Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon

Diễn Đàn của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  GalleryGallery  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Keywords
quynh bich chất ngam Chung ngắn linh chuyen quan quốc trong Nguyen quang nguyet luong nhac Saigon sáng Trung truyện hoang không phải thuoc Nhung VNCH
Latest topics
» qua đi thôi bão nổi
Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSat Mar 11, 2023 3:11 am by Admin

» Cụ Hoang Xuân Hãn
Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSun May 08, 2022 10:37 pm by Admin

» Giáo dục VNCH - Giáo dục con đường khai phóng
Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeMon Jan 10, 2022 4:06 am by Admin

» Suy tư về kiếp người - Về Cùng Cát Bụi
Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSun Jan 09, 2022 4:25 am by Admin

» AI ĐÃ HẠ GỤC CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN?
Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSat Jan 08, 2022 2:41 am by Admin

» NHẠC THIỀN - Cõi Thiền trong Âm Nhạc
Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeThu Jan 06, 2022 4:11 am by Admin

» Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH
Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeTue Jan 04, 2022 3:06 am by Admin

» Tôi Cưới Vợ
Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeTue Jan 04, 2022 2:44 am by Admin

» Giáo sư Phạm Hoàng Hộ
Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeMon Nov 29, 2021 3:05 am by Admin

March 2024
MonTueWedThuFriSatSun
    123
45678910
11121314151617
18192021222324
25262728293031
CalendarCalendar
Affiliates
free forum

Affiliates
free forum


 

 Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà

Go down 
4 posters
Tác giảThông điệp
Admin
Admin



Posts : 161
Join date : 20/10/2011

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeTue Aug 15, 2017 2:28 am

.
Tính Sổ

Bùi Bích Hà

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà 2Q==

Người chủ tiệm tính sổ mỗi buổi tối. Người nội trợ tính sổ mỗi cuối tháng. Người tình hay vợ chồng tính sổ khi chia tay. Công ty thương mại ngoài tính sổ với cổ đông, còn một tính sổ khó thực hiện nhất với lương tâm và công lý về doanh nghiệp thiếu minh bạch. Ðó là vài hình thức tính sổ phù hợp với những ai trong các hoàn cảnh đặc biệt nhưng hành vi tính sổ lúc chung cuộc đời người thì không có ngoại lệ trừ phi người ra đi quá bất ngờ nên chưa kịp chuẩn bị.
Vì vậy, ở tuổi nào thì nên nghĩ tới việc tính sổ đời mình? Hình như cho tới nay, chưa có một tài liệu thống kê nào đưa ra con số cụ thể cho thấy mẫu mực của việc này nếu không là những kinh nghiệm lẻ tẻ nghe được qua câu chuyện truyền miệng lúc trà dư tửu hậu giữa bạn bè.

Bản thân kẻ viết bài này tuy có dặn dò con cháu về cách xử sự khi cuộc hành trình trên mặt đất của mẹ chúng chấm dứt ở sân ga cuối nhưng vẫn chưa một lần nào nghĩ tới tính sổ đời mình, có lẽ vì mơ hồ biết rằng nếu có “lời” thì đã xài lai rai dọc đường rồi mà nợ thì nghe chừng khẳm, rất ngại ngùng phải đối diện.

Lý do khiến tôi mấy hôm nay băn khoăn việc này là vì buổi tối ngày Thứ Hai đầu tuần qua, tôi nhận được email của D. Uyển, vừa trách móc vừa nhắn một tin buồn: “Mi đi mô mà tau điện thoại không trả lời. con khỉ? Thiềm mất rồi.”
Bạn tôi chỉ nhắn đúng 3 chữ, chị biết 3 chữ là quá đủ để tôi rụng rời tứ chi, hồn vía lên mây. Ðịnh thần một lúc, tôi bấm điện thoại gọi Uyển: “Có biết vì sao Th. mất không?” Bên kia đầu dây, tiếng U. rời rạc, như thể cổ họng chị khô rang, cố lắm mới ráp được một câu: “Nghe nói Th. bị cái bướu trên đầu.” Tôi tưởng mình sụm xuống, tan chảy như cây nến nhỏ ai ném vào lửa, thoáng nhanh qua đầu mấy câu thơ khóc vợ của Hữu Loan được Phạm Duy phổ nhạc: “Em ơi, giây phút cuối không được nghe nhau nói, không được trông nhau một lần…”


Ngày xa xưa khi tâm hồn còn như quả bong bóng màu mới bơm căng hơi, như đóa hồng mới nở, như mây sớm trên đỉnh trời, đọc tới câu này, nghe hát mấy câu này, tôi xót xa hình dung nỗi đau của người trong cuộc mà thương cảm ngập lòng. Bây giờ khi chính mình là người trong cuộc, mới thực sự thấm ngấm nỗi bi ai. Tôi thấy tôi ăn ở tệ với bạn quá. Từ khi bạn dọn nhà, tôi không có điện thoại mới của bạn rồi vin vào đấy, tự nhủ: “Không tin tức là không sao!” Tôi để thời gian trôi qua hàng năm, hàng năm, hàng năm. Tự dối lòng hay lười biếng tưới nước một loài hoa mong manh.
Không tin tức là không sao. Ðâu có không sao! Bạn tôi bệnh, đau đớn rồi mất. Tôi không hay biết nên không một lời hỏi thăm, không một lần gặp mặt và cầm tay. Tôi đã dùng thời gian ấy vào việc gì? Ðã dành sự quan tâm ấy vào việc gì? Tôi đã để bạn tôi buồn lòng nghĩ rằng tôi không còn nhớ con dốc Phủ Cam chạy qua cửa nhà chị. Không còn nhớ tô bún bò An Cựu hai đứa đã ngồi ăn dưới dàn thiên lý ở sân trước nhà chị.

Không còn nhớ những lá thư hàng tuần chị ân cần nhờ tôi đem bỏ giùm chị ở bưu điện trung ương trên đường tôi về học, gửi cho một người ở đồi Tăng Nhơn Phú. Không còn nhớ đôi mắt bồ câu thật đẹp với riềm mi mát rượi của chị chớp chớp khi chị cười rúc rích sau tay áo, khoe khẽ với tôi chiều hôm qua chị được tiếp anh lần đầu tại phòng khách nhà chị và dưới mắt bố mẹ. Không, tôi không quên gì cả, càng không quên những ngày sau cùng anh chị và tôi hẹn gặp nhau giữa đường để cùng bay lên Michigan thăm gia đình Cỏ May. Tôi tới trễ. Từ xa, đã nhận ra vẻ bồn chồn, lo âu của chị bên anh và khi tôi đi rảo bước như chạy tới gần, cảm động thấy khuôn mặt phút trước bồn chồn lo âu ấy sáng lên vì vui mừng. Buổi tối ở nhà Cỏ May, ba đứa chụm lại trong phòng khách xem video ca nhạc Thúy Nga, vừa xem vừa chuyện trò râm ran. Vui thế nào mặc dầu, chị vẫn để mắt cái đồng hồ rồi rụt rè nói: “Tụi bay coi tiếp đi nghe, tau vô, sợ anh Th. không quen một mình.” Có hôm sau khi cả nhà đi bộ hóng gió về, ba đứa rúc vào phòng ngủ, nằm ngang trên chiếc giường rộng bằng gỗ quý, nhắc kỷ niệm thời đi học. Chỉ một chốc lại nghe cái điệp khúc quen thuộc của chị: “Tau vô nghe, sợ anh Th. không quen một mình.”


