Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon

Diễn Đàn của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  GalleryGallery  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Keywords
thuoc Saigon trong luong nhac Nguyen truyện quan linh VNCH hoang chất nguyet ngam Trung chuyen Chung không phải quốc sáng Nhung ngắn quynh quang bich
Latest topics
» qua đi thôi bão nổi
Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeSat Mar 11, 2023 3:11 am by Admin

» Cụ Hoang Xuân Hãn
Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeSun May 08, 2022 10:37 pm by Admin

» Giáo dục VNCH - Giáo dục con đường khai phóng
Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeMon Jan 10, 2022 4:06 am by Admin

» Suy tư về kiếp người - Về Cùng Cát Bụi
Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeSun Jan 09, 2022 4:25 am by Admin

» AI ĐÃ HẠ GỤC CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN?
Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeSat Jan 08, 2022 2:41 am by Admin

» NHẠC THIỀN - Cõi Thiền trong Âm Nhạc
Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeThu Jan 06, 2022 4:11 am by Admin

» Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH
Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeTue Jan 04, 2022 3:06 am by Admin

» Tôi Cưới Vợ
Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeTue Jan 04, 2022 2:44 am by Admin

» Giáo sư Phạm Hoàng Hộ
Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeMon Nov 29, 2021 3:05 am by Admin

March 2024
MonTueWedThuFriSatSun
    123
45678910
11121314151617
18192021222324
25262728293031
CalendarCalendar
Affiliates
free forum

Affiliates
free forum


 

 Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)

Go down 
3 posters
Tác giảThông điệp
P-C
Khách viếng thăm




Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeWed Aug 01, 2012 3:08 pm

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Th?id=OIP.774NaFNGZV41OC-LXAyyFgHaF1&pid=15

Bóng hình xưa

A. J. McKenna (Anh)


Đó là sinh nhật của Jim Brennan. Ông thức giấc vào buổi sáng tháng Tám ẩm ướt này, giật mình bởi tiếng chim hót vang khắp khu vườn. Đầu óc rối bời, ông cứ nằm mãi, gắn ánh mắt vô hồn vào mảng giấy hoa dán tường đã bạc phếch, đối diện chiếc giường bừa bộn của ông, nơi mặt trời sưng sỉa hắt ánh hồng lên.

“Hôm nay sinh nhật mình,” rốt cuộc ông nhớ ra. “Bảy sáu rồi. Nhanh thật.”
Ông trở dậy, đau mỏi khắp người. Trong bộ pyjama sọc, ông khó nhọc đến bên cửa sổ, đứng ngắm khu vườn. Có ối việc dồn lại nhưng đã quá trễ. Dạo này cỏ um tùm, giá đừng đau lưng. Ngoài vườn hồng ngập nắng cỏ cây như bừng tỉnh, cây ông lão vươn mình như đứa trẻ đang lớn còn luống cúc vạn thọ rực vàng khoe sắc.
“Hôm nay sinh nhật mình.”
Tiếng chó sủa vọng đến từ nhà bên. Một con mèo phóng lên bờ thành gắn mảnh thủy tinh lởm chởm rồi thu mình chỗ bóng cây táo rình lũ chim sẻ đang háo hức đón bình minh. Bên dưới cái lồng chim bị hỏng, một con chuột đang gặm mẩu bánh mì dở. Bóng đổ của bờ giậu khu vườn trở nên nhỏ thó co rút, thẹn thùng tan trong nắng mai và vì sao cuối cùng mất dấu khi vầng dương xuất hiện. Bắt đầu cho một ngày ngột ngạt tháng Tám.

*

Jimmy Brennan, bảy sáu tuổi, ngồi trong bếp. Im ắng. Toàn bộ căn nhà tĩnh lặng, những thứ quanh ông không còn chút sinh khí, mái trĩu nặng và lò đã tắt. Ông Jim đưa bàn tay gân guốc phủi những mảnh vụn bánh mì trên chiếc bàn nhựa và khi ông lê bước, bụi thêu dày vạt nắng. Ông lắng nghe sự trở mình thức tỉnh của một ngày mới, tiếng tích tắc hối hả từ chiếc đồng hồ trên tủ, tiếng lạch cạch gợi nhắc từ hòm thư...
Ông Jim lên nhà trên lấy các hóa đơn rồi xem tờ quảng cáo hàng giảm giá và những kỳ nghỉ ở nước ngoài. Jim chưa từng rời khỏi Ai-len hay trải nghiệm những chuyến hải hành. Ông rướn đôi mắt kèm nhèm mệt mỏi của mình nhìn những bì thư cách một sải tay. Không hề có thiệp mừng sinh nhật để thở phào một cái cho đã - đời giờ ai nhớ?

Quay trở lại nhà bếp quen thuộc, ông rọc thư xem. Còn hơn không có gì - dù là giấy báo nợ thì ít nhất cũng có người liên lạc với ông. Xem chán, Jim nhìn ánh mặt trời hắt lại từ ấm trà cũ rồi bỏ những lá thư chẳng mấy hay ho lại đọc sau, ông đi châm thêm trà. Ông ngồi và nghĩ về sinh nhật xưa. Cuộc chè chén say sưa, hát hò và chúc tụng, người chết lâu rồi ai nhớ. Về một thời, đó là khi nào nhỉ?
“Thời gian như bóng câu...” - ông nói.
Ông đang nói với chính mình, hầu như ngày nào cũng vậy - ai sẽ nghe chứ? Đồng hồ trên phòng khách điểm giờ, Jim mệt mỏi đứng lên. Lại một ngày mới đến với ông. Mở radio, toàn tin xấu. Trẻ em chết, những cảnh đời đau đớn, bệnh tật, chiến tranh. Ông cười ra nước mắt khi quảng cáo chen vào. Thế giới trở nên điên loạn, tàn ác, vô cảm và dường chẳng ai nhận thấy. Ông chuyển đài, giọng ngoại quốc liến thoắng lảm nhảm trên sóng. Nói như lua canh, tra tấn người nghe về các vụ hiếp dâm trẻ em, chắc thế. Các phương tiện truyền thông khoái sỉ nhục người vô tội bằng những bản tin, những câu chuyện “nóng hổi”. Thời xưa khác xa: dường như yên tĩnh hơn và trẻ em có thể chơi trên phố. Thời xưa... đó là khi nào nhỉ? Thời nắm tay tung tăng hát. Ông lẩm nhẩm bản nhạc thiếu nhi:
Ring- a- ring- a- rosy!

Jim mỉm cười, nhận ra vở nhạc kịch Đám cưới Figaro của Mozart và vai nữ giả nam Cherubino đã cứu rỗi một buổi sáng u ám. Sau đó, ông thay đồ, đi dạo. Đội chiếc mũ len có lưỡi trai, ông chống gậy ra cửa trước và kiểm tra cửa nẻo. Mọi thứ đều chốt khóa kĩ. Khi căn nhà rệu rã phát ra âm thanh kẽo kẹt vào ban đêm, Jim nghĩ đến bọn trộm và run rẩy hình dung cảnh chúng lẻn vào khống chế ông.
Thật là một thế giới!
Đu đưa theo giai điệu bài hát, Jim mở cửa và thấy Ellen Kelly đứng đó với nụ cười rạng rỡ.
“Chúc mừng sinh nhật, Jim.”
Chẳng ngạc nhiên nữa, Jim mỉm cười đáp lại rồi thở dài vì thực ra Ellen không ở đó.

Ellen Kelly, mười bốn tuổi, tuần trước. Gần đây ông thấy Ellen luôn. Nàng đã đi sau ông suốt quãng đường đến cái thư viện yên tĩnh hôm qua và khi ông ngồi nghỉ trong Công viên Carolyn, cô đứng dưới bóng cây đợi ông.
“Em đã không quên,” Ellen nói.
“Anh biết, anh biết.”
“Anh sẽ ra ngoài chơi chứ?”
“Anh không thể Ellen. Em đã chết.”
Mặt trời nghiêng phố, nghỉ chân trên nhà Jim còn Ellen nhạt nhòa theo bóng nắng.
“Tội nghiệp Ellen,” Jim thì thầm buồn bã. “Tội nghiệp em yêu đã chết rồi.”

*

Jim tránh siêu thị. Nó quá phức tạp. Nhiều người đang cố trả tiền cho lẹ để về nhà. Trẻ nhỏ khò khè lên cơn hen suyễn. Đám nữ choai choai chảnh chọe thì oang oảng chuyện cần giải quyết gấp. Các cậu trẻ đeo vòng tai, hói đầu lấn tới, mắt mơn trớn từng đường cong. Không thèm liếc lại. Con gái đòi hỏi nhiều hơn thế. Xe đậu bát nháo, bon chen hết sức để kiếm ít tiền. Các bà nội trợ vội vã, khởi động, nhấn ga, khói xe khét lẹt, những người phụ nữ được giải phóng với rất ít sự thoải mái. Sự kiệt sức ở các siêu thị cùng quá nhiều sự lựa chọn. Quá lớn, quá hiện đại. Quá cô đơn với Jim.

Ông đến các cửa hàng nhỏ hơn, tán gẫu với người quen, mua sữa, trứng và một ổ bánh mì nhỏ nóng hổi. Tới một đoạn nữa, bên ngoài cửa hàng từ thiện, bà Barret ở số hai mươi chín gật đầu chào, hỏi:
“Ông khỏe không?” - bà nhìn ông đứng trong quầy vẻ săm soi.
“Tuyệt, ơn Chúa. Còn bà?”
“Không thể tốt hơn.”
Cuộc đời ngập ngụa lời lịch sự giả dối.
Lê chân qua những con phố ngột ngạt nóng bức, Jim trở về chỗ trú thân của ông già 76 tuổi.

*

Ông ngồi trên chiếc ghế bành trong phòng khách nhìn ra đường. Chuông đồng hồ điểm mười tiếng. Ngày còn dài phía trước, dài theo nỗi buồn bất tận của đời ông. Mười giờ sáng đáng sợ. Ông không có gì để làm còn các cô gái bên ngoài mặt mày sáng rỡ thì luôn vội vã, nắng trên đầu, thời gian trên tay. Những đôi chân nhún nhảy, vớ đen, váy ngắn, ngắn đến tội lỗi, gọi mời.
Rất mừng vì mình không còn trẻ nữa.
Jim khinh ghét thời gian này trong ngày. Quá nóng để dạo ra vườn, ngồi không cũng chán, chẳng nghĩ được điều gì hay ho ngoài việc lo bữa trưa. Ăn uống qua loa cho cả buổi chiều lê thê sầu rũ như đường vắng vô định. Jim thử đọc cái gì đó, nhưng có đeo gương vẫn thấy kèm nhèm, không rõ chữ.
“Ellen,” ông khe khẽ gọi và tên nàng vang vọng trong đầu ông như một hồi chuông.
Ellen Kelly, Kelly Ellen, Kellen Nelly.
Jim đùa vui cùng nàng. Mắt ông khép lại. Ông đang chìm vào cơn mơ thì nghe tiếng loảng xoảng từ cái nắp đồng của hộp thư vẳng đến. Jim chậm rãi tới trước, mở nhẹ cửa lớn. Ellen ở đó, như phép màu, mười lăm tuổi, trông thật đáng yêu và rạng ngời dưới vạt nắng chiều. Ellen Kelly, nét mặn nồng tinh khôi thiếu nữ và trong sáng hồn nhiên trẻ thơ.

“Anh không ra ngoài chơi sao, Jim?”
Từ phía sau, một cái bóng khác trong hành lang tối, mẹ của Jim, mỉm cười.
“Ellen yêu quý, nó mắc đi mua đồ hộ cô rồi.”
Jim, chàng trai mười sáu tuổi đang rạo rực niềm vui, mắc kẹt ở giữa hai phụ nữ, đành im lặng dẫu biết tâm hồn Ellen sẽ nhói đau.
“Vậy em sẽ theo anh,” Tính Ellen rất dễ thương, nàng luôn luôn làm vừa lòng mọi người. “Chúng mình sẽ cùng đi chợ. Như thế thì được chứ?”
Mẹ đồng ý. Bà yêu thương Ellen, coi cô bé hàng xóm ấy như con gái mình - một đứa con mà bà tới ngày tóc điểm bạc còn ao ước.
“Tất nhiên là được, cưng.”
Jim và Ellen đi ra đường trong khi mẹ đứng ở cửa, cứ vẫy tay mãi cho đến khi họ khuất phía bên kia cổng. Người mẹ nào chẳng lo chuyện con cái qua đường, nhiễm bệnh. Nào lao, viêm phổi, bại liệt, sởi, quai bị... là những bệnh quái ác. Thời ấy, nhiều người chết trẻ.
Jim và Ellen, đầu chụm vào nhau, lực hút tình yêu kéo họ sát hơn, nói, cười, một đôi không lẫn vào đâu được. Say đắm nồng nàn. Mái tóc đen mượt của Ellen lòa xòa uốn quanh đôi tai nhỏ xíu dễ ghét. Nàng im lặng và bình thản như hằng nga.
“Em sẽ yêu anh mãi mãi?” Jim hỏi.
“Mãi mãi và mãi mãi,” Ellen quả quyết, xiết chặt tay anh.
Trên đường trở về họ đi tắt, băng qua cánh rừng già tháng Tám. Một lối tắt dài. Vẫn nói chuyện nhưng lời nói của họ rời rạc bởi những khoảng lặng, những giây phút nóng ran, lừng khừng đầy âu lo. Giữa một màu xanh thắm họ ngồi xuống chỗ bóng mát và hôn nhau trong đám dương xỉ, một cách ngây thơ. Họ đã hôn nhau như thế nhiều năm rồi.

*

Cuộc đời là một kỳ nghỉ hè cho đến khi Jim mười bảy tuổi. Lúc ấy Jim đi Cork với cha cho việc kinh doanh. Cork thật tráng lệ: thuyền bè nhấp nhô, những thánh đường uy nghi của thành phố cảng nhỏ nhắn xinh đẹp, rồi còn khách sạn Metropole. Sang trọng. Tiệc tối và món tráng miệng. Cà cạt đen, xì gà nâu. Rượu gin và nước khoáng nặn thêm tí chanh. Giờ ở Cork luôn là rượu gin không pha và kèm lát chanh làm nhạt nhòa hồi ức trong Jim. Chanh đắng.
Jim cùng bạn của cha. Một bữa tiệc nồng mùi son phấn. Cha và một người bạn bỏ về sớm. Cha nháy mắt, kiểu như đồng tình: trai tơ, sợ chi. Cũng không chắc lắm.
Jim quay cuồng theo cái dây chuyền-bông tai ấy tới sáng. Lên trên gác của căn nhà gỗ sồi, vào phòng, cô gái bảo chẳng có ai ở nhà còn Jim đã thấm say.
“Để anh đỡ em lên giường,” Jim nói, hiểu rõ luật chơi và biết khi nào có thể ăn gian.

Ellen mười sáu thoảng mùi của tình yêu và hoa hồng. Cô gái này hai mươi và nồng mùi rượu gin, trút xiêm y, vào phòng tắm. Jim đã gục ngã. Ellen, mười sáu thiên thần, cho anh tất cả trừ điều đó. Nàng quyết giữ cho đêm tân hôn. Jim muốn nhiều hơn thế. Ngọc ngà và thú tính.
Tội lỗi, quá tội lỗi, cùng đường tội lỗi, tất cả tại anh, Ellen ơi!
Cô tóc vàng đến Dublin với chàng Jim, người đã thành đàn ông và đang chìm trong mê đắm. Máu trên tuyết. Ellen mười bảy bị bỏ rơi như món đồ quá hạn.
“Anh không cần em nữa?”
“Không.”
Ellen cắn chặt môi. Cặp mắt ứa lệ đỏ hoe. Mặn đắng. Tâm hồn khô héo, Ellen đau đớn nói lời tạm biệt.
“Không. Anh không thích em.” - Jim tàn nhẫn bồi thêm.
Jim đã quyết định một cách lạnh lùng. Nàng Ellen tình phụ vẫn âm thầm chờ Jim, hy vọng chàng bớt tính trẻ con, chín chắn hơn.

*

Năm sau đó, anh dẫn cô đeo ngọc trai đi nghỉ, chẳng hề có lời tạm biệt Ellen, mười tám, cô đơn, xanh xao, vàng úa vì bệnh lao đang gặm nhấm lá phổi còn tình yêu phũ phàng làm tan nát trái tim nàng. Ellen trong trắng ngây thơ giờ tơi tả xác hoa tàn khô. Với nàng Ellen trinh nữ, mũ cô dâu là vòng hoa đầy gai nhọn và mạng che mặt được thêu bằng nước mắt.
Ellen ngã bệnh.
Ngày Jim trở về, những ngón tay run rẩy, co quắp và gương mặt già nua đẫm lệ của mẹ chào đón chàng.
“Tội nghiệp Ellen,” mẹ thều thào. Đau đớn, chua xót, tiếc thương.
Jim bừng tỉnh.
Quá muộn.
Máu đen đã ứa ra nơi khóe môi Ellen.

Những bông hoa băng giá trên mộ. Lá úa tan tác trong gió lạnh, bay đầy trời, lả tả trút xuống mảnh đất Ellen nằm, đắp thêm hay lấp sâu thân xác nàng trinh nữ?! Còn đâu nữa những nụ hôn ấm áp nồng nàn. Còn đâu nữa trái tim rộn rã chất ngất tình yêu. Ellen mười chín, nàng trinh nữ mười chín, mãi mãi mười chín, không bao giờ hai mươi. Mẹ phía sau quan tài, mẹ trong ngôi mộ của mình, về nơi chín suối. Và trời đổ mưa, mưa, mưa hơn năm mươi năm dài, không tạnh từ ngày ấy.
Người yêu vĩnh viễn rời xa!

*

Tiếng chuông đồng hồ. Đinh-boong. Một. Đinh-boong. Hai...
Jim vật vã mơ. Ông gọi tên nàng trong đêm vắng.
“Ellen?”
Bóng đổ thẳm sâu câm lặng như lời giã biệt khắc khoải yêu thương từ miệng người hấp hối. Nghĩa trang đá cẩm thạch hệt những đôi môi, lạnh băng. Sỏi đá rêu phong. Những kỉ niệm trở lại rời rạc nhưng sống động trong ông; ký ức choán lấy, lấp đầy và ám ảnh hiện tại. Rùng mình, run rẩy, Jim lảo đảo tiến về phía cửa sổ ngập nắng chiều. Xoa xoa bàn tay gân guốc. Cầu nguyện. Sau đó, ông làm món cà chua và thịt nguội. Ông mơ mơ màng màng cảnh xế chiều - bóng đêm, một nửa cuộc đời. Trên đài phát thanh một giọng nữ hát bản Four Last Songs của Richard Strauss. Không cần phải hiểu lời.

Nỗi buồn sao ngọt ngào đến thế. Ai nói điều đó nhỉ?
Hoàng hôn. Ông ngồi ngóng tiếng chim muông lúc mặt trời lặn. Không có gì để xem, ngoại trừ chim két và chim sẻ; không có gì để nghe ngoại trừ tiếng cánh bướm.
Rất lâu sau đó, đồng hồ trong phòng khách đổ mười hai tiếng. Đêm đến, nóng bức.
Trườn lên chiếc giường rộng, Jim tắt đèn rồi nhìn những cái bóng chen chúc lộn xộn trên mảng tường dán giấy hoa. Những vì sao hắt ánh lên gương mặt u ám già nua của ông. Trăng tháng Tám chiếu qua cửa sổ. Dịu nhẹ êm đềm như sự tĩnh lặng, âm thầm như hoa táo rơi, ngọt ngào như lúm đồng tiền trên má Ellen khi cười. Ellen đứng đó, bên cạnh giường ông cùng nụ cười mừng vui pha lẫn buồn tủi. Ellen thủy chung đang chờ đợi.
“Bây giờ anh có cần em không?”
Có! Lạy Chúa nhân từ - có!
Ông nói: “Giờ anh có thể đi rồi, Ellen, nếu em muốn. Rốt cuộc anh chết là đúng.”
“Em rất vui. Em đã chờ đợi suốt một thời gian dài đằng đẵng!”

Jim nâng mình, bỏ lại bảy mươi sáu năm trời trên chăn gối, bay vút qua ánh trăng với Ellen trong vòng tay, như sao chổi vào chốn vĩnh hằng trong khi chiếc đồng hồ ở phòng khách đã chết.
Mãi mãi và mãi mãi.

Nguyễn Trung dịch
Nguồn: eastoftheweb.com

.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeTue Apr 17, 2018 12:05 am

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) 11-5

Ðà Nẵng Quê Em   
Trần Hoài Thư    


1.

Ðà Nẵng quê em, anh ở xa, sâu trong rừng An Lão, bên kia trùng trùng điệp điệp rừng dừa. Anh ở trên ngọn đồi, nhìn về phương Bắc. Anh nằm trên võng trận nhìn về phía đèo. Anh ngồi trong hầm nhìn lên bầu trời đầy sao. Phương Bắc là Ðà Nẵng. Bên kia đèo là Ðà Nẵng. Và vì sao trên cao cũng là từ một đôi mắt của Ðà Nẵng. Ðà Nẵng bỗng dưng trở thành một nơi thân thiết, không hẹn mà về. Như không hẹn mà anh được gặp em.

Cảm tạ em để anh còn biết yêu về một thành phố lạ. Con đường bờ sông Hàn, nhà ga và đàn sáo đen gọi bầy vào hoàng hôn, con đường áo trắng qua trường Phan Châu Trinh và quán cà phê nào buổi sáng mờ sương nghe tiếng lửa reo vui lách tách. Ðà Nẵng anh xa lạ buổi ban đầu, nhưng thân thuộc từng vỉa hè góc phố về sau. Ðể nhớ một ngày mưa, anh bên này đường nhìn áo em ướt nhòa tội nghiệp. Ðể nhớ những lần hò hẹn, em sợ cuống cuồng như kẻ phạm tội, cứ cúi đầu, cứ vân vê chéo áo. Nói làm sao về những cơn nắng hè chói chang trên lối về Ðộng Ngũ Hành, và đôi má em au hồng và giọt mồ hôi rịn trên vầng trán. Nói làm sao để chiều mẹ để cơm, em dấu mẹ dấu ba con không đói. Ðó là Ðà Nẵng lúc chiến tranh còn ở tận xó rừng xó núi, khi những chiếc xe Tiến Lực Phi Long còn chạy băng băng qua Phù Cũ, qua Sa Huỳnh, Ðức Phổ, Ðức Dục, Tam Kỳ, Hội An, không phải ôm tim ôm ngực. Ðó là Ðà Nẵng một buổi sáng trở lại và một buổi chiều ra đi.

Nhưng cuối cùng, chiến tranh lại không ở xó rừng xó núi nữa. Ðèo Phù Cũ trở thành một bãi chiến.
Những cầu bị giựt. Những khúc đường bị đào. Mìn chông được nguỵ trang. Những chuyến xe đò bị chận.

Nhưng em yêu dấu, anh phải về cùng Ðà Nẵng bằng bất cứ giá nào. Lần này anh liều lĩnh qua đèo cùng hai trái lựu đạn. Và khi thấy anh em lại khóc. Chiến tranh đã làm ngày quá dài. Quá dài và quá mong manh, để chúng ta phải bấu víu vào nhau cuồng bạo. Ðôi vai em run rẩy: Em sợ anh ơi. Nhưng anh vẫn giả vờ như một kẻ bất cần. Dù cũng muốn kể về một nơi mà chỉ bọn đàn ông con trai đang tham dự. Dù cũng muốn nhắc về thằng bạn mới hôm nào còn ngồi trong quán cà phê nhìn cô hàng có bờ ngực thập thò sau làn vải lụa, hôm qua đã tử trận ở đồi Mười. Dù càng lúc ma quỷ càng nhiều, âm binh càng lộng, những thằng lính bộ binh càng phờ râu mờ mắt, mỏi mê hai chân, nặng thêm cấp số đạn.

Hơn thế nữa, đặc biệt lần nầy, anh muốn nói cùng em về những tín hiệu đen tối. Anh đưa em về Nam Ổ. Anh đưa em ra nhìn Hải Vân, trong sương mù và biển xanh mênh mông dưới thấp. Tiếng đạn trong sương mù và biển xanh mênh mông dưới thấp. Tiếng đạn trọng pháo vẫn tiếp tục câu đi dưới bầu trời nắng lửa. Chiếc cầu Nam Ổ quằn quại dưới bánh xích chiến xa. Những chiếc xe quân đội tiếp tục chuyển quân về hướng Bắc. Không gian mịt mùng khói và bụi. Mặt trận vẫn miệt mài. Không dám nhớ nhưng vẫn nhớ. Không dám nghĩ nhưng vẫn nghĩ. Nghĩ gì, nhớ gì. Trực thăng không còn ưu tiên, phản lực mỏi mòn chờ đợi, pháo binh bắn yểm trợ cầm chừng... Thế giới đã quay lưng. Mù mưa và mặt trận. Vòng kiểm soát thu hẹp. Làng xóm cũng thu hẹp. Thành phố vẫn ăn chơi. Ðài Hà Nội vẫn gào vẫn thét. Quân đội ta trung với đảng hiếu với dân... Hay là thời điểm cuối cùng của một trận chiến. Hay là người khôn còn sống, người dại ra đi. Hay là bắt đầu cho một cơn đại hồng thuỷ để Thượng Ðế động lòng bảo ông Noah đóng tàu cứu độ. Bởi vậy, anh phải về chờ chiếc tàu của ông Noah. Rồi anh sẽ dẫn em đi, bến bờ sẽ bỏ lại, sống thêm trăm năm như người tiền sử.

Anh đã cố dấu lòng, nhưng em đã hiểu thấu. Em van:
-Hay anh đừng về đơn vị nữa. Ba em cho biết là tình hình đã nguy ngập lắm rồi. Anh hôn lên đôi mắt. Ðôi mắt đã từng chan hòa những giọt lệ của một người con gái có người yêu đi trận. Ðôi mắt nhiều buồn hơn vui. Ðôi mắt sớm biết nỗi nhớ nhung ly cách. Anh không biết trả lời làm sao. Nguy ngập. Không trước thì sau, cuối cùng cũng sẽ đến hồi kết cuộc.

Trịnh Nguyễn phân tranh cuối cùng cũng chấm dứt. Huống hồ gì những phi vụ đã trở thành khan hiếm, những quả đạn trọng pháo đã bắn cầm hơi. Huống gì khi đằng sau Bắc quân, hùng hậu thành luỹ Ðông Âu, Nga Sô, Trung Cộng, Bắc Hàn hà hơi tiếp sức. Huống gì miền Nam mẹ ngồi ru con tiếng khóc lênh đênh, đại bác đêm đêm vọng về thành phố, kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai. Huống gì sông núi đắng cay, cay đắng...

-Anh nói đi.
Em lại tiếp tục thúc giục. Nước mắt đàn bà làm anh xao xuyến. Lại cảm ơn em thêm một lần nữa. Thuỳ ơi, nếu một đời Trương Chi Mỵ Nương cùng mang xuống tuyền đài một mối tình bất diệt, thì với em, anh sẽ kính cẩn mang cả con tim em để vào một chỗ cao nhất, quý nhất. Anh nhớ cả trăm trang nhật ký em đã dành riêng cho anh từ lúc bắt đầu tình yêu dậy thì. Anh nhớ đến những dòng mực tím còn nhòa nhạt nước mắt của em. Anh nhớ đêm em không ngủ, ngày không ai đưa em dìu dẫn hò hẹn. Chúng ta đã bị trả một giá quá đắt. Tuổi trẻ tươi đẹp của chúng ta đã bị tước đoạt bởi những mỹ từ. Thuỳ ơi, anh về để tạ tình em đây.

Anh lại bắt gặp một đoàn xe nữa lên đèo Hải Vân. Mặt trận vẫn chưa yên tĩnh. Trọng pháo vẫn bắn cầm hơi. Ðây là Nam Ổ. Bên là núi, bên là đèo, trên là sương mù, dưới thấp là biển xanh bạt trùng. Khung cảnh vẫn như lần đầu tiên, anh mang em lên đồi. Ngày ấy vào mùa thu, lá vàng rụng ngập đồi, và em hát cho anh nghe bài hát của Ðoàn Chuẩn và Từ Linh: Thu đi cho lá vàng bay. Lá rơi cho đám cưới về... Ngày năm cũ và ngày hôm nay cũng vẫn là những giọt nước mắt.

Ờ thì thôi, đành vậy. Anh đang về. Mái tóc em đen xõa bờ vai. Thân thể em nhỏ bé. Ngón tay búp măng. Môi em ướt. Anh đang về. Cái sống cái chết xưa quá đỗi thường tình sao bây giờ cứ làm phân vân. Ngày xưa anh bất cần, sao bây giờ anh nâng niu hơi thở. Nhưng có tiếng nói khác dấy lên. Tân, mày hèn nhát, khốn nạn. Mày phản bội anh em. Mày để đám con không địa bàn, không bản đồ phương giác. Không có mày ai nhìn cây kim la bàn...

Một đoàn xe đã dừng lại dưới đèo. Những người lính nhảy xuống xe. Vẫn là ba lô súng đạn. Vẫn là cấp số hành quân. Họ vẫn bình thản. Ði. Ði đâu cũng được. Áo vẫn màu xanh giặt vội. Giày vẫn dính bùn khô. Vẫn di chuyển. Vẫn đóng quân. Vẫn truy kích. Vẫn bị pháo dập. Và chết. Và sống. Họ, người lính già sắp có cháu như ông trung sĩ nhất Kho hay người lính hiền khô, ăn chay trường, Nguyễn Văn Be. Sao mà anh bỏ họ cho được. Nhưng một tiếng gọi khác lại thúc bách. Ðừng anh hùng rơm, Tân. Năm năm làm anh hùng nhiều rồi. Anh dũng bội tinh vàng bạc đồng, chiến thương bội tinh nhiều rồi. Hãy tự lo lấy thân chờ tàu Noah qua bờ hồng thủy. Chiến tranh nầy không phải do mày, không thuộc về mày. Cho dù người ta có kết án mày hèn nhát, không làm tròn bổn phận một người trai trong thời loạn.

Và anh đã yếu mềm. Anh đồng ý ở lại Ðà Nẵng.
Ðêm đó, anh không sao chợp mắt được. Tiếng còi báo động từ sân bay cứ thất thanh xé thủng màn đêm. Những chiếc máy bay cứ tiếp tục rời khỏi phi đạo, có lẽ chuyển quân ra phía Bắc. Và ở trên bầu trời đêm, một chiếc C47 cứ tiếp tục bay vòng. Anh trằn trọc trong khi em thì rúc trong ngực anh, thỉnh thoảng ôm chặt anh như bấu víu cái gì sắp vụt mất.

Cám ơn em, người vợ hiền, cho một tên miền Nam yêu Ðà Nẵng. Em mang về anh một nỗi bình an, một nơi mà anh gọi là mái nhà. Nhưng em không hiểu có những điều mà chỉ những người trong cuộc mới hiểu. Như lúc này. Anh cứ nghĩ đến một trung đội thiếu vắng con chim đầu đàn. Anh cứ nghĩ đến những người từng một thời sống chết. Thằng Nay Lat cõng anh chạy dưới lằn đạn. Thằng Luôn, ô đô ăn cơm trắng với miếng đường thẻ và đứa con trai kháu khỉnh của hắn khi vợ hắn bồng con lên đồn thăm chồng. Hay là cái nghiệp phải trả.

Cái nghiệp phải trả. Thùy yêu dấu, anh phải trả cho xong cái nghiệp. Anh viết vội vài giòng, rồi mặc quần áo, mang giày, nhẹ nhàng rời khỏi phòng. Trời đã sắp sáng. Anh tìm một quán cà phê. Ðèn đường làm long lanh màu cà phê đặc quánh. Ðêm còn dư hương qua những sợi tóc biếng chải và chiếc áo màu hồng còn nhăn nếp của cô hàng.

Ðêm còn đọng cái lạnh giao mùa và hơi ấm của tách sành như hơi ấm của người Ðà Nẵng. Ðây là chợ Cồn. Đây là đường rầy xe lửa. Ngã tư có quán sách, tiệm thuốc tây, những tiệm chạp phô. Nơi mà ngày đầu tiên quen em, anh vẫn ngồi trong quán nhìn về ngôi nhà lầu bên kia con đường xe lửa. Nơi em đi học, nón che nghiêng nên chẳng thấy anh buồn. Nơi em trở về bên cha bên mẹ, bên đàn em nên chẳng hề thấy anh đốt hoài điếu thuốc. Rồi chúng ta yêu nhau. Rồi chúng ta hò hẹn. Rồi anh được mấy ngày phép mang giày trận về làm đám cưới. Không cha mẹ, không họ hàng. Chỉ có dăm thằng bạn giang hồ tứ chiếng. Nhưng mà vui. Ba em chịu chơi. Bởi ông cũng là lính. Ông hiểu cái thua thiệt của một người lính. Ông chấp nhận đám cưới nhà binh để anh có thêm bạn bè đỡ tủi. Còn em, cũng vậy. Như bài thơ Màu Tím Hoa Sim, em cũng không hề đòi may áo cưới. Xe jeep, xe Dodge, chở đầy bạn bè đồng đội, bóp còi inh ỏi khắp các đường phố... Em cười xinh bên anh. Rồi đêm tân hôn chúng ta về phòng ngủ, sau khi anh bị lũ bạn chuốc rượu say mèm... Mái nhà của chúng ta là đấy. Ðộng phòng hoa chúc dạ là đấy.

... Xe sắp khởi hành. Và những lúc đó thì em hiện ra. Em chạy ùa đến, ôm anh: Sao anh đi không nói với em một tiếng. Anh ác lắm. Rồi em khóc ngất.
Phải anh ác lắm. Em làm sao hiểu được những điều thầm kín trong con tim anh bây giờ. Ðôi khi anh cũng không cắt nghĩa nổi.

2.

Ngày đầu tiên, em ra ngoài Bắc, anh thấy em gầy guộc, mắt trũng và những đường nhăn trên trán. Chiếc áo bà ba ngày nào bó thân em, nay như rộng thùng thình. Ðôi dép ngày nào thấy bàn chân yếu mềm nay thấy những gout chân dày dạn, khô nẽ. Em nói về quyết định của gia đình về một chuyến đi xa. Anh vui mừng khôn tả, khuyến khích:
Em phải đi, để cứu em, và cứu cả anh.
Nhưng còn anh, không ai săn sóc anh?
Anh là tù nhân rồi, cần gì săn sóc. Có cảnh vệ quản giáo và cả trung đoàn bảo vệ cho anh rồi.
Nhưng em không thể xa anh. Dù sao ở đây em vẫn còn có cơ hội. Ở xứ người thì không bao giờ...

Em nghe anh nói. Thứ nhất phải nghĩ đến em. Anh không muốn em vì anh mà phải khổ. Qua bên đó em còn có thể làm nhiều việc. Anh nghe người ở Mỹ có thể bảo lãnh thân nhân... Em phải can đảm. Biết đâu một ngày anh và em còn gặp lại...

Anh biết anh giả vờ. Ðường về quê xa lắc lê thê trót nghe theo lời u mê. Xa lắc để chẳng còn ai nghĩ đến một ngày. Bởi bọn anh đã bị lừa đảo quá nhiều. Bởi tương lai chỉ là hình phạt trả thù của phường chó sói. Không ai hiểu mình còn tồn tại được bao lâu nữa.

Không ngờ ngày hôm ấy, cái ngày Yên Bái đổ xuống những trận mưa mù mịt trên những ngọn đồi nâu xạm, sườn đồi in mờ nhạt giữa một nền trời trắng xám, và đôi mắt của người đàn bà cũng đọng cả trời mưa, là cái ngày gặp gỡ cuối cùng...

Và em đã nghe lời anh. Em nghe lời anh nên em biệt tăm, biệt tích, để không còn nhang đen hương lửa, để tội tình làm con ma giữa biển mịt mùng. Chị Hà ơi, chị cố nhớ dùm em, nơi nào, chốn nào, đêm ấy có nhiều sao không, trăng có tròn không, ngày êm hay ngày động. Thùy có nói gì không. Sao chị lại lắc đầu, không, anh Minh ơi, tôi cũng là một cái xác thoi thót...

... Khi nghe vừa ra hải phận quốc tế thì bốn chiếc tàu đánh cá Thái Lan xáp lại. Bọn cướp dùng búa, dao, cầm cả lựu đạn nhảy qua ghe ầm ầm. Chúng la gào tru tréo như ma quỷ. Chúng phang búa vào đầu những người thanh niên và làm tội tình những người phụ nữ. Sau đó chúng phá máy. Từ đó chiếc ghe cứ trôi lênh đênh trên biển. Bắt đầu ngày thứ 20, mỗi ngày, chỉ một chiếc nắp coca nước cho toàn ghe và mỗi người chỉ có quyền nhấp một giọt. Chỉ một giọt. Người ta uống cả nước tiểu. Có ngày biển động, ghe bị hất tung lên cao rồi rơi xuống thấp như thể rơi xuống vực... Mỗi ngày mỗi xác chết bị quăng xuống biển.

Chúng tôi không ai biết giờ phút nào đến phiên mình. Tôi không thể đứng dậy, vì quá đói, quá lạnh. Tội nghiệp mấy đứa bé. Chúng quá vô tội, tại sao lại bắt chúng vào con đường chết... Bao nhiêu con tàu đi qua, có tàu pha đèn pha sáng rực, nhưng sau đó lại bỏ đi. Có tàu Ðài Loan dừng lại cho ít thực phẩm, nước ngọt, rồi lại lên đường. Ngày thứ 45 tổng số người chết lên quá con số 30 trong tổng số 60 người. Cũng vào ngày ấy, thằng con trai thứ hai cùa tôi chết. Người chủ tàu nói chị hãy đưa em cho tôi may ra còn làm hô hấp nhân tạo cho em. Dù tôi không tin, bởi vì tôi sợ xác con tôi sẽ bị xẻ thịt. Tôi sợ họ... Nhưng tôi phải trao. Không còn hy vọng gì để cứu thằng bé, ngày thứ ba mươi bảy, tôi đã mất đứa đầu. Bây giờ lại đến thằng thứ hai. Người chủ tàu không làm hô hấp như ông đã nói. Ông dùng xác con tôi để kêu gọi tình thương của những chiếc tàu. Ông đứng trên mui, xác con tôi nằm trên hai cánh tay run rẩy của ông. Một chiếc tàu buôn động lòng trắc ẩn. Họ cho dầu, thực phẩm, và chỉ đường dẫn đến giàn khoan. Nhưng phải mất đến 4 ngày máy mới nổ trở lại. Nước biển đã biến thành muối dày đặc trong xi lanh...
- Còn Thùy thì sao?
- Tôi không thể nhớ chị ấy chết ngày nào nữa. Tôi chỉ nhớ hồi bọn hải tặc nhảy lên ghe chị quỳ chị lạy tên hải tặc. Sau đó chúng tôi không còn đủ sức nghĩ đến người khác. Anh hẳn biết, không thể tưởng tượng là chiếc ghe đã tồn tại sau 55 ngày vô định trên biển cả.

***

Bài thơ Manh Áo Cũ của nhà thơ Thường Quán đã làm anh nhớ thương em quay quắt. Chiếc áo của em bây giờ ở đâu. Chiếc áo màu tím hoa cà trong những ngày con gái dậy thì, hay chiếc áo dài màu hoa thiên lý cho ngày đám cưới, hay chiếc áo bà ba cũ năm nào em ra Bắc thăm anh? Tại sao là manh áo, tại sao là đường xé toạc hung bạo cùng tiếng rú thất thanh. Áo đã ôm lấy người. Manh áo cuối cùng có đủ che da thịt vợ anh lõa lồ, cố giữ lấy sự hy sinh chịu đựng vô bờ của một người vợ người mẹ Việt Nam. Hay thịt đã làm mồi cho bọn quỷ, máu đã hồng hộc nốc, hay mảnh hình hài đã bị lũ cá thi nhau rỉa đến tận cùng? Nhà thơ Thường Quán, tôi xin phép anh được chép ra đây Manh Áo Cũ như một nén hương về người thiếu phụ Ðà Nẵng.

Con thuyền nằm vùi trong cát.
Biển im. Sóng lật ngửa... Ðỏ làm sao.
Người trở về thuyền tìm manh áo cũ
Bỗng thấy giữa lòng ghe cả biển
Máu trào
Những tay quơ tìm mắt trợn tròng rách bật
Gió kinh thiên há hốc rách bung
Em mười mấy lưỡi liềm xẻ mặt
Chị hai mươi đổ gục đời sông
Ai như mẹ mà sao nhàu nát sóng
Ai như cha mà đổ ruột phơi lòng
Ai đưa tim em lên miệng cười sằng sặc
Ai móc gan anh máu núi khơi dòng
Ai chạy lùi về kêu thôn xóm
Khi thôn xóm chìm vào biển mất tăm
Ai vẫn đứng ở đầu mút sóng
Xõa tóc cười mà hát ca dao
Ðôi mắt khóc nghìn đêm thăm thẳm
Hay là nàng sao tóc rưới máu đào?
Người nhảy bổ vào giữa thuyền
Chỉ còn manh áo nát
Bèn lấy gói đầu mình
Chạy về hướng biển Ðông...

(Trích từ Ngoài Giấc Ngủ,
thơ Thường Quán, nxb Văn Nghệ, 1990)
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeWed Apr 25, 2018 8:56 am

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) 4301531391_f8d254b1a3_z

May Mà Có Em
Tường Lam


Quỳnh lấy vé máy bay về Việt Nam một cách vội vàng, mấy ngày nay nàng ăn, nói, đi, đứng như người mộng du.

Tình cờ sang Cali dự đám cưới người cháu, Quỳnh gặp lại Trang, người bạn học thân nhất, ngồi cạnh nhau trong giảng đường Văn Khoa. Trang cho Quỳnh biết mới sang Mỹ được hai tháng. Trước khi đi Trang về thăm quê nội ở Trà Vinh và đã gặp Tân! Thương binh cụt một chân, ngồi bán vé số ngoài vỉa hè độ nhật. Nghe tin Tân còn sống, tim Quỳnh co thắt, toát mồ hôi và xây xẩm cả mặt mày. Quỳnh thì thầm như người mất hồn. “Trời ơi! Tân ơi! Anh còn sống sao? Mấy chục năm rồi, Tân ơi! Anh có biết rằng em tiếc thương anh ngần nào không? Cám ơn trời Phật đã cho Tân còn sống!!!” Dù hoàn cảnh thế nào Quỳnh cũng phải trở về gặp lại Tân! Gặp lại sự sống của chính nàng.
Theo gia đình Trang dự lễ mãn khóa 22 sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Ngồi trên khán đài trong Vũ Đình Trường, sau bài diễn văn của Thiếu Tướng Chỉ Huy Trưởng, tiếng loa uy nghi dõng dạc:
- Quỳ xuống các sinh viên sĩ quan.
Sinh viên sĩ quan thủ khoa nhận kiếm, cung bắn đi bốn hướng tượng trưng chí trai tang bồng hồ thỉ, sau khi hàng ngàn sinh viên khác nhịp nhàng quỳ xuống thẳng hàng để được gắn cấp bậc sĩ quan.
- Đứng lên các tân sĩ quan.
Chỉ cần hai động tác quỳ xuống, đứng lên với cấp bậc trên cầu vai biết bao tháng ngày gian lao! Những bữa cơm chan mồ hôi, nước mưa trong rừng cao su... Ngoài bãi tập và biết bao gian nguy ngoài chiến trường chờ đón họ! Sau mười ngày phép cuối khóa của những người trai trong thời ly loạn! Phải “xếp bút nghiên theo việc đao cung”.
Trên hai mươi năm qua rồi, đêm mãn khóa bập bùng kỷ niệm vẫn còn mới nguyên trong tâm hồn Quỳnh, đêm định mệnh để Quỳnh quen Tân do anh trai Trang; người bạn cùng khóa với Tân giới thiệu.

Ngồi trong xe cạnh nhau, hai người chỉ trao đổi những lời thăm hỏi xã giao chừng mực. Ở Tân, Quỳnh thấy người con trai đã được tôi luyện qua gian lao, nắng mưa quân trường, tóc hớt cao, nước da bánh mật sạm nắng, tự dưng với tuổi mười bảy của đứa con gái mới lớn, Quỳnh thấy thương và tội nghiệp Tân quá đi thôi. Tân từ biệt mọi người – sau khi xin địa chỉ Quỳnh - ra bến xe miền Tây về quê thăm mẹ! Tân chỉ có hai mẹ con.
Trước ngày ra đơn vị, Tân chọn binh chủng mũ nâu Biệt Động Quân như lời tâm sự: “Không đi lính thì thôi, đi phải chọn binh chủng xứng đáng và phải đánh đấm ra trò”. Tân có đến thăm Quỳnh đi phố, ăn trưa và trong bóng tối rạp Ciné Lê Lợi, cầm tay Quỳnh, Tân nói lời từ giã:
- Mai anh đi! Quỳnh ở lại vui! Ráng học giỏi.
Tân ra đơn vị, Quỳnh thấy hụt hẫng trong lòng và tình cờ tình tiết thương tâm trong cuốn phim “Le temps d’aimer c’est le temps de mourir” mà Quỳnh và Tân đã xem! Suốt thời gian dài sau này Quỳnh cứ tự hỏi: “Tại sao có một thời để yêu lại phải có một thời để chết???”.
Chiến trận đã cuốn Tân đi biền biệt! Những địa danh mịt mùng xa xôi: Bình Định, Bồng Sơn, Tam Quan, Sa Huỳnh, Phá Tam Giang... tiếp nối trên đầu mỗi cánh thư đầy ắp yêu thương của Tân gởi về; một thứ hạnh phúc nhỏ nhoi mà nhiều lần Quỳnh đã mang vào giấc ngủ.
Tình yêu qua những cánh thư đã làm Quỳnh trưởng thành, nàng đọc báo, nghe đài phát thanh, tin tức những trận đánh lớn đã khiến nàng bỏ ăn! Đóng cửa nằm yên trong phòng một mình.
Quỳnh thường đi chùa! Một lần nghe có ông thầy ở Thủ Đức rất tài; làm phép trong tờ giấy bạc xếp thành hình tam giác, tránh được lằn tên mũi đạn. Quỳnh vội vàng thỉnh phép bọc bằng vải nhung tím, ép nylon gởi cho Tân và nàng bắt buộc Tân phải đeo bên mình, Tân phải sống để yêu thương nàng.
Những gói mè xửng, chiếc nón bài thơ! Nhận được quà của Tân gởi về Quỳnh cảm động mừng rơi nước mắt.

Đơn vị Tân tham dự hành quân vượt biên sang Lào! Lam Sơn 719. Tiểu đoàn Tân vừa được đổ xuống một đỉnh đồi, xe tăng địch đã nằm sẵn từ chân đồi dàn hàng ngang tiến lên! Cái giá của một trực thăng của Bộ Tư Lệnh Hành Quân đã bị bắn rớt! Phóng đồ hành quân đã rơi vào tay địch trước đó hai ngày. Sau hai giờ chiến đấu bằng lựu đạn, đơn vị Tân đã bị tràn ngập. Ra trường chưa được hai năm Tân đã được thăng cấp tại mặt trận hai lần và giữ chức vụ Đại Đội Trưởng.
Thân nhân gia đình đến hậu cứ đơn vị hỏi thăm tin tức về chồng con họ một cách nhiệt tình; tự nhiên. Thấy Quỳnh đứng rụt rè bỡ ngỡ, người sĩ quan hậu cứ đến hỏi:
- Xin lỗi cô tìm ai?
Quỳnh lí nhí:
- Dạ! Em muốn biết tin tức Trung
Úy Tân Đại Đội Trưởng.
- Cô là gì của Trung Úy Tân?
- Dạ! Vợ.
Má Quỳnh ửng đỏ. Người sĩ quan hậu cứ ranh mãnh trả lời nàng:
- Đơn vị đang trong vùng hành quân! Có tin tức gì tôi sẽ thông báo cho bà sau.
Chữ bà đã làm Quỳnh ngượng ngùng làm sao ấy. Nghĩ cho cùng rồi cũng đúng thôi. Quỳnh đã trao đời con gái cho Tân sau lần thăm ở Pleiku, khi Tân đang nằm điều trị ở Quân Y Viện để gắp một mảnh lựu đạn xuyên vào vai. Quỳnh chưa biết đam mê xác thịt, nàng muốn có con với Tân. Nếu lỡ Tân không về nàng còn giữ được giọt máu cho Tân! Cho mẹ Tân có người nối dõi tông đường! Quỳnh không có thời gian chọn lựa trong vòng tay Tân! Tình yêu đếm bằng phút giây với nỗi chết không rời! Tội cho Quỳnh biết bao! Khi lỡ có người yêu ngoài mặt trận.
Quỳnh tỉnh dậy trong nhà thương, khi tuần sau lên hậu cứ và được người sĩ quan trực trả lời:
- Xin thành thật chia buồn cùng bà! Trung Úy Tân được báo cáo đã mất tích.

Ba năm trời Quỳnh đi mọi nơi, hỏi không biết bao người đội mũ nâu; không nhận ra được một tin tức nào của Tân.
Những ngày cuối tháng tư năm 1975! Cộng quân đánh vào Xuân Lộc pháo kích dữ dội vào Biên Hoà; gia đình gồm cha, mẹ Quỳnh và đứa em trai di tản, sau đó định cư tại thành phố Montreal Canada.
Chuyện tình nàng và Tân phút chốc thoáng như mơ mà đã gần ba mươi năm! Một nửa đời người rồi còn gì!!!
Phi cơ ở độ cao! Quỳnh kéo chăn đắp lên ngực và thì thầm với chính mình:
- Tân ơi! Em phải về gặp anh! Dù thế nào em cũng không thể dối lòng mình được, em yêu anh suốt cuộc đời này.
Người tiếp viên thông báo, phi cơ đã vào địa phận Việt Nam.
Trước khi đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, phi cơ đảo đi một vòng lớn, qua khung cửa kính Quỳnh vẫn thấy thửa ruộng, mái tranh lụp sụp, sự nghèo đói làm vòng đai rộng lớn bao quanh thành phố Sài Gòn hoa lệ.
Qua báo chí, Quỳnh biết rằng hơn bảy mươi lăm phần trăm dân tộc mình là nông dân, suốt đời úp mặt xuống bùn cũng không kiếm đủ miếng ăn cho gia đình! Cộng thêm sự áp bức, bất công! Giàu sang chỉ dành riêng cho thành phần thiểu số cai trị và tất cả thảm trạng đó điều xuất phát ở cấp lãnh đạo có vầng trán quá thấp! Với vầng trán đó, họ đưa một dân tộc cần cù siêng năng thông minh trở nên nghèo đói nhất thế giới. Sài Gòn bây giờ là ô nhiễm, xe cộ đủ loại chen chúc luồn lách vô trật tự! Sự công xúc tu sỉ xảy ra ở mọi gốc cây, nhiều lần Quỳnh phải quay mặt đi vì hổ thẹn.

Ra xa cảng miền Tây, đón xe tốc hành, Quỳnh về Trà Vinh, thành phố Quỳnh đến lần đầu. Quỳnh xuống xe với hai chiếc va li nặng trĩu. Ngơ ngác cố nhớ lời Trang tả; nàng đi lần về phía đầu chợ; thành phố đã lên đèn.
Hàng chục anh xe lôi, xúm quanh hỏi Quỳnh về đâu? Nàng hỏi thăm Tân, cụt chân bán vé số ở đầu phố chợ. Có người nhanh nhẩu trả lời:
- Trung úy Tân! Biệt động Quân bán vé số! Cô lên xe tôi chở đến nhà ổng cho.
- Tân! Biệt Động Quân! Những tiếng thân thương Quỳnh mừng khôn tả.
Quỳnh đền ơn người chạy xe lôi hậu hĩnh! Trước khi mở cổng bước vào căn nhà ngói ba gian loang lổ gạch vôi nói lên đời sống khó khăn của chủ nhân nó. Quỳnh đưa tay đè lên trái tim, nén xúc động, Quỳnh gõ cửa.
Người đàn ông chống nạng bước ra! Nhìn sững nàng! Miệng há hốc kinh ngạc! Đất như sụp dưới chân Quỳnh.
Tân không còn tin ở mắt mình:
- Có phải Quỳnh của anh đây không?
Nàng phóng tới ôm chầm lấy Tân:
- Vâng, em đây! Quỳnh của anh đây.
Ngoài ngõ, hàng xóm và trẻ em thật đông, tò mò nhìn vào. Người đàn bà tóc bạc như cước, từ nhà sau bước ra lắp bắp hỏi Tân:
- Cô này là ai vậy con?
Tân trả lời mẹ trong xúc động:
- Thưa má! Quỳnh bạn con.
Quỳnh chắp tay lễ phép chào bà. Mẹ Tân bước tới ôm tay Quỳnh vừa mếu máo khóc, vừa nói:
- Thằng Tân gặp lại con! Bây giờ có chết bác cũng vui lòng.
Mẹ Tân vén tay áo lau nước mắt. Tân chống nạng phụ Quỳnh mang mấy va li vào nhà.

Quỳnh đi tắm, thay đồ mát và bữa cơm đạm bạc được dọn ra gồm: một tô mắm chưng, hai trái cà nâu nướng chan nước mắm tỏi ớt, một dĩa bông so đũa luộc. Ba người cầm đũa, Quỳnh ăn thật ngon miệng! Mấy chục năm ở Canada làm gì có những món này. Tân và mẹ nhìn Quỳnh ăn một cách ái ngại.
Gắp cho Quỳnh bông so đũa luộc, mẹ Tân hỏi Quỳnh:
- Cháu ở đâu về? Lập gia đình được mấy đứa con rồi?
Nàng liếc sang Tân, hình như anh hồi hộp chờ câu trả lời của Quỳnh.
- Thưa Bác, con ở Canada về! Con chưa lập gia đình. Dạ thưa bác, nãy giờ con quên hỏi thăm về vợ con anh Tân.
Tân ngượng ngùng cúi đầu và mẹ Tân cười! Niềm vui trong ánh mắt:
- Bác đã tám mươi tuổi rồi! Thèm cháu nội lắm. Thằng Tân nhiều lần tâm sự với bác, thân nó tật nguyền và suốt đời nói chỉ thương mỗi mình con thôi! Có mấy mối được lắm, nết na có học, nhưng nó đều từ chối. Mỗi chiều bán vé số về tắm rửa cơm nước xong, nó nằm trên võng mắt nhìn lên tấm ảnh nó và con chụp chung chưng trên bàn viết đó! Tay đàn, miệng hát tới khuya. Lần nào bác cũng nghe nó hát bản... Em lây cu... lây cưạ... gì đó. Nó hát bản đó hoài sao không chán. Nó nói bản nhạc đó là cuộc đời nó.
- Nghe xong, Quỳnh buông đũa, ngưng ăn! Nắm chặt tay Tân và Quỳnh quay mặt đi để dấu dòng nước mắt tuôn trào. Hồi lâu, nén xúc động, nghẹn ngào Quỳnh hỏi:
- Anh thương em nhiều đến thế sao Tân?
Tân xoa xoa vai Quỳnh giọng như muốn khóc:
- Quỳnh! Em có biết tình yêu và hình bóng em đã nuôi sống cuộc đời tật nguyền của anh.

