạo thân thể người tù trẻ, chưa vợ, Toàn trả cho một bạn tù bữa cơm sáng để mua cái việc được cầm đèn và cởi quần áo cô gái trúng đạn cho bác sĩ giải phẫu.
"Toàn háo hức đắm chìm theo những tưởng tượng...
Bất ngờ, hai mắt đang hau háu chợt dịu lại.
Lúng túng.
Hai tay đang tụt quần cô gái chợt khựng lại.
Ngập ngừng.
"Làm gì mà đứng nghệt ra vậy?"

Toàn như không nghe tiếng bác sĩ Thông, vẫn đứng trơ ra, mắt như dán vào mảnh vải che phần dưới thân thể cô gái.
Đờ đẫn.
Thẫn thờ.
Mắt Toàn như dại đi.

Trong đầu, chập chùng những hình ảnh. Giao thông hào, lô cốt, hầm chữ A, hầm chữ T. Tiếng bom, tiếng mìn, tiếng lựu đạn, không giật, sơn pháo. Những đợt tấn công, phản công. Những xác người, xác ta, xác địch, xác bạn, xác dân. "(Trang 58-59)

Lỗi tại chiếc quần lót. Chiếc quần lót của người con gái làm bằng vải bao cát. Vải bao cát xuất hiện trên khắp các mặt trận, hồi ấy, nhưng tại sao nó còn sót ở đây, trên thân thể này? Chiến tranh đã chấm dứt rồi mà. Hoà bình đã lập lại rồi mà. Nhưng hoà bình không thể lập lại. Lỡ giết nhau rồi. Lỡ tan xác rồi. Làm sao "lập lại" được?

Toàn lẩm bẩm với người con gái như một ăn năn, như nói với chính mình:
"Chiến tranh đã qua lâu rồi mà, mọi chuyện rồi sẽ phải qua đi... đừng sợ "(trang 60)

 Một "chiều đông", ba người lính thuỷ quân lục chiến, trên đường hành quân, dừng chân trên phá Tam Giang, bên một "quán nhậu dã chiến" bên đường. Người thứ nhất đọc Hồ trường và thơ Quang Dũng. Người thứ hai nghe. Người thứ ba đọc Hành phương nam [8] tuy hướng của họ là phương bắc, chiếm lại những mảnh đất vừa bị mất. Người thứ nhất cãi: đâu phải thơ Nguyễn Bính. Đang cãi nhau sôi nổi, họ bị gọi lên đường hành quân...

Một chiều xuân, trên nghiã địa Sàigòn, người thứ ba, mang nạng gỗ, một mình ngược hướng xuôi nam, đốt bài Hành phương nam dưới đề rõ tên tác giả Nguyễn Bính trên mộ bạn, như muốn nói nhỏ: của Nguyễn Bính thật, tao đâu có nói dối mày.

Hành phương nam của Nguyễn Bính là bài thơ.

Hành phương nam của Cao Xuân Huy không phải là một bài phê bình, nhưng lại toát ra cái gì sâu sắc, đòi đoạn, không tìm thấy ở những bài phê bình thơ Nguyễn Bính. Dường như nó (tức là bài Hành phương nam của Huy) hiểu Nguyễn Bính hơn ai hết, nó từ thơ Nguyễn Bính, đưa người đọc vào không gian những người lính đã thoát khỏi vòng thủy quân lục chiến để trở thành tráng sĩ. Nó tạo ra một trận địa mới, một lối chết mới: chết với thơ, chết trong thơ. Nó vinh thăng một tình bạn không chết theo cái chết.

Mai Thảo như cây cổ thụ giữa đám lau sậy. Như ông vua có quần thần hộ tống. Đàn em, ai chả muốn được làm quen với Mai Thảo. Vậy mà Huy không. Không chào. Nhất định không chào Mai Thảo. Một hôm Mai Thảo ngồi với đám thương nhân giàu có đang rôm rả khoe thành tích. Mai Thảo thần mặt ra. Huy lại gần nói nhỏ vào tai: anh muốn về không em đưa anh về. Mai Thảo ừ ngay lập tức.

Bài mai thảo là một chân dung văn học, chân dung Mai Thảo, nhưng Huy cũng lại biến Mai Thảo thành mai thảo một hình tượng văn chương, và chính Huy trở thành một hình tượng khác của văn chương: một cây xanh bên cây cổ thụ.

Chỉ ở một lời: anh có về không em đưa anh về, đã bao cảm thông, đã bao trìu mến, đã xoá bao cách biệt, đã dẹp bao hào quang, để thấy tình người.

Trả lại tiền là một truyện độc đáo: ngắn, gọn, chỉ có ba nhân vật: một gã lính ngụy vừa được thả. Một gã dân phòng và một ả điếm. Đối thoại cộc lốc. Cả câu lẫn chữ đều ngắn đến cực điểm. Mặc cả:
"Nhiêu?
Hai chục
Không có đủ
Dzậy có nhiêu?"

Tác giả gói tròn mối tương quan giữa ba nhân vật, ba cõi đời, trong một thoáng ngôn ngữ, một nhoáng thời gian: Gã dân phòng, đáng lý bắt kẻ phạm pháp, nhưng khi biết là lính ngụy, lại diụ giọng: Phải kiếm chỗ kín kín một chút chớ. Rồi hỏi: "Nó lấy cha nhiêu?"

Ả điếm, lợi dụng kẻ lạ không biết giá, lấy cao kiếm lời.
Gã dân phòng quát chị đàn bà: "Trả tiền lại cho người ta". Rồi đi.
Gã lính ngụy không nỡ ăn quỵt, trả tiền lại cho chị điếm.
Chị điếm hối hận cũng không lấy tiền "Thôi giữ lấy xài đi".

Bi kịch xây dựng trên tình người, nhưng với lối viết thật ngắn tác giả đã vót nhọn tình thương khiến nó trở thành dấm dẳn, thô bạo, thoát khỏi vòng nhân ái cổ điển, tạo ra một thứ tình người thô nháp như đá, khó nhận diện được.

***

Với Vài mẩu chuyện, Huy đã tha thứ cho mình, cho người. Huy đã trả lời câu hỏi cha: Mày bắn cả bố mày à? Không con không bắn. Bởi cuối cùng hai cha con đều chết, như người lính thủy quân lục chiến và người bộ đội (trong Chờ tôi với) cùng quê Hà nội, gặp nhau sáng 28 tháng giêng 1973, trao đổi với nhau vài mẩu chuyện rồi cùng chết vì những tiếng súng cuối cùng của cuộc đình chiến.

Dường như Huy trước khi chết đã tìm ra chân lý: sự đánh nhau trong cuộc chiến không giết nổi con người. Sự hành hạ nhau trong trại tù không giết nổi con người. Chỉ tạo ra những xác người mà phần tinh túy nhất vẫn còn đọng lại ở một nơi nào khác: phần của yêu thương, của tha thứ, của nhìn nhau, của nhận nhau.

Việc đời trùng điệp phơi bày trước mắt. Nhà văn không thể viết hết mà phải lựa chọn sự kiện nào, yếu tố nào nên đưa vào tác phẩm. Giống như công việc của nhà nghiên cứu, tài liệu đầy tay, nhưng phải chọn dữ kiện nào có thể sử dụng. Giống như công việc của một con người, phải lựa chọn một đạo sống nào cho mình. Chính sự lựa chọn ấy làm nên con người, làm nên tác phẩm. Làm nên Cao Xuân Huy. Làm nên Tháng ba gẫy súng. Làm nên Vài mẩu chuyện.

Huy có thể yên tâm ra đi. Huy đã nối vòng tay lớn với cõi sống và cõi chết. Bảo đảm với Minh và các cháu hai tác phẩm của Huy sẽ trụ lại. Rất lâu, không biết đến bao giờ. Bao giờ hết chiến tranh...

Thụy Khuê
Paris 24/11/2010

 
Vài dòng tiểu sử:
Cao Xuân Huy sinh ngày 14/7/1947 tại Bắc Ninh, mất ngày 12/11/2010 tại Lake Forest, Nam Cali, Hoa Kỳ. Vợ: Đỗ Thị Minh. Con: Cao Nguyên Chúc Dung, Cao Nguyên Xuân Dung. Nhập ngũ tháng 2/1968. Thuỷ quân lục chiến. Cấp bậc trung úy. Tháng ba 1975 bị bắt. Đi học tập cải tạo đến tháng 9/1979 được thả. 12/1982 vượt biển. 10/1983 tới Hoa Kỳ.

Tháng 6/1985, in Tháng ba gẫy súng.
11/1989 - 6/1992, Tổng thư ký tạp chí Văn Học.
4/1993 - 10/1994, Tổng thư ký tạp chí Văn Học.
9/2004 - 2/2008, Chủ biên tạp chí Văn Học.
Tháng 7/2010, in Vài mẩu chuyện.

[1] Nhờ bài Đi tìm dấu tích tờ báo Sáng Tạo (Hà Nội, 1956) của Lại Nguyên Ân (công bố trên Talawas ngày 3/2/2010) mà hoạt động của Sáng Tạo được sáng tỏ. Sáng Tạo ra được hai số: Số 1 (5/11/1956) và số 2 (20/11/1956) thì bị đình bản. Hiện nay chưa tìm lại được vết tích 2 số báo này.

[2] Trần Đức Hinh, "Tẩy sạch nọc độc của chủ nghĩa xét lại trong việc giới thiệu, phê bình phim ảnh", Điện Ảnh số 14, ngày 1/5/58 (tài liệu Lại Nguyên Ân).

[3] Cao Nhị, "Tôi đã mắc nhiều sai lầm nghiêm trọng trong việc giới thiệu phê bình phim ảnh" Điện Ảnh số 15 ra ngày 15/5/1958, (tài liệu Lại Nguyên Ân).

[4] Cao Nhị, "Nửa tháng liên hoan phim Liên Xô: Mấy bộ phim dở" Nhân Văn số 5, ra ngày 20/11/1956, tài liệu Talawas.)

[5] Cao Xuân Huy nói chuyện với Trần Văn Thủy, Nếu đi hết biển, Thời Văn 2004, trang 62.

[6] Viết năm 1984, in dần trên báo. 1985, xuất bản lần đầu. Tái bản nhiều lần. Bản điện tử lưu trữ trên tủ sách Talawas.

[7] Tạp chí Văn học, Cali, 2010

[8] Hồ trường, thơ Nguyễn Bá Trác. Hành phương nam, thơ Nguyễn Bính.
.
 
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng”   Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeFri Oct 10, 2014 1:56 pm

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” 9k=


Hỏi Huy, Sao Chết Tháng Này

                               
Huy ơi

Tại sao Huy chết tháng này
tháng này không phải tháng ba,
cũng chẳng phải tháng tư,
tại sao Huy chết

Tháng này là tháng mười một
tháng của mùa thu
của những điều nhẹ nhàng thơ mộng
ai có buồn ai
cũng buồn nỗi dịu dàng

Tháng này không phải tháng của Huy
tại sao Huy chết

Tại sao Huy lại rơi
như tiếng rơi
của vỏ đạn tháng ba vào cùng tiếng lá thu
sao Huy gãy ngang như báng súng
ai bẻ Huy đâu mà Huy gẫy thế này

Còn nhớ không Huy
ngày nhóm mình mới gặp nhau với những trái tim
còn đầy ắp một quê nhà yêu dấu
Huy cười ròn rã
vẫn nghe như tiếng súng lên nòng
 
Huy ơi

mùa thu tây bắc đang rụng xuống
mây thu như một giải khăn tang
Huy về bên đó êm đềm nhé
quên tháng ba súng bẻ gẫy ngang.

 
Trần Mộng Tú
tháng mười một, hai ngàn mười.


Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Cxh51
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng”   Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeSun Oct 12, 2014 11:26 am


Cao Xuân Huy – Vài mẩu chuyện


Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Cao%20xuan%20huy%205

Cùng tên Cao Xuân Huy, nhưng không là giáo sư triết học Phương Đông sanh năm 1900 – mất năm 1983, anh là Cao Xuân Huy của Tháng Ba Gẫy Súng và Vài Mẩu Chuyện.

Nhiều người đã đọc Tháng Ba Gẫy Súng, tất cả các anh đã từng khoác màu áo rằn ri, tất cả các anh đã từng được gọi “lính bốn chữ” đã từng so hàng trong binh chủng Thủy Quân Lục Chiến đều đọc Tháng Ba Gẫy Súng – nhắc đến tháng ba gẫy súng là biết ngay nhớ ngay đến trận triệt thoái cuối cùng, nghĩ ngay đến lần rút quân từ quân khu I buồn thảm và nghĩ ngay đến người kể lại giúp mình: trung úy đại đội phó, tiểu đoàn 4 Kình Ngư, Thủy Quân Lục Chiến Cao Xuân Huy.

Dáng người dong dỏng cao, đôi kính lấp lánh trên sóng mũi thẳng, nụ cười thân thiện trên môi, “tứ hải giai huynh đệ” gặp Cao Xuân Huy là gặp một nhóm đông người, những câu chửi thề ròn rã, pha tiếng cười hể hả sau tiếng khà nuốt ực ly VSOP.

Viết về nhà kể chuyện Cao Xuân Huy đã có nhiều người viết, các anh cùng thời gẫy súng, các anh cùng bạc màu áo trận, cùng lận đận quan trường, cùng con đường đất mòn vác nứa tre, chịu cảnh đầy ải biến con người trở về thời hoang dã, bằng cách dùng miếng ăn làm mồi nhử, dùng chút ơn mưa móc câu vài linh hồn yếu đuối, để hả hê cười cợt tư cách tù nhân. Trong khối đông nếu tất cả đều giống nhau bằng nhau thì chẳng có mẩu chuyện nào để kể!

“Tháng ba năm bảy lăm, tớ đã chết rồi, bây giờ là bonus, dzô!”

Tiếng “dzô” pha giọng Nam hay hay như câu đệm tiếng đ. m. mở đầu trước khi kể chuyện, câu đệm không thể thiếu trên bàn nhậu của các anh Thủy Quân Lục Chiến. Nhiều phụ nữ e dè dị ứng khi nghe câu đệm này, nhưng với tôi, không có nó các câu chuyện kể của các anh sẽ thiếu đi phần sự thật. Đắng cay ngọt ngào, trần trụi duyên dáng gặp nhau ở hai chữ đ.m này, nhất là qua giọng nói Bắc Ninh pha tiếng Sài Gòn của Cao Xuân Huy.

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Clip_image0065

Vài mẩu chuyện, quyển sách 125 trang được anh trình bày nhẹ nhàng bằng khổ chữ 12, nền giấy trắng để bạn bè dễ đọc, bạn bè bây giờ mắt chẳng tinh tường gì mấy, nhất là chính tác giả than mãi đôi mắt làm eo không cho phép dùng máy vi tính lâu để viết khi có người thắc mắc: “Lâu quá không thấy anh viết!”

Tháng 7 – 2010 anh ra mắt vài mẩu chuyện, không viết hoa các chữ đầu tựa sách, không viết hoa tên tác giả, hình thức này có ngụ ý “ chẳng có gì lớn lao – chẳng có gì để ầm ĩ ” của Cao Xuân Huy.

Bìa sách Doãn Quốc Vinh trình bày bằng gam màu tối – đỏ đen, khoảng đen dầy đặc chiếm nửa trang, song sắt – nón sắt giầy saut súng cắm đầu chết chóc – làn khói mỏng góc trang trái là Em gục đầu trên hàng kẽm gai, hai cánh tay xếp dài ngón ngọc, lá thư tình hay lá thư vĩnh biệt xếp hờ hững kề bên, một trang bìa xinh xắn, cầm lên muốn ngấu nghiến xem, chữ thủ thỉ gì trong ấy .

Bìa sau ngắn gọn về tác giả, vệt màu nâu vài nét sướt kẽm gai, xuyên qua 1947 ra đời tại Bắc Ninh- 1954 di cư vào Nam – 1968 đi lính- 1975 đi tù – 1979 ra tù – 1982 đi vượt biên – 1983 đi Mỹ - 1985 in Tháng Ba Gãy Súng – 1989 Tổng Thư Ký tạp chí Văn Học – 1992 hết Tổng Thư Ký tạp chí Văn Học – 1994 lại Tổng Thư Ký tạp chí Văn Học – 1995 lại hết Tổng Thư Ký tạp chí Văn Học – 2005 Chủ Biên tạp chí Văn Học – 2009 hết Chủ Biên tạp chí Văn Học.

Những mốc thời gian Cao Xuân Huy ghi về mình, cũng là những mốc thời gian của bao người khác, chỉ có chút khác biệt là Cao Xuân Huy cầm bút, Cao Xuân Huy vướng bận thêm nghiệp văn chương chữ nghĩa. Anh tự trách mình không bằng Mai Thảo tạp chí Văn, khi Mai Thảo chẳng cần sự trợ giúp của máy vi tính, cẩn trọng viết tay từng địa chỉ độc giả để gởi mỗi tháng, phần anh có thêm máy vi tính phụ giúp mà khi là chủ biên tạp chí Văn Học, chẳng hiểu sao tạp chí Văn Học đủng đà đủng đỉnh, khi vui vài tháng một – khi buồn dăm tháng chẳng thấy tăm hơi.

1985 in Tháng Ba Gãy Súng, 2010 in vài mẩu chuyện, hai mươi lăm năm chờ đọc Cao Xuân Huy, người thích lối kể lể từ tốn bên bàn nhậu của anh bỗng sững sờ khi bị cuốn theo mạch văn cuồn cuộn có vẻ như người kể sợ rằng, nếu ngừng lại sẽ không thể kể tiếp viết tiếp được nữa.

Kềm giữ dồn nén muốn quên những điều không thể quên, là nỗi ám ảnh nỗi đau ngấm ngầm, chỉ có một cách là lẩy nó ra, khươi nó lên để giải thoát ân tình nhân nghĩa, giải thoát những điều riêng tư không phải ai cũng có thể biết có thể thấy. Đây là lý do khiến Cao Xuân Huy kể ra một lần cho hết chăng? Anh giải thoát không chỉ cho riêng anh mà cho một khối rất đông những người đã cùng thời lận đận.

Những dòng chữ rất nhỏ trên góc trang phía trái, nhỏ nhẹ:
tặng vợ “chị hai” minh và hai con
chúc dung & xuân dung
cám ơn các bằng hữu

Có thể các ông không thích bầy tỏ tình cảm ra cho nhân loại thấy, chẳng tò mò đọc chi những dòng chữ be bé ấy, nhưng phụ nữ lặng người trân mình đọc nó đôi lần, để biết các ông đã từng đi lính thứ dữ, từng vào sinh ra tử, từng quát ra lửa khói, từng thấy lưỡi hái tử thần, thấy cả thánh Phê-rô giữ cửa thiên đàng cũng có một góc dịu êm, một khoảnh cỏ mượt xanh tình nghĩa vợ chồng. Gọi vợ là “chị hai” âu yếm sáu mươi phần, bốn mươi phần là sự thật. Lìa mẹ đi lính – gẫy nghiệp lính đi tù – thoát tù vượt biên – con cái tạo ra một tay “chị hai” lo, đời “trượng phu” ngạo nghễ nằm gai nếm mật đâu không biết, dưới mái ấm gia đình, “chị hai” lo cho từng ngụm nước miếng ăn, vỗ về an ủi khi thất thế, nâng đỡ chở che khi trái gió đổi thì. Cánh chim bằng không còn tuổi đôi mươi vẫn xoải cánh bay tìm bạn cũ, cưu mang tiếp rước bạn xưa những người đã cùng chia mảnh đạn với chồng, cùng ngang dọc tung hoành, cùng say mèm ngất ngưởng chia nỗi buồn tử biệt sinh ly, sống chết xem tựa lông hồng một thuở.

Trần Như Hùng đề tựa bằng câu: “Có nhiều điều người ta sợ nói ra, dù là nói với chính mình, thế nên trong đầu anh nào cũng có lắm điều cố giấu kín.” (Fyodor Dostoyevsky)

Giản dị, chân thật, nhân bản, thẳng tuột, không tán tụng chẳng chê bai, không hờn trách chẳng kết án!

… Kể chuyện của chính mình của bạn bè (bạn lính, bạn tù), chuyện của những con người rất bình thường (nhưng không tầm thường).
…Người đọc nhìn vào nỗi niềm riêng của anh như đứng trước tấm gương bắt buộc phải đối diện với cái phần thật, nấp kín trong tiềm thức mình. Trích Trần Như Hùng

Xin phép được thêm vào:
Người phụ nữ đọc Cao Xuân Huy để yêu chồng hơn, những người chồng đã là cựu quân nhân, nhất là cựu chiến binh Thủy Quân Lục Chiến, đã bị tù đầy, bị ép xác đến tận cùng nỗi chịu đựng của con người, con người được thượng đế trang bị cho đầy đủ thèm khát “linh tinh” như tất cả các loài động vật ngo ngoe trên mặt đất, nếu không có tri thức kềm hãm thì nhân tính cũng ngang bằng thú tính, đói phải tìm ăn, khát phải tìm uống, thèm muốn phải hành động ngay, không cần biết uống thứ gì, ăn thứ gì, giao hợp để thỏa mãn cái giống gì, nhục hay không nhục, có phải van xin lạy lục ai không?

Phụ nữ đọc Cao Xuân Huy để biết góc kín khó kể của chồng, biết trong giai đoạn chiến tranh sống nay chết mai của chồng, trái tim của chàng chẳng thế nào thổn thức được với những bài tình ca ru ngủ kiểu em hậu phương còn anh nơi tiền tuyến hay nếu em không là người yêu của lính ai sẽ đón em chủ nhật trời trong, vân vân và vân vân, để bây giờ chàng buộc miệng: “Đánh trận mệt thấy mẹ thì giờ nào mà tiền tuyến hậu phương!” khi nghe mình hát.

Vài mẩu chuyện, như những mẩu thuốc lá thừa còn một nửa - một phần ba, được cất vào chiếc hộp sau khi đi tù về lại Sài Gòn, mùi thuốc thắp lại khen khét đăng đắng, người rít khói vào phổi lim dim mắt tận hưởng niềm hạnh phúc được hút khói, người không hút thuốc làm sao hiểu được lý do nào khiến “anh ấy” lim dim, nếu không nghe kể, dù lời kể muộn màng vẫn là một bài kinh siêu thoát cho bao người còn đang sống, khỏi phải thắc mắc: Tại sao chồng vẫn hút thuốc vẫn ngửa cổ chuốc hớp rượu nóng xé lưỡi vào gan cùng bạn cũ, những ngày các cụ cựu Thủy Quân Lục Chiến gặp nhau, không cần nhìn xem cấp bậc, chẳng màng quan hay lính, chỉ biết đã khoác lên vai màu áo bệt của binh chủng oai hùng, đạp đất bằng cưỡi con sóng.

Mẩu chuyện “miếng ăn” khởi đầu cho “có thực mới vực được đạo”, yếu tố bao tử này các hiền nhân khẳng định, miếng ăn là miếng tồi tàn, miếng nhục miếng . . . phải bị đói mới biết ai quân tử ai tiểu nhân. Các bà thích nhịn đói để giữ eo, cái đói tự tạo khác với cái đói tù đầy, cho nhịn đói để nhử khí phách. Khả năng sinh tồn cùng sức sống động vật, tự phát ra phản ứng “tiết tâm linh” khó kềm chế. Cái vòng lẩn quẩn uống nước để lừa dối bao tử, bao tử không nhận được chi tống sang bàng quang, bàng quang đầy ứ tống thẳng ra ngoài, lại đói lại lừa dối cái bao tử . . . Từ cơn cồn cào đói con người có lý trí tìm cách thống trị cơn đói bằng:
- cái lưỡi câu: Toàn trút hết hai thìa muối hột đổi lấy cái lưỡi câu hạng hai, sung sướng biết mình ói ra máu trong đêm lạnh, mừng rỡ khi có anh bạn Thạnh làm chứng để cán bộ canh tù tha khỏi đi lao động, có thời gian tìm đến hố bom câu cá . . .

Bằng:
- ngu như lợn: Bác sĩ quân y nhẩy dù Nguyễn Đức Mạnh nuôi chuột để có chất tươi chống đói . . .

Bằng các “phi vụ” nhọc nhằn có khi bị mất mạng, hay những “phi vụ” an toàn lục túi, soát ba lô bạn tù đều nêu lên cá tính chung riêng, đẹp xấu, ở góc độ phụ nữ nhìn vào: “Miễn sao anh còn sống về với vợ con, sợ gì ba cái lẻ tẻ nhục hơn trâu chó!”

Có chồng bị tù đầy, người phụ nữ sau năm 1975 đối diện với đói cách khác, chồng ở trong tù đói, con cái nheo nhóc đói, cha mẹ chồng đói. Hạnh phúc khi ôm thân hình da bọc xương vào lòng, nhận ra khuôn mặt chồng dù đã biến dạng, nhưng còn hơi thở ấm, còn hơn chẳng còn thấy nhau, còn hơn những cái chết vì lưỡi câu oan nghiệt, ảo giác về con cá to chia cho thằng bạn làm chứng mình đã ói máu trong đêm.

- người muôn năm cũ - hành phương nam - chờ tôi với: giúp cho các bà nhìn thấy điều chồng giảng giải trong đêm, về người bên này kẻ bên kia, cả hai người đều đánh mất tuổi xuân vì chiến tranh, chỉ khác là những người lính Việt Nam cộng Hòa mang lý tưởng bảo vệ chính nghĩa, so với những người bộ đội nhắm mắt tuân theo lệnh bắt buộc phải đi, không có sự chọn lựa nào khác.

Một tấm hình đen trắng thật đẹp thật nhân bản đã từng được trao giải ảnh đẹp, trong hình anh lính bộ binh Việt Nam Cộng Hòa nâng đầu một anh bộ đội cho uống nước từ chiếc bi-đông của mình, tôi không nhớ ngắm bức hình này ở đâu, câu cuối trong mẩu chuyện “chờ tôi với” nhẹ nhàng nhân bản, thở hắt hơi cuối chẳng bên này chẳng bên kia.

- người muôn năm cũ là một giọng nữ vừa ngọt ngào vừa the the vị bạc hà của đài phát thanh Mẹ Việt Nam, chương trình Sinh Bắc Tử Nam do cô Hiền phụ trách, chương trình này chỉ đọc tên – năm sinh - sinh quán của các bộ đội, đã tử trận đã sinh bắc tử nam vào mỗi đêm, chỉ đọc danh sách tên tuổi thế thôi mà còn hơn là khuyên bảo: ‘nên sinh đâu tử đấy, đừng tin vào bác đảng mà sinh ngoài ấy tử trong này! Tiếp theo là chương trình của ông Thầy Bói, gõ mõ tụng kinh ma quái.

Cao Xuân Huy viết đùa, phải mà còn cô Hiền thuở nào để nhờ cô đọc câu:
- Mẹ Việt Nam rất đau buồn khi có những người con sinh inh inh . . . Việt . . .iệt . . . .iệt, tử… ử… ử Mỹ... ỹ ỹ .

Viết như đùa mà đắng như ly rượu đế, cháy cả gan cả ruột, vì đâu ta tha hương, “ Hành Phương Nam”

Đôi ta lưu lạc phương nam này – trải mấy mùa qua én nhạn bay – Xuân đến khắp trời hoa rựou nở - mà ta với ngươi buồn vậy thay!. . . ta đi nhưng biết về đâu chứ - đã dấy phong yên lộng bốn trời – thà cứ ở đây ngồi giừa chợ - uống say mà gọi cố nhân ơi! (Nguyễn Bính)

Một Hồ Trường một Hành Phương Nam, đôi ta lưu lạc, rót . . . rót . . . rót . . . những phù sinh, những vần thơ có vận vào suy nghĩ của các đấng trượng phu chăng? Để nắm xương tàn thơm mùi lúa lên men, để người thương binh rót cồn lên nấm đất – chẳng đoán được giây phút mất nhau!

- vải bao cát: đọc rồi đọc lại vẫn tội nghiệp quá phận đàn ông, vác theo của nợ trời hành, thuở chinh chiến khó lòng chung thủy cùng người tình người vợ. Cao Xuân Huy thẳng ruột ngựa mà viết mà kể một cách thản nhiên, chẳng màu mè riêu cua. Các ông thứ dữ hay mang tiếng phụ phàng, lơ tơ mơ, hiếm khi mở lời trói buộc đời nhau, phần đông có sự trợ giúp từ người tình người yêu, khôn hay dại không thể kết luận được, vì các ông thích tránh né việc biến nàng thành góa phụ thơ ngây. Vài ngày phép bõ bèn gì, người tình phải trân trọng nâng niu không dám xàm xỡ, muốn gì đã có quán nhậu đèn mờ, các cô gái bán ba thoải mái, chẳng cần chỉ đỏ chỉ đen ông tơ bà nguyệt, ăn bao nhiêu bánh trả bấy nhiêu tiền. Các cô thuở ấy ngây thơ tin chàng trong trắng như thần thánh, chỉ khi gạo đã thành cơm, có con cái rồi chẳng cần tra hỏi chàng cũng sẽ từ từ kể cho nghe: “đã có lần . . .”