Vì địa dư rộng lớn của nước Mỹ, vì hoàn cảnh sinh tồn mỗi đứa khác nhau, dường như trong thâm tâm cả ba, chúng tôi đành chấp nhận vui với những gì đến trong tầm tay và cất kỹ những gì đã qua vào kỷ niệm. Lần tạm biệt sau cùng, chúng tôi tha thiết hẹn gặp lại nhau nhưng lời hẹn ấy như nước chảy qua cầu. Anh D. chồng Cỏ May bất ngờ qua đời. Thiềm bất ngờ qua đời. Không ai biết lúc nào gió vô tình hay hữu ý khép lại những chương sách đời dở dang. Liệu có bao giờ cơn gió ấy sẽ đưa tôi về với ngôi nhà ở con đường mùa Thu thành Troy để tôi còn được ôm bạn trong tay và khóc những người đã mất ? Ðể tôi lại được ngồi vào bàn, vào ghế như tất cả chúng ta từng ngồi với nhau trong căn bếp nhỏ, rất thật nhưng cũng rất hoang đường?


Kiểm điểm hay tính sổ? Ðể thấy ra chúng tôi nợ nần nhau nhiều quá. Chúng tôi nợ nhau những lời hẹn ước. Nợ nhau những chuyến đi. Nợ nhau những khao khát đợi chờ. Nợ nhau những ngày vui, những nỗi lòng trao đổi. Nợ nhau những mong ngóng không thành. Nợ nhau một lá thư lần lữa, một cú điện thoại cho những điều khó bày tỏ. Ôi, những món nợ chồng chất tháng năm không bao giờ thanh thỏa được nếu không bắt đầu.

Kinh nghiệm mất bạn vào một lúc không ai có thể ngờ khiến chúng tôi hốt hoảng đi tìm nhau trong khoảng không gian năm bảy dặm đường. Hai năm trước (nhanh như một cái chớp mắt) chị tươi mươi đi dự những buổi họp mặt ái hữu. Chị chỉ có vài sở thích: đi chùa, gặp gỡ bạn bè và đeo kim cương. Chị ít nói nên hay cười, tính nết hiền hậu. Bẵng một thời gian vắng bóng chị, hỏi thăm nhân dịp tang lễ Thiềm, được biết chị không đi đâu vì hai chân đau. Ðến nhà thăm, biết ra trí nhớ chị bị sa sút. Chị ngồi trên ghế, walker bên cạnh, khay thuốc trên bàn, đôi mắt trống vắng. Ðừng làm khó chị mà hãy xưng tên rồi hỏi chị có nhớ không thì chị sẽ gật đầu. Chuyện trò một lúc, chị cất tiếng, thong thả, nhỏ nhẹ: “Nãy giờ nghe các bạn nói nhưng không nhớ các bạn nói chi hết.” Vậy là chị biết bệnh của mình nhưng chị không tỏ vẻ buồn giận mà nét mặt yên ả. Lúc bạn bè từ giã, chị theo ra cửa. Chúng tôi vẫy tay, chị cũng giơ tay vẫy trả và vẫy mãi.

Anh là bạn đồng nghiệp với tôi ở trung học NT/Saigon. Thời đó, anh là giáo sư dạy toán trẻ nhất và được học trò các trường công tư quý mến. Ngoài chuyên môn, anh hoạt bát, khẩu khiếu lưu loát và có óc hài hước. Trong đám đông, anh nổi trội, thu hút.
Di tản qua Mỹ biến cố 30 Tháng Tư 1975, anh không đi dạy nữa mà làm việc hành chánh. Chị đẹp, tươi tắn và trẻ hơn anh nhiều. Chị đặc biệt có giọng nói pha chút nũng nịu rất dễ gây thiện cảm. Chị cũng thích thể thao nên đi gym mỗi ngày. Một buổi chiều như mọi buổi chiều khác, chị đang tập bỗng bị một cơn nhức đầu rồi chị êm ái ra đi vì một mạch máu có chỗ bị mỏng (aneurism.) Mất chị hoàn toàn bất ngờ như thế nhưng anh vẫn gượng cười, nói đùa với bạn bè: “Bây giờ tôi không phải giấu thuốc lá nữa!” Tuy vậy, từ đấy sức khỏe của anh hao hụt dần rồi tới một lúc anh đi lại phải dùng walker. Những năm sau này, anh không đến với cuộc họp mặt ái hữu thường niên của trường NT nữa vì không tiện di chuyển. Ngày xưa, thầy đến với lớp, vỡ đất, gieo hạt. Giờ đây, các học trò cũ đem lớp đến với thầy, hoa trái tốt tươi. Thời gian đã làm việc thật sự có ý nghĩa cho cả thầy lẫn trò. Họ đã thay nhau giữ quả bóng kiến thức và tình người ở vị trí đẹp nhất của nó trên sân chơi của nhà trường và cuộc đời.

Cuộc họp mặt lần đầu, lần thứ hai với anh, cách nhau khoảng một năm, chỉ quy tụ trên dưới chừng mười người vừa thầy, cô vừa trò, xúm xít quanh cái bàn ăn rộng lỉnh kỉnh thức ăn mỗi người góp một món. Vậy nhưng tiếng nói, tiếng cười vẫn rộn rã bay lên và buổi trưa qua rất nhanh trong ngôi nhà ban ngày thường vắng vẻ vì người lớn đi làm, trẻ con đi học. Năm nay, đáp lời kêu gọi của nhóm tổ chức, con số 10 nhân lên gấp ba, gồm thêm nhiều thầy cô giáo cũ có lẽ cũng băn khoăn “tính sổ” như tôi.

Chỉ vài ngày nữa là đến hẹn. Tôi hình dung ra khu vườn nhà anh mùa Hè lung linh nắng, khói lò nướng như mây xuống lưng chừng không gian, giăng mắc trong những khóm lá xanh và 30 người từ một quá khứ đã ít nhiều tàn phai có dịp quay lại đốt trầm hương cũ, nhớ một thời đã qua và sẽ là như thế mãi mãi trong tâm tưởng của nhau. Anh sẽ vui lắm, sẽ không cay đắng và chua chát dẫu sau cùng, chỉ còn anh đối bóng mình trong hoàng hôn tịch mịch giữa khu vườn này mà anh sẽ lây niềm tự hào với câu nói của tướng MacArthur: “Các cựu chiến binh không bao giờ chết, họ chỉ tan hàng thôi!” Trên mặt trận văn hóa, lực lượng giáo chức là những chiến binh phục vụ đất nước và dân tộc bằng những cống hiến bền bỉ của họ. Mở mang bờ cõi hay mở mang trí tuệ, người chiến sĩ ở cả hai phòng tuyến để lại dấu ấn của họ dài hơn một chu kỳ sinh diệt của nhân gian và sẽ không đi vào quên lãng.

Chao ôi, “tính sổ” cũng cần nhiều thời gian mà bây giờ tôi mới chỉ bắt đầu, đành cố gắng thôi!

Bùi Bích Hà
Về Đầu Trang Go down
https://thntsaigon.forumvi.com
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeTue Aug 22, 2017 9:10 pm



Tuổi Già

- Bùi Bích Hà



Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Images
Photo: Peter Levitan

Các cụ bà, tuổi trên dưới 80, thể lực tương đối tốt. Nghĩa là không có bệnh gì ngoài bệnh… già. Nghĩa là cơ thể nhức mỏi ở nhiều chỗ, thường xuyên bị vọp bẻ, ở chân, ngón chân; ở bàn tay, ngón tay, mà các cụ mô tả là có lúc đau thót ruột, vã mồ hôi. Tuy nhiên, các cụ tặc lưỡi, cười gượng: “Ôi, vậy nhưng cũng chẳng sao, chỉ muốn hỏi cô câu này: chúng tôi buồn, rất buồn, tuy biết buồn sẽ hại đến sức khỏe. Khó ngủ, không muốn ăn và ăn thì khó tiêu, lại phải uống thuốc hay uống Seven Up hay Perrier. Cô làm việc xã hội, gặp gỡ nhiều người, xin nhờ cô hỏi giùm các cụ nào may mắn có cuộc sống tuổi già an vui, xin mách bảo giùm, chúng tôi cám ơn lắm.”