Hai người dìu nhau ra ngồi trên băng đá trước hiên nhà. Gió đi lào xào trên tàng cây vú sữa xum xuê trước ngõ, với giọng xúc động, Tân kể lại diễn biến cuộc hành quân sang Lào! Thiết giáp Cộng quân tràn ngập đơn vị, Tân bị đạn đại liên tiện đi mất chân trái. Tân bị bắt làm tù binh, bị giam cầm tại các tỉnh thượng du Bắc Việt, mười ba năm bị giam cầm, cách biệt với thế giới bên ngoài! Mười ba năm ở địa ngục trần gian.
Năm 1985 họ thả anh, về đây sống với đời buồn tủi tật nguyền, hằng ngày anh đi bán vé số! Hai mẹ con sống cuộc đời cháo rau túng thiếu trong căn nhà kỉ niệm của ba anh, người sĩ quan dù đã chết trong trận Điện Biên Phủ.
Quỳnh cũng kể cho Tân nghe! Từ năm 1972 sau nhiều lần hỏi thăm, kiếm tìm, đơn vị cho biết Tân đã mất tích.
Tháng 4 năm 1975 gia đình nàng di tản và định cư tại Canada; cha mẹ nàng đã qua đời! Nàng làm việc ở một bệnh viện, em trai nàng đỗ bác sĩ đã lập gia đình được hai con.
Riêng Quỳnh vẫn ở vậy. Em nghĩ rằng anh đã chết và em sẽ sống với hình bóng anh suốt cuộc đời này. Bây giờ đang ngồi bên anh em cứ nghĩ mình nằm mơ.
Tân cúi xuống, vén tóc Quỳnh, hai người hôn nhau say đắm! Một nụ hôn của ba mươi năm và dài bằng nửa vòng trái đất.
Buông nhau ra, Quỳnh nũng nịu:
- Em muốn anh đàn và hát cho em nghe.
Tân gật đầu và Quỳnh vào nhà mang đàn ra. Dáng hao gầy, gương mặt nhiều nét kỷ hà học, dạo phiếm và Tân cất tiếng hát! Lời bài hát của một thi sĩ té lầu chết trong một cơn say và Phạm Duy phổ nhạc:
“Phố núi cao phố núi đầy sương
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn
Anh khách lạ đi lên đi xuống
May mà có em, đời còn dễ thương...”

Tân có ngón đàn thật điêu luyện! Giọng hát khàn đục chuyên chở nỗi niềm chia sẻ, xuyên suốt tim Quỳnh; trôi về thành phố núi của những cô gái má đỏ môi hồng, mái tóc ướt mềm! Thành phố đi năm phút đã về chốn cũ và trong khách sạn Bồng Lai, trên chiếc giường ra trắng muốt, nàng đã trao thân cho Tân trong một đêm mưa kéo dài.
Trời thật khuya! Trăng thượng tuần sáng vằng vặc. Quỳnh theo Tân vào phòng! Chiếc giường ngủ trải chiếu bông! Quỳnh ngất ngây trong vòng tay Tân! Mùi đàn ông, mùi nếp non rạ mới đã làm Quỳnh phiêu diêu trong hoan lạc tột cùng. Rõ ràng “đêm nay mới thật là đêm - ai đem trăng sáng trải lên vườn chè”.

Suốt ba tuần lễ ở nhà Tân! Quỳnh và mẹ Tân đi sắm đồ trang trí lại nhà cửa theo sự yêu cầu nhiều lần của Quỳnh. Quỳnh thuê một chiếc xe du lịch đưa mẹ, Tân và Quỳnh ngắm cảnh Ao Bà Ôm, Tân chỉ cho Quỳnh nơi chú Đạt hôn cháu Diễm trong phim Yêu của Chu Tử do tài tử Anh Ngọc và Thanh Lan đóng. Những hàng cổ thụ, rễ dâng cao trên mặt đất! Mặt hồ gió mát! Phong cảnh tuyệt vời. Ba người cũng đi ngắm biển Long Toàn với những đồi cát chập chùng và những bữa ăn cua luộc ngon nhớ đời.
Bên Quỳnh, Tân như trẻ lại! ăn nói hào sảng như ngày nào, khoác áo hoa rừng và đội chiếc mũ nâu.

Khỏi phải nói! Mẹ Tân thương quý Quỳnh qua cách đối x
phải đạo của nàng! Nhiều lần bà cảm ơn Quỳnh đã mang về đây niềm vui, hạnh phúc cho Tân! Đứa con trai duy nhất và cũng là tài sản của đời bà.
Riêng Quỳnh, sau nhiều đêm ngỏ lời! Trước khi chấp nhận, Tân hỏi Quỳnh suy nghĩ kỹ chưa khi chọn một người tật nguyền làm chồng.
Quỳnh chọn căn nhà cũ kỹ! Có giếng nước mát lạnh, tàng cây vú sữa cho bóng mát suốt ngày, làm nơi cư trú suốt đời bên tình yêu nồng nàn của Tân.
Quỳnh cùng Tân dạo phố! Không một mặc cảm ngại ngùng nào “bên người yêu tật nguyền chai đá”. Trái lại, Quỳnh còn thầm hãnh diện có người chồng đã hy sinh một phần thân thể cho quê hương đất nước.
Trước khi Quỳnh trở lại Canada, gia đình Tân tổ chức một bữa tiệc, mời một ít bà con và một số hàng xóm cạnh nhà để tuyên bố lễ cưới giữa Tân và Quỳnh. Mọi người đều cảm động trước mối tình nồng thắm, cách chia gần ba mươi năm của hai người. Trong tiệc cưới, mẹ Tân đã không cầm được nước mắt khi nhìn thấy hạnh phúc của con trai mình.

Ba tháng sau, trên chuyến bay Cathay Pacific Airline, Quỳnh đã thu xếp mọi việc ổn thỏa để trở về sống suốt đời ở Việt Nam bên cạnh Tân - chồng nàng.
Khách cùng chuyến bay ngưỡng mộ nhìn Quỳnh, tay xách túi nhỏ và vai mang một hộp da như đựng nhạc khí kèn đồng.
Trong quầy khám hành lý! Nhân viên hải quan hách dịch hỏi nàng:
- Sao không thấy bà kê khai hộp da bà mang trên vai. Chúng tôi được lệnh khám xét.
Quỳnh mở dây kéo! Mọi người đều ồ!!! lên một tiếng, ngạc nhiên bên trong lót lớp nỉ đỏ! Không có thứ nhạc cụ nào cả mà là một cái chân giả tuyệt đẹp.
- Bà mang chân giả này về cho ai? Nguyên do nào người này bị tật? Viên hải quan gắt gỏng.
Quỳnh trả lời một cách bình tĩnh:
- Nếu ở phi trường nước khác, tôi sẽ từ chối trả lời câu hỏi này. Nhưng ở đây tôi xin trả lời ông: Tôi mang chân giả này về cho chồng tôi! Anh bị thương trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở chiến trường Hạ Lào.
- Sau một lúc bàn thảo. Hải quan đồng ý cho Quỳnh đi. Đẩy xe hành lý bước nhanh một đỗi, Quỳnh còn nghe rõ câu nói hằn học lớn tiếng sau lưng:
- Mẹ nó! Mấy thằng thương binh ngụy bây giờ có giá dữ ha!!!
Quỳnh mỉm cười bước nhanh khi nhìn thấy Tân và mẹ vẫy tay chào nàng ngoài khung của kính bên kia đường.

(Trích trong tập truyện Tám Hổ của Nhà Văn Tường Lam)
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeWed Jun 06, 2018 12:16 am

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Mishap-and-rescue-in-the-South-China-Sea1_7462004_tcm11-18073-750x562

Duyên Phận và Mệnh Số
Lê Nguyễn Hằng


Từ San Jose, tôi đón xe đò Hoàng xuôi Nam. Từ hôm cùng với mấy đứa con của Hà bí mật bàn tính chuyện tổ chức buổi lễ sinh nhật thứ 60 cho Hà ở San Diego, tôi rất nôn nóng chuẩn bị cho chuyến đi này. Đây không phải một họp mặt sinh nhật bình thường như những lần trước. Đến đó tôi sẽ gặp lũ đông đủ lũ bạn “quỷ sứ” của trường tiểu học và trung học ngày xưa.

*
Hà là một người chị họ con bà bác, chỉ hơn tôi một tuổi và học cùng lớp nên hai chị em thân nhau hơn bạn. Hai đứa từ giã Hà Nội cùng gia đình di cư vào Nam và cùng định cư tại Tuy Hòa, cùng ở gần nhà nhau trong khu “Bắc Kỳ di cư” từ ngày “tóc còn để chỏm.”

Dù là vai chị nhưng vì xuýt xoát tuổi nhau, lại học cùng lớp nên hai đứa tôi vẫn mày tao. Hà và tôi lúc nào cũng ngồi bàn đầu và sát cạnh nhau vì chúng tôi vừa nhỏ tuổi lại vừa nhỏ con, cùng nổi tiếng là “cây gạo”. Chúng tôi thân nhau đến độ cắt tóc và mặc quần áo giống nhau.

Ngoài giờ học ở trường, hai đứa thường đến nhà nhau học bài chung. Đi thi Tú Tài I ở Quy Nhơn và Tú Tài II ở Nha Trang đều ngồi cạnh nhau vì tên cùng vần.
Đậu Tú Tài Toàn xong, như chim rời tổ, mỗi đứa một nơi, Hoành vào Saigon học tiếp, Hà đi Nha Trang, riêng tôi ở lại Tuy Hòa đi làm giúp đỡ gia đình một thời gian.
Cuộc sống nổi trôi theo dòng đời, tôi thuyên chuyền vào Saigon, mãi đến năm 1974, mới tình cờ gặp lại Hà ở Chợ Bến Thành thì cả hai đã tay bế tay bồng, mỗi đứa đều có hai con gái và một con trai. Gia đình Hà rất hạnh phúc, hai vợ chồng làm cùng nghề. Phong, chồng Hà cưng chiều vợ hết mực.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 như cơn hồng thủy đổ ập lên đầu mọi người, chúng tôi mất liên lạc một lần nữa. Gia đình tôi may mắn được di tản và định cư tại Mỹ, còn Hà ở lại sống với gian truân thử thách.

Phong bị đi tù cải tạo như hàng vạn quân dân cán chính khác. Hà lo sợ hoảng hốt vì chồng đi biệt tăm không trở về sau 10 ngày như lời hứa hẹn của chính quyền, cũng không có tin tức còn sống hay chết dù chỉ một lời nhắn. Cũng như những gia đình của miền Nam phải đối mặt với cuộc sống mới khó khăn vô định, Hà bắt đầu bán tất cả những gì có thể, từ cái TV, tủ lạnh, bộ bàn thờ, giường tủ, bát đĩa, xoong nồi đến những bộ quần áo, giầy dép của hai vợ chồng đều từ từ bỏ Hà ra đi để đổi lấy gạo và thức ăn nuôi ba đứa con đang sức lớn mà không được ăn đủ no. Hà phải thoát ra khỏi cái vỏ ốc của một phụ nữ yếu đuối mong manh, bươn chải theo những người bạn đi buôn để có tiền nuôi con và chờ tin tức của chồn
Rồi Hà được tin về Phong từ những trại tù ở những tỉnh miền Bắc xa xôi chưa bao giờ Hà nghe tên. Những chuyến thăm nuôi vất vả, ngủ đêm chờ đợi ở bến xe, rồi băng rừng lội suối, đi bộ trên những đoạn đường mấp mô gập ghềnh khó khăn để rồi nhìn thấy một hình hài quắt queo, nhăn nhúm của chồng chỉ làm Hà thêm quyết tâm cố gắng làm ra tiền dù phải vất vả trăm bề để nuôi chồng sống sót mong một ngày trở về.
Gần sáu năm sau, Phong ra tù, tinh thần và thể xác đều kiệt quệ. Hà đau lòng nhìn thấy chổng tàn tạ rũ rượi như tàu lá héo trong khi các con ở trường thì bị trù dập vì là “con của ngụy”, học thì bị nhồi sọ những giáo điều cũ kỹ, không tưởng, bịa đặt và láo khoét. Để phụ với mẹ kiếm sống, sau giờ học, chúng đi bán bánh kẹo nên phải học cách mánh mung, gian trá.

Thời ấy, bên cạnh phong trào đi bán chính thức đang rầm rộ, có những chuyến vượt biên không chính thức cũng diễn ra trong âm thầm, các con Hà cũng được tập nói dối trơn tru khi bị hạch hỏi tra gạn về những chuyến vượt biên hụt của gia đình.
Ngay khi Phong trở về từ nhà tù, hai vợ chồng đã quyết định phải tìm cách mang các con ra đi, dù có cùng bỏ mạng trên biển cả còn hơn sống trên quê hương mà như trong cõi chết.
Cả gia đình đã vài lần cùng đi nhưng thất bại và đồng tiền Hà dè xẻn, dành dụm đã cạn dần, cuối cùng phải quyết định để Phong đi một mình trước rồi Hà sẽ tìm đường đem các con đi sau.

Ngày Phong ra đi, Hà đeo vào cổ anh sợi dây chuyền có tượng Phật Bà Quan Âm nhỏ bằng vàng giả, giống hệt như cái nàng đang đeo, Hà bảo anh rằng gặp cơn hoạn nạn thì nhớ cầu Phật Bà che chở.
Ba tháng, rồi sáu tháng, chờ mãi không được tin tức gì của chồng, chỉ nghe người ta xì xào là chuyến ghe đó bị chìm, cả gia đình chủ tàu cũng không ai sống sót.
Hà bèn liều mạng dùng mấy lạng vàng cuối cùng dẫn các con đi với gia đình một người bạn. May mắn thay mẹ con Hà đã đến được bến bờ tự do.
Năm 1983, tôi được tin Hà đã một mình vượt biển mang theo ba đứa con, Linh 14. Nga 11 và Nhi 4 tuổi, vừa được Lộc, người em kế rất thân với Hà, bảo lãnh ra San Diego ở với vợ chồng cậu ấy, cả gia đình tôi lập tức xuống vùng Nam California để gặp Hà.

Phút tương phùng, chúng tôi ôm nhau mừng rỡ trong nước mắt. Nhìn một Hà gầy guộc, đen xạm, dấu tích của những ngày lao động cơ cực, tôi không khỏi đau xót nhớ đến một Hà xinh đẹp, duyên dáng, ăn mặc thanh nhã nhưng hợp thời trang của thời đi học và trước năm 1975.
Hà ôm lấy tôi nức nở: “Anh Phong bỏ tao đi rồi Hằng ơi, gần một năm rồi còn gì.” Tôi thương bạn quá đỗi nên an ủi: “Đã chắc gì, nhiều khi anh ấy trôi giạt vào một hoang đảo nào đấy thôi, từ từ xem.” Tôi nói nhưng thực sự không tin điều mình nói. Tôi nhìn những ngón tay xương xẩu của bạn mà lòng xót xa. Tôi đã ở lại mấy ngày với Hà và lũ nhỏ để chia sẻ, an ủi với Hà những bất hạnh, giúp ý kiến cho Hà trong những ngày đầu bỡ ngỡ nơi xứ lạ.
- Rất may là Hà và tụi nhỏ đã đến bến bờ tự do, thôi thì muộn còn hơn không! Hãy làm lại từ đầu, nước Mỹ sẽ là nơi cho chúng mặc sức học hành và phát triển tài năng. Tôi nói. Hãy nhìn về phía trước Hà ơi…

Mới vừa được tạm ổn dưới mái nhà của Lộc, “họa vô đơn chí” vẫn không buông tha người bạn khốn khổ của tôi. Ở chung trong gia đình với người em được gần sáu tháng, Lộc mới trên ba chục tuổi đang khỏe mạnh, có việc làm tốt, bỗng nhiên đột tử chỉ sau một cơn nhức đầu. Hà đã lăn lộn vật vã khóc thương Lộc, người em mà Hà thương nhất trong các anh chị em. Được tin, dù đang bận việc sở cho cuối tài khóa, tôi cũng lập tức chạy xuống thăm để nâng đỡ tinh thần bạn tôi.
Tôi vừa bước vào cửa, Hà đã rũ xuống tay tôi như cây chuối bị đốn. Tôi chỉ còn đủ sức dìu Hà vào phòng đặt nằm trên giường, kéo gối và đắp mền cho thẳng thắn rồi ghé nằm xuống bên cạnh, tay tôi lại chạm vào đôi vai gầy gò đang rung lên từng hồi theo tiếng kể lể thảm thiết đứt quãng của bạn mà lòng đau như cắt. Lúc đó tôi thực sự oán trách ông Trời. Chúa ơi, Phật ơi, các Ngài ở đâu mà để cho một người đàn bà chân yếu tay mềm như Hà gánh hết oan khiên khổ nạn của cuộc đời! Chỉ trong hai năm mà chồng mất tích, hai đứa em vượt biển bị chết và bây giờ cái phao cuối cùng để Hà bám vào cho sự sống cũng không còn nữa.” Tôi chỉ có thể nắm chặt hai bàn tay lạnh giá run rẩy của bạn như một lời hứa “bên mày luôn có tao, Hà ơi.”

Về lại San Jose, hằng ngày tôi điện thoại xuống an ủi, động viên và khích lệ tinh thần Hà để vượt qua những tai ương nghiệt ngã đeo đẳng. Phải mất mấy tháng Hà mới lấy lại bình tĩnh và lo cho cuộc sống thường nhật. Lúc đầu rất khó khăn vì Hà chưa biết lái xe và các con còn nhỏ. Nhờ tính tần tiện và vén khéo, tiền trợ cấp cũng đủ cho mẹ con sống và ăn học. Cũng may, một mình lo cho bốn mẹ con vừa ăn vừa học lại thêm bài vở của mình, Hà không có rảnh một phút để buồn tủi cho thân phận cô đơn vất vả của mình trên đất lạ. Các con cũng biết thương mẹ khổ sở nên chịu khó học hành và ngoan ngoản vâng lời mẹ dạy.

Tuy tiếng Anh hơi yếu, nhưng nhờ quyết tâm và vốn liếng chữ nghĩa có sẵn, Hà đã lấy được mảnh bằng đại học sau bốn năm miệt mài kinh sử. Hè năm 1987, Linh xong trung học và Hà đậu bằng cử nhân. Tôi xuống San Diego dự lễ ra trường của hai mẹ con. Chúng tôi thật là hạnh phúc!
Biết là Hà không có thì giờ và tâm trí để đi mua sắm, thỉnh thoảng trong những chuyến công tác xuống Santa Ana, tôi vẫn ghé thăm Hà cùng 3 đứa con và những khi đi “shopping”, thấy quần áo hay ví tay mà tôi thích, tôi mua luôn một cặp, để hai đứa tôi vẫn còn được mặc quần áo giống nhau như ngày xưa còn bé.

Khi chúng tôi có thì giờ tâm sự, tôi nói bóng gió xa gần về sự lẻ loi đơn chiếc của Hà:
- Mày cứ thui thủi một mình làm tao không yên tâm tí nào.
- Còn đám con tao đấy thôi. Hà ngắt lời.
- Con khác. Chúng nó có đời sống riêng. Mày phải cần kiếm một bờ vai của một người đàn ông cho mày tựa những lúc cuộc đời làm khó mày, hay những lúc mày ốm đau xuống tinh thần là những điều không đứa con nào có thể cho được.

Lúc nào Hà cũng gạt đi:
- Tao đã sống quá nửa đời người, qua bao nhiêu khổ đau nghiệt ngã, đâu còn thiết tha gì chuyện tình ái. Tao chỉ mong cho mấy đứa nhỏ ăn học thành tài, sống cuộc đời ngay thẳng đạo đức như ông bà nội ngoại và vợ chồng tao đã dạy, muốn vậy thì chính tao phải là một tấm gương tốt cho chúng nó noi theo, với lại…
Tôi ngắt lời:
- Với lại gì?
Hà ngập ngừng:
- Với lại… tao vẫn có một linh tính mơ hồ là anh ấy chưa chết cho nên tao vẫn… đợi. Mày có nghĩ tao hoang tưởng thì tao cũng đành vậy thôi.

Không chịu thua, thỉnh thoảng tôi vẫn gợi tên những người đàn ông yêu mến Hà và muốn cho Hà hạnh phúc. Họ thấy không cách nào gây được sự chú ý của Hà nên đã nhờ cậy đến tôi, nhưng những lời bóng gió, khuyên nhủ, dỗ dành của tôi đều như gió thoảng mây bay, Hà vẫn một mực ôm ấp và gìn giữ tình yêu cho chồng. Bây giờ Hà đã 60, nhưng tình yêu ấy không hề suy giảm.
Hà cũng tâm sự về con. Thằng Linh có tính nghệ sĩ, nó nói với tao rằng:
- Từ bé con đã mê hội họa và đàn dương cầm, con xin phép Me cho con học hai môn này.
- Mẹ biết con thích những thứ đó, nhưng hãy thực tế một chút đi con. Gia đình mình nghèo, con là anh cả trong nhà thay ba con làm cột trụ gia đình, con nên chọn một nghề có thể nuôi sống gia đình và giúp đỡ bà con nội ngoại còn đang sống nghèo khổ thiếu thốn ở Việt Nam. Sau này, con vẫn có thể học thêm những món ưa thích kia cho con vui và giải trí, nghe lời me đi con.

Thế là Linh chọn nghề bác sĩ, ngành giải phẫu cho Mẹ vui lòng với lý do rất nhân bản là để cứu giúp những người đau ốm bệnh tật ngoài việc kiếm đủ tiền nuôi gia đình.
Nga là một đứa con gái hiền lành, nền nếp dễ bảo, lúc nào cũng muốn làm vừa ý mẹ, nó học làm dược sĩ để cùng hợp tác với Linh trong vấn đề thuốc thang cho bệnh nhân. Hai anh em vẫn thường bàn cãi sôi nổi về những phát minh y khoa và dược khoa.
Nhi, bé út nhưng ngỗ nghịch và hay lý sự nhất nhà. Mặc dù rất thương mẹ, nhưng đôi khi cũng làm phật ý mẹ, Nhi luôn làm theo ý mình. Nó bảo trong nhà có hai bác sĩ là quá nhiều rồi, nó muốn làm kỹ sư. Nhờ có dòng máu thông minh của cả ba lẫn mẹ, Nhi đã trở thành một chuyên gia xuất sắc trong ngành của mình và làm chủ nhiều bằng phát minh.

Người bạn mà tôi rất thương yêu và khâm phục ấy, một người đàn bà chân yếu tay mềm như thế đó, trải qua bao nhiêu gian truân, đau thương trong cuộc đời, đã đơn thương độc mã chiến đấu với cuộc sống mới khó khăn trên đất Mỹ, bắt đầu với hai bàn tay trắng cùng ba đứa con nhỏ dại và mấy cái khăn tang dấu kín trong lòng đã vượt thoát khỏi nghịch cảnh, tự xây dựng cho mình một cơ sở làm ăn vững vàng nhờ bản tính trung thực, nhã nhặn và ba đứa con thành công trong những lãnh vực khác nhau.

Đã gần 35 năm, kể từ ngày mẹ con Hà đến được nước Mỹ. Còn số phận của Phong, người chồng mất tích trong chuyến vượt biển trước đó thì sao?
...
Sau chín ngày lênh đênh trên biển cả, con tầu hết dầu, chết máy, thả neo trông đợi thuyền tàu nào tới cứu. Rồi ngày qua ngày, không thấy gì ngoài bầu trời mênh mông và biển dữ cuồng nộ. Khi thì mưa tầm tã, lúc lại nắng chang chang rát mặt, đêm bao la đen tối đến rợn người. Những mảnh khăn trắng treo trên cột buồm không mảy may làm xúc động những con tầu đi ngang, những lời lạy lục van xin cũng không động tâm những người trên các chuyến tàu vô tình kia. Mỗi ngày là một thách đố cho sự sống còn của mấy chục mạng người trên chiếc thuyền mong manh ấy. Lương thực đã hết. Cái chết đầu tiên đã làm mọi người hoang mang, hoảng loạn. Ngày hôm sau, hôm sau nữa lại thêm những cái chết cô đơn trong đói khát, nằm ngồi ngổn ngang. Tiếng khóc than tuyệt vọng tắt dần. Phần Phong, cũng chỉ còn sức để lặng lẽ cầu nguyện.

Thuyền cứ lênh đênh trôi cho đến khi vừa nhìn thấy bờ ở xa xa thì chiếc tàu bị đội lên, một tiếng soạc khủng khiếp và chiếc tàu bị nứt rạn do đá tảng cứa vào, tiếng la hét vang dội, nhưng không ai còn sức lực nào để có thể bơi vào được tới bờ.
Phong chỉ nhớ được rằng khi chiếc tàu lật úp, đập lên người Phong, chàng thấy đau nhói ở đùi bên trái và máu ra lênh láng, chàng cố vẫy vùng trong tuyệt vọng, cuối cùng bám được một mảnh gỗ của chiếc ghe, phó mặc cho số mạng…
Sau cơn trôi dạt vô vọng không biết bao lâu, Phong bỗng thấy quanh mình lao xao tiếng người, rồi chàng dần hồi tỉnh. Một thanh niên cho Phong biết là khi tàu của họ được vớt sau khi đã chết gần hết thì thấy trên bờ xa xa hình như có một thân người, họ đến nơi thấy chàng còn thoi thóp thở nên kéo chàng nhập chung vào nhóm người cùng ghe của họ và tất cả 9 người đều được hội Hồng Thập Tự chăm sóc sức khỏe.
Phong bị con thuyền đập vào gẫy chân trái, máu ra nhiều mà không được cứu chữa ngay, nên bị nhiễm độc và bác sĩ phải cưa chân trái của chàng tới trên đầu gối.

Lúc tỉnh dậy, Phong thấy mình cụt một chân, tay trái bị bó bột, toàn thân đau đớn vì xương sườn bị dập. Thấy mình đã thành người tàn phế, chàng không muốn sau này trở thành gánh nặng cho vợ con nếu chàng may mắn tìm được họ vì vậy chàng chỉ muốn tự vẫn, hóa kiếp cái hình hài dị dạng này cho xong một đời người. Một tuần sau mọi người đã có mặt trên đảo Pulau Bidong, Malaysia.

Nhờ sự giúp đỡ của các bác sĩ, nhất là sự chăm sóc tận tình của một nữ y tá người địa phương tên Wani Avarat và lời khuyên răn của những thuyền nhân khác, Phong dần dần nguôi ngoai nhưng vẫn nhất quyết không trở thành một gánh nặng cho vợ con với một tinh thần sa sút và một thân xác tàn tật.
Cô y tá Wani, một người đàn bà trẻ góa chồng và không có con, tìm thấy trên mặt của chàng còn phảng phất nét thông minh tuấn tú của một người có học thức dù bao năm bị tù đầy vùi dập và chuyến vượt biển thập tử nhất sinh của Phong nên ngoài việc lưu tâm săn sóc thể chất, cô luôn luôn động viên tinh thần cho Phong. Chờ khi Phong tỉnh táo, cô đã đề nghị với chàng để cô bảo lãnh ra sống với cô ở Mã Lai với lời hứa là Phong có thể đi tìm và trở về với gia đình của chàng bất cứ lúc nào.
Nhờ có sự khuyến khích của cô Wani, Phong dần dần hồi phục. Sau khi đã được lắp chân giả, Phong đi học lại và cũng theo ngành y tá. Hai người sống với nhau hạnh phúc cho đến hai năm trước đây, cô Wani bị bệnh ung thư. Để đền đáp mối ân tình cho người đã cứu mạng sống của mình, Phong đã tận tụy săn sóc Wani, nhưng cuối cùng, Wani vẫn không thể vượt qua cơn bệnh ngặt nghèo. Hai năm trước đây, Wani đã giã biệt cõi đời. Từ đó Phong xin làm thiện nguyện và rồi trời đã xếp đặt cho chàng có cơ duyên làm việc cùng toán với Linh, một bác sĩ giải phẫu từ Hoa Kỳ sang làm thiện nguyện tại một làng nghèo bên Mã Lai.

Ngày cuối của công việc thiện nguyện, sau khi đã hoàn tất một ca giải phẫu cho bệnh nhân, Bác sĩ Linh mời y tá Phong ra ngoài sân bệnh viện uống cà phê cho tỉnh táo. Sau mấy ngày làm việc với ông y tá đứng tuổi của địa phương có nước da nâu sạm và đôi tay gân guốc, hai người đều đeo khẩu trang nên Linh không thấy rõ chi tiết trên khuôn mặt, ngoại trừ đôi mắt sâu thẳm u uẩn của ông ta. Nay xong công việc, khẩu trang đã gỡ bỏ, thong thả bên ly cà phê, bác sĩ và y tá biết nhau cùng là người Việt, trò truyện bằng tiếng Việt, Linh bỗng cảm thấy một cái gì gần gũi thân quen khác thường.
Khi ông Phong cúi xuống dập tàn thuốc lá, nhìn khuôn mặt khắc khổ của người bạn lớn tuổi mới quen, Linh bỗng giật mình khi thấy trên cổ ông ta một sợi dây chuyền có tượng Phật Bà. Phải rôi, cũng sợi dây chuyền ấy, tượng Phật Bà ấy, Linh từng thấy Mẹ mang trên cổ hàng ngày. Cho tới bây giờ, thỉnh thoảng mẹ vẫn mân mê cái tượng đã xám xỉn lâm râm lời cầu nguyện. Linh kiên nhẫn gợi chuyện và ngồi yên lắng nghe về chuyến hải hành đầy khủng khiếp của Phong.

Bây giờ thì Linh đã chắc chắn người y tá già ngồi trước mặt là người cha mất tích suốt tuổi niên thiếu của mình vì nơi chốn và ngày đi của ông ấy đều trùng hợp với cha mình.
Hai bố con nhận ra nhau. Linh ôm ông, chàng khóc như chưa từng khóc trong đời, chàng thương cho sự bất hạnh của Ba và nhất là cho Mẹ đã bao năm vò võ ở vậy nuôi con chờ chồng.
Trên đây là chuyện do chính Linh kể lại cho tôi nghe. Chú bé 13 tuổi khi theo mẹ đến Mỹ năm xưa nay đã là một bác sĩ giải phẫu 48 tuổi. Hàng năm, thay vì đi du lịch ngắm thắng cảnh thế giới, Bác sĩ Linh dành 2 tuần lễ nghỉ phép, đi theo đoàn thiện nguyện đến chữa bệnh ở những nơi mà người dân thiếu may mắn trong vùng Đông Nam Á. Nhờ đó mà sau 35 năm thất lạc, bố con có dịp nhận ra nhau. Giấc mơ đoàn tụ bao năm thành sự thật. Sinh nhật mẹ Hà cũng sắp tới. Đâu còn món quà sinh nhật nào quí hơn. Mọi thủ tục bảo lãnh, đưa Bố Phong từ Mã Lai vào Mỹ được lặng lẽ hoàn tất. Mọi diễn tiến, với sự đồng ý của bố, anh em Linh giữ kín, mẹ Hà hoàn toàn không hay biết.

Là người thân trong nhà, tôi được các cháu của Hà nhờ mời dùm đông đủ các bạn học cũ của chúng tôi từ thời ở Tuy Hoà về dự sinh nhật mẹ năm nay. Nhưng cũng chỉ tới giờ chót, mới được cho biết câu chuyện, mà còn nghe cháu Nga dặn đi dặn lại “không cho mẹ biết trước, nghe dì”.

*
Sinh nhật của Hà năm nay được tổ chức tại nhà cháu Linh. Tuổi sáu mươi sắp đến, nhưng Hà vẫn tươi tắn, rạng rỡ cùng các con chào đón các bạn cũ, bạn mới.

Trong phòng khách rộng lớn của ngôi nhà, bánh sinh nhật và các bàn ăn đã sẵn sàng. Đúng giờ phút định trước, ánh sáng thay đổi. Hà được mời đứng giữa Linh và Nhi, con trưởng và con út. Tất cả được thông báo bắt đầu những phút trân trọng nhất của đông đủ gia đình cùng ra mắt trong tiệc sinh nhật. Linh rời mẹ, trong lễ phục nghiêm chỉnh, bước lên mấy bước, cầm micro, hướng về phía mẹ Hà:
- Thưa Mẹ. Chúng con xin cám ơn Mẹ và tất cả bà con bạn bè có mặt hôm nay. Đây là lần đầu tiên đông đủ gia đình ta cùng mừng sinh nhật mẹ. Xin mẹ cho phép con có vài lời về gia đình chúng ta. Hơn bốn mươi năm trước đây, Sàigòn sụp đổ, miền Nam đổi chủ, bố chúng con phải đi tù cải tạo. Từ ngày ấy, tuy còn là đứa trẻ mới sáu bẩy tuổi, con vẫn không quên những ngày tháng mẹ vất vả, cực nhọc thay bố nuôi chúng con. Sau 6 năm tù đầy, trở về với gia đình không được bao lâu, mẹ lại phải cắn răng để Bố một mình ra đi và từ đó mất tích. Có tin chuyến tầu vượt biển có bố đi theo đã tan tành, không còn ai sống sót. Sau nhiều tháng vô vọng, mẹ lại một mình mang chúng con ra đi, lo cho chúng con thành người trên đất Mỹ. Đã 35 năm qua, hàng ngày, mẹ không ngừng cầu nguyện gia đình có ngày được đoàn tụ. Hôm nay, xin Mẹ quay nhìn sang phía trái...

Không chỉ Hà mà tất cả cùng nhìn theo hướng tay của Linh. Từ bao giờ, trên lối đi từ phía cầu thang, em gái Nga của Linh xuất hiện trong áo dài vàng rực, bên vai Nga là một người đàn ông cao gầy. Trong ánh nến bập bùng ven lối đi, cả hai đang bước ra. Từng bước. Từng bước chậm.
Cả sảnh đường bỗng im lặng tới mức nghe được từng hơi thở.

- Thưa Mẹ, Linh tiếp tục nói, em Nga đang cùng Ba bước về phía Mẹ. Hôm nay Ba đã trở về từ một nơi xa xôi để dự lễ sinh nhật của Mẹ và đoàn tụ với gia đình. Và thưa Ba, Mẹ và em Nhi đang chờ Ba. Thưa bà con, thưa các bạn, sau bao năm cầu nguyện, đây là lần đầu tiên Ba Mẹ chúng tôi chúng tôi thấy lai nhau. Cám ơn Trời Phật đã đáp ứng lời cầu nguyện kiên trì của bốn mẹ con mình.
Hai bố con Phong và Nga đã đến trước mặt mẹ con Hà. Họ đứng lặng nhìn nhau. Hà bước tới, tưởng như mình đang bước trong cơn mơ. Đúng Phong đây rồi, Phong bằng xương bằng thịt vẫn thường hiện ra trong giấc ngủ của nàng làm lệ ướt gối chăn. Dù có bao nhiêu nếp nhăn hằn sâu trên khuôn mặt, dù có bao vết thương, vết sẹo trên thân thể chàng, dù Phong có bước đi chân thấp chân cao, đây vẫn là người chồng mà Hà một đời yêu thương mong nhớ và chung thủy đợi chờ. Họ lặng lẽ ôm nhau. Linh cũng đã lặng lẽ bước lại đứng cạnh bố mẹ và các em. Đúng là đông đủ cả nhà đang đoàn tụ. Cả sảnh đường đang im lặng bỗng cùng lúc vỡ òa. Rồi Phong sẽ nói, Hà sẽ nói, không biết bao lời chúc tụng sẽ được nói lên.

Ai bảo là “phước bất trùng lai?”

Cuối cùng thì bạn tôi sau những đau thương, mất mát khủng khiếp trong cuộc đời, bây giờ được đền bù xứng đáng.
Tôi trao cho Hà món quà sinh nhật của tôi tặng và Linh được yêu cầu đọc mấy dòng tôi viết trong tấm thiệp mừng bạn. Đó là mấy câu thơ nổi tiếng của thi sĩ Hồ Dzếnh:

Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ hy sinh có ở đời,
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi.

Tôi đã chép những câu thơ trên cho bạn tôi và viết thêm đoạn tường thuật này tặng chung các Bà Mẹ Việt Nam.

Lê Nguyễn Hằng

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Maxresdefault
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeFri Jun 15, 2018 5:45 pm



MỐI TÌNH QUA NHỮNG BỨC THƯ
O. H. Leslie (Mỹ) 

Sáng hôm thứ bảy ấy, khi nghe tiếng chuông cửa, Margaret Lowen vén rèm cửa sổ thì thấy khách đến thăm bà là một người đàn ông. Bà đã quấn tóc vào lô, bà không trang điểm, và chiếc áo bà mặc trên người chỉ cốt thoải mái chứ không đẹp. Nhưng Margaret đã nhiều tuổi nên bà không quan tâm đến hình thức bên ngoài nữa. Năm mươi ba năm sống trên đời đã dạy bà biết thế nào là sự ngu ngốc của thói huênh hoang.

Bà ra mở cửa. Người đàn ông hấp háy mắt, vẻ kinh ngạc:
- Đây là nhà bà Lowen?
- Vâng.
Đó là một người đàn ông béo tròn, ánh mắt trông như ngái ngủ. Ông ta cầm trong tay một chiếc phong bì dày cộm.
- Bà là Margaret Lowen?
- Chính tôi đây.
Người đàn ông tự giới thiệu:
- Tôi là trung uý Berger, ở đồn cảnh sát quận 8. Sau khi ông ta giơ ra tấm thẻ, bà để ông ta vào nhà.
- Ông cần gì, thưa ông trung uý?
- Tôi làm phiền bà một chút thôi, thưa bà. Có phải người ta vẫn gọi bà là Margie?
- Không! – Bà ta tức giận đáp.
- Xin lỗi, nhưng tôi muốn hỏi một phụ nữ vẫn được gọi là Margie Lowen kia, cũng ở địa chỉ này.
- À, đó là cháu gọi tôi bằng bác. Nó là con của em trai tôi. Cậu ấy rất quý tôi nên đã lấy tên tôi đặt cho con gái. Ông cần gì nó?
- Cháu gái bà cũng ở nhà bà chứ thưa bà?
- Vâng. Nhưng giờ nó không có ở nhà. Nó đến nghỉ cuối tuần ở chỗ chị tôi. Có chuyện gì vậy?
Bà mời viên cảnh sát vào phòng khách.

Vừa ngồi xuống, ông ta đã rút từ phong bì ra một xếp giấy.
- Xin hãy nói cho tôi đôi điều về cháu gái bà, thưa bà Lowen. Cô ấy ở nhà bà đã lâu chưa?
- Khoảng 6 năm rồi. Từ khi bố mẹ nó bị giết. Tôi coi nó như con vậy.
- Cô ấy bao nhiêu tuổi?
- Tháng ba tới nó sẽ tròn hai mươi ba tuổi.
- Điều tôi sắp nói có thể làm bà bị đột ngột và khó chịu. Nhưng tôi đành phải nói thôi. Thưa bà, chừng hai năm nay cháu gái bà bắt đầu trao đổi thư từ với một kẻ tên là Raoul Collins… Bà có biết chuyện đó không?
- Không. Nhưng…
- Có lẽ gã Raoul Collins ấy tìm được tên của cháu gái bà qua sự trung gian của một câu lạc bộ làm quen. Rồi hai người viết thư cho nhau đều đặn. Điều đáng buồn gã Collins ấy đang bị tù.
- Sao kia?
- Xin lỗi bà, nhưng đó là sự thật. Còn ít tuổi gã đã nhập hội với bọn xấu và đã giết chết một người trong khi ăn trộm một cửa hàng áo lông thú. Lẽ ra gã phải lên ghế điện, những vì tuổi quá trẻ gã chỉ bị tù chung thân. Bây giờ gã mới chưa đến ba mươi tuổi. Ngồi tù buồn chán, gã mới thư từ này nọ đó mà…
- Tôi không tin – Margaret Lowen kêu lên – Margie không dính líu với loại người đó.
- Thưa bà, chắc hẳn chuyện này có một khía cạnh mơ mộng. Ông ta cúi xuống lật giở mấy tờ giấy trên đầu gối.
- Chúng tôi tìm thấy tất cả những thư này trong xà lim của Collins. Các bức thư của cháu gái bà. Và tấm ảnh này nữa. Ông ta giơ tấm ảnh ra:
- Đây có phải cô Margie không ạ?
- Đúng, nó đấy… - Bà hãy đọc thử một, hai bức thư ở đây xem.
Margaret cầm lên một bức.
“Raoul yêu quý. Anh nói rằng anh sẵn sàng bỏ hết mọi thứ trên đời để được ở bên em. Em cũng muốn như anh vậy. Giá có cách gì để ước mơ của đôi ta được thực hiện, dù em có phải hy sinh đến mấy trong khi chờ đợi, các lá thư của chúng ta sẽ lấp đầy khoảng trống. Chúng ta có thể mơ ước và sống với tình yêu của chúng ta bằng lời lẽ, cho dù từ ngữ chưa chắc đã diễn tả hết tình cảm nồng cháy của chúng ta.”

Margaret đặt bức thư xuống và nói:
- Tôi không tin Margie lại đẩy sự việc đi xa thế này. Nó chín chắn lắm cơ đấy. Và hơi kín đáo nữa. Nhưng rất biết điều. À, mà sao ông lại đến đây?
- Chiều hôm thứ năm vừa rồi, Raoul Collins đã cầm đầu một cuộc vượt ngục tập thể. Hai tù nhân bị giết, nhưng gã trốn thoát.
- Thật khủng khiếp…
- Collins cần tiền, cần một chốn nương thân. Gã không có gia đình. Cho nên có thể gã sẽ tới thẳng đây…
Margaret cảm thấy tim đập thình thịch.
- Thế thì kinh quá! Chúng tôi biết làm thế nào đây?
- Bà đừng sợ. Gã đến đây tìm kiếm một đồng minh, chứ không phải một kẻ thù. Bà cứ bình tĩnh thì sẽ không có gì đáng ngại. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ bố trí người quanh đây hy vọng sẽ bắt được gã trước khi gã vào nhà.
- Nhỡ không bắt được?
- Nếu gã vào gặp được bà, bà chỉ cần gọi số này. Ông ta rút từ trong túi một mảnh giấy ghi số điện thọai. - Chỉ vài giây sau chúng tôi sẽ có mặt. Chúng tôi sẽ rất biết ơn bà đã giúp đỡ.
Đã ra đến cửa, viên cảnh sát dừng lại.
- Còn điều này, ở địa vị bà, tôi sẽ không cho cô cháu gái biết chuyện này. Cô ấy có thể hành động… thiếu thận trọng.
- Vâng, thưa ông. Tôi không muốn bất cứ chuyện gì xấu xảy ra với Margie. Nó chiếm một khoảng quá lớn trong tim tôi…
- Tốt lắm, vậy xin tạm biệt bà.

Sau khi viên cảnh sát đã đi, Margaret đi tới siêu thị gần đó mua một số thứ cần thiết. Công việc quen thuộc đó giúp bà giải thoát được những ý nghĩ lo lắng. Về nhà, bà để nguyên quần áo ngủ một giấc cho đến lúc chuông đồng hồ điểm sáu tiếng.
Khoảng bảy giờ, trời tối, bà cảm thấy sờ sợ. Nhiều lần bà vén rèm nhìn ra phố và tưởng tượng có những cảnh sát đang nấp sau các thân cây và bụi cây, nhưng bà không trông thấy ai.
Tám rưỡi tối, khi bà nhìn màn ảnh ti- vi mà chỉ thấy các hình ảnh cứ loáng thoáng chứ bà chẳng hiểu gì, bà tưởng như chuyến viếng thăm ban sáng của viên cảnh sát chỉ là một giấc mộng. Đúng lúc ấy bà nghe có tiếng động ở tầng hầm. Bà tắt tivi và nhìn chăm chăm về phía đó. Lát sau, bà thấy quả đấm cửa xuống tầng hầm hơi xoay, rồi cánh cửa hé mở, một bóng người xuất hiện. Đó là một người còn trẻ, tóc xén ngắn, râu rậm, môi mỏng.
Anh ta khẽ nói:
- Tôi không có ý định làm hại bà, thưa bà. Bà hiểu chứ? Cho nên bà đừng sợ. Nếu bà không kêu lên, mọi chuyện sẽ tốt đẹp.
- Ông… ông muốn gì?
- Bà biết rõ tôi muốn gì. Bà là bác của Margie, đúng không? Bà phải biết mọi chuyện chứ…
- Margie không có đây, - bà đáp bằng giọng yếu ớt.
Anh ta lại gần nắm lấy khuỷu tay bà.
- Chúng ta sang phòng khác đi. Anh ta đưa bà sang gian phòng vẫn dành cho khách ngủ lại và bảo bà ngồi xuống ghế. Rồi anh ta áp người sát tường, quãng gần cửa sổ, để quan sát đường phố.
Yên tâm, anh ta tới đứng khoanh tay trước mặt bà:
- Margie đâu?
- Ông hỏi làm gì?
- Tôi cần biết cô ấy đâu.
- Hãy để cháu gái tôi được yên!
- Nghe đây, thưa bà. Tôi rất vội. Tôi cần gặp Margie ngay.
- Margie không có ở đây. Nó… nó ở chỗ các bạn nó.
- Bạn nào? Ở đâu?
- Tôi không biết!
Anh ta đứng trước mặt Margaret, vẻ đe doạ. Nhưng rồi giọng anh ta dịu xuống:
- Xin hãy nghe tôi, bà cần hiểu những gì hiện đang có giữa Margie và tôi. Tôi thề là tôi không muốn làm hại cô ấy. Tôi chỉ muốn gặp và nói chuyện với cô ấy thôi. Bà cần giúp đỡ tôi, thưa bà.
- Tôi đã bảo là tôi không biết nó ở đâu mà!

Anh ta tức tối đi đi lại lại, hình như anh ta không biết phải đối xử thế nào với bà bác của người con gái anh ta yêu. Ánh mắt anh ta dừng trên tấm ảnh đặt ở bàn.
- Cô ấy xinh đẹp quá…
Margaret nuốt một tiếng nức nở:
- Ông hãy để cho nó được yên! Đúng là ông chưa biết nó đâu… Nó chỉ là một đứa trẻ con…
- Tôi biết tất cả những gì tôi cần biết. Anh ta trở lại phía bà vẻ thô bạo. - Bà có biết tôi bị bắt năm bao nhiêu tuổi không? 17 tuổi! Và tôi đã ngồi tù bao nhiêu năm không? 11 năm!
Bà quay đi, nhưng anh ta túm lấy vai bà bắt bà phải chịu đựng cái nhìn của anh ta.
- Bà có biết ở trong tù người ta có thể cảm thấy cô đơn đến mức nào không? Xung quanh có hàng nghìn kẻ như mình… nhưng người ta vẫn cô đơn. Bà có biết hậu quả của nỗi cô đơn ấy không?
- Tôi biết! – Bà nói một cách tuyệt vọng. - Tôi biết!
- Bà tưởng bà biết đấy thôi. Thực ra, bà chẳng biết gì cả. Margie đã cho tôi một số điều mà…

Nản lòng, anh ta buông vai bà và tiến về phía cửa sổ buồn rầu nhìn ra ngoài.
- Thôi được, - Margaret nói bằng một giọng không âm sắc.
- Sao?
- Được… tôi… tôi sẽ gọi Margie. Nếu quả thật ông muốn thế.
Mặt anh ta rạng lên. Margaret đứng dậy và như trong mơ; bà ta quay số điện thọai bà đã nhẩm mãi đến thuộc lòng.
- Trung uý Berger đây, - tiếng ở đầu dây đằng kia nói.
- A-lô, tôi là bác của Margie… Ở nhà có người muốn gặp nó.
Ngay lập tức…
- Collins đang ở chỗ bà phải không? Nếu đúng thế, bà chỉ việc trả lời “vâng”.
- Vâng, vâng. - Bà hãy giữ gã lại. Chúng tôi sẽ có mặt ở đó trong vòng một phút.
- Tốt lắm. Vâng, tôi hiểu.

Vừa đặt ống nói xuống, bà suýt hét lên vì cảm thấy một bàn tay nắm cánh tay mình. Quay lại, bà thấy sát mặt bà là gương mặt đầy râu ria của Raoul Collins, hai mắt anh ta trợn lên tức giận.
- Bà đã gọi cảnh sát.
- Không…
- Nói dối! Tôi hiểu rồi. Đây là một cái bẫy!
- Tôi van ông, - Margaret nói bằng giọng nức nở, - ông hãy đi khỏi đây đi, chúng tôi không thể làm gì được cho ông đâu… Mà họ sắp tới rồi đấy…
- Vậy là bà thú nhận rằng bà đã gọi cảnh sát!
Anh ta điên cuồng xông vào Margaret. Bà hét lên một tiếng chạy sang phòng bên. Anh ta đuổi theo, nhưng khi anh ta túm được bà, thì bà đã cầm trong tay chiếc đài cắm nến bằng bạc. Bà dứ dứ vũ khí ấy để tự vệ thôi, nhưng trong cơn tức giận anh ta lao thẳng vào bà nên bà buộc phải giáng mạnh một cái. Raoul Collins gục xuống. Tóc anh ta bê bết máu.
Trong một phút bà đứng lặng người ở phía trên anh ta, cố trấn tĩnh lại. Rồi bà không thể chịu thêm nữa. Bà quỳ xuống ôm lấy đầu anh ta trong đôi cánh tay gầy, để mặc cho nước mắt chảy giàn giụa.
- Tình yêu của tôi, - bà rên rỉ. – Tình yêu tội nghiệp của tôi…

Mãi quá nửa đêm, cảnh sát mới rời khỏi nhà bà. Các sự việc đã làm Margaret kiệt sức, nhưng nhu cầu viết thư mạnh hơn cả sự mệt mỏi. Bà cầm lấy tấm ảnh cô cháu gái, tấm ảnh mà bà đã gửi cho Raoul Collins cách đây hai năm, và xé vụn ra.

Rồi ngồi vào bàn, chọn một tờ giấy xanh nhạt và viết:
Raoul yêu quý,
Bác gái em vừa cho em biết sự việc xảy ra, em rất đau khổ thấy anh phải chịu một thử thách kinh khủng như thế. Nhưng liệu anh có cho em là nhẫn tâm nếu em thú thật với anh đôi điều? Em sung sướng lắm, Raoul. Em sung sướng vì cuộc vượt ngục điên rồ của anh không thành và anh lại quay về nhà tù.
Em sung sướng vì chúng ta lại có thể viết những bức thư này, lại có thể trao đổi những bức thông điệp này của tình yêu và lòng trìu mến xiết bao quan trọng trong cuộc đời của hai chúng ta.
.  
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeWed Jul 18, 2018 9:45 am

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Th?id=OIP.8izHaQYKSAZf3C7r0id6dAHaFe&pid=15


Câu Hát Tìm Nhau
Quế Hương

Chương 1

Tôi gặp lão lần đầu trong quán thịt chó của bà Tư béo, nơi tôi đến bỏ rượu gạo hàng chiều sau giờ đi làm. Lão xuất hiện với bộ dạng một người lỡ đường, tay bị, tay mũ cối, gương mặt rỗ hoa lấm tấm bụi đường và mồ hôi. Tưởng lão là người ăn xin, bà Tư đuổi như đuổi tà:
- Đi ra! Để người ta bán, đừng có hãm tài.
- Thưa bà, tôi không xin. Tôi tận Hà Bắc vào đây tìm người quen. Bà cho tôi hỏi... bà có biết người này.

Lão chìa ra mảnh giấy bọc ép nylon như thẻ căn cước, ghi dòng chữ: Hai Xuân, người Bắc Ninh, có chồng tên Tuất. Sau 1975 có người gặp sinh sống ở Đà Nẵng.
- Mơ hồ thế có trời biết! Không đường, không số nhà... Già rồi lẩm cẩm. Con cháu sáng suốt không sai đi tìm. Thôi đi chỗ khác. Đây cũng là dân ngụ cư thôi! Không biết!
Bà chủ quay ngoắt, dềnh ngang bộ mông núng nính đi vào bếp. Lão lẩm bẩm:
- Cả tuần nay... hỏi ai cũng trả lời chừng đó!
Thương hại lão, tôi gợi chuyện:
- Thế bà Xuân người như thế nào?
- Cô ấy người dong dỏng. Trắng tươi. Hát haỵ Xinh đẹp.

Bàn thịt chó bên cạnh lập tức nhao lên:
- ồ ! Cháu lão hả? Bao nhiêu tuổi? Để tụi này tìm giúp coi có “xơ múi” chi không?
- Cô ấy thua tui một tuổi?
Cái quán ven đường bỗng òa vỡ tiếng cười. Tiếng đập bàn, la ó, huýt gió, hô hố... náo loạn.
- Thế thì "cố" chứ "cô" gì! Làm tụi này tưởng bở bố ạ! Cỡ ấy ra nghĩa địa tìm dễ hơn.
- Mà cố Xuân là gì của lão? - Gã để râu xồm xoàm vừa nhai vừa hỏi.
- Xưa cô ấy là bạn hát quan họ của tôi.
- Lão vượt đường dài ở tuổi này để tìm một bạn hát xưa già khú đế à?
- Vâng.
- Trời ơi... là trời... ở mô rớt xuống ông ngố đa tình như ri hở trời! - Gã giọng Huế cùng bàn cúi gập người rên giữa một tràng cười. Còn lão điềm tĩnh, kiên định hỏi tiếp:
- Mua bản đồ thành phố ở đâu mấy chú?
- Thôi lão ơi, có khát tợp ít ngụm rồi mua vé về nhà nằm nghỉ. Kiếp sau yêu cho dài ngày rộng tháng.
Rồi để thưởng câu nói mà gã tự cho là ý vị ấy, gã để râu ngửa mặt lên trời, ném điệu nghệ một miếng dồi chó vào miệng, nhai nghiến ngấu, tợp một ngụm rượu, khà một tiếng khoái trá.
- Ngoài tôi, chỉ có món xào và rựa mận là để bát đĩa. Còn các món khác đựng trong lá tất... Ăn bốc mới đúng điệu. - Đột ngột lão góp ý.
- Coi bộ cũng là dân nghiện mộc tồn.
- Phải thật thoải mái, không cần giữ ý tứ. Bữa ăn phải đượm mùi hoang sơ của những người lục lâm tứ chiếng.
- Mở đầu được đấy ! Mần ly rượu nói tiếp đi!