Chuyện trong tù, tưởng tượng nguồn sinh lực bị dồn nén muốn nổ tung, người nam thèm thuồng ham muốn - mà khi đụng vào mảnh vải bao cát nhám ráp che phần thân thể kín đáo của người phụ nữ đáng thương nghèo nàn, nỗi thương cảm đau lòng đã dập tắt ngún ngọn lửa dâm dục, bàn tay nháp nhúa lợi dụng cơ hội thành mền nhũn trân trọng vuốt ve, sự liên đới giữa hai thân phận kiếp người, giữa anh được dùng biểu tượng mũi tên chỉa lên, và em với biểu tượng mũi tên chúi xuống thăng hoa thần thánh.

- quyền tối thiểu: cũng thế, có thể bị xem là cường điệu, bị cười là tán dóc ba xạo, nếu có thật thì người vợ tù có hiểu được khí phách của chồng, khi đã thấy mây cuồn cuộn mà mưa chẳng đổ ào, một thân thui thủi trong góc nhà tạm trú thăm tù.

Khi súng bị bẻ gẫy, làm thân tù được vợ đến thăm, bao người cắn răng gìn lòng giữ dạ, sợ vợ mang thai khổ thân vợ khổ thân con. Nhưng không ít cháu được mẹ hãnh diện khoe: “Con được tượng hình trong tù với Ba!” được hãnh diện mang tên địa danh nơi cha bị giam giữ.

Mẩu chuyện kể của Cao Xuân Huy trong “quyền tối thiểu” và lời hãnh diện nghe được từ người vợ tù cộng sản, đều vinh dự ngang nhau, quyền tối thiểu làm chồng làm cha không ai có thể tước đi được.

Phần các ông chờ đợi đến khi được thả về nhà, để có tuần trăng mặt thứ hai trong đời, cũng đáng được ca ngợi xưng tụng là thánh sống tưởng người mất đi nhưng anh lại về .

- trả lại tiền: là mẩu chuyện hay nhất được diễn tả bằng những câu gióng một, gióng hai. Đọc xong mùi hoa ngọc lan – mùi cây ngai ngái ban đêm của những con đường Hồ Xuân Hương – Huyền Trân Công Chúa – Nguyễn Du thoang thoảng. Có một thời gian, phụ nữ sợ bị mang tiếng lây khi đi ngang các con đường này, vì các cô gái giang hồ thoáng ẩn thoáng hiện. Qua câu chuyện kể Trả Lại Tiền này, các cô tựa gốc cây gõ, gốc cây dầu ấy có ai trong họ biết được nhà văn Cao Xuân Huy đã trả lại chút nào khung vàng giá ngọc cho một kiếp hoa buồn, thay vì bao lâu trước họ bị dìm xuống bùn đen xã hội vì tội bán trôn nuôi miệng.

Câu chuyện thuật lại người đàn ông ra khỏi trại tù, đi tìm nơi giải tỏa sinh lý, nơi ấy là công viên trước dinh Độc Lập. Sau ngày được thả ra khỏi tù, đồng nghĩa với nghèo, bị công an trù dập khốn khổ, tương lai mù mịt, Sài Gòn tươi đẹp đã thành người đẹp bị tạt acid, loang lổ đớn đau. Trả giá cho cuộc mây mưa từng đồng, người mua phải chọn lựa giữa hai sự thiếu thốn, đói cái này hay đói cái kia - người bán phải trù tính, thà có chút đỉnh hơn không có chi. Rồi thì bị bắt tại trận, rồi thì anh chàng thanh niên phường khóm làm nhiệm vụ bảo vệ thành phố văn minh sạch đẹp theo lệnh của công an khu vực, có người anh cũng bị đi tù cộng sản, thông cảm binh vực người mua, bắt người bán phải trả tiền lại! Trong đoạn văn:

Gã đàn ông lên xe đạp đi. Ðợi tên dân phòng đi khuất, gã vòng xe lại, đến gần ả:
- Này. Tôi trả lại năm đồng.
Ả quay lại. Cái nhìn đậu trên mặt gã vài giây, rồi nói:
- Thôi, giữ lấy xài đi.

Câu nói trổng thiếu chủ từ của cô gái điếm không tên ấy, đáng ghi nhớ hơn ngàn câu hoa mỹ các anh đã từng nghe ca sĩ hát ca tụng lính trên các làn sóng phát thanh.

Người viết Cao Xuân Huy không so sánh, chẳng kể ra những chuyện người tù trở về nhà xưa có cán bộ ở, vợ xưa có cán bộ nuôi, các con quàng khăn đỏ đi học, nhưng nhập nhòa thuở ấy chẳng thiếu gì chuyện chẳng đặng đừng, chuyện bán cái ngàn vàng để sống còn của phụ nữ có lẽ nhẹ nhàng hơn các ông phải bán đi khí tiết hào sảng của mình để đổi lấy vài mẩu đường tán, vài ngụm thuốc lào.

Và vài mẩu chuyện nho nhỏ, dẫn theo trăm mẩu khác người đọc đã từng biết, không dám kể ra, không có tài viết lại, ngay cả không đủ can đảm đào bới đống tro tàn, sợ nói ra dù chỉ nói cho chính mình nghe,

“…. thế nên trong đầu anh nào cũng có lắm điều cố giấu kín.” (Fyodor Dostoyevsky)”

Tháng 09 – 2010

. . . Anh Cao Xuân Huy ơi! Nhận sách của anh vào ngày đại hội Thủy Thần Mũ Xanh San Jose tháng Bảy- 2010. Ấu Tím là người phụ nữ tầm thường, chỉ có tấm lòng yêu binh chủng của chồng để dám ghi lại cảm nghĩ của mình về những điều anh nhắc đến khi còn trong quân ngũ, anh kể lại khi bị tù đầy. Nhận xét của Ấu Tím nông cạn không thể len lỏi được vào những khía cạnh rộng lớn bao trùm nhân sinh quan – đạo đức quan to tát. Những cảm nhận đơn sơ này, giống những lần được các anh cho phép ngồi chầu rìa bàn nhậu, nghe kể những chi tiết các trận đánh năm xưa, đôi khi có kèm theo tên vài bóng hồng quá khứ, mỉm cười, nói vài câu để gợi hứng cho các anh kể tiếp.

Khi anh viết, hẳn anh đã chẳng cần đào bới gì sất, chỉ như Mạnh Chuột “cong đít” đào giếng “giơ cuốc lên thì chim đậu, hạ cuốc xuống thì mối đùn”. Ngày này còn viết kể lan man gởi gấm lòng mình cho người đọc, giống như dùng ngòi bút đâm thẳng xuống mặt bàn bằng đá, chữ trơn tuột chạy ý bốc hơi bay vì người đọc thờ ơ hờ hững.

Độc giả hai mươi lăm năm trước đọc “Tháng Ba Gẫy Súng” khác với độc giả bây giờ đọc “vài mẩu chuyện”, anh xem tràn lan tí ngọ trên những trang web, những chuyện kể chẳng đầu đuôi, bao chuyện bôi bẩn, những tranh chấp tố tụng ai đúng ai sai, kèm vào là quá khứ bị thổi phồng hay lăng nhục. Người cựu chiến binh Việt Nam trong các quân binh chủng ai cũng mang một vết sẹo khó lành.

Anh ạ! Anh đang đau, đọc lại bài anh viết về nhà văn Mai Thảo, nhắc đến tác phẩm anh thích đọc “Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật” của ông 1967, em thì hậu thế hơn nên thích thú Để Tưởng Nhớ Mùi Hương – Tình Yêu Màu Khói Nhạt – những tác phẩm được sinh viên học sinh thích thú đọc, gò gẫm viết sao cho bóng bẩy từng nét phẩy, dấu chấm vào thập niên 70.

Anh ít nói chuyện văn chương dù anh được người tình văn chương ôm choàng lấy, để Cao Xuân Huy tiểu đoàn 4 Kình Ngư trở thành Cao Xuân Huy Tháng Ba Gẫy Súng.

. . . Anh Cao Xuân Huy ơi! Anh còn nợ độc giả trận đánh Cửa Việt trước giờ gẫy súng, câu chuyện có nhiều người muốn nghe kể chi tiết, cũng nhiều người muốn quên đi.

Anh đau thân muốn nằm, người lính tên bốn chữ TQLC ngạo nghễ dễ mến, nay chấp nhận phán quyết của y học chịu thua cơn bệnh có tên sáu chữ cancer. Anh vẫn cười, nụ cười pha màu nắng nhạt cuối thu, sợ gì anh nhỉ ai chẳng một lần, đời người đã sống qua bao thăng trầm vinh nhục – thành công của con người là khi nằm xuống được bạn bè quí mến thương yêu rơi nước mắt tưởng tiếc.

Qua chồng em, tiểu đoàn 6 Thần Ưng, em biết đến anh trước khi anh biết em, mối thân tình không cần tạn mặt mới kết được thâm giao, quý nhau qua tình trọng nhau qua cách sống.

Em quí “chị hai Minh” tấm lòng hiền hòa chịu thương chịu khó, lần này chị Hai lo lắng cho anh mệt mỏi biết bao, chị gầy xọp hẳn đi.

Chị ơi ! em gởi chị một vòng tay thân thiết, ôm chị thật chặt để chị biết rất nhiều lời cầu nguyện chân thành gởi đến anh chị lúc này.

Nụ cười an nhiên, chiến thắng được tất cả ngổn ngang, mỗi con người bắt buộc phải một lần đối diện.

Thân kính.
Ấu Tím
Tháng 11 - 2010

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” 2Q==
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng”   Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeSat Oct 18, 2014 10:49 am


CAO XUÂN HUY CHUYỆN CHƯA AI KỂ


Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Cxh-va-me-uc
Cao Xuân Huy và Mẹ ĐH Úc Châu 2009


Mãi tới năm 2007 tôi mới biết mặt anh dù đã nghe tiếng anh từ lâu, vào khoảng đầu thập niên 90 tuần báo Nam Úc tại Adelaide có đăng bút ký “Tháng 3 gẫy súng” của anh, tôi đọc say mê và nóng lòng chờ đợi mỗi tuần cho những đoạn kế tiếp một phần vì lối hành văn thoải mái ,thẳng thắn, trần trụi rất lính của anh,phần khác là tò mò xem anh viết về chuyện mà mình cũng tham dự, chờ đợi trong nôn nao bởi vì là tuần báo nên hằng tuần sớm nhất ngày thứ Năm mới có báo.Tôi cũng được gặp mẹ anh là bác Nguyễn Thị Nhiên tức Nữ sĩ Đan Thanh ( sau này khi thành lập Liên Hội bác là người mẹ Tinh thần của anh em MX trong Liên Hội và lần ĐH nào ở Sydney bác cũng tham dự với những bài thơ lúc dí dỏm hay dạt dào tình cảm như nụ cười hiền hậu của bác ,tuy khi tổ chức ở Melbourne hay Nam Úc vì tuổi cao bác không tham dự được nhưng cũng gửi thơ tặng và đan khăn quàng cổ màu xanh cho các con trai, mũ bê-rê bằng len xanh cho các con dâu của bác ) lần đầu năm 2001 trong ĐH/TQLCVN tổ chức tại nhà hàng Kim Sao Lầu trên đường John street vùng Cabramatta thuộc thành phố Sydney, lúc đó hiện diện gần 50 MX trong ĐH với số lượng đông đảo quan khách lên đến trên 400 ( nghe các anh nói phải trên 60 MX cư ngụ tại thành phố này ), những năm sau tôi đều gặp bác Nhiên và cũng đã được nghe nói về bác trai vốn là một người viết văn, làm thơ có tiếng tại Hà Nội khi xưa nên tôi không ngạc nhiên lắm về tài viết văn của anh.

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Cxh-uc-2007-01

Thật sự khi tham dự ĐH/TQLCVN năm 2007 tạiMelbourne, tôi không hề biết có sự hiện diện của anh chị, chỉ biết sẽ có ĐB Tango và TQ Phu Nhân từ Mỹ sẽ đến với anh em “miệt dưới”, như vậy cũng đủ náo nức với các MX Nam Úc rồi ( sẽ viết về cảm tưởng của tôi với hai vị trong một bài viết khác ), cho đến khi chúng tôi đến nhà anh chị Phạm Sĩ Bắc mới nghe nói là có anh tham dự, lúc đầu khi gặp anh tôi cũng có chút tò mò xem một nhà văn nổi tiếng từ lâu hành xử như thế nào với các MX “miệt dưới” mà hầu hết là những anh em cấp nhỏ nên tôi cũng để ý quan sát anh. Điều đặc biệt đầu tiên tôi nhận thấy là anh có nụ cười thật tươi rất hiếm người có, thứ đến anh nói chuyện thật thẳng thắn, thoải mái, bình dân với mọi người, không hề có một chút kênh kiệu,ta đây, tạo cho người đối thoại cảm giác gần gũi, tin tưởng làm tôi mến anh ngay nhưng anh không biết vì tôi không hề nói ra điều ấy suốt mấy ngày gặp nhau trong ĐH. Tôi cũng cảm thấy anh thật khác lạ nếu không muốn nói là trái ngược so với những gì tôi đọc được trước đây qua những người bạn văn viết về anh, một người ít nói, khó gần, trầm ngâm chỉ cười mủm mỉm và uống rượu như hũ chìm, riêng khoảng uống rượu thì đúng như thế, tửu lượng anh thuộc hàng cao thủ, anh uống liên miên nhưng không hề say.Tôi thường đứng uống bia ..cầm chừng và nghe các anh kể chuyện khi chờ quan khách đến, vì mỗi năm chỉ gặp nhau vài ngày nên đủ thứ chuyện trên đời được gom lại kể ở đây, chuyện xưa , chuyện nay, chọc người này ghẹo người kia ,ngay cả các chuyện tiếu lâm chay, mặn,nên lúc nào cũng rộn rã tiếng cười không khí rất là…….lính. Dù rằng:

Những thằng bạn buổi hôm nào áo trận
Thoắt giờ đây: tóc đã điểm hoa râm
Khi gặp lại từ phương này quả đất
Chợt nhìn lên: giờ vầng trán đã nhăn

Trong đôi mắt mỏi mê cùng cơm áo
Có chút gì phảng phất của quê hương…
( Trích Ngày gặp bạn cũ.Thơ Trần Hoài Thư )

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Cxh-uc-2007-02

Tuy vậy nhưng khi khoác bộ đồ lính vào, người nào trông cũng trẻ ra và coi vẫn còn phong độ lắm. Anh cũng hòa nhập vào cùng uống, cùng hút, cười đùa và tán gẫu với anh em, tôi có cảm tưởng đây mới là những giây phút sống thực của anh, càng uống anh lại cười càng tươi, càng rộn rã, anh như bay bổng trong một khung trời thuộc về mình giữa những đồng đội của anh, bởi vì khi có một anh hỏi:
- Anh Huy Đại Hội bên Mỹ có vui như ở đây không?
Một thoáng ngập ngừng anh trả lời:
- Cũng …vui nhưng… làm sao vui như ở đây được.

Hôm Chủ Nhật trong lúc chờ quan khách tới dự tiệc mừng lúc tôi và vài anh em đang đứng tán gẫu, hút thuốc bên ngoài hội trường anh đi ra hỏi tôi còn thuốc lá không? Tôi đưa thuốc rồi bật lửa cho anh mồi, anh hỏi:
- Mày ở Nam Úc hả? có biết Đ/u Hanh không? Tôi hỏi lại:
-Phải anh Nguyễn Tiến Hanh Pháo binh không? Anh trả lời:
- Ừ, mày quen hả? Tao vẫn muốn thăm anh ấy mà chưa sắp xếp được. Tôi nói:
- Biết chứ không quen vì ít khi gặp, chỉ thỉnh thoảng gặp chào hỏi vài câu thôi ,vả lại anh Hanh cũng rất ít nói nhưng anh quen anh Hanh như thế nào? Anh trả lời:
- Đù.. má. Ổng là anh thằng bạn tao nhưng thương tao còn hơn em ruột, đù..má, hồi đó mỗi lần về phép kẹt tiền đến ổng là có bao nhiêu trong túi ổng móc ra quăng cho tao không thèm đếm, thế là lại có tiền rượu, gái vi vu.
- Vậy thì kỳ này xuống Adelaide đi.
- Đù..má, lần này chưa được, chắc phải kỳ tới.

Khi trở lại Nam Úc, một hôm tôi tình cờ gặp anh Hanh ở tòa soạn báo Nam Úc, tôi có nhắc chuyện anh Huy tính xuống đây thăm anh và khen tửu lượng anh Huy ghê thiệt. Anh Hanh nói:
- Cái thằng bịnh hoạn quá mà khuyên không nghe, cứ nốc rượu tì tì thôi.
- Không đâu, thấy anh mặt mũi hồng hào, khỏe mạnh lắm mà.
- Coi vậy mà không phải vậy đâu. Tuy không tin nhưng tôi không nói gì thêm.

Rồi tôi gặp lại anh tại ĐH trên Sydney năm 2009, lần này anh đi một mình một công hai chuyện, vừa thăm mẹ già vừa dự ĐH luôn, lại xáp nhau cười nói rôm rả, hút thuốc,uống bia và …. chửi thề, cũng vẫn những chuyện trên trời dưới đất, chọc ghẹo nhau như con nít rồi cười hô hố với nhau thân tình như những năm còn trong quân ngũ, nụ cười vẫn tươi, uống bia từ sáng đến tối, từ tối đến khuya mà vẫn không thấy anh say, kỳ này anh có tay bạn nhậu là Peter một thân hữu của Hội Victoria, thích TQLC nên đi theo, tay này cũng thuộc hàng cao thủ lúc nào cũng có lon bia trong tay kể cả sáng sớm.

Tối thứ Bảy sau lễ Truy điệu, khi quan khách dùng tiệc trà đã hơi vãn thì mẹ anh và ông Nguyễn Ngọc Tần (anh Tần là cựu Chủ tịch CĐNVTD/Nam Úc trước ở Adelaide sau này mới dọn về Sydney vì các con anh đều có việc làm tại Sydney, nên anh em Nam Úc đều quen biết, anh cũng đến xin chụp hình chung với nhóm Nam Úc vài tấm để kỷ niệm ) đến rủ anh Huy đi dự tiệc của Hội cựu nữ sinh Trưng Vương hay Gia Long gì đó nhưng anh Huy từ chối. Hai người vừa rời khỏi được vài phút anh bỗng nói:
- Đù… má, ba bốn chục năm trước không chịu mời cho tao nhờ, b
ây giờ thành bà nội, bà ngoại hết rồi mới mời, đi làm… đíu gì.

Mọi người lại cười rần rần, rồi lại uống cười đùa cho đến khuya, khi mọi người từ từ đi ngủ gần hết nhìn đồng hồ gần hai giờ sáng tôi nói với anh:
- Chắc tôi cũng phải đi ngủ một chút, anh về nhà hay vào đây ngủ luôn? ( chỗ ngủ lần này là một cái hall lớn của CĐ nên anh em sẽ ngủ theo lối tập thể như thời xưa trong lính, mỗi tên một sleeping bag kiếm một góc nào là xong ). Anh nói:
- Ừ! Mày đi ngủ đi chắc tao về nhà tắm một phát đã.
- Trong này có phòng tắm đầy đủ anh vào tắm đi.
- Không được vì quần áo tao để ở nhà, mày cứ đi ngủ đi tao uống với thằng Tây này cũng được.

Sau khi đánh răng rửa mặt, tôi ôm túi ngủ đi kiếm một góc nào tương đối không có…. “ban nhạc hòa tấu” để cho dễ ngủ, lúc rời khỏi hall chính vẫn thấy tay anh đang cầm lon bia uống.

Tiếng ồn ào lục đục làm tôi thức giấc dù mới ngủ được vài giờ, nhìn đồng hồ mới hơn 5 giờ nhưng cũng phải dậy vì anh em bên Công giáo phải đi dự lễ Chủ Nhật sớm, sau đó còn họp rồi trang trí, dọn dẹp chuẩn bị đón quan khách cho Dạ tiệc, làm vệ sinh cá nhân xong đi ra đã thấy anh đang ngồi uống bia với Peter rồi, tôi hỏi:
- Úa! Anh không ngủ chút nào sao anh Huy?
- Ừa! tao về tắm là trở qua uống với thằng Tây này, đù... má, mấy ngày này cần gì ngủ mày, đù…má, thiếu gì thời gian để ngủ. Đúng là:

Thức với nhau đêm tàn mưa đổ.
Ngủ làm chi còn cả đời sau.
Đừng ném xuống hồn tôi huyệt mộ.
Mai xa rồi thêm một vết đau.
( Trích Lời cuối. thơ Nguyễn Thị Thanh Bình ).

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Cxh-uc-2009

Buổi chiều hôm đó trước Dạ tiệc, mẹ anh đến sớm khi anh và chúng tôi đang đứng tán gẫu, bác cũng đến góp chuyện với chúng tôi cho vui, thấy anh tay vẫn cầm lon bia uống tì tì, bác dịu dàng mắng yêu kể:
-  Anh ấy hư lắm cơ, hồi trước cũng vậy chỉ uống không ăn, cứ về phép đảo qua nhà rồi biệt tăm, chỉ biết có bạn bè thôi trong khi mẹ ở nhà chờ mong, có lần tôi bực quá tôi lấy roi bắt nằm xuống, vậy mà anh cũng nằm, mà nào có đánh được đâu, chỉ đặt cây roi lên mông anh rồi… khóc, anh cũng nằm yên cho tới khi tôi phải nói dậy đi anh mới ngồi dậy.

Khi bác vừa đi khỏi, chúng tôi liền hỏi anh:
- Chuyện này có thật không anh Huy? Lúc đó anh đi lính rồi à?
- Ừ! Đù… má tụi mày biết tao...  éo sợ gì cả, chỉ sợ nhất là… nước mắt đàn bà.

Tôi cũng ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, anh một người ngang tàng, chẳng sợ trời, sợ đất gì cả nhưng lại rất có hiếu với mẹ.

Trong khi ăn uống, ngồi chung bàn tôi có hai chị thân hữu cũng khoảng ngoài 50, một số MX Nam Úc như MX Trung Tđ 9, MX Ước TT,MX Sơn TX v.v…. và hai vợ chồng còn trẻ, lúc Trung giới thiệu đây là con của Đ/tá Hường LĐ 1 Kỵ binh tên Nguyễn Thế Hùng và vợ ( trước ở Nam Úc tôi biết bác gái là Như Ý, con trai Nguyễn Thế Phong sau này là Chủ tịch CĐNVTD/VIC,con gái Dạ Thảo,Dạ Hương, Thế Hùng lúc đó đều còn nhỏ, họ lại rời lên Sydney đã lâu nên tôi quên mặt ), chợt nhớ anh Huy có nói Đại đội anh từng biệt phái cho LĐ 1 Kỵ binh và từng gặp Đ/tá Nguyễn Văn Hường ( nghe nói ông sống ở Mỹ ), tôi mới tìm anh rồi nói:
- Anh Huy tôi giới thiệu với anh con trai của một cố nhân. Anh hỏi:
- Ai?
- Con trai út của Đ/tá Nguyễn Văn Hường LĐT/LĐ 1 Kỵ binh. Anh sôi nổi vừa đẩy tôi vừa nói:
- Đâu? Đâu? Đù... má thằng nào là con Đ/tá Hường đâu? Đù... má thằng nào? Đâu? Đâu? Tôi cũng hơi khớp chắc mình làm chuyện tào lao, dám thằng nhỏ bị đòn quá nên cũng chuẩn bị có gì thì cản ngay. Khi vừa gặp Thế Hùng anh nhẩy lại…. ôm, kéo ra khỏi bàn ăn một quãng, miệng nói:
- Đù… má ông già mày được lắm, đù... má được lắm, tao chịu ông già mày,đù... má…. bây giờ ông ở đâu mày… rồi hai người nói chuyện riêng với nhau, chúng tôi trở lại bàn ngồi ăn.
Được khoảng mười,mười lăm phút thì MC Trần Như Hùng giới thiệu nhà văn Cao Xuân Huy tác giả “Tháng 3 gẫy súng” với thực khách rồi réo anh:
- Ông Cao Xuân Huy, Cao Xuân Huy đâu rồi? lên tặng hoa cho ca sĩ đi chứ.
Trong khi anh từ từ cầm hoa lên tặng cô ca sĩ thì một trong hai bà trong bàn tôi cũng rất bạo miệng hét thật to:
- Ông... gẫy súng, ông gẫy súng, súng gẫy rồi còn làm ăn gì được mà tặng hoa với quả.

Làm mọi người cười ồ lên, anh cũng nhìn xuống… cười. Sau đó mấy thằng rủ nhau ra ngòai “xông hương” cho đỡ nhạt miệng, anh cũng theo ra vừa đi vừa nói nhỏ:
- Đù… má, súng tao không gẫy gặp mấy em này cũng đíu… lên nổi.
Chúng tôi đều cười vui rồi vừa hút thuốc , uống bia vừa trò chuyện tán dóc, tiện dịp có cả MX Kình Ngư Phạm Minh Tâm đứng đó, chúng tôi mời anh xuống Nam Úc chơi, anh nhận lời rồi nói sau ĐH anh sẽ đi Melbourne chơi mấy ngày rồi sẽ xuống Adelaide.

Sau ĐH lúc anh đang ở Melbourne có gọi báo sẽ xuống chơi nhưng MX Phạm Minh Tâm không xin nghỉ được có nhờ tôi đón tiếp anh những khi MX Tâm không có nhà, tôi gọi xuống nói rõ sự việc rồi tha thiết mời anh xuống chơi, anh bảo sẽ suy nghĩ rồi cho biết sau, cuối cùng anh đổi ý không xuống nữa, tôi nghĩ anh không xuống vì MX Tâm cùng ở Kình Ngư lại biết nhau từ VN dễ nói chuyện hơn chứ không như tôi mới biết anh đây lại khác đơn vị, lại không khéo đẩy đưa, biết gì mà nói, chưa kể lối nói chuyện lắp bắp như tôi thì… chán lắm, chán lắm. Anh hẹn dịp khác nhưng không ngờ còn dịp nào nữa vì chỉ năm sau là anh đã ra đi.

không thể nào không nhớ
đạn nổ rền trong đầu
bảng tên đời mốc thếch
gãy súng rồi chạy đâu?
gãy súng
gãy súng
tháng ba gãy
tay gờm chân dợm chạy
gãy súng rồi
về đâu? (Thơ Hoàng Xuân Sơn)

Về đâu ư! Tôi chắc anh đang ở một vùng miên viễn thênh thang, ở một nơi không còn những hệ lụy, một nơi không cần uốn lưỡi tránh né, một nơi không còn phải e dè những ganh tị, đua chen, một nơi đầy rượu, thuốc lá ngon và một nơi không cần phải… ngủ vì không có bóng đêm hiện diện.

Vâng, xin anh hãy rong chơi cuối trời phiêu lãng và hãy nhận lời nói muộn màng của một thằng em chỉ gặp hai lần nhưng không ngắn ngủi, vì mỗi lần chúng ta gặp nhau tới cả mấy chục giờ, mà vẫn chưa kịp nói.

- Tôi mến anh lắm. Anh Huy ạ.

MX Thạch Ngữ
12/11/2011
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng”   Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeSun Apr 12, 2015 2:14 pm

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” P11


ANH HÙNG MẠT LỘ BIỂN THUẬN AN

Lý Thừa Nghiệp 
Thứ Bảy, ngày 11 tháng 4 năm 2015

* Tưởng nhớ anh CAO XUÂN HUY



Anh hùng gẫy súng biển Thuận An
Tháng ba tháng tư cùng ứa lệ
Cao Xuân Huy hề! con trăng xế
Thông reo vi vút sầu bạt ngàn.

*

Anh hùng mạt lộ biển Thuận An
Vuốt mặt mang mang hận dã tràng
Cuồng phong chinh chiến đương nghi ngút
Bỗng rơi tan tác bỗng hoang tàn.

*

Anh hùng ngã ngựa bến Thuận An
Cắn môi nghe ứa máu cang trường
Thần linh sóng dạt bờ lau lách
Đất trời muối mặt với quê hương.

*

Tháng ba tháng tư cùng ứa lệ
Sa cơ sầu chất bến Thuận An
Tấm thân chiến sĩ hề! dâu bể
Tấc lòng xin gởi gió phương nam.


.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng”   Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeMon Apr 02, 2018 1:34 pm

.

Nhớ lại “Tháng Ba gãy súng"
Chủ Nhật, 1 tháng 4, 2018

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” BuiVanPhu_20180328_ThangBaGaySung_H01_CaoXuanHuy
Cao Xuân Huy và tác phẩm của ông
viết về cuộc di tản khỏi Huế cuối tháng 3/1975

Tựa bài viết này cũng là tên một tác phẩm của Cao Xuân Huy, một sĩ quan Thuỷ quân Lục chiến, viết về những ngày cuối cùng của cuộc chiến ở miền Trung Việt Nam, nơi ông chiến đấu cho đến khi cùng nhiều đồng đội bị bắt làm tù binh vào cuối tháng 3 năm 1975.