Nghe các cụ hỏi, tôi giật mình, sửng sốt, sực nhớ chính tôi chừng một năm đổ lại đây, bận bịu là thế nhưng cũng có lúc cảm thấy thật buồn. Hỏi lại các cụ: “Các cụ có đi chùa hay nhà thờ? Có đi tập dưỡng sinh, tài chi, tập khiêu vũ thể dục? Có làm vườn, trồng hoa, trồng quả, trồng rau thơm để nhà sẵn, đỡ phải mua? Có họp mặt bạn bè, hát hò, chuyện vãn, ăn quà, đánh bài? Có đi sòng bài kéo máy, xem chương trình, ăn buffet? Có coi phim tập Nam Hàn hay Ðài Loan? Có đi mua sắm thử quần áo cho vui mắt? Có đến các trung tâm cao niên để giải trí, đến viện dưỡng lão để thăm nom người đi trước và ngắm nghía cho mình, phòng khi? Có đi xoa bóp, làm skin care để thư giãn thân tâm? Có sử dụng máy điện toán, iPod, iPad để đọc tin, đọc điện thư, nghe nhạc, chơi games? Có đi du lịch một, hai, ba ngày, đường bộ hay đường thủy, để thưởng ngoạn phong cảnh trời xa, xứ lạ và cũng để biết nhớ nhung căn nhà của mình hơn?” Nghe hỏi, các cụ lắc đầu, cười hiền hòa: “Không thử hết thì cũng gần hết món cô hỏi rồi, phát chán mà buồn vẫn không nguôi. Chỉ còn uống rượu nữa thôi nhưng chúng tôi ai uống được thì cũng không uống đến say, chỉ cạn ngày một ly vang nhỏ vào bữa ăn chiều cho dễ ngủ tuy hiếm có đêm thẳng giấc tới sáng lắm. Nó nhức chỗ này, mỏi chỗ kia, thỉnh thoảng chuột rút chân tay cong queo, đau quắn ruột mà cắn răng chịu chứ kêu ai và ai làm gì được?”

Tôi rụt rè hỏi thêm: “Thế các cụ ông thì sao ạ?” Các cụ bà đưa mắt nhìn nhau rồi cùng mỉm cười: “Ấy, quả là hoàn cảnh có khác nhau nên tuy không cố ý, chúng tôi hầu như thuộc hai nhóm riêng biệt, chỉ gặp gỡ trong các dịp quan hôn tang tế hay hội hè cộng đồng chứ không sinh hoạt thân cận để biết mà trả lời cô. Có lẽ các cụ nào Trời cho còn đủ đôi, có khi lời qua tiếng lại cũng đỡ cô đơn.”

Chao ôi, tôi đoán các cụ có đọc thơ tình của thi sĩ Xuân Diệu thời lãng mạn: “Ðược giận hờn sung sướng biết bao nhiêu!” Thi sĩ “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” nên nói thế, giận hờn triền miên, cũng hại sức khỏe không kém buồn một mình!

Qua giao tế cũng như tin tức trên mạng, tôi được biết tuổi già của các cụ ông trong thời đại tin học dễ chịu hơn hẳn các cụ bà. Phần đông các cụ ông còn lái được xe ở tuổi trên dưới 80 nên vẫn giữ được thói quen cà phê cà pháo, rong chơi bạn bè, uống bia, bàn luận thời sự quanh bàn mạt chược hay cỗ bài xì phé. Cụ nào thể lực tốt còn đi gym tập thể dục, tắm hơi. Có cụ đánh quần vợt hay đánh golf. Nhiều cụ tham gia việc xã hội, đoàn thể hay cộng đồng, họp hành, viết lách, tranh cãi liên miên. Về nhà, các cụ có ngay cái computer làm bạn, kết nối năm châu bốn biển, giúp các cụ có thêm nhiều mối giao tiếp mới và nhiều chương trình hành động mới. Các cụ nào nhất định gác kiếm nghỉ hưu, lánh mình khỏi chốn đua chen danh lợi nhưng chưa cảm thấy mỏi mệt thì ghi danh học vẽ, học hát, học chụp hình, học điêu khắc, học bất cứ môn nào theo sở thích và năng khiếu trời cho mà thời trai trẻ chưa có cơ hội thực hành. Ði học mà không bị áp lực mưu sinh thì nhà trường là nơi lui tới lý tưởng vì nó giúp mở mang kiến thức và… chậm lão hóa. Tin tức đó đây cho biết không ít trường hợp ông nội hay ông ngoại áo mão tốt nghiệp đại học cùng với các cháu.

Nói tóm lại, do tính năng động và vai trò quyết định của nam giới, các cụ ông có nhiều phương cách để thoát ra khỏi sự bế tắc trong cuộc sống hơn các cụ bà, giản dị nhất là lấp đầy được những khoảng trống thời gian của tuổi già.

Nhớ lại hai thập niên trước, thời tôi còn đi làm ở hãng B, mấy cô em trẻ biết các con tôi đã trưởng thành và tôi sống một mình thì hay tò mò hỏi: “Chị ơi, có bao giờ chị cảm thấy cô đơn vào buổi tối không chị?” Tôi thành thực trả lời: “Các cô tin hay không nhưng sự thật chị không có cả thì giờ để biết mình vui buồn thế nào? Ngưng tay là để đi ngủ vì hôm sau phải dậy sớm đi làm.”

Cho tới bây giờ, tuy tôi đã có đôi lúc rảnh rỗi và nhớ lại bạn cũ, chuyện cũ nhưng chỉ để cười một mình, cảm động vì sự quan tâm của bằng hữu, đồng nghiệp song cũng muốn họ biết tôi không hề thấy mình cô đơn vì tôi luôn có một ký ức sống động với đông đảo những người tôi từng quen biết. Tôi luôn có một ai đó để nghĩ về, một quãng đời nào đó để sống lại, ngay cả một tôi thời bé dại với những trò chơi trẻ con ngờ nghệch đến tội nghiệp.

Tuy nhiên, như viết ở phần trên, chừng một năm đổ lại đây, thỉnh thoảng có những giây phút tôi buồn. Ðối với tôi, nỗi buồn rất lạ, vì tôi cảm nhận nó lần đầu và bất ngờ. Tôi chợt nhớ ra và làm một con tính nhẩm: so sánh với tuổi thọ của cha mẹ, nếu được may mắn như hai cụ, tôi cũng chỉ còn 10 năm nữa để sống. Mười năm của tuổi trẻ như bình minh ở phương Ðông. Mười năm của tuổi già như nước chảy trong chiếc bình cạn úp ngược, là một chớp mắt bằng với thời gian tôi nghỉ hưu cho tới nay. Nghĩa là rồi cũng như cha mẹ, một cách nào đó, tôi sẽ phải lìa bỏ con cháu, bạn bè, thân hữu, độc giả, thính giả, ngôi nhà có chậu mai vàng, những gốc hồng rực rỡ cười chào tôi ngoài cửa sổ mỗi sớm mai, những con đường thân quen từng ngã ba, ngã tư, những công việc đang làm dở dang.v.v…

Thế nhưng, tuyệt nhiên nỗi buồn không phải vì những gì tôi đã biết nằm trong thân phận mình. Có lẽ đó là nỗi buồn trước giờ chia tay của mọi cuộc hành trình, và, như lời một bản nhạc, “người đi có bao giờ vui?” Càng thấm thía hơn trước chuyến đi dài nhất, không hẹn quay về…

Nên, nhớ lại mà thương cha, thương mẹ vì 50 năm trước, 30 năm trước, tôi nào hiểu tâm tình của cha mẹ như giờ đây tôi hiểu chính mình, rất muộn màng. Những buổi chiều mùa Hè nắng nhạt, bố tôi chống gậy ra cổng, đứng nhìn mọi người qua lại. Những đêm mùa Ðông khuya muộn, bố ngồi ở cầu thang nhìn tôi học bài, làm bài, hỏi tôi trước khi quay lưng: “Con không cần gì thầy chứ? Thầy đi ngủ nhé?” Ở Mỹ, mẹ tôi ngồi bên cửa sổ hằng chiều, đợi tôi và các con tôi từ sở làm, từ trường học về, “đôi mắt lặng buồn, nhìn thôi mà chẳng nói.” Tuổi 50, tôi vẫn chưa hiểu gì, vẫn chưa biết thế nào là biệt ly, từng ngày, từng giờ. Trong lặng thầm. Không một tiếng động khẽ. Trên đôi môi khô héo. Trong đôi mắt nhập nhòa giấu lệ.