Câu chuyện xoay quanh chó: cách chọn chó, nấu chó, ăn chó... Lão sành đến nỗi những cái mặt đỏ gay, những cái miệng bóng nhẫy đều quay về phía lão hóng chuyện. Cái mông núng nính của bà Tư cũng yên vị trên chiếc ghế dựa hồi nào. Bà chủ đang há hốc miệng nghe lão bày cách chế biến từ bảy món cầy cơ bản thành mười món hoặc hơn nữa. Lạ là lão sành món “hương nhục” đến thế lại từ chối động đũa vào đĩa chó. Bà Tư đích thân bưng đến đặt trước mặt lão để mong thụ giáo. Lão giải thích hễ lão cầm đũa là phải ăn no mới thôi. Cái thứ này hễ ăn là say, ăn mãi... ăn thì phải đúng điệu với bạn tri ân để say còn khóc cười cho hả...
- Khách của tui đủ giới, ở khắp thành phố này - bà chủ lên tiếng - Dò tìm một cố Xuân nói giọng Bắc, vấn khăn, cao dong dỏng, biết hát quan họ không phải là khó. Tui sẽ nhờ anh em... sẽ để lão ăn thịt chó thỏa thuê không lấy tiền... với điều kiện lão giúp tôi tiếp khí sắc cho quán. Dãy này bốn quán... phải có ngón nghề đặc biệt mới kéo khách về mình...

Chương 2

Quán thịt cầy của bà Tư béo từ độ có lão bỗng đông khách hẳn. Thịt bao giờ cũng lớn bùi, bé mềm, cả tơ cả cứng cho đủ vị cuộc đời. Lá sen, lá dong riềng, lá chuối được thay đĩa men. Quán có đến mười hai món “hương nhục”, thơm điếc mũi. Buổi tối quán tắt đèn điện thắp đèn cầy ăn thịt cầy... âm âm u u thế mà gọi mời đáo để. Những câu chuyện về đời, về chó của lão dưới ánh nến bao giờ cũng khiến khách ăn cảm thấy bữa rượu thịt đậm đà. Bữa nào lão không tới, họ lại ăn uể oải đòi lão có mặt. Bọn họ gọi lão là "lão Tầm Xuân". Cái quán ven đường rôm rả hẳn lên khi ông lão mặt rỗ hoa, ăn mặc nhếch nhác bước vào. Họ hát ong ỏng đón lão:
“Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc. Em đi lấy chồng anh tiếc lắm thaỵ Già rồi tiếc vẫn chưa nguôi. Xắn quần anh lội suối, khòm lưng anh vượt đèo...”.

Có hôm, men rượu không giải được nỗi sầu vô vị, họ lại đem lão ra giải buồn. Họ đổi những tin “dỏm” về cố Xuân bằng những câu chuyện của lão hoặc một cú tẩm quất sướng ê người. Nếu quán vắng khách, họ nằm ườn ngay trên nền quán, ưỡn tấm thân trẻ trung rã rời cho lão tẩm. Xương bật giòn tan, còn bọn họ lè lưỡi: “Hồi trẻ, lão phải vật trâu!”
- Hồi trẻ, tôi giật đến hai giải thi vật - Hứng chí lão khoe.
- Thế mà không vật nổi cô Xuân dong dỏng, trắng tươi, hát hay xinh đẹp.
Cả bọn cười ồ còn lão bỗng tiu nghỉu. Lão ngừng đấm hỏi:
- Lần này "dỏm" không đó?
- Dỏm 50%. 50% có thể thật. Đứa nào nói dối 100% hộc bia ra ngay.

Chân dung cố Xuân thay đổ xoành xoạch. Khi thì cố Xuân ở tận bên làng biển An Hải, mù vì khóc lão. Khi thì ở trên Hòa Khánh, điếc đặc. Khi thì ở tận Hòa Cường, suốt ngày ho sù sụ...
Có lúc bọn trẻ kéo vào quán một bà già nghễnh ngãng, ré lên: "Lão Tầm Xuân ơi, cố Xuân đây nè!". Bà già chửi te tua còn bọn chúng cười hô hố. Chỉ có lão không nói một lời. Tôi có cảm tưởng có cái gì nặng hơn chiếc lá khô vỡ tan tành trong lòng lão. ôi lão Tầm Xuân! Lão tìm trong cuộc đời nước chảy mây trôi như một hình bóng của ký ức thì tìm sao đặng? Những cuộc "gặp" ấy để lại trong lòng lão dư vị cay đắng. Lão ngồi uống rượu suông, mắt mờ đục như có khói và lão hát. Dĩ nhiên không phải để cho chúng tôi nghe! Lão hát hay lắm. Hay đến nỗi có lần tôi phải chở vợ đến nghe. Nàng đứng ở ngưỡng cửa nghe lão hát bài ruột: "Khi tương phùng, khi tương ngộ. Xuôi lên bộ, văng vẳng tơ tình. Chiêm bao lần chẵn năm canh. Bao lần anh ngồi tựa trăng thanh. Thương nhớ sâu oanh. Lẻ loi chim nhạn. Bạn tình ơi! Em biết đến bao giờ gặp mặt sánh đôi. Suốt năm họa là. Duyên bén ngãn, văng vẳng tơ tình. Trước không phải, sau đền duyên ba sinh".

Khó tưởng tượng một giọng hát say đắm ngọt ngào dường kia lại thoát ra từ một lồng ngực hom hem phô những giẻ sườn. Vợ tôi bảo không phải lão hát mà tình yêu lão hát. Nàng có đôi chút học vấn để nhận xét: đằng sau vẻ ngù ngờ, xấu xí, già nua kia là một trái tim thực có một cô Xuân dong dỏng, trắng tươi, hát hay, xinh đẹp trên đời. Cô Xuân ấy không bao giờ già, không bao giờ xấu, không bao giờ chết trong lão!

Sau lần nghe lão hát và những câu chuyện tôi kể về lão, vợ tôi bỗng trở nên “ái mộ” lão. Nàng bảo tôi chở lão đến nhà chơi rồi lão trở thành khách quen thuộc của cả nhà. Họ cũng bị lão “mê hoặc” như cả quán cầy tơ của bà béo. Lũ con tôi quý lão vô cùng. Lão bày chúng hát nghêu ngao những bài quan họ. “Sớm đi chơi hội, tối về quay tơ. Dải yếm phất phơ. Miếng trầu, mồi mốc. Miếng ăn, miếng buộc. Miếng gối đầu giường. Muốn tìm người thương. Tìm đâu cho thấy?”...
Lão cho chúng những đồ chơi thật ngộ - những con vật bằng lá dừa biết ngúc ngắc, con gà trống bằng đất sét lòe lọet xanh đỏ tím vàng kẹp chiếc kèn lá có thể cất tiếng gáy... Bếp nhà ấm áp khi có lão. Lão nếm rượu chính xác như đo, hàn giúp cái xoong, cái nồi rất khéo. Lão mơ màng kể cho chúng tôi nghe những ngày hội Lim, những liền anh áo the khăn xếp, liền chị thắt lưng hoa lý, yếm đào con nhạn, mắt lá răm lúng liến hát thâu đêm. Tôi ngồi nghe lão tả những làn điệu quan họ đắm say miên man dìu dặt và yêu cầu lão hát nhưng thường lão lắc đầu. Lão bảo hát quan họ phải có đôi, có bạn, có chỗ. Ký ức lão còn giữ nguyên vẹn những ngày hội quê lão: Hội làng, Hội Xuân, Hội mùa... Trai thi mạnh, gái thi mềm. Thi hoa, thi vật, kéo co, hát chèo, nấu cơm, đánh đu, cờ người...

- Lão gặp cố Xuân ở những ngày hội đó à?
- Vâng. Đó cũng là ngày hội quan họ, cả vùng như ngấm men say, phát cuồng vì hội lễ. Năm ấy anh cu Rỗ là tôi tròn 18 tuổi, được cử vào bọn quan họ làng để luyện giọng thi hát với bọn quan họ làng bên kia sông. Nhà tôi ba đời hát quan họ. Tôi luyện trên dưới 200 giọng, thế mà khi hát đôi với cô ấy tôi run. Tâm hồn tôi lơ lửng không đặt hết vào lời. Cô ấy là tiên quan họ. Ngày xưa cô Tấm cũng đẹp thế là cùng! Giọng hát sóng sánh. Mắt đen lóng lánh. Môi cắn chỉ đỏ thắm. Cần cổ như cuống hoa huệ... Tôi say, say lời hát, say cô ấy, quên cả ngón ruột phải tung ra vào phút chót để thắng dứt điểm. Cuộc thi kéo dài đến ba ngày. Tiếng trống dứt mới giật mình ngơ ngẩn. Dĩ nhiên tôi thua...

Chương 3

- Đa tình thế sao không lấy?
- Lệ quan họ những đôi trai gái đã kết bạn quan họ không lấy nhau. Tình yêu có nảy sinh thì cũng gửi thương gửi nhớ qua lời hát. Kết nghĩa quan họ như kết nghĩa anh em, được cha mẹ hai bên, dân hai làng chấp nhận. Tình bạn ấy chân thành, thủy chung, thắm thiết không chỉ đời mình mà có khi còn đến đời sau. Làng tôi có nhiều cặp quan họ khi đầu bạc răng long, tình yêu trong câu hát xưa vẫn không tàn. Có dịp gặp nhau trên chiếu quan họ, họ lại sống lại thời xuân sắc. Anh em kết nghĩa quan họ gặp nhau “xuân thu nhị kỳ”, đến thăm nhau, ăn uống, vui chơi, ca hát với nhau. Mỗi bên có chuyện vui buồn đều tổ chức đi lại thăm viếng. Tôi nhận ra một điều: người ta có thể cho nhau niềm hạnh phúc to lớn biết dường nào và chẳng lần nào giống lần nào... Rồi cô ấy cũng phải đi lấy chồng. Bọn quan họ chúng tôi đến chia vui. Tôi đau lòng hát miên man...

Mắt lão bỗng mơ màng xa vắng. Rồi một giọng hát trẻ trung đằm thắm da diết cất lên: "Ăn quả nhãn lồng. Ước sao người ấy tôi bồng trên taỵ..”. Không phải lão Tầm Xuân tóc bạc da mồi hát mà anh cu Rỗ tóc đen như mun, da mầu đồng, có giọng hát Trương Chi hát! Cô ấy hiểu lòng tôi, chú ạ!
Lão lại ngưng hát, kể: Tôi hát bài "Khi tương phùng, khi tương ngộ" ngang nửa bài thì cô ấy xen ngang, hát tiếp: "Bạn tình ơi! Em biết đến bao giờ họp mặt sánh đôi... Trước không phải, sau đền duyên ba sinh". Chúng tôi cắt câu quan họ làm đôi, mỗi đứa giữ một nửa. Hẹn kiếp sau chắp lại.
Sau đó là chiến tranh... nạn đói... Câu quan họ tan tác trăm phương. Tôi vào Vệ quốc quân, tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, khi hòa bình lập lại, tôi về làng thì nghe cô ấy đã theo chồng... nghe nói vào Nam.

Rồi tuổi già đến. Già buồn lắm chú ạ! Cô đơn và bất lực. Chết không đáng sợ bằng tuổi già. Sống đến đó, người ta mới nếm tận cùng chén đắng cay của đời. Tôi sợ hình ảnh ông hàng xóm ngày nắng được bế cả người lẫn chăn ra hong nắng. Nắng rực rỡ đọng thành từng vũng quanh ông ấy, còn ông ấy nhăn nhúm trong cái chăn rách... Tôi có cảm tưởng ông được đem phơi cho chết vi trùng. Có bà, được mua cho một cỗ hậu sự thật tốt. Lâu không chết, áo quan bị mọt đục. Ngày nắng con cháu đem ra phơi, trở qua lật lại rửa ráy càu nhàu... Luật đời chú ạ! Già thì lụi tàn, phải chết. Sống lâu thành nợ của mọi người ngay con cái cũng chán... Một lần tôi ốm, trận ấy ốm thương hàn, thập tử nhất sinh. Trong những cơn mê, tôi cứ nghe một giọng hát lảnh lót níu tôi lại trần thế: "Người về bỏ bạn sao đành. Người về em vẫn đinh ninh tấm lòng...". Giọng cô ấy! Chỉ có cô ấy mới có cái giọng la đà sát ngọn cỏ, cao vút chạm mây xanh, thầm thì luồn lách trong da trong thịt. Tôi tỉnh lại đang mơ màng thì nghe giọng dâu con thở than gần hết ngày tốt mà cha chưa chịu đi. Tôi mở mắt, chúng nó lại ríu rít hỏi han, làm ra vẻ vui mừng... Sau lần ốm ấy, tôi nghĩ đến chuyện đi tìm cô ấy. Chính cô ấy níu tôi lại cuộc đời này. Tôi phải đi tìm nửa câu quan họ cắt đôi. Trẻ không lấy nhau được, già ở bên nhau, hát với nhau cho đỡ côi cút. Trước sau vẫn là bạn có gì sai trái đâu?
Lão im bặt. Đôi mắt già nua chìm trong cõi vắng. Thời gian với lão chỉ là lớp bụi mờ. Gió thổi, bụi bay, dĩ vãng lại hiện ra nguyên vẹn trước mắt lão. Đêm ấy, lão hát miên man bên bếp lửa tàn. Một mình hát, một mình nghe, một mình mở hội đồi Lim, lúng liến, đắm say, chân tình lai láng.

Thế mà sau một tuần đi công tác xa về, con tôi đã mếu máo níu áo ngoài cửa đòi tôi đi tìm lão Tầm Xuân. Thì ra lão đã bỏ đi... Tự nguyện theo lão là con chó mập ú của bà Tư cầy. Dường như chán gặm xương đồng loại, nó bỏ theo lão Tầm Xuân.
Tôi cũng vô tình quên lão nếu không có lần gặp lại ở Hàng Xanh, Sài Gòn cách đó hai năm.
Đó là một buổi trưa nắng chang chang. Con hẻm em gái tôi ở vang lên tiếng rao lạc lõng: “Ai hàn xoong hàn nồi, mài dao mài kéo không...?
- Tiếp liền sau một giọng hát cất lên :"Khi tương phùng khi tương ngộ, xuôi lên bộ văng vẳng tơ tình... thương nhớ sầu oanh, lẻ loi chim nhạn. Bạn tình ơi...”. "ôi!". Lão. Lão chứ còn ai nữa. Không kịp xỏ dép, tôi chạy nhào ra hẻm gọi ơi ới: “Lão mài dao... lão Tầm Xuân". Lão quay phắt lại rồi ôm chầm lấy tôi mừng rỡ. Mới hai năm mà lão già thêm nhiều. Lão đã thực sự già thêm nhiều. Lão đã thực sự già! Gương mặt chằng chịt nếp nhăn lỗ chỗ nốt rỗ như tấm gỗ mọt. Đôi mắt mờ đục, giọng hát khào khào. Lão mang lỉnh kỉnh dụng cụ hàm mài. Câu quan họ lầm lũi lạc theo, lạc lõng trong thành phố hoa lệ. Con chó vàng của bà Tư cầy lẽo đẽo theo bên. Chỉ khác là nó không còn mập ú nữa, nó xơ xác gầy nhom như chủ.

Chúng tôi tấp vào quán nước bên đường. Ở đó tôi được biết vì sao lão bỏ đi đột ngột. Bà chủ quán thịt cầy cùng dãy với bà Tư béo bảo có gặp một bà người Bắc đi xin ở Gia Định biết hát quan họ và y hệt cô Xuân của lão. Thế là họ đi!... Quán bà Tư mất hấp lực, đâu lại vào đấy. Tôi nghĩ thế nhưng không nói ra, sợ lão buồn. Tôi định bụng khuyên lão trở về quê. Không ngờ lão cũng nói:
- May gặp nhau lần cuối... Tuần sau tôi về chú ạ. Tiền tàu xe đủ rồi... Tôi về để mười ba tháng Giêng tới dự hội Lim lần cuối. Hội Lim giờ đâu như xưa nữa... Nhưng tôi vẫn nghe tiếng trống vào hội giục giã lòng tôi. Tôi yếu rồi! Tôi đã nghe đất gọi Quê gọi. Đành hẹn kiếp sau vậy...

Chương 4

Tôi nhìn lão, còn lão nhìn dòng xe cộ nườm nượp đến chóng mặt. Chiều tà dần trong đôi mắt mầu hoàng hôn.
- Lâu ngày gặp lại, tui với lão mần đích đáng một bữa thịt chó đi! Ở đây có Bồng Lai quán nghe nói khá lắm, ăn hoài không đã miệng. Tui mời lão.
- Cảm ơn chú! Nhưng năm rồi tôi không đụng thứ đó. Tôi sẽ không đụng cho đến ngày cuối đời...
Lão cúi xuống vỗ về vào lưng con vàng. Con chó ngước đôi mắt nặng trĩu yêu thương nhìn lão rồi không dằn lòng nổi, nó đứng trên hai chân sau, vừa kêu ư ử hài lòng vừa liếm khắp người lão.
- Chú thấy đấy! Cứ tưởng tượng nó thành những đĩa dồi, đĩa luộc, đĩa xào, xáo... là tôi lợm giọng rồi... Không có nó tôi không sống nổi ở đây đến hai năm... Nó sưởi ấm tôi, kéo tôi đứng dậy, nó bị đánh què cẳng vì ăn cắp của người ta để cho tôi ăn những ngày tôi ốm... Nó từng sung sướng... theo tôi nó mới cực thế này... Nó...
Lão nghẹn ngào, mắt hấp háy. Giọt lệ tuổi già chắt mãi mới thành dành cho kẻ đồng hành bốn chân!

Khoảng mươi hôm sau, con dao chặt thịt bị mẻ, em tôi nhắc:
- Không thấy lão mài dao kéo vào xóm... cái lão thật lạ, không lo kiếm khách chỉ lo hát... Có đồng nào mua đồ ăn lại chia đôi cho chó một nửa. Con chó cũng đáo để, không bao giờ ăn trước chủ dù có đặt trước miệng... Người già cũng lạ! Trại dưỡng lão em làm có một bà già... nhập trại ba năm không nói một lời, tưởng câm, khi gần chết hóa ra biết hát. Cái giọng cái điệu, cái lời na ná như lão mài dao.
- Đâu? Bà ấy ở đâu? - Tôi chụp tay nó.
- Ở trong, sắp chết rồi. Mà anh hỏi làm gì?
Tôi kéo áo nó, bắt nó chở đi rồi tôi sẽ giải thích. Dọc đường tôi kể vắn tắt chuyện lão Tầm Xuân đi tìm nửa câu quan họ. Tôi linh cảm đó là cố Xuân.
- Ba năm trước, một người đàn ông sang trọng, gương mặt tràn trề nhân ái dẫn bà ấy vào trại. Ông ta bảo với Ban quản đốc ông ta thấy bà già cơ nhỡ, ngủ trước hiên nhà nên thương xót dẫn giúp vào đây. Ba năm ở đây, bà ấy sống lặng lẽ như bóng không hề nói, nằm quay mặt vào vách. Nhưng cách đây một tháng, dường như không nén được nỗi đau đớn, bà ta khóc rống lên: "Hắn là con tôi, cái thằng dẫn tôi vào đây chính là con tôi". Mấy hôm nay bà ta hát... không ăn, không uống... chỉ phều phào hát... - Em tôi kể.

Bây giờ nằm trước mặt tôi, trên chiếc chiếu tỏa mùi khai thối trải trên nền gạch loang lổ là bà cụ tóc trắng như bông vấn vành khăn nhung đã sờn, mỏng như giấy, mặt vàng, hơi thở dốc...
"Dong dỏng, trắng tươi, hát hay, xinh đẹp..."
Hình hài ấy không còn nét nào giống lão Tầm Xuân tả. Thời gian cho, thời gian lấy hay tôi đã lầm? Tôi định lui ra nhưng chiếc lá khô ấy bỗng khẽ khàng động đậy. Rồi từ lồng ngực thoi thóp hơi tàn, phều phào những tiếng, lời rời rạc. "Bạn tình ơi! Duyên bén ngãi, trước không phải... sau đền... duyên... ba sinh".
Đúng rồi! Cố Xuân đây rồi! Tôi reo to giữa những gương mặt già nua ngơ ngác - Lão Tầm Xuân ơi! Nửa câu quan họ đây rồi.

Lão tìm ba năm, nay biết tìm lão ở đâu.
Bà cụ mấp máy môi hát, âm sắc yếu dần... yếu dần... Nhanh trí, tôi nắm lấy bàn tay còn xương với da ấy và tôi lập lại lời hát của lão Tầm Xuân: "Khi tương phùng, khi tương ngộ, xuôi lên bộ văng vẳng tơ tình..." Giọng hát vụng về thô ráp như đọc của tôi cất lên, và lạ lùng thay, nó tựa những giọt nước cành dương diệu kỳ... Mí mắt bà lão động đậy, ngực phập phồng rồi giọng hát yếu ớt cứ rõ dần hòa với cái giọng vịt đực ồ ồ của tôi. Những bà già trên nền nhà lập tức ngồi dậy. Họ không hiểu nhưng họ vỗ tay như những đứa trẻ. Họ reo, họ hò, họ hát ru... Những đôi mắt mờ mờ đục chất ngất nỗi buồn và bất hạnh bỗng háo hức như mắt trẻ con. Một bà lão lục đục trong hai ba lần áo một cái gói nhỏ mở hai ba lớp nylon bày một nhúm thịt chà bông, chần chừ ngắm rồi nhón tay bốc hai sợi thịt đem tới đút vào miệng tôi một sợi, miệng cố Xuân, bị lời hát đẩy ra, còn trong miệng tôi, trào thành nước mắt!

Tôi lập tức đạp xe đi quanh vùng Gia Định tìm lão Tầm Xuân nhưng bóng lão bặt tăm... Hình như lão đã về quê rồi. Em gái tôi góp ý nhắn lão trên tivi. Mẩu tin kỳ quái được nhắc lại hai hôm: “Lão Tầm Xuân! Đã tìm ra nửa câu quan họ. Đến gấp trại dưỡng lão số 3, đường... Mau lên kẻo không kịp".
Không kịp thật. Cố Xuân hắt ra hơi thở cuối cùng, lão vẫn bặt tăm. Chiếc xe tang của trại đưa cố đến lò thiêu. Không một vành khăn, không dòng nước mắt.

Có lẽ giờ này lão Tầm Xuân đang lê bước trở về. Nửa câu quan họ lầm lũi theo lão... Chơi vơi... Chơi vơi...
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeTue Aug 14, 2018 7:44 am

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Post-40-1163391719

Đêm Tân Hôn
Truyện Ngắn: Mai Thảo


Đường cúi xuống nhìn đồng hồ. Đúng 10 giờ đêm. Anh nhớ lại thật nhanh trong một lần cuối cùng những khoảng thời gian đã được anh xếp đặt cho việc thi hành và thực hiện dự định.

Mỗi khoảng thời gian đều đứng trên một chỗ đứng riêng: 10g30 vào phòng Liệu. Đúng 11 giờ trở ra. Gặp Liệu, giãi bày cặn kẽ với Liệu trong 30 phút, không hơn không kém. Làm thế nào nói hết đầu đuôi ngọn ngành với Liệu trong 30 phút ngắn ngủi? Thừa thì giờ. Nhưng có đủ thì giờ để Liệu hiểu, suy nghĩ, cân nhắc và ưng thuận? Đường tự trả lời thầm: Liệu sẽ ưng thuận. Anh cũng không hiểu tại sao anh có thể chắc chắn được ở điều đó, ở một người khác dù người ấy là Liệu.

Anh tin ở anh. Nhưng anh lại phải tin ở Liệu, tin một cách liều lĩnh như con người tin ở một cuộc phiêu lưu, tin rằng bên kia đêm sẽ có cái ánh sáng rực rỡ của một ngày. Cả cái chương trình tỉ mỉ, kết quả của bao nhiêu đêm suy nghĩ không ngủ chỉ có 30 phút dành cho những lời anh sẽ nói với Liệu là Đường không cầm nắm được. Cũng chẳng còn cách nào khác. Đành là phải tin chết ở Liệu vậy. Ở đôi mắt Liệu nhìn anh một hôm nào, ở một câu nói dịu dàng của Liệu với anh về Hà Nội, một lần gặp mặt tháng trước, ở đôi tay thon nhỏ của người thiếu nữ. Tin một cách trừu tượng mong manh ở những ngón tay thon nhỏ, ở một đôi mắt hiền hậu, nhưng mà phải tin.

Vậy anh sẽ về phòng Liệu và đi ra lúc 11 giờ đúng. Bữa tiệc sẽ kéo dài và sẽ bế mạc vào 3, 4 giờ sáng. Trước lúc đó không được, vì sớm quá rượu chưa ngấm men, chúng nó còn tỉnh táo thì dễ hỏng việc. Giữa bữa tiệc, anh phải khởi hành chậm lắm là lúc 12 giờ 30. Muộn hơn sẽ không đủ thì giờ đến Văn Điển trước 5 giờ sáng. Đường nhớ lại những vọng gác trùng điệp ở dọc đường, những bốt canh rải rác đến tận cánh đồng cỏ hoang vu sau quận Văn Điển. Đường sẽ nói mấy câu, chúng nó sẽ uống sâm banh và anh sẽ vờ say. Con mắt anh sẽ nhíu lại một vẻ đờ đẫn, bàn tay anh sẽ vung lên trong những dáng điệu nghiêng ngả choáng váng. Chúng nó cười phá lên. Anh nháy mắt với chúng nó, nhìn vào buồng trong. Chúng nó lại cười phá lên.

Bây giờ là là một giờ đêm. Đường chỉ có thể ở phòng Liệu tới 1 giờ rồi phải trở lại bàn tiệc, lần thứ nhì, lần cuối cùng. Đúng 2 giờ sáng lên đường. Đường đã tính đi tính lại, phải ba tiếng rưỡi đồng hồ để đi một đoạn đường 15 cây số, men theo bờ ruộng lầy lội, trong đêm tối nhoà nhạt trên những lối đi tắt ngoài đồng xa cách những làng xóm và những bốt gác. Phải tính cả đến việc đi bộ qua ruộng đêm sẽ mất nhiều thì giờ hơn là đi trên đường lớn.
Đến Văn Điển, 6 giờ kém 30. Trời mùa đông lúc đó mới hé sáng. Đúng 6 giờ thì Đường phải bước lên con đường số 1. Ngày vừa lên thì chương trình cũng vừa thi hành xong.
Đường kiểm điểm lại một lần nữa. Tất cả đều được sắp đặt ổn định. Anh bắt đầu thi hành chương trình bằng cách mỉm cười đánh diêm châm một điếu thuốc lá.
Tên Trưởng ty Công an ngó anh chăm chú hỏi:
-“Cười gì thế Đường?”
Y ngồi ngay bên cạnh anh. Đêm nay cũng như từ ba năm, lúc đứng lúc ngồi, bao giờ y cũng ở bên cạnh anh. Cái thân hình cao lớn của Đường lại là cái bóng của nó, bé nhỏ, xiêu đổ. Nó bám hút lấy anh như một loài đỉa như một con rắn độc nguy hiểm lại như một loài mèo có đôi mắt lặng lờ giảo quyệt. Nó vẫn luôn luôn dò xét anh từng cử chỉ bé nhỏ, từng câu nói vụn vặt. Đêm nay nó lại ngồi ở chỗ cũ như một cái bóng, nghĩa là ở bên cạnh anh. Đường nghĩ rằng anh sẽ thích thú ghê gớm nếu bây giờ trước cái ánh sáng chói chang của năm ngọn đèn măng sông, trước tất cả bọn chúng nó, anh được đứng dậy, xoay người vào tên Trưởng ty, thu hết sức căm giận đấm về phía trước mặt. Nắm đấm sẽ làm tối tăm một đôi mắt cú vọ mở đến đứt kẽ vì kinh ngạc, và thằng Trưởng ty Công an sẽ ngã sấp gập xuống mặt bàn. Thì anh sẽ giải thoát cho anh được một thứ gánh nặng, một cái bóng tối, một ám ảnh bền vững ma quái đã chứa nén quá lâu ngày.

Nhưng nắm tay không được phóng ra vì Đường vừa nghĩ tới chương trình của mình. Anh nén lại, rồi nghiêng sang tên Trưởng ty, thì thầm:
-“Nghĩ gì thì anh biết đứt đi rồi. Anh chỉ được cái xỏ lá”.
Miệng nói anh khẽ đấm vào hông tên Trưởng ty, nháy mắt nhìn vào trong buồng. Nó nhìn theo, nháy lại ra ý hiểu rồi cười ngặt nghẽo:
-“Thì chốc nữa tha hồ “dùng”. Đi đâu mà cuống lên thế”.
Nhân cơ hội, nó đùa nó thêm ngay một câu:
-“Đẹp nhất Vân Đình đấy, cậu tư bản cậu tranh mất của chúng tớ. Chán rồi cho chúng tớ mượn nhé. Cộng sản mà!”
Đúng rồi, cộng sản mà! Nó bảo Đường cho nó mượn Liệu, nó đang làm sáng tỏ cái chủ nghĩa của chúng nó đấy. Đường nghẹn thở vì câu nói thô bỉ mà vẫn phải cười đáp lại:
-“Ờ, tháng sau tớ chán tớ cho cậu mượn”.

Tên Trưởng ty cười lớn. Mặt nó hồng lên rồi thẫm lại dần dần. Men đang ngấm vào từng tí một. Đường yên lặng theo dõi men rượu đang thấm lắng qua người nó từng tí một. Đường có cảm tưởng như anh nhìn thấy những lối đi của men trong người tên Trưởng ty. Những khuôn mặt khác cũng đã bắt đầu lên màu. Những mẩu tàn thuốc 555 và 999 rơi vãi trên khắp mặt bàn trắng tinh. Vỏ cam đổ ngổn ngang chung quanh những thành đĩa. Một vài cốc rượu đổ nghiêng không có một bàn tay nào buồn nhấc lên. Đường đưa mắt nhìn theo dọc bàn, tất cả những tai to mặt lớn đều có mặt. Tên Chánh án Toà án Quân sự Liên khu ngồi ở giữa, tên Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến tỉnh ngồi đối diện. Ngoài ra thì toàn là những cán bộ cao cấp. Chúng nó ăn mặc áo nâu rách xơ xác nhưng chúng nó uống hàng thùng sâm banh, ăn hàng chục cân cam, ăn hết chim đến gà lại đến những món vây bóng Đường đặt mua từ trong Hà Nội. Tháng trước, được tin Đường cưới vợ, mời chúng dự tiệc cưới, thằng nào cũng giục Đường phải cho người vào Hà Nội mua vây bóng, thuốc lá và rượu mạnh. Nhất là thuốc lá và rượu mạnh.

Bây giờ là vào cuối tháng Chín năm 1950. Con đường duy nhất từ Vân Đình vào Hà Nội qua vùng La Khê ra chợ Văn Điển vừa bị Công an cộng sản cắt đứt. Hàng trăm gia đình tới đó đều bị bắt ở chung quanh La Khê rồi từ La Khê áp tải thẳng vào trại số 5 của Lý Bá Sơ. Con đường độc đạo cuối cùng từ vùng cộng sản vào Hà Nội thế là không còn nữa. Chúng nó đặt bốn trạm kiểm soát ngoài La Khê, trong xóm, cả về phía bên kia La Khê. Những bờ ruộng, cỏ mòn úa dưới những vết chân của những đoàn người dời bỏ khu vực cộng sản qua đó, lại mọc lên hoang rậm như cũ.

Đường quyết định trốn về Hà Nội cùng một lúc khi anh được tin con đường về bị cắt đứt và những gia đình xấu số đã bị bắt giải vào Liên khu IV. Nhưng anh cảm thấy anh không thể trì hoãn được nữa. Trong Hà Nội đưa tin ra cho anh biết mẹ anh bị đau nặng, bệnh tê của thầy anh lại tái phát, gần mười đứa em nhỏ của anh không còn người trông nom, Chính phủ Quốc gia trong đó cần một người thông thạo tất cả những đường lối tổ chức ngoại thương để thiết lập những bang giao thương mại rộng lớn với ngoại quốc. Anh phải về Hà Nội. Về bằng bất cứ cách nào: đường bộ, đường thuỷ, nhưng phải về ngay.

Cộng sản cũng biết Đường cần phải về Hà Nội và anh sẽ về bằng bất cứ cách nào. Lúc đó chúng đang mơn trớn những người trí thức tản cư ra hậu phương, Đường lại quen biết nhiều, sợ ầm tiếng, chúng không dám thủ tiêu anh ngay.
Nhưng chúng cho canh phòng anh hết sức chặt chẽ. Đường ở dưới Sêu Đặng chúng ngầm cho nhân viên Công an đến ở nhà bên cạnh. Thằng này ngủ thằng khác thức thay phiên nhau canh giữ anh suốt ngày đêm. Anh lên Vân Đình chúng bỏ Siêu Đặng lên theo. Canh gác ngày càng nghiêm mật vì chúng không thể để cho anh đi thoát. Chính chúng cũng cần những người như anh, vì giao thương với quốc tế, cả khu vực cộng sản chỉ có anh là đủ năng lực và nhiều kinh nghiệm nhất. Để mất anh là một sự tai hại ghê gớm. Đường cũng biết vậy. Ngày lại ngày những cái mắt của một cái lưới vô hình cứ nhỏ lại mãi. Và những cái bóng cộng sản lẩn khuất chung quanh khởi đầu chỉ thấp thoáng, càng ngày càng hiển hiện rõ rệt thêm.

Những buổi tối ra ngồi bên sông Vân Đình nhìn về chân trời Hà Nội đã sáng lên một vùng ánh sáng lung linh hư ảo, nghĩ đến mẹ, đến một lũ em nhỏ, đến những dự định của anh trong vùng Quốc gia, Đường mím môi nhìn xuống mặt nước tối, cố nghĩ ra một lối trốn thoát khỏi thiên đường cộng sản. Con đường có mấy chục cây số mà hiểm trở hơn hàng nghìn cây số núi rừng. Anh nóng ruột tưởng chừng muốn phát điên lên. Anh biết rằng ngồi đâu đứng đâu cũng có ít nhất là một tên công an lẩn khuất gần gũi đâu đó. Mỗi hành động mỗi cử chỉ của anh đều được ghi nhặt. Nhiều lúc Đường muốn đánh liều cứ đi, phó thác hoàn toàn cho may rủi, nhưng rồi anh lại thôi, cái lẽ giản dị là con người anh không bao giờ chịu hành động hoàn toàn theo may rủi. Nhiều đêm muốn thử xem sao, anh giả vờ mở cửa ra ngoài phố là y như rằng đã có một cái bóng đứng gần nhà hoặc ở dưới một bóng cây, hoặc dưới một mái hiên tối. Đường biết rằng chúng theo dõi anh từng bước, cả ngày lẫn đêm.
Làm thế nào để có được một đêm không bị theo dõi? Chỉ cần một đêm không bị theo dõi. Nhưng làm thế nào?

Bỗng nhiên một hôm Đường gặp Liệu.
Ý nghĩ vụt đến như một tia chớp. Đường quen Liệu từ ngoài Hà Nội. Cùng tản cư ra hậu phương, họ gặp nhau ở Vân Đình, nhưng lần nào hai người cũng chỉ hỏi thăm nhau qua loa. Cho đến buổi chiều mà Đường nhất định đặt Liệu vào cái động cơ chính trong dự tính trốn thoát của anh. Anh liền dành cho Liệu một thái độ mới. Anh đến thăm Liệu nhiều lần. Những đêm có trăng sáng anh đến đón Liệu đi chơi thuyền trên sông Vân Đình. Liệu có một cửa hàng thuốc tây nhỏ ở cuối phố. Tên Trưởng ty Công an vẫn mua thuốc sốt rét ở cửa hàng của Liệu.

Hơn một tháng trôi qua, hai người trở nên thân thiết nhau, Đường hỏi Liệu làm vợ. Chờ tới lúc Liệu vừa chính thức nhận lời, Đường liền tung cái tin anh lập gia đình ở hậu phương trong khắp các giới bạn hữu thân thuộc. Anh cho tên Trưởng ty Công an biết trước nhất.
-“Ố ố, anh mà cũng lấy vợ địa phương à? Nghe đồn anh có vị hôn thê nào ở trong Hà Nội cơ mà? Tên Trưởng ty vừa hỏi vừa đo ý tứ Đường”.
Anh cười to:
-“Ở đâu thì lấy vợ và lập nghiệp ở đó chứ? Phụ nữ Hà Nội lấy Tây lấy Tàu hết rồi, chúng mình lấy cái hạng đàn bà trong vùng bị chiếm ấy sao được anh?”
-“Thật anh lấy vợ không?”
-“Thật. Đêm 30 tháng này tôi mời tất cả các anh đến ăn cưới.
-“Tại sao không cưới ngay đầu tháng, lại phải chờ đến 30?”
-“À còn phải thu xếp cho linh đình chứ! Kháng chiến thì kháng chiến cũng phải có ba con năm, ba con chín, mô-ét săng-đông cho các anh hôm đó chứ không các anh lại cho đi an trí thì hết đời”.

Câu này Đường chỉ nói đúng một phần. Thực ra, chọn ngày cưới vào đêm 30 anh đã nghĩ đến cái bóng tối đen đặc của một đêm cuối tháng. Đêm 30 không có trăng mới đi được.
Hôm nay đã là đêm 30 rồi. Đường nghĩ lại tất cả chuyện đã xảy ra để anh có thể tới được cái quyết định cuối cùng này. Tụi cán bộ vẫn nói cười ầm ầm chung quanh. Mặt chúng nó đỏ gay. Những cái đầu ngả nghiêng xoả sợi trên những ly rượu. Rồi giọng tên Chủ tịch tỉnh lè nhè:
-“Này “đồng chí” Đường, cô dâu đâu gọi ngay ra đây!”
Mấy tên khác ùa lên phụ hoạ nhâu nhâu kêu la cô dâu phải ra trình diện.
-“Lại xấu hổ chớ gì! Đêm nay thì tha hồ mà xấu hổ”.
Cả bọn cười thét lên. Một đứa đập bàn:
-“Dân chủ cộng hoà, thanh niên phụ nữ giải quyết sinh lý với nhau là thường, xấu hổ cái cóc khô gì? Thôi cho đồng chí Đường vào công tác với cô dâu vậy, nhưng phải lập tức ra ngay”.
Đường nhìn đồng hồ. Nghĩ đến dự định, anh liền đứng ngay dậy:
-“Cả làng đã dạy, tôi xin tuân theo mệnh lệnh, nhưng xin được công tác nửa tiếng nhé!”

Nói đoạn, Đường đứng dậy, giả vờ loạng choạng xô ghế, đi thẳng vào phòng Liệu. Anh đóng cửa cẩn thận, rồi tiến lại phía đầu giường. Liệu ngồi cúi đầu một vẻ e thẹn, khép nép. Liệu giật mình khi Đường nói rất nhỏ nhưng rất rõ ràng câu thứ nhất:
-“Tôi muốn nói với Liệu một chuyện rất quan trọng. Xin Liệu bình tĩnh…
Đường kể hết cho Liệu nghe. Anh chỉ định cưới Liệu để lấy cớ trốn đi. Chúng nó canh gác anh đêm ngày. Sự canh gác này chỉ có thể chểnh mảng trong một đêm tân hôn. Vì thế, anh phải giả vờ hỏi Liệu làm vợ. Anh cho chúng nó ăn uống thật say. Chúng nó vừa tưởng anh vào động phòng. Anh sẽ trốn thoát ngả sau. Anh sẽ đi suốt đêm về Văn Điển.
Đường nói xong ngừng lại. Liệu ngồi nghe, chết lặng người đi. Liệu bằng lòng lấy Đường vì yêu Đường thành thực. Không ngờ Đường chỉ dùng nàng như một thứ nguỵ trang để che giấu và thực hiện âm mưu của anh.

Đã gần hết nửa tiếng. Đường nói tiếp, vừa đủ cho Liệu nghe thấy:
-“Bây giờ thì tất cả sự thành bại nằm trong tay Liệu. Liệu có thể ra báo thẳng cho tên Trưởng ty Công an ngoài kia để trả thù tôi về cái việc đã làm tai tiếng và lỡ dở cả cuộc đời của Liệu. Tôi bắt buộc hành động như vậy vì không còn cách nào khác. Như thế là hèn nhát, là tàn nhẫn, nhưng mẹ tôi đau nặng ngoài Hà Nội, các em tôi còn nhỏ cả. Bây giờ Liệu đã biết tôi không có ý lấy Liệu làm vợ, Liệu có toàn quyền định đoạt”.
Đường quay gót đi ra cửa.
Đến cửa buồng thì Liệu gọi tên anh. Đường quay lại.
-“Bao giờ anh lại vào đây?”
Liệu hỏi thẩn thờ như trong giấc mộng.
-“12 giờ đúng. Tôi đã dự tính, tiệc rượu sẽ kéo dài đến 3, 4 giờ sáng. Còn tám món nữa mới đến tráng miệng. Nhưng Liệu hỏi để làm gì?”
Liệu đáp:
-“Anh cứ làm đúng chương trình của anh đi”.
Hai người nhìn nhau giây lát. Đường quay trở ra. Tiệc rượu ồn ào bên ngoài.

10 đến 12 giờ. Ngồi ở buồng ngoài, giữa những tên cán bộ cộng sản ăn uống, cười đùa như phá, giữa những vỏ chai, những tàn thuốc, những màu khói, Đường nghĩ đến một cái đích xa vời bé nhỏ lúc đó là Hà Nội, là tự do và đến một người rất gần là Liệu, Liệu ở buồng trong, giữa cái đêm tân hôn kỳ lạ nhất của đời người đàn bà.
12 giờ kém 5. Đường lại giả vờ. Anh ngã thật mạnh vào tên Trưởng ty Công an.
-“Ê, làm gì đấy! Chưa uống đã say hử?”
Đường tạo giọng nói ngất ngưởng nhất:
-“Say thật đấy? Chẳng uống được… các anh ép tôi, các anh hại tôi…”
Giọng anh bét nhè thêm:
-“Đêm tân hôn của tôi… các anh hại tôi…”

Cả bàn tiệc rung chuyển trong những tiếng cười tiếng thét. Tên Chánh án Quân sự hét thật to, cầm cả một vỏ chai đập thẳng vào mặt tường. Tiếng thuỷ tinh vỡ tan tành trên mặt đất.
-“Thôi nó say, cho nó vào với cô dâu”.
-“Cho vào! Cho vào!”
Đường đứng lên, càng giả vờ loạng choạng hơn:
-“Thế còn các anh? Không, tôi ở lại…”
Chúng nó giậm chân, thét lên:
-“Cho vào. Để mặc chúng tớ. Chúng tớ còn say tới sáng. Còn rượu cứ đưa đây là được rồi. Rượu đâu? Rượu đâu?”
Đường chỉ vào góc buồng. Giữa một đống vỏ không, còn đến gần 20 chai sâm banh chưa mở nút.
-“Tốt, được. Thôi vào đi”.

Đường đi loạng choạng thêm vài bước nữa. Vừa qua cửa buồng, anh đóng nghiến cửa lại. Anh gục đầu xuống. Tấn kịch đóng với chúng nó từ chập tối làm anh mệt lả. Anh dựa đầu vào vách. Tiếng nút rượu mở lốp bốp bên ngoài. Tiếng cười, tiếng đập phá, tiếng thuỷ tinh vỡ. Một lát, Đường ngẩng lên lo lắng. Trước mặt anh, rất gần, Liệu đứng yên lặng. Liệu đã thay áo đen từ bao giờ. Cái áo cưới màu hồng vứt dưới đất, ở một chân giường.
Đường ngạc nhiên lại gần. Hai người nhìn nhau, rồi Liệu nói:
-“Tôi bằng lòng để anh đi”.
-“Tôi cám ơn Liệu”.
-“Nhưng tôi cũng đi với anh”.
Đường mở mắt thật to. Điều này ở ngoài chương trình. Hai người trân trân nhìn nhau một lúc nữa. Sau cùng họ mỉm cười. Đường nắm lấy tay Liệu. Hai người cùng đi ra cửa sau.

Ra đến ngoài, vừa đúng 1 giờ đêm. Phố Vân Đình vắng tanh vắng ngắt. Lần đầu tiên trong mấy năm trời, đêm ấy không có cái bóng đen đứng rình ở bên kia đường. Chúng nó còn đang canh gác mấy chai sâm banh.
Đường dắt Liệu đi xuống bờ ruộng. Hai người cứ men theo thân lúa mà đi ra khỏi địa hạt Vân Đình. Tiếng cười nói từ một bàn tiệc nào cứ xa, cứ nhỏ dần rồi mất hẳn. Đường và Liệu đến một cánh đồng bát ngát. Đêm tối đen đặc chung quanh.
Liệu hỏi nhỏ:
-“Ông Đường, mấy giờ rồi?”
-“Thưa cô, ba giờ”.
Họ tự biết không còn là vợ chồng.
-“Ở đây là đâu ông?”
-“Lối về Văn Điển cô ạ”.

Hai người lại im lặng đi tiếp. Bàn tay Liệu nằm gọn trong tay Đường. Anh dắt người thiếu nữ đi men theo những bờ đất nhỏ. Yên lặng một đoạn thật dài.
Bỗng Liệu cất tiếng:
-“Tại sao ông chờ mãi đến đêm nay mới cho tôi biết?”
-“Tôi cũng thấy như vậy là không phải, nhưng tôi không dám tin cô. Sợ cô biết trước, câu chuyện dễ bại lộ”.
-“Đúng”, Liệu nói vắn gọn “nhưng nếu tôi không thoả thuận thì sao? Tôi ở lại thì ông nghĩ thế nào?”
-“Tôi chỉ định về một mình”.
-“Ông có sự tính đến trường hợp tôi báo tên Trưởng ty Công an biết không?”
-“Có. Nhưng đến lúc vào buồng lần thứ nhất trở ra, tôi có cảm tưởng cô sẽ không làm thế!”
-“Ông tin ở cái gì chứ?”
-“Tôi cũng không biết nữa. Có lẽ ở cái nhìn, ở sự im lặng của cô lúc đó”.
Họ nói chuyện thì thầm với nhau suốt đoạn đường còn lại. Họ cũng cười khi nghĩ đến những tên công an cộng sản vẫn còn ngã nghiêng, vẫn còn tuý luý trong bữa tiệc thâu đêm và chúng vẫn yên trí rằng hai người còn ở buồng bên cạnh.
Đường thích thú về cái ý nghĩ chúng không thể nào ngờ được anh lại bỏ đi, đúng vào đêm tân hôn, Đường đã bỏ đi, Liệu đã giúp anh. Họ đã thoả thuận đổi một đêm tân hôn thành một đêm đi tìm đời sống và tự do ngoài khu vực tăm tối. Chỉ có một điều làm Đường băn khoăn là anh cho làm thế, anh đã làm hại đời Liệu.

Tờ mờ sáng hôm sau, hai người đến quận Văn Điển bình yên vô sự. Đường xin cấp giấy thông hành cho anh, cho Liệu. Xong xuôi rồi, anh đưa Liệu ra bến xe.
-“Thôi bây giờ Liệu có thể về Hà Nội một mình. Chúng ta sống với nhau một đêm kỳ lạ nhất. Tôi cám ơn Liệu và tất cả. Tôi sẽ giữ những kỷ niệm đẹp nhất về Liệu”.
Người thiếu nữ nhìn anh qua khung xe. Đường lặng người, vừa ngạc nhiên, vừa cảm động. Nước mắt Liệu chảy ướt hai gò má. Liệu mỉm cười qua nước mắt:
-“Anh tưởng anh bỏ em được ư? Anh sẽ gặp mẹ anh, các em nhỏ của anh. Nhưng em, em sẽ gặp ai? Anh đã làm xong xuôi kế hoạch của anh. Nếu bây giờ là kế hoạch của Liệu thì anh nghĩ sao?”
Đường sốt sắng:
-“Tôi chịu ơn Liệu nhiều vô cùng. Liệu bảo gì tôi cũng làm. Liệu cũng có kế hoạch ư?”
-“Có. Anh lên đây. Anh cùng về với Liệu”.
Hai người nhìn nhau rưng rưng. Đường lặng lẽ lên ngồi bên cạnh Liệu. Phía trước mặt họ, con đường số 1 chạy thẳng về một hướng thành phố.

Đường đã vượt khỏi biên giới của cộng sản. Đường không vượt được biên giới của tình cảm. Anh đã ở lại vĩnh viễn trong biên giới của người thiếu nữ.

Hai người hiện có mặt ở miền Nam.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeFri Sep 28, 2018 8:35 am

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Images?q=tbn:ANd9GcQDHlROlqLhw8KCT7p__AONQpcPfyB_oDbViMFceBBuUl1BAlmGfA

Hoa hồng nhung thứ tám
Trần Mộng Tú


Bà Hằng liếc vội vào trong chiếc gương nhỏ, thoa chút má hồng trên má, một mầu son thật nhạt. Bà không dám trang điểm mạnh sợ trông già, bà đã kín đáo ăn mặc trẻ trung hơn số tuổi của mình. Chỉ còn hai mươi phút nữa máy bay đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhứt, người đàn ông trẻ hơn bà mười lăm tuổi sẽ đón bà bên dưới. Bà thấy hồi hộp chen lẫn một chút ngượng ngùng.

Cả ba tháng nay bà đã e-meo, gửi ảnh, nói điện thoại với Trí. Trí bằng tuổi em út bà, nhưng Trí rất lịch lãm, nhìn trong hình thấy khá sáng sủa, Trí có giọng nói ấm, không kiểu cách, Trí cho biết đang làm giám đốc một công ty du lịch tư nhân, hùn vốn với hai người bạn. Trí sẵn sàng làm người hướng dẫn viên, người yêu của bà Hằng sau ba tháng hai người biết nhau nhưng chưa biết mặt. Trí nói chưa lập gia đình bao giờ, bà Hằng vừa hoàn tất thủ tục ly dị được sáu tháng, không phải nuôi con nhỏ.
- "Thật là tuyệt!" Trí nói tiếp "Hằng hiểu là tình yêu không có tuổi phải không? Hằng ở trong hình không thể nào ở tuổi 55 được, ở ngoài chắc Hằng còn trẻ nữa".
Hằng giao cửa tiệm One Hour Photo của mình cho một người anh họ, về Việt Nam gặp Trí, với mọi người trong gia đình bà giấu, chỉ nói là nghỉ về thăm quê, thăm họ hàng.

Trí đón bà Hằng với bó hồng nhung bẩy bông đỏ thẫm. Bà Hằng hơi khựng lại một chút khi thấy Trí trẻ hơn trong hình rất nhiều, người đàn ông Việt Nam ở tuổi 40 ăn mặc không khác gì những người đàn ông Việt Nam có tiền ở Mỹ. Quần xám đậm, áo xám nhạt ngắn tay, cà vạt vàng nhạt, hơi nới lỏng (cố ý) một chút để khoe một cái cổ ngăm ngăm hồng, khỏe mạnh.
Trí thuê một chiếc xe Camry còn mới, tự lái. Trí mở máy lạnh tối đa trước khi bà Hằng bước vào xe. Trí nhìn rõ cái bối rối của bà Hằng, Trí nhẹ nhàng trấn an bằng một câu hỏi:
"Hằng có biết tại sao lại là 7 bông hồng mà không là 8 hay là 10?" Bà Hằng chưa kịp trả lời thì Trí mỉm cười, giọng ấm áp nói tiếp:
"Vì Hằng chính là bông thứ 8 rồi. Người Pháp không bao giờ tặng hoa cho phụ nữ ở số chẵn cả, vì họ luôn luôn kể nàng là một bông"
Bà Hằng lặng người đi một giây, từ lúc xuống máy bay đến phút này, bà mới gật đầu chào Trí, chưa nói được tiếng nào. Khi rời Mỹ, bà rất tự tin, bà nghĩ dầu sao bà ở Mỹ lâu năm, tiếp cận đời sống văn minh hơn, nói tiếng Mỹ khá hơn và trẻ hơn những người đàn bà khác cùng tuổi bà ở Việt Nam rất nhiều, Trí sẽ thán phục, và mê bà rất nhanh.

Trí đã lấy sẵn buồng trong Continental cho bà, sau khi làm thủ tục giấy tờ, Trí không hấp tấp nhận phòng, anh cất chìa khóa của bà vào túi áo mình. Với cử chỉ lịch lãm, tự nhiên, anh nâng nhẹ khuỷu tay bà Hằng nói: "Hằng cần uống một chút gì cho mát trước khi lên phòng"
Bà Hằng gọi một ly nước dừa tươi, trong khi Trí uống bia. Hai người im lặng nhìn nhau. Đây là lúc cả hai cùng định giá kể đối diện. Trí uống một ngụm bia, nheo mắt nhìn bà Hằng một giây, khẽ mỉm cười, rồi ngửa cổ ra đằng sau hơi duỗi người ra một chút trên ghế, chiếc sơ mi mỏng cho khí hậu nhiệt đới bám sát vào mình chàng, cho bà Hằng nhìn rõ thân thể còn quyến rũ của người đàn ông trẻ, bà bối rối nhìn vào cây hoa bông giấy qua vai Trí. Trí như đọc được tư tưởng của bà Hằng, nói một câu vừa khen vừa trấn an:
"Hằng trẻ hơn tôi hình dung nhiều".
Bà Hằng tuy hài lòng, nhưng bắt đầu cảm thấy hơi bất an.

Khi đưa Hằng lên phòng, Trí có cái phong cách của một người đàn ông đưa người tình vào khách sạn. Anh thản nhiên đến bên giường, ghé ngồi xuống, tháo giầy tháo vớ, rồi đến bên bà Hằng xoay mặt bà đối diện với anh. Bà Hằng chưa kịp phản ứng thì Trí đã khóa bà lại trong tay anh và hôn tới tấp trên mặt trên cổ bà. Khi bà vừa kịp nhập vào đà cuốn hút của Trí, thì lại đúng lúc Trí buông bà ra. Anh cúi xuống đi vớ đi giầy, nói nhẹ nhàng với bà:
"Em nghỉ một chút cho thoải mái, Tôi sẽ trở lại đón em chiều nay, mình đi ăn, đi chơi."
Chữ "em" Trí gọi bà, làm bà quên bẵng đi cái khoảng cách 15 năm giữa bà và Trí.
Bà Hằng ở lại Việt Nam hai tuần, bà tiêu đến đồng mỹ kim cuối cùng của số tiền tám ngàn mang về. Trong đó có tiền khách sạn, tiền du lịch, tiền may sắm cho người tình trẻ. Bà không hối hận, bà tự nhủ "Nếu như Trí có quên bà ngay, sau khi bà rời Việt Nam thì cũng là chuyện tất nhiên, bà nhiều tuổi hơn Trí quá, bà chẳng trông mong gì một mối tình lâu dài. Đây là một sự trao đổi lịch sự. Cả hai cùng biết giá của món hàng mình phải trả".
Nhưng thật sự bà Hằng có hạnh phúc trong hai tuần lễ đó không thì chỉ có mình bà trả lời được.