Với nhiều người Việt, nhất là những người lính Việt Nam Cộng hòa thì tháng 3 năm 1975 đánh dấu sự bắt đầu một khúc quanh lịch sử, với Ban Mê Thuột rơi vào tay bộ đội cộng sản ngày 10 tháng Ba, từ đó lãnh đạo miền Nam có những quyết định di tản chiến thuật sai lầm đầy máu và nước mắt, từ cao nguyên về Nha Trang, từ Đà Nẵng vào Sài Gòn để rồi dẫn đến một ngày cuối tháng Tư đau buồn.

Tác phẩm “Tháng Ba gãy súng” được xuất bản năm 1985, sau khi tác giả vượt biển và được định cư tại Mỹ năm 1983.

Cao Xuân Huy nhập ngũ năm 1968, khi vừa tròn 21 tuổi, theo lệnh tổng động viên được ban hành ở miền Nam sau các đợt tấn công của cộng sản vào Tết Mậu Thân.


Đây là cái nhìn về những ngày cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam qua con mắt của một sĩ quan trẻ thuộc một đơn vị được coi là tinh nhuệ nhất của quân đội cộng hòa, của cựu trung úy Đại đội phó Đại đội 4, Tiểu đoàn 4 Thuỷ quân Lục chiến.

Trong lời mở đầu của tác phẩm, tác giả viết: “Tôi không phải là một nhà văn, mà tôi chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi viết trong quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần trăm được kể lại bằng chữ.”

Câu chuyện được ông ghi lại là khoảng thời gian từ 15 tháng Ba, lúc tác giả đang nghỉ phép ở Sài Gòn và tìm cách trở về đơn vị hiện đóng quân ở cây số 23 phía bắc Huế, cho đến ngày 27 tháng Ba, khi ông theo đoàn tù binh gồm những người lính Việt Nam Cộng Hòa vừa bị bắt sau một cuộc rút lui vô cùng ngỡ ngàng theo lệnh cấp trên.

25 tháng Ba, 1975 Huế rơi vào tay cộng sản Bắc Việt. Những người lính không được lệnh bảo vệ mà phải rút lui, trong đó có đơn vị của trung úy Cao Xuân Huy đang nằm chờ ở bờ biển để được di tản vào Đà Nẵng. Đêm 26 rạng ngày 27 tháng Ba, ông và những người lính còn lại của đơn vị bị bắt làm tù binh.

Được dẫn đi dọc Quốc lộ 1 từ Huế về hướng bắc và trên đoạn đường đó nhiều tù binh đã bị bộ đội xử bắn tại chỗ. Cao Xuân Huy thoát chết là nhờ số mệnh, nhờ ông ngoại phù hộ như tác giả đã kêu cầu nhiều lần khi đối diện với tử thần.

Ông đã sống để kể lại những gì mình chứng kiến trong 12 ngày đêm ở tuyến đầu miền Nam Việt Nam qua cách viết chân thực, trong đó rổn rang những tiếng chửi thề, ngập hơi rượu, tình đồng đội và những cái chết nhẹ tựa lông hồng là điều rất thực về người chiến binh trong đơn vị của ông.

Những kinh hoàng của cuộc triệt thoái – hay rút lui, di tản chiến thuật – được kể lại bằng ngôn ngữ thật nhất. Máu, thịt vương vãi. Đầu chẻ làm hai. Người chết dưới xích xe tăng, chết giữa thành sắt của những con tàu. Những người lính bất tuân lệnh bị xử bắn ngay tại chỗ. Những người lính Thuỷ quân Lục chiến can trường không muốn để bị địch bắt làm tù binh, trên đường rút lui không còn hi vọng, vì biết đã bị bỏ rơi, nên cứ ba bốn người ôm nhau rồi cho nổ lựu đạn để cùng chết.

Khi chờ di tản đơn vị có những chuyện khó ai hiểu được. Một cô sinh viên văn khoa Huế với đầy đủ giấy tờ chứng minh, bồ của một người lính, cứ nhất định đòi đi theo người tình và thỉnh thoảng khóc lóc lớn tiếng, vái lạy tứ phương khiến có người nghi ngờ cô là cán bộ cộng sản được gài vào đi theo đơn vị. Hay hình ảnh một nhà tu đầu trọc, mặc áo cà sa đeo súng đi bắt tù binh Việt Nam Cộng hòa.

Câu chuyện lịch sử quân đội mà Cao Xuân Huy muốn ghi lại là một lữ đoàn Thuỷ quân Lục chiến, binh chủng thiện chiến nhất của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, bị một đại đội Việt Cộng bắt làm tù binh. Sự thất bại nhục nhã đó là một dấu hỏi lớn mà lãnh đạo miền Nam phải trả lời cho những thế hệ mai sau.

Sau “Tháng Ba gãy súng” xuất bản lần đầu năm 1985, Cao Xuân Huy chỉ viết thêm một tác phẩm nữa là “Vài mẩu chuyện” phát hành trong năm 2010, vài tháng trước khi ông qua đời ngày 12/11/2010.

Cũng với lối viết giản dị nhưng rất thực về chiến tranh, về mơ ước hoà bình, về đời sống tù cải tạo mà ông đã trải qua 4 năm rưỡi trong đó. Đọc truyện “Người muôn năm cũ” để thấy ảnh hưởng của chiến tranh tâm lí mà đài Mẹ Việt Nam đã có sức mạnh làm lung lay tinh thần chiến đấu của bộ đội miền Bắc với giọng cô Hiền thường xuyên nhắc đến chuyện “sinh Bắc tử Nam”.

Câu chuyện gặp gỡ giữa tác giả và một anh bộ đội miền Bắc sau giờ ngưng bắn, vào ngày 28/01/1973, cho thấy người Việt hai miền ai cũng mơ ước đất nước hòa bình. Nhưng anh bộ đội đã phải thay đổi thái độ ngay khi một đồng chí khác tiến đến gần chỗ hai người đang đứng nói chuyện với nhau. Để rồi chỉ chốc lát lại bắn giết mà anh bộ đội gốc Hà Nội chắc đã tử trận sau đó. Bi thảm của chiến tranh tưởng như chấm dứt với Hiệp định Ba-Lê 1973, nhưng nỗi oan nghiệt của hòa bình lại ùa tới.

Hệ quả của cuộc chiến với bao oan hồn của người dân, người lính còn ám ảnh tác giả qua câu chuyện “Chiếc lưỡi câu” ma quái.

Cao Xuân Huy chưa bao giờ viết văn khi còn ở trong nước, ông chỉ viết khi ra đến hải ngoại. Trước ông, trong cuộc chiến đã có những bút ký chiến tranh của Phan Nhật Nam là “Mùa hè đỏ lửa”, “Dựa lưng nỗi chết”, “Tù binh và hoà bình”; của Trang Châu với “Y sĩ tiền tuyến” hay của Nguyên Vũ với “Đời pháo thủ”, “Sau bảy năm ở lính” là những tác phẩm đem đến cho người đọc hình ảnh chiến đấu can trường, cùng tình đồng đội, tình cảm gia đình, thương yêu và mơ ước hoà bình đến trên quê hương của người lính cộng hòa.

Nhưng vì sao những người lính đã chiến đấu trong 20 năm để bảo vệ miền Nam bị buộc phải buông súng. Đến nay vẫn chưa có được những lí giải.

Những ngày cuối tháng Tư 1975, Sài Gòn tràn ngập người di tản từ Đà Nẵng, từ Huế, Nha Trang. Họ như mất thần, khóc lóc kể lại những cảnh chết chóc tang thương trên đường di tản bằng tàu, bằng đường bộ. Những câu chuyện chưa đánh giặc đã phải bỏ chạy làm ngạc nhiên nhiều người. Nhưng dân và cả lính không ai hiểu nổi.

Rồi chiến tranh chấm dứt ở đó vào ngày 30 tháng Tư, 1975. Những người lính ở lại chấp nhận cuộc đổi đời với tù tội trong các trại học tập cải tạo. Bên ngoài xã hội đời sống khó khăn với khoai sắn, bo bo, mì sợi. Văn nghệ sĩ, trí thức bị đàn áp, bắt giam.

Việt Nam dưới ánh sáng xã hội chủ nghĩa trong hơn bốn thập niên qua đã khiến hàng triệu người bỏ quê hương ra đi vì không chấp nhận ý thức hệ cộng sản. Điều nghịch lý là nhiều người từng đứng về phía kẻ thù của Mỹ nay cũng đang rời bỏ thiên đường để mưu tìm cuộc sống nơi đất Mỹ.

Và tầu chiến Mỹ nay đã trở lại Đà Nẵng, như lính Mỹ đã từng đổ bộ lên đây hơn nửa thế kỷ trước, giữa lúc chiến tranh đang gia tăng cường độ để be bờ, ngăn chặn Trung Quốc bành trướng.

Trong chuyến ghé Đà Nẵng của hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson hôm đầu tháng 3/2018, thủy thủ Mỹ đã xuống phố hát “Nối vòng tay lớn” và mời gọi dân chúng cùng đồng ca. Đây là bài ca đã được chính tác giả là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hát trên đài Sài Gòn trưa ngày 30/4/75 để chào đón bộ đội cộng sản vào thủ đô Sài Gòn giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Xem cảnh này trên trang Facebook của Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Daniel Kritenbrink, tôi thầm cám ơn những người lính cộng hòa đã bảo vệ miền Nam và tự hỏi những người bộ đội cộng sản có bao giờ nghĩ đến hệ lụy mà họ đã để lại cho đất nước từ ngày 30/4/1975 đến nay.

Bùi Văn Phú
.

Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng”   Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeWed Apr 11, 2018 12:05 am

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” CaoxuanHuy-001


Cao Xuân Huy – Người ở lại Thuận An
Đỗ Xuân Tê


Cao xuân Huy đã trở về cát bụi. Thân xác ông đã được hỏa thiêu sau một tang lễ vừa trang nghiêm theo nghi lễ quân cách vừa thân mật đơn giản như một cuộc chia tay trong đó có đông đủ thân nhân, đồng đội, bạn bè, bạn văn, bạn làm báo và độc giả của ông.

Hiếm thấy một người vướng vào nghiệp văn bút, báo bổ tại một vùng đất vốn được đồng hương gọi đùa là ‘gió tanh mưa máu’, nhưng lại được quí mến gần gũi tâm đắc, rồi đến lúc đau yếu nhắm mắt xuôi tay lại được nhiều người nhiều giới chia buồn phúng điếu đưa tiễn bằng lời nói bằng bài viết trên các phương tiện truyền thông hải ngoại tựu chung tỏ lòng thương tiếc sâu sắc một con người mà hồi sinh thời rất can trường trong chiến đấu, nghiêm túc trong công việc nhưng lại ‘hết mình’ trong cuộc chơi với những người vốn biết và giao lưu với ông.

Cuộc đời Cao xuân Huy mà người ta quen gọi là ‘ông Gẫy Súng’ cũng khá lạ kỳ. Nhờ vào lính mà sau này mới trở thành nhà văn, rồi từ tác phẩm đầu tay Tháng Ba Gẫy Súng người ta mới biết ông qua danh xưng ‘nhà văn’ hơn là … ‘nhà binh’. Với ai khác được gọi là nhà văn chắc phải hãnh diện về thiên chức của nó, nhưng oái oăm thay ông vẫn không chịu nhận mình là nhà văn và cứ xin coi ông là ‘người lính’, môt người lính quay sang cầm bút sau khi gẫy súng để tường thuật những sự việc do chính ông trải nghiệm, đặc biệt ở thời điểm cuối cùng của cuộc chiến. Bằng ngòi bút ông viết lại một cách trung thực như những gì nó đã xảy ra, không hư cấu không vẽ vời không tô hồng không đánh bóng. Khi một người lính nói sự thật theo bản chất ‘nói thẳng như lính’ thậm chí kèm theo cả ngôn ngữ chửi thề, thì những điều ông kể ra cùng với tài viết văn tiềm ẩn tự phát chẳng ai dạy nhưng trời cho đã được người ta nhanh chóng tin ông và chấp nhận ông để từ đây giới văn bút coi ông là nhà văn, độc giả gọi ông là nhà văn, dù sau này có nghiêng về làm báo và hai mươi lăm năm sau mới ra một đầu sách mới, nhưng chỉ một Tháng Ba Gẫy Súng tên tuổi ông đã thành danh và ‘lừng lững’ đi vào dòng văn học sử hải ngoại như một bạn văn ca ngợi mới đây.

Những gì về sự nghiệp văn bút và chủ biên văn học của Cao xuân Huy đã và sẽ còn được nhiều người viết và nhắc nhớ. Tháng Ba Gẫy Súng sẽ được đánh giá như một tập hồi ký sử thi chứng nhân cho ngày tàn của cuộc chiến, nó sẽ được độc giả trân trọng như Mùa Hè Đỏ Lửa của Phan Nhật Nam và một số bút ký chiến tranh nổi bật của số ít tác giả miền Nam, thậm chí kể cả Nỗi Buồn Chiến tranh của Bảo Ninh nếu không ngại phân biệt về mặt quan điểm.

Ở đây người viết chỉ để ý một khía cạnh là không hiểu vì sao mà Cao xuân Huy cứ trăn trở chuyện xin coi ông là người lính thay vì nhà văn. Tất nhiên có những nguyên ủy của nó, mà dễ hiểu nhất thì vẫn tại vì bản thân ông… là lính! Hãy nghe ông tự sự từ đáy lòng mình về tình yêu của ông với đời quân ngũ, “tôi yêu đơn vị tôi, tôi yêu màu mũ, màu áo tôi, tôi yêu thuộc cấp tôi và tôi kính trọng thượng cấp tôi. Tôi bình thản chấp nhận mọi thói hư tật xấu của thượng cấp và thuộc cấp, và chính tôi cũng có quá nhiều thói hư tật xấu.”

Đơn vị ông là Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến, màu mũ là màu xanh của binh chủng, màu áo là màu rằn ri tựa như dấu in cọp biển, thuộc cấp là lính thuộc đại đội ông khoảng trên dưới một trăm, thượng cấp thì quá nhiều vì cấp bậc của ông chỉ là trung úy đại đội phó. Dù thượng cấp hay thuộc cấp ông vẫn yêu họ như chính mình, dù ai xấu ai tốt thì ông cũng chẳng hơn ai và chẳng dám đoán xét ai. Vào lính ở tuổi hai mươi trong một đợt tuyển quân cao điểm hồi Mậu Thân 68, trải qua các chiến trường từ Cà mâu đến miền giới tuyến, cuối cùng trụ lại làm anh lính gác giặc theo tuyến phòng thủ bảo vệ cố đô sau Hiệp định Paris trải dài từ sông Thạch Hãn qua Phá Tam giang xuống tận Thuận an và gẫy súng tại đây sau một cuộc rút quân hỗn lọan.

Trở lại chuyện của ông quả ít ai có tâm hồn luôn thiết tha với màu cờ sắc áo, sau khi gẫy súng bị bắt làm tù binh ông vẫn mặc đồ trận, người ta cũng chẳng cấp bộ đồ tù chỉ yêu cầu cởi bỏ lon lá, sau này ra hải ngoại có dịp ông vẫn mặc quân phục, vẫn đeo huy hiệu của binh chủng mình, nhưng chỉ mang bảng tên trên ngực ghi HUY 4, có nghĩa là tên & đơn vị của ông, đến khi vào quan tài thì cũng được liệm nguyên bộ đồ này. Con số 4 luôn theo chân ông, ông sống chết với nó suốt bảy năm quân ngũ, một đơn vị tác chiến cấp tiểu đoàn nhưng đã lừng danh bốn vùng chiến thuật, chính đơn vị này là đơn vị đầu tiên đã chạm trán quân chính qui Bắc Việt tại chiến trường Bình Giả miền Đông năm 1964, mở đầu cho cuộc thư hùng của những trận đánh lớn sau này. Cũng đơn vị ông trở thành mũi nhọn trong trận tái chiếm Cổ thành mùa hè 72 khiến đội quân đối nghịch khi rút về bên kia sông Thạch Hãn lúc đi đủ chục lúc về còn ba. Nói vậy chứ tổn thất trả giá cho những lần quyết tử cũng là những con số chóng mặt, chính tôi đã mục kích khăn sô trắng đầu các cô nhi quả phụ trong trại gia binh cạnh hậu cứ tiểu đoàn của ông tại Vũng Tàu để thấy cái khắc nghiệt của chiến tranh và sự hy sinh cao độ của các đồng đội của ông suốt chiều dài cuộc chiến. Tôi thiết nghĩ chính vì cứ trăn trở bởi những hình ảnh này mà Trung úy Huy người may mắn sống sót sau những trận để đời đã không ngoảnh mặt quên đi quá trình chiến đấu để nhận những phong vị khác xem ra cao trọng hơn cho tên tuổi của mình.

Dù gẫy súng ông vẫn chết với tư cách một người lính, xứng đáng được đồng đội phủ cờ hôm tang lễ vừa qua vì thực chất ông không thuộc diện đầu hàng buông súng. Ông bị gẫy súng trong tư thế đang chiến đấu và chịu làm tù binh khi các cấp chỉ huy của ông không thể xoay chuyển được chiến trường. Ông trở thành một trong những ‘người ở lại Thuận An’ và trở thành chứng nhân cho bi kịch thời đại của một cuộc rút quân Waterloo thu nhỏ tại cửa biển oan nghiệt này vào một ngày tháng ba, ‘tháng ba gẫy súng’, dự báo cho một ‘tháng tư tan hàng’, xóa sổ tức tưởi một đạo quân được coi là chiến đấu rất can trường trong quân sử Việt.

Cửa biển Thuận an, một địa danh không xa lạ gì với người dân xứ Huế, và anh em chúng tôi khi được lệnh tăng phái từ Phủ đầu Rồng để bảo vệ cố đô, nhưng không ngờ vào thời điểm sắp tàn cuộc chiến thì Thuận an trở thành chứng tích của những cái chết vô nghĩa trong thảm cảnh gẫy súng nửa đường. Biển Thuận an trăng sáng thuở nào vẫn mang vị mặn nhưng không phải của muối, biển mặn vì máu. Máu của những người lính trẻ đã chết oan vì các tư lệnh của họ đã bỏ cuộc, đã bỏ chạy trước khiến họ phải chân đất chạy ra cửa Thuận an, con đường độc đạo ra biển để chờ tàu xuôi Nam, trốn chạy những người anh em cùng màu da nhưng khác máu từ phương Bắc đang rượt đuổi theo họ. Nhiều kiểu chết nhiều cách chết, vừa tự xử bằng lưỡi lê, lựu đạn, vừa trúng thương bằng tăng bằng súng của đối phương, vừa bỏ thây vì sóng cao biển rộng nhưng phải đọc tác phẩm của Cao xuân Huy mới cảm nhận sâu sắc tấn bi kịch ‘mang con bỏ chợ’ của những lãnh đạo miền Nam và nét hào hùng của những người lính quyết tử theo màu cờ sắc áo.

Khốn khổ thay cho những người lính về từ địa ngục sau khi kẹt lại Thuận an lại bị dồn vào các trại tù cải tạo chờ đợi biến cố họ không mong vào cuối tháng tư rồi sống tiếp trong cảnh ‘đáy địa ngục’ sau 75, trong đó có người lính Cao xuân Huy.

Cao xuân Huy, người ở lại Thuận an. Nhờ ‘Ông Gẫy Súng’ mà người ta mới thấy hết nét bi thương của những ngày tháng Ba, nhờ ông mà những đồng đội nằm lại vĩnh viễn trên cửa Thuận an mới có cơ hội ‘lên tiếng’. Chúng tôi trân trọng ông về điều này và xin vinh danh ông với tư cách nhà văn song hành với danh xưng người lính. Xin ông cứ nhận ông là nhà văn vì chính ông là một nhà văn đích thực, một nhân chứng chỉ biết nói sự thật, và sự thật thì sống mãi ngàn thu.

Đỗ xuân Tê

***
 
Ông Gẫy Súng đã "lên tàu"
T.Vấn


Tâm tình một nẻo quê chung
Người về cố quận muôn trùng ta đi
(Huy Cận)

Như vậy là ông Gẫy Súng đã lên tàu về quê.

Lần này thì súng của ông bị bẻ gẫy chẳng bởi tại người, hay bởi vận nước, mà bởi cái lẽ sinh lão bịnh tử mà không một ai thóat ra khỏi được vòng cương tỏa của nó.

Trước khi bước chân lên tàu, ông đã chiến đấu rất dũng mãnh và can trường, không kém gì trận chiến năm xưa dù sau đó súng của ông (và của rất nhiều những chiến hữu của ông) đã bị bẻ gẫy. Súng gẫy thì vất súng, ông cầm bút. Mấy chục năm nay lưu vong nơi xứ người, với cây bút trên tay ông đã làm được nhiều việc mà không phải ai cũng làm được. Cho đến giây phút ông không còn sức để cầm bút nữa, không một ai có thể bẻ gẫy được ngòi bút của ông. Và ông vẫn là một chiến sĩ cho đến giây phút cuối cùng. Con Kình Ngư không hề biết sợ sóng, sợ gió.

Nay thì con Kình ngư sẽ về nằm yên nghỉ giữa biển cả mênh mông, ngày đêm nghe tiếng sóng vỗ rì rào như lời mẹ ru đón con ra khỏi cuộc đời, thay cho những tiếng thét đau đớn uất hận ngày nào trên bãi biển Thuận An (Huế).

Những người bạn chiến đấu của ông, những người nằm lại trên bãi biển Thuận An từ dạo tháng Ba năm ấy, hẳn sẽ vui mừng chào đón ông, như chào đón một chiến binh quả cảm đã dũng mãnh tiếp tục cuộc chiến, dù không cân sức, thay cho những đồng đội của mình bị lọai khỏi vòng chiến một cách tức tửi.

Tôi hình dung ra chuyến tàu “suốt" vừa ngừng lại đón ông Gẫy Súng, đang từ từ tiến vào trạm cuối cùng. Trên sân ga, lố nhố những bóng người quen thuộc của bãi biển Thuận An năm nào. Người bạn chiến đấu năm xưa đã trở về, thể xác tuy mệt mỏi nhưng thần thái ung dung. Họ lại tiếp tục ngồi bên nhau uống rượu, hút thuốc lá, chửi thề, nhắc lại cho nhau những kẻ còn, người mất (trong thế giới của những người lính gẫy súng ở giờ thứ hai mươi lăm, kẻ còn tức người đã chết và người mất, tức những kẻ còn nặng nợ trần gian, chưa mãn hạn để có thể thảnh thơi bước lên tàu). Và chắc chắn, ông Gẫy Súng có rất nhiều điều để nói cùng bạn hữu. Bạn bè ông, ngoài nỗi vui gặp lại bạn cũ, hẳn còn nỗi vui khác lớn hơn. Ít nhất, thằng Tháng Ba Gẫy Súng đã nói lên được cho họ nỗi uất ức đến chết không thể nhắm mắt của một ngày tháng Ba năm 1975.

Chỉ với một tác phẩm, quyển hồi ký “Tháng Ba gẫy súng“, ông đã làm tròn vai trò một chứng nhân lịch sử, làm tròn sứ mạng thiêng liêng của một người cầm bút. Với người cùng thời, những người đã từng sát cánh với ông ở một bên chiến tuyến, ông là hiện thân của lương tâm, của sự dũng cảm, của những khát vọng được sống một cuộc sống bình thường như một con người bình thường. Với những người đã từng một thời cầm súng đứng ở bên chiến tuyến đối nghịch với ông và những bạn bè của ông, ông là ngọn gió thổi tan đi lớp sương mù ngộ nhận, gây ra bởi một guồng máy tuyên truyền vô nhân tính chỉ nhằm gieo cấy lòng thù hận giữa những người cùng một dòng máu đỏ da vàng. Với những thế hệ chưa một ngày sống qua chiến tranh, ông là ngọn đèn soi cho họ thấy sự thảm khốc cùng cực của chiến tranh, sự vô nghĩa của thân phận con người trong lửa đạn, sự độc ác vô luân của những tham vọng áp đặt chủ thuyết này, ý thức hệ nọ lên quốc gia dân tộc.

Tất cả những thành tựu không nhỏ ấy, lại là kết quả từ một tập sách mỏng, của một người vốn trước đó không phải là nhà văn. Theo lời một vị thầy của tôi (nhà văn Nguyễn Xuân Hòang), ông không phải là một nhà văn, nhưng đã viết nên “những trang văn xuôi lương thiện và giản dị về con người”.

Tôi nhớ có người nào đó bảo rằng con người ta ai cũng có hai lần chết. Lần chết thứ nhất là khi thân xác được bỏ vào quan tài. Lần chết thứ hai là khi không còn ai nhắc đến tên mình nữa.

Nếu quả đúng như vậy thì ông Gẫy Súng của tôi chỉ chết có một lần.

Bao lâu người ta còn nhắc đến, còn bàn luận về cuộc chiến tranh tương tàn khốc liệt giữa những người Việt ở hai miền Nam Bắc thì ngày ấy người ta còn phải nhắc đến tên ông, nhắc đến những ngày cuối cùng bi thảm của cuộc chiến.

Hơn 25 năm nay, tiếng kêu bi phẫn của ông Gẫy Súng đã được nhiều người lắng nghe. Mỗi người, ở vị trí của mình – trong và sau cuộc chiến – đều mang một tâm trạng khác nhau khi đọc ông. Người ta có thể phản bác ông, nhưng tôi tin rằng, không một ai – dù là người ở bên kia chiến tuyến với ông – có thể nghi ngờ tính nhân bản phủ đầy những trang viết của Tháng ba Gẫy Súng, kể cả những trang mô tả sự tàn nhẫn khốc liệt nhất, kể cả ở những câu đối thọai độc ác nhất, kiểu “Đụ mẹ, đánh giặc đã quá ông thầy!“

Khi tôi viết những dòng này, hẳn đôi mắt ông Gãy Súng đã nhắm lại (tôi tin như vậy, vì ông có quá nhiều lý do để thanh thản ra đi). Ông có mãn nguyện không? tôi không thể quả quyết. Nhưng nếu tôi là ông, tôi sẽ mãn nguyện. Những gì cần phải làm cho người chết với tư cách kẻ sống sót, ông đã hòan thành xuất sắc.

Ông ra đi, những vẫn còn lại những trang viết, những “trang văn xuôi lương thiện và giản dị về con người“. Vì chúng lương thiện và giản dị, nên chắc chắn chúng sẽ bất tử.

Cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã từng kêu lê: Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ? Giả như ba trăm năm sau ngày cụ Nguyễn Du lên tàu “suốt“, vẫn còn có người khóc cụ thì phỏng có ích gì cho cụ không khi thân xác cụ đã chỉ còn là nắm đất vụn. Điều quan trọng là những câu lục bát của cụ vẫn còn được lưu truyền không chỉ ba trăm năm, mà sẽ là ba ngàn năm, ba triệu năm nữa.

Còn ông Gẫy Súng của chúng tôi? Ông có cần phải thắc mắc rằng ba trăm năm sau liệu có còn ai nhớ đến ông không? Tôi không tin ông bận tâm về điều đó. Vì những trang viết lương thiện và giản dị của ông, không phải chỉ cho ông, mà còn cho một thế hệ tuổi trẻ (ở cả hai miền Nam Bắc) Việt Nam tội nghiệp. Nếu ba trăm năm sau, có kẻ hậu thế nào đó – nhờ đọc được Tháng Ba Gẫy Súng của ông – đã làm hết sức mình để tránh cho lịch sử của ba trăm năm trước lập lại, thế cũng đã quá đủ một đời phong ba rồi, phải không ông?

Mấy hôm trước, nghe tin ông đang ngấp nghé bên bờ tử sinh, tôi đã nhờ người quen kẻ biết nhắn với ông rằng “Chừng nào tới giờ lên tàu, ông cứ thanh thản lên tàu. Đừng lo cho chúng tôi. Thế nào cũng còn chỗ cho kẻ đến sau, chứ không phải như tháng Ba gẫy súng năm nào mà phải giành nhau đâu, ông Cao Xuân Huy ạ!“.

Đường đời muôn vạn nẻo, nhưng chỉ có một nẻo đích thực để trở về cố hương. Đó là lối nhỏ đi qua những tấm lòng bằng hữu, với hành trang trên vai là lòng thương yêu của những người thân kẻ thuộc trong gia đình.

Ông Gẫy Súng của tôi ơi! lối nhỏ bằng hữu đang hân hoan đón chào ông, hành trang thương yêu của gia đình đang sẵn sàng chờ ông ghé vai đỡ lấy.

Chúc người về cố quận thượng lộ bình an!

Thứ Sáu 12 tháng 11 năm 2010

* Ông Cao Xuân Huy thở hơi cuối cùng vào lúc khỏang 4 giờ 53 chiều (giờ Cali) ngày thứ Sáu 12 tháng 11 năm 2010. Nhận được tin do một người anh em trong gia đình TQLC của CXH cho hay qua e-mail lúc 8 giờ tối (giờ Wichita, KS đi trước Cali 2 tiếng), tôi bỏ hết mọi công việc hàng ngày, vì không thể làm được gì khác, ngòai việc ngồi vào bàn viết .