Nên, bây giờ tôi hiểu nỗi buồn của các cụ. Không tiếc đời mình mà tiếc những chia tay.

Các cụ hỏi “Làm gì cho bớt buồn?” Tôi xin chuyển câu hỏi đến các bạn trẻ may mắn còn cha mẹ. Tôi biết cuộc sống cam go, bận rộn ở nơi này như cơn lốc cuốn các bạn vào bụi mù như đã cuốn tôi một thời nào. Ðừng giận. Cho phép tôi nhắc. Một vòng ôm. Một ánh mắt. Một lời hỏi han. Cái khăn quàng. Ðôi vớ. Chiếc bánh. Bông hoa hái từ vườn nhà. Bất cứ cái gì trong tầm mắt, tầm tay bạn. Từ tấm lòng quan hoài của bạn. Là câu trả lời làm nên phép lạ trong tuổi già (không dài) của cha mẹ mà tôi thật tiếc không bao giờ còn cơ hội.

Tin tức từ trang mạng newamericamedia.org cho biết, theo các chuyên gia về bệnh tâm thần làm việc sát với giới cao niên và cả trung niên thuộc cộng đồng người Việt chúng ta, vấn đề trầm cảm có khuynh hướng gia tăng trong số các cụ hiện sống tại Little Saigon, Orange County, tuy con số bệnh nhân vượt qua trở ngại tâm lý, chịu khai báo để nhận được sự chữa trị, chưa phản ảnh hoàn toàn thực tế. Một cuộc thăm dò cá nhân không chính thức đưa ra nhận định có tới 90% quý cụ cao niên (không rõ con số nam nữ) sử dụng Internet hàng ngày để đọc tin, trao đổi chuyện trò với thân nhân và bằng hữu, vừa giúp họ cảm thấy bớt lẻ loi, trống vắng, dễ đưa tới suy sụp tinh thần, vừa cải thiện trí nhớ của các cụ một cách đáng kể. Một cụ ông được trích dẫn lời phát biểu như sau: “Tôi gõ (bàn phím) để tự mình trau giồi thêm kiến thức, để tự học hỏi, để tự mình giải khuây, để khỏi nghĩ quẩn, để khỏi bị trầm cảm, để khỏi bị bệnh Alzheimer’s, để thoát ly và cũng để giảm bớt ưu phiền trong cuộc sống, v.v…”

Riêng với các cụ bà, ngoài sử dụng Internet để giữ liên lạc với con cháu/thân nhân/bạn hữu xa gần và để giải trí, còn nhiều thú vui giản dị khác, rất dễ thực hiện miễn các cụ giữ được cái tâm an tịnh để có thể mở lòng ra “vui từ mỗi lẻ loi…” Ðời sống luôn dài hơn kiếp nhân sinh ngắn ngủi nên đời sống không thiếu những chân trời mới để khám phá và khám phá khua thức nơi chúng ta niềm vui: một khoảnh đất nhỏ ở vườn sau, thậm chí vài cái hộp gỗ để sát tường mảnh sân ngăn với hàng xóm phía trước cũng cho chúng ta những bông hoa mới hay những liếp rau mới. Báo nào bây giờ cũng có công thức nấu nướng những món ngon, dễ làm, quý cụ còn trí nhớ minh mẫn, không bị con cháu giới nghiêm, có thể bày ra làm để con cháu (và cả vài ba người bạn thân) có cớ gần gũi, vui đùa bên nhau. Nhìn kỹ, đâu đó trong nhà vẫn luôn có thể thêm bớt một cái gì đem lại vẻ mỹ quan: chậu lan đang nở, bức tranh màu sắc tươi, cái khăn lau tay máng ở cửa bếp lò có hình con gà thật đẹp vì đang là năm Ðinh Dậu, v.v… tha hồ đề tài cho bà cháu cùng nhau ngắm nghía, chuyện trò… Ngay cả một cái hẹn (ngoài hẹn với bác sĩ) để la cà với bạn bè cũng làm cho các cụ hào hứng mong đợi, trái tim có chút rộn ràng,…

Ngụm nước khi khát, ngụm rượu khi buồn, một chút tưởng tượng thần tiên làm nên những phút giây đáng giá, chẳng nên lắm sao?
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSat Aug 26, 2017 8:55 am

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Images?q=tbn:ANd9GcRBJ_Plsf7MNItNCVu8D8aId4_YhoLAaqoszmXpF-snKBJAjA1R

** Chiều tà - Enrico Toselli - Mai Hương
https://www.youtube.com/watch?v=wYEHY2Zs94U


** Giòng Sông Xanh (Le Beau Danube Bleu) – Thái Thanh
https://www.youtube.com/watch?v=wYEHY2Zs94U



Thiền với Âm Nhạc

Bùi Bích Hà


Câu nói nghe được trong một tiệm ăn trên đường Bolsa: “Sống ở Bolsa mà không biết thiền thì chỉ có chết.” Thời gian này, khắp mọi nơi, mọi lúc, dường như mọi người nhắc đến chữ “thiền” hơi nhiều. Chỗ này mở lớp, chỗ kia hội luận, bạn bè trao đổi sách báo, rỉ tai, bàn tán, mách nước, chia sẻ kinh nghiệm. Mọi người ra công tầm sư học đạo. Ông đi thiền. Bà đi thiền. Anh đi thiền. Chị đi thiền. Đệ tử môn Thiền bảo nhau tập ngồi kiết già. Ai ngồi chưa quen, chưa được, thì ngồi bán già. Tập bắt quyết. Tập nhắm mắt tập trung vào một điểm, ví dụ ở giữa hai đầu lông mày. Tập kiểm soát hơi thở vào, hơi thở ra. Bằng cách này, cố xua đuổi mọi ý nghĩ lộn xộn trong đầu về cuộc sống xô bồ bên ngoài nhằm tạo khoảng trống cho cái tâm cần an tịnh. Cho dù có xua đuổi được hết, chắc vẫn còn lại cái ý “muốn thiền?” Hễ đã “muốn” là có lo âu: lo không thành công, lo thất bại, lo tẩu hỏa nhập ma.

Quay cuồng với vận tốc thời gian dường như tỷ lệ nghịch với ước muốn thành tựu bên trong bản thân, mọi người cảm thấy áp lực của những điều bất như ý dày xéo tâm can, thúc bách, trói buộc, khiến cho ngộp thở nên phải tìm chỗ thoáng khí, mong xả bỏ bớt và người ta tìm đến thiền, cõi không giữa chợ đời nhộn nhịp.