Cách đây 3 năm, ông Tâm chồng bà, đã về Việt Nam lấy một người con gái hơn con gái đầu lòng của ông bà hai tuổi. Ông Tâm lấy lén lút, và tìm cách cứ vài tháng lại về du lịch Việt Nam một mình. Bà Hằng biết được, ông Tâm ra điều kiện ly dị hẳn hay chấp nhận cho ông một cảnh hai quê. Bà Hằng vì tự ái, chọn giải pháp ly dị.
Để trả thù, bà đi mỹ viện chỉnh trang lại nhan sắc, đi ghi tên tập thể dục thẩm mỹ, đi học khiêu vũ, và cuối cùng bà nghe lời bè bạn, vào internet tìm bạn phương xa. Phong trào về Việt Nam tìm bạn trai trẻ tuổi hơn mình không còn là vấn đề phải tránh né khi đề cập đến. Đã có nhiều bà bạn hơn bà 5,6 tuổi. Nghĩa là đã sáu mươi vẫn kiếm được người yêu, người bồ kém mình mười tuổi rất thường. Các bà quan niệm đàn bà sống lâu, trẻ dai hơn đàn ông, nhất là đàn bà sống ở Mỹ. Tiền bạc và những tiện nghi vật chất đã giúp các bà không những có bề ngoài trẻ trung mà trong tâm họ cũng quên đi một số năm tháng đã đi qua đời mình.
Trong hai tuần ở Việt Nam, bà Hằng được Trí chiều chuộng hết sức, coi bà như một người tình bé bỏng. Khi Trí đưa bà lên núi thì bà tưởng chàng là Sơn Tinh, vì chàng vừa leo dốc vừa đỡ bà mà không biết mệt, khi chàng đưa bà xuống biển thì bà ngỡ chàng là Thủy Tinh vì chàng bơi giỏi quá, thân thể chàng còn đẹp quá! Bà mơ màng nghĩ kiếp trước có thể bà là Mỵ Nương con của vua Hùng Vương thứ 18 nên kiếp này mới gặp Trí. Chỉ khi Trí tiêu tiền của bà thì bà hơi hốt hoảng, nhưng bà vội nhủ lòng. "Tiền bạc mà làm gì, lúc chết đâu đem theo được, hãy tận hưởng mối tình cuối đời, ta đang mua hạnh phúc mà".

Bà Hằng ngồi trên máy bay trở về Mỹ, nhìn qua khung cửa sổ nghĩ đến Trí đang đi tìm mua một bó hồng nhung 7 đóa để đón một người đàn bà khác trong chuyến bay sắp tới. Bà hình dung ra nét cười nhẹ, cử chỉ lịch lãm, giọng nói ấm áp của Trí khi nói về bông hoa thứ 8 với một người đàn bà ít ra cũng hơn chàng cả 10 tuổi.

Phi đạo xa dần, nhà cửa bé lại, cây cỏ mờ nhạt. Tất cả bỗng biến mất chỉ còn lại những từng khí quyển chồng lên nhau như ngàn chiếc dù trắng, xóa sạch cả núi của Sơn Tinh, cả biển của Thủy Tinh...
Bà Hằng ôm ngực kêu lên trong cuống họng:
"Ôi Mỵ Nương!"

Trần Mộng Tú
Nguồn: http://etruyen.com
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeTue Oct 16, 2018 2:10 pm

.

Nếu mẹ trẻ lại
Nguyễn Thị Thanh Dương

 
Tôi vội vàng bỏ vào giỏ xách quả cam và miếng bánh bông lan để chuẩn bị đi thăm mẹ. Nursing Home chỉ cách nhà 15 phút lái xe rất tiện cho tôi đến thăm mẹ mỗi ngày.
 
Tưởng rằng về hưu tôi sẽ có nhiều thì giờ thong thả hơn để thăm mẹ thế mà vẫn thường có lý do bận rộn, không chuyện này thì chuyện kia, lần nào cũng hấp ta hấp tấp.
Hôm nay tôi vừa đi dự đám sinh nhật cháu một người bạn nên về nhà trễ, thế là đi thăm mẹ cũng trễ theo.
Ký tên ở ngoài bàn security ngay cửa ra vào của Nursing Home xong tôi vào thang máy lên lầu hai.
Bước vào phòng mẹ thấy hai chiếc giường trống vắng, mẹ tôi và bà “bạn” cùng phòng vẫn chưa về, chắc là hai bà đang ở phòng ăn hoặc phòng khách.
Không biết cố tình hay ngẫu nhiên mà họ sắp xếp hai bà già Châu Á nằm chung phòng, bà kia người Philippines, nhưng dù bà là người gì, mỹ đen, mỹ trắng, mỹ da đỏ hay Ả Rập thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến nhau vì cả hai bà đều mất trí, ngơ ngẩn, chẳng ai nói với ai một lời nào. Hai giường nằm gần nhau, chỉ cách nhau một tấm màn mà hai thế giới xa xăm vời vợi.
 
Tôi đến phòng ăn thì thấy mẹ vẫn đang ngồi trong chiếc xe lăn bên sát bàn ăn, trên bàn là những mẩu bánh mì sandwich xé nhỏ nằm trong vũng sữa lênh láng, mẹ tôi đã bốc mẩu bánh mì từ vũng sữa ấy bỏ vào miệng nhai, nhưng có lẽ bà chẳng biết là đang ăn cái gì.
Sữa từ bàn chảy vào áo mẹ, sữa dính nhoe nhoét trong bàn tay mẹ. Thấy mà thương.
Mấy năm mẹ nằm trong Nursing Home, hầu như ngày nào tôi cũng đến thăm mẹ nên từ nhân viên an ninh ngoài cửa đến supervisor và  các nhân viên chăm sóc người gìa người bệnh trong này ai cũng quen mặt tôi
Thấy vẻ mặt bất bình không vui của tôi người nhân viên đứng gần đó vội trình bày:
- Bà ấy vừa làm đổ ly sữa ra bàn tôi bận phía này nên chưa kịp lau.
Bao giờ họ cũng có lý do chính đáng, những người gìa người bệnh trong Nursing Home nếu không mất trí nhớ thì cũng lẩm cẩm, cũng ốm đau có ai hiểu gì, có ai còn sức mà lên tiếng trách chê, cho nên họ được chăm sóc thế nào tùy theo lương tâm hay tâm trạng vui buồn của những nhân viên chăm sóc này mà thôi.
 
Tôi đẩy xe lăn đưa mẹ về phòng, đi qua mặt bà Ann. người cùng phòng với mẹ tôi. Bà Ann đang ngồi gục đầu trong xe lăn trông thật tội nghiệp, bà Ann khoảng 80 tuổi, trẻ hơn mẹ tôi gần chục tuổi mà tình trạng sức khỏe chẳng khá hơn là bao, bà cũng bị mất trí nhớ, cõi mê âm u, cõi tỉnh thì chỉ trong phút giây mơ hồ huyền hoặc.
Thỉnh thoảng tôi gặp con gái bà đến thăm, chúng tôi nói chuyện tôi được biết bà Ann trước kia là dược sĩ. Nhìn nét mặt sáng sủa thông minh của bà tôi đã hình dung ra cô dược sĩ xinh đẹp của mấy chục năm về trước. Chắc cô Ann đã từng có những hạnh phúc, tiền bạc trong tay, nhưng giờ đây là bà Ann lú lẩn chẳng biết gì.
Có lần tôi hỏi bà Ann, bà là dược sĩ phải không, gương mặt đờ đẫn ấy nhìn tôi rồi gật đầu, giây phút hiếm hoi mong manh ấy bà Ann đã chợt nhận ra mình.
 
Mẹ tôi cũng thế, từ một cô gái xinh đẹp đã làm say đắm nhiều chàng trai bây giờ là bà gìa ngớ ngẩn.
Về đến phòng tôi mới phát giác ra mẹ đã “làm xấu” đầy trong tã lót, thế là tôi đỡ mẹ nằm lên giường để lau chùi và thay tã lót cho mẹ.
Kể từ khi gởi mẹ vào Nursing Home tôi đã làm được nhiều việc như những nhân viên chăm sóc đã làm, tôi thay được khăn trải giường, thay tã lót ngay lúc mẹ tôi nằm trên giường.
Tôi đã quen với mùi gìa, mùi hôi thối, mùi bẩn, mùi thuốc men của các cụ gìa...
Chính tay tôi lau chùi vệ sinh cho mẹ nếu gặp đúng lúc như thế này, hoặc mỗi khi vào thăm mẹ, trước khi ra về tôi đều lau chùi lại mặt mũi, mình mẩy mẹ cho thật sạch sẽ thì mới yên tâm.
Mẹ nằm ngoan ngoãn như một đứa trẻ để yên cho tôi chăm sóc. Khi xong việc tôi sẽ cho mẹ ăn bánh bông lan hay vài múi cam đã bóc hết các lớp vỏ. Bà không còn răng, móm mém nhai và nuốt được tí nào hay tí ấy.
 
Khi tôi đang đút mẩu bánh bông lan thì đột nhiên mẹ cầm lấy tay tôi giọng reo vui:
- Cái vòng đẹp qúa, cho… em đi.
Nãy đi đám sinh nhật về tôi chưa kịp tháo dây chuyền, tháo vòng tay thế mà mẹ gìa mất trí của tôi cũng nhận ra, mẹ lắp bắp vòi vĩnh tiếp:
- Cho em… cái vòng tay đi, em… muốn đẹp.
Tôi bất ngờ qúa, hiếm khi mẹ cất tiếng nói, hôm nay mẹ lại nói được hai câu và xưng “em” với chính con gái của mẹ. Thật ngộ nghĩnh và đáng yêu.
Có điều gì sâu thẳm trong tâm hồn gìa nua mất trí ấy vừa le lói thức dậy?
Tôi chiều mẹ tháo chiếc vòng tay đeo vào cổ tay gầy guộc của mẹ. Bỗng dưng tôi chạnh lòng, cổ tay này xưa kia mẹ đã đeo bao nhiêu lần chiếc vòng tay để làm đẹp rồi...
 
Tuổi gìa gần đất xa trời mẹ vẫn có nét đẹp của tuổi trẻ, khuôn mặt thanh thoát, chân tay dài thon thả. Vậy mà cả đời mẹ hình như chưa được hưởng hạnh phúc.
Được đeo chiếc vòng tay mẹ có vẻ hài lòng ăn hết miếng bánh bông lan và ăn thêm vài miếng cam nữa.
Chỉ vài phút sau thì mẹ quên cả chiếc vòng và nhắm mắt đi vào giấc ngủ
Tôi tự hỏi mẹ có thấy gì trong giấc ngủ không, một quãng đời thanh xuân của mẹ?
Tôi lấy lại chiếc vòng vì luật trong Nursing Home các bệnh nhân không được đeo trang sức.
Khi tôi đang chuẩn bị ra về thì người nhân viên đẩy xe lăn bà Ann về phòng, anh ta trải lại giường và đỡ bà Ann lên nằm, bà co rúm người lại trong hai cánh tay mạnh khỏe của người nhân viên. Hình như bà Ann cũng biết mắc cỡ bên người khác phái lạ lẫm.
Cô Ann dược sĩ trẻ trung ngày xưa làm sao hình dung ra được cảnh này, cô sẽ thành một bà gìa bệnh hoạn, tàn tạ, mọi sinh hoạt đời thường của cuộc sống hoàn toàn lệ thuộc vào người khác.
                
***

Tôi về đến nhà chồng tôi hỏi thăm như thường lệ:
- Mẹ vẫn khỏe chứ em.
Tôi khoe:
- Nhưng hôm nay có một chuyện lạ anh ạ, mẹ thấy em đeo vòng tay mẹ thích lắm đòi đeo và xưng “em” với em. Hay là mẹ bắt đầu… tỉnh trí hả anh?
- Có thể nhìn cái vòng đeo tay vùng ký ức của mẹ bất chợt lóe lên một hình ảnh xa xưa nào đó.
- Ừ nhỉ… ngày xưa mẹ em hay diện, đeo vòng tay…
Chồng tôi trêu đùa:
- Ngày xưa mẹ em đẹp thế mà con gái mẹ ích kỷ không cho mẹ đi lấy chồng.
Chồng tôi vẫn đùa thế, nhưng lần này lòng tôi chợt đau nhói khi nhớ lại nét mặt vui mừng của mẹ được tôi đeo chiếc vòng tay.
 
Mẹ tôi lấy chồng năm 20 tuổi, là con gái duy nhất trong một gia đình giàu sang được cha mẹ hết mực thương yêu chăm sóc. Sinh được hai chị em tôi, năm mẹ mới 24 tuổi thì cha tôi qua đời vì bạo bệnh, mẹ mang hai con về ở chung với cha mẹ.
Ông bà ngoại tôi nề nếp và cổ hũ phong kiến, nghiêm ngặt khuyên con gái góa của mình phải ở vậy thờ chồng nuôi con.
Bà ngoại luôn “tâm lý chiến” thủ thỉ với mẹ tôi:
- Con còn muốn gì nữa, danh vọng tiền tài và con cái con đều có đủ. Chồng con mất đi thiên hạ vẫn gọi con là bà bác sĩ, con có gia tài của chồng để lại, con có hai con xinh đẹp đủ nếp đủ tẻ. Nếu con tái gía thì liệu có giữ được mãi những điều này không? Hai con của con sẽ khổ vì cha ghẻ, sẽ hờn giận mẹ đã san sẻ tình thương cho người khác, con có yên tâm mà hưởng hạnh phúc với chồng mới không?.
Người góa phụ xinh đẹp trẻ trung đã được nhiều chàng trai dòm ngó, họ đến nhà thăm mẹ thì đến lượt ông ngoại tôi ra tay ngăn cản bằng hành động.
Khách ngồi nói chuyện với mẹ thì ông cầm chổi lông gà… phất bụi trên tủ, trên kệ trước mặt khách hết sức lộ liễu khiến không ai dám ngồi lâu. Thậm chí khi họ chào ông để ra về ông ngoại đã đáp lại không cần nể nang lịch sự gì cả:
- Phải, mời anh về.
 
Tôi lớn dần lên và về phe với ông bà ngoại nhất định không muốn mẹ đi lấy chồng, chỉ muốn mẹ mãi là của riêng mình.
Năm tôi lên 10 đã biết cầm chổi lông gà phất lên mặt tủ thờ ngoài phòng khách để… đuổi khách của mẹ về. Tôi còn nhớ có ông tên Thảo, là một thanh niên có học thức, con nhà giàu chưa từng lấy vợ, yêu mẹ tôi và sẵn sàng chấp nhận gá nghĩa đá vàng với người góa phụ hai con.
Thế mà ông bà ngoại tôi vẫn không hề cảm động, giữ vững lập trường muốn con gái ở vậy thờ chồng nuôi con suốt đời.
Tôi ghét ông Thảo không thua gì ông bà ngoại đã ghét. Mỗi lần nghe mẹ nhắc tên ông Thảo là mặt tôi sưng xỉa lên và tôi khóc ầm ĩ làm mẹ phải năn nỉ dỗ dành.
Mẹ tôi đã buồn, đã khóc vì cha mẹ và con cái ngăn cản. Cuối cùng tình cảm gia đình vẫn cao hơn tình riêng. Mẹ tôi từ chối lời cầu hôn của người mình yêu để sống cho trọn vẹn tiết trinh với người chồng qúa cố, làm đẹp lòng cha mẹ và con cái.
Tuổi xuân của mẹ lặng lẽ trôi qua, hai chị em tôi lớn lên có nghĩa là mẹ đã gìa đi, tôi nào biết mẹ tôi đã từng khóc thầm vì cô đơn, vì khao khát một tình yêu với mối tình không bao giờ đến đoạn cuối như mong muốn của mẹ.
 
Năm cuối cùng trung học, trong một dịp theo trường đi cắm trại ở Vũng Tàu tôi đã quen một anh. Anh chàng lính hải quân hào hoa đẹp trai, tàu anh đang cặp bến Vũng Tàu.
Anh  đã làm quen với tôi khi tôi đang ngồi trên bờ biển nghịch cát. Anh ngồi xuống cạnh tôi:
- Chào cô bé, cho anh chơi chung với nhé…
Tôi ngỡ ngàng chưa kịp đáp thì anh tiếp:
- Em muốn gì cứ… sai anh, anh sẽ làm cho em.
Tôi lấy lại bình tĩnh và chanh chua Bắc kỳ:
- Anh xây giùm em căn nhà trên cát và bắt giùm em mấy con dã tràng.
- Ôi, cô bé mắng anh hão huyền chứ gì, không cho anh làm quen chứ gì.
Anh cũng là Bắc kỳ nên qúa hiểu con gái Bắc. Anh cứ lì thế mà chẳng công dã tràng tí nào cả, chẳng phù du như xây nhà trên cát gì cả, cuối cùng anh đã quen được tôi, xin địa chỉ nhà và hứa khi nào về Sài Gòn anh sẽ đến thăm tôi.
 
Trời… quả báo tôi. Hôm anh hải quân đến nhà, bà ngoại tôi nhìn anh chăm chăm  từ đầu đến chân với vẻ ác cảm như nhìn một… quân thù, làm như chàng thanh niên xa lạ này sẽ đến bắt cóc đứa cháu gái xinh của bà.
Ông ngoại  lại cầm chổi lông gà… phất bụi trên tủ thờ ngoài phòng khách như những năm xưa đã đuổi khéo khách của mẹ tôi làm tôi vô cùng ái ngại, thương cho bộ quần áo hải quân trắng toát của chàng và thương chàng đang lúng túng không dám nói năng gì vì có ông bà ngoại lù lù đứng gần.
Chàng chịu hết nổi bèn đứng dây kính cẩn chào ông bà ngoại tôi:
- Xin phép ông bà cháu về ạ.
Ông ngoại đáp thẳng thừng, câu nói y chang như ngày xưa với bạn trai của mẹ tôi.
- Phải! mời anh về.
Bà ngoại thì “tử tế” hơn, dặn dò::
- Ừ, cháu về chạy xe cẩn thận nhé.
 
Khách về rồi ông bà ngoại mắng mẹ tôi đã không để ý đến con gái, nó chỉ theo trường đi cắm trại ở biển Vũng Tàu vài hôm đã… dắt về nhà một thằng hải quân chẳng biết nguồn gốc lai lịch con cái nhà ai. Thế lỡ nó đi cắm trại trong rừng dắt về nhà… một thằng mán thằng mường chúng ta cũng phải tiếp à...
Rồi ông bà ngoại đe dọa tôi liệu cái thần hồn học cho bằng được cái nghề dược sĩ hay bác sĩ như người cha qúa cố của tôi rồi mới được lấy chồng.
Nhưng mối tình đầu của tôi với anh hải quân càng ngày càng thắm thiết, tôi khóc lóc, tôi đe dọa tự tử và đe dọa… sẽ bỏ nhà đi theo anh ta. Thế là ông bà ngoại đành chịu thua đứa cháu gái bướng bỉnh.
Mẹ tôi thì dịu dàng nói với tôi:
- Con làm đúng khi bảo vệ tình yêu của mình, như mẹ lỡ một đời…

Tôi trở về hiện tại khi chồng tôi cầm tờ tuần báo từ phòng trong đi ra:
- Em đang nghĩ gì thế, anh đọc cho em nghe một mẩu tìm bạn bốn phương nè.
- Biết rồi, em đọc mục này thường xuyên.
- Anh cũng đọc thường xuyên, nhưng hôm nay anh bỗng suy nghĩ ra một điều. Này nhé một bà goá phụ 65 tuổi đang cô đơn cần tìm một người đàn ông nếu hợp sẽ… dìu nhau đi nốt quãng đường còn lại.
Tôi bật cười châm biếm:
- Dìu nhau là phải rồi vì cả hai cùng già, cùng lạng quạng đi đứng không vững. Sao đã ở vậy đến tuổi 65 mà không tiếp tục cho hết đời luôn nhỉ, lại còn… dở chứng?
- Ban đầu anh cũng nghĩ như em, nhưng bây giờ thì khác, người ta tìm nhau để cuộc sống không cô độc lẻ loi, mà cô độc lẻ loi thì buồn tủi lắm em ơi. Khi ta có đôi, đi đâu ở đâu ta cũng nghĩ ở nơi kia vẫn có người chờ đợi ta về sẽ thấy đời ấm cúng hẳn lên.
Tôi băn khoăn:
- Có phải anh suy nghĩ thế khi lúc nãy em vừa kể anh nghe mẹ em chợt tỉnh ra trong giây lát khi bà thấy cái vòng đeo tay của em, món trang sức ngày xưa bà thường dùng làm dáng, làm đẹp không?
- Chính thế. Ngày ấy mẹ em mới 24 tuổi, trẻ đẹp và nồng nàn tình xuân, thế mà hết cha mẹ đến con cái đã ngăn cản bà tái gía. Em có lỗi một phần trong cuộc đời mẹ cô độc thiếu vắng một người đàn ông, một vòng tay âu yếm, một bờ vai nương tựa.
Tôi nói như rên rỉ:
- Nghe anh nói em đau lòng quá! em thật đáng tội.
 
Hình ảnh mẹ tôi ngày xưa hiện ra khi tôi độ lên 10, mẹ tôi xinh đẹp hay làm duyên làm dáng đeo chiếc vòng tay bằng cẩm thạch lên nước trong xanh.
Thì ra hôm nay trong tiềm thức sâu thẳm lãng quên của mẹ tôi chút kỷ niệm nào đó vẫn còn. Bất giác mắt tôi cay cay…
Chồng tôi giục :
- Thôi em đi tắm, thay đồ rồi nghỉ ngơi, hôm nay em về muộn để anh sẽ thu gom quần áo em thay và đi giặt.
Thật ấm áp khi bên cạnh tôi luôn có người đàn ông cùng chung vui buồn, chăm sóc lo lắng cho nhau. Thế mà mẹ tôi đã không có những tình cảm này suốt cả một cuộc đời son trẻ.
Tôi đã từng hiểu ra điều này suốt bao nhiêu năm từ khi tôi lấy chồng, hạnh phúc êm ấm bên chồng. Đôi khi tôi thấy lòng áy náy thương mẹ, hối hận ngày xưa tôi đã ngăn cản mẹ lấy chồng, nhưng tôi lại tự an ủi và kiêu hãnh mẹ là người phụ nữ thanh cao lý tưởng trong mắt mọi người, là người mẹ tuyệt vời, người mẹ đáng kính nể và ngưỡng mộ của chị em tôi.
Chưa bao giờ  tôi cảm thấy ân hận và bị dày vò như ngày hôm nay.
Nếu như tôi cũng cô đơn như mẹ, nếu như đời tôi không có một người đàn ông yêu thương bên cạnh, cuộc đời sẽ chông chênh và buồn lắm.
Ngày xưa tôi yêu anh và lấy anh làm chồng thật xứng đáng, ông bà ngoại tôi đã lo ngại “thằng hải quân” đi lênh đênh khắp nơi, mỗi bến bờ quen một cô, cháu sẽ khổ cả đời. Nhưng ông bà đã đoán sai rồi, tiếc rằng ông bà ngoại không sống đến ngày nay để thấy anh hải quân của tôi vẫn là người chồng, người cha tốt.
 
Anh đi vào phòng tắm ôm ra một rổ quần áo dơ để vào phòng giặt. Thấy tôi vẫn ngồi yên anh ngạc nhiên đến gần:
- Em sao thế?
Tôi ngước lên nhìn anh, đôi mắt cay cay đã long lanh giọt nước mắt:
- Anh ơi, anh có biết em đang nghĩ gì không? Nếu… nếu… mẹ trẻ lại như xưa…
Anh nghe lầm nên hỏi ngược lại:
- Nếu em trẻ lại như xưa hả? Vậy em còn muốn yêu anh nữa không? Hay lại chê “Thằng hải quân lông bông” như ông bà ngoại em đã chê? Đến bây giờ anh vẫn nhớ cái cảm giác khi lần đầu gặp ông bà ngoại em, nếu tàu anh ra khơi có… đụng độ tàu địch ngay trước mặt anh cũng chưa bối rối đến thế.
- Anh nghe kỹ đây, không phải em mà là mẹ em. Nếu mẹ trẻ lại như xưa,  khi em 10 tuổi em sẽ không bắt chước ông ngoại cầm chổi lông gà phất buị trên tủ để đuổi khách của mẹ đâu, em sẽ không đành hanh ghét ông Thảo đâu, em sẽ bảo mẹ đi lấy chồng. Em ân hận lắm. Ôi, nếu mẹ trẻ lại… nếu mẹ trẻ lại…
 
Anh hiểu ra, an ủi tôi:
- Chúng ta không thể lấy lại qúa khứ, em đừng tự trách mình như thế, hãy sống với hiện tại, chăm sóc mẹ tận tình để báo hiếu mẹ đã hi sinh cả một thời xuân xanh nuôi con khôn lớn.
Tôi lau nước mắt mỉm cười:
- Vâng, chiều mai em vào thăm mẹ, em lại đeo vào tay mẹ chiếc vòng này để mẹ có khoảnh khắc vui như thiếu phụ còn xuân đang làm đẹp cho mình, cho người tình mình thương mến, dù chỉ là một niềm vui ngớ ngẩn.
Chồng tôi nhắc nhở:
- À, em nhớ thăm bà Ann bên cạnh luôn nhé, con cái bà bận rộn không vào thăm thường xuyên như em. Biết đâu bà Ann cũng cần có ai đó bên cạnh để chợt nhớ ra mình là ai và được vui trong phút giây như mẹ em...

Nguyễn Thị Thanh Dương

.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeWed Nov 14, 2018 3:40 pm

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Images?q=tbn:ANd9GcRJcxYF-vp1sYy9GX30scLfirz_v8nb105z-1VL8jZ8TNko5wGMvw

Chọn vợ hiền

Nguyễn thị Thanh Dương


Anh Tư góa vợ khi tuổi đời còn trẻ. Anh đang đi tìm cho mình một tình yêu mới,một người vợ mới. Đối tượng anh mong ước là một phụ nữ chân quê hiền ngoan dịu dàng để bù đắp cho anh cuộc hôn nhân đầu không mấy hạnh phúc vì người vợ đanh đá lấn lướt chồng.

Anh quyết định tìm bạn bốn phương, nơi đây có nhiều cơ hội cho anh lựa chọn. Một vài bạn thân đã cản anh họ nói tìm vợ qua mục này là mạo hiểm gặp kẻ xấu nhiều hơn người tốt.
Người vợ qúa cố anh Tư đã gặp gỡ chẳng xa xôi gì, ngay trong hãng làm việc ngày nào cũng gặp mặt nhau và tìm hiểu nhau cả năm trời mới đi đến hôn nhân thế mà anh Tư vẫn lầm cưới phải một bà chằng.
Tìm bạn phương xa nếu có duyên vẫn gặp người như ý. Thế nên anh Tư muốn thử thách với đời. Người con gái đầu tiên ở Việt Nam tên Hoa anh Tư quen biết qua mục tìm bạn bốn phương trên mạng.
Anh Tư đã về Việt Nam gặp Hoa tại làng quê của cô ở Vĩnh Long, Hoa dịu dàng hiền lành đón nhận chuyện tình cảm với anh, chỉ tha thiết xin anh khi cưới cô rồi hãy là người chồng chung thủy suốt đời. Thật sung sướng và hãnh diện khi được người đẹp xin chút tình yêu và hạnh phúc.

Về Mỹ, sau một vài lần anh Tư gọi phôn nói chuyện là Hoa đã tự động gọi lại cho anh, tấn công tình cảm nhớ thương ráo riết đến nỗi anh như lạc vào cõi u mê gởi tiền về Việt Nam cho cô chi tiêu và học Anh Văn để chờ ngày anh làm giấy tờ bảo lãnh cô sang Mỹ, chưa kể thỉnh thoảng anh Tư còn gởi thêm tiền theo yêu cầu của Hoa để lo cho cha mẹ, cho các em khi gặp chuyện cần thiết
Cho đến một ngày, anh Tư trở về Việt Nam vì muốn mang niềm vui bất ngờ cho Hoa nên anh không báo trước. Anh hí hởn xách một va ly đầy qùa đến thẳng nhà nàng ở Vĩnh Long tưởng rằng cô thôn nữ dịu hiền tên Hoa sẽ mừng vui mở cửa đón anh và đón qùa vào nhà. Nhưng cửa mở là một anh chàng gương mặt ba trợn hất hàm hỏi:
- Anh tìm ai?
Anh Tư bối rối :
- Tôi tìm cô Hoa nhưng… chắc tôi đi lộn nhà?
Anh ba trợn điệu bộ thách thức
- Không lộn đâu, tôi là chồng cô Hoa đây.
Anh Tư càng thêm bối rối, lắp bắp:
- Ủa… cô Hoa đã... đã...
Anh ba trợn gằn giọng tiếp lời
- Đã có chồng. Hôm nay tôi theo vợ về quê ăn đám giỗ ông cố nội vợ.

Nhìn vẻ mặt và lời nói dữ dằn của anh ba trợn anh Tư biết điều rút lui ngay không muốn dây dưa thêm. Ra tới đầu ngõ anh mới hoàn hồn, một bà hàng xóm của cô Hoa đã chạy theo nói nhỏ với anh Tư:
- Con Hoa là gái bán bar ở Sài Gòn, thằng đó là chồng hờ con Hoa, con Hoa chuyên gài bẫy mấy ông gìa dê hay mấy tay Việt kiều mê gái để làm tiền.
Anh Tư hú vía kiểm điểm lại cũng mất khá nhiều tiền với Hoa nhưng may mà chưa tiến xa hơn, chưa thân tàn ma dại.
Cô Hoa đúng là một cô gái quê nhưng chỉ là trong qúa khứ mà thôi.
Tức giận và cay đắng vì bị lừa tình lừa tiền mất mặt với người thân và bạn bè vì ai cũng nghe tin anh sắp cưới được một người vợ hiền trẻ đẹp từ Việt Nam. Anh nghi ngờ và thù ghét tất cả những cô gái quê trẻ đẹp qua mục tìm bạn bốn phương.

Càng ghét anh càng tò mò thích ghé mắt vào mạng coi mục này, thấy cô Hoa lại tiếp tục đăng lời tìm bạn trai ở hải ngoại, cũng thiết tha, cũng chân thật như lần trước với tấm hình xinh đẹp của cô ai nhìn mà không động lòng. Không biết đã có anh chàng Việt kiều dại gái nào như anh đang đâm đầu vào chưa?
Nhưng một mẩu đăng tìm bạn của một cô gái khác đã đập vào mắt anh, lời rao tìm bạn rất thực tế:
“Tôi tên B.V. gái quê miền Bắc, hiền lành, nhan sắc khá. Muốn được kết hôn với bạn trai ở nước ngoài để thoát cảnh đói nghèo. Không phân biệt tuổi tác, chỉ cần tình yêu thương và tôi sẽ là người vợ hiền chung thủy”
Anh Tư đã nhún vai:
- Lại một cô Hoa thứ hai.
Lần trước cô Hoa là gái miền Nam, lần này B.V. là gái miền Bắc. Gái quê miền Nam nổi tiếng thật thà mà cô Hoa còn lừa lọc thế huống chi gái miền Bắc thường khôn ngoan đáo để khôn lường.

Anh chợt nảy ra ý định trả thù đời.
Thế là anh Tư làm quen với cô gái có tên tắt là B.V. Anh gọi số phôn của cô khi nghe đầu giây bên kia nói “A lô” anh Tư nói ngay:
- Tôi muốn gặp cô Bích Vân hay Bạch Vân gì đó.
Một giọng nói Bắc kỳ rụt rè và ngại ngùng:
- Anh… nhầm số rồi ạ…
- Tôi tin là gọi đúng mà. Có phải cô tìm bạn bốn phương trên mạng không? Tôi muốn làm quen với cô.
- Vâng, nhưng em không tên là Bích Vân, Bạch Vân. Anh nhầm ai rồi.
Anh Tư cố dằn cơn bực mình giải thích thêm:
- Tôi đọc mẩu rao gái quê hiền lành muốn tìm bạn, tên viết tắt là B.V. Thế không là Bích Vân, Bạch Vân thì là gì?
Cô gái cẩn thận hỏi lại:
- À, viết tắt là B.V. hở anh? chắc là em vì em tên Bền Vững, Nguyễn Bền Vững anh ạ.
Anh Tư mỉa mai nghĩ thầm: “Ngây thơ vụng về nhà quê qúa nhỉ. Chính mình đăng tìm bạn mà còn không nhớ B.V. là ai. Hừm, nói dối nhiều qúa nên không nhớ nổi, biết đâu Bền Vững cũng chỉ là cái tên gỉa cho ra vẻ nhà quê chính hiệu”.
Anh lẩm bẩm cho thuộc cái tên:
- Bền Vững… cái tên nghe lạ lạ...
Cô gái tự tin hơn:
- Bố em đặt thế vì muốn cho cuộc sống của em sau này luôn có hạnh phúc bền vững lâu dài. Nhưng cũng khổ lắm anh ạ, hồi còn bé đi học các bạn cứ trêu chọc vì tên em như tên con trai ấy.
Lối nói chuyện của cô Bền Vững thật chân quê. Nhưng anh Tư đã từng nghe về các cô gái Bắc lấp lánh sắc màu đủ kiểu, hiền lành mà chua ngoa, thật thà mà xảo trá, ngây thơ mà đầy bản lĩnh. Anh thú vị trước cuộc chơi này để cô Bền Vững trước sau gì cũng sẽ phơi bày bộ mặt thật.

Trong vòng một tháng hai người đã nói chuyện với nhau nhiều lần và thân nhau hơn. Nhưng chỉ có anh Tư gọi cho Bền Vững, chứ cô chớ hề gọi lại cho anh. Đó là phong cách làm cao “cáo gìa, chảnh chọe” của các cô gái Bắc đỏng đảnh. Anh nghĩ thế.
Thế là anh lại gọi cho Bền Vững để câu chuyện tiếp tục tiến triển như ý muốn. Lần này anh Tư sẽ tấn công nhanh hơn:
- Chào em Bền Vững.
Như thường lệ cô hỏi thăm lê thê:
- Anh Tư có khỏe không? Hai bác có khỏe không? và các anh chị em của anh ở bên Mỹ có khỏe không ạ?
- Mọi người đều bình thường. Lần sau em hỏi thăm thì gom lại thành một câu ngắn gọn là “Cả nhà anh có khỏe không?” là đủ rồi, khỏi cần dài dòng em nhé, giòng họ anh nhiều lắm, em hỏi thăm sao cho hết.
- Vâng ạ.
- Anh muốn báo em một tin vui là anh sẽ về Việt Nam thăm em và gia đình để hai ta gặp mặt và tìm hiểu nhau nếu hợp sẽ tiến xa hơn.
Bền Vững mừng vui:
- Thật thế hở anh. Em mong ngày gặp anh lắm. Em sẽ cho bố mẹ em biết để chuẩn bị đón anh về thăm quê hương em.
- Anh sẽ mua vé máy bay và báo cho em biết ngày giờ anh xuống sân bay Nội Bài.
Cho cô Bền Vững niềm hi vọng ngất ngây vui mừng xong anh Tư thở phào, coi như chấm dứt một vở hài kịch.
Sẽ có một người vỡ mộng như anh đã từng vỡ mộng.

Anh sẽ ngồi ở Mỹ và ung dung tưởng tượng ra cái ngày cô Bền Vững hí hửng ra phi trường Nội Bài đón anh về, cảnh cha mẹ cô chộn rộn ở nhà chờ mong con đưa bạn trai Việt kiều từ Mỹ về và mơ ước một tương lai tưoi sáng đang chờ khi con gái họ được cưới sang nước Mỹ định cư.
Nhưng cô Bền Vững sẽ bẽ bàng thất vọng vì chẳng có anh Tư việt kiều nào về trong chuyến bay, cô sẽ phải trở về với con người thật của cô, nếu cô không nham hiểm lừa đảo như cô Hoa thì cũng là một cô gái khôn ngoan đáo để nào đó ở thành phố đang bán bia ôm, đang làm bồ nhí đại gia, hay làm gái gọi muốn từ gĩa “ngành nghề” tai tiếng này để lập lại cuộc đời tươi sáng hơn dưới vỏ bọc là một cô gái quê hiền lành thật thà như trước kia cô chưa hề sa chân vào cạm bẫy cuộc đời.
Những Việt kiều xa xôi vạn dặm như anh Tư thì đời nào biết được những mảnh đời éo le như thế?
Anh Tư chợt cao hứng, ngồi nhà tưởng tượng ra chưa hả hê bằng tận mắt chứng kiến màn cuối của vở kịch bi hài này Lần trước anh bị gái đẹp lừa, lần này anh lừa lại gái đẹp thế là huề, không nợ nần ân oán gì nhau.
Anh quyết định mua vé máy bay về Việt Nam.
Anh sẽ nhìn thấy con cáo gìa đóng gỉa nai tơ và dĩ nhiên chẳng đời nào anh lộ diện chứ đừng nói đến chuyện theo con cáo ấy về quê hương nghèo khổ của nó như ngày nào anh đã theo chân cô Hoa về Vĩnh Long.

***

Anh Tư ở trong một khách sạn tại Hà Nội, ngày hôm sau anh thuê xe taxi đến phi trường Nội Bài.
Chuyến bay của anh cho cô Bền Vững đến vào buổi chiều, rất bài bản và đúng với thực tế vì anh đã hỏi tại dịch vụ bán vé máy bay ở Mỹ lịch trình ngày giờ chuyến bay về tới Việt Nam, dĩ nhiên anh không mua vé đi chuyến bay đó.
Còn chuyến bay thực sự có mặt anh Tư thì về Việt Nam sớm hơn một ngày nên hôm nay anh đã có mặt tại phi trường Nội Bài trà trộn với đám đông người bên ngoài đang chờ đợi đón thân nhân từ Mỹ về khi sắp đến giờ máy bay đáp xuống.
Anh Tư đứng một chỗ khuất kín đáo để ý kiếm tìm và dễ dàng nhận ra một cô gái trẻ mặc áo trắng tay cầm một cánh hoa Hồng màu đỏ đúng như anh và cô đã giao ước, còn cô chốc nữa đây sẽ mỏi mắt tìm anh chàng Việt Kiều từ trong bước ra cũng mặc áo sơ mi màu trắng, ngực áo có đeo bảng tên Nguyễn văn Tư không bao giờ xuất hiện.

Anh ngạc nhiên sững sờ vì cô gái trông thật sự nhà quê, cách ăn mặc đơn giản và nét mặt xinh đẹp hiền lành ngơ ngác giữa chốn đông người.
Chuyến bay đến đúng giờ hành khách từ trong kéo hành lý ra ngoài gặp gỡ thân nhân, cô Bền Vững đến gần nhìn kỹ từng người rồi lại lui ra chờ đợi người khác, nét mặt cô lúc thì lộ vẻ căng thẳng vui mừng lúc thất vọng lo âu. Cho đến khi dường như số hành khách của chuyến bay đã ra ngoài hết thì cô thật sự tuyệt vọng, cánh hoa Hồng đỏ trên tay cô hững hờ, cô đứng bơ vơ một góc chưa biết phải làm gì.
Anh Tư không hề cảm thấy hả hê thú vị như anh đã nghĩ, anh không muốn rút lui vì đã đạt ý nguyện mà trái lại anh càng tò mò muốn biết tâm trạng của cô lúc này.
Anh bước thẳng đến bên cô, anh sửa giọng cho khác đi một chút:
- Tôi có thể giúp gì cho cô không?
May qúa, cô không nhận ra giọng nói của anh vì có thể giọng nói qua phôn đường dài khác với giọng nói khi thực tế đối diện. Còn anh đã nhận ra đây là giọng nói của cô Bền Vững khi cô ngại ngùng chối từ và định quay đi:
- Không có gì ạ. Thôi tôi về đây.
- Tôi thật sự muốn giúp cô mà, nãy giờ tôi thấy cô đứng đây đã lâu.
Cô Bền Vững đành dừng chân lại:
- Không biết đã hết người của chuyến bay này chưa hở anh?
- Không còn ai nữa đâu.
Cô gái lập lại câu nói cũ:
- Thôi tôi về đây.
- Khoan đã, tôi có thể làm quen với cô được không? Tôi cũng là hành khách vừa từ nước ngoài về thăm Việt Nam, tôi thật sự muốn có một người bạn gái dịu dàng như cô.
Cô vội vàng từ chối:
- Không, tôi đã có bạn trai rồi. Hôm nay tôi đi đón anh ấy, chào anh.
- Tôi không tin thế vì bạn trai của cô đã không xuất hiện.
Cô gái khẳng định:
- Chắc anh ấy bận chuyện gì đó nên không về đúng hẹn chứ anh ấy nói dối tôi để được gì….
Cô gái tất tả bước đi như sợ bị người lạ níu áo lại.

Giây phút này tình thế đổi ngược, anh Tư bỗng bồi hồi cảm động và có chút ân hận, cô Bền Vững qủa là một cô gái hiền lành đoan trang vậy mà anh đã nghi ngờ và thử thách cô.
Anh Tư nhanh chóng đứng ngay trước mặt cô vì sợ cô đi mất:
- Cô Bền Vững, cô không nhận ra tôi sao? Tôi là Nguyễn văn Tư đây.
Cô Bền Vững đứng sững sờ nhìn anh Tư, anh nói giọng bình thường thật chậm cho cô nhận ra:
- Tôi là người đã làm quen cô trên mục tìm bạn bốn phương trên mạng hơn hai tháng nay và đã hẹn gặp cô ngày hôm nay.
Cô gái ngạc nhiên và mừng rỡ:
- Anh là anh Tư đây sao?
Anh càng thêm cảm động trước cử chỉ của cô:
- Anh thành thật xin lỗi em vì đã để em chờ….
Cô gái mỉm cười:
- Thật bất ngờ qúa, em đang không biết sẽ trở về nhà nói với cha mẹ em làm sao.
Anh Tư hỏi cái điều mà anh từng thắc mắc từ khi làm quen với cô:
- Nhưng anh hỏi thật em nhé, em có vẻ là một cô gái quê ít giao thiệp với cuộc đời, sao em lại có ý nghĩ tìm bạn bốn phương và bằng cách nào đăng trên mạng? Em có biết là lãng mạn và mạo hiểm lắm không? Sẽ có những người thật lòng và không thật lòng đến với em.
Cô gái thật thà:
- Vâng, em đã gặp người xấu rồi, có mấy người gọi điện cho em nói chuyện trên trời dưới đất, hứa hẹn những điều không tưởng. Em biết họ chỉ đùa bỡn không thật lòng nên không tiếp xúc với họ nữa, còn chuyện tìm bạn của em là ngẫu nhiên thôi, một người bác họ của em ở Mỹ về thăm quê miền Bắc thấy cảnh nhà em nghèo bác ấy muốn giúp em lấy chồng ở nước ngoài hi vọng em được đổi đời thoát khỏi cảnh khổ nên bác liều đăng trên mạng tìm bạn cho em để cầu may.chứ em chả dám mong.
- Có lúc nào em nghĩ anh cũng không thật lòng và đùa giỡn với em không?
- Em không dám nghĩ thế…
- Khi nào rảnh anh sẽ kể cho em nghe sau, nhưng kể từ giờ phút này thì em hãy tin anh nhé.
- Vâng ạ.
- Vậy anh có thể theo em về quê ngay bây giờ không?
Cô gái cảm động và hãnh diện:.
- Anh không chê em nhà quê nhà nghèo thật qúy hóa vô cùng, bố mẹ em đang chờ đón khách phương xa đến thăm nhà đấy.

Họ đón Taxi về khách sạn ở Hà Nội để anh Tư lấy hành lý đồng thời Taxi sẽ đưa họ về làng quê cô Bền Vững cách Hà Nội khỏang 4 giờ lái xe.
Anh Tư sẽ thuê phòng một khách sạn tại thị xã nơi gần làng quê của Bền Vững nhất để tiện việc đi lại với gia đình cô.
Anh Tư đã đến một làng quê nghèo. Cha mẹ cô Bền Vững là nông dân và hiền lành chất phác.
Anh Tư thân tình hỏi cha mẹ cô Bền Vững:
- Hai bác cho em Bền Vững quen người ở Mỹ xa xôi như cháu, hai bác có an tâm không?
- Nhà chúng tôi nghèo nhưng anh không chê, không quản ngại từ xa xôi về muốn làm quen với em nó thì chúng tôi vui lắm, anh và em nó cứ tìm hiểu nhau thêm…
Anh Tư hào hứng:
- Nếu sau này cháu muốn cưới em Bền Vững mang sang Mỹ, con gái đi xa hai bác có buồn không?
Bác trai cũng hào hứng:
- Ở Mỹ là nhất anh ạ, ngày xưa chúng tôi chống Mỹ, nhưng bây giờ chúng tôi “chấm” Mỹ, chỉ thích cho con đi Mỹ thôi.
Chỉ qua vài câu chuyện với cha mẹ Bền Vững cũng đủ cho anh Tư hiểu họ là những người nông dân lương thiện, thật thà và cởi mở.

Ở đời chuyện xấu tốt tuỳ người, những người đăng tìm và đi tìm bạn bốn phương có thật và có gỉa dối, tí nữa anh mất đi một mối chân tình vì vơ đũa cả nắm.
Ở chơi với gia đình cô Bền Vững một tuần thì anh Tư phải từ gĩa trở về Mỹ, anh đâu ngờ cô Bền Vững dễ thương đến thế, chân tình đến thế, cha mẹ cô tử tế đến thế. Anh tiếc là chuyến ở Việt Nam của anh qúa ngắn ngủi.
Trong lòng anh Tư đang có niềm vui phơi phới vì đã tìm được đúng người, cô Bền Vững sẽ là người yêu, người vợ hiền như anh từng mong ước, mai này các người thân và bạn bè của anh ở Mỹ sẽ phải ngạc nhiên và ghen tị với anh vì điều may mắn này.
Hôm qua anh đã nói chuyện và hứa hẹn nhiều điều với cô Bền Vững, anh dặn dò mấy lần:
- Em chờ nhé, anh sẽ về cưới em và bảo lãnh em qua Mỹ.
Đáp lại cô Bền Vững ngây thơ cũng hứa hẹn sẽ yêu anh trọn đời.
Tiễn anh Tư ra phi trường Nội Bài có cha mẹ và cô Bền Vững. Cuộc chia tay bịn rịn và cảm động kẻ ở người về.

Khi anh Tư từ gĩa vào trong đã lâu mà gia đình cô Bền Vững vẫn còn đứng chờ ở ngoài. Bố mẹ cô sốt ruột liên tục giục con gái:
- Ta về thôi, anh ấy chắc đã lên máy bay rồi.
- Phi trường đông người nhìn ông đi qua bà đi lại mẹ hoa cả mắt, nhức cả đầu. Về đi con…
Cô Bền Vững gắt toáng lên:
- Bố mẹ làm gì mà cứ nhắng lên thế, Biết rồi, nhưng đợi con hỏi lại cho chắc.
Cô nhanh nhẹn chạy ra hỏi một nhân viên phi trường và được xác nhận là chuyến bay ấy đã cất cánh cách đây 10 phút thì cô mới thở dài nhẹ nhỏm, cô nói:
- Bây giờ bố mẹ đón xe về quê, con ở lại Hà Nội. Không cần đóng vai gái quê nữa, anh Tư chẳng có cánh mà bay ngược trở lại ngay lúc này đâu.
Bà mẹ ngần ngừ:
- Thì con cứ về làm gái quê như từng là gái quê càng tốt chứ sao, làm vương làm tướng gì mà ở mãi Hà Nội?
- Về quê chán lắm bà gìa ạ, ở một tuần mà con muốn điên cả người. Nhưng bất cứ khi nào có anh Tư Việt kiều con lại trở về quê làm con gái ngoan của bố mẹ như chưa từng đi hoang.
Cô nghênh mặt tự hào:
- Mẹ cứ yên tâm, con chắc anh Tư sẽ về cưới con, con sẽ lấy được tấm chồng như bố mẹ từng mong đợi mà lại là chồng Việt kiều Mỹ hẳn hòi, hơn hẳn những đứa lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc đấy nhá. Người ta nói đánh đĩ mười phương cũng chừa lại một phương để lấy chồng làm lại cuộc đời quả không sai. Không bao giờ con hé cho thằng tình nhân, thằng chồng hờ hay con bạn nặc nô cà chớn nào biết lai lịch nguyên quán của con nên đối với làng quê mình con vẫn là gái ngoan tử tế con nhà lành.
Ông bố giật mình mắng con gái:
- Ôi, con này! Khẽ mồm khẽ miệng chứ, mày ăn nói sỗ sàng và to tiếng thế ai nghe được thì tao đeo mo vào mặt. Ở làng quê bố mẹ phải nói dối và che đậy cho mày, nói mày lên Hà Nội làm việc trong một nhà máy.
- Bố nhạy cảm nhỉ, ở Hà Nội con mặt dày như mặt đường nhựa cao tốc rồi. Chỗ này thiên hạ không ai biết mình đâu bố đừng lo. Nhưng bố mẹ thấy con đóng vai gái quê ngoan hiền có đạt không? Cũng phải kể đến công lao của mẹ góp phần vào, mẹ đã giúp con nấu nướng những món ăn dân gĩa miền bắc, món nào anh Tư cũng rối rít khen con đảm đang và khéo tay trong khi con là thứ gái đoảng. Muối cà, cà thâm. Muối dưa, dưa khú. Nấu cháo, cháo khét. Quậy bánh đúc, bánh đúc khê.
Bà mẹ thật thà âu yếm trách con:
- Con liệt kê đủ thứ đoảng mà món chủ yếu lại quên. Nấu cơm, cơm sống nữa chứ con. Mấy lần con nấu cơm không sống trên cũng sống dưới. Rõ khổ, may mà con đã mua về một nồi cơm điện để giải quyết vấn đề.
Cô Bền Vững nhún vai:
- Lên Hà Nội con lại ăn cơm hàng cháo chợ nên đến bây giờ vẫn chưa biết nấu nướng là gì.

Ông bố thở dài:
- Bà chiều nó qúa nên mới thế, mới ra nông nỗi này.
- Ý ông lại đổ vạ tại tôi nuông chiều đứa con gái độc nhất của chúng ta nó mới đổ đốn hư hỏng bỏ nhà đi hoang đấy hử? Ông có giỏi sao không cho tôi đẻ thêm đứa thứ hai, thứ ba, thứ tư đi thì đâu đến nỗi…
Ông bố điên tiết:
- Bà lại ngoạc mồm ra chê trách tôi sau trận ốm vàng da sốt rét thập tử nhất sinh tôi không thể có con được nữa hả... hả? Đừng có chọc vào tự ái của tôi. Rõ chửa?
Cô Bền Vững cong cớn đe dọa:
- Hai ông bà mà cãi nhau nữa... là đây ở Hà Nội luôn không thèm thỉnh thoảng về quê thăm nhà cho biết thân….
Hai vợ chồng nhà quê vội vàng xuống nước vì sợ con gái nổi giận tung hê bất cần đời giữa chốn công cộng này:
- Đừng đừng con… bố mẹ chỉ lẩm cẩm nhắc lại thôi.
- Bố mẹ hiểu rồi, dù sao con cũng đang muốn tìm chồng để làm lại cuộc đời. Con tìm đâu ra anh Tư Việt kiều thật là giỏỉ, chẳng đoảng tí nào.
Cô Bền Vững nguôi ngay và khoe thành tích:
- Tâm lý Việt kiều nào về Việt Nam chẳng muốn cưới vợ hiền, vợ ngoan, càng nhà quê càng được tin yêu. Con đã ra tay thì anh Tư có mà chạy đằng trời.
Bà mẹ khuyên con:
- Ừ, anh Tư có vẻ tin cậy và thương yêu con, hãy giữ gìn mối quan hệ này cho tốt…
Ông bố năn nỉ:
- Mày liệu mà lấy chồng đi, lông bông mãi là tàn đời con ạ. Bố mẹ bó tay không dạy bảo được mày, bố chỉ xin mày nghiêm túc nghe lời một lần này thôi.
- Khỏi cần bố mẹ dạy đây cũng biết thừa, gái hư hỏng như con ở Việt Nam ai thèm lấy, có chăng là Việt kiều phương xa hay lấy Tây lấy Mỹ thôi. Nói thật nhé, đây ăn chơi Hà Nội chán rồi đang muốn được tung cánh bay đi Mỹ đi Tây xem nó sung sướng thế nào.

Cô Bền Vững đầy khôn ngoan bản lĩnh, cô đã tự đạo diễn cho mình một kịch bản chặt chẽ và hợp lý, đóng vai cô gái quê tìm bạn trên mạng, lúc ngơ ngác ở phi trường Nội Bài, lúc thấy anh Tư xuất hiện con cáo gìa như cô đã đóan ra anh Tư ngay dù chưa hiểu thấu đáo anh xuất hiện bất ngờ thế vì lý do gì, cô càng diễn giỏi diễn hay hơn nữa vai trò cô gái quê đoan trang hiền thục làm anh Tư ngả nghiêng từ những phút gặp gỡ đầu tiên ấy.
Những ngày cùng bố mẹ tiếp anh Tư cô luôn ra vẻ là đứa con ngoan, là cô gái tốt càng làm anh Tư thêm quấn qúyt và gắn bó.
Nhớ lại anh Tư đã kể cho cô chuyện bị cô Hoa lừa, cô Bền Vững nhếch môi cười khinh bạc, khinh thường cô Hoa kia chưa sắc bén và kinh nghiệm đời còn non kém thua xa gái Bắc kỳ đầy bản lĩnh như cô, thà hư hỏng tai tiếng ở đâu nhưng với quê hương bản quán mình phải giữ gìn. Làng quê, gia đình là nơi an toàn nhất để trở về dung thân làm lại cuộc đời.

Chia tay bố mẹ tại bến xe trước khi mỗi người đi một ngả cô Bền Vững tươi cười hứa hẹn:
- Ông bà gìa cứ về quê và chờ đợi tin vui nhé. Anh Tư Việt kiều sẽ sớm về Việt Nam xin cưới con, mà dù chẳng may anh có “xù” thì con cũng sẽ tìm được anh Tư Việt kiều khác để rước đi đứa con gái giời đánh này, của nợ đời này, oan gia nghiệp chướng này cho bố mẹ được ăn ngon ngủ yên.

Nguyễn thị Thanh Dương
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeSun Dec 09, 2018 3:05 pm

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Chong-gia-vo-tre-ava-680b0

Người Tình Già
- Khuất Đẩu


Tôi yêu văn ông trước khi yêu con người thật của ông. Chuyện đó giống như yêu một mùi hương lạ trước khi biết được nó từ đâu tới.

Trong khi ông thai nghén và sản sinh ra tác phẩm đầu tay của mình, thì ở một nơi cách xa trên bốn trăm cây số cũng có một người đàn bà đang hoài thai đứa con gái đầu lòng. Mẹ tôi khi đó yêu những tác phẩm tinh thần của ông, đâu biết rằng bốn mươi năm sau ông lại yêu tác phẩm bằng xương bằng thịt của bà.
Có một truyện ngắn của ông được bà cứ tấm tắc khen hoài. Truyện kể một người đàn bà sống đến tám mươi tuổi mà không được ai yêu, mãi đến khi chết mới có một người bạn cũ đến khóc và than rằng, “Tôi yêu em mà em đâu có hay”! Truyện đó cứ ám ảnh tôi mãi, biết đâu cũng có thể, chính là truyện của đời mình!

