Lạc
cõi nhân sinh Nguyễn Trần TrácChàng là một chàng trai của một vùng văn học xứ Bắc,
sinh ra trong cảnh đất nước bị lệ thuộc, sau cuộc đàn áp đẫm máu của thực dân
Pháp tại Yên Báy. Thế hệ của chàng là một thế hệ đầy biến động với biết bao
động lực xô đẩy. Chàng đã lớn lên , học tập, trải nghiệm và thao thức với
biết bao trào lưu tư tưởng dường như đối lập : văn chương yêu nước lãng mạn của
Tự Lực Văn Đoàn, những bản tình ca của một thời tiền chiến, những thúc dục kêu
gọi của một đất nước lầm than đòi độc lập,…
Rời quê hương mà mình yêu dấu, chàng lớn lên và
trưởng thành ở miền Nam. Trong những cơn sóng thần của thời cuộc, cũng
như bao nhiêu chàng trai trẻ khác, chàng lao vào cuộc đời binh nghiệp với tâm
hồn của một thư sinh đầy mơ mộng. Không còn những lũy tre xanh quen thuộc của
làng quê miền Bắc , chàng yêu mến cảnh nắng vàng của miền Nam với những rừng
dừa Nam Bộ:
Anh về qua xóm nhỏ
Em chờ dưới bóng dừa
Nắng chiều lên mái tóc
Tình quê hương đơn sơ
Anh sẽ là anh đàn em nhỏ
Là con của mẹ giữ quê hương
Quê nghèo mãi sẽ tươi nguồn sống
Đàn trẻ thơ reo giữa lúa vàng.
Chàng đã từng là một chỉ huy. Trong cuộc đảo chánh
1960, chàng là người chỉ huy một cánh quân Biệt Động với một đội trọng pháo có
thể san bằng Dinh Độc Lập. Cuộc đảo chánh thất bại. Chàng cũng như nhiều sỹ
quan cùng chí hướng phải lưu vong ra nước ngoài.
Thời cuộc biến chuyển , cơ duyên đã đưa đẩy chàng
trở lại quê hương. Qua biết bao thăng trầm, chàng trở thành một học giả , đắm
mình trong niềm say mê nghiên cứu về dân tộc học và về tôn giáo và nhân duyên
đã đưa chàng về Bến Giác, trở thành một nhà sư.
Không còn là một chàng trai trẻ của một thời đầy
hãnh tiến, bây giờ chàng đã trở thành một nhà sư già, sáng chiều đắm mình trong
câu kinh tiếng kệ, hoan hỉ giảng cho chúng sinh những ý nghĩa sâu sắc của lẽ vô
thường. Đôi lúc có thoáng nghĩ lại cuộc đời của mình, từ một làng quê Bắc Bộ,
từ một thời cắp sách trai trẻ, tới cuộc sống sôi nổi trong khói lửa ở miền Nam,
với bao nhiêu người bạn thân thiết, và khuôn mặt thương yêu của một ai đó , vị
sư gìa thấy chỉ như một giấc mơ, như một đám mây chiều lãng đãng
trên không.
Khi cảm thấy thân xác thế gian đã suy
kiệt, biết giờ tịch diệt sắp điểm, vị sư già để lại cho đệ tử một bài thơ:
Diệu pháp chân như trăng tỏa sáng
Vô thường Bến Nghé lững lờ trôi
Chân Lạp, Chiêm Thành vô thường cả
Trí Huệ mây trôi nẻo cuối trời.