Vậy, căn bản của thiền là để xua đuổi tạp niệm, xả bỏ những cái phiền trược nó quấy nhiễu thân tâm con người cần sự an lạc đặng tồn tại. Cái cây động gốc thì lá rụng, cành héo dần, thân chết từ từ. Thế nhưng, khuynh hướng chung của con người là “lấy vào” (càng nhiều càng tốt) thay vì bỏ ra (càng ít càng tốt). Bao lâu mâu thuẫn này chưa giải quyết được trong tỉnh thức, làm sao giải quyết bằng thiền, được cầu viện như một giấc ngủ ngắn?

Không sợ hãi, không tham lam, không ham muốn quá độ, không sân si, bình thản trước những cái đến và đi trong đời (như cơn gió thoảng), cảm nhận được hạnh phúc trong từng nhịp tim khỏe mạnh (là phước báu lớn nhất của đời người), cảm nhận được tình thương bao la của đất trời ban tặng cho thế gian (với bao điều kỳ ảo), cảm nhận được sự cần thiết có nhau trong nhân loại (để vun xới sức mạnh chung)… Đó thực sự là chìa khóa mở cửa vào cõi thiền trong từng giây phút tồn sinh của kiếp người.

Thiền chính là trạng thái tự do tuyệt đối của tâm linh, không bị khống chế bởi thất tình lục dục. Như vậy, thiền thể hiện trong mỗi sát na vươn lên trong đời thường, giản dị như hơi thở, không cần phải tìm đến chỗ thanh tịnh, không quá hình thức đến phải ngồi kiết già hay bán già và bậc thầy cao minh hướng dẫn không ai khác hơn là ý thức tu tâm dưỡng tánh trong tự thân mỗi người, nhằm giải thoát mình khỏi sự kiềm tỏa của dục vọng vốn tiềm ẩn bên trong như một thứ ký sinh.

Đi qua phố phường đông đúc lao xao, tâm thiền định nhẹ nhàng, trong sáng, không động, không bị cuốn hút, tất thị hiện khả năng chuyển hóa trong tự thân. Cho nên tập thiền, trước hết là tập buông bỏ cái ngã.

Nói tới hai chữ “buông bỏ,” chúng ta cũng thường nghe nhiều người nhắc nhở như một thứ kinh nhật tụng, thậm chí như mật chú có khả năng đem lại an vui tức thì. Tuy nhiên, câu hỏi là bao nhiêu người thực hiện được ý niệm tưởng như gắn bó thiết thân với người nói ấy hay cũng chỉ như làn hương thoảng, cơn gió bay, nghe qua rồi bỏ trong khi nhiều cái cần bỏ khác sao khó bỏ quá mà cứ muốn ôm khư khư? Thời đi học, thầy cô giáo dạy làm đủ mấy phép tính căn bản: cộng, trừ , nhân, chia, thứ tự trước sau đọc lên nghe êm tai nhưng còn bé quá, đâu có thắc mắc gì? Lớn lên, có lúc nghĩ ngợi tẩn mẩn, tự hỏi sao tính cộng đi trước nhỉ? Đi trước hay đi sau chẳng sao, miễn là cộng xong thì phải trừ. Cổ nhân đã dạy: lộc bất khả hưởng tận, có lợi lạc nên biết cho bớt đi. Thứ nhất, để hưởng niềm vui trong mắt người khác và có chút phước đức bỏ quỹ tiết kiệm. Thứ hai, để tránh sự không vui theo sau do luật bù trừ. Hưởng lộc lớn quá theo cấp số nhân thì cũng nên chia theo cấp số nhân. Có tiếc xót thì hãy nhủ lòng: còn hơn nếu bị lấy đi… một cách không mấy êm dịu. Các ngài Warren Buffet, Bill Gates là những bằng chứng hùng hồn, tầm cỡ hiếm hoi song còn vô số những người biết cho ở tầm cỡ nhân gian làng nhàng xung quanh chúng ta, chum vại nhỏ thôi nhưng đầy vơi êm ả.

Hóa ra bốn bài tính vỡ lòng sơ sài ấy chi phối cả cuộc đời con người, nào phải chỉ loanh quanh mấy cái hóa đơn?

Bỏ của đã khó thế, bỏ cái “ngã” hay chính mình còn khó tới đâu! Bỏ của, cùng lắm chỉ bâng khuâng tiếc. Bỏ chính mình, còn gì? Mất hết, sao được! Đâu có mất hết, chỉ như người nặng cân, cần bỏ mỡ thừa cho nhẹ bớt để khỏe và đẹp hơn thôi mà! Nghĩ được thế, biết được thế, tin được thế thì sẽ không tiếc nữa, cũng không sợ hãi mà tâm thế bỗng lâng lâng, tựa như con thuyền đi trên sông lớn, chở vừa, không chở khẳm phòng khi giông gió. Tạo hóa sinh ra con người, ngoài lương thực, còn cho con người có khả năng thích nghi để tự tồn, mỗi ngày mỗi khôn ngoan, tinh tế hơn, chỉ phải cái tội con người chủ quan, tự hào mình cao cơ hơn đấng sinh ra mình, có thể luồn lách đi con đường khác và vẫn an toàn về tới đích. Máy định vị (GPS) thời buổi văn minh có khi nói lèm bèm, hướng dẫn sai lạc nhưng GPS của ông Tạo tuyệt đối hoàn hảo. Khiêm nhường, chịu khó lắng lòng và lắng nghe, sẽ thấy toàn giai điệu.

Người Mỹ thường nói: “Hãy xâu chân vào chiếc giầy của người khác,” ngụ ý đặt mình vào chỗ của người khác, mà suy nghĩ, mà cảm thông và phát biểu. Trịnh Công Sơn viết những ca từ đáng suy gẫm: “Đừng tuyệt vọng, em ơi, đừng tuyệt vọng. Tôi là em mà em cũng là tôi.” Bi kịch của con người ở sự hoang tưởng mình không giống ai mà luôn hay hơn, khá hơn. Chung cuộc, chỉ có một sự thật đúng nhất: “Lại thấy trong ta hiện bóng con người.” Hình như lấy “ta” làm chuẩn khiến câu viết dễ nghe hơn! Nhiều “ta” gộp lại, nhiều cái “ngã” nhỏ (tiểu ngã) hòa tan làm thành cái NGÃ lớn (đại ngã). Khi lớn tới vô biên (vô ngã), những biên giới chật chội giam hãm con người trong cọ sát, ganh ghét, thù hận, khổ đau, không còn nữa, kể cả ý niệm về sự sống/sự chết, về lúc bắt đầu và lúc kết thúc. Mơ ước này từng được nhạc sĩ Phạm Duy chia sẻ trong Tâm Ca số 3: “Ngồi gần, ngồi gần nhau đây đó chung quanh địa cầu. Ngồi gần, ngồi gần nhau trong kiếp xưa, trong đời sau. Ngồi gần ngồi thật lâu, cho đến khi hai ngọn đầu thành một người trong nhau nguyện cầu…” Như thế, thử đoán xem bao lâu nhân loại mới có thể tan vào nhau sau vô lượng kiếp đã biết ngồi gần? Vậy nên chúng sinh vẫn cứ khổ đau triền miên.

Những suy gẫm trừu tượng nêu trên tưởng như xa vời, vô nghĩa. Cuộc đời, ngẫm cho cùng, há chẳng phải là sự vô nghĩa lớn nhất hay sao? Triết lý hiện sinh cổ võ hạnh- phúc-trong-từng-phút-giây-hiện-tại bùng nổ thập niên 1960 ở Âu châu bị văn hóa truyền thống chê là phóng túng, mãi sau này mới được tán thưởng khi nhịp sống văn minh ngày càng gia tốc, biến động ngày càng khó lường, kiếp người trở nên quá đỗi mong manh.