Tôi sinh ra và lớn lên bên bờ biển đầy cát trắng. Từng đêm tôi nghe tiếng sóng vỗ miên man. Và, cũng miên man từng ngày, tôi nghĩ đến những con sóng của cuộc đời. Sóng cứ ngày đêm xô mãi như thế, thì thứ gì dù cứng đến mấy rồi cũng sẽ vỡ tan. Bao nhiêu cát trắng xóa kia phải chăng là những mảnh vỡ của cuộc đời?
Có lẽ vì thế mà tôi trầm ngâm ít nói. Dưới cái nhìn của mọi người tôi có vẻ xa cách, lạc lõng. Ngay từ khi còn bé, tôi đã không chơi trò chơi của những đứa cùng tuổi. Lớn lên, trong khi bọn họ chuyền tay nhau thơ văn của các nhà văn thời thượng, thì tôi âm thầm đọc hết những tác phẩm của ông mà mẹ tôi đã có được. Văn của ông so với các nhà ấy, cứ như cơm nhà nghèo so với cao lương mỹ vị. Nó mộc mạc, đơn sơ, rất đời thường nhưng lại hợp với khẩu vị của mẹ con tôi.

Ông thường khen tôi đẹp, đương nhiên rồi, người đàn ông nào mà chẳng khen người yêu của mình đẹp, nhất là khi người đó là nhà văn thì lại càng không tiếc lời. Tôi rất thích nhưng tin chỉ một nửa hay nhiều hơn một chút. Nếu đẹp như ông nói, tôi đã có chồng từ những năm hai mươi chứ đâu mãi đến năm bốn mươi mới được ông “tuyển vào hậu cung!”.
“Tuyển vào hậu cung”, là cách chúng tôi đùa cợt khi đã yêu nhau.
Cái đêm mà Ôn Như Hầu không biết gọi “Đêm ấy là đêm gì” tôi đã đem cái “nghìn vàng” ra “phụng quân vương”*. Khi biết tôi hãy còn trinh, ông nửa ngạc nhiên thích thú, nửa ngại ngùng xót xa.
“Nếu biết thế này, anh đã không làm thế!”, ông nói.
“Nghĩa là sao?”, tôi hỏi.
“Nghĩa là phải để dành”.
“Để dành cho ai?”.
“Cho chồng em chớ cho ai nữa!”.
“Thế anh không phải là chồng em sao?”.
“Không, anh chỉ là một người tình già!”.
“Anh là một quân tử Tàu thì có!”.

Ông sống mực thước cũng như văn của ông. Từ tóc tai đến áo quần không một thứ gì ra vẻ, hay cố làm ra vẻ, của một nhà văn. Lại càng không giống với những kẻ lập dị râu tóc dài thậm thượt hay cạo trọc nhẵn thín như nhà sư. Ông như một công chức mẫu mực, lúc nào tay áo cũng cài cúc, cổ thắt cà vạt nghiêm chỉnh.
Tuy không phải che giấu ai vì vợ ông đã ly dị, nhưng ông cũng rất ít khi cùng tôi đi dạo ngoài phố. Nếu có phải đi mua sắm, ông cũng không cho tôi khoác tay và thường rảo bước thật nhanh để tôi theo không kịp. Ông cố tạo ra một khoảng cách giống như khoảng cách tuổi tác giữa ông và tôi. Mặc dù tôi cố tình làm cho mình già trước tuổi bằng cách búi tóc, một đôi khi ăn trầu, nhưng ông bảo, dù làm cách gì chăng nữa, thì em cũng vẫn là em, một công nương trẻ và đẹp. Còn anh, dẫu có cưa sừng cũng khó mà thành nghé được.
Bốn mươi năm sau ngồi nhớ lại, tôi thấy ông nói khá đúng, nhất là khi ở trên giường. Trong khi tôi tuôn trào như một con suối sau cơn mưa rừng, thì ông như một con sông lững lờ khi đã ra tới biển. Dù vậy, chúng tôi vẫn là hai người tình gắn bó tưởng chừng chẳng thể nào xa nhau. Tôi thì phơi phới thật sự khi yêu và được yêu lần đầu, còn ông thì ngậm ngùi tiếc nuối vì cái quỹ thời gian còn lại quá ít ỏi.

Nên ông rất đỗi dịu dàng, rất đỗi nâng niu.
Sinh nhật thứ bốn mươi của tôi được ông tổ chức ở một nhà hàng sang trọng. Có hoa hồng vàng, có rượu vang đỏ, có nến trắng và cốc thủy tinh trong veo. Ngồi đối diện trên hai chiếc ghế bọc nhung, chúng tôi có vẻ như hai ông tây bà đầm nào đó ở Paris.
“Mời em”, ông nói khi ra hiệu cho tôi thổi nến.
Tôi phải thổi đến hai lần mới tắt hết bốn mươi cây nến nhỏ cắm đầy trên chiếc bánh sinh nhật. Đến khi cắt bánh, tôi run tay đánh rơi con dao, ông phải cắt giúp. Rồi ông khéo léo và ân cần đưa phần bánh đã cắt sang đĩa tôi.
“Mừng sinh nhật em”, ông nói.
“Cảm ơn anh”, tôi nói.
Chúng tôi nâng ly, trong khi bản nhạc Happy Birthday ở đâu đó vang lên êm ái và bên ngoài trời thì mưa.
Thật là lãng mạn nếu có thêm một nụ hôn. Nhưng ông không hôn, dù tôi rất muốn, điều đó thật quá khó đối với ông lúc này.

Rồi tiệc tan, mưa tạnh.
Đêm đẹp và thơm tho vì hãy còn mùi hương của nước mưa. Tôi muốn đến một quán cà phê nào đó để nghe nhạc, nhưng ông bảo cà phê khó ngủ, nên đưa tôi về. Đến lúc này ông mới kéo tôi lại gần, hôn một cách hờ hững, hôn cho đúng thủ tục vậy thôi.
Hóa ra, tiệc mừng sinh nhật cho tình nhân mà tinh khiết quá, cứ như tiệc mừng sinh nhật của con gái.
Đến khi xa nhau, tôi tự hỏi có phải vì khoảng cách hai mươi năm sâu quá không lấp nỗi chăng, hay vì cái ý tưởng trông như cha và con đã khiến cho cả hai không thể đi chung một con đường?
Có thể như thế lắm.
Cách ông chăm sóc, cách ông yêu thương khiến cho tôi xúc động, nhưng chỉ vì tôi không có cha chứ không phải vì ông là một người tình. Còn ông, chỉ có hai người con trai, một theo mẹ, một ở với cha. Tôi là hình bóng đứa con gái ông mong muốn mà không được sinh ra chứ đâu phải là “thứ phi”.
Thế nên, cái ly rượu tình tưởng là nồng nàn, uống vào sẽ ngây ngất say hóa ra càng uống càng thấy đắng, càng uống càng thấy tỉnh, để biết rằng “phải sớm liệu mà xa nhau ”. **

Những buổi hẹn hò thưa dần.
Những phút giờ trên giường ngắn lại.
Chẳng ai đến cướp mà vẫn cứ mất đi từng chút một.
Và rồi, đến lúc không còn gì nữa ngoài chút dư vị ngẩn ngơ.
“Quả thực anh đã làm hại đời em, một hôm ông nói. Chính vì cái tham lam của đàn ông đã khiến anh muốn chiếm đoạt em dù biết rằng không giữ được. Dù sao, mọi sự cũng đã rồi, anh không thể nói lời xin lỗi mà chỉ muốn nói cảm ơn. Cảm ơn em đã đến với anh như một bất ngờ tuyệt hảo. Cảm ơn em đã cho anh trẻ lại dù không phải cưa sừng”.
“Anh đang ca vọng cổ đấy à?”, tôi cay đắng mỉa mai.
Sự tham lam của ông giống như một người đã rụng gần hết răng nhưng thấy đồ ăn ngon vẫn cứ muốn động đũa. Ăn không được thì bỏ mứa. Tôi là món ăn ông động vào rồi bỏ đó, đến nỗi ế thiu ế chảy đến tận bây giờ.
Cảm ơn!
Cảm ơn!
Tôi sợ hai tiếng đó cho tới già.

Nhưng rồi, nhớ tới người đàn bà bất hạnh trong truyện của ông, chẳng những tôi hết giận mà còn biết ơn, biết ơn chứ không phải cảm ơn, rằng nhờ có ông mà tôi cũng có được một người ngỏ lời yêu khi còn sống chứ không đợi đến lúc chết mới nói, “Anh yêu em mà em đâu có hay”!
Tôi viết những dòng này thay cho bó hoa tưởng niệm đặt trên mộ ông. Xin hãy yên nghỉ, hỡi người tình già của em.

Những ngày đầu năm 2018

* mượn chữ của Đoàn Phú Tứ
** mượn thơ Phan Khôi
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeWed Jan 23, 2019 9:00 am

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) 78cd5e6d-e0a9-4833-bb57-5d99bb5e45ee

Bến Đò Năm Xưa
- Khái Hưng


(Bến Đò Năm Xưa. Truyện ngắn của Khái Hưng đã đăng trên Tuần Báo Ngày Nay số 21, in ngày chủ nhật, 16/08/1936 tại Hà Nội)

Nguyên dừng lại trên đê cao, nhìn xuống con sông sâu. Và chàng mang máng nhận thấy rằng mười lăm, mười sáu năm về trước chàng đã đến đó một lần.

Dòng nước về mùa đông cũng cạn, cũng chảy lờ đờ. Bụi lau mọc ven bờ, lá vẫn xơ xác như xưa, hàng bông trắng vẫn se sẽ lao đao trước gió. Nhất là cây gạo thân thẳng và cao, ngạo nghễ đứng bên sườn đê rướn ngọn chọc trời, thì chàng không thể nhầm nó với một cây gạo khác được. Gốc nó phía trên tựa da trăn đầy những khoanh mốc trắng, phía dưới nổi lên những bướu tròn hùng tráng như những bắp thịt rắn chắc của nhà lực sĩ.

Nguyên đương tỉ mỉ nhận xét điều ấy, thì đưa chàng đi sâu thêm vào thời ký vãng một làn khói lan tỏa ra ôm ấp lấy cái mái rạ rồi từ từ bay tản mạn trong đám lá xanh. Bấy giờ chàng mới kịp để ý đến túp lều bé nhỏ, xiêu vẹo, túp lều mà mười lăm năm về trước chàng đã thấy nằm núp dưới gốc cây gạo. Cho đến cả mảnh lưới nâu vắt phơi trên cái lao sặt, vại nước đặt trên khóm mía ở đầu nhà, mọi vật đối với ký ức chàng như đối với con mắt nhà mỹ thuật, một bức tranh sơn bỏ quên lâu năm trong xó tủ, bây giờ bỗng đem ra lau sạch bụi và treo lên tường.

Chiếc xe sắt đã trèo hết cái dốc đê và phăng phăng xuống bến để khiêng vào thuyền sang sông. Nguyên lững thững theo xuống. Nghe tiếng gầm gừ, chàng quay lại giật mình kinh ngạc: Con chó trắng bông dương cặp mắt thao láo dữ tợn nhìn chàng đi qua. Chàng nhớ lần trước chàng cũng thấy con chó bông trắng như hệt thế nằm bên khóm chuối kia gần đàn gà con đang bới đống rác bẩn tìm sâu. Chàng chau mày tự nhủ thầm: “Hình như ta đã để ở nơi này một kỷ niệm trong giây phút.”

Ý nghĩ ấy làm cho chàng bật cười. Nào phải bây giờ chàng mới có cái cảm tưởng, cái cảm giác như thế về dĩ vãng. Nhiều khi lần đầu bước chân vào một phòng khách lạ chàng chẳng thấy bàn ghế, đồ đạc bầy ở đó có nhiều quen thuộc, thân mật với chàng là gì?

– Mời ông xuống đò cho thuyền sang ngang. Chúng tôi ngồi chờ tê cả chân.
Ðương tò mò ngắm những xác vờ rải trắng trên làn cát ướt, nghe lời thúc giục, Nguyên quay lại. Trong chiếc thuyền nan, ngồi bên cái xe kéo, hai người đàn bà và một người đàn ông khoác áo tơi lá, gió thổi kêu lạt sạt. Và đứng ở đằng lái, lả lơi vịn vào con sào, một thiếu nữ óng ả, thon thon, tấm áo nâu đổi vai, hai vạt trước buộc gọn gàng ra phía sau lưng.

Nguyên bước lên thuyền trân trân nhìn cô lái, khiến cô bẽn lẽn cuối gằm mặt xuống, cắm sào xoay mũi, “Lạ! người này nữa! Ta cũng đã gặp rồi, mà gặp ở đây, ở bến đò này!”
– Cô vẫn chở đò ở đây?
Cô lái cho đó là một câu trêu ghẹo, bỡn cợt, nên lặng ngảnh trông đi, không đáp.
– Tôi nhớ mang máng lần trước tôi gặp cô cũng ở bến đò nầy, nhưng đã lâu lắm, đến hơn mười lăm năm rồi.
Tiếng cười rộ của bọn sang ngang làm cho Nguyên ngơ ngác:
– Mười lăm năm trước mà ông gặp chị Thà thì chị ấy đương chập chững tập đi.
– Ờ nhỉ!

Nguyên ngây người suy nghĩ “Ô! mình lẩn thẩn quá thực. Hồi đó, cô ta mới độ lên hai, lên ba!” Rồi chàng cũng cười theo. Nhưng chàng vẫn ngờ vực: “Chẳng lẽ mình mơ mộng đến thế được?” Một câu nói tiếp của một người đàn bà khiến chàng tỉnh ngộ:
– Mười lăm năm về trước thì họa chăng ông gặp bu chị Thà.
Người ấy quay ra nói chuyện với người ngồi bên:
– Chị Thà, chị ấy giống bu chị ấy như đúc.
Nguyên mỉm cười: “Phải, bu chị ấy. Có thế chứ, ta lầm sao được.” Chàng lấy làm tự phụ về trí nhớ của mình. Rồi chàng lại đăm đăm ngắm nghía cô lái đò: “Xinh xắn thế kia thảo hèn ta nhớ lâu, nếu quả thực người mẹ ngày xưa cũng đẹp như cô con ngày nay.”

Giữa lúc ấy anh sẩm cất tiếng hát. Cái giọng khàn khàn, đùng đục. Nguyên nhận thấy như đã rầu rãi nắng mưa, chẳng khác thanh sắt vứt lay vứt lắt, bị rỉ ăn luỗng từng chỗ. Nhưng cái giọng ấy, cũng vẫn cái giọng lần trước. “Hừ! chẳng lẽ anh sẩm này lại cũng là con anh sẩm ngày xưa.”
Anh mù ngửa mặt như nhìn qua đôi kính râm, đầu lắc lư, tay kéo nhị, há hốc miệng gào:
“Công cha như núi Thái Sơn, sữa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”

Người đàn ông chừng một ngày mấy lần qua sông nên thuộc lòng câu sẩm chợ, ngồi đập chân xuống sàn thuyền gõ nhịp, môi mấp máy lẩm bẩm hát theo. Còn hai người đàn bà thì thản nhiên như chỉ có bọn họ trong thuyền, oang oang nói chuyện:
– Sợi nhà bà ngâm được mấy buổi?
– Sợi nhà tôi ngâm được bốn đêm.
– Ờ! khá đấy! Nhà bà tràng vốn nên ngâm được lâu.
Nguyên kinh ngạc. Mấy mẩu chuyện, lần trước chàng đã nghe thấy không thiếu không thừa, không sai một tiếng. “Thì ra dưới trời này mọi vật không bao giờ thay đổi.”

Anh sẩm hát: “Ba năm bú mớm…”
Nguyên ném một xu vào cái thau sắt tây thủng, rồi cúi xuống ngắm bóng mây trắng lướt theo con thuyền êm lặng, trên giòng nước trong xanh.
Bài Lưu Thủy của anh sẩm nhắc Nguyên biết rằng thuyền đã tới bến. Chàng mỉm cười vơ vẩn, lấy làm lạ rằng mình đã lắng tai nghe hết bài hát. Mọi lần ở các bến phà, hễ anh sẩm cất tiếng, là Nguyên vội đãi anh một, hai xu để xin anh ngồi im cho. Nhưng lần này, bài ca tầm thường đã gợi trong lòng chàng một mối cảm hoài man mác, và đưa chàng trở lại với thời xưa. Vì thế chàng đã im lặng để những câu hát vô vị chạy lướt qua trí nhớ như bóng mây lướt trên mặt nước im trong.

Nguyên trả cô lái năm xu, rồi toan nhảy lên bờ.
– Ấy, ông để cháu giữ thuyền cho chắc chắn đã, chẳng ngã.
Nguyên đứng dốn lại hỏi:
– Bến đò này ở nơi hiu quạnh lắm nhỉ?
– Vâng, ở đây buồn lắm. Nhưng được cái cách phố phủ có sáu, bẩy cây số.

Lúc ấy có một người đứng trên đường gọi:
– Thà ơi, mày đi hộ tao, để tao chở thuyền cho. Tiền đây này!
Người đàn ông quẩy gánh củ cải nặng, bước xuống nước, bảo Nguyên:
– Bu chị Thà đấy. Có phải người thầy gặp lần trước không?
Nguyên ngửng đầu lên nhìn: “Ừ, bu con giống nhau thực!”
Cô lái đò nghe nói, mủm mỉm cười, gọi mẹ:
– Bu ơi, tiền đò đây này, bu giữ lấy. Ông cho năm xu đấy.
Người đàn bà quần áo lôi thôi nhem nhuốc chạy vội lại:
– Cám ơn thầy.

Bác gánh củ cải bảo bà ta:
– Này bà, bà có nhận được ông nầy không?
Nguyên cười, cho câu hỏi ấy vô lý hết sức. Nhưng chàng kinh ngạc xiết bao, khi thấy người đàn bà đăm đăm nhìn mình rồi vui vẻ chào:
– Ồ chào thầy! Trông thầy vẫn thế nhỉ. Không già đi mấy.
Nguyên còn ngơ ngác cố nhớ lại thì người đàn bà đã nói tiếp:
– Ngày ấy thầy mặc áo tơi dạ, chứ không phải áo sơn này. Với lại cái “bao-ly” của thầy có quai mà to hơn nhiều, tôi xách lên bờ nặng sái cả cánh tay. Mà thầy vui tính lắm, nói đùa luôn mồm.
Nguyên đáp:
– Bây giờ già rồi, nên mất cả vui tính.

Thế rồi Nguyên lên xe. Cái xe gỗ lạch cạch lắc lư, nhảy trên con đường gồ ghề, lồi lõm, không mấy khi được hân hạnh có chiếc ô-tô qua lại. Nhưng Nguyên không thấy khó chịu như lúc ở quãng đường bên kia sông. Còn văng vẳng bên tai câu nói của người đàn bà chở đò: “Thầy mặc cái áo tơi dạ… cái bao-ly của thầy có quai.” Và chàng nghĩ thầm: “Sau mười lăm, mười sáu năm, người ấy còn nhớ mình mặc áo tơi dạ và cái va-li của mình có quai! Người ấy lại nhớ cả mình vui tính nữa.”
Chàng tưởng tượng – tưởng tượng chứ không phải nhớ vì chàng không còn nhớ – chàng tưởng tượng ngay ra một cảnh gặp gỡ ở bến đò, cuộc gặp gỡ giữa cô lái xinh tươi với ông khách có duyên qua bến và như nghe thấy tiếng cười ròn tan trong luồng gió lạnh, như nhìn thấy cái liếc mắt lẳng lơ đưa theo dịp chèo đập nước.
Rồi kẻ đi người ở. Tình vẫn man mác phảng phất như chút hương nhạt trong hai tâm hồn có lẽ không bao giờ gặp nhau.
“Cái áo tơi dạ của thầy… cái bao-ly có quai của thầy…”
Cùng với cảnh chuyến đò gặp gỡ, một cảnh khác hiện ra trong tưởng tượng. Cảnh chờ đợi, nhớ mong. Nguyên như được ngắm cô lái, một đêm trăng ngồi tựa gốc cây gạo nhìn xuống dòng nước mà gửi hồn ruổi theo người khách lạ. Qua khóm lau thưa, lấp ló ngọn lửa con thuyền đánh cá. Xa xa, tiếng chó sủa trong lũy tre âm u.

Rồi hình ảnh người qua đò một ngày một phai cho đến khi mười lăm năm sau, một hôm người ấy trở lại…
Trên đường đất gồ ghề, lồi lõm, chiếc xe sắt hục hặc nhảy chồm như con ngựa bất kham… Nhưng Nguyên vẫn yên lặng bình tĩnh theo giấc mộng liên miên…

Khái Hưng
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeTue Jan 29, 2019 9:02 am

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) X%C3%ADch-l%C3%B4-h%C3%A0-n%E1%BB%99i

Hạnh phúc đơn sơ
Hai Hùng SG


Mới tờ mờ sáng khi chuông chùa Giác Quang chưa điểm công phu như mọi hôm, bổng nhiên mọi người trong xóm nghe tiếng bà Hai Su Mô nói với cái giọng oang oang ngoài đường:
- Đẻ nữa rồi, hai cái đứa này nói hoài mà tụi nó đâu có nghe, nhà nghèo tận mạng vậy mà cứ đẻ năm một, chuyến này phải nhờ tới mấy ông ấp ông xã làm dữ với tụi nó mới được, làm tới kiểu này có ngày con cái nhà nó sắp hàng không chừng thành "chục có đầu" luôn thôi.

Ông Hai xích lô đang kéo lùi cái xe sát ngạch cửa nhà trước của vợ chồng thằng Điền, ông làm như thế để con Hạnh vợ thằng Điền dễ bề leo lên xe  thẳng tiến vô nhà thương chờ đến giờ khai hoa nở nhụy. Lại nghe tiếng bà Hai Su Mô càm ràm chuyện vợ chồng Điền, hai đứa  không chịu ghi danh để được phẩu thuật hạn chế sinh đẻ do gia đình quá đông con, ông Hai xích lô cũng góp lời:
- Bà Hai nói chí phải nghe, tui không nhớ được bao nhiêu lần chở con Hạnh đi đẻ, lần nào cũng vậy nó ngồi trên xe tui vừa rên rỉ vừa lấy tay xoa xoa cái bụng vừa hứa hẹn nhất quyết đẻ lần chót, vậy mà hôm nay tui lại chở nó đi tiếp đây. Tui nghe nói đâu là lúc người ta tới nhà vận động đi "cai đẻ", con Hạnh trốn biệt còn thằng Điền thì hứa hẹn cho rồi chuyện? Riết rồi mấy bà làm bên Phụ nữ cũng phát chán coi như quên đứt hai đứa này để rồi tụi nó "sản xuất" cả bầy như vịt đẻ vậy đó phải không bà.
- Thôi anh cũng giúp tụi nó làm phước đi, tui biết anh Hai đâu có lấy tiền xe tụi nó hồi nào đâu, kệ con cháu lối xóm nó gặp cơn "thắt ngặt" mà anh chịu bỏ công giúp đở vậy là anh Hai có tấm lòng bồ tát lắm đó nghe.
Nghe bà Hai đưa mình lên tận mây xanh, ông Hai rất vui trong lòng, tâm lý chung con người ai cũng thích được khen, mà khen rất đúng như trường hợp này thì ông Hai có quyền hãnh diện với nghĩa cử cao đẹp của mình.
- Cám ơn bà nghe bà Hai, bà khen là tui nở lổ mũi quá mạng rồi nè, thôi thì hôm nào có dịp cần đi đâu, bà hú tui một tiếng, tui chở bà đi chẳng những miễn phí mà còn bao bà ly nước mía của vợ chồng thằng Cao bán ở trên chợ nữa bà chịu chưa.
 
Nói xong câu trên ông Hai cười vang với điệu bộ sảng khoái vô cùng, rồi chợt nhớ lại việc phải làm ông lên tiếng thúc giục:
- Thằng Điền đâu bây, thiệt hết nói vợ đẻ tới nơi mà rị mọ hoài, bây chậm nó mà đẻ trên xích lô tao tao không có làm ông mụ được đâu nghe, đưa con Hạnh ra liền, bây nhớ quơ ba cái đồ đem theo cho nó, đàn ông gì cả chục lửa rồi mà cứ như mình là trai tân, vợ bây đẻ mà tao thấy bây như gà mắc đẻ vậy, lẹ lên tui còn kiếm mối khác kiếm cơm nữa ông con ơi.
Gần mười phút trôi qua ông Hai vẫn chưa thấy Điền đưa Hạnh ra xe, ông hai lầu bầu nói gì đó rồi ông bỏ mặc chiếc xe ngoài sân ông bước vô nhà Điền, tiếng Điền nói vọng ra ngoài:
- Ông Hai phụ khiêng vợ con lên xe, tự dưng Hạnh xỉu làm con hoảng vía nãy giờ.  
Ông Hai vội đi nhanh đến bên Hạnh ông lay nhẹ vai Hạnh ông khẻ kêu:
- Hạnh, Hạnh ông Hai nè bây tĩnh dậy đi, bây đừng làm ông với chồng bây sợ nhe.
 
Dường như câu nói của ông Hai như một câu thần chú của ông tiên nào đó hiện ra từ chuyện cổ tích để ban phước lành cho nên Hạnh từ từ mở mắt ra nhìn, bất giác hai dòng lệ tuôn chảy nơi khóe mắt của Hạnh. Có lẽ vì quá cảm động với tấm chân tình của ông Hai xích lô, một người lao động nghèo lam lủ mà gặp bất cứ chuyện gì cần trong xóm, ông Hai là người đầu tiên ra tay san sẻ giúp đở từ vật chất đến tinh thần, mấp máy đôi môi Hạnh nói với giọng yếu xìu:
- Con đội ơn ông Hai, ông Hai giúp vợ chồng con nhiều rồi, hai vợ chồng con ngại lắm ông xã con nói nhất định sau này phải đền ơn ông mới được.  
Nghe nói đến chuyện ơn nghĩa, ông Hai giẫy nẫy như đĩa phải vôi, ông nói:
- Ơn với nghĩa gì bây ơi! Nói thiệt bây chứ từ lâu ông đây coi gia đình bây như gia đình của ông, hoàn cảnh ông bây biết rồi đó, ông gom góp lại hết chỉ có võn vẹn bốn chữ :"Tứ cố vô thân ".
Nói đến đây tới phiên ông Hai sụt sùi khóc, hai hàng nước mắt lăn tròn trên đôi má nhăn nheo đen đúa, cố kềm cơn xúc động, ông Hai nhỏ nhẹ hỏi:
- Con (ông đổi cách xưng hô một cách tự nhiên theo cảm xúc trong lòng) có sao không, lên xe nhanh ông chở đi bệnh viện gấp, coi chừng không kịp đó.
Hạnh với đôi mắt đỏ hoe rồi nói trong nước mắt ràn rụa, nhưng cô vẫn cười và tinh nghịch nói:
- Ông Hai khóc mặt xấu quá, à mà đây là lần đầu tiên con thấy ông Hai khóc đó, chắc tại con để bụng đói quá nên chóng mặt chút thôi, giờ con khỏe rồi.
Nhìn thẳng vào gương mặt ông Hai, Hạnh nói theo ý nghĩ mới nảy sinh trong đầu của mình.
- Ông Hai ơi! Con muốn gọi ông bằng Tía có được không? Ông đừng chê tụi con nghèo mà ông từ chối lời đề nghị của con nhe.
Thằng Điền nãy giờ nó ngồi xem và im thin thít, ngay sau lời đề nghị của Hạnh dành cho ônh Hai khiến nó thích thú, vì ngoài Bà Hai Su Mô, bà ông là gần gũi với gia đình nhỏ của nó, tối lửa tắt đèn có nhau nên Điền nói chen vô ngay:
- Con thấy vậy được đó ông Hai, kệ ông có không đồng ý hai vợ chồng con cứ xem ông với bà Hai là tía má nuôi của tụi con rồi đó.

Điền đến bên đở Hạnh đứng lên, trong lúc sửa sang lại quần áo chỉnh tề Điền ghé vào tai vợ nói nhỏ điều gì đó...
Ông Hai chưa kịp phản ứng với lời yêu cầu của vợ chồng điền, bất chợt ông thấy hai cô cậu đột nhiên quỳ gối xuống vái lạy ông như vái lạy một đấng thần linh nào đó, ông còn nghe hai đứa đồng thanh lên tiếng:
- Chúng con xin chào tía, chúc tía sống lâu trăm tuổi để thương tụi con hoài hoài.
Quá bất ngờ với cái đạo diễn của thằng Điền, ông Hai hớn hở mừng ra mặt, ông hóm hỉnh trả lời:
- Cha chả, hai đứa bày ra cái trò này, bắt già tía bây chở xe miễn phí nây suốt đời phải không? Hahaha, thôi được rồi hai đứa, nói được rồi bây còn thi lễ chi cho mắc công, không khéo bà Hai Su mô bà nói tía con mình đang đóng tuồng cải lương hồ quảng nào đó không chừng.
"Thiên bất dung gian", ông Hai vừa dứt lời thì thấy bà Hai xuất hiện trước mặt rồi, với giọng "mềm mại" bà hai cắc cớ hỏi ông:
- Tui nói tía con anh đóng cải lương Hồ Quảng hồi nào mà anh dèm pha tui dữ vậy anh Hai.
Thấy tía nuôi lúng lúng, Điền nhảy ra đở đạn cho ông Hai liền:
- Dạ hai đứa tụi con mới làm lễ nhận cha làm cha nuôi cho tụi con, tía con sợ bà Hai dị nghị nói tía con ép lạy nhận cha giống trong mấy tuồng cải lương hồ quảng chiếu trên ti vi đó bà Hai.
Bà Hai nghe vậy cười hăng hắt, bà nói tiếp theo:
- Ô vậy mấy tía con bây sum họp vui quá rồi còn gì, thôi bà Hai chúc mừng gia hai con, thôi bà về nhé, anh Hai ở chơi với hai sấp nhỏ cho vui, khi nào chở con Hạnh vô nhà thương thì kêu tui theo phụ cho.
Bà Hai vừa dợm bước quay ra, Hạnh nhanh nhẩu chạy đến nắm tay bà Hai Hạnh nói:
- Má Hai khoan về, má ngồi đây.
Hạnh chỉ cái ghế đẩu xiêu vẹo đặt kế bên nơi ông Hai đang đứng, bà Hai ngồi xuống và trong lòng phân vân vô cùng vì bà mới nghe Hạnh gọi mình bằng má, tức là "vợ nuôi" của ông Hai Xích lô, bà chợt nói thầm:
"Cha vụ này gay go nhe. Mình nói chuyện với anh Hai sơ sơ mà mấy bà tám trong xóm đồn rùm beng, giờ vướng vô vụ này thì mấy bà đó có dịp "sàm tấu " ác ôn hơn nữa, hay mình hẹn lần lựa với hai đứa chờ dịp thuận tiện và nhất định phải xem ngày tốt xấu mới được, có vậy mới thoát cái cảnh éo le này".

Trong lúc bà Hai Su mô bối rối bao nhiêu thì ngược lại ông Hai xích lô khoái chí bấy nhiêu, hoàn cảnh hai ông bà đơn chiếc cùng sống trong xóm lao động nghèo, không biết ông bà có tình ý gì với nhau hay không, nhưng bà con quanh đấy thấy có hôm ông biếu bà con cá, mớ rau. Bà thì thỉnh thoảng trao cho ông tô cháo trắng nấu lá dứa thật thơm và cái trứng vịt muối bổ đôi với cái tròng đỏ thật bắt mắt. Khi thấy Hạnh cho bà ngồi cái ghế cạnh bên mình, sợ bà ngại ngùng giữa chốn ba mặt một lời rồi bà từ chối thì việc gần gũi tâm tình với bà đối với ông nó ít nhiều cũng còn gặp nhiều trở lực, ông Hai xúi thêm vô liền:
- Bà ngồi đi, người trong nhà không có gì đâu bà mắc cở e thẹn. Nhớ ngày xưa lúc còn học ở trường Làng bà đâu có ngán ai, ha ha ha.
Bà Hai làm mặt nghiêm nghị giương mắt nhìn ông Hai một cái, thấy bà Hai làm mặt lạnh như tiền khiến ông Hai thôi không nói châm chọc nữa.

Hai vợ chồng Điền cũng làm lễ nhận bà Hai làm mẹ nuôi, không biết hai đứa dành tình cảm cho bà hai nhiều hơn hay không, thi lễ xong thằng Điền và con Hạnh xách chai rượu trắng rót ra đầy ly mắt trâu nhỏ dâng lên mẹ nuôi, nó nói:
- Con mời mẹ uống cùng con chung rượu để đánh dấu ngày vui hôm nay.
Bà Hai bưng chung rượu bà hớp một hơi cạn sạch khiến ông Hai lé mắt lên tiếng khen liền:
- Chị Hai lúc này lên đô dữ hén, ý quên má nó chứ giờ này còn chị, chị cái giống gì nữa phải không bà.
Có chút hơi men khiến cái tính cà rỡn của bà Hai nổi dậy bà phang cho ông Hai một câu liền:
- Tía nó uống sao lại bằng má nó đây, uống cái đô cở tía nó gặp tui là tui bỏ túi không thèm dòm, hi hi hi.
Ông Hai cũng thuộc dạng không vừa, ông phản pháo lại liền:
- Má nó nói hay rượu nói vậy?  Để hôm nào con Hạnh đẻ đái xong, làm đầy tháng sấp nhỏ tui thi tài với má nó nha, lúc đó bà đừng có chạy làng mất mặt bầu cua lắm nghe má nó.

Sẳn trớn vui trong lòng ông Hai xích lô ghẹo bà Hai thêm cho vui:
- Nè má nó, hôm nay mình là người một nhà rồi, vậy... vậy... vậy...
Bà Hai sốt ruột thấy ông Hai ngần ngừ sau câu nói còn dang dở, bà vội hỏi:
- Vậy cái gì . Nói ra cho rồi ông úp úp mở mở hoài thằng Điền với con Hạnh nó cũng muốn điên cái đầu đừng nói chi tui.
- Vậy tui nói nha. Nếu có gì không hài lòng bà bỏ qua nhe bà, ý má nó chứ.
- Cái ông này ngộ ghê nhe, rào trước đón sau hoài, ông làm riết tui thấy ông giống mấy ông cảnh sát kéo "Công xẹt ti na" chống biểu tình quá trời luôn á.
Ông Tám hít hơi thở dài rồi làm ra vẻ trịnh trọng ông nói:
- Mình là người một nhà rồi, vậy tối nay mình ngủ chung nha bà
Một thoáng thẹn thùng trên gương mặt bà Hai nhưng nó cũng thể hiện cái hạnh phúc bất ngờ mà lâu lắm rồi từ lúc chồng bà về bên kia thế giới, tuy vậy bản tính người phụ nữ mách bảo bà phản ứng ngược lại cái suy nghĩ của mình cố làm cho đối phương không biết đường đâu mà lần:
- Còn khuya nha tía nó, nhà ai nấy ở tía nó ơi, ông ráng đạp xe chừng nào có ba cây vàng cưới tui thì mới ngủ chung, chứ mới có chung rượu thằng Điền rót cho tui mà tía nó đòi ngủ chung coi sao được.
Nói xong bà Hai cười khanh khách, khiến thằng Điền với con Hạnh cũng cười hùn theo mà đau cả ruột.
Riêng ông Hai thì ông hơi bị quê quê sau câu nói chơi của bà Hai, chẳng lẽ không gỡ gạc lại chút đỉnh làm vốn:
- Má nó tưởng tui nói thiệt hả, tui thử lòng má nó thôi, bà nói bà nhớ nhe ba cây vàng nhiều nhỏi gì bà ơi, hẹn bà ngày cháu mình đầy tháng ngày đó bà chuẩn bị tái gàu ý tui nói lộn tái giá lên xe hoa với tui nghe.
Cả gia đình nhà Điền được một dip thật vui do chính những người trong cuộc tạo nên.                             

Đứa bé trai thật kháu khỉnh được bà Hai ẳm đi tới đi lui, Hạnh và Điền chuẩn bị làm lễ cúng đầy tháng cho con. Ông Hai cũng vừa chạy cuốc xe cuối vừa về đến, dăm ba người bạn trong xóm nghèo tề tựu đông đủ, trên chiếc đệm trải dưới nền xi măng. Vài món ăn đơn giản được bày ra, cái bánh đẹp nhỏ trang trí rất đẹp để trên bàn.
Mọi người nhập tiệc, kẻ thì gửi bao lì xì đỏ, người thì tặng bộ quần áo may sẳn.
Ông Hai cũng gửi cho cháu mình bộ đồ thun nhỏ nhắn xinh đẹp, ông còn móc trong túi cái bao thơ có chứa một số tiền và  năm  tấm vé số trao cho Hạnh:
- Tía tặng con một số tiền mà tía dành dụm bấy lâu, tía dự đinh để dành lỡ có đau ốm bất tử có tiền nằm nhà thương, mà thôi tía coi vậy chứ dễ gì bệnh hoạn, cùng lắm vài viên Panadol là khỏe liền, tụi con nhiều con quá, lần này thôi cai đẻ đi con để còn sức lo cho mấy đứa nhỏ, ai cũng nói "Trời sanh voi sanh cỏ" đành vậy nhưng Voi nhiều quá cỏ mọc không kịp thì nguy. Tía gửi tụi con năm tờ vé số, biết rằng trúng độc đắc như "mò kim đáy biển", nhưng thôi kệ biết đâu số phận mà, tía mong tụi con có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Sau câu nói của ông Hai mọi người vỗ tay hoan hô không khí ồn ào như ong vỡ tổ. Tiếng vỗ  tay  vừa ngớt, bà Hai chợt đứng dậy rồi đến gần ông Hai bà hỏi nhỏ:
- Tía nó hôm nay không làm lễ vu quy cho tui hả? Ông thất hứa rồi đó . Nói cho vui vậy thôi tui cũng quý anh Hai lắm mình suốt đời này là một gia đình nghe anh Hai.
Ông Hai cảm động nắm bàn tay bà rồi ông run run đặt lên ấy một nụ hôn trìu mến, cả bàn tiệc  đươc dịp vô  tay rân trời lần nữa, ai cũng Hạnh phúc ngời trên gương mặt.                          

Trời cao có mắt, đúng như câu ví trên năm tờ vé số Hạnh để hờ trên nóc tủ, vì bận bịu con nhỏ nàng chẳng buồn nhớ đến.
Bữa sáng nọ Từ ngoài chợ ông Hai điều khiển chiếc xích lô chạy như bị ma đuổi, mấy người quen thấy ông chạy một cách vội vã nhưng họ không hiểu ông có chuyện gì, về đến nhà ông phóng xuống xe không kịp kéo thắng khiến chiếc xe vẫn chạy theo quán tính, nó chỉ dừng lại sau khi chui vô hàng rào cây dâm bụt của hàng xóm rồi nó lật ngang nằm phơi nắng tại chổ.
Bà Hai đang phơi quần áo trên hàng rào kẽm gai gần đó nhìn thấy sự việc từ đầu đến đuôi bà nói một mình:
- Tía nó chắc bị chột bụng hay sao mà quăng xe chạy một mạch vô nhà vậy cà.

Thần tài gỏ cửa nhà Hạnh bất ngờ. Ông Hai được người bán vé số cho hay năm vé ông mua được trúng độc đắc....
Đám cưới đơn sơ trong xóm nghèo, ông bà Hai thật Hạnh phúc với sự chấp nối này, từng số phận con người sống trong nghèo khổ đùm bọc lẫn nhau, họ từng chia sẻ đắng cay qua bao tháng ngày, rồi cũng chính họ hôm nay chia ngọt sẻ bùi cùng nhau với niềm hạnh phúc vô biên với con đàn cháu đống.
                     
Viết xong 22.1.2016
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeWed Feb 13, 2019 7:25 am

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) 9k=

Vườn Măng Cụt
- Trần Mộng Tú


Người con gái ra đón ông Thành ở ngay khu đậu xe của chung cư. Cô hồn nhiên nắm tay ông, cái nắm tay không phải dắt ông cho khỏi vấp ngã, nhưng tỏ sự thân tình. Cô vừa đi vừa nói:
– Lâu quá rồi bác cháu mình không gặp nhau. Con xem đồng hồ áng chừng giờ bác đến, thế mà đúng. Con vừa ra chưa được năm phút đã nhìn thấy xe bác rẽ vào. Bác trông còn khỏe quá!
Rồi cô thấp giọng. “Mẹ con đang chờ bác.”
Ông Thành nhìn cô con gái của bạn, nhớ lại ngày cô còn bé tí, nay đã gần bốn mươi rồi, không trách mình già. Ông xiết chặt tay cô, nhớ đến người đã đi biền biệt.

Ông Thành là bạn thân từ thời còn rất trẻ của cha mẹ cô, ông là bạn học của ông Lâm từ thời trung học. Họ cùng trưởng thành, ra đời làm việc, lập gia đình, gần như lúc nào cũng có nhau. Họ cùng di tản, tham dự ngày con cái nhau ra trường và cưới hỏi. Cách đây năm năm, ông Lâm qua đời, rồi bà Thành cũng chỉ còn là một nắm tro than. Ông Thành sức khỏe bắt đầu hơi kém đi theo tuổi tác. Sắp tám mươi rồi, còn trẻ trung gì nữa, ông làm biếng đi ra ngoài, sự liên lạc cũng thưa thớt dần giữa hai nhà.
Tuần trước cô cháu Lan, gọi bác Thành thăm hỏi và nói thêm:
– Mẹ con mấy hôm nay không hiểu sao cứ mong gặp bác, nhắc bác hoài, bác có thể ghé qua xơi một bữa ăn trưa với mẹ con và con không?
Ông ngại đi quá, nhưng nghe cô cháu gọi đến lần thứ ba, ông không nỡ chối từ. Hơn nữa gặp lại vợ con của một người bạn thân đã qua đời, sẽ gợi nhớ cho mình bao nhiêu kỷ niệm thân tình cũ cũng là một điều nên làm.

Cô Lan đưa ông vào căn chung cư của mẹ, mẹ cô ở đây từ sau khi cha cô mất được một năm. Bà ở rất gần các con nhưng không muốn ở chung. Con cháu thay nhau gọi điện thoại, và ghé qua, khi sáng, lúc chiều. Thỉnh thoảng một người thu xếp đến ăn trưa với mẹ, không kể những tụ họp gia đình cuối tuần, nên tuy bà ở một mình ở tuổi bẩy mươi các con vẫn yên tâm.
Bà Lâm hôm nay có trang điểm nhẹ nhàng một chút, trông cho tươm tất tuổi già, chắc để tiếp khách Ông Thành để ý đến những bông hoa nhỏ tím đậm trên chiếc áo len mỏng mầu xám bà mặc, mầu sắc trông rất hài hòa.
Bà Lâm vồn vã đón ông:
-  A, anh Thành. Anh trông khỏe mạnh quá, chẳng khác thời tôi mới gặp anh lần đầu. Anh còn nhớ lần đó không? Anh Lâm và tôi đón anh đi Lái Thiêu, đi thăm vườn trái cây. Chúng mình mua bao nhiêu là măng cụt.
Ông Thành lắc lắc cái đầu bạc trắng của mình, cố nhớ lại lần đầu tiên gặp bà. Tại sao lại ở vườn măng cụt nhỉ?
– Anh quên rồi à, chúng mình cùng đi trong cái xe Renault đen của ba anh Lâm?
Chịu, ông không thể nào nhớ ra được. Trí óc của mình sao có thể tệ đến thế nhỉ? Đã tám mươi đâu?

Cô Lan dọn bữa ăn trưa lên chiếc bàn nhỏ. Mấy món ăn nhẹ cho ba người. Bà Lâm hình như không chú ý đến thức ăn, Lan tiếp thức ăn vào chén của bác Thành, nhắc mẹ hai ba lần bà vẫn chưa cầm đũa.
Bà Lâm đang hứng khởi nói về dĩ vãng:
– Anh nhớ chứ. Mình ăn trưa ở Búng. Món nem chua ở đó cũng khá ngon. Sau đó mình vào vườn măng cụt, vườn chôm chôm, vườn dâu ở Lái Thiêu. Lúc đó tôi chưa lấy chồng, lần đầu tiên gặp tôi, anh đã yêu tôi ngay. Cả hai anh cùng yêu tôi. Anh nhớ không?
Cô Lan nhìn mẹ, không hiểu mẹ đang muốn nói gì? Ông Thành cũng sững người ra nhìn bà. Ông có yêu bà thời trẻ à? Không làm gì có chuyện đó. Thủa đó họ chơi chung với nhau, cả hai cặp. Thành, Tuyết và Lâm, Liên. Sau đó cả hai cặp đều thành vợ chồng.
Bà Lâm hồn nhiên nói tiếp:
– Mấy cái vườn trái cây khi được mùa mới hấp dẫn làm sao! Những chùm trái dâu, trái chôm chôm nặng trĩu chạm mặt đất. Măng cụt đỏ tím cả khu vườn. Muốn vào trong vườn phải rẽ cành hai bên mà đi. Anh nhớ không, anh dắt tôi vào đó, ở một chỗ vừa che mất anh Lâm, và anh đã tỏ tình.

Ông Thành thần mặt ra, hoang mang không hiểu những lời bà Lâm đang nói có thật hay không? Cô Lan có lẽ biết, đã đến lúc nên rút lui để cho hai người bạn già cũ nói chuyện quá khứ. Cô khe khẽ thu bát của mình, im lặng bước vào phòng ngủ của mẹ. Căn chung cư nhỏ, chỉ có nơi đó, cô có thể tránh mặt hai người.
Ông Thành nhíu mày lại, cố hình dung ra hình ảnh khu vườn trái cây, nơi ông đã mang người yêu của bạn vào đó tỏ tình. Không cách nào ông nhớ ra được. Trí óc mình lú lẫn rồi! Ông than thở trong đầu.
Bà Lâm nheo cặp mắt đã có thật nhiều vết nhăn kéo dài ra đến thái dương nhìn ông, từ tốn nói:
– Tôi để cho ông hôn tôi, nhưng tôi từ chối tình yêu của ông, vì lúc đó anh Lâm đã ngỏ lời cầu hôn trước ông. Chắc ông còn nhớ, hôm đó tôi mặc chiếc áo dài có những bông hoa mầu tím đỏ. Ông bảo mầu hoa trên áo đẹp giống mầu vỏ măng cụt, rồi ông bửa một trái măng ra chia cho tôi ăn một nửa, mầu vỏ tím hồng nhuộm mấy ngón tay ông, ông quệt lên má tôi, nói: ”Em không cần thoa má hồng nữa, anh thoa cho em rồi”.
Chi tiết đến thế này thì chuyện chắc phải có thật, mình không nhớ ra được thì ngày mai mình nên làm cái hẹn gặp bác sĩ. Tuổi tám mươi chắc bước vào tuổi mất trí nhớ rồi! Cả một dĩ vãng lãng mạn nên thơ như vậy, người đàn bà nhớ được, mình lại quên bẵng như đầu óc được nhúng vào một dung dịch hóa chất thì tệ thật. Ông không chối nữa, ông nhìn người đàn bà trước mặt, nhìn hai con mắt, mí đã sụp xuống nhưng tròng đen vẫn lóng lánh pha một chút tinh nghịch. Ông hạ mắt nhìn xuống cặp môi, cặp môi đều đặn, hơi cong, thoa một lớp son mỏng mầu hồng. Ông cố hình dung ra cặp môi thời còn trẻ của bà, cặp môi  chắc tươi như bông hoa mận, căp môi theo như bà nhớ, ông đã cúi xuống hôn trong vườn măng cụt (Chắc là vội vàng lắm, vì hôn trộm người yêu của bạn mình)

Bà không để ông có thời giờ thả đầu óc về những hình ảnh bà nhắc nhở ông, bà uống một ngụm nước, nói tiếp:
– Sau đó tôi lấy anh Lâm, nhưng không thể quên mối tình của ông. Hôm đám cưới chúng tôi, ông làm rể phụ. Ông đẹp trai và rất xứng với tôi, nên có người đã nói, để ông làm chú rể thì đẹp đôi lắm. Mấy chục năm sống với ông Lâm, sanh mấy đứa con, nhưng chẳng lúc nào tôi không tơ tưởng đến ông. May mà chúng mình chưa hề xa nhau ngày nào cho đến khi anh Lâm mất hẳn. Bây giờ thì chắc chắn không còn ai ngăn trở mình nữa. Ông có nghĩ mình nên dọn vào ở chung không?
Thế này thì nguy quá rồi. Bà Lâm nhắc lại dĩ vãng cốt để nối hiện tại vào. Nhưng ông không hề nhớ được một chi tiết nào cả. Tuổi già thật khó chịu, nó xóa hết cả dĩ vãng, rồi dựng lên một tương lai huyễn hoặc. Ông cúi xuống uống nốt ngụm trà trong chén, cất tiếng gọi:
– Lan ơi! Bác về nghe con.
Ông kéo ghế đứng lên. Ông không trả lời về đề nghị của bà Lâm vội, ông chỉ nói nhỏ nhẹ, và hứa một lời rất bâng quơ:
– Tôi về nghe chị. Sẽ trở lại thăm chị khi nào trí óc sáng suốt thêm một chút.

Lan tiễn bác Thành ra chỗ đậu xe. Cô ở trong buồng ngủ, sát vách, nên đã nghe hết lời của mẹ kể. Hai bác cháu yên lặng đi bên nhau không nói năng gì. Ông Thành đã ngồi vào xe, trước khi mở máy, ông quay kính xuống nói như tâm sự với Lan:
- Chắc bác cần đi khám lại cái đầu của mình. Những điều mẹ con nói hôm nay, bác không làm sao hình dung ra được một dĩ vãng vừa thơ mộng, lãng mạn, vừa tội lỗi của tuổi trẻ. Bác có mất trí nhớ tồi tệ đến thế không?
Bác nhớ là cả ba con và bác cùng lớn lên ở Đà Lạt. Những kỷ niệm của bốn người: Lâm, Liên, Thành,Tuyết có với nhau hồi đó là: Cà phê Tùng, Nhà thờ con gà, Đồi Cù, trường Võ Bị Đà Lạt, và những trại mận. Rồi ngày ba mẹ con đám cưới, bác đang tu nghiệp võ bị ở Mỹ, làm sao bác phù rể được nhỉ?
Ông nói xong, ngẩn người ra như không tin những điều mình nhớ, ông đợi Lan trả lời câu hỏi của mình.
Lan cho hẳn đầu cô vào trong cửa xe, gục đầu lên vai bác Thành, cô ngửi được mùi già nua trên cổ bác phả ra, mùi của ba cô ngày trước, làm cô khóc nức lên:
– Bác ơi! Không phải bác mất trí nhớ đâu. Mẹ con đấy, mẹ con bị Alzheimer nặng lắm rồi. Mẹ con quên hết dĩ vãng thật của mình, và ngày nào cũng vẽ ra một câu chuyện mẹ con tin là đã xẩy ra trong đời mình.

Tối hôm đó, Ông Thành trằn trọc trên giường, không sao ngủ được. Ông cứ nhớ mãi câu nói của cháu Lan. “Mẹ con vẽ ra một câu chuyện, mẹ con tin là đã xẩy ra trong đời mình.”
Ông bâng khuâng: Liên mất trí thật, hay Liên yêu mình từ trẻ mà mình không biết?
Một vườn măng cụt đổ ập xuống giấc mơ của ông trong đêm.

- tmt
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeWed Feb 20, 2019 6:30 pm

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Me-buon

NGƯỜI MẸ KHÔNG QUEN BIẾT

- Nguyễn Thị Thanh Dương


Người đàn bà lớn tuổi nhếch nhác tay cầm chiếc nón lá tay xách cái ba lô bộ đội màu đã cũ. Bà ghé vào một nhà hỏi thăm:
- Cô ơi cho tôi hỏi nhà ông bà Minh Vũ, họ đi đâu cả rồi?
Nhà ông Minh Vũ sát nách nhà cô hàng xóm, sáng nay ông bà đi vắng nên cổng đã khoá.
Cô nhìn qua cách ăn mặc người đàn bà và nghe giọng nói cũng đoán được:
- Bác từ ngoài Bắc vào thăm ông bà Minh Vũ hả, ông bà vừa đi vắng chốc nữa mới về.
- Ôi, thế thì tôi phải đợi thôi… tôi đáp tàu hỏa từ bắc vào đây cô ạ.
- Vậy thì mời bác vào nhà cháu ngồi chơi đợi ông bà Minh Vũ về.
Cô rót một ly nước trà mời bà khách của nhà hàng xóm. Bà khách bắt chuyện:
- Cô ở đây lâu chưa? Ý tôi là cô hàng xóm với ông bà Minh Vũ lâu chưa?
- Lâu lắm rồi bác, cháu chơi với Minh Tâm con út ông bà Minh Vũ từ ngày còn bé đến giờ. Tình hàng xóm giữa bố mẹ cháu và ông bà Minh Vũ rất thân thiết…
Bà khách hỏi lại:
- Thế thằng Minh Tâm cũng ở đây với bố mẹ từ ngày ấy đến giờ nhỉ?
- Dĩ nhiên rồi, hai ông bà Minh Vũ đều thương yêu và cưng chiều Minh Tâm lắm, chưa ai sung sướng bằng Minh Tâm, con út mà cứ như con một ấy.
Người đàn bà thoáng đăm chiêu im lặng, Cô hàng xóm chẳng biết nói gì thêm.
- Cô thấy thằng Minh Tâm thế nào? Nó giống bố hay mẹ?
- Cháu thấy Minh Tâm giống ông Minh Vũ ở cái cao ráo.
Bà khách nửa đùa nửa thật:
- Thế cô thử nhìn xem Minh Tâm có giống tôi tí nào không?
Bây giờ cô hàng xóm mới nhìn người đàn bà kỹ hơn, Minh Tâm giống bà ở đôi mắt mí lót và cái miệng hơi rộng nhưng không kém phần duyên dáng dễ mến. Bà này tuổi trẻ chắc có một thời nhan sắc:
- Vâng, Minh Tâm có vài nét giống bác. Vậy bác là họ hàng về phía ông hay bà Minh Vũ?
Bà khách Bắc lấp lửng:
- Họ hàng xa ấy mà…

Ông bà Minh Vũ về đến nhà thế là người đàn bà vội cám ơn và từ giã cô hàng xóm để sang bên ấy.
Ông bà Minh Vũ có 3 người con, một trai một gái lớn đã lập gia đình ở riêng, cả hai sự nghiệp vững vàng và giàu có chỉ còn hai ông bà với cậu con trai út Minh Tâm, bà ở nhà quán xuyến một cửa hàng tạp hóa ngay gian nhà trước, ông làm công chức nay đã nghỉ việc, kinh tế gia đình khá giả, cậu út tha hồ được bố mẹ cưng chiều.
Cậu út cũng thành đạt như anh chị, Minh Tâm tốt nghiệp bác sĩ y khoa xin được làm ngay tại bệnh viện đa khoa Bà Chiểu chẳng phải xa cha mẹ ngày nào.
Bà Minh Vũ thường hãnh diện nói với hàng xóm:
- Thằng Minh Tâm có hiếu lắm nó bảo sẽ ở với bố mẹ cả đời, cô nào lấy nó phải chấp nhận điều kiện ấy.
Minh Tâm đẹp trai học giỏi như thế, cha mẹ nhà cao cửa rộng như thế thì cô nào dám từ chối điều kiện thường tình ấy. Nghe đâu Minh Tâm đang yêu một cô gái là ái nữ một bác sĩ chuyên khoa nổi tiếng ở Sài Gòn.
Chuyện nhà ông bà Minh Vũ đẹp toàn vẹn như trong tiểu thuyết.