T.Vấn
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng”   Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeMon Nov 05, 2018 9:45 pm

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” 9k=

Ngu như 'Nợn'
Cao Xuân Huy


Lý lịch của Mạnh chuột đọc được trên tờ trích ngang:
- Họ và tên: Nguyễn Đức Mạnh
- Cấp chức sau cùng: Y Sĩ Đại Úy, Đại Đội Phó Quân Y
- Đơn vị sau cùng: Sư Đoàn Nhảy Dù

Mạnh chuột không loắt choắt như cái biệt danh “chuột” mà anh em cùng trại đã đặt, mà Mạnh chuột to lớn, vẻ to lớn của một võ sĩ hạng trung đã đấu nhiều trận trên võ đài. Không to lớn thì sức mấy mà đi được lính Nhảy Dù.
Mồm miệng Mạnh chuột cũng không chu ra như cái biệt danh lạ lùng, giống như những đồng nghiệp “lương y” đang làm cán bộ, mà phải công nhận một cách “lô gích” là Mạnh chuột đẹp trai. Không đẹp trai, sáng sủa sức mấy mà học giỏi. Bác sĩ mà. Đã là bác sĩ thì tự động phải đẹp trai. Không tin, cứ hỏi các cô thì biết. Cái khoản học giỏi, anh em trong trại không ai thắc mắc, vì ở đây, chỉ cần sức khỏe chứ không ai cần học thức. Nhưng… cán bộ đồng nghiệp thắc mắc.

Một hôm, không hiểu vì hay phát biểu linh tinh, hay vì cái vẻ ngoại hình làm ngứa mắt cán bộ đồng nghiệp trong ban y tế trại, Mạnh chuột bị gọi lên chất vấn để bổ túc thêm cho bản lý lịch.
“Anh học đến đâu?”
“Bác sĩ.”
“Chúng tôi biết anh là bác sĩ rồi, nhưng anh học đến đâu?”
“Bác sĩ y khoa.”
“Này, tôi không đùa đấy nhé. Anh là bác sĩ thì chúng tôi biết rồi, nhưng anh học đến lớp mấy?”
Mạnh chuột ngớ ra. Cán bộ y tế vừa để khoe và cũng vừa để giải thích thật cặn kẽ cho tên bác sĩ Ngụy ngu dốt này hiểu câu hỏi:
“Tôi biết anh là bác sĩ rồi, nhưng anh học đến lớp mấy. Như tôi cũng là bác sĩ, tôi vừa học bổ túc xong lớp sáu.”
Cái sức học của Mạnh chuột, vì vậy, vẫn còn là một nghi vấn.

Đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu.
Riêng cái khoản con nhà giàu thì không biết, không ai biết ngoại trừ chính Mạnh chuột. Có lắm kẻ con nhà nghèo vẫn được thăm nuôi soành soạch, và cũng có lắm kẻ con nhà giàu, bỗng dưng trở thành “con bà phước”. Mạnh chuột thuộc loại con bà phước trong trại nên cũng khó mà nói Mạnh chuột là con nhà nghèo hay con nhà giàu. Từ ngày trình diện đến giờ, chuyển qua bao nhiêu trại, có bao giờ Mạnh chuột được thăm nuôi đâu.
Tóm lại. Đẹp trai thì đúng rồi. Học giỏi, còn đang nghi ngờ. Con nhà giàu, không ai biết. Nhưng, đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu chẳng để làm gì cả. Tất cả chẳng nói lên một tí cái gì cả, chẳng nhờ thế mà được thêm tí sắn, tí khoai nào cả. Nguyễn Đức Mạnh chỉ là một anh Y Sĩ Đại Úy Nhảy Dù bị phạt đang cong đít ra đào giếng. Hết.
Tóm lại, con người Mạnh “chuột” chẳng có gì đặc biệt cả.

***

Chỉ có một tí đặc biệt về cái biệt danh “chuột”.

Để “cải thiện linh tinh” cho cái bụng, để có một chút protéin cho cái thân hình vạm vỡ lúc nào cũng thiếu “chất tươi” này, Mạnh chuột chuyển khả năng từ một anh chuyên viên chữa người sang một anh chuyên viên chăn nuôi.
Một hôm Mạnh chuột vớ được một ổ chuột con, sau khi “sơi tái” vài con, Mạnh chuột đã “đầu tư” để lại một đực một cái. Mạnh chuột đào một cái hố, có rào ngăn cẩn thận, nuôi cặp chuột “bành tổ” này để làm “kinh tế”. Một thời gian không lâu, nhờ trời, bành tổ sinh “thái tổ”, thái tổ sinh “thái tông”, thái tông sinh thái… Ôi thôi, không biết đến tam tứ ngũ lục đời con cháu họ hàng nhà chuột. Cái hố không đủ sức chứa, Mạnh chuột bèn phát triển nghề nghiệp, nới rộng thêm hố mới đủ chỗ chứa cho nguồn cung cấp chất thịt này. Bạn bè đồng trại, nếu ai không sợ “thịt” đều được hưởng nhờ. Mà thực ra thì cũng chẳng ai sợ. Từ đó, Mạnh chuột được anh em “thân thương” đặt cho chữ “chuột” đằng sau cái tên đẹp đẽ, rất đàn ông, Mạnh.
Nhưng, đôi lúc, soi mặt vào vũng nước, Mạnh chuột cũng có cảm giác là hai má hơi hóp lại, miệng hình như có dài ra, nhòn nhọn, môi trên như có vẻ lúc nào cũng đang giựt giựt.
Tuy vậy, Mạnh chuột vẫn thường hãnh diện khoe với bạn cùng trại về sự tiến bộ, thức thời của mình:
“Trước 75, người ta đầu tư chất xám thì tao đi học. Bây giờ, người ta không cần chất xám nữa, mà chỉ cần ‘chất tươi’. Tao chăn nuôi để đầu tư chất tươi.”

Ngoại trừ chuyện chăn nuôi, tiêu thụ và phân phối cho anh em cùng đội những con chuột còn đỏ hỏn để làm chất tươi, Mạnh chuột chẳng có gì đặc biệt. Mạnh chuột sống lẫn vào đám đông thầm lặng, đúng như lời cán bộ vẫn mắng là “nín thở qua sông”. Giản dị một điều, Mạnh chuột biết mình là thằng hay bốc đồng, ưa đốp chát, không chui vào đám thầm lặng này thì, một sớm một chiều, chẳng lẽ lại chuyển “võ nghiệp” vừa bị mất cùng miền Nam sang thành “khẩu nghiệp”.
Mạnh chuột đã có lần tạo được một cái cớ để giữ sự im lặng. Một “ông” công an cán bộ tuổi cũng khoảng trên dưới mười tám, đứng khoa chân múa tay dạy dỗ đám “trại viên”, “thằng” trẻ nhất cũng gần ba mươi, “thằng” già thì đâu đó năm, sáu mươi tuổi, về cách giáo dục, nuôi dạy con cái trong nhà. Mạnh chuột điên lên được, nhưng, cũng may, Mạnh chuột tự tìm ra được một lý do là chính mình cũng chưa vợ con, thì làm sao “gây” với “ông” cán bộ này được.

Vậy mà, cái khẩu nghiệp đâu có tha cho Mạnh chuột, đã gọi là “nghiệp” thì làm sao mà thoát. Đã mang lấy “nghiệp” vào thân mà.
Hôm bác Tôn Đức Thắng chết, cả nước để tang, ai oán, sầu não trùm lên mọi cảnh vật, lên mọi người, nhất là các cán bộ. Vậy mà Mạnh chuột lại dám cười. Sau một ngày lao động cật lực “dâng lên bác” để tỏ lòng thương tiếc, để “biến đau thương thành hành động”, Mạnh chuột đã mặt mũi hớn hở cười cười đố bạn:
“Tao đố chúng mày biết tại sao Tôn Đức Thắng chết?”
“Thì tại già…”
“Thì tại bệnh…”
“Già gì, bệnh gì…”
Mạnh chuột đảo mắt nhìn quanh, điều chỉnh âm thanh chỉ vừa đủ cho đám bạn tù đứng quanh nghe, nhại giọng Nam:
“Thằng nào ‘đứt thắng’ mà ‘hổng chớt’.”

Không hiểu sao, dứt khoát là không có “ăng ten”. Lời đồn thằng này ăng ten, thằng kia ăng tên đều là láo khoét, đều là thất thiệt cả. Nhưng, không hiểu sao, ngay ngày hôm sau Mạnh chuột ta lết thẳng vào nhà biệt giam sau một trận “tự kiểm” toe người. Mặc dù Mạnh chuột nhất định không nhận tội giễu bác Tôn. Không lết sao được khi mà mặt mũi thì tím bầm, sưng húp lên, môi thì tưa máu tươi, người thì mềm như cọng bún.
Rõ ràng Mạnh chuột là một thằng không có học. Vì nếu có học, ai lại dại gì đi mua vui, chỉ được có mỗi một tiếng cười cho mấy thằng tù, để rồi được hưởng sự “khoan hồng” như thế này. Và cái sự “khoan hồng” này không biết còn kéo dài đến bao lâu.

Nhưng, chắc là không lâu, vì…
Mới qua đến ngày thứ ba, đang ngồi ngủ, dĩ nhiên là ngồi vì “nhà” biệt giam không đủ cao để Mạnh chuột đứng, và cũng không đủ dài để Mạnh chuột nằm. Đảng đã tha tội chết, và đảng chỉ tha tội chết thôi, chứ đảng không tha tội sống, đảng phải “chuyên chính” chứ. Biệt giam khơi khơi với cái tội dám mang bác Tôn ra mà cười như vậy là nhẹ lắm rồi.
Mạnh chuột đang ngồi ngủ, thì có tiếng lách cách mở ổ khóa. Giọng của “đảng” vang lên:
“Anh Nguyễn Đức Mạnh.”
Mạnh chuột thều thào qua đôi môi còn đang sưng tấy lên:
“Có.”
“Đi ra.”
“Chân tôi bị cùm, không đi ra được.”
Ánh đèn phin cực mạnh chiếu thẳng vào mặt làm chóa mắt; có những va chạm dưới chân, Mạnh chuột biết là có người mở khóa chốt cái cùm.
“Anh theo tôi lên khung.”
Chết mẹ rồi, tội này đâu phải là nhỏ. Thằng Trung Úy San bên Thủy Quân Lục Chiến chỉ vì cái tội đứng bên này hàng rào kẽm gai, khua chân múa tay cãi nhau với “đảng” ở bên kia hàng rào trước 75, vô tình bị nhận diện sau một buổi xem phim tài liệu để “học tập”. Chỉ vì cái tội đó thôi mà nó còn bị vứt xác ở bìa rừng, huống hồ… Vừa đi theo tên cán bộ, Mạnh chuột vừa hồi hộp. Nửa đêm nửa hôm khuya khoắt thế này mà gọi lên khung thì thế nào cũng có chuyện, hung chắc chắn là nhiều hơn kiết rồi.

Mạnh chuột giả vờ đau chân, mà không giả vờ cũng không được, chân bị cùm ba ngày làm thế nào mà không đau cho đươc. Mạnh chuột đi khập khiễng để kéo dài thời gian, theo dõi những hành động của tên cán bộ. Hung hay kiết sẽ lộ ra trên thái độ của anh chàng cán bộ này. Anh này tại sao hôm nay lại có vẻ hiền từ. Mặt không hầm hầm như mọi ngày, lại còn cả không hối thúc Mạnh chuột phải đi nhanh.
Vừa bước vào khung, cán bộ trực trại đã đợi sẵn, hỏi Mạnh chuột một cách “dịu dàng”:
“Anh là bác sĩ, vậy thì anh có biết đỡ đẻ không?”
Mạnh chuột hoàn hồn. À ra thế. Mẹ kiếp, hóa ra là chúng mày cần đến chuyên môn của ông. Tuy không phải là bác sĩ chuyên về sản khoa, nhưng thời còn là sinh viên đi thực tập, Mạnh chuột cũng đã đỡ nhiều ca rồi. Nhưng mà, ở đây có đàn bà đâu mà đẻ với đái. Vậy thì cái gì đây? Gì thì gì, chắc chắn là không phải đi theo thằng San là tốt rồi.
“Biết chứ cán bộ. Mà ở đây, tôi có thấy phụ nữ nào đâu.”
Tay cán bộ trực trại cười giả lả:
“Không phải là đỡ đẻ cho người, mà chúng tôi gọi anh lên để đỡ đẻ cho lợn.”

Máu tếu Nhảy Dù chảy nhanh trong cơ thể, Mạnh chuột nghĩ ngay đến Lịnh, tay chuyên môn thiến heo trong đội.
“Nếu đỡ đẻ cho lợn thì một mình tôi không đủ đâu, tôi lại đang đau. Cần phải gọi thêm người.”
Cán bộ sốt sắng hỏi:
“Anh cần thêm mấy người? Tôi cho gọi lên.”
“Cán bộ gọi cho tôi anh Lịnh, ở đội tôi. Tôi với Lịnh là đủ rồi.”

***

Hơi ấm từ đống lửa bập bùng trong chuồng lợn tỏa ra, Mạnh chuột và Lịnh “thiến heo” được ngồi sưởi là nhờ ơn mưa móc của con lợn sắp đẻ này.

Lịnh ngày xưa, trước khi đi lính lên đến Hạ Sĩ, chuyên sống bằng nghề thiến heo. Đúng ra, nếu không vì tính mê gái, nếu không vì muốn giựt le với cô em bán nước mía đầu đường Nguyễn Thiện Thuật, và nếu không bị lừa là cách mạng ra thông cáo học tập mười ngày cho sĩ quan cấp úy, nếu không… những tưởng sau mười ngày đi học tập cải tạo, Lịnh “thiến heo” được chính phủ cách mạng chính thức hóa được cấp bậc Thiếu Úy của mình, Lịnh “thiến heo” hăng hái đi trình diện, thì bây giờ đâu có phải là bạn cùng trại với Mạnh chuột.
“Đang ngủ ngon lành, anh lại phá tôi. Tôi có biết gì về vụ đẻ đái của mấy con heo bao giờ.”
Mạnh chuột nheo nheo mắt, cười cười:
“Mày sống bằng nghề thiến heo, tức là có dính dáng đến heo rồi. Cũng như tao là bác sĩ thì tao dính dáng đến đỡ đẻ vậy mà.”
Lịnh vẫn còn hậm hực:
“Vậy bộ anh muốn tôi ‘thiến’ con heo nái này à?”
“Không ai ngu như mày. Đỡ đẻ xong, ngày mai sẽ được nghỉ lao động, và thế nào mà không được bồi dưỡng một ít đường.”

Mạnh chuột được ân xá nhờ đỡ đẻ “đạt tiêu chuẩn”, một lứa tám con, không chết con nào nên được tha về đội, lại còn được nghỉ nguyên ngày hôm sau để bù lại suốt một đêm thức trắng đánh vật với lợn.

***

Đảng tha, nhưng “khẩu nghiệp” thì không tha. Mạnh chuột lại bị vạ miệng vì cái “vô học” của mình.
Thời gian này có “dịch” trốn trại. Đêm hôm trước điểm danh đủ, sáng hôm sau mở mắt ra là thiếu một vài mạng. Đảng tổ chức và lãnh đạo thành công mọi cuộc cách mạng, cho nên đảng không thể thất bại trong việc ngăn chặn chuyện trốn trại. Vận động mọi khả năng sáng tạo của đỉnh cao trí tuệ loài người, đảng nghĩ ra một cách kiểm soát tù không tốn công tốn của là bắt tù gác tù. Sau một ngày “lao động là vinh quang, trồng khoai lang là yêu nước”, tù được phân công thay nhau gác… tù.
Trong một ca “đón giao thừa một phiên gác đêm”, Mạnh chuột đã lỡ “vui xuân quên nhiệm vụ”, gác thì lơ là mà miệng lại còn nghêu ngao hát:

Giờ đây bên sông “mai” rụng tơi bời
Giờ đây em ơi “sao” mọc lên rồi
Lòng anh tan hoang thôi vỡ “đời” ơi…

Đảng còn đang tiến hành cuộc điều tra về gốc gác bài hát, vì đây là một bản nhạc vàng đầy phản động. Tại sao cách mạng thành công, miền Nam đã được hoàn toàn giải phóng, đem lại cơm tuy chưa ngon nhưng mà no, áo tuy chưa đẹp nhưng mà ấm cho nhân dân lao động anh hùng, mà lại dám nói là “thôi vỡ đời ơi”.
“Báo cáo cán bộ, đây là bài thơ cách mạng.”
“Cách mạng nào, anh lại bôi bác cách mạng phải không?”
“Báo cáo cán bộ, đây là bài thơ của cán bộ cách mạng thật mà.”
“Anh chỉ cho tôi xem cán bộ nào lại dám làm bài thơ phản động như thế này?”
“Bài này tên là ‘Hoa rụng bên sông’ của cán bộ Lưu Trọng Lư.”

Trong khi chờ đợi cuộc điều tra ngã ngũ, Mạnh chuột không bị vào nhà biệt giam, vì có dây dưa đến cán bộ Lưu Trọng Lư, dù rằng cán bộ khung chẳng ai biết cán bộ Lưu Trọng Lư là cán bộ nào. Cho nên Mạnh chuột được “tại ngoại hậu tra”, và đang cong đít lên mà đào giếng.
Đây là vùng đất mà chỉ có chó mới sống được một cách no đủ, vì chỉ toàn là đá với sỏi. Mỗi nhát cuốc bổ xuống là mỗi lần lửa tóe lên.
Mạnh chuột đào giếng qua đến ngày thứ hai mà mới sâu xuống được đâu ngang đầu gối. Cán bộ vệ binh luôn luôn mắng nhiếc “Anh giơ cuốc lên thì chim đậu, hạ cuốc xuống thì mối đùn”. Mạnh chuột giận lắm, ở cái xứ khỉ ho cò gáy này, lấy chó đâu ra chim với mối mà đậu với đùn. Có giận thì giận, có gì thì gì, Mạnh chuột vẫn phải cuốc và vẫn phải cắn răng “ngậm miệng mà không… ăn tiền”.

Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, buổi chiều ngày thứ ba, khi Mạnh chuột đang lui cui vét đất dưới hố để hất lên trên, cán bộ vệ binh đến cà khịa:
“Đầu óc anh vẫn còn hướng về bọn đế quốc Mỹ nên mới bảo ‘nà’ cách mạng đã ‘nàm’ cho đời anh tan hoang.”
“Đó là bài thơ của cách mạng mà, cán bộ.”
“Thơ thẩn gì, anh vẫn còn tư tưởng yêu Mỹ, kính Mỹ, thương Mỹ, sợ Mỹ. Tôi ‘nà’ đọc được tư tưởng của anh mà.”
Mạnh chuột im lặng không trả lời.
“Phát biểu thì ‘ninh’ tinh, ‘nao’ động thì trây ‘nười’.”
Mạnh chuột vẫn cắn răng cố nhịn, không nói. Anh cán bộ vệ binh thấy Mạnh chuột không nói, nghĩ ngay là nó đang khinh mình, tức giận quát một câu thật to:
“Anh ngu như ‘nợn’ ấy.”

Máu Nhảy Dù dồn lên mặt, mắt đổ lửa. Sẵn tay cầm cuốc, Mạnh chuột đứng bật dậy, những tưởng phen này thế nào cũng có “máu đổ thịt rơi”. Nhưng, trán Mạnh chuột chạm ngay vào mũi khẩu AK. Hơi lạnh của chất thép lan nhanh sang Mạnh chuột. Mọi động tác của Mạnh chuột như tê cóng, ngừng hẳn lại, chỉ còn ý nghĩ chạy trong đầu:
”Mày ngu như lợn thật, Mạnh chuột ạ.”

Cao Xuân Huy
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng”   Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeTue Dec 11, 2018 1:32 pm

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Vaimauchuyencover

Tiếng Cười Bi Phẫn Của Cao Xuân Huy
Trong Mẩu Chuyện “Trả Lại Tiền”

Trịnh Y Thư

Đọc truyện ngắn “Trả lại tiền” in trong tập truyện “Vài mẩu chuyện” của nhà văn Cao Xuân Huy (tạp chí Văn Học xuất bản, 2010), tôi không khỏi mỉm cười bởi cái phong cách khôi hài đen của câu chuyện - truyện của Cao Xuân Huy đa phần đều như thế - và mặc dù tính hài hước thấm đẫm toàn truyện, người đọc vẫn dễ dàng nhận ra khuôn mặt hết sức xấu xí và tàn bạo của đời sống, của lịch sử. Nhưng có thật Cao Xuân Huy viết truyện ngắn này có vẻ như được cách điệu hoá đến cực độ, và bên dưới cái phong cách sần sùi, thô nhám, tiềm ẩn một nghệ thuật làm văn độc đáo, đầy cá tính chỉ để cho chúng ta mỉm cười, dù là nụ cười chua xót, cười ra nước mắt, hay cạnh đấy còn có nhiều điều khác đáng cho chúng ta suy ngẫm?

“Trả lại tiền” là một truyện ngắn ngắn, nói theo hành ngôn thời thượng, một truyện cực ngắn, hoặc theo chính tác giả, một mẩu chuyện. Toàn truyện, phần tự sự, trần thuật rất ít, giảm thiểu đến độ chỉ còn lại đôi ba câu, mà không câu nào dài, thậm chí có câu chỉ gồm một từ duy nhất. Đối thoại chiếm phần lớn, nhưng cũng là những câu đối đáp cụt ngủn, lửng lơ, cộc cằn, giắm giẳn, xẳng xớm. Không có phân tích tâm lí nhân vật, không độc thoại nội tâm. Phần miêu tả cũng hoàn toàn vắng bóng, chúng ta không hề biết tuổi tác, danh tính các nhân vật trong truyện là gì. Diện mạo, nhân dáng họ ra sao, tác giả cũng tuyệt đối không cho người đọc một chi tiết cỏn con nào. Cũng không có ẩn dụ, phúng dụ nào ở đây. Các biện pháp tu từ, khoa đại chữ nghĩa lên một chiều kích mới, đều không có mặt. Sự vật trần trụi đến độ không thể trần trụi hơn. Sự cảm thụ của người đọc tùy thuộc vào đối thoại bởi ở đây đối thoại là cái sườn chủ đạo cho câu chuyện. Tác giả bắt người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng của mình để “viết” truyện chung với tác giả. Với một kĩ thuật và văn phong như thế, tác giả khá thành công khi thuật câu chuyện một anh chàng lâu ngày thèm đàn bà, đi tìm gái điếm ngoài công viên và chẳng may bị dân phòng bắt gặp trong lúc đang đê mê dưới gốc cây. (Trong văn học, văn phong và nội dung đi đôi với nhau như hoà âm và giai điệu trong âm nhạc. Chẳng thể nào đem hoà âm của Tchaikovsky vào giai điệu của Stravinsky hay Janacek).

Nhìn từ góc độ xã hội (người ta rất dễ rơi vào cái bẫy này khi đọc các tác phẩm văn học), truyện ngắn “Trả lại tiền” của Cao Xuân Huy, tuy rất kiệm lời, nhưng đã vẽ ra một cách khá đầy đủ hình ảnh bi đát, cùng quẫn của xã hội, con người miền Nam Việt Nam vào thời điểm ngay sau khi cuộc chiến-tranh-ba-mươi-năm kết thúc. Qua một chi tiết nhỏ, chúng ta biết gã đi tìm gái là sĩ quan chế độ cũ, một tù nhân cải tạo mới được thả về. Có lẽ gã sống lang thang lếch thếch trong thành phố, kiếm sống bằng những nghề lao động chân tay vặt vãnh đắp đổi qua ngày. Chỉ biết đến thế về gã đàn ông, người đọc tha hồ tưởng tượng thêm về hoàn cảnh của gã. Về cô gái điếm cũng thế. Thân thế cô như thế nào—cô là gái điếm chuyên nghiệp hay cô là người đàn bà bình thường như trăm ngàn người đàn bà khác, do hoàn cảnh quẫn bách của thời đại đã phải bán trôn nuôi miệng—thì chúng ta không được rõ lắm. Cả cô lẫn gã đàn ông là người của bóng tối, bóng tối hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Bóng tối đó phủ chụp lên thân phận những con người đáng thương. Chi tiết ở cuối truyện, cô gái điếm trả lại tiền cho gã đàn ông, chứng tỏ cô là người có lòng nhân ái, biết thương người. Cô cảm thấy thương cảm (hay thương hại) gã đàn ông cùng cảnh ngộ nghèo đói như mình.

Cái nhìn xã hội là cái nhìn mang nặng tính trữ tình. Bởi thế người đọc, dù là người không biết chút gì về tình trạng xã hội Việt Nam thời hậu chiến, cũng nhìn ra ngay tính cách bi thảm của truyện. Tuy thế điều đáng nói ở đây là truyện không có chủ đích phê phán xã hội, lại càng không phê phán lịch sử. Tác giả, khi bước chân vào ngôi nhà văn học, đã không tự sắm cho mình chiếc áo nhà xã hội học, hay chính trị gia, hay sử gia. Nhờ thế, tính nghệ thuật của tác phẩm không bị sứt mẻ. Nhờ thế, nó đã không lâm vào nguy cơ biến thành bài văn tuyên truyền nhảm nhí và lố bịch. Tính phê phán của nó được người đọc hiểu ngầm, nếu người đọc muốn hiểu như thế, xuyên qua những nhận thức chủ quan, là nó hàm chứa một thông điệp nào đó.

“Dzô sát trong đây.”
“Nhiêu?”
“Hai chục.”
“Không có đủ.”
“Dzậy có nhiêu?”
“'Thổi' không thì nhiêu?”
“Mười.”
“Vẫn không đủ.”
“Dzậy chớ muốn nhiêu?”
“Có năm thôi.”
“Hổng được. Đụ má... Chưa mở hàng.”
“Nguyên một ngày lương! Không được hả? Thì thôi.”

Tôi thấy đặc biệt khoái trá với đoạn đối thoại này trong truyện. Nó cực kì sống sượng, suồng sã và bởi thế, đầy chất sống. Đối thoại trong văn xuôi Việt Nam thuở trước mang nhiều tính kịch của sân khấu. Lúc thì rành rọt, hùng hồn như nhà hùng biện, lúc khác chải chuốt, mượt mà như cô tiểu thư khuê các. Có lẽ nhà văn Lê Xuyên đã làm thay đổi diện mạo ấy. Từ Lê Xuyên đến ngày nay, hơn nửa thế kỷ trôi qua, thủ pháp đem đối thoại đời thường vào tác phẩm văn học không còn là cái gì mới lạ nữa, nó không mang một ý nghĩa hay giá trị ngoại tại nào đáng kể mà chỉ đóng vai trò phái sinh từ một ngữ cảnh đặc trưng, bởi thế nó chỉ đắt khi được dùng đúng chỗ, đúng thời. Khi bị lạm dụng một cách vụng về, ngay lập tức, nó trở nên lố bịch, đỏm dáng một cách kỳ quái như mụ già to béo, xấu xí mặc chiếc váy ngắn sặc sỡ hở rốn, hở mông.

Kỳ thực, tác giả của truyện ngắn “Trả lại tiền” có chọn lựa nào khác cho đối thoại trong sáng tác của mình không? Đương nhiên là không. Bất cứ một không khí đối thoại nào khác cũng phá tan cảm quan thẩm mỹ của tác phẩm, thậm chí khiến nó rơi vào chỗ phi nghệ thuật. Chính phần đối thoại, như một hình thức biểu đạt, đã định đoạt cho sự thành công và sức sống của truyện ngắn này. Nó hiện diện như đối tượng cho sự miêu tả và chính nó đã gồng gánh công việc chuyên chở nội dung. Ở đây, hình thức và nội dung đan xen, chồng chéo nhau, có cái này không thể thiếu cái kia và ngược lại.

Chi tiết ở đoạn cuối - cái nhìn của cô gái điếm đậu vào mặt gã đàn ông vài giây như đánh giá con người gã, đoạn cô trả lại tiền cho gã kèm theo câu nói “Thôi, giữ lấy xài đi”- hiển nhiên, là mô-típ then chốt của truyện: Nó được dùng làm nhan đề. Câu hỏi được đặt ra là tại sao cô gái trả lại tiền? Phải chăng cô là cô gái giang hồ sòng phẳng, con lợn lòng của gã đàn ông chưa được thỏa mãn đã bị gã dân phòng đến cắt ngang, cô chẳng thể nào nhận tiền của gã, mặc dù số tiền ấy chỉ vỏn vẹn là năm đồng bạc. Nhưng phần lớn chúng ta, chẳng ai muốn nghĩ như thế. Qua câu nói của cô gái điếm, người ta nghe như có hơi hướm của tình thương. “Thôi, giữ lấy xài đi.” Một chút thương cảm, một chút thương hại. Tụi mình đều là những con người khốn cùng trong cái xã hội khốn khiếp này, anh cũng như tui thôi, đói thấy mẹ. Niềm cảm thông bỗng nhiên dâng tràn và cô gái “trả lại tiền” cho gã đàn ông. Tình cảm biết đâu từ đó nhen nhúm để tiến tới chỗ sâu đậm hơn. Điều này không trái tự nhiên. Có những người như cô gái điếm ấy trong bất kỳ môi trường, hoàn cảnh nào của xã hội. Khi cùng chịu cảnh khổ như nhau, người ta thường có cái nhìn nhân ái hơn với đồng loại. Nhìn xa hơn chút nữa, người ta còn có thể xem đấy là bài học đạo đức, con người dù ở hoàn cảnh nào cũng nên có tình nghĩa với nhau, nó là chút thiên tính cuối cùng còn sót lại ở cái buổi hoàng hôn của nhân loại này, nó ngợi ca tính nhân bản, nó khiến người ta vẫn bám vào hy vọng và tin tưởng vào cuộc đời. Vân vân và vân vân.