Cuối cùng, người Mỹ có bài hát It’s now or never. Thi sĩ Ngô Tịnh Yên có bài thơ được nhạc sĩ Trần Duy Đức phổ nhạc và rất nhiều người yêu thích Có yêu tôi thì xin hãy yêu ngay bây giờ, đừng đợi ngày mai. Tín đồ Phật giáo biết quý trọng mỗi sát na trong hiện tại vì trước hay sau đều là huyễn mộng. Cho nên, ngoài phương pháp Thiền để tạm xa lánh cõi trần gian phiền trược, liệu có nên theo đuổi một phương pháp thiền khác khuyến khích con người hồn nhiên tận hưởng mỗi phút giây hiện tại bằng sự chắt lọc tinh hoa của từng phút giây ấy? Cho dẫu thể xác gông cùm, hồn phách vẫn ngao du sơn thủy, được không? Cho dẫu chúng ta bề ngoài có khác nhau điểm này/điểm nọ, tựu trung, chúng ta vẫn cần những cái khác ấy được bổ sung vì trong sâu xa, ai cũng thiếu cái người kia thừa và ngược lại.

Sau một ngày làm việc mệt nhọc, những trao đổi khó khăn, buồn nản, những giấy tờ vô cảm, những con người là hiện thân của phiền lụy, đẩy cánh cửa kính nặng bước ra bãi đậu xe, cả khuôn mặt mát rượi trong làn gió chiều lướt qua khoảng sân mênh mông, cả tâm hồn như bụi hoa hổ ngươi phơi phới bung mở, lòng thầm kêu Chao ôi là sung sướng! Ngồi vào xe, máy nổ ngoan hiền, CD nhả ra tiếng hát không chuyên nghiệp lắm của người bạn tự thu giọng hát mình để vui chơi và tặng bạn bè. Chị biết tôi thích bản Come back to Sorrento, lời Việt của Phạm Duy, nên thu nguyên một đĩa cho tôi. Có tấm lòng đầy cảm xúc, có nỗ lực trau chuốt từng âm thanh lụa là, cao thấp thả buông, gởi ra trong tiếng hát còn tươi mát riêng mình của chị gọi lòng tôi muốn chạy theo, cùng tan vào cuộc chơi trên những dây tơ vàng thánh thót nắng mưa xuân.

… Đâu tiếng đàn ngoài hiên mưa? Và đâu bướm tơ, vui cùng mùa? Một mùa Xuân mới, mắt êm nắng hào hoa. Về đây nghe tiếng hú hồn mê oan. Về đây lắng trầm khúc nhạc truy hoan. Về đây nhé! Cắm xong chiếc thuyền hồn, Ôi thoáng nghe dây lòng tiếc đờn...

Dường như là một trở về với ngôn ngữ buồn vui hoang mang của người nghệ sĩ viết lời nhưng trong thần trí tôi, mỗi bước chân trở về mái nhà xưa dù nay không còn nữa, vẫn mãi là mỗi bước hân hoan.

… Mái tóc nhà lưu luyến vạt trăng xanh. Nếu mưa về yêu lấy hạt long lanh. Chờ mong nắng cho tươi đời xuân xanh. Người xa vắng biết đâu nấm nhà buồn. Đốt ánh đèn in bóng vào rêu xanh. Sẽ thấy cười tan vỡ hồn đêm thanh…

Đêm xanh biếc đàn đi trong không gian im ắng, tắm gội tâm hồn tôi trong niềm hạnh phúc không tên tuổi, không nguyên do, tràn ngập, đầy ắp, như không khí tôi đang thở từ cuộc sống tự nó trong trẻo, hồn nhiên và tự nó đầy thiền vị.

Bùi Bích Hà


https://www.youtube.com/watch?v=KgIuiW5qDUY
Trở Về Mái Nhà Xưa (Torna a Surriento)


Được sửa bởi NTcalman ngày Sun Nov 18, 2018 9:04 pm; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeWed Sep 20, 2017 1:48 pm

.
https://www.youtube.com/watch?v=kDiXWzW_8Eg
Hoa Ơi Có Biết Lòng Ta Nhớ Người

Âm Nhạc Và Trái Tim
Bùi Bích Hà


Vừa rời khỏi dòng người xếp hàng rồng rắn trước các cửa sổ phục vụ khách hàng, bận rộn vào giờ tan sở chiều thứ sáu trong ngân hàng Wells Fargo, đầu óc còn váng vất hình ảnh những bàn tay lăm lăm cầm tấm chi phiếu trả lương cho cả tuần làm việc (không bao giờ kịp ấm túi,) những khuôn mặt âm u, những đôi mắt bồn chồn nhìn vơ vẩn ra xung quanh chờ đến lượt, tôi ngồi vào ghế lái chiếc xe hơi nhỏ mới khởi động, ngạc nhiên một cách dễ chịu khi nghe tiếng hát Ý lan chợt cất lên từ đài phát thanh: “… Người dẫu xa, tình thiết tha, hoa ơi có biết lòng ta nhớ người?” Bài hát nghe lần thứ hai, vẫn chưa biết tên tác giả, đánh thức trí nhớ tôi chập chờn ngủ quên hơn mười năm qua, cho tôi thấy lại giữa những giòng xe xuôi ngược trên con đường Harbor đông đúc chiều cuối tuần, khung cảnh khi tôi nghe đúng câu này lần đầu. Thời gian ấy, tôi mới dọn vào căn chung cư trên đường Garden Grove. Đêm hôm đó, tình cờ thấy mình đứng trước cửa sổ phòng ngủ không kéo rèm, ngước nhìn lên bầu trời trên cao trắng đục màu sữa loãng, chơi vơi một vầng trăng tròn lạnh băng màu nguyệt bạch, lòng bỗng dưng nghe ra chừng như thiếu vắng một người.


Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Tranduyduc-hoangkhainhan-content
Nhạc  sĩ Trần Duy Đức (Hình Hoàng Khai Nhan)

Đêm sâu hút vì không gian tuyệt đối thinh lặng. Những tán lá phong đứng yên không động cựa và ánh trăng mênh mang, lạnh lẽo, như một nỗi buồn hóa đá… Hoa ơi, có biết lòng ta nhớ người? Hóa ra, âm nhạc là tiếng nói của thân phận. Khi phóng chiếu về tương lai, nó vẽ ra những giấc mơ thần tiên. Khi la đà quay về vùng trời quá khứ, nó là một thứ hồi quang làm sống lại một kỷ niệm, một quãng đời nào đó gắn bó với người nghe. Cho nên, âm nhạc là một hạnh phúc ngọt ngào, một khổ đau êm ái được hát lên và không thể thiếu trong đời sống nhân gian. Tuổi nào cũng yêu mê và đón đợi âm nhạc. Của một bắt đầu long lanh huyền thoại. Của một kết thúc dù buồn vui cũng đẹp như cổ tích. Âm nhạc sống giữa loài người và sống lâu hơn đời người. Nhiều thế hệ nhạc sĩ sáng tác làm nên tuổi xuân bất tận của âm nhạc. Nhiều thế hệ người hát nối tiếp nhau thắp ngọn lửa không bao giờ tàn của âm nhạc. Hí viện không bao giờ ngưng bán ra những lượt vé và “những con ma trong nhà hát” không bao giờ thôi ám ảnh người nghe.