Cả ông bà Minh Vũ đều ngạc nhiên khi thấy người khách lạ bước vào nhà. Vài phút sau ông Minh Vũ vẫn còn ngờ ngợ:
- Có phải bà là… bà Thi?
Bà Minh Vũ đã nhận ra:
- Chào bà Thi, mời bà vào nhà…
Bà khách chậm rãi lên tiếng:
- Vâng, tôi xin chào hai ông bà…
Bà khách kín đáo ngắm nghía quanh nhà, ngôi nhà cao ba tầng lúc nãy đã làm bà choáng bây giờ vào bên trong nội thất trang trí lịch sự sang trọng càng làm bà khách choáng thêm. Bà cay đắng nghĩ thầm: “Sao mà số họ cứ mãi giàu có sung sướng thế nhỉ…”
Bà Minh Vũ hỏi:
- Chắc bà vào  Nam thăm người thân họ hàng và ghé thăm chúng tôi luôn thể, chúng tôi mừng thấy bà vẫn khỏe mạnh.
- Tôi chẳng có tiền bạc và thời gian đi vào tận đây thăm họ hàng nào cả.
Bà khách buông câu nói lửng lơ dường như để cho chủ nhà thấm thía rồi mới nói thêm:
- Nghe người làng vào Sài Gòn về kể ông bà khá gỉa, thằng Minh Tâm làm bác sĩ tôi mừng lắm, tôi không ngờ cuộc đời tôi lại có được người con tài giỏi như thế nên tôi mới lặn lội đường xa vào thăm con để xem mặt mũi nó ra sao…
Ông bà Minh Vũ cùng nhìn nhau, cùng một câu hỏi trong đầu không biết bà Thi vào thăm con hay vì mục đích gì qua câu nói vừa rồi…
Khách Bắc vào thăm nhà ông bà Minh Vũ như những nhà khác sau năm 1975.
Bà ở tại nhà ông bà Minh Vũ vì không có họ hàng nào khác, họ tiếp bà như một người làng và hơn thế nữa như một người thân trong họ.

Ông Minh Vũ xưa là công tử con nhà giàu nhất làng, học giỏi nhưng cũng giỏi ăn chơi bay bướm, cha mẹ cưới cho ông một bà vợ con nhà gia giáo hiền thục để kềm giữ bước chân hoang đàng của ông nhưng không hiệu quả gì, ăn ở với vợ hai mặt con ông Minh Vũ vẫn chứng nào tật ấy, ông  mê đánh bạc và mê đàn bà, ông Minh Vũ đã gặp bà Thi trong một chiếu bạc, hai người kề vai tựa má nhau trong chiếu bạc mà nên tình. Mối tình  đắm say cả làng đều biết.
Bà Thi có thai đẻ ra thằng con trai, bà một mực bắt ông Minh Vũ cưới bà làm thê thiếp nhưng cha mẹ ông Minh Vũ đời nào chấp thuận một người đàn bà bị chồng bỏ vì ăn chơi bạt mạng rồi lang chạ với hết người này đến người kia về làm dâu con trong nhà mình dù là ngôi vị dâu thứ không chính thức.
Thế là bà Thi đem đứa con còn đỏ hỏn đến giao cho ông Minh Vũ, bà Minh Vũ đã giúp chồng, bà chấp nhận nuôi đứa trẻ thơ vô tội, bà cảm kích tình cảnh đứa trẻ bị mẹ bạc đãi, đã xem con chồng như con chính mình đẻ ra.

Năm 1954 ông bà Minh Vũ và các con di cư vào Nam. Bà Thi biết trước, biết mình sẽ mất đứa con trai nhưng bà không phản ứng gì.
Thế mà hôm nay bà Thi lại vào  Nam tìm thăm đứa con bà đã bỏ rơi.
Khi Minh Tâm đi làm về bà Minh Vũ giới thiệu bà khách với con:
- Đây là dì Thi họ hàng bên mẹ. Dì Thi từ Bắc vào thăm gia đình chúng ta.
Minh Tâm đã quen với những khách từ bắc vào thăm gia đình mình, nào người thân bên họ cha lại người thân bên họ mẹ nên chàng vui vẻ nhã nhặn:
- Cháu chào dì Thi đến chơi
Minh Tâm vô tư bao nhiêu thì bà Minh Vũ lo âu bấy nhiêu. Bà Minh Vũ cứ luẩn quẩn bên con, bà sợ sẽ mất con, bà Thi sẽ làm điều gì đó với thằng Minh Tâm của bà.
Ông Minh Vũ bây giờ không còn là ông Minh Vũ ngày xưa nữa, ông đã là người chồng người cha tốt. Gặp lại người xưa bệ rạc ông cảm thương dù trong thâm tâm ông vẫn oán trách bà Thi trong quá khứ đã lợi dụng đứa con làm tiền ông và đã phủi tay ruồng bỏ đứa con không thương tiếc.

Mỗi buổi sáng ông bà Minh Vũ đều đưa bà Thi ra hàng quán ăn điểm tâm, tiếp đãi lịch sự nay món này mai món khác. Sáng nay sau khi đi ăn phở ở đầu phố về thì cả ba người lại ngồi vào bàn hàn huyên chuyện trò, bà Thi đã kể chuyện đời mình:
- Cái số tôi lận đận chẳng ra gì, sau dạo chia tay ông Minh Vũ thì thời cuộc đến, giá mà tôi cũng di cư vào Nam như ông bà thì đỡ khổ thân tôi. Sau đó tôi lấy chồng, trời quả báo hay sao ấy thằng chồng này dữ dằn vũ phu, tôi chán nó mà không làm gì được nó, không dám bỏ nó, vợ chồng với 3 đứa con sống nghèo khổ trong căn nhà tềnh toàng, vất vả cực nhọc ruộng nương mà cũng chỉ ngô khoai vào bụng.
Bà Minh Vũ bùi ngùi:
- Thế rồi các cháu khôn lớn có khá hơn không?
- Tài thánh gì má khá lên được hở bà! Ba đứa con tôi có đứa nào được đi học đến cấp hai đâu, chữ nghĩa chỉ một rúm thì chỉ có đi làm ruộng, làm thuê, đời cha mẹ nghèo đời con cháu cũng nghèo theo, căn nhà vẫn nghèo xấu nhất làng…
Bà Thi than thở xong và thay đổi ngay thái độ:
- Nhưng hôm nay tôi đến đây không để nhận những lời an ủi suông của ông bà đâu nhé. Tôi có việc đấy…
Bà Minh Vũ giật mình:
- Bà nói thế là ý gì?
- Tôi chẳng có nhiều thì giờ mà ở đây quanh co, nói toạc ra là tôi cần ông bà… giúp đỡ một món tiền về làm vốn…
Ông Minh Vũ nghiêm nét mặt:
- Bà muốn gì? Bà đang làm tiền chúng tôi đấy hả?
Bà Thi lạnh lùng:
- Ông bà có tất cả những gì mà cả đời tôi không có, hạnh phúc và tiền bạc, thì cũng nên chia cho tôi hưởng chút ít phước đức của ông bà chứ. Hãy đưa tôi một món tiền thì không đời nào thằng Minh Tâm cũng như hàng xóm láng giềng của ông bà biết nó là đứa con già nhân nghĩa non vợ chồng trên chiếu bạc thâu đêm của tôi và ông Minh Vũ. Minh Tâm vẫn mãi là con yêu quý của bà Minh Vũ và tôi mãi là bà dì họ như bà Minh Vũ đã giới thiệu.
Ông Minh Vũ tức giận:
- Bà đã bỏ rơi nó, đã tống của nợ cho tôi, nếu không có nhà tôi thì tôi không biết xoay sở ra sao. Vậy mà hôm nay…
Bà Minh Vũ ngắt lời chồng:
- Kìa ông, chuyện cũ đã qua bao nhiêu năm rồi…
- Nhưng nghĩ lại tôi vẫn còn hận lắm…
Bà Minh Vũ suy nghĩ một lúc lâu rồi ôn tồn nói với bà Thi:
- Tiền bạc là mồ hôi nước mắt của chúng tôi, nhưng tôi đồng ý, sẽ bàn với nhà tôi đưa bà một món tiền, trước xem như giúp đỡ hoàn cảnh nghèo khó gia đình bà sau là gia đình tôi đang êm ấm không bị xáo trộn, tôi không muốn thằng Minh Tâm bị cú “sốc”, bị tổn thương. Tội nghiệp nó.
Bà Thi hả hê:
- Vậy ông bà quyết định nhanh đi. Khi có tiền trong tay tôi sẽ rời khỏi nhà ra ga xe lửa về bắc ngay và hứa không bao giờ trở lại. Tôi đã ở đây ăn hại nhà ông bà mấy ngày, ông bà tiếp đãi tử tế lắm tôi cám ơn.

Bỗng Minh Tâm xuất hiện, chàng đang từ thang lầu bước xuống làm ông bà Minh Vũ và bà Thi cùng giật mình sửng sốt:
- Con chào bố mẹ, chào… dì Thi.
Bà Minh Vũ lắp bắp:
- Kìa con... con… chưa đi làm sao?
- Vâng, sáng nay con mệt nên nghỉ ở nhà…
Bà Minh Vũ càng bối rối và lo lắng:
- Mẹ sơ ý qúa cứ tưởng con đã đi làm. Thế con... con... đã nghe những gì rồi?
- Tình cờ khi con vừa bước xuống vài bậc thang lầu nghe cha mẹ và dì Thi nói chuyện con càng tò mò nghe thêm và hiểu hết câu chuyện.

Không ai bảo ai cả ông bà Minh Vũ và bà Thi cùng nín lặng chờ đợi Minh Tâm nói tiếp, chàng hướng về phía bà Thi:
- Thưa dì, tôi xin lỗi phải gọi thế dù bây giờ tôi đã biết dì là ai, nhưng tôi khó có thể gọi dì là mẹ khi bỗng dưng một người mẹ không quen biết xuất hiện đã làm tôi ngỡ ngàng và cáng làm tôi ngỡ ngàng đau đớn khi người mẹ ấy đem tôi ra làm vật đổi chác bằng tiền. Ngày xưa dì còn trẻ, hư hỏng và nông nỗi bỏ rơi tôi, hôm nay dì đã bỏ rơi đứa con của dì thêm một lần nữa, vô tâm hơn, tàn nhẫn hơn…
Chàng xúc động nghẹn lời, mãi mới nói tiếp được:
- Bây giờ dì có ra ngoài đường hét to lên cho cả khu phố hay cả thế giới này biết tôi là đứa con nhân tình nhân ngãi của dì với cha tôi ngày xưa cũng không làm tôi xấu hổ hay đau đớn thêm nữa.
Minh Tâm lấy lại bình tĩnh hơn:
- Nhưng thưa dì, tôi vẫn thương cảm cảnh ngộ cuộc đời của dì. Ngoài bố mẹ tôi, tôi cũng sẽ giúp đỡ dì một món tiền để dì sửa chữa lại căn nhà.
Chàng đi lên lầu lấy tiền và mang xuống đưa cho bà Minh Vũ:
- Mẹ đưa số tiền này cho dì Thi giùm con. Bây giờ con phải đi làm còn hơn ở nhà con sẽ buồn thêm và mệt mỏi thêm.
Minh Tâm quay qua bà Thi:
- Chào dì. Chúc dì về nhà bình an.
Bà Minh Vũ gom số tiền của ông bà và Minh Tâm gói mảnh giấy báo và bỏ vào bịch ni lông gói ghém, cột lại cẩn thận trước khi trao tận tay bà Thi. Ngoài món tiền bà Minh Vũ còn mua mấy bộ quần áo mới làm quà cho con cháu bà Thi. Cái ba lô cũ của bà Thi lúc mới đến lèo tèo vài bộ quần áo cũ nay đã căng đầy lại thêm một túi xách đầy quà của chủ nhà.
Ăn bữa cơm trưa vội vã xong bà Thi giã từ ra về.

Khi bà Minh Vũ vào dọn dẹp lại căn phòng của bà Thi thì thấy gói tiền bọc trong bao ni lông vẫn nằm giữa giường. Tưởng bà Thi bỏ quên nhưng bên cạnh là một mẩu giấy ghi vài hàng:
“Tôi xấu hổ quá, có lẽ cuộc sống nghèo khổ và cái xã hội thiếu tình người bao nhiêu năm nay đã biến tôi thành con người xấu xa đê tiện, tôi ghen tức khi thấy ông bà hạnh phúc sung sướng, tôi tham lam mờ mắt khi thấy ông bà nhà cao cửa rộng.
Minh Tâm, con cho phép mẹ được một lần xưng hô với con thế này. Con đã được ông bà Minh Vũ nuôi dậy thành người tử tế, con tử tế gấp trăm, gấp nghìn lần mẹ. Hãy tha lỗi cho mẹ.
Tôi để lại món tiền này, vì tôi đã nhận món quà khác, một món quà vô giá từ ông bà Minh Vũ và Minh Tâm. Đó là lòng tử tế, bao dung.”

Nguyễn Thị Thanh Dương
(April, 13, 2017)
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeWed Mar 13, 2019 9:06 pm

.


Bến đỗ cuối đời
- Ngân Bình


Họ đến với nhau vào tuổi xế xế chứ chưa đến (xế) chiều. Vì ở anh, phong độ của chàng phi công ngày nào vẫn còn phảng phất. Chị thì dáng cao gầy, thon thả, nét yểu điệu còn vương trên nét ngà thục nữ. Bao năm qua sống đời góa bụa, chị vẫn đẹp, dù đã qua tuổi thanh xuân. Nên, “lần đầu gặp em tinh tú quay cuồng”, khiến anh nhìn mãi cô thợ cắt tóc trong tấm gương trước mặt mà không cần biết tay thợ này có khéo hay không.

Anh đã “coi mắt” chị như thế qua lời giới thiệu của chị Phi, bạn anh. Chị và chị Phi là đôi bạn thân.  Thỉnh thoảng, trong lúc trò chuyện với chị, chị Phi hay kể về gia đình của anh. Một gia đình thật hạnh phúc, với người chồng tốt, người vợ đảm đang, hiền lành và ba đứa con ngoan ngoãn, học hành giỏi giang, thành đạt. Bỗng một hôm, chị Phi buồn bã báo tin “vợ anh bạn mà tôi hay kể chuyện cho chị nghe vừa qua đời”. Không biết anh là ai, nhưng chị cũng thấy thương cảm khi nhớ lại đoạn đường sầu thảm mà mình đã bước qua gần mười năm trước. Thời gian trôi, nỗi đau buồn của anh cũng nguôi ngoai dần theo năm, tháng. Tội nghiệp anh lẻ loi trong những bước đi về, nghĩ đến bạn mình cũng đêm ngày vò võ, nên chị Phi ngỏ ý làm nhịp cầu nối cho hai tâm hồn cô đơn có cơ hội gặp gỡ, an ủi lẫn nhau. Anh gật đầu đồng ý.

Thế là, anh hữu ý trong lúc chị vô tình. Vì khi trò chuyện với anh – một khách hàng đến cắt tóc - chị không hề biết anh là người đàn ông mà chị đã được nghe kể nhiều lần qua chị Phi. Thế  nhưng, mọi sự ở đời đều bắt đầu bằng chữ duyên, nhất là hai người cùng một hoàn cảnh. Hoàn cảnh “người ở lại, khóc người ra đi vĩnh viễn”, nên họ dễ dàng trao đổi tâm sự.

Một buổi chiều tiệm vắng khách, chị tựa ghế, thơ thẩn ngắm những hạt mưa trắng xóa, mong manh như làn sương mỏng mà nghe lòng nao nao buồn. Chợt chuông điện thoại reo. Chị bắt máy. Tiếng anh vang lên, ngọt ngào thăm hỏi và kể lể chuyện gần xa. Bỗng giọng anh như trầm xuống:
– Trời mưa buồn… anh nhớ vợ anh quá.
Chị  giật mình, không biết mình có nghe nhầm không. Anh nhắc lại lần nữa. Chị suýt bật cười “Ủa! Ðang “tán” tui mà, sao bỗng dưng nhắc tới vợ vậy cà?” Và để chứng tỏ mình cũng như anh, dù có ý tìm duyên mới nhưng vẫn không quên người cũ, chị đổi giọng não nề:
– Em cũng nhớ chồng em quá.
Cuộc nói chuyện kết thúc bằng một nỗi buồn. Nhưng nỗi buồn này có phải là… “Buồn như trong một ngày, hai đứa không gặp mặt” chăng? Chỉ có người trong cuộc mới biết!

Ngày qua, tháng lại, cuộc tình đã bén men nồng, nhưng anh vẫn còn đắn đo, chưa dám thố lộ cùng con. Anh sống với đứa con gái út trong căn nhà thênh thang. Hai cha con gắn bó hơn từ khi hai đứa con lớn lập gia đình và có đời sống riêng. Nhiều lần, sau cuộc điện đàm với chị, con bé nhìn nét mặt hớn hở của anh, dò hỏi:
– Daddy nói chuyện với ai mà vui vẻ, thân mật quá vậy?
– Một người bạn.
Một chút nghi ngờ trong ánh mắt dò xét của cô con gái tinh nghịch làm anh hơi bẽn lẽn. Lần thứ hai, cũng hỏi câu hỏi tương tự như thế, anh đánh bạo làm bài toán thử:
– Con có muốn biết người đó là ai không?
Con gái nhanh nhẩu đáp “Muốn!” Anh dừng một nhịp thở trong lời đề nghị với chút hồi hộp:
– Muốn thì gia đình mình sẽ có một buổi họp nghe con.

Một buổi chiều đẹp trời, anh cùng ba đứa con và một rể, một dâu đến tiệm ăn. Bên chiếc bàn nằm trong góc khuất, anh thận trọng đặt câu hỏi:
– Theo các con, ba nên quen với người phụ nữ mấy tuổi mới thích hợp?
Thằng con rể nhìn anh như thể đang đo lường, đong đếm và sau đó “phán quyết” một câu chắc nịch:
– Phải trên sáu mươi tuổi.
Câu nói làm anh chới với, vì chị chưa đạt tới số tuổi con anh yêu cầu. Nhưng anh vẫn mạnh dạn làm một cuộc hẹn để chị gặp gỡ các con. Trong buổi hội ngộ đầu tiên, khuôn mặt trẻ trung, và dáng dấp thon gọn của chị, có lẽ đã làm cho các con anh hơi bất ngờ. Với thái độ từ tốn, chậm rãi, anh nói:
– Dì đây là người ba muốn giới thiệu với các con. Dì còn đến năm năm nữa mới đủ tuổi sáu mươi như con yêu cầu. Nên… Ba muốn biết ý kiến của các con.
Con gái, con trai, dâu, rể, im lặng trong dáng vẻ suy tư. Không gian như cô đọng lại. Một sự yên ắng đáng lo ngại. Nhưng anh chị không phải chờ đến sốt ruột khi đứa con gái út mau mắn “chấp thuận”:
– Cho luôn!
Rồi nó cầm tay anh đặt lên tay chị. Anh vui như chưa từng bao giờ vui như thế. Anh mừng vì các con anh đã “bao dung” đối với quyết định của anh. Anh biết, anh có toàn quyền định đoạt cuộc đời mình mà không cần lệ thuộc vào sự chấp nhận hay phản đối của con cái. Nhưng với anh, con cái là một phần rất quan trọng trong cuộc đời mà anh không thể thiếu, nên khi buổi “ra mắt” được hoàn tất trong bầu không khí cảm thông, vui vẻ, anh xem đó là một món quà to lớn nhất, quý báu nhất mà các con đã dành cho anh.

Phần anh đã xong, trong khi chị vẫn ngần ngừ chưa thể có câu trả lời chắc chắn, vì con trai của chị đang thi hành nghĩa vụ quân sự tại Afghanistan. Ðứa con trai mà cách đây chục năm hơn thường hay nổi giận mỗi khi có ai chọc ghẹo “Má mày có bồ rồi”. Nó ném tất cả mọi thứ gần trong tầm tay rồi giận chị, bỏ cả bữa cơm chiều. Chị giao hẹn với anh:
– Nếu con em không đồng ý thì mình chia tay.
Anh hoảng hốt nài nỉ:
– Ðừng, đừng, để anh gặp con, nói chuyện cho nó hiểu. Nếu nó vẫn phản đối, anh sẽ năn nỉ cho đến khi nào nó bằng lòng.
Chị cảm động rơi nước mắt. Tình trong như đã và mặt ngoài cũng chẳng còn e, nhưng đối với chị niềm vui, hy vọng, tương lai của con là trên hết nếu chị phải đứng trước một sự lựa chọn. Và chị biết, sự lựa chọn nào cũng có ít nhiều mất mát.

Ngày chồng chị qua đời, chỉ có hai mẹ con thui thủi với nhau. Không một người thân thuộc, chị vất vả tìm nơi để gửi con sau khi đi học về vì chị còn phải đi làm, phải lo toan cho cuộc sống với những chi phí cần trang trải. Con chị lớn lên trong đơn độc nên tình thương duy nhất mà nó được hưởng là tình thương của mẹ. Bao la như biển lớn. Thiết tha như dòng suối ngọt ngào.  Và cũng vì thế mà nó quyết chí bảo vệ, quyết chí không để ai cướp mất.
Ngày lại tiếp ngày, chị băn khoăn đắn đo, rồi bối rối âu lo, vì không biết phải nói với con như thế nào để nó hiểu mà chấp nhận anh. Mười hai năm, kể từ ngày chồng chị qua đời, cũng có nhiều người thật tâm muốn đến với chị, nhưng chị giả vờ như cô bé học trò ngây thơ trong bài hát Phượng Hồng, “Ai cũng hiểu chỉ một người không hiểu” để lập một hàng rào chắn ngang ranh giới tình bạn. Chị thận trọng trong quyết định bước tới một bước nữa, vì sợ lỡ như bước chân ấy không trọn đẹp cho phần đời còn lại thì làm sao chị đủ sức chịu đựng những lời chê cười của người đời vốn dĩ khắt khe.

Gặp anh, chị nhìn thấy ở anh đầy đủ tư cách của một người đàn ông đứng đắn, đàng hoàng. Về ngoại hình, về điều kiện vật chất, anh dư sức về Việt Nam cưới một cô vợ trẻ đẹp. Nhưng anh chọn chị như chọn cho mình một mái ấm vững vàng, một người bạn đời thủy chung, đến với anh vì tình yêu chứ không vì mục đích nào khác, và sẽ cùng anh đi hết cuộc đời còn lại bằng tình cảm chân thật. Chị sung sướng với niềm hạnh phúc đẹp như mơ đang chạm đến bàn tay chị, nhưng chị lại không được trọn quyền quyết định để nắm hay buông bởi vì chị còn phải tùy thuộc vào cái gật đầu hay lắc đầu của con. Chẳng biết thằng bé có biết là nó đang nắm giữ niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ của phần đời còn lại của chị. Cái phần đời mà chị hoàn toàn không biết sẽ còn dài hay ngắn. Nhưng chị biết, trái tim chị sẽ tan nát nếu buộc phải quay lưng làm người xa lạ với anh, người mà chị đang gửi gắm tất cả niềm yêu thương, hy vọng.

Rồi một ngày, con chị gọi điện thoại về từ vùng đất xa xôi, nơi nó đang đóng quân. Anh ngồi cạnh chị hồi hộp nghe ngóng.
– Má có bồ rồi phải không?
Chị bối rối ấp úng:
– Ai… ai nói với con?
– Má không cần biết ai nói. Má chỉ cần cho con biết, có hay không?

Ơi trời! thằng con vừa tròn hai mươi tuổi của chị mà giọng điệu tra hỏi sao giống một người cha nghiêm khắc. Vậy mà chị sợ. Y như sợ ba mình ngày xưa.
– Ơ... ờ… má có quen với chú này…
– Mà chú đó có thương má không?
– Có… chú… rất thương má.
– Má có biết, má bao nhiêu tuổi không?
Chị khép nhẹ đôi mắt, nghe nhịp thở của mình như nặng trĩu trong nỗi đau nhoi nhói.
-…
– Má già rồi đó, má với chú đó thương nhau sao không làm đám cưới đi.
Chị bật khóc, anh cũng rơm rớm nước mắt vì vui mừng. Tạ ơn Trời! Tạ ơn con! Chị nói thầm giữa những dòng nước mắt hạnh phúc trên khuôn mặt mà vài mươi phút trước đây còn hằn nét thấp thỏm, lo âu.
– Thời buổi bây giờ, con đặt đâu mình ngồi đó đi em.
Anh nắm tay chị. Cái nắm tay thật ân cần, âu yếm, thay lời thề nguyền gắn bó trong câu anh nói pha trò mà chị cho là duyên dáng nhất từ trước đến giờ.

Ngày tổ chức bữa tiệc ra mắt người thân, bạn bè, trong niềm hân hoan vì mơ ước đã thành sự thật, anh cảm động khi thấy các con của mình đến thật sớm, lăng xăng giúp anh chị chuẩn bị, sắp xếp mọi thứ để phòng tiệc thêm phần trang trọng, xinh đẹp. Nhìn các con lễ phép chào đón khách với nụ cười tươi tắn, thân mật, anh thầm cảm tạ Ơn Trên đã ban cho anh một diễm phúc tuyệt vời mà không phải người cha nào khi quyết định bước thêm bước nữa có được.
Trong phần cảm tạ quan khách, anh nghẹn lời “cám ơn các con”. Những đôi mắt không còn là trẻ thơ đã chớp nhanh trong ánh nước long lanh niềm cảm xúc. Tình phụ tử đẹp nhất là phút giây này. Phút giây mà những đứa con trưởng thành biết dẹp đi sự ích kỷ, độc đoán trong tình cảm để cha mình có cơ hội tìm niềm an ủi cuối đời.

Con của chị cũng kịp về tham dự ngày vui của mẹ. Thằng bé đeo riết lấy mẹ ngày nào, nay đã là một quân nhân chững chạc trong bộ quân phục chỉnh tề. Choàng lấy vai mẹ, con chị thì thầm lời chúc mừng. Nó chẳng khác nào một thiên thần đã cầm lấy thanh gỗ có ngôi sao lấp lánh, gõ nhẹ vào cánh cửa  bọc nhung, màu hoa hồng đỏ, để  cánh cửa chầm chậm mở toang cho anh chị bước vào khu vườn mang tên hạnh phúc. Thứ hạnh phúc rất quý báu đối với những người đã trải qua bao dâu bể của cuộc đời, đang kiếm tìm một bến đỗ bình an.

NB
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeMon Mar 25, 2019 6:15 pm

.
Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Th?id=OIP.0eClgwIDdCq01TiY-ivVzAEyDM&pid=15

NHỮNG CON ĐƯỜNG RỢP BÓNG CÂY XANH
IVAN BUNIN (Nga) (Nobel 1933)
- Thái Bá Tân dịch


Một cỗ xe bám đầy đất bẩn, phần trên được che kín một nửa, kéo xe là ba con ngựa có vẻ ngoài bình thường, lông đuôi dính bết vào nhau. Cỗ xe đang nặng nề lăn bánh giữa một chiều thu lạnh lẽo, ẩm ướt trên một trong những con đường lớn của vùng Tula ngập ngụa vì nước mưa đen xịt và bị cày nham nhở bởi rất nhiều các bánh xe qua lại. Cỗ xe tiến lại gần một dãy nhà tồi tàn khá dài, một đầu được dùng làm trạm bưu điện nhà nước, còn đầu kia là một quán trọ tư nhân, nơi khách có thể đến nghỉ ngủ qua đêm, ăn hoặc thuê ấm xamôva để pha trà. Ngồi trước xe là một người đàn ông khỏe mạnh mặc áo vải thô kiểu nông dân bó chặt lưng, khuôn mặt rám nắng và nghiêm nghị với bộ râu thưa đen bóng, trông giống một tên cướp thời cổ. Còn trong xe là một chiến binh già dáng người cân đối, đội mũ lưỡi trai to, mặc áo khoác màu xám kiểu thời Nga hoàng Nicholai với cổ lông hải ly dựng đứng. Lông mày ông còn đen, nhưng bộ ria và chùm râu quai nón nối liền với nhau thì đã bạc trắng. Cằm ông cạo nhẵn, và như nhiều chiến binh khác cùng thời, ông có vẻ ngoài phảng phất giống vua Alexandre II. Cái nhìn của ông như dò hỏi, nghiêm khắc, nhưng đồng thời có vẻ mệt mỏi.
 
Khi ngựa dừng hẳn, ông thò một chân ra khỏi xe, – chân ông đi ủng nhà binh, với ống ủng tròn đều và cao, – hai tay đi găng da lộn vén vạt áo khoác, rồi nhảy xuống, chạy lên bậc hiên ngôi nhà.
– Phía bên trái, thưa ngài, – từ trên xe, gã xà ích kêu to, giọng thô lỗ; và ông, vì người cao, khẽ cúi đầu bước qua cửa vào hành lang rồi rẽ trái đi vào quán trọ.
Trong quán ấm áp, khô ráo và dễ chịu: bức ảnh Chúa viền vàng, còn mới treo trên tường trong góc phòng bên trái, phía dưới là mặt bàn phủ vải sạch và ráp, sau bàn là chiếc ghế dài được lau chùi cẩn thận; chiếc lò sưởi kiêm luôn cả bếp nấu ăn đứng ở góc phải, mới quét vôi trắng lóa. Bên cạnh là một cái gì đấy giống như đivăng, được bọc bằng vải yên ngựa, lưng tựa vào tường lò; từ lò sưởi bay ra mùi thơm dễ chịu của món súp nấu bằng cải bắp, thịt và lá nguyệt quế.

Ông khách quẳng chiếc áo khoác xuống ghế; và bây giờ chỉ mặc bộ quân phục và đi ủng, người ông trông càng cân đối hơn. Rồi ông cởi găng tay, cởi mũ; với vẻ mệt mỏi, ông đưa bàn tay trắng nhợt, gầy gò vuốt tóc – mái tóc bạc hai bên thái dương và gần khóe mắt hơi quăn. Khuôn mặt ông đẹp, dài, đôi mắt đen; trên gương mặt đây đó còn sót lại những dấu vết nhỏ của bệnh đậu mùa. Trong quán chẳng có ai, ông hé cánh cửa dẫn sang phòng bên, nói to, vẻ khó chịu:
– Này, có ai trong ấy không?
Liền sau đó, bước vào quán là một phụ nữ tóc đen, lông mày cũng đen, dù không trẻ lắm nhưng vẫn còn xinh đẹp. Trông chị ta giống một phụ nữ digan đứng tuổi, có lớp lông tơ sẫm phía môi trên và dọc theo hai má, đi đứng nhẹ nhàng dù người đẫy đà, bộ ngực nhô cao dưới chiếc áo sơ mi màu đỏ…
– Xin chúc mừng ngài đến quán chúng tôi – chị nói – Ngài muốn dùng thức ăn hay uống trà?

Ông khách đưa mắt nhìn nhanh đôi vai tròn trĩnh, đôi chân nhẹ nhàng đi dép kiểu Tácta màu đỏ đã sờn cũ, rồi lơ đãng nói nhát gừng từng tiếng một:
– Uống trà. Chị là chủ quán, hay giúp việc ở đây?
– Thưa ngài, chủ quán ạ.
– Nghĩa là tự làm lấy mọi việc?
– Đúng thế ạ, thưa ngài.
– Sao lại thế? Góa chồng hay sao mà phải tự mình lo tất cả?
– Không phải góa chồng, thưa ngài. Nhưng dù sao cũng phải kiếm nghề gì để sinh sống chứ ạ. Vả lại, tôi cũng thích công việc này.
– Ra thế. Tốt lắm. Quán của chị sạch sẽ và dễ chịu lắm.

Từ nãy đến giờ người đàn bà vẫn chăm chú nhìn ông khách, mắt hơi nheo lại.
– Tính tôi thích sạch sẽ, – chị nói – Tôi vốn lớn lên bên cạnh những người quyền quý, làm sao không sạch sẽ được, thưa ngài Nicholai Alexeivic!
Ông khách đứng thẳng người lên, mở to mắt, đỏ mặt rồi vội hỏi:
– Nadegeda! Cô đấy à?
– Vâng, tôi đây Nicholai Alexeivic, – chị đáp.
– Lạy Chúa! Lạy Chúa! – Ông vừa nói, vừa ngồi xuống ghế và chăm chú nhìn người nữ chủ quán. – Ai có thể ngờ được! Đã bao nhiêu năm chúng ta không gặp nhau rồi nhỉ? Dễ đến ba nhăm năm chưa?
– Ba mươi năm, Nicholai Alexeivic. Bây giờ tôi bốn mươi tám, còn ông thì đã gần sáu mươi phải không?
– Có lẽ thế… Kỳ lạ quá, lạy Chúa.
– Thưa ông, cái gì kỳ lạ ạ?
– Tất, tất cả… Sao cô không hiểu điều đó!

Vẻ mệt mỏi và lơ đãng biến mất, ông đứng dậy và bước từng bước dài trong phòng, mắt luôn nhìn xuống sàn nhà. Rồi ông dừng lại, lúng túng đến đỏ bừng cả mặt, ông nói:
– Từ dạo ấy đến nay tôi chẳng biết một tí gì về cô. Cô tới đây bằng cách nào? Tại sao cô không ở lại với ông bà chủ?
– Chẳng bao lâu sau khi ông đi, người ta cho tôi được tự do.
– Rồi cô sống ở đâu?
– Kể ra thì dài lắm, thưa ông.
– Cô nói là không lấy chồng à?
– Không, không lấy chồng.
– Tại sao? Nhất là khi cô xinh đẹp như thế?
– Tôi không thể làm được điều đó.
– Nhưng vì sao lại không? Cô nói thế nghĩa là gì?
– Cũng chẳng có gì khó hiểu lắm. Chẳng lẽ ông không nhớ là tôi đã yêu ông như thế nào?

Ông lại lúng túng đến phát khóc, và khẽ nhíu mày, ông bước đi tiếp.
– Cái gì cũng phải qua đi, cô bạn của tôi ạ, – ông khẽ nói – Tình yêu, tuổi trẻ… tất cả,  tất cả! Cái xảy ra giữa chúng ta là chuyện bình thường và chẳng lấy gì làm tốt đẹp. Theo thời gian, tất cả sẽ qua đi. Như trong sách của thánh Job người ta nói thế nào ấy nhỉ? "Anh sẽ nhớ lại mọi chuyện như nhớ về dòng nước đã trôi qua".
– Cái ấy thì tùy người, Nicholai Alexeivic ạ. Tuổi trẻ thì đúng, chẳng có ai giữ mãi được, nhưng tình yêu thì khác.
Ông đứng lại, ngẩng đầu và nhếch mép cười một cách khổ sở:
– Nhưng không có nghĩa rằng cô có thể yêu suốt đời được!
– Thế mà tôi có thể đấy, Nicholai Alexeivic ạ. Đã bao nhiêu năm trôi qua, mà tôi vẫn chỉ sống với những ý nghĩ về ông. Tôi biết rằng từ lâu ông đã chẳng còn như xưa, rằng đối với ông hầu như chẳng có gì xảy ra, thế mà… Giờ có trách ông điều gì cũng quá muộn, nhưng dù sao cũng phải nói rằng ngày ấy ông đã bỏ rơi tôi một cách không đẹp đẽ gì – biết bao lần tôi định tự tử chỉ vì tủi nhục, chứ chưa nói đến chuyện khác. Đã có một thời, Nicholai Alexeivic, tôi từng gọi ông là Nicholenca thân yêu, còn ông thì, ông nhớ không, ông đã đọc cho tôi nghe bài thơ về "Những con đường rợp bóng cây xanh" nào đó, – chị nói với nụ cười không lấy gì làm thân thiện lắm.
– Vâng, ngày ấy đúng là cô đẹp, đẹp thật! – ông vừa nói vừa lắc đầu. – Cô sôi nổi, cô tuyệt vời làm sao! Rồi dáng người, rồi đôi mắt! Cô còn nhớ người ta chú ý tới cô thế nào không chứ?
– Có nhớ, thưa ông. Còn ông, ông cũng là một người điển trai vô cùng. Và tôi đã dành trọn vẹn cho ông tất cả cái đẹp và cái sôi nổi của mình. Làm sao tôi có thể quên được một điều như thế?
– Ồ, mọi cái đều sẽ qua đi. Mọi cái sẽ bị lãng quên.
– Cái gì cũng sẽ trôi qua, vâng, nhưng chưa hẳn sẽ bị lãng quên tất cả.
– Thôi, cô đi đi, – ông nói, và quay người bước lại gần cửa sổ. – Cô đi đi, tôi van cô.

Rồi rút chiếc khăn mùi xoa chấm vào mắt, ông nói nhanh:
– Chỉ mong Chúa tha lỗi cho tôi. Còn cô, có lẽ cô cũng đã tha thứ cho tôi rồi chứ?
Chị bước gần đến cửa và quay lại:
– Không, Nicholai Alexeivic, tôi không tha thứ. Một khi chúng ta đã nói đến tình cảm của mình, thì tôi nói thẳng với ông rằng, tôi sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho ông được. Cả trước kia, cả lúc này, đối với tôi chẳng có gì thân thiết hơn ông. Chính vì thế mà tôi không thể tha thứ. Thôi, chẳng cần gì phải nhắc lại, cái gì đã chết đi thì không thể làm sống lại!
– Phải, phải, chẳng để làm gì nữa. Cô hãy cho người chuẩn bị xe ngựa giúp, – ông nói rồi rời khỏi cửa sổ, nét mặt lúc này đã nghiêm khắc trở lại. – Tôi muốn nói với cô một điều thế này: Trong đời mình, tôi chưa bao giờ được nếm mùi hạnh phúc, quả đúng như thế. Xin lỗi, nếu tôi làm cô chạm lòng tự ái, nhưng tôi yêu vợ tôi đến điên cuồng, mê mẩn. Thế mà cô ta đã phản bội, đã bỏ tôi còn nhục nhã hơn nhiều so với tôi bỏ cô. Tôi cũng vô cùng yêu mến, chiều chuộng con trai, và đã từng hy vọng biết bao điều tốt đẹp ở nó, thế mà lớn lên, hóa ra nó lại là một thằng mất dạy, trâng tráo, tàn nhẫn, bất lương, vô liêm sỉ, một thằng phá của. Ừ, mà rồi đó cũng là chuyện bình thường và đốn mạt. Chào cô, cô bạn thân mến ạ. Tôi nghĩ rằng mất cô, tôi đã để mất một cái gì đấy đáng quý nhất mà tôi có trong đời.
Chị bước lại gần và khẽ hôn lên tay ông, ông cũng hôn tay chị.
– Xin cô cho chuẩn bị xe ngựa…
Khi đã đi được khá xa, ông buồn bã nghĩ: "Phải, cô ta đúng là một người tuyệt diệu, tuyệt diệu đến mức khó lòng tin nổi!" Ông xấu hổ nhớ lại những lời nói của mình, nhớ cả việc ông hôn tay chị, nhưng liền ngay lúc ấy, ông lại bỗng xấu hổ vì mình đã xấu hổ "Thì chẳng đúng là chính cô ta đã cho mình những giây phút hạnh phúc nhất trong đời đấy ư?"

Khi đã gần tối, mặt trời mới nhợt nhạt ló ra. Người đánh xe vẫn cho ngựa chạy nước kiệu, luôn phải thay đổi luồng đi để chọn những chỗ ít bẩn nhất, và cũng như đang suy nghĩ về điều gì đó. Cuối cùng, với giọng nghiêm khắc một cách thô lỗ, anh ta nói:
– Cái bà ấy vẫn đứng bên cửa sổ, nhìn mãi theo chúng ta, thưa ngài. Chắc ngài quen biết bà ta đã lâu?
– Vâng, đã lâu, Klim ạ.
– Bà ta thông minh lắm đấy. Lại nghe nói càng ngày càng giàu thêm. Còn cho vay lấy lãi nữa.
– Điều ấy không có ý nghĩa gì hết.
– Sao lại không? Ai mà chẳng muốn sung sướng? Cho vay mà có lương tâm thì cũng không có gì đáng trách lắm. Mà nghe nói bà ta thuộc loại người rất sòng phẳng về chuyện này. Nghiêm khắc lắm. Ai mà không trả nợ đúng hẹn thì sau này chỉ tự trách mình.
– Vâng, vâng, chỉ tự trách bản thân mình thôi… Nào, cho đi nhanh thêm tí nữa, kẻo nhỡ tàu đấy…

Mặt trời xuống thấp phía chân trời, treo lơ lửng, vàng vọt trên những cánh đồng trơ trọi. Tiếng chân ngựa lội bì bõm giữa những vũng nước nông. Nicholai Alexeivic lơ đãng nhìn những móng chân ngựa đang chạy, khẽ nhíu bộ lông màu đen, và nghĩ:
"Phải, hãy tự trách mình. Phải, những giây phút hạnh phúc nhất, tất nhiên! Không chỉ là hạnh phúc mà là kỳ diệu!"

Bốn xung quanh là màu hoa đỏ tươi. Những con đường rợp bóng cây xanh mờ tối… "Ôi, lạy Chúa, cái gì sẽ xảy ra với mình, nếu mình không bỏ rơi cô ấy? Buồn cười thật! Sẽ thế nào, nếu Nadegeda không phải là chủ quán trọ, mà là vợ mình, bà chủ ngôi nhà ở Peterbourgh của mình, mẹ của những đứa con của mình?"
Rồi nhắm mắt, ông khẽ lắc đầu.
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeThu Jun 13, 2019 1:45 pm

.
Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) 676c76783f5b5637a0bdfd9c0e85e27b

Chiếc Nhẫn Ngọc

- Rabindranath Tagore (Nobel 1913)


Sau nhiều chuyện dan díu, Khiroda không còn trẻ lắm song vẫn kiếm được một bạn trai mới để hy vọng hắn cưu mang mình. Nhưng rồi chẳng bao lâu cả người này nữa cũng bỏ rơi nàng như người ta bỏ rơi một manh áo cũ. Nàng cảm thấy ê chề, nhục nhã, và một lần nữa lại phải đi tìm tay khác để có miếng ăn hàng ngày.

Cũng như mùa thu, đoạn cuối của tuổi thanh xuân đến với người ta như một thời kỳ êm đềm đầy quyến rũ, ở đó quả cây của cuộc đời như hạt thóc đang chín vàng trong một bầu không khí êm ả, thanh thản. Những náo động của tuổi trẻ không còn thích hợp với thời kỳ này nữa. Nền tảng của cuộc đời ít nhiều đã được xây dựng vững chắc, nhân cách của người ta đã được phát triển qua những khổ đau và vui sướng, trong một thế giới mà cái ác cũng như cái thiện đã hình thành nên tính cách của mỗi con người.

Trong buổi chiều êm ái đó của tuổi trẻ, khi đến thời gian dành cho những niềm vui yên tĩnh, không gì bi đát cho bằng lại phải bắt đầu tạo lập những mối quan hệ mới, tìm những người quen biết mới, lao vào những cố gắng phù phiếm để gây dựng những mối liên hệ mới, dốc sức vào những việc tìm kiếm và không biết đến đâu là cùng để có một cái gì đó vững chắc. Thật đáng buồn cho số phận của ai đó đến thời kỳ này vẫn không có một chiếc giường để ngả lưng, một ngọn đèn thắp sáng đón mình lúc bước chân về nhà ban tối.
Khiroda năm nay đã đến đọan cuối của thời thanh xuân. Một buổi sáng, nàng thức dậy và nhận ra người tình đã bỏ trốn hồi đêm, cuỗm theo tất cả tiền bạc và đồ trang sức của mình. Nàng không còn chút gì để trả tiền thuê nhà và cả để mua thức ăn cho đứa con trai mới lên ba. Nàng bỗng hiểu ra rằng trong suốt ba mươi tám năm của cuộc đời, nàng đã không có lấy được một người bạn thân nào, không có được một túp lều nho nhỏ để sống và để chết. Lại một lần nữa, hôm nay nàng phải gạt nước mắt, quệt son lên môi, đánh phấn hồng lên má che giấu buổi xuân tàn với một dáng dấp giả tạo, kiên nhẫn đi kiếm những trái tim mới bằng các nụ cười.

Khi nghĩ đến những chuyện đó, nàng không sao chịu nổi. Nàng đóng cửa lại, nằm lăn ra nhà đập đầu xuống đất mãi không thôi. Suốt một ngày nàng cứ nằm sóng soải như thế, không ăn uống, như người dở sống dở chết. Tối đến, căn buồng không ánh sáng mỗi lúc một thêm đen thui. Ngay lúc ấy, một người tình cũ đến gõ cửa gọi "Khiroda, Khiroda". Khiroda nhào ra, tay cầm chiếc cán chổi, gầm lên như con cọp cái. Người bạn tình trẻ tuổi vội vàng chuồn mất.
Đứa con nàng đã khóc hoài vì đói bèn nằm lăn vào gầm giường mà ngủ thiếp đi. Tiếng la của mẹ làm nó giật mình, lại khóc gọi mẹ trong bóng tối. Khiroda ôm đứa con lên, ghì chặt vào ngực và chạy ra cái giếng ngoài sân, nhảy xuống giếng.
Nghe tiếng rơi, hàng xóm láng giềng xách đèn chạy sang, xúm quanh miệng giếng. Không để mất thời gian, họ tìm cách lôi lên được hai mẹ con. Khiroda mê man bất tỉnh, còn đứa trẻ thì đã chết. Nàng được đưa vào bệnh viện và ít lâu sau bình phục. Sau đó nàng bị quan tòa khép vào tội giết người.

Mohit Mohan là một quan tòa nghiêm khắc. Ông muốn xử thật nặng và khép nàng tội tử hình, sẽ bị treo cổ. Các vị thẩm phán, luật sư và công tố viên tranh cãi với nhau về tình trạng dẫn đến hành động điên rồ của người đàn bà tội nghiệp kia, cố tìm cách cứu nàng nhưng không được. Ngài chánh án dứt khóat cho rằng nàng không đáng được hưởng một sự khoan hồng nào cả, cố ý làm chết đứa trẻ thì bị trừng phạt, chỉ có thế thôi.
Có một lý do khiến ngài Mohit Mohan không thể khoan hồng. Trước hết, ông quan niệm rằng tất cả các phụ nữ Ấn Độ đều là nữ thần, do đó phải xứng đáng là nữ thần. Nhưng mặt khác, ông lại không tin một tí nào ở họ. Theo cách ông suy nghĩ, phụ nữ có xu hướng phá vỡ các mối dây ràng buộc với gia đình, những người cầm cân nẩy mực như ngài chỉ cần dễ dãi một chút là sẽ chẳng còn một phụ nữ nào sống nghiêm túc trong khuôn phép xã hội.

Còn một lý do khác khiến Mohit Mohan đi đến quyết định xử tử người phụ nữ đó. Để quý bạn biết rõ lý do này, chúng tôi thấy cần phải kể chi tiết một chút tiểu sử của ngài hồi còn trẻ tuổi.
Khi Mohit học năm thứ hai bậc trung học, ông hòan tòan khác với bây giờ cả ở hình dáng bên ngòai lẫn cách sống. Hiện tại, Mohit có thể khoe cái đầu hói, chỉ còn một ít tóc lơ thơ ở phía đằng sau và trên đỉnh đầu. Mặt ngài đỏ hồng, nhẵn nhụi. Ngày xưa, thời còn sinh viên với cặp kính trắng gọng vàng, hàng ria mép và mái tóc húi theo kiểu Anh, cậu là hình ảnh của một thanh niên hào hoa phong nhã. Gia đình cậu thuộc lọai sang trọng, hơi thiên sang lối sống của thế kỷ thứ XIX, nghĩa là rất chiều con.
Chàng Mohit chăm chút từng ly từng tí về cách ăn mặc và sống rất tự do, không nề hà việc ăn thịt, uống rượu Ăng lê, ngòai ra còn một số tật xấu khác, đại lọai như vậy.

Gần ngôi biệt thự rộng lớn của gia đình cậu Mohit là nhà một tiểu công chức không lấy gì làm giàu có lắm, đồng lương nhà nước ít ỏi. Ông sống với vợ và mấy đứa con, trong số các con đó có người con gái rất trẻ, rất đẹp tên Hemsashi. Nàng mới ở tuổi mười lăm thì người ta đã dạm hỏi và rồi người chồng chưa cưới của nàng chẳng may chết sớm do bệnh. Hemsashi chưa từng lấy chồng mà đã bị coi như góa bụa.
Phong cảnh bờ sông xa với lùm cây xanh nhạt trông đẹp lung linh như tranh vẽ, nhưng khi đặt chân tới thì nó không còn gì là vẻ đẹp nữa. Trong cảnh cô đơn ở mảnh đất này, quan hệ giữa người với người diễn ra như một khu vườn bí hiểm đối với Hemsashi. Nàng tưởng mọi con đường của thế giới trước mặt đều rộng rãi, thẳng tắp và đầy huy hòang. Nàng nghĩ hạnh phúc đang đón chờ ở ngay trước cửa nhà mình. Bầu trời xanh run rẩy theo mỗi rung động của trái tim, và chung quanh, cả vũ trụ xoè mở các đóa hoa hàm tiếu của nó để đón chào cái tuổi tươi non.

Gia đình Hemsashi chỉ có bố mẹ và hai đứa em trai. Ăn sáng xong hai đứa em đi học, trưa về ăn cơm rồi lại đi học thêm ở một lớp tối gần nhà bởi vì ông bố không đủ khả năng kinh tế thuê người đến nhà dạy kèm cho hai đứa con.
Những lúc ngơi tay làm việc nội trợ, Hemsashi thường ngồi trong gian buồng quạnh hiu của mình, đôi mắt buồn mơ màng nhìn người qua lại trên đường cái.
Nàng nghe thấy những tiếng gọi nhau của bọn phu khuân vác đi qua. Nàng tưởng như mọi khách qua đường đều vui vẻ, ngay cả những người hành khất cũng được tự do và những người bán hàng rong không phải vất vả, nhọc nhằn kiếm miếng ăn hàng ngày, mà đó là những diễn viên vui sướng trong một vở kịch diễn trên sân khấu di động của cuộc đời. Hết sáng đến chiều, nàng thấy cậu Mohit Mohan sang trọng, ngạo nghễ đi lại với vẻ kiêu kỳ. Đối với nàng, cậu là hình ảnh của sự tận thiện, tận mỹ. Cậu là thánh thần được thượng đế phú cho mọi tài năng mà những người đàn ông khác khó có thể có được. Cậu ăn diện. Cậu điển trai. Cậu có đủ mọi thứ trên đời. Cũng như con búp bê bằng nhựa nghiễm nhiên trở thành một con người thật trước mắt em bé chơi búp bê; người "góa phụ không phải góa phụ" trẻ tuổi phủ lên con người của cậu Mohit một vầng hào quang tưởng tượng và chiêm ngưỡng vị thần linh mà nàng tự tạo ra. Thỉnh thỏang, vào buổi tối, nàng thấy nhà Mohit rực rỡ ánh đèn và nghe thấy tiếng đàn, tiếng hát, tiếng reo vui nhè nhẹ của những chiếc chuông nhỏ xinh xắn móc ở những chiếc vòng trên cổ tay hay trên cổ chân của các cô vũ nữ cùng với lời ca của họ. Thế là Hemsashi ngồi suốt đêm, đôi mắt thèm khát dõi theo những hình bóng chuyển động trong các ô cửa sổ đó.

Trái tim nàng bị tổn thương và đập mạnh như trái tim của con chim bị nhốt trong lồng. Nàng không chê bai mà cũng không trách móc vị thần linh nàng đã tự tạo ra vì những trò chơi phóng đãng của cậu. Như ánh lửa thu hút những con thiêu thân, ngôi nhà của cậu Mohit tràn ngập ánh sáng đã thu hút nàng như chuyện thôi miên. Lời ca tiếng nhạc tạo nên hình ảnh thần tiên. Cứ thế, nàng xây dựng trong trí óc mình một lâu đài kỳ ảo, trong đó có thần tượng là chàng thanh niên mà nàng tôn sùng. Nàng say sưa, ngây ngất chiêm ngưỡng nó. Từ xa, nàng đâu biết rằng mình rất đẹp và đằng sau những ánh đèn rực rỡ đó có ánh mắt của một con thú đang rình mồi.
Hemsashi sẽ sống như thế mãi nếu một hôm, ánh mắt con thú Mohit không bị choáng ngợp khi nhìn thấy cô gái "thiếu phụ" ngồi bên cửa sổ. Từ đấy, cậu gửi cho nàng nhiều bức thư tỏ tình dưới cái tên giả "Binod Chandra". Cuối cùng, chàng nhận được một thư trả lời run rẩy, ngập ngừng, đầy những lỗi chính tả và một tình cảm sâu nặng.

Ngày tháng trôi qua đầy giông tố, khi thì lo lắng, khi thì chồng chất hờn ghen hoặc hy vọng hão huyền trong tâm trí u mê chóang váng của nguời con gái son trẻ. Sau hết, con người khốn khổ tội nghiệp đó bị kéo ra khỏi cái thế giới tĩnh lặng và đầy cô đơn của nàng. Một buổi tối, đã khuya, Hemsashi trốn bố mẹ, trốn các em, đi cùng với Mohit Mohan dưới cái tên giả Binod Chandra lên một toa tầu. Thần tượng bây giờ ở ngay bên cạnh, nàng say mê nhưng không phải là không lo lắng.
Khi tàu chuyển bánh, lạ lùng là nàng phủ phục xuống chân "Binod Chandra", khóc lóc van xin chàng đưa nàng về nhà. Mohit vừa thương hại lại vừa bực, bèn lấy tay bịt miệng nàng.

Bấy giờ con tàu đã bắt đầu lao nhanh trên đường sắt. Hemsashi thấy lại tất cả những người thân. Người cha khi nào ngồi vào bàn ăn cũng có mẹ và nàng ngồi bên cạnh. Thằng em út thích được nàng dọn cho ăn ngay khi đi học về. Hemsashi nhớ lại những lúc mẹ nàng ngồi têm trầu buổi sáng. Tối đến mẹ cuộn tóc cho nàng. Mỗi góc nhà, mỗi sự việc nhỏ bé hàng ngày đều hiện lên thân yêu trong trí óc nàng. Hemsashi thấy ngôi nhà bé nhỏ của gia đình mình quả là thiên đường và những chuyện têm trầu, cuộn tóc, quạt cho bố ngồi ăn cơm, nhổ tóc sâu cho bố, chơi đùa với hai đứa em... sao mà đáng yêu đến thế nhưng cũng xa xôi đến thế. Con tầu đang lao đi, nó mang theo nỗi lo lắng của nàng nhưng "Binod Chandra" không cho nàng quay trở lại...
Ít lâu sau, "thần tượng" bỏ rơi nàng trong khi nàng đang bụng mang dạ chửa. Không còn ai nhớ tới nàng nữa và nàng chìm đắm trong sự tủi nhục.