Nhưng một tác phẩm nghệ thuật có nên là bài tụng ca về tính nhân bản, về những lý tưởng cao đẹp của con người không? Đa phần người ta đều nghĩ thế, muốn thế, và chẳng đời nào tôi ngu dại đi ngược lại dòng thác lũ ấy. Dễ tan xác lắm. Tôi chỉ thấy tội nghiệp cho văn học, nhất là ông lão văn học Việt Nam lọm khọm, bao nhiêu đời hì hụi, ép mình dưới các thế lực chuyên chế, hết “tải đạo” đến “tải đạn”, hết “tải đạn” đến “tải thương”, hết “tải thương” đến “tải lương” mà vẫn chưa bao giờ được thanh thản vui chơi!
Bên trên tôi có nói lướt qua về cái khôi hài đen trong truyện ngắn “Trả lại tiền” của nhà văn Cao Xuân Huy. Nói cho rõ hơn, tính hài hước ở đây tuyệt đối không phải là sự chọc cười hiểu theo ý nghĩa bình dân thông thường. Nó là cảm xúc chủ quan về tính phi lý của đối tượng, một đối tượng không có gì đáng cười bởi tính cách bi thảm của nó. Đối tượng càng bi thảm, tiếng cười càng thấm thía. Tiếng cười ở đây nghiêng hẳn về mặt tích cực. Nó khác xa cái trào phúng kiểu mỉa mai, nhạo báng, bỉ báng, bởi bản chất của mỉa mai là châm chọc, lăng mạ, xúc phạm một cách cay độc, cố ý gây thương tổn cho đối tượng. Hài hước bênh vực đối tượng bởi nó chứng tỏ được sự khoan dung trước bản chất nghịch lý của sự vật.

Từ những dòng chữ mở đầu truyện ngắn “Trả lại tiền” của Cao Xuân Huy, tính hài hước đã hiển lộ. Mạch văn hài hước cứ thế tuôn tràn, thấm đẫm toàn truyện, ngay cả hành động “trả lại tiền” của cô gái điếm cũng là một thái độ hài hước. Đối với tôi, hài hước là hình thức biểu đạt sinh động, khả tín duy nhất còn sót lại khả dĩ giúp chúng ta có một nhận thức sáng sủa và đúng đắn hơn về sự vật.

Thế giới càng lúc càng chao đảo bởi người ta càng ngày càng nghiêm túc mà quên mất tiếng cười.

Trịnh Y Thư

***

Thời "giải phóng": Trả lại tiền
Cao Xuân Huy


Cơn thèm đàn bà bắt gã đạp xe loanh quanh trong thành phố.

Đường Hồng Thập Tự lác đác chị em ta đứng thập thò dưới các gốc cây. “Xe qua lại nhiều quá, không được.”
Gã đảo quanh công viên trước cổng Dinh Độc Lập cũ. Tối. Mỗi gốc cây đều thấp thoáng bóng người. Vài tay cũng đạp xe rảo rảo giống gã. “Ðược rồi.”

Gã tấp vào một gốc cây.
Một ả ló ra kéo tay gã:
“Dzô sát trong đây.”
“Nhiêu?”
“Hai chục.”
“Không có đủ.”
“Dzậy có nhiêu?”
“‘Thổi’ không thì nhiêu?”
“Mười.”
“Vẫn không đủ.”
“Dzậy chớ muốn nhiêu?”
“Có năm thôi.”
“Hổng được. Đụ má… Chưa mở hàng.”
“Nguyên một ngày lương! Không được hả? Thôi.”

Gã quay đi. Ả kéo lại:
“Thôi, có nhiêu lấy nhiêu!”
Gã đứng tựa lưng vào gốc cây. Tụt quần.
Ả ngồi xổm xuống. Làm việc.


Ánh đèn pin bất ngờ chiếu thẳng vào khuôn mặt gã, kèm tiếng quát:
“Đứng yên!”
Gã mở choàng mắt, kéo vội quần lên.
Ả bật dậy, co chân định chạy.
Tiếng lên đạn lách cách. Tiếng quát:
“Đưa giấy tờ coi.”

Gã lúng túng moi ra tờ giấy:
“Ra Lệnh Tha”, Tội danh: “Can tội sĩ quan ngụy”.
Ánh đèn pin dừng lại trên những hàng chữ, ngập ngừng.

Gã phân bua:
“Tôi mới được thả. Lâu ngày… thèm quá…”
Hắn nhỏ giọng:
“Anh tui cũng bị mấy năm như cha, mà đâu có tầm bậy tầm bạ như dzầy. Phải kiếm chỗ kín kín một chút chớ.”
“Tôi cũng muốn vậy, nhưng tiền đâu mà mướn phòng.”
“Nó lấy cha nhiêu?”
“Năm đồng.”
“Năm đồng?” Hắn bật tiếng cười.

Quay sang phía ả, hắn ra lệnh:
“Trả lại tiền cho người ta!”
Không hiểu, ả hỏi lại:
“Tiền? Trả lại…”
Hắn quát nhỏ:
“Trả lại cho người ta. Rồi đi đi.”
Ả ngập ngừng định lên tiếng, nhưng đành im lặng trả lại tiền.

Gã lên xe, đạp đi. Đợi hắn đi khuất, gã vòng xe lại, đến gần ả.
“Này. Tôi trả lại năm đồng.”
Ả quay lại. Cái nhìn đậu trên mặt gã vài giây, rồi nói:
“Thôi, giữ lấy xài đi.”

Cao Xuân Huy
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng”   Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeThu Dec 27, 2018 12:26 am

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Lc3a0m-vie1bb87c

Thời "giải phóng": Miếng ăn
Truyện ngắn Cao Xuân Huy


Tôi đã giữ được bao nhiêu năm, nhưng rồi cuối cùng, vẫn bị vướng vào một điều nhục nhã: miếng ăn.

Tôi là một thằng vô sản chuyên chính, vì cả ba bốn năm nay tôi luôn luôn là con bà phước, không bao giờ tôi có quà cáp, đồ ăn thức uống gì được gửi đến hoặc được đem đến tiếp tế từ những người thân ở ngoài đời.
Ngoài tiêu chuẩn ăn uống hằng ngày của trại cấp phát, tôi phải tự “mưu sinh” để được bồi dưỡng bằng những con cóc, con nhái, con rắn, con chuột ở ngoài ruộng, ngoài bìa rừng trong những lúc đi lao động, chỉ có những con vật nào không nhúc nhích hoặc nằm ngửa mới thoát khỏi cái mồm của tôi, hoặc tôi đã tự “cải thiện” bằng rau má, rau tàu bay, cây và bắp chuối rừng… Tóm lại, vừa tiêu chuẩn của trại, vừa kiếm chác thêm, tôi đã cầm cự được với cái đói trong nhiều năm nay.
Nhưng, nếu sự đói khổ, thiếu thốn được chia sẻ, phân phối đồng đều cho mọi người trong cùng một hoàn cảnh, tức là mọi thằng tù đều vô sản như nhau, không có cách biệt nào của kẻ thiếu người thừa, thì sự thiếu thốn được cảm thấy nhẹ hơn, ít hơn. Ðằng này, tuy cùng một hoàn cảnh tù tội như nhau nhưng có những thằng vô sản như tôi, mà cũng lại có những thằng tư bản, lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm luôn luôn đầy đủ, đầy đủ đến độ thừa thãi, thì sự thiếu thốn của những thằng vô sản không thể nào cảm thấy nhẹ nhàng, dễ khắc phục được. Hằng ngày nhìn người khác ăn uống thoải mái, mức độ thèm thuồng của tôi được tăng lên theo cấp số nhân, quay quắt hơn, bất ổn hơn.

Vào những ngày cuối năm, trời lạnh, thường thì vào buổi tối, sau khi học tập chính trị bằng cách nghe đọc báo, sau khi kiểm điểm công tác lao động trong ngày, và sau khi điểm danh tối là đến giờ ngủ, giờ sung sướng, thoải mái nhất trong sinh hoạt mỗi ngày của chúng tôi, giờ mà mọi người chờ đợi trong ngày để nghỉ ngơi, để dưỡng sức, thì chính lúc này mới lại là lúc tôi bị hành hạ nhiều nhất. Trước khi ngủ, những tay bạn tù nằm cạnh, nằm quanh ít ra cũng có miếng đường, thìa bột cho vào mồm làm ấm dạ dày, có điếu thuốc “thẳng”, có “bi” thuốc lào làm đê mê đầu óc trước khi sống lại những cảnh no đủ, ấm cúng và hạnh phúc trong giấc mơ. Còn tôi, vì là thành phần bần cố nông cốt cán nên thay vì có miếng gì đó nhét vào mồm giống như người ta, tôi chỉ có đủ khả năng “làm” luôn một lon gô đầy nước lạnh để đánh lừa dạ dày.
Vì đánh lừa dạ dày bằng nước, cộng với trời lạnh bên ngoài nên nước trong người tôi được thải ra thật nhanh qua ngả tiểu tiện. Vì phải ra ngoài trời lạnh đi đái nên nhiệt độ trong người giảm xuống cũng thật nhanh, đắp một cái chăn cũ không đủ ấm nên lạnh. Vì lạnh không ngủ được nên cái đói kéo đến hành hạ. Vì đói mà không có gì ăn nên lại phải uống nước để đánh lừa dạ dày. Vì làm đầy dạ dày bằng nước nên đi đái. Vì đi đái ngoài trời nên lạnh. Vì lạnh nên ngủ không được. Vì ngủ không được nên đói. Vì đói nên phải uống nước… Cái vòng luẩn quẩn đói, uống, đái, lạnh, mất ngủ, đói, uống, đái, lanh, mất ngủ, đói… cứ như vậy quần tôi cho hết đêm. Cái đói và cái rét là một “đôi bạn chân tình”, vậy mà tôi còn bị cái đói hành hạ trong mùa rét nơi rừng núi miền Trung thì quả là đến nơi đến chốn. Ðể chống lại cái vòng luân hồi quái ác diễn ra hằng đêm như vậy, những thằng bạn tù bần cố nông như tôi đã tổ chức “đi bay”. Những chuyến “bay đêm” thật hấp dẫn, vừa kích thích lòng mạo hiểm, vừa có những chiến lợi phẩm có giá trị thiết thực cho dạ dày. Những củ khoai, củ sắn sống nhai nghe ròn tan trong những cái chăn trùm kín mít, những tiếng cười khúc khích hả hê cũng “ròn tan” thỏa mãn cho dạ dày cứ xoáy mãi, xoáy mãi vào tai tôi từng đêm, từng đêm.

Trong hàng ngũ những kẻ “bay đêm”, có loại lương thiện và ít mạo hiểm là những người khoanh vùng mục tiêu ở những nơi “oanh kích tự do” là những vạt sắn, vồng khoai quanh trại. Tuy là vùng “oanh kích tự do” nhưng đôi khi những tay “phi công” loại này cũng có người “gãy cánh đại bàng”, bị đem ra “vặt lông” trước “tòa án nhân dân” hoặc “cắt tiết” ngay tại chỗ tùy theo mức độ buồn vui của cán bộ trại nằm phục kích. Có loại rất “sịn” là những tay chỉ chấm một vài mục tiêu cố định nằm sâu trong lòng địch, những “cứ điểm trọng yếu”, những “căn cứ chiến lược” của địch là nhà kho, nhà bếp của cán bộ trại. Loại “phi công” này dễ bị “bắn rơi” hơn nhưng oai hùng hơn và được sự thán phục của đám bạn tù. Còn một loại hèn nhát và vô liêm sỉ, không cần biết một điều gì khác ngoài cái dạ dày của mình, chuyên “bay” loanh quanh những mục tiêu gần như an toàn tuyệt đối trong vùng đất của mình, là những ba lô, túi, sắc, của đám bạn tù tư bản nằm chung trong lán.
Theo nội quy và những điều quy định của trại là ai làm nhiều ăn nhiều, làm ít ăn ít, không làm thì không ăn… Tôi có một quan niệm và thái độ rất đứng đắn và sòng phẳng với nội quy, tuy tôi có đổi vế của điều lệ, tôi chỉ lao động ở mức độ tương ứng với số lượng calories tôi nhận được hằng ngày theo tiêu chuẩn của trại cấp phát – dĩ nhiên không kể số lượng thực phẩm mà tôi đã “cải thiện linh tinh” được – cho nên tôi luôn luôn bị phê bình mỗi tối khi kiểm điểm công tác trong ngày, và luôn luôn được “bêu dương” trong mọi lần bình bầu những người lao động tốt vào mỗi cuối tuần. Ðược “bêu dương” là một thành tích mà tôi vẫn ngầm hãnh diện vì nó thuộc vào tội “hộ” chứ không phải là tội “hình” như những chàng “phi công” bị gãy cánh. Cho nên đói thì đói, tôi không gia nhập vào một “phi đoàn” nào, tức là tôi không thuộc vào một nhóm “phi công” nào hết.
“Miếng ăn là miếng nhục, dù có thiếu thốn đến đâu đi chăng nữa, dù có thèm thuồng đến đâu đi chăng nữa, miếng ăn vẫn không thể nào làm nhục con người của mình được. Ðừng bao giờ để cho người ta khinh mình, chửi mắng mình vì miếng ăn”. Tôi đã tự ra lệnh như vậy và tôi đã thi hành lệnh này một cách triệt để và nghiêm túc trong suốt mấy năm trời nay. Lệnh này được tôi đặt ra từ những ngày Sài Gòn chưa mất, những thằng tù chúng tôi vẫn còn trong tư thế hiên ngang của những thằng tù binh, tiêu chuẩn lương thực 7 lạng gạo mỗi ngày – của đáng tội, thời gian ở nhà binh, tiêu chuẩn 700 gram gạo mỗi ngày bị ăn xén ăn bớt chúng tôi ăn vẫn còn không hết, vậy mà 7 lạng gạo trong tù dù có bị cân thiếu, có bị mối mọt, chúng tôi cũng không thể nào bị đói đến độ…

Trong một buổi sáng tập thể dục, cán bộ trại đã thông báo một chuyện vừa xảy đêm hôm trước, “thau cơm của chó đã bị ăn cắp hết sạch”. Ai ăn cắp? Có thể là đám tù chúng tôi – dĩ nhiên là nếu thau cơm của chó bị đánh cắp thì còn ai ngoài đám tù – cũng có thể là thau cơm của chó đã không bị mất cắp. Ai mà biết chuyện này có thật hay không, ngoại trừ mấy người cán bộ đưa tin và người ăn cắp nếu có. Tuy nhiên, dù có hay không, dù đúng hay sai, vấn đề miếng ăn phải được cảnh giác và bắt buộc phải được đặt vào vị trí đi song song với danh dự của con người, nhất là danh dự của những thằng vừa bị ngã ngựa như chúng tôi, tuy là tù binh nhưng lại nhìn bọn cai tù chỉ là một lũ người bị khinh miệt một cách đáng thương. Vật chất không phải là cứu cánh của đời người. Ít ra, lúc này, ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn.
Nhưng, giữ không cho bị nhục vì miếng ăn không phải là một chuyện dễ làm trong một chế độ trại tù mà cán bộ luôn luôn bóp chặt dạ dày, luôn luôn dùng miếng ăn để chi phối tinh thần, để bắt đám tù lúc nào đầu óc cũng chỉ nghĩ đến làm cách nào để kiếm chác một thứ gì hầu nhét cho dầy dạ dày. Nếu bị đói một ngày, hai ngày, một tuần, hai tuần, người ta có thể cưỡng chống nổi một cách dễ dàng sự cám dỗ của miếng ăn, nhưng nếu, cái đói, cái thèm đeo đẳng hành hạ con người hết ngày này tháng nọ, năm nào, tháng nào, ngày nào, giờ nào cái đói cũng bám chặt lấy dạ dày, cái thèm lúc nào cũng bám chặt lấy đầu óc, đến nỗi một cục muối bỏ vào miệng ngậm cũng còn thấy ngọt, thì chuyện giữ nổi cho mình không bị nhục vì miếng ăn thì quả là một vấn đề lớn.

Lòng cương quyết của tôi về miếng ăn đã nhiều lần bị chao đảo. Tôi đã cố gắng tránh né tất cả mọi bữa ăn “hàm thụ” của bạn tù trong những lúc rảnh rỗi. Tôi cũng đã cố gắng từ chối lời mời tham dự vào những “chuyến bay” của đám bạn bè “phi công”. Ðôi khi tôi cũng được mời ăn “liên hoan” trong chăn, nhưng vì quan niệm phải sòng phẳng, có làm mới có ăn, nên tôi đã không cho phép được tham dự những bữa “liên hoan”, và thực tế cũng không ai muốn mời một thằng chỉ “liên hoan” mà không bao giờ chịu “đi bay”, nên cuối cùng, những tiếng nhai, những tiếng cười “ròn tan” trong chăn lại cứ xoáy mãi, xoáy mãi vào tai tôi từng đêm, từng đêm.
Nhưng tất cả chỉ có vậy thôi thì tôi đã không có gì để kể. Ngày thăm nuôi vừa rồi là ngày giáp Tết. Ai cũng háo hức ra gặp thân nhân, rồi sau đó là gồng, là gánh, là ôm, là vác những túi, những xách, những bao bố đựng đầy những thứ mà đã mấy năm rồi tôi chưa được một lần nếm lại, nào là bánh chưng, nào là bánh tét, nào là đường là đậu, nào là thịt là cá, nào là gà ram, nào là lạp xưởng, nào là thuốc lào, thuốc rê, thuốc thẳng, nào là kẹo, bánh, mứt – tình cảm gia đình được đánh giá, được cân đo bằng sức nặng của những túi quà thăm nuôi mà – và vì là ngày Tết nên số lượng quà cáp không bị giới hạn. Ngày thăm nuôi giáp Tết này được coi như một ngày hội lớn, một ngày nhộn nhịp thật là nhộn nhịp, một ngày ăn uống ê hề thật là ê hề. Chỗ này ngong ngóng nghe loa gọi tên ra thăm nuôi, chỗ kia ơi ới gọi nhau mời mọc.
Tôi biết thân tôi, một thằng không bao giờ nhận được thư nhà chứ đừng nói là quà cáp hay thăm nuôi, nên tôi đã phải trốn lên phòng đọc sách để ngồi cho vắng, để tránh xa cái ê hề, cái nhộn nhịp của một ngày thăm nuôi gần Tết. Tôi không ngong ngóng vì biết chắc chẳng có ai thăm nuôi. Tôi không lượn qua lượn lại để người ta thấy mặt người ta thương hại người ta bố thí cho một lời mời, vì không bao giờ tôi có gì để mời lại họ, có qua có lại mới toại lòng nhau chứ. Và chắc chắn cũng chẳng có ai thèm mời tôi vì tôi thường xuyên từ chối lời mời của họ, mất công mang ơn, mất công nghe kể lể. Nhưng nếu đèn nhà ai nấy sáng thì cái đói đã không quay quắt tôi bao nhiêu, đằng này, thể theo lời đề nghị của đa số trại viên – dĩ nhiên là những tay có thăm nuôi – tiêu chuẩn ăn của những ngày thăm nuôi giảm xuống còn một nửa, nửa còn lại để dành để thêm thắt cho những ngày sau, mà mỗi mâm ăn vẫn phải chia đều cho đủ phần sáu người. Với đủ tiêu chuẩn lương thực trong ngày đã không thể làm đầy dạ dày, vậy mà tôi chỉ có được một nửa tiêu chuẩn trong bụng ngồi bên cạnh những kệ sách thu hoạch năm tấn, mười tấn mỗi hếch ta, chủ nghĩa bách chiến bách thắng, sỏi đá cũng thành cơm… để trốn cái thèm thuồng, cái đói khát. Tôi ngồi mặc đói, mặc lạnh để tránh phải nhìn cảnh những thằng bạn tù lăng xăng nấu nướng, phủ phê ăn uống. Tôi không muốn ai thương hại tôi, tôi không muốn phải thấy những cặp mắt “thương xót”, tôi không muốn nhận của bố thí – nếu có – từ lòng thương hại của những kẻ đã thừa mứa.

Tôi cứ ngồi một mình chịu đói, chịu lạnh như vậy cho đến khi kiểng điểm danh đêm tôi mới trở về lán. Ðêm này, đêm của ngày thăm nuôi nên chỉ có điểm danh mà không có kiểm điểm công tác, không có đọc báo để học tập, nên từ lúc điểm danh đến lúc ngủ thời gian còn lại kể cũng khá dài. Mọi người lại quây quần ăn uống. Tôi không thể ra ngoài vì trời đã quá lạnh, đành phải về chỗ nằm.
Cứ hai cái chiếu rộng một thước là ba người nằm. Khốn khổ cho tôi là tôi lại nằm giữa hai tay tư bản gộc. Hai tay tư bản này nấu một nồi chè lớn, mời bạn bè cùng giai cấp đến ăn. Tôi phải nằm co chân lên cho họ có chỗ ngồi. Chăn trùm kín đầu, mắt nhắm nghiền nhưng nào tôi có ngủ được, tất cả mọi tiếng động chui vào tai tôi rõ mồn một, kể cả những tiếng động nhỏ nhất. Tiếng khoắng môi múc chè, tiếng húp chè xùm xụp, tiếng kéo thuốc lào xòng xọc, tiếng nói cười tràn đầy thỏa mãn.

Tiệc tan, mọi người giải tán, hai tay tư bản cạnh tôi vừa dọn dẹp vừa nói với nhau.
– Còn một tô, mày ăn nết đi.
– No thấy mẹ rồi còn ăn gì nổi nữa. Mày ăn đi.
– Tao cũng ăn hết nổi rồi, mà đổ đi thì uổng. Hay mình chia đôi.
– Ðổ đi. Chỉ cần húp thêm một miếng nữa là tao ọc ra hết.
Người tôi run lên bần bật, tôi mím môi, bạnh hàm, nghiến chặt răng, nuốt liên tục mà sao nước dãi cứ ứa ra, đầy mồm rồi trào ra mép. Với một sự cố gắng vượt bực, tôi vẫn không thể kềm giữ nổi nước dãi, nước mắt tôi cũng tự động ứa ra, không hiểu tại sao. Ðưa tay quẹt mồm và dụi mắt liên tục vẫn không ăn thua gì. Trời ơi, tôi bất lực rồi, tôi không còn kiểm soát được tôi nữa rồi. Tôi thua cuộc rồi. Tôi lẩm nhẩm, cầu xin trong đầu: “Mời tao đi, mời tao một tiếng, một tiếng thôi. Hãy mời tao một tiếng để cho tao từ chối. Có được mời và tiếng từ chối được phát ra thành tiếng, nước dãi tao mới hết chảy. Mời tao đi, mời đi, một tiếng thôi”. Nhưng chẳng ai mời tôi tiếng nào. Hai người cứ chỉ mời qua mời lại, rồi cuối cùng đem đổ.
Tai tôi nóng bừng lên, đầu tôi như vỡ tung ra hàng trăm nghìn mảnh. Tôi hét to lên một tiếng, và tôi không còn biết mình là ai, tôi không còn biết mình đã làm những gì nữa.

Cho đến tận bây giờ, mọi người có mặt trong lán, kể cả hai nạn nhân vẫn không biết lý do tại sao lại bị một trận đòn thù đến nỗi phải đi nằm trạm xá, và tôi, bị cùm để được ăn một cái Tết trong xà lim.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng”   Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeWed Jan 09, 2019 9:36 am

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” 171

Thời "giải phóng": Quyền tối thiểu

- Cao Xuân Huy


“Không, không thể có chuyện đó được”, nét mặt Toàn biến đổi thật nhanh, lúc hân hoan, lúc đau khổ, “Tao không tin được…”
Thành cười hóm hỉnh:
“Kính thưa mày, lúc gánh tranh về trại, chính mắt bố thấy vợ mày vào văn phòng ‘khung’, dù nhìn từ xa, dù vợ mày thay đổi khá nhiều, nhưng bố mày lầm thế chó nào được.”
“Tao không bảo mày lầm hay không lầm, tao chỉ không tin là vợ tao bị kẹt lại, và bây giờ mò ra tận đây thăm tao. Làm sao nó biết được là tao ở đây.”
“Bố mày chỉ trình với mày như vậy. Còn tin hay không là việc của mày, và mày được ra gặp hay không là việc của ‘khung’. Bố mày đếch có trách nhiệm.”
Toàn trầm ngâm:
“Phải chi lúc nãy tao gánh tranh về…”
“Mày vẫn không tin? Mặc xác mày. Thôi, cắt tranh đi con trai. Bố mày đếch nó chuyện với mày nữa.”
Toàn thắc mắc:
“Mày biết quá rõ gia đình tao. Vợ tao vượt biên đã gần cả năm nay. Tại sao lại có chuyện ra thăm nuôi…”
“Vấn đề không ở chỗ vợ mày bị kẹt lại hay không bị kẹt lại, mà vấn đề ở chỗ, một chút nữa, mày có được thăm nuôi hay không.”
Mặt Toàn ngẩn ra:
“Chắc là phải được thăm nuôi chứ. Tuy không bao giờ được biểu dương, nhưng tao chưa bao giờ bị ‘bêu dương’, chưa bị phạt, bị kỷ luật. Nhưng mà… Có chắc là vợ tao không đã… Hay mày nhìn gà hóa cuốc…”
“’Một trăm em ơi’ là vợ mày…”
“Vậy thì chắc chắn tao phải được thăm nuôi… vì tao chưa phạm phải điều gì mà trại gọi là sai trái.”
“Ừ, thì cứ hy vọng đi con. Nhưng, mày nhớ một điều, hôm nay không phải là ngày thăm nuôi. Thôi,” Thành nhìn ra vạt tranh, “cắt hết vạt này chắc là đủ một gánh nữa. Bố bó lại cho mày gánh về.”
“Giờ này mới gánh về thì còn nước mẹ gì nữa.”

Trời lạnh cóng tay, gió thổi buốt mặt, tranh ướt sương nhớp nháp, bẩn. Khó chịu. Toàn cúi xuống tiếp tục cắt tranh, lưỡi liềm cắt vào tay, máu lẫn vào sương ướt đỏ cả nạm tranh.
Toàn đưa ngón tay chảy máu vào miệng. Máu mặn. Anh tưởng anh đang uống những giọt nước mắt của em, người đàn bà đã chia sẻ với anh những tháng ngày hạnh phúc và khổ đau. Anh tưởng như đang ôm em vào lòng, đang ôm tấm thân bé bỏng nồng cháy, đang ngửi lại mùi thơm của mái tóc dài mà anh say mê ngay từ phút đầu gặp gỡ. Anh tưởng như đôi môi nứt nẻ vì lạnh, vì đói của anh đang ấp lên đôi môi em. Anh tưởng như anh đang hòa nhập vào em, tan ra trong thân thể vợ anh, nghe lại những lời nói dịu dàng của người đàn bà mãi mãi là của anh.
Toàn ngồi phệt xuống, ngả lưng trên đống tranh chưa bó. Không, anh và em sẽ không thể nói một lời nào, bởi vì vợ chồng mình có quá nhiều điều để nói. Khi người ta có quá nhiều điều để nói, người ta sẽ không nói được gì. Người vợ yêu quý của anh, em có biết anh nhớ em đến là chừng nào, anh yêu em biết là chừng nào… Em yêu của anh, chỉ vài tiếng đồng hồ nữa thôi, không lâu lắm đâu phải không em, không lâu đâu phải không em. Anh đang như điên lên đây em biết không?
Cùng với những tưởng tượng miên man, Toàn ngạc nhiên thấy những cảm xúc nôn nao, háo hức tưởng từ lâu không còn, đang cuồn cuộn như sóng dâng lên trong lòng. Người chàng hừng hực như làm tan biến cả cái lạnh buốt của mùa đông.