Vợ chồng nhạc sĩ Trần Duy Đức - Nguyệt Hạnh


Tuần lễ trước đến chơi với con cháu, cô con gái hào hứng hỏi mẹ: “Mẹ đã nghe Tùng Dương hát bao giờ chưa?” Lục lọi thật nhanh trong trí nhớ, không thấy tí tăm hơi nào về hai chữ Tùng Dương, con người hay chỉ nghệ danh. Lắc đầu. Cô càng hào hứng: “Mẹ chờ chút, con cho mẹ xem.” Lúc sau này, tôi hơi lấn cấn về hai chữ “nghe” và “xem” khi ai đó nói với tôi về âm nhạc. Loay hoay mãi mới nghiệm ra câu trả lời cho mình. Người ta thường nói “Đi xem đại nhạc hội” và “Đi nghe nhạc thính phòng.” Rất rõ ràng. Đi “xem” phải mở to hai mắt nhìn tả hữu, thưởng thức ngoại hình, trang phục, các động tác của người trình diễn kể cả người phụ diễn và cảnh trí sân khấu. Đi “nghe” hát thì nghe là chính. Mỗi thính giả là một ốc đảo, có khi mắt nhắm lại để tâm hồn nương theo tiếng hát, tìm về một không gian, một cuộc tình, bốn mùa xuân hạ thu đông, một ngày nắng, một chiều mưa, một bến tàu, một sân ga, một gặp gỡ, một chia tay, ôi thôi, biết bao cảnh ngộ trong đời mà người nhạc sĩ sáng tác đã sống qua, đã sống giùm để thể hiện giùm, để người ca sĩ hát lên những riêng tư mà cũng rất chung ấy, những khoảnh khắc thời gian mong manh mà cũng thiên thu ấy, để cái sân khấu nhỏ của mỗi thính chúng buông màn đã lâu, sống lại trên cái sân khấu lớn ấm áp đèn màu và giai điệu… Nhạc sĩ và ca sĩ được nhân quần ưu ái vì sự hy sinh chấp nhận mình bị tan biến trong cảm xúc tuôn trào của người nghe. Họ không là ai cả nếu không là những nốt nhạc, là tiếng hát đem theo nó những ve vuốt, những thổn thức, những nhớ thương tràn trề như cơn giông mùa hạ tắm gội ký ức; như cơn mưa mùa thu nhỏ giọt hàng hiên xoáy vào kỷ niệm; như cơn lũ cuốn trôi mọi ưu phiền sau một thời kinh Bát Nhã hay một buổi dọn mình xưng tội và được giải tội trước tòa.


Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Tranduyduc-nguyethanh
Nguyệt Hạnh và Nhạc sĩ Trần Duy Đức (trái)

Một hôm, chuông điện thoại reo. Đầu giây bên kia là tiếng nói của Nguyệt Hạnh kèm với tiếng cười nhẹ: “Chị H. ơi, chị tệ thì thôi, làm sao mà chị không nhớ tác giả của bản nhạc “Hoa ơi có biết lòng ta nhớ người?” Tôi thấy ngực nhói khẽ, thảng thốt: “Vậy là anh Đức ư?” Nguyệt cười thành tiếng, có chút mãn nguyện: “Anh Đức phổ thơ Nguyễn Dũng Tiến đó chị!”

Tôi biết nhạc sĩ Trần Duy Đức, chồng Nguyệt Hạnh và Nguyệt Hạnh ngoài 20 năm, cũng từ một buổi nhạc thính phòng ấm cúng chia sẻ với bằng hữu những bản nhạc sáng tác hoặc phổ thơ nổi tiếng một thời của anh: Khúc Mưa Sầu, Trong Tay Thánh Nữ Có Đời Tôi, Chỉ Nhớ Người Thôi Đủ Hết Đời, Em Hiểu Vì Đâu Chim Gọi Nhau, Nếu Có Yêu Tôi và nhiều nhiều nữa. Tất nhiên có cả Hoa Ơi Có Biết Lòng Ta Nhớ Người…

Tuy không thực sự có nhiều dịp gặp gỡ nhau nhưng vài lần gặp hiếm hoi để lại trong tôi ấn tượng khó quên. Anh tiếp đón bạn bè khiêm cung, giản dị nhưng trau chuốt từng lời nói, cử chỉ, của một người cầu toàn, có lẽ cùng một cung cách thận trọng như khi anh chọn một bài thơ để hát lên với những âm giai lộng lẫy nhất. Anh không có một gia tài sáng tác đồ sộ nhưng những gì anh có thể hiện trọn vẹn tình yêu cái đẹp không chỉ của người nhạc sĩ, người nghệ sĩ vui chơi giữa cuộc đời mà của một điêu khắc gia say mê khắc chạm cảm hứng của mình lên đá quý.

Trong căn nhà nhỏ có khung cửa sổ đong đưa những nhánh hoa leo, bên người bạn đời cùng sống giấc mơ âm nhạc không biết đến phai tàn, ngày tháng về chiều của lứa đôi dệt bằng cảm xúc chứa chan trong thinh lặng. Của những thanh âm, những tiếng hát vẫn mãi vút cao, vẫn mãi chìm sâu, lồng lộng bay lên, ngậm ngùi lan tỏa, đâu đó, là màu nắng lạ, cơn mưa lạ, vầng trăng lạ, trong một không gian như có giây tơ, bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu, êm êm chiều ngẩn ngơ chiều, mênh mông, không còn một thứ gì hiện hữu ngoài âm nhạc ru lòng tan chảy…

Giữa cuộc sống nhọc nhằn, cảm ơn Thượng đế đã ban cho loài người tiếng nói, cho hàng cây tiếng chim hót, cho vũ trụ tiếng suối reo, tiếng gió vi vu, tiếng mưa thì thầm, tiếng biển vỡ trên ghềnh đá…để trái tim người nhạc sĩ rung động viết thành giai điệu ngợi ca cuộc sống. Thời gian bào mòn mọi thứ ngoại trừ tiếng nói đẹp nhất của trái tim nhân loại ở tuổi hai mươi được hát lên, được đóng khung trên năm giòng kẻ You told me you love me, when we were young one day…

Riêng tôi, ở tuổi không còn nhớ gì nhiều, vẫn còn một thanh âm ở lại bền chặt trong ký ức, được nghe lại, rất xa xăm, mỗi đêm trước giờ đi ngủ: tiếng con chim từ quy gọi bạn đến khàn hơi từ bên này rừng chiều Bạch Mã bay về bên kia rừng và chỉ gặp lại chính nó lúc hừng đông, cho một ngày chờ đợi khác.

Bùi Bích Hà

Chỉ Nhớ Người Thôi Đủ Hết Đời
Nhạc: Trần Duy Đức
Thơ: Du Tử Lê


Chỉ nhớ người thôi sông đủ cạn
Nói gì kiếp khác, với đời sau...


NẾU CÓ YÊU TÔI
Nhạc: Trần Duy Đức
Thơ: Ngô Tịnh Yên

.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeTue Sep 26, 2017 11:40 am

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Images?q=tbn:ANd9GcShgG8Ri16fVX-Z-saqK4ZSYqtVe-yuHOxvxB1mFbVlwkuaykJV

Quê hương
Bùi Bích Hà


Có nhiều định nghĩa hàn lâm về hai chữ quê hương. Và mỗi người, khi nhớ về quê hương, cũng có nhiều định nghĩa riêng tùy thuộc thời khắc và tâm cảnh khi họ nhớ về quê hương. Có người như cô bạn trẻ tới từ miền Bắc Việt Nam sau 1975 mà tình cờ tôi gặp ở đây, đang quay quắt hội nhập, được hỏi có nhớ nhà, nhớ quê không? Cô cười, lắc đầu: “Em đang ở đâu thì đấy là nhà và quê hương.” Tâm lý này dễ hiểu vì cô lớn lên ở một đất nước mịt mờ khói lửa can qua, trong một xã hội không khơi gợi cho cô tình gia đình và tình quê hương. Trưởng thành ở Sài Gòn sau tháng 4, 1975, trải qua những ngày cơ cực cùng với Sài Gòn bỗng nhiên nghèo đi, cô tốt nghiệp đại học Phú Thọ. Nhan sắc, tự tin, cô để cơn gió thời đổi mới cuốn mình đi, làm giàu dễ dàng và nhanh chóng bằng con đường kinh doanh địa ốc. Cô cười nói: “Em chỉ nhớ những buổi đi ăn với bạn bè ở các nhà hàng sang trọng; đi tắm hơi và đấm bóp ở những salon đẳng cấp, được phục vụ tận tình, được nghe những lời xưng tụng êm tai...”