Sau buổi tuyên án tử hình Khiroda được hai hôm, Mohit vốn thích ăn rau tươi, ngài đích thân vào vườn rau nhà tù, tự tay hái lấy những thứ rau mà ngài thích. Sực nghĩ tới vụ án Khiroda, ngài tò mò muốn biết người phụ nữ ấy có hối hận hay không khi bị kết án nặng như thế. Ngài rẽ vào khu giam giữ các nữ tù nhân.
Từ xa Mohit đã nghe thấy tiếng cãi cọ. Bước lên trên hiên phòng giam, ngài thấy Khiroda đang cãi nhau với người giám thị.
"Hừ, đúng là bản tính đàn bà," - ngài nghĩ thầm - "Chết đến nơi rồi mà vẫn còn cãi nhau!"
Vừa trông thấy quan tòa, Khiroda đã kêu khóc om sòm: "Bẩm lạy quan chánh án, con xin ngài bảo anh ta trả lại cho con. Anh ta lấy của con chiếc nhẫn!"
Hỏi ra, ngài được biết Khiroda đã giấu trong mái tóc một chiếc nhẫn, tên giám thị tình cờ khám phá ra nên đã chiếm đoạt. Ngài Mohit Mohan lại nghĩ thầm: "Chỉ còn ba ngày nữa thôi là bị treo cổ vậy mà vẫn bận tâm đến chiếc nhẫn. Đúng là đồ nữ trang chiếm một vị trí rất lớn trong tâm hồn phụ nữ!" Theo lệnh của quan chánh án, tên giám thị vội vàng trao lại chiếc nhẫn cho ngài.

Lật đi lật lại chiếc nhẫn trong tay, ông giật bắn người. Đó là một chiếc nhẫn ngọc rất đắt tiền, trên mặt có khắc những chữ "Hemsashi" và "Binod Chandra" rất rõ.
Mohit thôi ngắm chiếc nhẫn và nhìn vào khuôn mặt Khiroda. Một gương mặt khác hiện lên trong dĩ vãng xa xăm của hai mươi bốn năm về trước. Gương mặt đó tươi trẻ, ướt đẫm nước mắt, chan chứa yêu thương, tràn đầy lo lắng. Hai gương mặt có những nét giống nhau rất dễ nhận ra. Ông lại ngắm chiếc nhẫn ngọc, và khi ngước mắt lên nhìn người đàn bà nghèo khổ, tội lỗi, tự nhiên ông thấy gương mặt thân yêu của nàng được bọc trong một vầng hào quang. Chiếc nhẫn ngọc nhỏ bé đã biến nàng thành hình ảnh sáng ngời của một vị nữ thần.

Dịch giả: Đoàn Dự
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeSat Jul 27, 2019 9:52 am

.

Hai người đàn ông và một người đàn bà  
- Truyện Ngắn Diane Rayner


Philip Wader ngồi trong phòng làm việc và đọc lại bức thư vừa viết xong:
“Laura yêu thương!
Việc làm của anh sẽ làm em ngạc nhiên và rất có thể, sẽ làm em đau khổ. Anh biết rằng em đã yêu người khác, còn anh lại yêu em hơn cả cuộc đời mình. Chính vì vậy mà hôm nay, lần cuối cùng, anh nâng cốc rượu có thuốc độc vì em. Anh đã thật hạnh phúc trong 4 năm qua - 4 năm em là vợ của anh. Anh hành động như vậy là vì muốn giải thoát cho em khỏi sự ràng buộc, vì hạnh phúc của em.
Anh vẫn là của em cho tới phút cuối cùng.
Phillip”


Đây không phải là một trong những tuyệt tác của mình - Ông nghĩ - Nó quá ư uỷ mị, nhưng nhất định nó sẽ làm cho nhiều độc giả phải khóc thầm, nếu được đăng lên báo. Nếu… Ông bỗng nói thành lời và thở dài não ruột. Lẽ nào các báo ngày mai sẽ đăng cáo phó ta? Ông nhắm mắt lại và hình dung ra các hàng tít lớn: Một tiểu thuyết gia nổi tiếng đã tự vẫn ở tuổi 54. Người ta sẽ viết gì về mình? Những tác phẩm nào của mình sẽ được người đời yêu thích nhỉ? Rồi thiên hạ sẽ đánh giá ra sao về tài năng của mình? Hay chẳng ai nói về những thứ ấy, mà người ta chỉ bàn tán về mối tình bất hạnh của mình với cô vợ trẻ chỉ bằng tuổi đứa con gái đầu của mình? Ông mỉm cười chua chát. Nhưng nói cho cùng thì ông đâu còn biết được tất cả những gì thiên hạ đàm tiếu hay ca ngợi ông, một khi ông không còn trên cõi đời này nữa. Tuy nhiên, cũng có thể mọi việc sẽ khác nếu ông nghĩ lại. Lần đầu, khi Doll Talbot, gã thư ký của ông xuất hiện, ông đâu có ngờ được rằng sẽ có lúc ông và gã phải chơi cái trò may rủi với cuộc đời. Điều gì đã xảy ra thế này? Họ lại vẫn hẹn hò với nhau như 6 ngày trước đây, khi lần đầu tiên ông chứng kiến sự phản bội của nàng. Ông hoàn toàn có quyền ly dị với cô vợ trẻ và đuổi cổ Talbot. Khi ấy, ông sẽ sống giàu sang nhưng hoàn toàn cô độc, còn họ sẽ sống với nhau nhưng trong cảnh khốn cùng. Cả hai kiểu sống như vậy đều không làm cho Phillip Wander hài lòng. Vì vậy Talbot mới đề nghị phương án như hôm nay:
— Chúng ta sẽ gặp nhau - Gã nói - và đặt hai cốc rượu. Một trong hai chiếc cốc đó có bỏ thuốc độc. Tôi cùng với ngài, thưa ngài Wander, sẽ uống. Một trong hai ta sẽ chết. Người còn lại được Laura.
— Thế còn tài sản của ta? - Ông ngắt lời gã - Đây mới là vấn đề chính phải không? Nếu tôi dùng chứng cứ và tiến hành ly dị, thì Laura sẽ chẳng còn gì. Nhưng nếu tôi chết, cô ấy sẽ trở thành quả phụ giàu có.
— Vâng đúng như vậy - Gã thư ký hồ hởi - Cô ấy đã quen sống trong giàu sang phú quý cùng ngài, vì vậy tôi không muốn tước đi của cô ấy đặc ân đó. Nhưng chúng tôi đã yêu nhau, biết làm sao được. Mọi việc đều xảy ra thật không ngờ…

Ngước nhìn Talbot, ông chua xót nhận ra rằng gã có cái mà ông chẳng bao giờ còn có được. Ông không thể hoàn toàn đổ lỗi cho Laura, nhưng ông cũng không muốn nàng phải sống trong nghèo khổ.
Một tuần sau đó, họ bắt đầu nghĩ ra các chi tiết cụ thể cho một trận quyết tử. Talbot phải kiếm một loại độc dược mà khi cho vào rượu cognac, nó không làm rượu biến màu và thay đổi mùi vị.
Cuộc quyết đấu được ấn định vào 20 giờ ngày chủ nhật. Hai người phải viết hai chúc thư để sau đó cảnh sát không buộc tội kẻ còn sống vì tội bức tử kẻ kia.
Đã 19 giờ 30.
— Em đây mà, anh Phil - Laura lách nhẹ vào phòng và đóng chặt cửa lại - Em phát điên lên mất vì không biết tin tức gì về anh.
— Mọi việc rồi sẽ ổn cả thôi - Ông lắp bắp. Nhìn nàng, lại một lần nữa, ông cho rằng quyết định của mình là hoàn toàn chính xác. Nàng lả lướt, thanh tú, nhẹ nhàng và uyển chuyển như một con mèo con sà vào lòng ông, nhìn ông đắm đuối. Nàng hãy còn thơ ngây lắm - Ông nghĩ và nhẹ nhàng vuốt mái tóc vàng óng mượt như tơ và thơm như cánh hoa đồng nội. Lúc này, ông không còn lòng dạ nào để trách cứ nàng.
— Em sợ lắm, Phil - Laura nói - Khi anh và Doll nói chuyện với nhau, em cứ nghĩ đó chỉ là trò đùa. Nhưng đó là sự thật à?
— Thật. Anh đã viết xong thư rồi. Ở trên bàn ấy. Em có muốn đọc không? - Ông giơ tay với bức thư và đưa cho Laura. Nàng giở ra, đọc. Ông quan sát nàng mà chẳng hề tỏ ra có chút tự hào nào. Nàng gấp tờ giấy lại, thốt lên:
— Ôi, anh, em xúc động lắm. Anh tốt với em quá, ngay cả khi em đã làm những việc tồi tệ.
— Không phải thế đâu em. Đơn giản vì em gặp một người cùng lứa tuổi và đem lòng yêu anh ta mà thôi.
— Không. Em chỉ yêu anh mà thôi. Còn với Doll, đó không phải là tình yêu. Với anh ta em chỉ có một cảm giác thật thấp hèn. Em thật là mù quáng, không nhận ra lòng tốt và sự cao thượng của anh. Bây giờ, khi có thể mất anh, em mới nhận ra rằng em yêu anh biết chừng nào, em cần anh biết bao. Phil, anh không được chết.
— Nếu em nghĩ thế - Ông mỉm cười, lòng cảm thấy nhẹ nhõm - thì không ai phải chết cả. Chúng ta đề nghị với Talbot hãy để chúng ta yên và làm một bữa tiệc.
— Ôi, giá như mọi chuyện có thể đơn giản như vậy!
Nàng gục đầu vào ngực ông và thỏ thẻ:
— Anh không thể nào tưởng tượng được anh ta có ý nghĩa như thế nào đối với em đâu. Đó không phải là tình yêu. Vâng, hoàn toàn không phải là tình yêu. Nhưng em không thể nào dứt ra khỏi anh ta được. Một sự ham muốn về thể xác đến kỳ lạ. Chỉ cần anh ta đụng tới em hoặc nhìn em thôi là em đã thấy nóng bừng cả người lên rồi. Thật là kinh khủng khi phải nói ra điều này. Em căm thù mình vì đã làm cho anh đau khổ. Nhưng em muốn anh hiểu tất cả. Em có hứa với anh bao nhiêu lần chăng nữa, rồi cũng sẽ bội ước, một khi Doll còn sống anh ta sẽ lại chinh phục em.
— Còn nếu như hắn chết đi thì sao?
— Thì khi ấy chúng ta lại sống với nhau hạnh phúc như xưa. Nàng ngước đầu lên, nhìn sâu vào mắt ông: — Anh Phil, chúng ta phải làm sao để Doll phải chết.
— Nhưng anh sợ rằng số phận đã an bài.
— Chúng ta không được bỏ lỡ cơ hội này. Suốt thời gian qua, em cứ nghĩ về điều này. Nhưng anh là người được quyền nâng cốc trước phải không?
— Cả hai đã thoả thuận như vậy.
— Vấn đề là ở chỗ, anh còn nghi ngờ em chứ Doll thì tin em lắm. Anh ta sẽ không bao giờ nghĩ rằng anh và em đã dàn xếp để chống lại anh ta.
— Có nghĩa là…? - Ông chưa hiểu hết ý nàng.
— Các anh đã quyết định dùng loại ly nào chưa? — Loại cốc to có vẽ hình thượng đế và các nữ thần, chúng vẫn luôn là những vật hài hước đối với em ấy mà.
— Vậy thì vấn đề sẽ rất đơn giản. Nàng đứng lên đi lại chiếc tủ lớn, lôi ra hai cái ly to và đặt xuống bàn. — Anh có biết em sẽ làm gì không? - Khuôn mặt nàng rạng rỡ hẳn lên - Em sẽ rót cho anh vào cốc này - Nàng chỉ vào chiếc cốc có vẽ hình thần Zeus - Còn thuốc độc, em sẽ cho vào chiếc cốc kia có hình thần Apollon.
— Ừ, cũng dễ nhớ thôi.
— Anh ta sẽ không bao giờ biết được điều này - Laura thì thào - thậm chí khi uống phải thuốc độc, anh ta cũng chỉ nghĩ rằng mình không gặp may mà thôi. Và khi ấy, ôi anh thân yêu, mọi chuyện sẽ còn tốt đẹp hơn xưa. Laura bỏ ra ngoài; Wander uể oải đứng vậy, cầm hai cái ly lên và đi lại chiếc tủ để chúng vào chỗ cũ, sau đó mở cửa phòng. Ông chưa hết bàng hoàng vì không ngờ câu chuyện lại chuyển hướng nhanh như vậy. Nàng vẫn yêu ta - Ông nghĩ.

… Nhưng rồi vừa mở cửa phòng cho tình địch thì hình ảnh thần Zeus và Apollon lại hiện lên trong ông và ông lại nghi ngờ.
— Tôi nghĩ rằng chúng ta không nên để phí thời gian - Rõ ràng là Talbot không giữ được bình tĩnh nữa. Y rút từ túi áo khoác một gói nhỏ thuốc độc, đi tới cái tủ và đặt gói thuốc đó xuống bên cạnh mấy chiếc ly. Sau đó, y rút găng tay cho vào túi áo khoác và treo ở góc nhà.
— Cậu đã viết xong chúc thư chưa? - Wander hỏi.
— Đây thưa ngài - Talbot đưa cho Wander phong thư — Còn của tôi trên bàn ấy - Wander nói và đọc dòng chữ trên phong bì “gửi những người liên quan đến vụ việc này”. Ông rút ra một tờ giấy gấp tư và đọc: “Người đàn bà mà tôi yêu đã không hề yêu tôi, còn tôi lại không thể nào sống thiếu cô ta được, vì vậy tôi quyết định uống thuốc độc để tự tử. Vĩnh biệt! Doll Talbot”.
Văn phong thì chưa hay lắm, nhưng cái cần nói thì đã nói được. Dù sao, Talbot cũng không nổi tiếng đến mức khiến giới báo chí bới lông tìm vết.
— Tất cả đều rõ ràng - Talbot khẳng định sau khi đã đọc xong chúc thư của Wander - và nếu ngài không có ý kiến gì về bức thư của tôi thì coi như mọi việc đã được giải quyết. Laura, em vào đi, chúng tôi đã sẵn sàng. Nàng lặng lẽ bước vào, cúi gằm mặt, không hề ngước mắt nhìn người tình. Nàng sợ ta phát hiện ra sự phản bội trong ánh mắt của nàng - Wander nghĩ - hay ngược lại, nàng sợ rằng ánh mắt của nàng sẽ làm lộ kế hoạch của ta? — Tôi cũng sẽ đặt chúc thư của tôi lên bàn? - Talbot cầm lá thư từ tay Wander, cho vào phong bì - Ngài chứng nhận cho tôi là tôi đã đưa ngài xem trước khi uống thuốc độc. Và tất nhiên, khi… khi mọi việc kết thúc, kẻ nào sống sót cần phải đốt chúc thư của mình.
— Anh, anh đã đưa… đến chưa? - Laura run rẩy hỏi và vẫn không hề ngước nhìn Talbot.
— Rồi! Cái gói anh để trên mặt tủ. Em hãy cho vào một cái ly, rót rượu bằng nhau. Còn bây giờ, bọn anh sẽ quay lưng lại phía em.
— Khi nào làm xong - Wander nói thêm - Em hãy đặt vào chiếc khay và đặt lên bàn anh, rồi bọn anh sẽ lựa chọn.

Cả hai nhìn theo Laura đi lại cái tủ và cùng quay đầu lại phía cửa. — Thuốc độc sẽ có tác dụng rất nhanh - Talbot thì thầm -… và tôi hy vọng rằng sẽ không kịp đau đớn. Wander không nói nổi một lời nào. Đầu óc ông quay cuồng. Nàng có lừa dối không? Ta có thể tin được nàng không? Tiếng chân nàng rõ dần. Khi nàng vừa tới bàn, cả hai cùng quay phắt lại. Đôi tay người đàn bà run lên bần bật khi nàng đặt khay xuống bàn, rượu trong hai cái ly đều tràn cả ra ngoài.
— Hãy rót một ly nữa cho em đi! Theo anh thì em cũng phải uống. Nghĩa là phải rót ba ly - Nàng ngoan ngoãn quay lại chiếc tủ để rót cốc rươu thứ ba. Wander dán chặt mắt vào hai cái ly để ở trong khay bạc. Cả hai ly đều bằng nhau, màu sắc như nhau. Chúng chỉ khác nhau ở hai hình vẽ bên ngoài: một - thần Zeus; chiếc kia - thần Apollon. Zeus hay Apollon? Apollon hay Zeus? Theo lời Laura thì thuốc độc được bỏ vào cái ly có vẽ hình thần Apollon. Như vậy thì chiếc ly có hình thần Zeus là vô hại. Nhưng nếu như Laura lừa dối ông thì sao? Ông liếc nhìn Doll Talbot, còn y lại chăm chú theo dõi Laura rót ly rượu thứ ba. Đã 6 tháng qua, nàng là tình nhân của y. So với y, ông già hơn nhiều và không có khả năng đem tới cho nàng bất kể điều gì ngoài tiền bạc. Nếu nàng bỏ thuốc độc vào chiếc ly vẽ hình thần Zeus thì nàng sẽ được cả tiền bạc lẫn tình nhân trẻ. Thôi được rồi, ta sẽ nâng ly rượu Apollon, phá tan âm mưu của chúng, vạch mặt Talbot và ta lại sống với nàng. Nhưng nếu nàng nói thật thì sao? Nàng đã từng thật âu yếm với ta đó sao? Ta tin nàng nói thật. Hơn 3 năm qua, nàng thật trung thuỷ với ta. Còn sự dan díu với Talbot chẳng qua chỉ là sự ham muốn nhất thời. Nàng đã chẳng nói với ta rằng nàng hiểu điểm yếu của mình và khẳng định rằng chỉ có cái chết của kẻ kia mới có thể giải thoát nàng khỏi thứ tình cảm nô lệ ấy. Tin được nàng chăng?
Laura đi lại gần ông với chiếc ly trong tay. Nàng nhìn chồng đắm đuối đến mức làm tin ông đập rộn hẳn lên.
— Ngài chuẩn bị xong chưa? - Talbot phá tan bầu không khí im lặng - Xin ngài chọn đi!
— Được rồi. Ông đi lại gần chiếc khay, giơ tay ra và ông rụt tay lại, dao động: Zeus hay Apollon? Apollon hay Zeus? Ông có cảm giác rằng hai vị thần linh này đang nín thở chờ ông lựa chọn. Và… cuối cùng ông quyết định: thà vì lòng tin mà chết còn tốt hơn là sống mà biết nàng phản bội. Điều tồi tệ nhất trên đời này là chết vì thiếu lòng tin.
Ông chọn chiếc ly vẽ hình Zeus. Theo thói quen, ông giữ chặt chiếc ly trong lòng bàn tay để rượu ấm lên và đưa lên mũi. Một mùi cay nồng dễ chịu. Phải chăng đây là mùi thuốc độc? Ông hít mạnh một lần nữa. Lại chỉ vẫn là mùi rượu Cognac quen thuộc. Talbot vội vàng nâng chiếc ly còn lại, đưa lên miệng và liếc nhìn Wander.
— Vì người đàn bà mà cả hai chúng ta cùng yêu quý.
— Vì Laura - Wander lắp bắp.

Cả hai người đàn ông cùng một lúc đưa ly lên miệng và nốc một hơi rồi lặng lẽ đứng im chờ đợi. Bỗng nhiên, Wander cảm thấy lạnh toát cả người, hai chân gần như khuỵu hẳn xuống. Một câu hỏi kinh hoàng xuất hiện trong ông: ta trúng độc chăng? Triệu chứng gì thế này? Bao lâu thì thuốc độc có hiệu nghiệm?
Ông rất muốn ngước nhìn Laura để có câu trả lời trên khuôn mặt nàng, nhưng không tài nào quay đầu lại nổi. Đúng lúc ấy Talbot thét lên: — Trời ơi cổ họng tôi cháy mất rồi! Chiếc ly rời khỏi tay y rơi xuống sàn nhà. Một tay y cấu chặt lấy yết hầu, tay kia bịt miệng, quỵ xuống đất, toàn thân oặt xuống.
— Trời ơi, cứu tôi với… Talbot quằn quại trên nền nhà, chân tay giật liên hồi, co quắp, trào bọt mép… và… tắt thở…
— Thế là xong, Laura nói.
— Đúng - Wander đặt ly xuống khay, liếm đôi môi khô cứng. Ông cố tránh không nhìn cái thi thể đang nằm bất động trên tấm thảm, lùi lại vài bước và thả mình xuống chiếc ghế bọc da bên bàn làm việc. Toàn thân ông ướt đẫm mồ hôi.
— Bình tĩnh lại, anh - Laura đi lại bên ông - Chúng ta phải dọn dẹp hiện trường trước khi cảnh sát đến. Ông ngước mắt nhìn nàng và cảm phục sự bình tĩnh của nàng. Nàng đã tiễn đưa nhân tình của mình về thế giới bên kia mới nhẹ nhàng và bình thản làm sao! Nhưng quả là nàng có lý: cần phải thu dọn mọi thứ trước khi nhà đương cục tới.
— Anh, anh đã chuẩn bị rồi đây - Cố gắng lắm ông mới giữ để cho hai hàm răng khỏi va vào nhau.
— Xin chúc mừng anh - Nàng đưa cho ông ly rượu của nàng - Anh cần phải thật bình tĩnh.
Ông đón ly rượu từ tay nàng, uống liền một hơi và cố nở nụ cười để nàng vui. Nhưng ngay lúc đó trong mắt nàng xuất hiện một tia chớp làm ông lạnh toát người.
— Xong rồi, Doll - Nàng nói một cách thản nhiên - Đứng dậy đi, ông ta đã uống.
Wander vô cùng kinh ngạc, cái xác chết bỗng ngóc đầu và từ từ đứng dậy. Mắt Wander bỗng tối sầm lại, cả căn phòng chao đảo, dạ dày bỗng đau nhói lên. Họ đã thắng cuộc rồi - ông nghĩ - Mình chọn ly nào cũng chẳng có ý nghĩa gì, Laura đã bỏ thuốc độc vào cốc rượu thứ ba, cốc rượu của nàng.

Ông gục xuống ghế, úp mặt vào chiếc cốc vẫn còn giữ nguyên trên đầu gối. Hình ảnh cuối cùng mà ông nhìn thấy là hình vẽ trên chiếc ly: Diana bán khoả thân với bộ cung tên - Nữ thần săn bắn.
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeFri Aug 02, 2019 10:32 pm

.
Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Z

Chuyện tình nữ tiếp viên hàng không
- Truyện Ngắn Pierre Bellemare


Trên chuyến bay Tokyo – Osaka, mải mê chăm chú đọc tờ Yomiuri Shimbun, chuyên mục Tài chính – Chứng khoán, Yukato Shimuza không chú ý đến nữ tiếp viên hàng không đến kế bên. Thậm chí khi cô ta hỏi anh ta dùng chi thì Yukato vẫn không nghe. Đôi môi nở nụ cười tươi, nữ tiếp viên lặp lại câu hỏi: “Ông dùng thức uống nào ạ?”

Ngước nhìn nữ tiếp viên, chàng trai ngẩn ngơ trước vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn của nàng. Trong trang phục tiếp viên hàng không, trông nàng đẹp rực rỡ, duyên dáng như một tiên nữ tốt bụng mà mẹ chàng thường kể thuở bé.
– Em cho tôi biết quí danh có được không?
Câu hỏi bất ngờ được thốt lên từ miệng của chàng trai một cách thiếu tự chủ. Có vẻ như chàng “bị choáng” trước sắc đẹp của nữ tiếp viên… Nàng đáp nhẹ nhàng:
– Fumiko! Xin lỗi ông, em phải đi phục vụ khách tiếp…
Phi cơ đáp xuống phi trường Osaka. Trước lúc rời phi cơ, Yukato ân cần hỏi thăm Fumiko như chính nàng là phi công lái chiếc Boeing. Tiếng khúc khích cười chòng ghẹo của các nữ tiếp viên đồng nghiệp làm cho Fumiko ửng hồng đôi má vì e thẹn.

Sự việc diễn ra suông sẻ. Yukato, chàng trai vốn dĩ rụt rè và chăm chỉ, dường như vừa được chắp thêm đôi cánh. Về phần mình, Fumiko không giấu giếm cảm giác lâng lâng vui mừng được quen biết Yukato. Phải chăng đây là tiếng sét ái tình?
– Đây là danh thiếp của anh. Hy vọng sẽ được gặp lại em ở Osaka hoặc Tokyo!
– Tại Osaka, em và một nữ đồng nghiệp cùng thuê chung căn hộ. Em thường xuyên phục vụ đường bay Tokyo – Osaka. Em cũng sẽ rất vui nếu được gặp lại anh.
– Nếu em cho phép, anh sẽ điện thoại mời em dùng cơm tối vào dịp thuận tiện.
Yukato và Fumiko thuộc thế hệ trẻ trưởng thành sau chiến tranh. Cuộc sống, suy nghĩ của họ khá tự do, thông thoáng.

Vài tháng sau cuộc hội ngộ, họ nhiều lần cùng nhau dùng cơm tối, xem phim, tham quan viện bảo tàng… Một hôm, Yukato đề cập dến vấn đề mà Fumiko hằng mong đợi:
– Fumiko, em có chấp nhận lời cầu hôn của anh không?
– Đó là niềm vinh hạnh đối với em. Nhưng liệu bố anh, ông Shimuza, có chấp nhận cuộc hôn nhân của chúng mình không? Em chỉ là một cô gái bình thường, còn anh, ở cương vị của anh hiện tại, có lẽ bố anh sẽ chọn một gia đình môn đăng hộ đối để kết thông gia.
Yukato trầm ngâm suy nghĩ: “Gần một năm nay mình vô cùng hạnh phúc bên cạnh người yêu mà quên mất rằng bố mình vẫn chưa hay biết gì về người bạn gái”.
– Ngay tối nay, anh sẽ thưa chuyện của chúng mình với bố. Bây giờ thì anh đưa em đến viếng mộ, cầu nguyện tổ tiên ban cho anh niềm tin, sức mạnh để vượt qua mọi trở ngại.

Tối hôm đó, Yukato về nhà bố. Anh kiên nhẫn chờ đợi bố anh, ông Tadao Shimuza, chủ nhân tập đoàn Shimuza danh tiếng, đi làm về. Mãi tận khuya, chiếc limousine mới đưa ông Tadao về đến nhà. Bà Tadao và con trai Yukato cúi rạp người chào ông chủ gia đình. Hai mẹ con sẽ tường trình với ông Tadao diễn biến trong ngày và các vấn đề cần trao đổi…
– Yukato, con có việc gì thưa với bố chăng?
Mẹ của Yukato mỉm cười im lặng.
– Thưa bố, con có một việc hệ trọng muốn trình với bố.
Ông Tadao ngồi lắng nghe nhưng tuyệt nhiên không biểu lộ môt cảm xúc nào.
– Con quen biết một người bạn gái. Chúng con yêu nhau và xin bố cho phép con được cưới nàng.
Có lẽ không có cách trình bày nào giản đơn và ngắn gọn hơn thế.
Vẫn với thái độ nghiêm nghị, ông Tadao hỏi:
– Cô ta có thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt không?
– Bố của nàng đã hy sinh vì Nhật Hoàng.
– Chỉ vậy thôi sao? Gia đình cô ta có ngang tầm với gia đình mình không? Hẳn con biết rằng bố sẽ không đồng ý cho con cưới một cô gái tầm thường!

Hơn hai mươi năm qua, ông Tadao luôn quan tâm đến việc giáo dục con trai sao cho xứng đáng với phẩm cách người thừa kế tài sản hàng triệu Yen của tập đoàn Shimuza lừng danh trong ngành đánh bắt và kinh doanh cá voi.
– Con có thể cưới về làm vợ một cô gái thuộc gia đình giàu có nhất nhì Tokyo. Nếu bạn gái của con thuộc giai cấp bần cùng thì chỉ là ảo vọng mà thôi cho dù cô ta có sắc đẹp khuynh thành…
Cuộc trò chuyện kết thúc.
Yukato thuật lại cho người yêu thái độ dứt khoát của bố về chuyện hôn nhân của họ. Đôi mắt buồn ngấn lệ, Fumiko kết luận:
– Vậy thì chúng ta sẽ chẳng bào giờ nên duyên vợ chồng vì em chẳng có tài sản gì đáng giá. Đồng lương tiếp viên hàng không ít ỏi của em cũng chỉ đủ nuôi nấng mẹ già!

Vài hôm sau, bố con nhà Shimuza có dịp bàn lại vấn đề hôn nhân, nhưng lần này trong bầu không khí cởi mở hơn. Bố Shimuza:
– Con trai yêu dấu. Tốt nhất là con nên từ bỏ ý định cưới cô gái nghèo ấy. Cô ta có thể là người tình hờ của con. Ngay cả khi con cưới người con gái khác làm vợ, đâu có ai ngăn trở con quan hệ với người tình cũ. Nếu cô ta thật sự yêu con, ba nghĩ đó là giải pháp tốt nhất. Mà tên của cô ta là gì nhỉ?
– Fumiko Shigefusa.
– Shigefusa? Có phải đó là nhà điêu khắc lừng danh một thời?
– Đúng thế.
– Đúng là một gia tộc danh tiếng. Nhưng tiếc thay giờ thì họ đã phá sản! Với giải pháp bố đề ra, người tình của con sẽ không được sinh con và nhờ thế mà sắc đẹp của cô ta sẽ bền vững hơn.

Câu chuyện giữa hai bố con kéo dài khoảng một giờ. Nhưng Yukato vẫn chưa “tâm phục khẩu phục” với đề xuất mà bố đưa ra. Yukato thuộc thế hệ trẻ, đọc nhiều tiểu thuyết phương Tây. Yukato tin tưởng rằng tình yêu mà anh dành cho Fumiko là thứ tình yêu đích thực và chàng chỉ muốn cưới một mình nàng. Chỉ có một Fumiko mà thôi dù nàng giàu hay nghèo! Tư tưởng dứt khoát, Yukato đáp lời bố:
– Con sẽ chẳng bao giờ cưới người con gái “vàng” do bố chọn. Con sẽ không cưới bất kỳ ai ngoài Fumiko, ngay cả khi con phải từ bỏ tất cả…
– Con nói phải từ bỏ gì…?
Gương mặt ông bố Shimuza bỗng thay đổi từ trạng thái vô cảm sang tức giận. Dường như những tia lửa tóe ra từ đôi mắt ông bố. Thế nhưng Yukato không quan tâm. Lòng anh đã quyết… Câu chuyện giữa hai bố con kết thúc trong đổ vỡ.
– Fumiko yêu dấu. Anh rất thất vọng… vì bố anh một mực từ chối cuộc hôn nhân của đôi ta. Bố anh thậm chí từ chối gặp mặt em!

Có lẽ đoán trước được kết quả, Fumiko chỉ thoáng buồn khi nghe người yêu thuật lại sự việc. Nhưng ngay sau đó, Fumiko vui vẻ báo tin:
– Công ty vừa cho biết từ nay trở đi, em sẽ bay tuyến Tokyo – San Francisco!
– Thế chuyện của chúng mình em tính sao đây?
– Anh chưa nghĩ ra sao? Thế này nhé. Bố anh dứt khoát phản đối chúng mình cưới nhau. Anh giả vờ vâng lời bố và để cho bố vững tin, anh xin bố đi nước ngoài, cụ thể là đi San Francisco để mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu sang Hoa Kỳ…

Hai ngày sau, Yukato lại đưa ra yêu cầu xin bố cho cưới Fumiko. Tất nhiên là bố Shimuza run lên vì giận:
– Bố cấm con gặp lại cô gái đó…
– Bằng cách nào…?
– Đơn giản thôi. Từ ngày mai, bố đưa con đi nước ngoài!
– Con không đi!
– Tháng sau, con đi Hàn Quốc…
– Rồi con sẽ sớm quay về thôi.
– Không! Không đi Hàn Quốc mà đi San Francisco xa xôi, con sẽ khó về lại Nhật hơn.

Thế là đầu năm sau, Yukato và Fumiko nắm tay nhau tung tăng dạo phố ở tận San Francisco mỗi khi nàng kết thúc chuyến bay Tokyo – San Francisco! Fumiko thỏ thẻ vào tai người yêu:
– Mọi chuyện rồi sẽ nguôi dịu đi thôi.
– Bố anh mới có hơn bốn mươi tuổi. Bố sẽ sống đến chín mươi tuổi hoặc hơn nữa. Em nghĩ chúng mình sẽ cưới nhau năm bảy mươi tuổi sao? Anh muốn em sinh con cho anh càng sớm càng tốt.
– Em có thể làm chuyện đó mà không cần đợi đến đám cưới!
– Không bao giờ anh chấp nhận điều đó vì nó sẽ hạ thấp danh dự của em! Anh muốn em sẽ đường hoàng là phu nhân của Yukato Shimuza công khai trước mặt mọi người!

Nhưng than ôi, cuộc tình vụng trộm của đôi nam nữ không thể qua mặt được ông bố dạn dày kinh nghiệm. Bố Tadao Shimuza đặt nghi vấn với mẹ của Yukato:
– Lạ thật, từ khi đi San Francisco đến nay, Yukato hầu như quên hẳn Fumiko. Ngay cả trong lúc nói chuyện qua điện thoại nó cũng chẳng màng đề cập đến chuyện cưới hỏi Fumiko. Hẳn là có chuyện mờ ám gì đây.
Thế là bố Tadao tiến hành cuộc điều tra… Chỉ cần vài hôm sau, Tadao nổi giận khi biết “Nữ tiếp viên hàng không Fumiko Shigefusa đã chuyển sang bay tuyến Tokyo – San Francisco”.
Ngay tuần lễ sau đó, bố Tadao “điều động khẩn” Yukato về lại Tokyo.
Buồn vô hạn vì bị cách ly với người yêu, Yukato quyết tâm thuyết phục bố Tadao… nhưng chỉ vô ích. Với anh, thế là hết. Hạnh phúc vĩnh viễn đã vuột khỏi tầm tay.

Một buổi sáng, Yukato rời ngôi biệt thự của bố mẹ. Vài giờ sau, nông dân đang làm đồng nhìn thấy một chàng trai trẻ đi lên dốc núi lửa Mihara.
Miệng núi lửa đang hoạt động này đã “đón chào” không biết bao kẻ tuyệt vọng vì tình. Núi lửa phun dung nham theo chu kỳ ba giờ một lần. Với tâm trạng bình thản, Yukato tiến đến miệng núi lửa, nơi thần âm phủ Shoko-O-Kamakura, chực sẵn để đón nhận linh hồn anh.
Sau khi hô to “Fumiko, Fumiko… Anh yêu em, Vĩnh biệt em yêu dấu!”, Yukato nhảy vào miệng núi lửa đang tạm ngưng phun nham thạch theo chu kỳ!
Nhìn thấy Yukato tự tử, một người vội la to:
– Takashi, Soichiro! Nhìn kìa, một kẻ thất tình vừa nhảy vào miệng núi lửa.
Mọi người hiểu rõ rằng lý do khiến kẻ tuyệt vọng nhảy vào núi lủa chỉ có thể là vì tình duyên trắc trở.
– Nhanh lên, mặc bộ đồ chống cháy đi cứu anh ta làm phúc! Nếu chậm trễ, anh ta sẽ chết mất.

Người vừa hô to chính là Kamazaki, giáo sư trường đại học Tokyo. Quả là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Giáo sư Kamazaki đang ở dốc núi lửa gần đó. Yukato chỉ nghĩ đến cái chết nên không nhìn thấy Kamakazi hiện diện gần bên.
Nhóm người của giáo sư Kamakazi đang thí nghiệm chất liệu phòng bắt lửa mới dùng chế tạo đồ chống cháy cho ngành phòng cháy chữa cháy. Kamakazi cùng một đồng nghiệp mặc vội bộ đồ chống cháy, đội nón, mang mặt nạ vào. Họ đến bên miệng núi lửa và nhìn thấy Yukato nằm bất động trên gờ đất bốc khói bên dưới, cách miệng núi lửa độ ba mét.
Một cái móc được thả xuống. Sau nhiều lần trật vuột, cái móc ghim chặt vào y phục và cơ thể bất động của Yukato. Cái móc được từ từ kéo lên… Vài tiếng gầm gừ phát ra báo hiệu đợt phun trào nham thạch mới sắp diễn ra. Nhưng rất may, Yukato được mang ra khỏi miệng núi lửa kịp lúc.
Nhóm “cứu hộ” của giáo sư Kamakazi tức tốc lái xe Jeep đưa Yukato thẳng đến bệnh viện gần nhất. Tuy bị bỏng và vấy máu vì thương tích, Yukato vẫn còn thở…

Ông bà Tadao Shimuza, bố mẹ Yukato, gặp mặt Fumiko lần đầu tiên tại bệnh viện. Fumiko đáp chuyến bay sớm nhất từ San Francisco về Tokyo săn sóc người yêu vừa may mắn thoát khỏi lưỡi hái tử thần. Nét mặt thoáng buồn càng làm tăng vẻ đẹp và duyên dáng của Fukimo.
Yukato trìu mến nhìn người yêu…
Tấm chân tình của đôi trai tài gái sắc khiến bố Tadao mềm lòng và thuận tình cho họ kết duyên.

- Đào Duy Hòa phỏng dịch
Phỏng dịch từ nguyên tác “Une histoire d’amour”
.

Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeMon Aug 12, 2019 8:15 am

.
Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) 2Q==

Ai Mà Chịu Nổi
- Pierre Bellemare

   
     Vợ chồng Vacherot đang ăn tối ở phòng ăn trong căn nhà của họ trên phố Vaugirard tại Paris. Ở tuổi 28, Gaston Vacherot là một người đàn ông điển trai: mái tóc và chòm râu màu nâu, cái nhìn nồng cháy, bộ ria thanh mảnh, người cao lớn và tư thế lịch sự. Anh ăn mặc cũng sang trọng. Gaston mau chóng quen với những bộ quần áo thượng hạng từ khi kết hôn với Augustine. Anh đã sống rất thoải mái cả một thời trẻ trung nhờ có tài sản của vợ. Nhưng lúc này, vẻ mặt không vui, anh lấy chiếc đồng hồ bỏ túi ra xem giờ.
    - Em yêu, anh buộc phải tạm xa em trong nửa tiếng đồng hồ. Anh cần ra ga Orsay đón một khách hàng ở tỉnh lẻ lên.
    Augustine Vacherot ngạc nhiên:
    - Một khách hàng! Thế là thế nào? Ông Constat không tự đi đón được sao?
    Gaston mỉm cười:
    - Đây là một chứng cớ của lòng tin cậy, em ạ. Anh là thư ký thứ nhất. Anh phải đi thay ông ấy chứ.
    Augustine thở dài:
    - Em biết thế, Gaston. Nhưng dù sao… chúng mình bị mất một buổi tối cùng nhau…

    Sau khi chồng đi, Augustine ngồi thêu cho quên tâm trạng nóng ruột. Thời gian cứ trôi… cô cảm thấy trống trải khi Gaston vắng nhà. Đã 11 giờ! Tiếng chuông cửa xiết bao chờ đợi không thấy reo lên. Cô ra cửa sổ để rình đón xem có chiếc xe nào đang chạy tới không. Nhưng đường phố vắng tanh. Năm phút rồi mười phút, một tiếng đồng hồ rồi hai tiếng nối tiếp nhau trôi qua. Augustine khốn khổ mỗi lúc thêm sợ hãi, thoạt tiên, tự nhủ chắc chồng mình chỉ về trễ thôi. Đến sáng, cô chạy lên đồn cảnh sát…
    Thanh tra Cournet chăm chú nghe cô kể. Rồi ông nói:
    - Nếu chồng bà gặp tai nạn, chúng tôi sẽ được thông báo rất nhanh…
    Và Augustine ngồi đối diện, ông nói tiếp:
    - Nhưng theo tôi, nhiều khả năng đây là một vụ bỏ nhà ra đi.
    Một tiếng kêu phẫn nộ đáp lại lời ông:
    - Gaston của tôi không bao giờ làm một điều như thế! Anh ấy là một người chồng mẫu mực.
    Thanh tra Cournet tiễn khách ra cửa:
    - Vai trò của tôi là xem xét tất cả các giả thiết, thưa bà. Tạm thời, tôi muốn nghĩ tới giả thiết nào ít bi thảm nhất. Bà cứ về nhà đi, nếu có tin gì mới, tôi sẽ đến gặp bà…

    Sự việc mới xảy ra vào buổi chiều. Một người đem tới nộp cảnh sát một chiếc ví anh ta nhặt được trên quãng bờ sông ở gần cầu cạn Auteuil. Trong ví có các giấy tờ của Gaston. Trên đường tới phố Taugirard, thanh tra Cournet cảm thấy bối rối! Ông ít khi đoán nhầm. Ông đã nghĩ ngay Augustine thuộc kiểu người vợ thường bị bỏ rơi. Nhưng bây giờ, ông phải thừa nhận vụ này đã chuyển sang hướng khác. Augustine suy sụp hẳn khi thấy ông thanh tra đem chiếc ví của chồng tới. Sau giây phút tuyệt vọng, cô cố trả lời các câu hỏi của ông.
    - Thưa bà, hai ông bà có chuyện bất hoà gì không?
    - Hoàn toàn không. Gaston rất hiền lành và tốt nết.
    - Bà có nhận thấy ở chồng bà một sự thay đổi tâm trạng gì không, một chút sầu muộn chẳng hạn?
    Augustine sửng sốt trước câu hỏi ấy. Gaston không thể tự tử. Hôm qua, anh ấy vẫn như mọi khi: vui vẻ, vô tư. Thanh tra Cournet ghi câu trả lời vào sổ, vẻ thản nhiên. Ông cũng không tin là có chuyện tự tử. Khi nhảy xuống nước, ít ai lại bỏ ví ra. Quá lắm, người ta cũng chỉ cởi quần áo. Thêm nữa, còn một điều khác…
    - Bà nói ông ấy ra ga Orsay đón một khách hàng của bà Constat?
    - Vâng, thưa ông thanh tra.
    - Tôi rất lấy làm tiếc, thưa bà, nhưng trước khi tới đây tôi đã cho điều tra và được biết tối qua bà Constat không chờ một khách hàng nào cả.

    Augustine cảm thấy hụt hơi. Trong một tình trạng giống như chóng mặt, cô lờ mờ thấy một Gaston bí mật mà chưa bao giờ cô lại nghĩ là có tồn tại, bèn kêu lên:
    - Thế thì anh ấy nói dối tôi! Nhưng tại sao mới được chứ?
    Ông thanh tra buông một tiếng thở dài:
    - Đó cũng là điều mà tôi hy vọng sẽ mau chóng biết được. Bà cho phép tôi tìm trong các giấy tờ riêng của chồng bà chứ?
    Augustine buồn bã gật đầu và dẫn viên thanh tra vào một văn phòng bày biện lộng lẫy. Sau khi nhanh nhẹn xem xét, ông thanh tra lấy ra một bó thư buộc bằng dãy lụa, rồi ông đọc lướt qua các bức thư.
    - Bà có nghe nói tới một cô Hortense Lemoine nào đó không?
    Augustine buông phịch người xuống một chiếc ghế:
    - Không, chưa bao giờ. Đó là… người tình của anh ấy?
    - Vâng, nhưng bà yên tâm. Những bức thư này được viết từ trước khi bà lấy ông Gaston. Thêm nữa, chính vì ông ấy lấy bà mà ông ấy đã cắt đứt với cô gái.
    Đôi mắt Augustine như cầu khẩn:
    - Và ông cho rằng cô gái đó có thể liên quan tới việc Gaston biến mất? Thanh tra Cournet làm một cử chỉ bất lực.
    - Tôi không biết, thưa bà. Nhưng tất cả mọi hướng đều được chúng tôi theo dõi. Tôi hy vọng chẳng bao lâu sẽ báo cho bà những tin tức tốt lành. Xin bà cho phép tôi giữ bó thư này…

    Căn cứ vào các bức thư, thì Hortense là người mẫu vẽ cho các hoạ sĩ, cô ở phố Montmartre. Ông thanh tra tới đó ngay. Ông đã không nói rõ cho bà Augustine biết nội dung chính xác các bức thư - để làm gì kia chứ? Các bức thư đầu tiên hết sức cuồng nhiệt, nếu không nói là còn hơn thế nữa. Những bức thư ở quãng giữa có giọng than vãn. Hortense phàn nàn về chuyện người yêu bỗng lạnh nhạt với cô. Những bức cuối cùng lộ rõ ý trả thù. Gaston đã báo tin sắp lấy Augustine. Hortense viết những lời giận dữ và cuối thư là câu sau đây: “Anh biết là em có thể làm bất cứ điều gì chứ!”
    Hortense ở một xưởng vẽ được bày biện rất đẹp. Nhưng cô còn đẹp hơn các thứ trang trí ở đó gấp nghìn lần. Một cô gái tóc nâu, mắt xanh biếc, không còn hợp mốt lắm. Nhưng phần còn lại của gương mặt và thân hình rất hài hoà, khiến trông cô ta ưa nhìn. Ông thanh tra đưa cô tấm ảnh Gaston. Hortense kêu lên:
    - Trời! Có chuyện gì xảy ra với anh ấy, thưa ông?
    - Ông ấy biến mất… Mới đây cô có gặp ông ấy không?
    Người đàn bà trẻ rõ ràng phải cố gắng mới lấy lại được bình tĩnh:
    - Không. Tôi không gặp từ khi anh ấy lấy vợ.
    Ông thanh tra cất tấm ảnh vào túi:
    - Cô nói dối! Cô đã nối lại quan hệ với Gaston từ hơn một năm nay. Cô đừng chối nữa: trước khi tới đây, tôi đã hỏi hàng xóm láng giềng của cô.
    Hortense có vẻ của một đứa trẻ mắc lỗi:
    - Vâng, Gaston đã quay lại với tôi. Anh ấy chán vợ quá. Từ đó, chúng tôi rất hạnh phúc, không một lần cãi nhau.
    - Tối qua cô có gặp ông ấy không?
    - Không!
    Thanh tra Cournet tiến ra cửa.
    - Cả điều đó, chúng tôi cũng sẽ xác minh…

    Hai ngày tiếp sau không đem lại điều gì mới cho thanh tra Cournet. Sông Seine không đưa một cái xác nào dạt vào bờ. Không có dấu hiệu nào chứng tỏ Gaston còn sống. Nhưng ngày 8 tháng 10, có một nhân chứng đến đồn cảnh sát, đó là một bác đánh xe ngựa.
    - Tôi trông thấy ảnh người bị mất tích trên các báo, thưa ông thanh tra. Tôi có thể nói rằng tôi đã chở một người này, cách đây chưa quá nửa tháng. Ông ta không đi một mình. Ông ta cùng đi với một phụ nữ tóc nâu, mắt xanh.
    Ông thanh tra chăm chú nghe.
    - Bác có nghe được câu chuyện giữa họ không?
    - Có chứ ạ! Ngồi trong xe, họ liên tục cãi nhau. Tôi không hiểu những điều họ nói, họ liên tục cãi nhau cả khi xuống xe. Bà ta luôn miệng nhắc đi nhắc lại: “Nếu anh bỏ em, em giết anh!”
    Thanh tra Cournet bắt đầu thấy sự việc sáng tỏ.
    - Thế người đàn ông nói sao?
    - Ông ta không nói gì. Ông ta chỉ ấp úng. Ông ta có vẻ bực bội. Ông ta cố làm người phụ nữ bình tĩnh lại
    Hortense bị bắt giữ ngay hôm ấy. Trước ông thanh tra, cô chối phăng hết. Cô còn căm phẫn vì bị nghi ngờ.
    - Đó là người đàn ông duy nhất tôi yêu trong cuộc đời! Tại sao tôi có thể giết anh ấy?
    - Vì ông ấy muốn bỏ cô.
    - Nhưng tôi đã nói với ông rằng từ khi quay lại với nhau, chúng tôi không cãi nhau nữa kia mà.
    - Thế ở trong xe, hai người không cãi nhau?
    - Đó chỉ là những từ ngữ… Chứ không hề có ý xấu gì. Vả lại, làm sao tôi có thể giết anh ấy rồi ném xuống sông Seine?
    Thanh tra Cournet phác một cử chỉ sốt ruột.
    - Cô nhờ một tên tòng phạm giết ông ấy! Một trong những tên vô lại ở Montmartre!
    - Không phải như vậy!
    Có thể không phải như vậy, nhưng mọi chuyện dừng lại ở điểm ấy khi mà ba tháng sau, Hortense ra toà với lời buộc tội là giết người. Một vụ giết người không có xác chết, vì Gaston vẫn không xuất hiện, dù là đã chết hay còn sống. Hortense tuyên bố mình vô tội. Không có một chứng cớ nào chống lại cô. Cô không có lý do gì để giết người đàn ông duy nhất cô yêu, vả lại, làm sao một phụ nữ yếu ớt như cô có thể giết chết một người đàn ông vạm vỡ rồi ném xác xuống sông Seine? Những điều ấy chắc chắn có được lưu ý tới, những việc cô nói dối hai lần trong quá trình điều tra đã đè nặng lên tinh thần các vị hội thẩm; còn về bản thân tội ác, thì rất có thể cô có một tòng phạm. Tóm lại, các vị hội thẩm tin chắc cô đã giết người yêu vì ông ta muốn bỏ cô, do đó, cô bị kết án mười năm tù. Lính gác dẫn Hortense đi trong khi cô vẫn một mực kêu oan, rồi mọi người cũng quên bẵng sự mất tích bí ẩn của Gaston…

    Sáu tháng sau, anh trực ban báo cho thanh tra Cournet rằng có một người muốn gặp ông về vụ Gaston. Ông thanh tra bảo mời người đó vào, nhưng ông vẫn không hy vọng gì lắm. Người đó bước vào với vẻ khá ngượng nghịu. Thanh tra Cournet phải bám chặt vào mép bàn để giữ bình tĩnh: đó không phải ai khác, mà đó chính là Gaston! Ông thanh tra vẫn không thốt được lời nào, cho nên Gaston lên tiếng trước.
    - Chắc hẳn tôi cần phải giải thích cho ông đôi điều?
    Thanh tra Cournet chỉ ấp úng được có mấy từ:
    - Dĩ nhiên rồi!
    Thế là Gaston, chẳng thoải mái một chút nào, bắt đầu kể câu chuyện khó tin của ông ta.
    - Thưa ông thanh tra, đây là một câu chuyện dính dáng đến phụ nữ. Nhưng không phải người vợ chính thức của tôi, mà là người phụ nữ thứ ba…
    Ông thanh tra há hốc mồm nhìn Gaston. Một một người phụ nữ thứ ba! Không quả là chưa bao giờ ông nghĩ tới giả thiết ấy. Ông để Gaston tiếp tục kể.
    - Tôi không bao giờ có điều gì chê trách Augustine, thưa ông thanh tra. Đó là một người vợ mẫu mực. Tôi chỉ tin một điều là tôi không yêu bà ấy và bà ấy yêu tôi hơi quá một chút. Rất mau chóng, tôi ngán những lời lẽ và ánh mắt si tình của bà ấy. Tôi quay lại với Hortense… Thật sai lầm! Chẳng bao lâu, cô ấy đối với tôi cũng y hệt vợ tôi. Cô ấy muốn tôi thuộc về cô ấy tất cả. Và khi tôi nói đến chuyện chia tay, cô ấy đã làm ầm lên…
    Gaston đưa khăn thấm mồ hôi trên trán:
    - Tôi lâm vào một tình huống không chịu nổi, thưa ông thanh tra: lẽ ra chỉ có một người đàn bà bám lấy, tôi lại có những hai. Đúng lúc ấy tôi gặp Sylvia Mercier. Sylvia là nhà báo, là một tính cách độc lập, hoàn toàn không thuộc số những người đàn bà bám chặt lấy đàn ông. Lập tức chúng tôi thích nhau. Và rồi tôi có một ý nghĩ điên rồ: bỏ cả hai người kia để đi với nàng. Sylvia đồng ý ngay. Chúng tôi quyết định sang sống ở nước Anh. Hôm mồng 5 tháng 10, tôi bỏ nhà ra đi và để lại chiếc ví trên bờ sông Seine.
    Mặt Gaston buồn hẳn đi.
    - Tôi muốn mọi người tin là tôi tự tử. Nhưng hôm qua, tình cờ tôi đọc một tờ báo Pháp. Tôi thấy mọi chuyện không diễn ra như tôi dự kiến, Hortense bị buộc tội và bị kết án. Tôi liền đáp tàu ngay về đây…

    Hortense được tha ngay hôm ấy. Tiếp đó, cô đệ đơn kiện Gaston, đòi ông ta bồi thường 10 nghìn francs. Nhưng đơn của cô bị bác. Để chiếc ví ở bờ sông không phải là một tội và người tình cũ của cô có thể chứng minh rằng ông ta không hề có ý định hại cô. Tuy vậy, cô cũng được đền bù khá hậu hĩnh: cô đột nhiên trở nên nổi tiếng một thời. Còn Augustine khốn khổ thì vì không muốn ly dị nên đành bằng lòng một cuộc hôn phân chia tài sản và sống ly thân mỗi người một nơi. Về phần Gaston, vì hai người đàn bà xưa kia quá yêu ông ta từ nay để cho ông ta được yên, nên ông ta yên bình ở Paris với Sylvia. Ông luật sư Constat, một người có tư tưởng rộng rãi, lại nhận lại Gaston vào làm ở văn phòng của ông ta và Gaston vẫn được thay ông như đã định trước…
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeThu Nov 28, 2019 10:06 pm

.

Vai kịch thành công 
- Alexander Vampilov (Nga)


Lần này, tôi phải đóng vai tên vô lại. Theo kịch bản, tôi phải từ mẹ, mua sắm quần áo đắt tiền, vu khống, sống hai mặt, cậy 2 chiếc két sắt và lừa phỉnh mấy cô gái. Ở cuối vở kịch, cùng một lúc, có tới ba anh công an ập tới tìm tôi. Trước đây, chỉ được phân cho đóng những vai xoàng xĩnh nên lần này, tôi đã sốt sắng nhận vai ngay.
Là nghệ sĩ kịch, ai mà chẳng muốn được nổi tiếng? Vì nếu không thì anh ta sẽ còi cọc, sẽ trở thành kẻ ganh ghét, thủ đoạn. Tóm lại là, sự thành công cần cho người nghệ sĩ như không khí vậy.