Tiếng Thành oang oang mắng nhiếc:
“Tiên sư nhà anh, bao nhiêu thằng mơ được ngủ ở nhà khách với vợ, anh lại vác mặt vào đây. Chắc là vợ anh có thằng khác, đếch cho anh ngủ chứ gì. Hay là anh đã liệt dương mẹ nó rồi, không còn làm ăn gì được nữa, sợ vợ nó chê, nó về kiếm thằng khác… Tiên sư nhà anh…”
Toàn nhíu mày, nói nhỏ:
“Nói thật với mày, không phải tao không yêu, không phải tao không thèm, cũng không phải tao không đủ sức, mà vợ tao cũng chẳng có gì thay đổi cả, tuy có xấu đi một chút, già thêm một chút. Nhưng, không được… tao không… thích, thế thôi.”
“Đồ ngu. mày là thằng đàn ông ngu nhì trên thế gian này, mày hiểu không?”
Toàn ngớ ra:
“Sao lại ngu nhì?”
“Vì tao luôn luôn là thằng nhân đạo. Nhân đạo thật chứ không phải nhân đạo vẹt như mình vẫn nghe ra rả hằng ngày đâu Không bao giờ tao cho ai điểm nhất, và cũng không bao giờ cho ai điểm bét. Hạng nhì để còn chừa chỗ cho thằng khác hy vọng sẽ lên hạng nhất, và tao cho mày ngu nhì là để an ủi mày, để mày hy vọng may ra còn có thằng ngu hơn. Nhưng cái ngữ mày, tao thấy khó có hy vọng lắm.”
“Đồ đểu.”
“Chứ không à? Bao nhiêu thằng bon chen, nịnh hót, kiếm điểm, làm ‘ăng ten’, bôi mặt hại anh em đồng đội, chỉ để mơ ước một ân huệ là được ngủ đêm với vợ trong ngày thăm nuôi. Mày ‘bất chiến tự nhiên thành’, vậy mà mày lại bỏ con vợ trẻ ngon lành của mày năm trơ ra với muỗi mà mày chịu được à?”
“Mày tưởng tao không đau khi quyết định bỏ vào trại à?”
Thành dịu giọng:
“Mày nói thật đi, có gì trục trặc giữa vợ chồng máy không?”
“Không trục trặc mẹ gì cả. Tao không thích, thế thôi. Và dĩ nhiên là vợ tao không biết là tao được ngủ lại nhà khách.”
“Gàn, ngày trước mày là lính chứ có phải là thày giáo chó đâu mà giở thói đồ gàn ra đây. Mẹ kiếp, con không ăn muối con ươn, con không ngủ với vợ, trăm đường… vợ con hư, nghe không con.”
“Nếu chỉ vì không ngủ với chồng một đêm mà vợ tao hư, thì tao cũng đành chịu thôi.”
“Tiên sư cha nhà anh, vậy thì anh là thằng ngu nhất rồi, chứ không còn được hưởng ân huệ hạng nhì nữa. Không phải đêm nay chỉ có nghĩa đơn thuần là một đêm, hiểu không con trai. Bao nhiêu năm chờ đợi trước đây, và sau hôm nay, bao nhiêu năm sau này nữa, vợ anh không biết có còn được gặp cái mặt mẹt của anh hay không. Bố anh muốn nói lỡ một đêm là lỡ cả một quãng đời dài, nghe thủng ra không con trai? Sao anh dại thế? Anh hãy giải thích cho bố anh nghe đi.”

“Thì tao cũng đành chịu thôi, Thành ạ!”
“Chịu thôi?” Thành ngạc nhiên. “Như vậy là nghĩa làm sao?”
Toàn gằn giọng:
“Nghĩa là làm sao? Nghĩa là làm sao hả? Các anh được hưởng chính sách khoan hồng nhân đạo của cách mạng. Cách mạng đã tha tội chết cho các anh, giáo dục các anh trở thành người tốt cho xã hội, lại còn cho gia đình đến thăm, lại còn được hưởng đặc ân ngủ lại đêm với vợ nữa…
Thành cười:
“Chứ còn gì nữa. Mẹ kiếp, mày đừng lập lại như một con vẹt những câu thằng nào cũng thuộc chứ.”
“Tao tưởng mày khá hơn một chút. Mày hãy nghĩ xem. Ừ, hãy động não thử xem. Vợ chồng ngủ với nhau mà là một đặc ân à? Ngủ với vợ cũng phải có thằng cho phép à? Thú vật ngủ với nhau cũng không phải là đặc ân của ai hết mà. Hừ, thái độ ngạo nghễ thi ân. Tao hèn, tao không dám chống đối, nhưng ít nhất, tao cũng còn có cái quyền tối thiểu là không thèm nhận sự ban phát ấy chứ.”
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng”   Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeMon Feb 25, 2019 12:10 am

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” HQPD_1406574141

Cái lưỡi câu
- Cao Xuân Huy


Thạnh năn nỉ:
“Mày thông cảm, tao chỉ có hai thìa.”
Tường lắc đầu:
“Ba là ba.”
Thạnh thở dài:
“Hay mày cho tao thiếu.”
“Thiếu? Rồi lấy gì mày trả?”
“Thì…”
“Không.”
Thạnh thất vọng:
“Thôi thì, lấy cái hạng nhì vậy.”
“Đưa đây.”
Thạnh móc trong túi ra một miếng vải được buộc túm chặt bằng lạt tre, cẩn thận gỡ sợi lạt. Một dúm muối hột đen bẩn hiện ra. Thạnh trân trọng, nâng niu múc, vừa chẵn được hai thìa, đổ vào bát của Tường. Tường chăm chú nhìn Thạnh đong muối. Xong xuôi, Tường chùi cái lưỡi câu thêm một lần trước khi đưa cho Thạnh. Thạnh cầm lưỡi câu, mắt nhìn với theo bát muối trên tay Tường. Còn một ít muối vụn dính vào miếng vải, Thạnh thè lưỡi chấm chấm. Vị ngọt lan nhanh trong miệng, nước bọt ứa ra.
Những sợi chỉ tháo từ cái ba lô rách trở thành dây cước, Thạnh buộc vụng về nhưng cẩn thận vào cái lưỡi câu vừa “mua” được. Có thế chứ, cuối cùng mình cũng đã có được cái lưỡi câu. Dù không bằng cái hạng nhất làm từ kim băng, nhưng, vẫn là một cái lưỡi câu, hạng nhì.

*
Để chống lại cái rét căm căm của mùa Đông núi rừng miền Bắc, hơn bốn chục người tù phải bốc thăm để chia nhau một cái áo ấm. Ngoài sân, lửa phải đốt suốt ngày. Đêm, phải mang than hồng lót dưới sạp nằm. Lúc nửa đêm, cái lạnh nhức xương làm Thạnh thức giấc, than đã tàn, Thạnh ra đống lửa ngoài sân hút một điếu thuốc lào.
Vừa đặt điếu xuống, Thạnh thấy thốn đau ở ngực, cổ họng như có cái gì muốn trào ra, mà không phải là nôn. Chúi đầu xuống đống lửa, Thạnh há miệng, nước lẫn bọt từ trong ngực dồn lên, rồi tự động tuôn ộc ra khỏi miệng từng đợt từng đợt.
Toàn, cũng không ngủ được, đang ngồi hơ lửa, hốt hoảng kêu lên:
“Thạnh! Mày ói ra máu!”
Thạnh đưa tay quệt ngang miệng, giơ ra ánh lửa. Màu đỏ tươi dính trên tay áo. Thạnh lại gập người xuống, há hốc miệng vào đống lửa, máu lại trào ra.
Toàn chồm tới, đưa tay đỡ lấy ngực Thạnh:
“Để tao lên bệnh xá xin thuốc cầm máu.”
Toàn đứng dậy, dợm bước. Thạnh thều thào gọi giật lại:
“Thôi Toàn, để họ ngủ.”
“Nhưng máu ra nhiều thế kia.”
“Có thuốc đâu mà xin. Mà… cũng không cần. Chỉ cần mày… làm chứng… cho tao… là đủ rồi.”
Làm chứng tao mửa ra máu, may ra, tao sẽ được nghỉ lao động một ngày. Được nghỉ những nguyên một ngày lao động… Bỗng dưng, đám máu tươi bầy nhầy không làm Thạnh sợ choáng người như lúc vừa nôn. Ngược lại, nó đã trở thành những tia hy vọng.
Thạnh nhìn Toàn, hy vọng…
Toàn chỉ lắc đầu, lẩm bẩm trong miệng:
“Không có thuốc, rồi làm sao qua được mùa Đông này…”
Thạnh đưa tay chận ngực, hổn hển:
“Qua được hay không qua được, nói làm gì. Mày nhớ… làm chứng… cho tao nghe.”

*
Cái phao động đậy, Thạnh hồi hộp đợi. Cái phao vẫn động đậy. Chờ cho đến khi cái phao đứng yên, Thạnh cẩn thận nhấc cần. Con giun mồi biến mất, chỉ còn trơ ra cái lưỡi câu.
Cái phao lại động đậy, Thạnh hồi hộp. Cái phao đứng yên, Thạnh lại cẩn thận nhấc cần. Con mồi biến mất, lại chỉ còn trơ ra cái lưỡi câu.
Cái phao động đậy. Lần này, Thạnh không đợi nữa mà, vút… Thạnh giựt mạnh cần.
Nặng tay. Sợi dây cước căng hết cỡ làm cong đầu cần.
Thạnh giựt giựt cần, vẫn nặng tay.
Chắc là một con cá to, phải là cá to chứ. Cái hố bom B-52 kín đáo, nằm khuất sâu trong rừng già, mới chỉ có một mình Thạnh tìm ra. Cái hố bom mà Thạnh phải thật gian nan mới vào đến được, chưa kể phải đánh dấu để khỏi lạc đường về trước khi trời tối. “Một con cá to,” Thạnh nhớ ngay đến Toàn, chắc cũng phải tìm cách chia cho nó một phần. Nghĩ đến đây, Thạnh hứng chí, mẹ, thằng vua “cờ tây” suốt ngày ngâm nga “sống trên đời…”, con vật “ăn đủ thứ” ấy mà bạn tao còn khen ngon, thì huống gì mày, cá ơi là cá! Bất kể mày ăn cái gì ở dưới hố bom này, chúng ông cũng ăn mày, chúng ông cũng ăn mày cho đã đời. Thạnh liếm môi, hít hít mùi thơm tưởng tượng, nuốt ực miếng nước bọt vừa ứa ra.

Nhưng, nhìn lại, cái phao không còn động đậy, Thạnh đâm nghĩ ngợi. Nếu là cá to, thì cái lưỡi câu hạng nhì và cái gọi là dây cước, nó chỉ cần táp nhẹ một cái là đã đi đời nhà ma rồi, chứ sao lại nặng. Hay là… rắn? Hay… một con quái vật rừng già nào khác? Hay là, lưỡi câu đã lọt thỏm vào giữa hàm răng của… một cái đầu lâu đã thành tinh dưới đáy hố bom cũng là đáy huyệt? Thạnh chùn tay, đảo mắt nhìn quanh, bỗng nhận ra, trong cái không gian âm u đầy đe dọa của núi rừng hoang rợ vào lúc buổi chiều đang dẫy chết này, Thạnh chỉ có mỗi một mình, với cái hố bom ma quái.
Gió bắt đầu thổi mạnh, luồn qua khe núi, thốc qua những lùm cây, những bụi gai rừng, rít lên từng chập. Tiếng côn trùng rền rĩ càng làm khung cảnh thêm thê lương. Thạnh gai người, nhớ lại những đêm hành quân lởn vởn những xác người và chờn vờn những bóng ma.

Nghĩ đến ma, Thạnh nhớ lại câu chuyện một người lính kể vào một đêm trời cũng chập choạng tối như đêm nay:
Đơn vị em vừa tái chiếm một ngọn đồi, sau một trận đánh khốc liệt. Mùi máu tanh như vẫn còn vướng vất trên những lùm cây. Em ngồi gác, trong bóng tối nhá nhem của buổi chiều, khu rừng già trước mặt như vẫn còn đầy bất trắc. Trong không gian im vắng, đột nhiên em thấy như có gì di động trong rừng cây. Phản xạ của một thằng lính gác là mở chốt an toàn của khẩu súng trên tay. Nhưng trong khoảnh khắc, em chợt nghe rõ “cách”, tiếng mở khóa an toàn một khẩu M-16 khác ngay bên cạnh. Em giật mình quay lại, một thằng lính lạ mặt, không cùng đơn vị đã đứng cạnh em từ lúc nào. Quái lạ và vô lý, em đang gác ca đơn, ca gác đơn không thể có hai người. Thằng này ở đâu ra?
Nó nhìn em:
“Vô sự. Gió đấy thôi!”
Kinh ngạc và hoang mang, em hỏi nó:
“Mày là ai? Sao lại ở đây?”
Nó co ro:
“Lạnh quá, cho tao ngồi chung với. Giờ này là ca gác của tao.”
Rồi nó tự động lót mũ sắt ngồi xuống. Em nhìn phù hiệu trên tay áo nó:
“Mày có lộn không? Đây là đơn vị tao, mày về đơn vị mày mà gác.”
Nó cãi:
“Đơn vị tao ở đây”.
Nó vừa nói vừa chỉ tay xuống đất, ngay dưới chỗ hai đứa đang ngồi.
Lúc em nhìn lên, nó biến mất, em vụt nhớ lại khuôn mặt nó, khuôn mặt xanh lè của một xác chết, với bệt máu còn đọng trên mép chưa khô, phù hiệu đeo trên tay là của một đơn vị bạn từng đóng trên ngọn đồi này, đã chết không còn ai, trong một trận tấn công của địch mấy tháng trước, xác không kịp mang đi, được lấp vội vàng tại đây, ngay dưới chân vọng gác này.

*
Gió rít mạnh hơn, tiếng rít của núi rừng hay tiếng rít ai oán của những thây ma đang nằm rên rỉ dưới đáy hố bom? Thạnh rùng mình kéo cao cổ áo. Người anh em phía bên kia muốn về báo hận ta chăng? Thôi, hận nhau làm gì nữa, các anh nằm dưới đáy hố bom thì cũng đâu khác gì tôi đang ngồi dưới đáy vực của cuộc sống này. Nói cho cùng, chúng ta không phải là đồng đội, nhưng là đồng nghiệp với nhau đấy chứ. Các anh không thấy sao? Chúng ta đều là những người trẻ, đi lùng giết nhau để tranh giành những thung lũng, những ngọn đồi đầy xác chết.
Thạnh dợm người, với tay kéo mạnh chiếc cần câu. Chiếc cần vẫn cứng ngắc như có ai ghì lại dưới đáy. Mặt nước bây giờ đã đầy bóng tối. Thạnh căng mắt nhìn.
Không còn thấy cái phao.
Bõm…
Có ai vừa nhảy xuống nước, hay tiếng của một vật gì rơi.
Thạnh giật mình hốt hoảng, định bỏ chạy, nhưng cái cần câu trên tay kéo giữ Thạnh lại.

Và, Thạnh thoắt nghĩ đến cái lưỡi câu.
Ừ, cái lưỡi câu. Thạnh không thể để mất cái lưỡi câu. Hai thìa muối, cả một gia tài đã mất, một quyết định lớn đã làm sau bao đêm suy nghĩ đắn đo. Cái lưỡi câu và những con cá mơ ước, có lẽ nào Thạnh lại chịu thua.
Thạnh toát mồ hôi. Phải quyết định. Giật mạnh cần thì sẽ mất cái lưỡi câu. Lội xuống nước mò theo sợi dây cước tìm cái lưỡi câu thì… Thạnh rợn người không muốn nghĩ tiếp.
Bóng tối bây giờ dày đặc. Thạnh co dúm người, gục đầu xuống hai tay đang ghì chặt chiếc cần câu.
Lạnh, và sợ. Nỗi sợ hãi ập xuống cùng bóng đêm, cái lạnh cào xé cùng gió buốt. Thạnh run rẩy, tuyệt vọng. Và muốn bật khóc. Nhưng cùng lúc ấy, hình ảnh cái lưỡi câu và những con cá béo nhẫy hiện ra. Can đảm lên Thạnh ơi, chỉ cần mò theo sợi dây cước, lặn xuống nước thì sẽ “cứu” được cái lưỡi câu, sẽ có cá ăn. Sẽ có cá ăn.

Bỗng dưng, Thạnh nhận ra mình đang đói.
Cái đói cồn cào ruột gan, cái đói quắt quay trí não, cái đói thúc giục chân tay, nó kéo đôi chân cong queo của Thạnh đứng lên, nó đẩy thân hình xác xơ xiêu vẹo của Thạnh chập choạng bước tới.
Thạnh nhắm mắt. Hai tay ôm ngực chận cơn nôn. Méo miệng cười, nhào xuống nước…
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng”   Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeSat Mar 02, 2019 1:16 pm

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Cothanh

Chờ tôi với…
- Cao Xuân Huy

 
Tiếng rít của vỏ đạn hỏa châu phá tan cái im lặng của mặt trận, vỏ đạn rơi thẳng xuống chỗ Toàn nằm. Sợ vỏ đạn rơi xuyên qua thân thể mình, Toàn co rúm người lại, thu nhỏ thân hình. Trời lạnh, mưa mỏng hạt, ánh trăng hạ tuần nhờ nhợ lẫn vào màu cát. Toàn căng mắt nhìn, không thấy gì. Màu vàng nhợt xóa mờ đường ranh giữa trời và đất. Ánh sáng hỏa châu nhập nhòe đường nét vùng quan sát.

Tựa lưng vào thành giao thông hào, Toàn hồi hộp đợi lệnh tấn công lần chót trước giờ ngưng bắn. Ðã quá bốn giờ sáng, chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa là đến giờ. Một cuộc ngưng bắn toàn diện, chính thức được hai bên thỏa thuận và quốc tế công nhận bằng hiệp định Paris, đã được thông báo, phổ biến trong toàn quân. Tám giờ sáng, đúng tám giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973, cuộc chiến kéo dài gần hai chục năm chấm dứt. Vĩnh viễn.
Mục tiêu là Cửa Việt, căn cứ cũ của Hải Quân, nơi phòng thủ của một trung đoàn địch. Ðơn vị Toàn, một trong sáu đại đội trực thuộc lực lượng đặc nhiệm Tango, thành lập để, bằng mọi giá tái chiếm Cửa Việt. Lính của Toàn là những tay cảm tử, xem cái chết “nhẹ tựa hồng mao”, những cái lông hồng này đã rụng hơn ba phần. Ðại đội Toàn tả tơi qua những đợt tấn công liên tục trong ngày. Một chọi mười không chột thì cũng phải què, cánh quân bên kia thế nào không biết, cánh của Toàn từ điểm xuất phát gần hai trăm, sau hai mươi tiếng đồng hồ, còn hơn ba mươi, đang nằm dọc theo giao thông hào vừa chiếm được, hồi hộp đợi lệnh tấn công đợt chót.
Tuổi trên dưới hai mươi, những thằng em còn lại của mình phải sống. Chỉ còn vài tiếng đồng hồ thôi, Toàn, mày phải sống, mày phải là người chứng kiến giờ phút lịch sử này. Phải bám vào cái chuyển mình này của lịch sử. Bỗng dưng, Toàn đâm sợ chết.

*
Máy truyền tin PRC-25 kêu “khè” một tiếng, Toàn chụp vội ống liên hợp:
– Hoa Biển – Sao Mai.
– Sao Mai – Hoa Biển.
– Rồi. Hướng mười giờ.
– Nhận năm.
Cuộc tấn công chót bắt đầu.
Toàn nhìn đồng hồ, mới sáu giờ sáng. Còn hai tiếng nữa.

Ðúng tám giờ. Trời sáng rõ. Tiếng súng vẫn còn nổ.
Toàn bảo thằng máy:
– Kháng, mày la lên là tới giờ ngưng bắn rồi.
Kháng nghiêng đầu, quay miệng chếch lên, la:
– Tám giờ rồi. Tám giờ rồi nghe.
Toàn bật cười:
– Tám giờ rồi thì sao?
Kháng cũng cười theo, lại chếch miệng lên, la tiếp:
“Tám giờ rồi, tới giờ ngưng bắn rồi nghe.”
Tiếng súng vẫn chưa ngưng.

Những đồi cát hình cánh cung toàn là địch, thầy trò Toàn nằm lọt vào giữa. Ước lượng theo tiếng súng, Toàn đoán ít nhất địch vẫn còn đông gấp chục lần mình. Lúc nãy, khi khởi sự cuộc tấn công lần chót, trời còn tối dễ nhập nhằng, nhưng bây giờ, trời sáng rõ. Thầy trò Toàn đang nằm chịu trận. Giờ ngưng bắn đã bắt đầu có hiệu lực, nhưng thực tế, đủ các loại đạn vẫn hướng về phía Toàn mà nổ.
Tám giờ năm, tiếng súng vẫn chưa ngưng.
Toàn lại nhắc Kháng:
– Mày la nữa lên.
Kháng lại chếch miệng lên, la tiếp:
– Tới giờ rồi, tới giờ ngưng bắn rồi nghe.
Chỉ có tiếng súng trả lời.
Toàn bảo Kháng:
– Mày giơ thử ngón tay lên coi tụi nó còn nhắm bắn mình không.
Kháng tròn mắt nhìn Toàn:
– Bộ ông giỡn hả?
– Mày ngu thấy mẹ. Nếu nó bắn cụt ngón tay, có phải là mày được giải ngũ không?
Kháng nhìn quanh, vớ được nhánh dương cong queo trong mức an toàn duy nhất, giơ lên khỏi đầu. Chưa đầy chớp mắt, nhánh dương bị bắn gẫy.

Toàn gọi máy qua cánh quân bên phải:
– Sao Mai – Hoa Biển.
– Hoa Biển – Sao Mai.
– Phía ông ngưng chưa?
– Chưa.
– Ông "thọc" mạnh lên. Sườn tôi hở, lạnh thấy mẹ.
Tiếng súng rộ lên phía bên phải. Toàn và Kháng nhào lên chốt địch phía trước. Tâm, tên cao bồi của Toàn, chồm người tung quả lựu đạn. Lựu đạn vừa rời khỏi tay Tâm, Toàn nghe tiếng thét:
“Chết tui.”
Toàn quay lại nhìn, Tâm nằm ngửa bất động trên cát, máu trong bụng nhỉ ra.
Cùng lúc, Toàn và Kháng tung lựu đạn vào trong hầm rồi vọt theo, làm chủ cái chốt. Toàn nhào ngược về đằng sau, nắm chân Tâm kéo thụt xuống sau mô cát.
Tâm nhìn Toàn:
– Ðù má nó. Ngưng bắn rồi mà sao tui chết hả ông thầy? Ông ráng sống nghe ông thầy!
Nói dứt câu, người Tâm giựt mạnh rồi mềm xuống.
Toàn vuốt mắt Tâm rồi nhào lên với Kháng:
– La lên nữa đi!
Kháng:
“Ðù má, tới giờ ngưng bắn rồi nghe.”
Tám giờ mười lăm, tiếng súng thưa dần.
Tiếng súng thưa dần rồi im hẳn. Toàn nhìn đồng hồ, tám giờ hai mươi lăm.

Cho chắc ăn không còn là mục tiêu, Toàn bảo Kháng:
– Mày giơ ngón tay lần nữa coi.
Không tìm đâu ra nhánh dương nào khác, Kháng giơ ngón tay trỏ lên ngang mắt ngắm nghía, cười cười thủ thỉ: “Ðụ má, đừng bỏ tao đi nghe mảy!”
Toàn gắt:
– Ðù má mày, giơ ngón tay lên.
Kháng rụt rè đưa ngón trỏ lên khỏi đầu, cao hơn mô cát một chút, rồi lại thụt xuống. Nhấp nhứ như vậy một lúc, Kháng để hẳn ngón tay cao hơn mô cát. Không thấy động tĩnh gì, Kháng nhích tay cao hơn, cao hơn tí nữa. Kháng giơ cả bàn tay, vẫn yên lặng. Toàn nhìn quanh kiểm soát đám đàn em. Tất cả đang nhìn Toàn chờ.
Toàn đẩy đẩy cái mũ sắt của mình lên cao khỏi mô cát. Không có gì.
Toàn ghếch đầu nhìn lên phía trước. Dãy đồi cát hình cánh cung trước mặt Toàn đầy người. Tất cả đều đứng dưới giao thông hào, chỉ lộ từ ngực trở lên.
Toàn đứng hẳn dậy. Lính tráng chỉ đợi có thế, cũng đứng hẳn lên. Tháo dây đạn, bỏ súng, bỏ mũ sắt xuống.

Binh nhất Phước đen, một tên cao bồi khác của Toàn, vụt băng mình lao về phía trước. Toàn hốt hoảng ra lệnh cho lính ứng chiến ngay lập tức, sợ có gì nguy hiểm cho Phước đen. Nhưng không, những người bộ đội phía bên kia nhào lên khỏi giao thông hào, ôm chầm lấy Phước đen. Phước đen móc trong túi ra gói thuốc mời, mời, mời… hết người này đến người khác.
Lính hai bên ùa lên phía trước, ôm nhau hò hét:
“Hết đánh nhau rồi! Hết chiến tranh rồi!”
Những bộ quân phục rằn ri miền Nam trộn lẫn những bộ quân phục cứt ngựa miền Bắc. Cố không khóc nhưng nước mắt Toàn cứ ứa ra, không kềm được. Nhưng việc gì phải kềm chứ! Toàn mặc cho nước mắt trào ra.
Có tiếng nghẹn ngào bên cạnh:
– Anh khóc đấy à?
Toàn quay qua, một người bộ đội nước mắt cũng đang nhòe nhoẹt. Chẳng nói chẳng rằng, cả hai ôm lấy nhau.
Toàn bảo lính buộc cờ vào những lùm dương thấp lè tè rải rác quanh chỗ vừa chiếm được. Bắc quân ở tại chỗ nên có sẵn cây, sẵn cột để cắm cờ.
Có lá cờ buộc không kỹ rơi xuống cát, người bộ đội vỗ vỗ Toàn, chỉ:
– Anh ơi, cờ của anh rơi kìa!

*
– Chào anh.
Toàn nhận ra người bộ đội lúc nãy:
– Chào anh.
– Anh ăn cơm chưa?
– Sao anh lại hỏi ăn uống giờ này?
– Xin lỗi anh. Ðó chỉ là câu chào quen miệng của chúng em.
– Vậy hả? Anh khỏe không?
– Anh nói giọng Bắc? Ngoài Bắc anh ở đâu?
– Tôi dân Hà Nội, vào Nam từ 54, còn bé quá nên nên chẳng biết bao nhiêu về Hà Nội cả.
– Em cũng dân Hà Nội.
– Thế à? Vậy mình là đồng hương đấy nhỉ? Thế anh xa Hà Nội bao lâu rồi?
– Hơn bốn năm rồi anh ạ.

Toàn nhìn người bộ đội, cũng khoảng tuổi trên dưới hai mươi như lính của mình, nước da men mét tái có lẽ do sốt rét, nhưng mặt mũi sáng sủa. Trên mũ cối, những hàng chữ viết tên các địa danh như Cùa, Ba Lòng, Khe Sanh, Làng Vey, đường Chín… bên hông mũ gắn tấm ảnh bẩn, vàng ố vì thời gian, chụp bán thân một người đàn bà luống tuổi vấn tóc trần.
Toàn chỉ tay lên địa danh viết trên mũ sắt của mình:
– Hóa ra mình là đồng hương, và cũng đã gặp nhau qua những chỗ này rồi đấy nhỉ!
– Em đi trận đã ba năm rồi, toàn quanh quẩn vùng này!
Thấy Toàn nhìn chăm chăm vào tấm ảnh, người bộ đội ngượng nghịu nói:
– Ảnh mẹ em đấy! Em mang theo từ khi đi nghĩa vụ.
– Thế anh không có người yêu à?
– Có anh ạ, nhưng… cô ấy đang học đại học.
– Học đại học thì tại sao lại nhưng?
Người bộ đội ngập ngừng, nói qua chuyện khác:
– Ở trong Nam, các anh muốn được học đại học phải có những điều kiện gì?
Toàn bỡ ngỡ với câu hỏi nhưng cũng trả lời:
– Ðiều kiện ấy à? Một điều kiện duy nhất là phải học xong trung học, tức là phải có bằng tú tài, thế thôi. Mới mấy năm sau này, khi cuộc chiến khốc liệt, những người học đúng tuổi mới được học tiếp lên đại học, còn những người dù chỉ học trễ một năm, cũng phải đi lính đã.
– Ở ngoài Bắc thì "học tài thi… lý lịch", vào đại học không theo sức học hay tuổi tác.
– Lý lịch phải tốt anh mới được đi bộ đội chứ?
Người bộ đội cười nhẹ:
– Anh chẳng hiểu gì cả. Ở ngoài em, lý lịch tốt thì học đại học. Ông nội em bị đấu tố trong kỳ "cải cách ruộng đất", mẹ thuộc gia đình tư sản ở Hà Nội, thì em phải đi B thôi.
– Sao gia đình anh không di cư vào Nam năm 54?
– À, gia đình em là gia đình liệt sĩ, bố em chết trận thời kháng chiến chống Pháp, lúc đang làm đại đoàn phó. Mẹ em nghĩ gia đình có công với cách mạng nên không đi. Hơn nữa, mẹ em muốn đợi hòa bình lập lại để đi tìm xác bố em. Chỉ có người anh ruột của em theo ông chú vào Nam thôi.
– Thế anh của anh làm gì ở trong Nam?
– Có lẽ anh của em cũng đi lính. Trước khi đi B, mẹ em dặn là nếu ra trận cố tránh đừng bắn vào anh mình.
– Làm sao mà tránh!
– Thì thế à!

Người bộ đội thở dài, đổi chuyện:
– Lúc này sắp Tết rồi và máy bay Mỹ đã hết đánh phá, chắc Hà Nội đang trưng bán đầy hoa Tết.
– Ở ngoài Bắc… Hà Nội… Thế Hồ Gươm bây giờ ra sao?
– Ra sao là gì, anh?
– Có tu bổ, có chỉnh trang gì không? Có còn đẹp không?
– Không đâu anh ơi. Trên bờ thì bẩn và dưới hồ thì đầy rác.
– Có một buổi tối ngày lễ, ngồi trên vai mẹ xem bắn pháo bông ở Hồ Gươm. Ðêm ấy người đâu ra mà đông đến thế.
– Em thường lang thang nghịch ngợm ở Hồ Gươm.
– Nhà ở ngõ Lê Ðại Hành, gần Chợ Ðuổi, đằng sau Nhà Diêm.
– Em ở phố Duy Tân.
– Có một lần suýt chết đuối vì không biết bơi mà dám nhảy xuống hồ, thấy người ta bơi mình tưởng là dễ.
– Em cũng có xuống chơi dưới Chợ Ðuổi.
– Bị xe đạp đâm vì thích nhắm mắt đi qua đường.
– Em thích nhảy tàu điện.
– Ði theo mấy anh lớn nhặt quả sấu, quả cơm nguội. Cây cơm nguội sao mà to và cao thế.
Cả hai đang hào hứng thao thao nói chuyện không đầu không đuôi, chẳng ngô chẳng khoai gì hết về Hà Nội. Bất chợt, người bộ đội không nhìn thẳng vào mặt Toàn nữa, mà nhìn lệch sang một bên, rồi thì thào thật nhanh:
– Mình ăn cây nào thì rào cây nấy anh ạ. Anh đừng nghe tuyên truyền. – Rồi đổi giọng đanh thép, chậm và rõ từng tiếng: – Bây giờ anh đã thấy được là chính nghĩa thuộc về chúng tôi chưa?
Toàn ngơ ngác và chợt hiểu. Một người bộ đội nữa đang đi đến từ phía sau lưng.

*
Không phải là hưu chiến, mà là ngưng bắn, là hết bắn giết nhau, là chấm dứt chiến tranh. Chấm dứt chiến tranh. Toàn say sưa hít thở không khí một đêm yên tĩnh của ngày hòa bình đầu tiên. Tưởng tượng sẽ đi theo chàng bộ đội về Hà Nội thăm những cây cơm nguội, những hàng sấu, ngắm nhìn hồ Hoàn Kiếm… Nằm dài trên cát, gác chân lên mũ sắt, Toàn châm điếu thuốc, mơ màng, mặc cho ý tưởng lang thang những nơi Toàn đã sống trong thời thơ ấu…
“Uỳnh…”
Nhanh như chớp, Toàn chụp khẩu súng, nhào xuống giao thông hào. Một quả đạn đại bác không giật bắn vào ngay giữa vị trí phòng thủ. May không ai bị thương.
Sáng hôm sau, cảnh mũ sắt, mũ cối quấn quýt nhau chỉ còn là giấc mơ cũ.
Không khí căng thẳng. Ðịch tăng cường một trung đoàn từ phía Bắc xuống. Toàn báo cáo về bộ chỉ huy tiểu đoàn. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh nằm tại chỗ và tuyệt đối không nổ súng vì bất cứ lý do gì. Lệnh nhấn mạnh: “Hiệp định ngưng bắn đã hiệu lực. Ai nổ súng sẽ ra tòa án quân sự mặt trận”. Thế hóa ra chỉ có một bên ngưng bắn thôi à. Nó quất cho vỡ mặt cũng phải nhịn à. Mẹ kiếp.

Trời chập choạng tối. Ðột nhiên, đèn pha chiếu sáng rực sang phía đơn vị Toàn. Hai chiếc T-54 xuất hiện. Tiếng xích sắt ken két nghiến vào nhau dữ dội. Toàn lạnh người, sởn gai ốc. Toàn dương khẩu súng chống chiến xa M-72, kê lên ba lô, nhắm vào một chiếc T-54, miệng lẩm bẩm: “Mẹ, còn mỗi một khẩu, không đủ gãi ghẻ bố mày cũng chơi. Có chết bố mày cũng phải ‘ôm’ theo dăm đứa chúng mày, các con ạ”.
Ðêm thứ hai của ngày hòa bình, đơn vị Toàn bị tấn công.
Những đợt tấn công đầu bằng đặc công của địch, đơn vị Toàn đẩy lui dễ dàng bằng lựu đạn. Toàn đã sẵn sàng chờ T-54 lâm trận, nhưng không, sau vài đợt tấn công dọ dẫm, địch dùng bộ binh đánh biển người, ồ ạt xung phong vào vị trí của Toàn. Thì ra mấy chiếc T-54 chỉ để “nhát ma”. Khi địch tràn ngập, lưỡi lê và lựu đạn thay cho súng.
Sau một lúc quần thảo bằng lưỡi lê, Toàn gập người, ngã chúi xuống phía trước, mắt hoa đi, mũ sắt văng ra. Mất mũ là mất mạng. Phản xạ tự nhiên của bản năng sinh tồn bật dậy, Toàn nhoài người, vói tay về phía cái mũ. Cả thân thể lẫn cánh tay như không còn theo lệnh Toàn, chỉ nhích từng chút từng chút. Toàn cố nhoài người lên, với tay. Cuối cùng, tay Toàn cũng chạm được vào cái mũ. Dùng hết sức bình sinh, Toàn kéo cái mũ nặng nghìn cân về phía mình. Cái mũ nhích tới. Nhích tới gần. Cái mũ tới sát mặt Toàn.

Mắt Toàn dại đi, cái mũ trong tay không phải là mũ sắt, mà là mũ cối. Trên cái mũ cối mà Toàn đã một lần nhìn thấy, những hàng chữ viết tên các địa danh và ảnh người đàn bà vấn tóc trần Hà Nội rõ lên rồi nhòa dần, nhòa dần. Tiếng gào thét giết chóc vẫn vẳng vào tai cùng lúc loáng thoáng hình ảnh Toàn sánh vai người bộ đội đồng hương lang thang bên hồ Hoàn Kiếm… Dường như Toàn nghe rõ tiếng mình gọi “Anh bộ đội ơi, chờ tôi với…”.
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng”   Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitimeWed Apr 10, 2019 10:30 pm

.

Vĩnh Biệt "Huy Râu"
- Nhật Thịnh

 
Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” 9k=  
1947 - 2010
TQLC/Nhà Văn Cao Xuân Huy

    Ngày 1 tháng 11 năm 2010 ngôi sao Thế Phương bỗng dưng vụt tắt, bệnh tim; ngày 12 tháng 11 năm 2010 đến lượt ngôi sao Cao Xuân Huy tắt nốt, vậy là chưa đầy nửa tháng văn đàn đã hai lần để tang.
    Trước đó không lâu, cuối tháng 8 năm 2010, Thảo Trường đã từ bỏ hành tinh náo nhiệt, bon chen, xô bồ này, để sang thế giới bên kia thật trầm lặng, bình yên. Khác nhau chăng là Thảo Trường sáng tác trong và sau đời sống quân ngũ, Cao Xuân Huy trái lại, chỉ cầm bút sau khi đã gãy súng. Trước Tháng Tư Đen năm 1975 miền Nam còn "Ngựa Tía"… của Y Uyên, "Vòng Tay Lửa"… của Nguyên Vũ, mấy nhà văn viết về người lính miền Nam…

    Còn nhớ tại hội trường của Đài truyền hình SB-TN 10501 Garden Grove Blvd, Garden Grove, CA 92843, Điện thoại 714-636-1121 ngày Thứ Năm 4 tháng 11 năm 2010 Nhóm thân hữu, Hội Thủy Quân Lục chiến Nam California, Đài truyền hình SB-TN phối hợp tổ chức "Đêm kỷ niệm với người lính - nhà văn Cao Xuân Huy". Được biết trong thời gian qua Cao Xuân Huy đã cố chịu đựng chống chọi lại căn bệnh ngặt nghèo, hy vọng vượt qua những khó khăn, nhưng đến nay mỗi ngày một thêm trầm trọng vì thế nên bạn bè thân hữu đã cùng Đài truyền hình SB-TN tổ chức đêm tâm tình với người lính. Cao Xuân Huy luôn tự cho mình: "Không phải là một nhà văn mà chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ", vì dù sao chỉ là người lính viết ra các cảm nghĩ của mình thế thôi. Một chương trình nói về cuộc đời làm lính, viết văn và tỵ nạn để ủng hộ tinh thần Cao Xuân Huy, chia sẻ sự cảm thông với gia đình, chúc phúc người lính - nhà văn thêm nhiều nghị lực chống lại sự tàn phá của con bệnh, cố điều trị, và hy vọng bán được một số tác phẩm hầu giúp Cao Xuân Huy trang trải chi phí thuốc men. Tuy nhiên, tình trạng thể lực quá sa sút đến mức độ thê thảm, ung thư gan tới thời kỳ chót, mấp mé những ngày cuối đời, hiện không ăn không ngủ được nên càng mất sức, vì thế Cao Xuân Huy buộc vắng mặt.
Một số đại diện thay mặt cho "Gia đình Cựu Tù nhân Chính trị Bình Điền" thuộc lực lượng Thủy Quân Lục Chiến khắp nơi đã chuyển lời thăm hỏi qua hiền thê của Cao Xuân Huy nhũ danh Đỗ Thị Minh tại hội trường. Nhiều chiến hữu từng một thời cùng Cao Xuân Huy "vào sinh ra tử" trên các chiến trường rải rác khắp bốn vùng chiến thuật "đèo heo hút gió", "lam sơn chướng khí", những thân hữu và gia đình đã hiện diện đông đảo, nhiều người lên sân khấu chia sẻ những kỷ niệm và suy nghĩ về Cao Xuân Huy. Một cựu chiến binh thuộc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, Lý Khải Bình, đã lên phát biểu: "Trước và sau năm 1975 tôi và Cao Xuân Huy cùng binh chủng, nhưng không hề gặp và biết anh. Sau này qua Mỹ tôi mới biết và nghe dư luận nói nhiều về anh qua tác phẩm "Tháng Ba Gãy Súng". Chúng tôi biết nhau nhiều hơn, nhưng có một kỷ niệm tôi không bao giờ quên. Đó là năm 1985, khi lần đầu tiên tôi gặp anh lúc chúng tôi dựng kỳ đài trong khu phở Nguyễn Huệ. Khi bấy giờ chúng tôi chỉ có năm người, trong đó có anh Cao Xuân Huy và một số cố vấn. Sau khi nhận được tin một số người Mỹ phản chiến muốn hạ cờ Việt Nam Cộng Hòa, anh em chúng tôi đã ở lại canh chừng ngày đêm. Trong một đêm, tự nhiên Cao Xuân Huy nói với tôi: "Ê mày, tụi mình đã từng dựng cờ ở cổ thành Quảng Trị năm 1972 với hải lục không quân vậy mà bây giờ chỉ có năm người". Câu nói đơn giản nhưng đã làm tôi nhớ mãi". Cuối cùng Lý Khải Bình ca ngợi hiền thê của Cao Xuân Huy đã hết mình hy sinh vì chồng: "Chị Minh là người vợ gương mẫu sát cánh cùng chồng trong những lúc vui buồn mà không một lời than trách, bất cứ giờ nào khi anh Cao Xuân Huy cần đến là có chị ngay bên cạnh. "Sau phần tâm tình của các chiến hữu Thủy Quân Lục Chiến, cựu Đại tá Thủy Quân Lục Chiến Cổ Tấn Tinh Châu lên trao tấm ảnh lưu niệm cỡ đại của bạn bè thân hữu chụp chung lúc sinh hoạt cộng đồng trong đó có hình Cao xuân Huy và hiền thê.

    Nhà nữ phê bình văn học Thụy Khuê, tác giả các tập "Cấu trúc thơ", "Sóng từ trường "1-3". Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp…, từ Pháp bay qua khi nghe tin Cao Xuân Huy tới giai đoạn "gần đất xa trời", ngỏ vài lời tâm tình về Cao Xuân Huy qua tập hồi ký "Tháng Ba Gãy Súng" và con người thật của Cao Xuân Huy: Cao Xuân Huy đi vào văn học một cách vô tình với khí phách của một người lính Thủy Quân Lục Chiến. Cao Xuân Huy đã dùng ngòi bút của mình để đấu tranh, luôn khiêm nhường, không bao giờ chứng tỏ mình là nhà văn hay nhà phê bình. Khi viết về "Hành phương Nam của Nguyễn Bính, nhiều người viết tràng giang đại hải, nhưng Cao Xuân Huy chỉ viết vài hàng mà lại rất xúc động". Thụy Khuê kể chuyện Cao Xuân Huy khi tiếp xúc với Mai Thảo tên thật Nguyễn Đăng Quý, tác giả "Đêm giã từ Hà Nội", "Viên đạn đồng chữ nổi", "Mười đêm ngà ngọc", "Tháng giêng cỏ non"… có mặt trong sinh hoạt văn nghệ miền Nam từ năm 1954, trong nhóm "Sáng Tạo", nói: "Khi Cao Xuân Huy gặp Mai Thảo lần đầu anh không chào, không khúm núm. Nhưng có lần Mai Thảo ngồi một mình mệt mỏi, Cao Xuân Huy đi đến bên hỏi khẽ: "Anh có muốn em đưa anh về không? "Thụy Khuê kết thúc câu chuyện một cách cảm động: "Khi Mai Thảo chết, Cao Xuân Huy không đi đưa đám tang vì không muốn thấy người khác nhìn mình khóc. Như thế mới là một tình bạn thật sự. "Không sai, Mai Thảo đã nhận xét thật chính xác bản chất con người Cao Xuân Huy, phát biểu: "Bảnh nhất Cali có thằng này, ngày chỉ mong đủ tiền ăn tô phở, uống cốc cà-phê, làm một chai bia là chàng đếch cần thứ khác.
   Nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc, tác giả của những tác phẩm "Trịnh Công Sơn - ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật", "Đối Thoại"… lên nói về tác phẩm và con người của Cao Xuân Huy mà Bùi Vĩnh Phúc từng quen biết: "Nhân cách và phong cách của Cao Xuân Huy đã nhập vào nhau qua ngòi bút của anh, nhất là qua tác phẩm "Tháng Ba Gãy Súng" và từ đó anh trở thành "Cao Xuân Huy Tháng Ba Gãy Súng". Bùi Vĩnh Phúc kết luận: "Nhân cách của Cao Xuân Huy không thể tách rời con người của Cao Xuân Huy nữa" Mặc dù câu chuyện của Bùi Vĩnh Phúc có hơi kéo dài so với các lời tâm tình khác, nhưng mọi người đều ngồi thầm lặng, để tâm hồn lắng đọng hướng về Cao Xuân Huy phải vắng mặt tối nay vì bệnh trở nặng.
   Đối với nhà thơ Du Tử Lê, tên thật Lê Cự Phách, trước khi nhập ngũ theo học Đại học Văn Khoa, tác giả các tác phẩm: "Thơ Du Tử Lê", "Tình khúc tháng mười", "Năm sắc diện, năm định mệnh", "Tay gõ cửa đời", "Chung cuộc" [viết với Thảo Trường], "Ngửa mặt", "Mắt thù", "Qua hình bóng khác"… ngay lời khai từ đã bầy tỏ: "Cao Xuân Huy là nhà văn ngay từ dòng đầu tiên", và lần lượt phân tích: "Cao Xuân Huy là một người tự trọng khi viết về lính, ngay cả khi viết về thời gian bị tù. Ông can đảm nói về sự tồi tệ và yếu kém của kẻ thù và cả những giây phút biểu lộ nhân tính của họ. Ông can đảm ở chỗ không cường điệu những gì kẻ thắng làm đối với ông. Ông chấp nhận bị chụp mũ".
Du Tử Lê gửi những lời chót cho hiền thê và ái nữ của Cao Xuân Huy: "Chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra, nhưng chị Minh và các cháu phải hãnh diện có một người chồng, người cha như thế.
   Nhà thơ Đặng Hiền, một đồng nghiệp của Cao Xuân Huy đã có thời gian cùng làm việc chung tại Đài truyền hình SB-TN, nghẹn ngào xúc động nói về nhân tính dễ mến của Cao Xuân Huy: "Tôi với anh Huy làm việc chung lâu năm. Mỗi khi họp ai cũng tranh luận, nhưng anh luôn im lặng… Sau khi anh đi hóa trị lần hai về, tôi gọi điện thoại hỏi, anh nói: "Rớt rồi. Tao không đi làm nữa." Thế là nước mắt tôi chảy ra." Và Đặng Hiền đã đọc một bài thơ ngắn tự sáng tác để tặng hiền thê của Cao Xuân Huy nhũ danh Đỗ Thị Minh, làm nhiều người không khỏi ngăn nước mắt, ý thơ chân thật và cảm động.
  Đặc biệt ngoài những lời phát biểu của các thân hữu, chiến hữu của Cao Xuân Huy về những kỷ niệm, cảm nghĩ, ba nhạc phẩm của Trúc Hồ viết về Cao Xuân Huy được Lâm Nhật Tiến, Lê Quỳnh Mai và Mai Thanh Sơn trình diễn, đó là các bản "Em có còn yêu anh", "Thôi thế thì chia tay", "Chỉ là phù du thôi". Đáng kể là bản "Em có còn yêu anh" được Trúc Hồ là người đã trải qua một thời gian bệnh hoạn tương tự, nên rất cảm thông nỗi đau của Cao Xuân Huy trong những ngày bệnh, mà viết nên, làm người nghe xúc động trong không khí của một đêm kỷ niệm khó quên trong đời. (Đất Đứng số 431, Thứ Sáu 12.11.2010).
    Không ngờ 9 ngày sau, Cao Xuân Huy đã ra đi lúc 4 giờ 50 chiều ngày Thứ Sáu 12 tháng 11 năm 2010, tại tư gia ở Lake Forest, California, sau khi lễ "Veterans' Day" (=Ngày Cựu Chiến Binh) được người ta tổ chức khắp nơi, để lại hiền thê Đỗ Thị Minh, hai ái nữ Cao Nguyên Chúc Dung, Cao Nguyên Xuân Dung và hôn phu John Arden.

    Lễ truy điệu và phủ quốc kỳ diễn ra tối Thứ Ba ngày 16 tháng 11 năm 2010 ở nhà quàn "Peek Family Funeral Home" có sự hiện diện của các niên trưởng, chiến hữu Thủy Quân Lục Chiến, các binh chủng bạn, cơ quan truyền thông, truyền hình, báo chí và các thân hữu, văn thi hữu. Cựu chiến hữu Trần Như Hùng, một Thủy quân lục chiến và bạn thân của Cao xuân Huy đến từ Úc Châu điều hợp chương trình buổi lễ. Nguyễn Phục Hưng, Hội trưởng Hội Thủy Quân Lục Chiến Nam California điều khiển lễ phủ cờ. Khi lá quốc kỳ được phủ lên quan tài, tiếng kèn truy điệu trầm lắng làm xúc động những người tham dự, nhất là những chiến hữu đã cùng Cao Xuân Huy một thời vào sinh ra tử. Chiến hữu Trần Như Hùng đại diện tất cả các cựu chiến binh Thủy Quân Lục Chiến chuyển lời chia buồn đến hiền thê Cao Xuân Huy, và ngỏ lời tâm sự đến các con người quá vãng: "Nhìn thấy sự có mặt đông đảo của những người đến tham dự hôm nay các cháu phải hãnh diện là con cháu của Thủy Quân Lục Chiến. Hy vọng các cháu sẽ không phụ lòng ba cháu, cố gắng là những người tốt để giúp ích cho đời cho xã hội. "Đại diện cho gia đình tang quyến, chiến hữu Trần Như Hùng ngỏ lời cám ơn tất cả những người tham dự buổi lễ, các chiến hữu, thân hữu đã chia buồn, phúng điếu. Trần Như Hùng cho biết để thực hiện tâm nguyện của người mất số tiền phúng điếu được chia làm hai, một nửa gửi cho những thương binh Thủy Quân Lục Chiến tại quê nhà và một nửa dành cho các trẻ em khuyết tật tại Long Thành.
    Chương trình tang lễ của Cao Xuân Huy được ấn định:
    - 1. Nghi lễ nhập quan và phát tang 12 giờ trưa ngày Thứ Ba 16.11.2010
    - 2. Nghi lễ phủ kỳ từ 18 giờ đến 20 giờ ngày Thứ Ba 16.11.2010
    - 3. Thăm viếng từ 12 giờ trưa đến 20 giờ ngày Thứ Tư 17.11.2010
    - 4. Nghi lễ hỏa táng 9 giờ đến 11 giờ ngày Thứ Năm 18.11.2010 tại Peek Family Funeral Home, 7801 Bolsa Avenue, Westminster, Ca 92683.

    Cao Xuân Huy tự Huy Râu, tên cúng cơm ở nhà và bạn bè từ thuở nhỏ đi học gọi Beng, pháp danh Minh Ngộ. Nay thêm một biệt danh "Người đeo súng gãy" sau khi đi đôi giày trận (botte de saut) vào "văn học sử" với tập hồi ký "Tháng Ba Gãy Súng" thuật lại tình cảnh và nỗi niềm bi tráng, oan khuất của Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến trên bãi cát Thuận An.
Cao Xuân Huy sinh ngày 14 tháng 7 năm 1947 tại Bắc Ninh, quê hương quan họ đất Bắc, quê ngoại Hà Nam. Thân sinh là Cao Nhị nổi tiếng trong làng điện ảnh, giới văn chương và báo chí Hà Nội một thời, viết văn, làm thơ, làm báo rộn ràng giữa lớp trẻ được nhiều người quý trọng và cảm mến. Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Geneve được ký kết bên kia hồ Leman, lấy sông Bến Hải làm bờ ranh giới hai miền cắt đôi đất nước, như thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, lấy sông Gianh làm bờ vĩ tuyến.
Tháng 10 năm 1954, Cao Xuân Huy theo cậu vào Nam, lúc đó mới bảy tuổi, chưa một lần gặp mặt cha, nghe mẹ nói, từ lúc sinh ra đời, dường như Cao Xuân Huy chỉ được cha bế có một lần. Mẹ ở lại Hà Nội, nấn ná đợi chồng từ hậu phương trở về. Hai người khi gặp nhau không biết đã xảy ra chuyện gì ở hậu trường. Năm 1955, mẹ của Cao Xuân Huy bỏ chạy cộng sản vào Nam, hai miền mưa nắng, để lại người con gái lớn sống với chồng. Cao Xuân Huy liên lạc với cha qua những tấm bưu thiếp, chừng được vài lần thì nghe đâu bị cấm. Từ đó Cao Xuân Huy không còn liên lạc được với cha, tình cha con bị cắt đứt, nghe đâu lúc đó Cao Xuân Huy khoảng hơn mười tuổi. Cha ở lại Hà Nội kết nối với một người đàn bà xa lạ khác. Trong khi mẹ di cư vào Sài Gòn, lấy chồng khác và đẻ thêm con.

    Tháng 2 năm 1968, Cao Xuân Huy nhập ngũ, quan niệm: "lớn lên trong thời chiến, đi lính là trách nhiệm chung của thanh niên", khác một số thanh niên khác tìm mọi cách để chạy chọt, trốn động viên, và đã "tình nguyện vào đơn vị tác chiến thứ thiệt vì căm thù kẻ địch thì ít mà vì cái máu ngông nghênh của tuổi trẻ, vì bị kích thích bởi những cảm giác mạnh của chiến trường thì nhiều". Đầu năm 1970, Cao Xuân Huy tình nguyện theo học khóa "Rừng núi Sình lầy" ở Dục Mỹ, Nha Trang, tình nguyện gia nhập binh chủng Thủy quân Lục chiến, đảm nhiệm Trung úy Đại đội phó Đại đội 4, Trung đoàn 4 Kình Ngư, hụt làm Đại đội trưởng Đại đội 3, thay thế Đại úy Tô Thanh Chiêu tử trận giờ thứ 25 trên bãi cát Thuận An.
    Kỷ niệm nhớ đời trong hơn bảy năm lính và ngót năm năm tù cộng sản, có một chuyện lơ lửng không vui cũng không buồn, Cao Xuân Huy coi đó là một chuyện nhục vì không bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ. Nguyên Tết năm 1974, tiểu đoàn của Cao Xuân Huy có lệnh ứng chiến ở Phú Bài, Huế phòng bị một cuộc tấn công biển người của bộ đội cộng sản Bắc Việt, bắt chước Trung cộng cậy đông người đem thí quân. Nửa cuối tháng 1 năm 1974, Trung cộng ào ạt đem quân xâm lấn Hoàng Sa, lãnh thổ của Quân đoàn 1, mà tiểu đoàn của Cao Xuân Huy thuộc lực lượng trừ bị của Quân đoàn, cho nên được lệnh chuẩn bị tái chiếm Hoàng Sa. Những chiếc thủy xa của Sư đoàn từ Sài Gòn đã cập bến Đà Nẵng, tiểu đoàn của Cao Xuân Huy đợi lệnh xuống tàu. Vấn đề đem lực lượng Thủy quân Lục chiến đi chiếm đoạt lại Hoàng Sa là đúng "chỉ số". Gì chứ lâm trận để bảo vệ lãnh thổ, binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến đều hăm hở, cho dù như thế là phiêu lưu vào cõi tử, vì hải quân miền Nam không sánh ngang địch, phi cơ không thể bay tới chiến trường để yểm trợ. Nhưng phút chót không hiểu nguyên nhân nào lệnh xuất quân bị hủy bỏ. Tin tức và hình ảnh những chiến hạm của mình bị bắn chìm, những chiến binh đồn trú ở đảo Hoàng Sa bị quân đội Trung cộng cậy đông bắt giam, được trao trả từ bên nước họ, Cao Xuân Huy cho thế là nhục. Nhận định bất cứ một địa danh nào nằm trong tay của cộng sản hay quốc gia đều hoàn toàn thuộc chủ quyền của người Việt Nam, vậy mà đảo Hoàng Sa bị Trung cộng chiếm đóng không đem quân đánh lấy lại, ấy là có tội với tổ tiên, cha ông. Cao Xuân Huy cho rằng: "Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu", Hoàng Sa còn. "Một trăm năm đô hộ giặc Tây", Hoàng Sa còn. Ông cha ta từng chèo thuyền, giong buồm để bảo vệ những hòn đảo nhỏ xíu tận tít ngoài mù khơi, thế mà giờ đây quân đội hai miền đều thiện chiến lại để lọt vào tay ngoại bang một phần lãnh thổ, trừ miền Nam có tham chiến bằng chiến hạm khiến quân địch bị tổn thất nặng nề. Liệu như thế có nhục không? Và thử hỏi đến bao giờ mới chiếm lại được Hoàng Sa? Năm 1976, khi bị giam tại trại tù Cồn Tiên, Quảng Trị, Cao Xuân Huy kể chuyện đã được nghe một cán bộ chính trị báo tin đã tái chiếm Hoàng Sa, bằng cách cho một toán bộ đội ăn mặc giả lính "ngụy" chạy bộ, phía sau bộ đội cộng sản rầm rộ đuổi theo, đổ bộ tràn ngập đảo Hoàng Sa, quân Trung cộng thấy bộ đội cộng sản đông như kiến cỏ, vội vàng trả lại đảo vì họ chỉ giúp cộng sản chiếm lại đảo Hoàng Sa từ tay lính "ngụy". Thật không khác nào một chuyện cổ tích hoang đường.