Hai ngày trước buổi diễn đầu tiên, tôi cứ đi đi lại lại trong phòng để nhẩm vai kịch. Vào lúc 12 giờ trưa, Masa - cô gái làm nghề trang trí - tới. Cô đứng ở ngoài cửa nghe trộm rồi vừa vỗ tay vừa chạy vào phòng, bảo:
- Tuyệt! Anh giỏi lắm! Nhưng có điều hơi quá. Trong đời sống, làm gì có ai như vậy? Anh thì chỉ toàn nhận những vai vớ vẩn.
Cứ nhìn Masa, nhìn cặp mắt sáng, mái tóc sáng, nghe giọng nói líu lo của nàng, là tôi quên hết mọi sự lo lắng và chỉ nghĩ tới hạnh phúc. Chả là, nàng là vợ chưa cưới của tôi mà!
- Này anh ơi! Mẹ em đến đấy. Anh nên gặp mẹ. Mẹ cũng muốn làm quen với anh. Thế, có tuyệt không? - Nàng phấn khởi, nói
Tôi không phản đối điều đó. Hôm nay, trời đẹp nên tôi cũng muốn đi dạo phố. Tôi thắt càvạt, mang theo mũ, áo khoác rồi hai chúng tôi chạy ra phố: Đêm qua, tuyết rơi, nhưng đến trưa nay, tuyết đã sẫm lại rồi tan đi. Trời ấm, dù đang là tháng mười một. Tôi nhẹ nhàng nắm khuỷa tay Masa, lòng tràn đầy hạnh phúc. Tôi muốn làm trò gì đấy có tính chất vui nhộn và nông nổi.
- Anh phải lịch sự, lễ phép! - Nàng bảo tôi - Phải cố làm ra vẻ đứng đắn. Việc đó dễ thôi, vì anh là nghệ sĩ. Anh có thể bốc một tý cũng được.
- Sao, lại phải sắm vai mới à! Masa, em hãy thương lấy anh! Anh không hợp với vai kịch của em đâu.

Tôi hình dung rất rõ mọi việc sẽ diễn ra và trong đầu tôi đã nảy ra một sáng kiến: "Mình sẽ đóng vai tên vô lại trước mặt mẹ của Masa. Rồi sau đó, mình sẽ giải thích. Sẽ rất vui và nhân thể, diễn tập luôn. Để xem sự thể sẽ ra sao trước mặt một người mới".
Nghĩ vậy, tôi cảm thấy trước là sẽ rất ngộ. Với tâm trạng đó, tôi trình diện với mẹ của Masa.
Và thế là, bà Varvara - mẹ nàng - và tôi đã ngồi đối diện với nhau trong căn phòng nhỏ, sáng sủa, tường treo đầy những bức phác hoạ.
- Anh cẩn thận đấy - Masa nói thầm với tôi. - Em muốn mẹ thích anh. Nói xong, nàng chạy ù luôn xuống bếp.
Mẹ của Masa là một phụ nữ còn trẻ, đẹp, trông giống như con ngỗng cái: cổ dài, vai hẹp, áo cánh trắng, nét mặt hơi kiêu kỳ. Hai chúng tôi im lặng mấy phút. Tôi cảm thấy ngượng, nhưng đó không phải là vai kịch của tôi.
- Tôi rất vui vì cuối cùng, chúng ta đã quen nhau - Mẹ của Masa lên tiếng.
- Đúng! - Tôi đáp. - Việc đó cũng không thừa.
Lại yên lặng. Chỉ nghe rõ tiếng va chạm xoong nồi của Masa ở dưới bếp.
Tôi nghĩ bụng: "Bắt đầu thôi! Mình phải tấn công trước".
Tôi ngả lưng lên vai ghế, vắt chéo chân, bảo:
- Bác Varvara ạ! Là những người thông minh, chúng ta nên nói thẳng. Cháu sẽ lấy con gái bác. Bác đừng sợ, đừng khóc, nhưng cũng đừng quá vui. Bác cũng không cần phải tra hỏi. Cháu sẽ tự nói rõ tất cả. Chắc, bác muốn biết cháu là ai, và tất nhiên, bác đã nghe nói mọi người đã coi cháu là người thế nào. Họ bảo cháu là kẻ không đứng đắn. Đó là điều vớ vẩn. Họ ghen với cháu đấy mà!
- Nghệ sĩ thường bị ghen ghét! - Đột nhiên, mẹ của Masa nói.
Tôi thấy lạ vì bà đã không hề tỏ ra bối rối. Trên nét mặt bà, chỉ thoáng có vẻ tò mò.
- Đúng! Cháu là nghệ sĩ! - Tôi nói tiếp - Tội gì không làm nghệ sĩ nếu được trả công cao? Nhưng cháu cũng có thể là kế toán viên, người hầu bàn, chủ nhà tắm, nếu những việc đó được trả nhiều tiền hơn. Thế còn, tại sao cháu sẽ lấy con gái bác? Tất nhiên là, cháu thích Masa, nhưng vấn đề không nằm ở đó.

Tôi liếc nhìn mẹ của Masa. Bà vẫn ngồi yên, không định ngất đi và thậm chí, cũng không ngắt lời tôi. Tôi có cảm giác bà còn chăm chú nghe tôi nói. Đôi mắt bà dường như là đôi mắt của cô giáo hiền hậu đang nhìn cậu học sinh có khả năng.
Tôi nói tiếp:
- Tất nhiên, vấn đề không phải ở chỗ cháu không thể sống thiếu con gái bác. Chúng cháu mới chỉ quen nhau được hai tuần, nhưng thời gian cũng đủ để hiểu nhau. Masa sẽ được sống hạnh phúc, hợp mốt. Mặt khác, cháu cũng muốn có quan hệ với những người có văn hoá. Hiện nay, cháu đang là diễn viên, nhưng sau lúc cưới Masa là lập tức, cháu sẽ bỏ nhà hát để chuyển sang làm ở nơi khác. Chẳng hạn, ở cửa hàng bán đồ cũ.
- Cháu tin bác là một phụ nữ thông minh và bác yêu con gái của mình. Còn việc bác có thích cháu hay không, thì điều đó không quan trọng. Masa sẽ không bao giờ xa rời cháu. Cháu muốn bác hiểu là con gái bác hiện đang ở trong đôi cánh tay khoẻ mạnh.
Tôi im lặng một lát, đi đi lại lại trong phòng rồi cười khảy, nói tiếp: - Vả lại, mọi chuyện giữa hai chúng cháu đã đi quá xa. Bác hiểu cháu chứ? Mẹ của Masa không tái mặt, không lồng lên, không giậm chân, mà lạ sao, bà lại mỉm cười. Tôi liền tức giận, nói tiếp:
- Cháu đang cần tiền vì có việc. Nếu bác từ chối không đưa tiền, thì cháu có thể sẽ không lấy con gái bác. Cháu có thể làm tất cả.
Nói xong những lời đó, tôi có thể chờ đợi mọi điều. Thế nhưng, tôi đã không tin vào tai mình: mẹ của Masa đã hỏi tôi:
- Anh cần bao nhiêu?
- Một nghìn rúp.
- Tôi sẽ đưa cho anh. - Bà mỉm cười, vừa nói vừa chạy sang phòng khác. Vừa lúc đó, Masa bước vào phòng, nói:
- Bữa cơm trưa đã làm xong. Anh đã nói gì với mẹ thế? Anh đã làm bà rất thích. Bà bảo em: "Đó chính là cái mà con cần. Với người chồng như vậy, con có thể chung sống tới 100 năm. Nó thật là tuyệt! Nhưng, con hãy bảo với nó để nó thận trọng hơn. Nó còn trẻ, hăng hái". Anh đã chinh phục mẹ bằng cách nào vậy?
Tôi hết sức mơ màng, ngồi phịch xuống chiếc ghế. "Đúng, đó là sự thành công". Tôi vừa nghĩ vừa chăm chú nhìn vào đôi mắt hồn nhiên của Masa.

Đỗ Thanh dịch
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeSat Mar 28, 2020 3:15 pm

.

Cái bóng trên má
- Jean Giraudoux (1882-1944)

– Liễu Trương dịch


Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) 2-32
Jean Giraudoux (1882-1944) / Wikipedia

Jean Giraudoux ra đời tại Bellac, Haute-Vienne, nước Pháp. Ông là một nhà văn, nhà viết tiểu luận, nhà ngoại giao và còn là một nhà viết kịch nữa. Ông được xem như nằm trong số các nhà soạn kịch quan trọng nhất thuộc thời kỳ giữa hai trận thế chiến. Chủ đề của ông tập trung vào tương giao giữa đàn ông và đàn bà, hoặc ở một số trường hợp, giữa người đàn ông với vài lý tưởng không thể đạt đến được (tp)

Nguyên tác : “L’ombre sur les joues”
Trích từ tập truyện “Les contes d’un matin”
Nxb, Gallimard, 1952

Từ trên chiếc tàu đưa anh về Island, Niels Jacobsen đưa mắt tìm trong đám cha mẹ, bà con và bạn bè tụ họp trên bến tàu, hình dáng Maria Bormann, hôn thê của anh, một cách vô hiệu. Thế nhưng anh trở về là chỉ vì cô ấy. Anh đã bỏ ngang cuộc du lịch ở Âu châu bởi vì cách đây sáu tháng bỗng nhiên Maria ngưng viết thư cho anh, sau khi đã cho anh quen nhận được mỗi tuần một bức thư âu yếm nhất, viết với một tấm lòng tha thiết nhất. Gia đình anh tránh đáp những câu hỏi tuyệt vọng của anh, anh chỉ biết cô còn sống, vì anh không thấy tên cô trên danh sách những người đã qua đời đăng trên tờ báo của Reykjavik. Anh có nghĩ đến việc không cập bến nước này, nơi mà có lẽ anh sẽ gặp cô đang quàng tay một người đàn ông khác. Nhưng vì những tiếng chuông thánh thót vang lên từ những gác chuông bằng gỗ, vì những mỏm đá bên bờ biển tròn lại dưới một ánh sáng êm dịu, vì những tiếng chó sủa quen thuộc, với lại Niels không có can đảm trốn cái quê hương tội nghiệp kia đã được trang hoàng như ngày lễ để tiếp đón anh.

Cha mẹ anh vừa hôn anh vừa khóc, nhưng khi anh thử tìm hiểu trong đôi mắt của hai đấng sinh thành, ngày hôm đó và những ngày sau, anh cảm thấy họ quyết tâm giữ bí mật. Vì kính trọng họ, và cũng vì kiêu hãnh về một nỗi tuyệt vọng mà anh khó giữ kỹ, anh không tìm hiểu điều đó với kẻ khác nữa. Trọn năm trôi qua một cách đau đớn.
Nhưng những tuyệt vọng do tình yêu gây nên chắc chắn đưa chúng ta trở về lại với tình yêu. Niels không còn đủ sức cưỡng lại một mối tình. Gerta Bruble, cô em họ của anh, đến nghỉ hè ở Reykjavik; nụ cười, cử chỉ nghiêm trang, giọng nói ân cần và mệt mỏi của cô làm anh nhớ tiếng cười và lòng nhiệt thành của Maria, như một tiếng vọng kín đáo và đầy thương yêu. Vì Gerta trở nên quá thân thiết nên anh không chịu rời cô ta, và người ta làm hôn lễ cho đôi lứa vào mùa xuân.
Axel, một bác sĩ trẻ tuổi, người Thụy điển, mà Niels đã quen biết ở đại học Copenhague, đến viếng Island nhân dịp đám cưới của anh. Niels làm hướng dẫn viên cho Axel, và lần đầu tiên anh mạo hiểm đi xa thành phố Reykjavik, khi thì hướng về phía bắc, đến tận trung tâm của hòn đảo, đến những cái hồ đóng băng mà mây che khuất, khi thì đến vùng chài lưới, đến những vách đá ngoài bờ biển, ở phía đông, nơi có những bệnh viện kiểu mẫu mà Axel nhất thiết muốn thăm viếng. Họ nói chuyện lâu với những bệnh nhân đang phục hồi sức khỏe, giọng nói Thụy điển của người bác sĩ trẻ làm cho những người này vui lên.

Một buổi chiều khi sự yên tĩnh lạnh lẽo, sáng chói và dày đặc như tuyết, bao phủ nền trời, biển cả và các bãi chăn thì Axel và vợ chồng Niels đi ngang qua một trung tâm trị bệnh phong. Người giám đốc mới, ông Nansen, đã từng là học trò của thân phụ Axel, và họ ghé vào để chào ông. Trong khi Gerta giúp bà Nansen đun nước pha trà thì ông bác sĩ già đưa khách đi ngang qua những căn phòng rộng rãi có những khung cửa lớn hướng ra bầu trời và biển cả vô tận. Trong các hành lang màu xanh, trên đá lát tráng men, trong các nếp màn cửa, đâu đâu cũng tràn đầy ánh sáng và sự thanh thản, đến nỗi Niels và Axel quên khuấy đi sự khủng khiếp của căn bệnh tàn nhẫn đã đày các nạn nhân vào ở nơi này. Trong hành lang thứ nhất, vài đứa trẻ, mặt mày còn nguyên vẹn, tay mang găng, chân quấn trong những đôi dép to tướng, đang chơi một cách thầm lặng và ngây ngô, chúng hướng về khách lạ những cặp mắt đầy ngờ vực, làm như chúng sợ sức khỏe của họ. Rồi đến lượt căn phòng của đàn ông, gương mặt của những người này bị bệnh phong ăn mòn một cách khiếp đảm, chỉ có một người ngồi trong góc có gương mặt bị băng bó và đeo kính đen. Đó là người con trai khi xưa nổi tiếng đẹp trai và giờ đây không chấp nhận tình trạng mắc bệnh phong của mình. Ngày nọ, không biết làm sao mà anh ta kiếm ra được một cái gương và cho tất cả các bạn mượn vì muốn trả thù.
Phòng của phụ nữ ở cuối hành lang, xung quanh có những ngôi vườn. Khi nghe cánh cửa bật mở, cả năm người phụ nữ thình lình đứng dậy, họ sắp hàng, quay lưng với những người lạ mặt, họ nhìn ra biển. Khách càng đi qua gần họ, họ càng xoay người bằng một cử động do bản năng thúc đẩy, để người ta không nhìn thấy được ngay cả phía nghiêng của mặt họ. Bỗng nhiên Niels ngừng lại. Hình như trong người đàn bà phía tay phải anh nhận ra được Maria, hôn thê đầu tiên của anh. Vì quá ghê sợ, anh chạy theo mấy ông bạn ; nhưng khi ra đến cửa, anh không chịu đựng được một sự ngờ vực còn ghê gớm hơn sự thật, nó sẽ ám ảnh đời anh. Anh đứng lại, nhìn chăm chăm những người phụ nữ đang đứng im lìm, cái đầu bị thương của họ gục xuống ngực và bị ánh nắng biến thành những cái bóng đen chạy dài đến chân anh.

Đúng là tóc màu hạt dẻ của Maria, mái tóc quá dày đã làm gẫy tất cả các chiếc lược. Đúng là cái gáy của cô luôn luôn khỏe, căng ra, hơi cúi xuống trước sức nặng của đau khổ. Đúng là đôi vai của cô mập tròn khiến cô đưa cánh tay lên một cách khó khăn để hái trái xơ ri ; đúng là cái thân thể đó mềm mại gập lại trên đầu gối và trên hông mà khi xưa anh thích bắt gặp khi anh nhón gót đến gần và đặt tay lên mắt cô. Và kẻ phụ bạc chính là anh.
Người con gái mà anh nghi ngờ nay đã từ biệt mọi hạnh phúc, mọi hy vọng. Bị chôn vùi mãi mãi, có lẽ cô chạm phải mỗi ý tưởng, mỗi đồ vật như một người chết trỗi dậy dưới ngôi mộ tối tăm nhất.
– Maria ơi! Maria ơi! Niels hét lên.
Tất cả các người phụ nữ đều giật mình. Tiếng dội nào đó nghe xé ruột của một thế giới mà họ khó quên được mặc dù đã bao năm im lặng?
– Maria ơi! Niels lặp lại. Hôn thê của anh ơi!
Lần này, không một người phụ nữ nào cử động. Có lẽ, có lẽ không phải là cô ấy. Vả lại tại sao đóng kịch một cách đau đớn như thế? Tại sao anh lại đến với những người phụ nữ không còn sống nữa, và tại sao anh la lên một cái tên có thể là tên của một người trong số họ, cái tên gợi lên những mùa hoa quả và hương thơm, gợi lên những ngày lễ và ánh nắng gắt mà khi xưa họ tránh để da mặt khỏi bị vết tàn nhang ? Khi thốt ra cái tên đó với giọng nồng nhiệt của anh, Niels cũng có tội như người đã mở ra phía biển cái lồng ở trong có những con chim mù. Tính tò mò điên rồ nào đã thúc đẩy anh, và nếu những người phụ nữ kia quay lại anh với gương mặt bị tàn phá của họ, làm sao anh có thể xin lỗi vì anh chỉ biết có sức khỏe và đã phô trương cái sức khỏe đó trước mặt họ, như để trả thù, như người đàn ông kia đã đưa ra cái gương?

Nhưng cánh cửa bật mở. Axel lo lắng tìm bạn.
– Niels, anh ta gọi, nhanh lên. Vợ anh đang chờ đấy!
Thế rồi cái dáng người giống Maria ngồi sụp xuống. Cô che lấy mặt với hai tay, gương mặt mà ánh nắng không còn đủ để làm cái bóng che khuất. Một tiếng thổn thức giật giật và lặng lẽ lay lắt người cô, lan qua các bạn cô đang đứng, tay cầm cái suốt hình thoi quấn chỉ bây giờ trở nên vô ích, như những Nữ Thần Định Mệnh khi cái chết đi qua.
Niels đâm ra ngây dại, để người bạn dẫn ra xe. Anh nắm cương ngựa và cho xe chạy dọc theo núi đá, trên con đường nhô cao trên vực thẳm, mà không để ngựa trượt chân. Nhưng khi về đến nhà Niels đau nặng. Anh nằm liệt giường trong sáu tháng trời, lẳng lặng, đôi mắt sợ hãi chăm chăm nhìn Gerta, trong đôi mắt mà nỗi đau đớn làm cho ngày càng mở to, bóng tối lớn dần như một cơn bệnh tàn nhẫn.


Và anh từ giã cõi đời vào mùa thu.


(Nguồn: lieutruongvietvadoc.wordpress.com)
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeSat Jul 25, 2020 12:06 am

.
Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) 9k=

Trúng số
- Marjorie Barnard (1897-1987) (Úc)


Marjorie Barnard sinh tại Ashfield, Sydney, lúc nhỏ bị bệnh sốt tê liệt nên chỉ được nuôi dạy ở nhà, đến 10 tuổi mới vào trường. Năm 1911, cô học trường Nữ Trung học Sydney, tỏ ra rất ham học. Tiếp tục bậc đại học, M.Barnard tốt nghiệp năm 1920, được khen thưởng vì kết quả xuất sắc môn lịch sử, và do vậy, được cấp học bổng du học Đại học Oxford. Tuy nhiên gia đình không đồng ý cho cô đi, Barnard chọn học và sau đó công tác ở ngành thư viện, phụ trách Thư viện Công Cộng Sydney, ít lâu sau, tại Đại học Kỹ thuật Sydney.
Trong thời gian này, ban ngày công tác, tối về cô tập tành viết lách. Tác phẩm đầu tiên là tuyển tập truyện ngắn viết về tuổi thơ của mình, cuốn “The Ivory Gate”, Chiếc cổng ngà, hoàn thành ngay trong năm 1920.

Con đường sáng tác của Marjorie Barnard có cơ hội phát triển nhanh với sự xuất hiện của cô bạn thân thời sinh viên là Flora Eldershaw. Trong những lần gặp gỡ, đôi bạn cùng nhau đàm đạo văn chương và nảy ra ý tưởng cộng tác viết tiểu thuyết. Cả hai thấy thôi thúc hơn khi Tạp chí The Bulletin loan báo tổ chức trao giải sáng tác. Họ gởi tác phẩm “A House is Built”, Căn nhà được xây, vào năm 1928, lấy bút hiệu chung là M.Barnard Eldershaw. Điều bất ngờ là tác phẩm, viết với chủ đề xã hội gia trưởng, vấn đề lớn của thời đó, được đồng giải nhất với một tác giả khác. Cũng với bút hiệu đó, họ viết thêm năm tiểu thuyết khác nữa, ngoài các sách về lịch sử và phê bình. Tác phẩm cộng tác cuối cùng là cuốn Ngày mai và Ngày mai và Ngày mai (“Tomorrow and Tomorrow and Tomorrow”), xuất bản năm 1945, được Patrick White, nhà văn Úc duy nhất đạt Giải Nobel Văn chương, hết lời khen ngợi.

Bên cạnh những tác phẩm viết chung, Marjorie Barnard cũng thử sức ngòi bút độc lập của mình, chủ yếu ở thể loại truyện ngắn, thành công nhất là cuốn “The Persimmon Tree and Other Stories” (Cây hồng vàng và những truyện ngắn khác), xuất bản năm 1943, viết về mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới, hệ luỵ của xã hội gia trưởng, hậu quả những cuộc tình vụng trộm…
Những tác phẩm với đề tài lịch sử cũng góp phần làm nên tên tuổi của Marjorie Barnard, nổi bật là cuốn Lịch sử nước Úc, xuất bản năm 1963.
Năm 1983, bà được trao Giải thưởng Patrick White.
Năm sau, Giải thưởng đặc biệt của Thống đốc Tiểu bang New South Wales.
Năm 1986, trường Đại học Sydney phong tặng bà Bằng Tiến sĩ Danh dự.
Marjorie Barnard qua đời năm 1987.

Truyện ngắn Trúng số giới thiệu dưới đây (dịch từ nguyên bản The Lottery, Xố số), trích từ tập The Persimmon and Other Stories, là chuyện của hai vợ chồng Ted và Grace, chồng đi làm và vợ lo việc nội trợ. Công việc của người chồng là giao tiếp xã hội, kiếm tiền và khỏi bận tâm việc gì khác. Anh nghĩ thế là nặng nhọc rồi, còn vợ anh” chẳng làm gì cả”, chỉ chăm sóc nhà cửa, con cái, cơm nước lo sẵn đợi anh về. Khi nghe tin vợ trúng số, anh chỉ ngạc nhiên không hiểu bà lấy đâu ra tiền để mua vé số, vì tiền chi tiêu hàng tháng là do anh cung cấp hết, tính toán chi ly từng khoản một, không thể nào dư một xu! Và người vợ cam chịu cuộc sống đó cho đến lúc thấy cần tự tìm ra lối thoát. Chị bán số nữ trang riêng và bắt đầu mua vé cho đến lúc hết tiền, mong chờ một Hy vọng cuối cùng.

Câu chuyện về thân phận người phụ nữ trong xã hội đề cao vai trò gia trưởng, tưởng như là hình ảnh xã hội Việt Nam, nhưng ở đây là xã hội Úc những năm 30, 40 thế kỷ trước.
Cái khác biệt là ở cách giải quyết số phận của mình. Kiểu như Grace làm ở đây không hiểu phụ nữ Việt Nam có từng chọn lựa?

***

Người đầu tiên báo cho Ted Bilborough biết tin vợ anh mới phát tài là một trong những người bạn của anh, một người có tuổi, hay đùa. Ông ta bắt tay anh với vẻ nghiêm trang giả tạo và nói nhỏ với sự cảm thông mạnh mẽ lạ thường. Ted chẳng hiểu câu chuyện ông nói ra sao nữa.

Anh vừa bước lên tầng hai chiếc phà chuyến 6 giờ 15 chiều từ thị trấn về. Fred Lewis dường như đã đợi sẵn với tờ báo. Fred nhe răng cười, vẻ phấn khích ngầm ý chế giễu. Mọi thứ cứ như là trò đùa nhắm vào anh. Anh cảm thấy sự tự tin bị đe doạ. Khoé miệng anh xệch ra trên cái má phính trong khi anh cố tỏ ra dửng dưng không để ý.
Ted bảo người soát vé: “Cứ giữ lại tiền thối.”
“Anh ta không biết đâu, thực sự không biết đâu.”
“Vợ anh trúng số đấy!” có người nói.
“Anh ta không tin anh đâu. Đưa anh ấy xem tờ báo. Rõ như ban ngày đây này. Bà Grace Bilborough, số 52, đường Cuthbert.” Một ngón tay cáu bẩn thô kệch chỉ vào dòng chữ “Giải nhất, 5000 bảng. Công ty Hy vọng cuối cùng.”
Fred Lewis lắc đầu: “Anh ta có vẻ chẳng hào hứng gì.”

Họ bắt đầu vỗ lưng Ted. Chiếc phà này suốt mười năm qua ngày nào đi làm anh cũng đi, mỗi năm chỉ nghỉ nửa tháng vào tháng 1, nên hầu như ai anh cũng quen. Ngay những người anh không quen cũng dự phần vào trò vui hôm nay. Ted hờ hững nhồi ống tẩu, ngón tay có vẻ hơi run. Anh cố giấu cái cảm giác run rẩy đó, nhưng lại cảm thấy nó ẩn sâu trong lồng ngực. May mà đồng nghiệp ở nơi làm chưa hay biết gì, vì hôm nay trong văn phòng chật hẹp dưới những ống thông khí bằng crôm, họ bận rộn túi bụi việc giao dịch chứng khoán hay là kiểm tra các khoản tín dụng. Đó là giờ giao dịch.
Lẽ ra Grace phải báo cho anh biết chứ. Cô có thể nhờ nhà Thompson gọi điện thoại cho anh. Bill thường qua mượn máy cắt cỏ hay cái thang, vì vậy nhờ vả một chút cũng chẳng khó khăn gì. Nhưng tất cả chỉ tuỳ ở Grace thôi, cái kiểu “Nếu tôi không có thứ gì thì anh sẽ là người tôi muốn tìm tới để mượn.”
Mà đúng như thế thật. Mọi người ai cũng thích Ted theo kiểu nào đó. Một người tốt, theo cả hai nghĩa của từ này.
Không màu mè, lúc nào cũng sẵn sàng đùa vui, nhưng anh là công dân tốt, người chồng tốt, người cha tốt. Anh không phải là hạng người từ chối đẩy xe đẩy trẻ con. Anh vui vẻ làm việc ấy. Vợ anh có thể ngẩng cao đầu, họ trả các chi phí theo hoá đơn hàng tuần, anh còn để dành được chút ít, chẳng nhiều lắm nhưng vậy là tốt rồi, theo cách hợp lý nhất, mười phần trăm trích ra từ lương trong tình hình khủng hoảng chưa chấm dứt, lại còn lo việc này việc khác nữa. Và anh vẫn luôn luôn vui vẻ, hài hước với mọi người. Tất cả những điều đó luôn hiện hữu trong tâm trí anh. Anh vẫn hy vọng thế nào cũng được đền bù xứng đáng, nhưng không phải nhờ vào Grace.

“Ted, anh sẽ làm gì với số tiền ấy?”
“Cậu sẽ không thấy anh ấy cả tuần này đấy, anh ấy bận tiệc tùng rồi”. Câu nói thật khôi hài, bởi Ted có bao giờ tiệc tùng gì đâu, ngay cả vào ngày Anzac. (1)
Ai đó cất giọng buồn rầu mà chẳng ai quan tâm: “Tôi mua vé số hàng tuần từ khi nó mới khai trương và chẳng trúng được một xu.”
“Anh sẽ đi nghỉ ở đâu đó chứ?”
“Người ta sẽ bầu anh làm chủ tịch Câu lạc bộ Quần vợt và anh sẽ phải đóng góp một chiếc cúp bạc.
Mọi người tâng bốc anh bằng những câu khôi hài.
“Tôi hy vọng là bà Bilborough sẽ bỏ ra chút ít để lo cho tương lai lũ trẻ.”. Cuối cùng, Ted lên tiếng, gần như cách người ta trả lời báo chí phỏng vấn. Anh thấy hài lòng vì mình đã nói điều đúng đắn. Trước mặt mọi người anh vẫn thường gọi Grace là bà Bilborough. Anh nghĩ mình thật lịch thiệp khi gọi là "bà".

Ted để mọi người chuyện vãn, còn mình nhìn ra ngoài cửa sổ. Anh chẳng quan tâm tới tin tức trong báo tối nay. Chiếc phà rung lắc mạnh và để lại một vạch nước trắng xoá trên dòng sông tĩnh lặng. Chiều xuống dần. Mặt trời chìm sau đám mây xám, êm đềm, không hình dạng như lớp sương. Không gian nhập nhoạng tối, khiến những tia sáng như co rút lại, dễ dàng nhìn thấy, một chiếc đĩa tròn màu vàng trông giống mặt trăng trôi trên lớp sương khói hơn là ánh mặt trời. Nó chiếu lên mặt sông một cột ánh sáng màu cam. Sóng từ chiếc phà loang ra về phía đó, và những khoảng tối li ti cắt vụn nó ra. Bờ sông dựng đứng, bao gọn con sông, khiến sông biến thành như cái hồ, đã bị bóng tối xâm chiếm. Hình dáng hai ngôi nhà thờ và cái vành đứt khúc những cây thông đứng vươn lên bầu trời êm ả, không rõ nét nhưng vẫn phô bày nét duyên dáng hấp dẫn. Những sườn dốc, có cây và rải rác vài ngôi nhà, trông mờ ảo và phủ không khí thanh bình thôn dã. Con sông toả chút sáng mỏng trên nền đất xám. Ted có thể nhận thấy làn nước phẳng lì thực ra là một lớp vàng nâu với nhiều mảng bị những đợt thuỷ triều làm cho xù xì, chuyển màu xanh lạnh lẽo. Chỉ lúc nào bạn chăm chú nhìn, quan sát kỹ thì mới phân biệt được sắc màu. Quay nhìn xuống dòng suối khuất ánh hoàng hôn, mặt nước loáng lên những tia sáng yếu ớt màu xám bạc. Lúc này, rõ ràng có hai thế giới, một dưới ánh hoàng hôn với mặt đất xám mơ màng và yên tĩnh, thế giới kia phía bên dòng suối bên trên con sông bạc bờ bên kia, ánh sáng gom lại phía này hết. Những ngôi nhà có cửa sổ vàng rực, đám cây tối đen, một trụ chứa khí to đùng, những thùng dầu trắng trông như những tai nấm xấu xí, những toà nhà cao xẻ bầu trời, ngay cả hình ảnh những mái nhà được nhìn thấy hay chỉ là tưởng tượng, tất cả tỏ ra diệu ký trong thứ ánh sáng trên cao đó.

Ted ngẫm nghĩ: “Năm nghìn bảng. Năm nghìn bảng đấy.” Năm nghìn bảng với khoản năm phần trăm, sẽ âm thầm sinh lãi, tuổi già sẽ yên ổn. Anh có thể làm bất cứ gì mình muốn với năm nghìn bảng. Chỉ mới nghĩ đến điều đó thôi đã là một cảm giác dễ chịu lắm rồi. Thật khó có thể tưởng tượng số tiền đó lại liên quan đến Grace. Lẽ ra cô ấy phải nói cho anh biết chứ? Mà lấy đâu ra năm bảng và ba xu để mua vé số? Anh không thể khỏi ngạc nhiên về chuyện này. Khi việc chi tiêu đã được tính toán chi ly cặn kẽ như họ vẫn làm thì làm sao dôi ra được năm bảng ba xu. Nếu có dôi ra, cũng không đem mua vé số được, anh sẽ đưa vào ngân hàng ngay. Anh không thấy có gì khác lạ trong việc chi tiêu trong gia đình, anh vẫn tự hào là mình luôn để mắt đến mọi sự. Chắc chắn cô ấy không thể kê cao hoá đơn để lấy tiền mua vé. Đầu óc anh nghi ngờ lung tung. Grace có vẻ gì bí mật, vậy mà lâu nay anh vẫn tưởng là chuyện gì cô ấy cũng kể cho anh. Anh đã xem như không có gì để nói trong câu chuyện thường ngày. Anh thấy tâm trí thanh thản hơn. Dẫu sao, thực tế là Grace đã trúng năm nghìn bảng. Anh khoan dung thừa nhận rằng Grace là một người vợ tốt. Nghĩ vậy, anh liền nhớ tới hình ảnh miếng lót trên áo sơ mi, chiếc quần mới giặt để anh mặc đi đánh tennis, bọn trẻ lúc nào cũng sạch sẽ và căn nhà gọn gàng tươm tất. Như thế là người vợ tốt. Còn anh, anh cũng là chồng tốt, lĩnh lương đem hết về nhà và không tơ tưởng người phụ nữ nào khác. Ai cũng công nhận gia đình anh là một gia đình mẫu mực, thế nhưng – anh vẫn thấy ở nhà người khác dễ chịu hơn nhà mình. Lỗi là tại Grace. Cô ấy chẳng lúc nào vui vẻ và dễ tính cả. Lúc nào trông cũng ủ rũ. Anh ăn mặc biết cách hơn Grace, ai cũng thấy vậy, tuy anh làm lụng vất vả hơn. Tất cả những gì Grace phải làm là trông nom việc nhà, chăm sóc lũ trẻ. Không có gì khác hơn. Vậy mà lúc nào cũng thấy Grace như bận rộn hơn, anh thì cho chả có gì khiến cô ta mất nhiều thời gian cả. Chỉ là thói ngang bướng của phụ nữ thôi. Cũng chẳng phải là do Grace đã lớn tuổi. Mười năm lấy chồng rồi hai đứa con vẫn chưa xoá hết chút nét con gái nơi cô – non nớt, trẻ con chưa bao giờ dịu ngọt. Cô vẫn vậy thôi, không tốt hơn, không xấu hơn. Có thể là cô thông minh hơn chút đỉnh. Anh không khỏi ngạc nhiên chuyện cô ấy lấy đâu ra năm bảng ba xu đó. Nếu cô ấy đã hoang phí năm bảng ba xu kiểu ấy, phải chăng anh đã đưa cô quá nhiều tiền để lo việc nhà? Và tại sao Grace lại chọn cái tên Hy vọng cuối cùng quái quỷ kia? Liệu có phải là còn có hy vọng khác? Có lẽ chẳng phải để gọi tên một sự vật, mà chỉ là cái nhãn mang đến may mắn thôi?

Cô gái ngồi đối diện đang ngồi khâu mấy dải đăng-ten cho mấy thứ hàng sẽ mang đi theo về nhà chồng, chăm chú làm trong ánh sáng lờ mờ.
“Lại một người nữa sắp lên đường”, Ted nghĩ.
Người đàn ông ngồi cạnh anh nói: “Vậy là sao nhỉ.”
Ted không chú ý nghe.
Phà vào bến. Ted bước lên bờ. Anh cố ý không để lộ trong bước đi của mình là người có vợ vừa mới trúng số năm nghìn bảng. Anh vừa thấy vui vẻ vừa mỏi mệt. Anh leo lên đồi cùng vài người bạn đồng hành, là những người hàng xóm. Họ vẫn còn trêu chọc anh về số tiền, có vẻ như không biết làm sao ngưng trò đùa. Chiều yên lặng, hơi nóng. Mặt trời đã lặn hẳn, để lại những đám mây nhiều hình dạng, dồn thành khối, với tia sáng vàng viền quanh.

Người đi cùng lần lượt tách ra, rẽ vào đường nhánh hoặc những khu vườn mở sẵn cửa vào. Còn lại mình Ted với người đàn ông sống trong ngôi nhà hơi tách biệt ở cuối con đường. Đột nhiên giữa hai người có vẻ yên lặng và nghiêm trang. Ted cảm thấy đau mỏi nơi khoé miệng khi anh phải mỉm cười liên tục.
“Tôi rất vui khi anh gặp vận may này.”
Ted đáp nhẹ: “Tôi tin là ông thật lòng, ông Eric”.
“Tôi không mong muốn ai ngoài anh ra được may mắn như vậy.”
“Ông thật tử tế.”
“Tôi nói thật đấy mà “.
“Ồ, tôi không kiếm tìm điều đó.”
“Gia đình chúng tôi sẽ giải quyết mọi chuyện ổn thoả hơn với một chút may mắn như vậy.”
“Chắc là sẽ ổn thôi.”
“Tháng sau là tới kỳ trả tiền nhà tiếp theo, mà Nellie sắp trở về nhà. Bob thì không có việc làm. Có vẻ như chúng tôi không lo liệu gì được cho đám cưới.”
“Tệ thật đấy.”
“Con bé đang mang bầu, vì vậy tôi cho rằng bố mẹ nó sẽ phải chuẩn bị cho việc này.”
“Tưởng như mới đây thôi Nellie còn bé xíu, chạy vòng vòng với chiếc xe đẩy.”
Eric đồng tình: “Chúng nó lớn nhanh. Khoản tiền nhà là cái khó bây giờ. Đầu tháng tới đó. Họ yêu cầu đúng hạn. Nếu không có khoản đó lơ lửng trên đầu thì chúng tôi chẳng lo gì mấy việc Nellie trở về nhà. Nó là con gái chúng tôi và rất vui đón được nó về nhà.”
“Vâng, ông sẽ tự hào khi lên chức ông ngoại đấy.”
“Hẳn thế.”

Tới cổng nhà Eric, hai người đứng lại, im lặng. Một ý nghĩ thoáng qua đầu Ted, cùng với đó là cảm giác ngọt ngào, hạnh phúc và mạnh mẽ anh chưa từng trải nghiệm.
Ted nói: “Hy vọng ông sẽ vượt qua thôi.”
“Anh thật tốt.”
“Tôi nói thật đó”.
Hai người bắt tay nhau và rời đi. Ted chỉ còn vài bước là tới nhà, anh đi chậm lại. Trời nóng và khô, anh nghĩ, phải tưới vườn rồi. Giờ thì anh đang đứng trước cổng nhà mình. Không thấy ai cả. Anh đứng đó một lát, nhìn quanh, như thể giờ anh mới nhìn thấy lần đầu ngôi nhà nơi anh đã ở từ mười năm nay. Anh nhận ra rằng căn nhà trông tồi tàn, mặt tiền chật hẹp. Mái ngói đã phai màu, gỗ cần được sơn lại, còn mặt sàn anh đã lát với cả hăng say nay có cái dáng nhố nhăng, khó chịu. Một ý tưởng thúc giục thay đổi mạnh mẽ hình thành trong đầu anh: “Ta có thể rời khỏi nơi đây.” Dựa vào những khả năng trước mắt, nó có vẻ tồi tàn và nhỏ bé quá. Ngay cả cái tên “Emon Ruo” cũng không ổn, nghe như nhà tù.

Ted ngần ngại, chưa muốn bước vào nhà. Đã lâu rồi chẳng có sự kiện gì quan trọng xảy ra giữa anh và Grace. Điều đó khiến anh ngượng ngùng. Anh không rõ cô ấy sẽ tiếp nhận câu chuyện này thế nào. Liệu Grace có bất ngờ xúc động mà quên luôn bữa ăn tối không? Anh hy vọng là vậy mà cũng sợ không phải vậy.
Anh bước vào phòng trước, treo mũ lên và gọi to bằng cái giọng cục mịch của mình: “Đâu rồi, bà vợ giàu có của tôi đâu rồi.”
Grace đang dọn bữa tối trong bếp.
“Anh về muộn. Bữa ăn nguội cả rồi.”
Mấy đứa trẻ im lặng, nhưng bồn chồn muốn rời khỏi bàn ra ngoài chơi.
“Tôi đã rứt được cái đám phóng viên.” Grace nói, giọng buồn nản. Grace là người có cá tính. Có thể tin tưởng chuyện cô dễ dàng đối phó với các phóng viên non tay nghề. Có vẻ như cô cũng không thiết nói chuyện đó với chồng. Ted cảm thấy thân hình và giọng nói của mình như thu nhỏ lại. Anh nhìn cô nghiêm nghị. “Cô ấy lấy đâu ra tiền mua vé số nhỉ”. Anh lại băn khoăn, lần này câu hỏi vọng lên rõ ràng hơn.

Giờ thì chỉ còn hai người. Khoảng im lặng kéo dài. Grace bắt đầu dọn bàn. Ted cảm thấy anh phải làm cái gì đó. Anh vụng về kéo cô vào trong vòng tay: “Grace, em không hài lòng sao?”
Cô nhìn Ted một giây, khuôn mặt cô trở nên nhăn nhúm, một thứ gì còn tệ hơn nước mắt chực trào ra. Nhưng cô giật ra khỏi người anh. ”Đúng vậy“. Cô đáp, rồi nhặt chồng bát dĩa đi xuống bếp. Ted đi theo.
“Em thật kín tiếng, không nói gì với anh về chuyện đó cả.”
“Cô ấy quá lạnh lùng”, Ted nghĩ. Grace đi đi lại lại trong bếp, bộ điệu mau lẹ, bồn chồn. Một lát sau, cô trả lời cho câu hỏi đang lởn vởn trong đầu Ted:
“Tôi đã bán sợi dây chuyền và chiếc nhẫn của mẹ tôi. Có người thu mua nữ trang cũ ngay tận nhà. Mỗi tuần tôi mua một vé số cho đến khi hết nhẵn tiền.”
“Ồ”, Ted nói. Vậy là Grace đã bán nhẫn cưới của mẹ cô để mua vé số.
“Đấy là tiền của tôi.”
“Tôi có nói không phải tiền cô đâu!”
“Không, anh không nói.”

Tiếng bát đĩa lạch cạch trong tay cô. Cô đang cảm nhận rõ điều gì đó đang tới, rất rõ. Nhưng Ted không biết là điều gì. Anh không thể bảo cô nói rõ.
Cô đến đứng trước mặt anh, lưng quay về chiếc bàn ăn bừa bãi, toàn thân căng thẳng. “Tôi nghĩ rằng anh đang muốn biết tôi sẽ làm gì. Tôi sẽ nói cho anh rõ. Tôi sẽ ra đi. Tự tôi sẽ đi. Trước khi mọi chuyện quá trễ. Ngay ngày mai tôi sẽ đi.”
Ted có vẻ chưa hiểu hết.
“Beattie sẽ đến chăm sóc anh và lũ trẻ. Cô ấy sẽ hài lòng về chuyện đó. Anh chẳng phải tốn một đồng xu nào cả so với hiện nay,” cô nói tiếp.
Ted nhìn cô chăm chú, hai tay buông thõng, mặt xịu xuống.
“Thì ra ý cô đúng là như vậy, như trong báo viết: Hy vọng cuối cùng?”
Grace đáp: “Đúng vậy.”

---------------------

Chú thích của người dịch:

Anzac Day: ngày tôn vinh các cựu binh (được tổ chức vào ngày 25 tháng 4 hàng năm để tưởng nhớ những thành viên của quân đội Úc và New Zealand đổ bộ vào Gallipoli của Thổ Nhĩ Kỳ trong Thế Chiến I. Anzac là từ viết tắt của “Australia and New Zealand Army Corps.)
Hiện nay ngày này là ngày nghỉ lễ quốc gia. Các lễ kỷ niệm được tổ chức ở các đài tưởng niệm chiến tranh trên khắp đất nước và các cuộc diễn hành diễn ra qua các thành phố lớn. Các cựu binh đều tham gia diễn hành. Có năm thấy trong đoàn diễu hành ở Sydney có cả cựu quân nhân từng tham chiến tại Việt Nam.

THÂN TRỌNG SƠN dịch và giới thiệu từ nguyên bản tiếng Anh.
.

.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitimeWed Nov 18, 2020 10:16 pm

.
Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Th?id=OIP

Trở về nhà
- Pete Hamill (1935- )

Thân Trọng Sơn dịch

Pete Hamill sinh tại New York, gia đình gốc người Ireland di cư sang Hoa Kỳ từ năm 1929. Học xong, Hamill thử làm nhiều công việc khác nhau cho đến khi thấy niềm đam mê nghề làm báo thôi thúc.
Mùa hè năm 1960, ông làm phóng viên tại báo The New York Post và bắt đầu học nghề từ đây. Những năm 1962-63, ông làm đặc phái viên cho tờ Saturday Evening Post và được cử sang châu Âu. Thời gian này, ông rong ruổi qua nhiều nước, phỏng vấn các nghệ sĩ, đạo diễn, nhà văn...
Đến năm 1964, ông trở về New York, làm tại báo New York Herald Tribune một thời gian, rồi chuyển về New York Post phụ trách một chuyên mục thường kỳ, đồng thời cộng tác với nhiều báo khác. Ông viết nhiều đề tài (chiến tranh, âm nhạc, đời sống thị dân...) và di chuyển nhiều nơi. Sau này, ông xuất bản hai tuyển tập các tác phẩm báo chí (Irrational Ravings và Piecework).

Hamill còn được biết đến như một nhà văn, tiểu thuyết đầu tiên là " A Killing for Christ ", nói về âm mưu ám sát Đức Giáo Hoàng vào dịp lễ Phục Sinh tại La Mã. Sau đó là tiểu thuyết tự truyện The Gift, và vài cuốn khác. Ông còn viết hơn một trăm truyện ngắn, đăng từng kỳ trên báo với chuyên mục mang tên "The Eight Million" và "Tales of New York". Sau này ông tập hợp lại in trong hai cuốn "The Invisible City: A New York Sketchbookm", 1980, và "Tokyo Sketches", 1992.

Truyện ngắn Going Home giới thiệu dưới đây được đăng lần đầu trên báo The New York Post ngày 14/10/1971. Ba tháng sau, truyện được đăng lại trên tạp chí Reader’s Digest.

***

Cả bọn cùng kéo về Fort Lauderdale, tiểu bang Florida. Tất cả gồm sáu người, ba chàng trai, ba cô gái, họ lên xe ở đường số 34, mang theo bánh mì sandwich và rượu vang, đựng trong những túi giấy. Họ đang mơ tưởng tới những bãi biển vàng và sóng thuỷ triều, bỏ lại sau lưng không khí lạnh lẽo, u ám của mùa xuân thành phố New York. Còn Vingo thì đã lên xe ngay từ đầu.

Khi xe chạy ngang New Jersey để tiến vào Philia, họ bắt đầu để ý Vingo ngồi thù lù một chỗ, không cựa quậy. Anh ngồi ngay trước mặt bọn trẻ, gương mặt bụi bặm khiến khó đoán tuổi, mặc bộ đồ màu nâu trơn không vừa lắm. Các ngón tay cáu bẩn khói thuốc lá, miệng mím lại. Anh ngồi lặng lẽ, chừng như chẳng quan tâm gì đến sự có mặt của những người khác.

Đêm về khuya, xe chạy ngang vòng ngoài Washington thì dừng lại tại quán ăn Howard Johnson, mọi người đều xuống xe, ngoại trừ Vingo. Đám trẻ bắt đầu ngạc nhiên về Vingo, cố tưởng tượng ra cuộc đời của anh, có lẽ anh là một thuyền trưởng tàu biển, hoặc là người bỏ vợ, hay là cựu quân nhân trở về quê nhà? Khi cả bọn trở lại xe, một cô gái trong nhóm không kìm được tò mò nên đến bắt chuyện với anh. Cô đến ngồi cạnh và tự giới thiệu.

"Tụi này đi Florida", cô nói rõ giọng, "anh cũng đi tới đó chứ?"
"Tôi không biết nữa!", Vingo đáp.
"Tôi chưa hề tới đó. Nghe nói đẹp lắm."
“Đúng đó.", anh khẽ nói, như muốn khêu lại điều đã cố quên.
"Anh sống ở đó à"
"Trước tôi từng ở đó, khi còn trong hải quân, tôi ở căn cứ Jacksonville."
"Anh dùng chút rượu vang nhé!"

Anh mỉm cười và cầm lấy chai rượu làm ngay một tợp. Anh cảm ơn và tiếp tục chìm trong im lặng. Một lát sau, cô gái quay lại với nhóm bạn, anh lim dim ngủ.
Đến sáng, họ lại dừng ở một quán Howard Jackson khác, lần này Vingo cùng đi với nhóm trẻ. Anh tỏ vẻ ngại ngùng, gọi ly cà phê đen và rít thuốc liên hồi, trong khi đám trẻ vẫn huyên thuyên chuyện nằm ngủ trên bãi biển.
Khi trở lại xe buýt, cô gái vẫn đến ngồi cạnh Vingo. Một lát sau, anh ngập ngừng chậm rãi kể chuyện, giọng khổ sở. Đã bốn năm rồi anh bị giam ở New York và nay đang trở về nhà.

"Anh có gia đình chứ?"
"Tôi cũng không chắc."
"Ủa, anh không chắc sao?"
"À, vâng, hồi còn trong tù, tôi có viết cho vợ. Martha à, anh sẽ thông cảm nếu em không thể gắn bó với anh. Tôi nói là tôi vắng nhà lâu quá, nếu nàng không chịu nổi, nếu lũ nhóc cứ dò hỏi thắc mắc này kia và nàng thấy đau đớn, nàng có thể quên tôi đi. Cứ tìm một người đàn ông khác - nàng là một phụ nữ tuyệt vời, thực sự rất đáng giá. Nàng có thể quên tôi đi. Tôi bảo là nàng không cần phải trả lời thư tôi gì cả, và nàng đã không viết gì thật. Cũng đã ba năm rưỡi rồi."
"Và bây giờ anh trở về nhà, vẫn không biết tình hình thế nào?"

Anh ngại ngùng đáp:
“Đúng vậy. Mới tuần trước thôi, khi biết chắc sẽ được phóng thích, tôi lại viết cho nàng nữa. Tôi nói nếu nàng có người mới, tôi sẽ thông cảm thôi. Nhưng giả sử nàng vẫn chưa có ai, nàng vẫn chờ đợi tôi về thì hãy cho tôi biết. Chúng tôi vẫn sống ở thành phố Brunswick này, và ở lối vào thành phố có một cây sồi thật to, hùng vĩ lắm, ai cũng biết. Tôi bảo nàng là nếu muốn đón tôi trở về, nàng hãy cột chiếc khăn tay vàng trên cây, tôi nhìn thấy và sẽ xuống xe trở về nhà. Còn trái lại, nàng không yêu tôi nữa thì quên chuyện đó đi. Không có khăn tay, tôi tự hiểu và tiếp tục chuyến đi."
"Ôi, cô gái nói, ôi!"
Cô gái kể cho các bạn nghe chuyện và ngay lập tức cả bọn ùa đến khi xe gần tới Brunswick, chăm chú nhìn Vingo cho xem ảnh vợ và ba đứa nhóc - người đàn bà đẹp giản dị, ba đứa trẻ, chưa rõ nét trên tấm ảnh đã sờn.

Còn 20 dặm nữa là đến Brunswick, nhóm trẻ đổ xô về những chiếc ghế cạnh cửa sổ phía bên phải, nóng lòng chờ nhìn cây sồi. Vingo không nhìn ra ngoài nữa, khuôn mặt người cựu tù co rúm lại, cố gượng để khỏi chịu đựng sự thất vọng tiếp theo. Còn 10 dặm, rồi 5 dặm, cả chuyến xe đều im thin thít, ngập chìm trong cõi lặng thinh của xa vắng, của những năm tháng mất mát, của khuôn mặt hiền lành người phụ nữ, của lá thư không mong đợi trên bàn ăn điểm tâm, của bầy trẻ ngơ ngác, của những chấn song sắt lạnh lẽo.

Và đột nhiên, tất cả đều đứng bật dậy, reo hò, la hét, khóc thét, rồi ôm nhau nhảy múa trong nỗi hân hoan, phấn khích. Chỉ trừ Vingo.

Vingo vẫn ngồi đó, sững sờ nhìn ra cây sồi già. Cái cây có treo những chiếc khăn tay vàng, có đến 20, 30 chiếc, có lẽ đến hàng trăm chiếc. Cái cây hiện ra như tấm biểu ngữ chào mừng, cuồn cuộn, phất phơ trong gió, cây biến thành một hình tượng rực rỡ khi xe buýt chạy ngang qua. Khi cả nhóm trẻ vẫn tiếp tục reo hò, người cựu tù binh rời khỏi ghế, vươn mình bước dần ra phía trước xe, chuẩn bị trở về nhà.

Nguồn:
https://nypost.com/2010/02/26/the-post-column-that-sparked-the-yellow-handkerchief/

***

Truyện của Pete Hamill kết thúc ở đó. Tuy nhiên, vẫn còn thứ khác, tạm gọi là

Trở về nhà - ngoại truyện

Pete Hamill cho biết câu chuyện thú vị này anh từng nghe kể. Ít lâu sau, một cuốn phim truyền hình do hãng ABC-TV công bố, lấy tên là The Yellow Handkerchief, "Chiếc khăn tay màu vàng", do diễn viên James Earl John thủ vai người cựu tù binh.

Sau đó, đến lượt Irwin Levine và L. Russell Brown sáng tác bài hát Tie a Yellow ' Round the Ole Oak Tree và lên tiếng cho biết họ nghe kể chuyện này khi phục vụ trong quân đội. Nội dung bài hát tương tự như truyện ngắn của Pete Hamill, chỉ khác ở chi tiết chiếc khăn tay (handkerchief) đổi thành dải ruy-băng (ribbon), có thể để dễ hát hơn.

Bài hát nổi tiếng và được phổ biến rộng khắp rất nhanh ngay trong năm 1973. Pete Hamill đâm đơn kiện hai đồng tác giả xâm phạm bản quyền, biến truyện ngắn của ông thành bài hát mà không xin phép. Nhưng cuối cùng, bài hát được minh oan vì câu chuyện của Pete Hamill thực ra chẳng có gì mới mẻ, nhiều nhà nghiên cứu đã chứng minh nó đã tồn tại rất lâu dưới nhiều biến thể khác nhau. Pete Hamill đành phải rút lại đơn kiện.

Với ca từ rõ ràng và xúc động, giai điệu vui tươi pha lẫn âm hưởng nhạc đồng quê, Tie a yellow ribbon ' Round the Ole Oak Tree đã biến hình ảnh dải ruy băng vàng trở thành một biểu tượng quốc gia. Năm 1980, vụ khủng hoảng con tin ở Iran lên đến đỉnh điểm, dải ruy băng vàng tượng trưng cho sự trở về của 400 con tin người Mỹ, lúc này khắp nước Mỹ đi đâu cũng thấy dải băng vàng treo đầy những hàng cây.

Bài hát đạt tới thành công tột đỉnh qua giọng ca của ca sĩ Tony Orlando và nhóm nhạc Dawn. Ngay trong năm 1973, dĩa thu âm bài hát của nhóm nhạc này đã bán được ba triệu bản trong ba tuần lễ.
Từ đó đến nay, Tie a yellow ribbon ' Round the Ole Oak Tree vẫn tiếp tục là bài hát tủ của rất nhiều ca sĩ, giai điệu của nó vẫn tiếp tục vang lên, như một thông điệp về tình yêu chung thuỷ, về sự mong chờ ngày về của người thân yêu đi xa.

Mời nghe Tony Orlando & Dawn hát:

Tie A Yellow Ribbon Round The Old Oak Tree

https://youtu.be/_dggAQk5peA

.
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)   Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh) Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Bóng hình xưa - A. J. McKenna (Anh)
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Tập Truyện Ngắn Chọn Lọc - Vang Bóng Một Thời
» Tập Truyện Ngắn Tình cảm: Đi Bước Nữa
» Tập Truyện Ngắn Tình Cảm - Tự Lực Văn Đoàn
» Tập Truyện Ngắn Tình Cảm: Một Nửa Người Đàn Ông
» Tập Truyện Ngắn: Có Một Chuyện Tình Như Thế Không?

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon  :: ĐỀ TÀI :: Văn Hóa, Nghệ Thuật :: Văn-
Chuyển đến