    Cao Xuân Huy tham dự nhiều trận chiến ác liệt khắp bốn vùng chiến thuật. Tháng 3 năm 1975, Cao Xuân Huy bị cộng sản bắt làm tù binh cùng cả đơn vị khi cuộc lui binh theo lệnh trên khỏi tỉnh Quảng Trị bị thất bại tại bờ biển Thuận An, Huế. Trong tập hồi ký "Tháng Ba Gãy Súng", Cao Xuân Huy đã tường thuật chi tiết chuyện này. Trong thời gian bị cầm tù Cao Xuân Huy đã không muốn liên lạc với cha "vì không biết ông cụ có nhận thằng sĩ quan ngụy này là con không, đồng thời cũng lại sợ ông cụ sẽ bị liên lụy vì có thằng con "có nợ máu với nhân dân". Không hiểu tên tôi, thằng con đi Nam, có trong danh sách những người con của bố không, trong khi chính tôi, trong bản khai lý lịch khi đi lính, tôi đã phải khai "bố chết" để tránh những rườm rà chắc chắn là có với cơ quan an ninh quân đội."Cao Xuân Huy không hề biết tin tức gì về thân sinh mình, và dù có mong muốn cũng không bao giờ Cao Xuân Huy chờ đợi để có được một sự liên lạc giữa hai cha con. Không ngờ năm 1977 khi bị giam giữ ở Trại 4-AT ở tỉnh Thanh Hóa, khi đang đốn lim ở công trường lòng hồ sông Mực, Cao Xuân Huy bỗng được cán bộ trại đến thông báo: "Anh có ông bố vào thăm, ông cụ về rồi, có gửi lại cho anh một ba-lô đồ thăm nuôi." Cao Xuân Huy không được phép gặp thân sinh, dù cho thân sinh đã phải lội bộ bao nhiêu cây số đường rừng mới vào đến chỗ con "học tập" và trại cũng không trao cái ba-lô đồ thăm nuôi ấy cho Cao Xuân Huy, chia nhau thủ tiêu luôn. Chẳng qua bởi thân sinh của Cao Xuân Huy vốn làm thơ, viết báo, có dính đến vụ án Nhân Văn - Giai Phẩm, đã bị quản thúc, cấm sáng tác, từ đó vẫn giấu giấu giếm giếm làm thơ mà bị thất lạc hết, chỉ được phép dịch những tác phẩm văn chương ngoại quốc đã kiểm duyệt để kiếm sống, do đó đã bị ngăn không cho gặp con. Còn chuyện cái ba lô thì Cao Xuân Huy đã thừa biết nguyên do vì sao bị giữ lại: "Cách mạng đã tha tội chết cho tôi. Tội chết cách mạng còn tha thì cái ba-lô thăm nuôi nhằm nhò gì mà cách mạng không "tha".

   Nhưng rồi hai cha con cũng được gặp nhau. Đó là vào cuối năm 1979, Cao Xuân Huy được đưa về Bình Điền, Huế giữ ở Trại Đội 8 Trại 5, từng có thời gian giam giữ tại các Trại tù Khe Sanh, Cồn Tiên, Ái Tử… Lúc đó Cao Xuân Huy chờ được thả bởi vì khả năng lao động đã cạn kiệt, bị giữ lại trại, sát nhập vào toán lao động nhẹ để không bị cắt khẩu phần. Cao Xuân Huy đang trong giờ lao động thì cán bộ trại đến nơi bảo vác ghế vào nhà thăm nuôi, ngỡ ngàng chưa biết chuyện gì bỗng nghe thấy lời hỏi từ sau lưng:
    - Beng đấy à?
    Cao Xuân Huy giật mình bởi xưa nay chỉ những người trong gia đình mới biết cái tên cúng cơm này. Cao Xuân Huy quay lại thấy một ông già một tay khoác cái túi vải, một tay cầm cái điếu cày từ một nhánh đường mòn bước ra, lững thững đi sau lưng Cao Xuân Huy. Nhận ra thân sinh mình, Cao Xuân Huy ứa nước mắt, cổ họng như bị nghẹn khô cứng, không thốt ra lời. Cao Xuân Huy se sẽ "dạ" mà tiếng nói như không thoát khỏi miệng. Thân sinh nói:
   - Vào nhà thăm nuôi đã.
    Bên trong một cán bộ trại đã ngồi sẵn từ bao giờ. Chuyện hai cha con bắt đầu với sự theo dõi của cán bộ trại:
    - Mày có khỏe không?
    - Dạ, con khỏe.
    - Mày có nhận ra bố không?
    - Dạ, con có nhận ra.
    - Mày ăn thịt gà đi. Thịt gà này chú Phùng Quán làm cho mày đấy.
    - Mình có họ với chú Phùng Quán hả bố?
    - Không, nhưng chú ấy xem tao như anh.
    Cao Xuân Huy xúc động muốn chảy nước mắt, cảm thấy hãnh diện về cha của mình, bởi đã thân với Phùng Quán. Trong suốt gần hai giờ đồng hồ câu chuyện của hai cha con chỉ như nhát gừng có vậy. Hai cha con bản tính đã ít nói, giờ lại có người theo dõi, hơn nữa thuộc loại đối nghịch của chế độ thì làm sao dám bạo dạn nói năng. Thời gian còn lại, cán bộ trại chiếm hết, cứ "dây cà dây muống" chuyện Hà Nội với thân sinh của Cao Xuân Huy.

    Hai ngày sau, tháng 9 năm 1979, Cao Xuân Huy được thả khỏi trại giam, lần tìm đến một khách sạn tìm cha, đã được cha cho biết trước lần vào thăm con trong trại tù. Nhìn thấy con trong bộ quần áo tù, ông cụ tỏ vẻ hoảng hốt, vội vàng hẹn con chiều đến ra quán cóc ven bờ sông Hương. Cao Xuân Huy cảm thấy thương cha quá, đến giờ này chưa hết bị ám ảnh nặng nề sinh hoạt xã hội cộng sản. Sợ dư luận xì xào, công an theo dõi mà phải tránh né đủ mọi thứ. Chiều tối chập choạng, dưới sáng đèn mờ ảo, hai cha con nói chuyện thoải mái, lan man mọi thứ chuyện, không phải dòm ngó trước sau. Cao Xuân Huy lúc này đã hơn 30 tuổi, nhớ đời một câu hỏi của cha khi vừa cười vừa hỏi:
    - Mày ghét cộng sản lắm hay sao mà đi cái "thứ lính ác ôn" này?
    Cao Xuân Huy bình thản đáp:
    - Ghét con không ghét, có thù oán gì đâu, nhưng gặp đâu bắn đó.
    - Thế mày bắn cả bố mày à?
    Quan niệm của Cao Xuân Huy vốn ghét chiến tranh, không chấp nhận chuyện anh em, có khi cả ruột thịt, bắn giết nhau bởi hoàn cảnh phải sống ở hai miền đất nước khác nhau. Chiến tranh không do quyết định của người cầm súng, mà người quyết định chiến tranh lại không cầm súng bao giờ. Cao Xuân Huy tránh né đi lính, đến khi không né tránh được đành phải đi lính thì đi lính "thứ thiệt". Cho nên Cao Xuân Huy tình nguyện đầu quân thứ binh chủng chuyên trận mạc, hầu như chỉ tham chiến những trận lớn, dữ dội có tính quyết định của mỗi chiến trận. Cao Xuân Huy đánh trận thuộc loại dữ, thuộc đơn vị thiện chiến nhất nhì của miền Nam.

    Sau đó cha đáp tàu hỏa vào Nam thăm con mấy lần nhưng Cao Xuân Huy chỉ gặp và quanh quẩn với cha có dăm ngày. Lần sau cùng cha vào, đúng lúc con đang trốn chui trốn nhủi, bị công an lùng bắt gắt gao vì tội tổ chức vượt biên. Do không có tiền "mua vé" và không tin tổ chức nào làm ăn đứng đắn, không lường gạt nên phải tổ chức lấy để sự ra đi được đảm bảo. Khi cha và gia đình từ Hà Nội vào, Cao Xuân Huy không dám đến gặp vì công an bao vây chặt chẽ luôn cả khách sạn chỗ thân nhân trú ngụ. Khi xuống ghe vượt biên, Cao Xuân Huy tưởng chừng không còn bao giờ được gặp thân sinh nữa. Nhưng sau khi qua Mỹ, năm 2000, Cao Xuân Huy đã trở về Hà Nội một lần để thăm cha, tiếc cha nay đã già lại thêm bệnh cao máu và tiểu đường, không cầm bút được nữa, đã qua đời năm 2009. Một người làm thơ bị treo bút đã khổ biết chừng nào. Thơ này chỉ có duy nhất bà bác của Cao Xuân Huy là thuộc lòng, bởi đã lén lút sáng tác trong thời kỳ bị quản thúc và treo bút. Cao Xuân Huy dự tính in một thi phẩm cho cha, nhưng khi về đến Hà Nội thì bà bác đã mất từ mấy năm trước. Từ ngày đó đôi khi Cao Xuân Huy vẫn điện thoại về thăm thân sinh, nhưng cha lại sợ tốn phí nên chỉ đối thoại vài câu là đã vội tắt máy. Thân mẫu Cao Xuân Huy là Nguyễn Thị Nhiên sống ở Úc luôn nhắc nhở con phải thường xuyên điện thoại thăm cha: "Chuyện tôi với cha anh là chuyện riêng của tôi và cha anh. Còn bổn phận của anh là anh phải thăm nom cha".

    Tháng 12 năm 1982, Cao Xuân Huy giã từ chủ nghĩa Karl Marx, lên đường vượt biên, sống tại đảo một thời gian, tháng 10 năm 1983 bắt đầu đến Mỹ, năm 1984 định cư tại miền Nam California. Sang bên đây, không nề hà từ chối bất cứ việc làm nào, Cao Xuân Huy đã tự khẳng định điều đó: "Tôi vượt biên đến Mỹ cuối năm 1983. Dọn nhà nhiều lần và làm nhiều nghề. Nghề nào cũng là chuyên viên cấp "thợ vịn".
    Nghề nào tôi cũng cố gắng học hỏi, nhưng cố gắng đến đâu, tay nghề cũng chỉ vừa đủ để sai vặt. Mỗi nghề làm một vài năm, chỉ tạm sống qua ngày. Tôi dính vào nghề báo như một run rủi, không lựa chọn, cũng không học hành gì cả, vậy mà tôi đã sống với nó hơn mười năm nay, và chắc là tôi còn sống với nó cho đến hết đời.
Quãng đời này của Cao Xuân Huy đã được ký giả Nguyễn Văn Khanh tại Washington D.C. thuật lại: Anh là một người không may mắn. Trong suốt thời gian hàng chục năm trời có mặt ở Hoa Kỳ, hầu như năm nào anh cũng khoe "Tôi vừa đuổi chủ, đang đi tìm việc làm mới. "Anh làm đủ mọi thứ nghề để kiếm tiền nuôi gia đình, kể cả những nghề "lương kém lắm, chỉ đủ uống chai bia, mua gói thuốc lá là hết sạch." Cao Xuân Huy từng cộng tác với tuần báo Việt Tide, làm Tổng thư ký tạp chí Văn Học, năm 2005 làm Chủ biên đến năm 2009. Nói về tờ Văn Học, Cao Xuân Huy trả lời cuộc phỏng vấn của nữ ký giả Lê Quỳnh Mai ngày 31.10.2009, nói: "Tôi ví tạp chí Văn Học như một sân chơi để các tác giả có chỗ "trình làng" những sáng tác của mình cho mọi người thưởng thức. Bấy giờ diễn viên thì lèo tèo, khán giả thì thưa thớt. Sân chơi còn đó nhưng hoang phế. Những người đóng góp công sức nuôi nấng tờ tạp chí này, các tác giả, những độc giả buồn một, thì tôi buồn đến mười.

    Nói về sự đình bản của tờ báo Văn Học, Cao Xuân Huy cho thấy toàn bộ tình hình chung của những tờ tạp chí văn nghệ tại hải ngoại, ngoại trừ những tờ báo chuyên về thương mại quảng cáo: "Các tạp chí văn chương ở hải ngoại đều gặp những khó khăn chung. Người đọc ngày càng ít đi, người viết ngày càng mai một đi. Tiền in và tiền tem ngày một tăng mà quảng cáo thì ít. Riêng trường hợp tạp chí Văn Học, tôi vừa bị bệnh vừa bị thất nghiệp vào ngay thời kỳ kinh tế khủng hoảng, nên không thể tiếp tục cáng đáng tờ báo được nữa". Đi sâu vào nội bộ tờ báo, Cao Xuân Huy không giấu diếm một sự thật chua chát đến não nề: "Tạp chí Văn Học sau khi ra số 235 tháng 11 và 12 năm 2007, tôi bị ung thư mắt, nên tạm thời đình bản. Hơn một năm sau, tôi đã cố gắng thực hiện số tiếp theo 236 phát hành tháng 3 và 4 năm 2008, sau đó lại bị đình bản thêm một lần nữa cũng vì cái bệnh quái ác ấy".
    Suốt những ngày tháng lo xây dựng nên tờ báo này, Cao Xuân Huy đã đầu tư biết bao công sức, nhất là trong giai đoạn ngặt nghèo mà thể lực không được khỏe khoắn như ngày nào. Cao Xuân Huy bị ung thư mắt, mất đi một con, một viên ngọc quý đời mình để chỉ còn nhìn đời qua khung cửa hẹp. Ký giả Nguyễn Văn Khanh, người có thể nói là đã sống sâu sát bên Cao Xuân Huy, cho biết sự dấn thân, đam mê đến mức độ có thể nói là hy sinh của Cao Xuân Huy trong nghiệp viết lách: "Dù khó khăn đến thế nào đi nữa, anh vẫn là người hết lòng với chữ nghĩa. Sau "Tháng Ba Gãy Súng" anh viết rất ít, nhưng quyển sách đã giúp anh cơ hội làm quen với những người viết khác và cùng nhau dựng nên những tờ tạp chí văn chương. Tôi từng thấy anh đã quá nửa đêm vẫn cắm cúi trên bàn phím gõ bài, từng nghe anh than "mệt quá" mỗi lần sửa soạn đưa báo đến nhà in, và nhiều lần thấy anh xin tiền vợ để đi lấy báo. Có thể nói không sai: những tờ báo anh làm không đem được tiền về cho gia đình, mà gia đình còn phải bỏ tiền giúp anh để làm công việc anh yêu thích. Nguyễn Văn Khanh kể tiếp về sự yêu nghề của Cao Xuân Huy được thể hiện trong công việc làm, nhiều khi đưa đến những sự thiệt thòi thấy rõ, nếu không muốn nói là thiệt hại, bởi vì quá tôn trọng lương tâm chức nghiệp, trọng nguyên tắc: "Nói đến chữ nghĩa cũng phải nói đến một Cao Xuân Huy rất khó tính. Một đôi lần anh nhận lời đánh máy thuê, và lần nào anh cũng cho "chủ nghỉ việc". Lý do rất giản dị là: "Tôi không chịu nổi những đứa viết câu không ra câu, cú chẳng ra cú." Nên không thể nào đánh đúng từng chữ người khác thuê anh đánh. Có lần anh bảo với tôi: "vừa đánh máy vừa sửa câu cú cho đúng mệt lắm." "Tại sao ông không nhắm mắt đánh kiếm tiền" tôi hỏi ngược lại.
Trong thời kỳ cộng tác với nhật báo Người Việt ở Westminster, California, Cao Xuân Huy đặc trách phần trình bầy (layout) và là một trong những người trình bầy giỏi và đẹp. Nguyễn Văn Khanh đã tiết lộ điều này, hai người quen nhau do làm chung ở một tòa soạn ngót 30 năm nay, khi bấy giờ Nguyễn Văn Khanh điều khiển văn phòng nhật báo "Người Việt" ở Washington D.C. Đã nhiều lần Nguyễn Văn Khanh bay về California, ghé nhà Cao Xuân Huy ngủ, thường mỗi tối hai người thức đến quá khuya trò chuyện, nói cho nhau nghe nhiều chuyện từ bạn bè, gia đình đến sự thật riêng tư, trong những câu chuyện ấy, ít nhất vài ba lần Cao Xuân Huy nhắc lại chuyện thân sinh vào trại cải tạo thăm con, và mỗi lần nhắc lại kỷ niệm cũ, nét đau khổ của Cao Xuân Huy hằn rõ trên nét mặt, không biết bằng cách nào có thể nối kết quá khứ và tương lai của đứa con nhiều năm không thấy cha, và cuộc gặp gỡ của hai cha con ở hai đầu chiến tuyến. Đã có lần Cao Xuân Huy thổ lộ ý nghĩ thầm kín của mình rằng các cuộc gặp gỡ đó ước gì đã không xảy ra, vì hai bên không biết phải nói cho nhau nghe những gì, cho dù tình thân thiết của cha đã khởi dậy ngay lần đầu từ lời nói khi đến trại tù Bình Điền ở Huế thăm con - Beng đấy à?

    Lần này Nguyễn Văn Khanh nghe tin Cao Xuân Huy trở bệnh nặng, vội bay về thăm, sợ không còn cơ hội nào để gặp, khi mới bước chân vào phòng thì đúng lúc Cao Xuân Huy trở mình thức giấc. Cơn đau của ung thư gan chìm dần trong morphine, trong cơn mê ngủ ngật ngừ, không còn thức dậy, tỉnh táo nhìn những thân quen. Đây lời kể của Nguyễn Văn Khanh: "Cháu Dung ngồi sát bên bố, khẽ lay: "Có chú Khanh về thăm bố đây." Anh đưa mắt nhìn tôi, khẽ gật đầu thay cho lời chào hỏi. Đây, lần đầu tiên tôi gặp một Cao Xuân Huy nằm yên, không chịu mở miệng nói một tiếng nào cả. Dáng nhanh nhẹn mất hẳn, tóc đã thưa bớt nhiều, râu không còn đẹp như thuở nào và cũng chẳng còn đủ để anh có thể vuốt như anh thường làm lúc còn khỏe. "Ông thấy trong người thế nào?", tôi buông câu hỏi đầu tiên.
    Chỉ khẽ lắc đầu, vẻ mệt mỏi thể hiện rõ trên mặt. "Ông có khó chịu không" tôi hỏi tiếp. Lần này anh gật đầu. Cháu Dung vừa lấy chiếc gối kê đầu anh lên cao hơn, vừa hỏi: "Bố có đau không bố". Lại lắc đầu, vẫn không nói gì cả. "Tôi xoa lưng cho ông nhé?" Lại gật đầu. "Ông có thèm cà-phê không, có muốn uống chai Heineken với anh em không?" Lại gật đầu tiếp. Những cái gật đầu thật nhẹ, mỗi ngày vẻ mệt mỏi lại hiện rõ hơn trên khuôn mặt, khác hẳn một Cao Xuân Huy mà tôi biết gần 30 năm nay".

    Những ngày trên giường bệnh, ngoài bà vợ, Cao Xuân Huy còn được hai con gái tận tình săn sóc. Sự kiện thiêng liêng này không phải chỉ giờ đây vào những phút giây hiểm nghèo của đời người mới thấy thể hiện mà nó như một truyền thống đạo lý Đông phương được hun đúc từ ngàn xưa. Ngược lại, Cao Xuân Huy cũng rất thương mến các con, sẵn sàng đáp ứng lại những mong ước chính đáng của các con. Ngày 16 tháng 11 năm 2010, ký giả Nguyễn Văn Khanh viết: "Điều may mắn duy nhất anh có chính là mái ấm gia đình. Hai chị em Dung "chị" và Dung "em" hết mực yêu bố. Bố đi làm về, cả hai đứa chạy ra quấn quít bên chân bố, Dung "em" còn ngồi trước cây đàn piano đánh cho bố và chú Khanh nghe bài vừa mới học. Anh khoe cây đàn "là tài sản duy nhất tôi có cho chúng nó", nói xong anh giải thích tiếp "con thích học đàn, bố liền mua ngay cho con".
    - Ông để dành tiền mua hả ông? - tôi thắc mắc.
    - Đâu có, tôi xin tiền vợ dẫn hai đứa con đi mua đàn.
    - Thế thì có gì đâu mà phải khoe?
    - Có chứ, bạn bè đến con cái ra khoe bố mua đàn cho tụi con, nghe cũng sướng chứ!

    Hạnh phúc nhất của anh là có người vợ mà anh hãnh diện khoe với tôi ngay từ đâu: "Bà ấy đúng là chị lớn trong nhà, quán xuyến hết mọi chuyện." Có lần khi nói về chị Minh - vợ anh - anh bảo: " Người ta lấy chồng để có chỗ tựa đầu, bà ấy lấy tôi để cho tôi có chỗ tựa đầu". Sợ chưa đủ để nói về vợ, anh bảo thêm: "Thằng như tôi mà có người cho tựa đầu thì vừa hiếm, vừa may mắn, phải không ông. "Anh đã tựa đầu vào vai người vợ yêu quý nhất của mình cho đến giây phút cuối cùng".
    Điều này, Lý Khải Bình cũng đã nhận thấy và phát biểu tương tự trong "Đêm tâm tình với người lính - nhà văn Cao Xuân Huy" tại hội trường Đài truyền hình SB-TN tối ngày 4 tháng 11 năm 2010: "Chị Minh là một người vợ gương mẫu sát cánh cùng chồng trong những lúc vui buồn mà không một lời than trách, bất cứ giờ nào khi anh Huy cần là có chị ngay bên cạnh".

    Bản chất Cao Xuân Huy ít nói nhưng cởi mở, thẳng thắn những khi mở miệng nói. Đặc biệt nụ cười đẹp một cách đôn hậu, cười với cả khuôn mặt. Cao Xuân Huy thẳng tính, phong cách của người lính mũ xanh ngày nào hiên ngang nơi chiến trường khắp bốn vùng chiến thuật. Có một giai thoại khá vui lan truyền trong làng báo, có một thời Cao Xuân Huy và Hoàng Khởi Phong cộng tác làm báo, Cao Xuân Huy phụ trách đánh máy và Khánh Trường trông coi biên tập. Đôi khi ý kiến hai bên có sự bất đồng, lời qua tiếng lại, Cao Xuân Huy ngưng không đánh máy tiếp. Biết thế nên mỗi khi thấy hai người có to tiếng, Hoàng Khởi Phong liền cảnh cáo ngay Khánh Trường: "Coi chừng lạng quạng nó "cóc" đánh máy cho mày nữa thì làm gì nhau? "Khánh Trường cười nói: "Thì chẳng làm gì được nhau! Chỉ có cách kéo "thằng khốn" ấy ra quán "tắm" bia cho bõ tức!" Chuyện nằy cho thấy cá tính Cao Xuân Huy thích uống bia, nhưng không bao lâu sau thì bị ung thư gan, bắt đầu chương trình hóa trị, không còn uống được nữa.
    Hoàng Khởi Phong là một người bạn từ ngày xưa mà Cao Xuân Xuân Huy coi như người anh. Khi mới đến Hoa Kỳ, Cao Xuân Huy ở nhờ nhà của Hoàng Khởi Phong. Trong một buổi uống rượu với mấy người bạn thuộc đơn vị cũ, cùng nhau ngồi kiểm điểm xem ai còn ai mất, nhắc lại các kỷ niệm trong cuộc rút quân ở bờ biển Thuận An, bị bắt làm tù binh. Nguyễn Mộng Giác khi đó ở chung nhà, ngồi nghe. Sáng ngày hôm sao Nguyễn Mộng Giác hỏi Cao Xuân Huy sao không viết tỉ mỉ chi tiết. Cao Xuân Huy liền trao cho Nguyễn Mộng Giác hơn một chục trang viết tay mà bởi Hoàng Khởi Phong chê nên Cao Xuân Huy bỏ dở dang. Nguyễn Mộng Giác tự động cho in báo và bảo Cao Xuân Huy viết tiếp. Nhan đề cho tập hồi ký này Cao Xuân Huy đề là "Ngày Gãy Súng" nhưng khi in báo Nguyễn Mộng Giác đã sửa thành "Tháng Ba Gãy Súng".

    Động lực để viết tập hồi ký này có một nguyên nhân sâu sa, Cao Xuân Huy tâm sự: Một anh - đã có thời làm Thủ tướng miền Nam chúng tôi - vào những ngày cuối tháng Tư 1975, kêu gọi mọi người ở lại chiến đấu, nhưng chính anh ta lại "tếch" đi Mỹ ngay sau khi hô hào. Ở Mỹ, anh ta vẫn tiếp tục ồn ào trên báo chí: "Làm mất nước là tội chung của mọi người, lớn tội lớn, bé tội bé". Đọc thấy câu này, tôi văng tục. Những thằng lưu manh thường lớn họng, những thằng hèn thường chiến đấu đến giọt máu cuối cùng của… người khác. Tôi là một trong những "người khác", đánh nhau đến viên đạn cuối cùng để rồi bị bắt, bị tù đày vì những thằng lưu manh, hèn hạ đó, và bây giờ vẫn tiếp tục phải thấy và phải nghe những điều chó má như thế. Tôi viết là vì vậy".
    Tập hồi ký "Tháng Ba Gãy Súng" xuất bản năm 1985. Không ngờ đây là một cơ hội, nhờ có nó Cao Xuân Huy học được một nghề để mưu sinh. Nguyên cuốn "Tháng Ba Gãy Súng" nhà xuất bản trình bày xấu và có nhiều lỗi đánh máy. Cao Xuân Huy bực mình mua máy vi tính về mầy mò viết văn, đánh máy và trình bầy sách thuê. Từ sách chuyển sang báo một bước ngắn. Dần dần trở thành người trình bày sách, báo chuyên nghiệp. Thế là trở thành đồng nghiệp với thân sinh. Bởi Cao Xuân Huy biết thân sinh là người làm thơ, dịch sách và làm báo.
    "Tháng Ba Gãy Súng" một cái tên đơn giản mà quyến rũ gợi nhớ cả một thời. Tháng Ba miền Trung chìm trong cơn lốc lửa đạn đổ xuống từ miền Bắc. Trên bờ cát của biến cố rền tiếng xích sắt nghến trên sọ người lạo xạo. Phải một thời gian ngắn sau bão tố mới đổ ập tới Sài Gòn. Tháng Tư Đen tang tóc, xô hơn một triệu người bỏ nước ra đi. Đây là tập hồi ký chiến tranh, đương nhiên khác với tiểu thuyết, không tưởng tượng thêm thắt, viết sai, bẻ cong sự thật nhằm tuyên truyền hay chạy tội, không lợi ích cho người đương thời và cho lịch sử. Cao Xuân Huy cho rằng người ngang nhiên bẻ súng của người lính chiến dọc ngang một thời, có thừa mưu trí và kinh nghiệm trận mạc, người làm cho họ phải bó tay khi súng còn trên tay mà nòng đã hết đạn, đó phát xuất từ một số cấp chỉ huy đã dứt bỏ hàng ngũ trong cơn quẫn bách chạy lấy thân, sống chết mặc bay làm người lính trận mất hết niềm tin. Từ trang đầu đến trang cuối của sách chỉ độc thấy máu và nước mắt, tàn bạo và căm thù, nên đây có thể coi như tiếng kêu thống hận của người lính, chỉ kêu một lần rồi thôi.

    Và phải đợi tới ngày 10.7.2010 Cao Xuân Huy mới giới thiệu tác phẩm thứ hai "Vài Mẩu Chuyện" tại hội trường nhật báo Việt Herald. Cao Xuân Huy không nhận mình là nhà văn, mà là một người tình cờ cầm bút vì cuộc đời đưa đẩy vào chốn văn chương, tựa ngày xưa khi thời cuộc, vận mệnh của cả nước, của mọi người và của chính mình, đã bước vào đời lính. Tuy không nhận mình là nhà văn, nhưng đọc hết "Vài Mẩu Chuyện" của Cao Xuân Huy, và qua các chức vụ đã đảm nhiệm: Tổng thư ký rồi Chủ biên tạp chí Văn Học các năm 1989-2009, không thể không công nhận Cao Xuân Huy là một nhà văn đúng nghĩa, một người lính viết văn, phơi bầy những chuyện thật của đời lính, mà chắc chắn những ai đã nắm chắc tay súng khi đọc Cao Xuân Huy, đã thấy Cao Xuân Huy như đang nói về chính mình, chẳng hạn truyện "Chờ Tôi Với", trong "Vài Mẩu Truyện" diễn tả giờ ngưng chiến ngày 28 tháng 1 năm 1973 theo Hiệp Định Paris. "Vài Mẩu Chuyện" gói gọn trong cuốn sách chỉ dày 125 trang nhưng người đọc không thể xé rào một trang nào vì nó rất thật.

    Cao Xuân Huy viết không để lập ngôn, tán tụng người và tâng bốc mình như không thiếu gì người đã đi vào vết xe đổ đó. Sau ngày sa cơ, chịu nhiều chua chát, nghiệt ngã của kiếp tù đày, đói khát, bệnh tật, lao động khổ sai hành hạ, nhưng Cao Xuân Huy hiên ngang ngẩng cao đầu, không để ý chí bị khuất phục, và cho dù có phải trả bằng mọi giá vẫn giữ cho được giá trị của con người. Cao Xuân Huy dùng ngòi bút như lưỡi dao phẫu thuật xẻ tung vết thương lòng, tách rời từng lớp, từng sớ dằn vặt, nằm sâu trong óc, trong tim, phơi bầy trần trụi phần bản lai của mình cho người khác chứng kiến.

Nhật Thịnh
Nguồn: "vannghesi.net"
.

Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng”   Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng” Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Vĩnh Biệt "Huy Râu" - “Tháng Ba Gẫy Súng”
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU
» Đêm Vĩnh Biệt Sài Gòn - hoanghaithuy
» Cuối cùng cho một tình bạn - Cao Đắc Vinh
» Những sự thật cần phải biết - Sự thật về "chiến thắng mùa xuân thần thánh"
» Biệt Đội 817, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon  :: ĐỀ TÀI :: Văn Hóa, Nghệ Thuật :: Văn-
Chuyển đến