Tới Mỹ theo con đường vòng: Một đứa con được bố bảo lãnh rồi đứa con ấy bảo lãnh mẹ, cô mang theo mình lòng tự tin có sẵn, tài sản và sự tháo vát, nỗ lực thích nghi với hoàn cảnh mới, học thành công một chuyên môn ngắn hạn để có lợi tức học tiếp vài chuyên môn khác. Thay vì tình tự quê hương, cô được dạy bài học sinh tồn rất thực tế, rất phù hợp với một Mỹ quốc thực dụng. Tôi biết những người như cô, định hình được mục tiêu của mình, tập trung vào mục tiêu ấy, chắc chắn sẽ thành công cách này hay cách khác ở xứ sở này, sẽ thực hiện được Giấc Mơ Mỹ Quốc theo lối nói thông dụng của nhiều người khi tới đây.

Còn tôi, ngơ ngẩn như mán về xuôi, bước ra khỏi khoang chiếc máy bay 2 động cơ hạ cánh lúc nửa đêm ở phi trường Ontario đèn đuốc sáng choang, bốn mẹ con bà cháu dắt díu nhau như đi trong một cơn mơ, hành lý mang theo là những câu thơ tuyệt tác của những nhà thơ lớn thời đi học, những “Ngẩng đầu ngóng mãi chưa thôi nhớ, hoa bưởi thơm rồi đêm đã khuya...” và những “Sóng gợn trường giang buồn điệp điệp, con thuyền xuôi mái nước song song, thuyền về nước lại sầu trăm ngả, củi một cành khô lạc mấy giòng...” Những ngày đầu, chúng tôi tạm cư ở một thành phố miền núi, đất đá khô cằn, cỏ cây xám xịt. Một cơn mưa bất ngờ, một vầng trăng lẻ loi, một sớm mai nghe tiếng chim hót, một mùi dạ hương đâu đó trên lối đi, mỗi mỗi như dao ngọt cứa lên thần kinh cảm xúc của tôi, làm tim đập thất nhịp vì nhớ ra thân phận lạc loài của kẻ thiếu quê hương. Đúng là những bâng khuâng chẳng được tích sự gì ở nơi phồn hoa đô hội cổ võ sự tranh sống kịch liệt này. Chẳng thế mà khoảng cách giữa tôi và nước Mỹ ngày càng xa qua ba thập niên, từ điểm gặp gỡ đầu tiên sải về hai hướng. Nước Mỹ ngày càng văn minh, tiến bộ, đi hia bảy dặm. Bước chân tôi ngày càng già nua, chậm chạp, không theo kịp. Hệt như thơ Lưu Trọng Lư: “Nhìn nhau mà lệ ứa, một ngày một cách xa.”

Thời tiết miền Nam Cali năm nay rất lạ. Giữa tháng 5 rồi mà buổi sáng trời mù, gió hiu hắt lạnh. Buổi trưa ngày nắng ngày không, chút hoang mang làm rung nhẹ những đỉnh cây đứng yên hai bên vệ đường. Radio làn sóng tiếng Việt đang phát Thuyền Viễn Xứ, Phạm Duy phổ nhạc từ thơ của tác giả Huyền Chi. Được hỏi một lúc nào đó năm 2011, Phạm Duy cho biết bà Huyền Chi còn tại thế, có liên lạc với ông. Bây giờ không biết bà còn hay đã mất, đang ở đâu và có giật mình thấy ra lời thơ rất thiêng của bà vô tình báo trước một thời đất nước điêu linh, dân tình tản lạc hay không?

“... Nhìn về đường cố lý, cố lý xa xôi. Đời nhịp sầu lỡ bước, bước hoang mang rồi. Quay lại hướng làng, Đà Giang lệ ướt nồng, mẹ già ngồi im bóng, mái tuyết sương mong con bạc lòng. Trời cao chìm rơi xuống đời, biết là bao sầu trên xứ người...” Phải công nhận ngòi bút của nhạc sĩ họ Phạm có khi xuất thần, chữ nghĩa được ông phù phép một vẻ đẹp man dại và đau thương đến độ, “mái tuyết sương mong con BẠC LÒNG...” Những đứa con ra đi là biền biệt, không quay đầu nhìn lại mẹ già ngồi như tượng, mỏi mắt chờ trông. Năm tháng làm phai màu tóc mẹ, phai cả lời hẹn ước của con. Trong bài Trở Về Mái Nhà Xưa, ông viết: “Người xa vắng biết đâu NẤM nhà buồn.” Ngôi nhà không còn tình yêu khác gì nấm mộ vùi chôn người ở lại?


Chúng ta đang sống ở thời đại mà lưu lượng thông tin nhiều như không khí, đã thu hẹp thế giới vào cái màn hình điện thoại thông minh chì lớn bằng bàn tay, khiến người đi xa không còn tâm trạng “biết đâu” nữa. Quê hương gấm hoa một thời trẻ con thả diều đuổi bướm trên những đồng cỏ xanh tươi, ăn quả non cũng thấy ngon, uống nước lã không đau bụng, nay thì tất cả mọi thứ cần cho đời sống đều chan chứa độc tố bởi vì quan chức nhũng lạm câu kết với bọn gian thương, cho chúng buôn bán, sử dụng hóa chất bừa bãi, mặc chúng tung hoành thủ lợi trên xác thú vật và cả xác người sống bị tước hết quyền phản kháng. Còn đâu rừng vàng, biển bạc, những đồng bằng màu mỡ, phì nhiêu giúp cho dân giàu, nước mạnh? Đến con cá cũng không toàn mạng trong giang sơn vốn tự do vẫy vùng của nó nay bị xâm hại. Đến đất vô tri cũng nứt nẻ, vỡ ra từng mảnh, bị bức tử vì Cửu Long Cạn Giòng.

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ dưới hầm tai vạ.” Đâu chỉ có bọn thái thú Bắc phương mới nở xuống tay đầy đọa con dân nhà Nam, bọn quan chức vong thân ngồi trên những chiếc ngai nạm vàng ở Bắc bộ phủ đã đốt hết sử sách tiền nhân để lại, cai trị dân bằng tâm hồn thái thú, vô cảm trước dân tình oán than ngút trời.

Tổng thống Hoa Kỳ thứ 44 sắp viếng thăm Việt Nam trước khi mãn nhiệm. Ông sẽ được các chủ nhân ông của quốc gia đối tác đầy tiềm năng này tiếp đón với đầy đủ nghi lễ ngoại giao dành cho hàng quốc khách. Ông sẽ không phải ái ngại khi được mời dự quốc yến với thức ăn hảo hạng, cam đoan tinh khiết và ngon miệng. Băn khoăn của riêng tôi là không biết thông minh và nhân bản như ông, khôi nguyên giải Nobel hòa bình, với tầm nhìn độ lượng của một chính khách cao cấp thường quan tâm và bênh vực người nghèo, với khối lượng tin tức ban báo chí Tòa Bạch Ốc trình lên ông hàng ngày, liệu ông có hình dung ra được mâm cơm của tuyệt đại đa số đồng hương chúng tôi dưới mái nhà của họ bên ấy không? Có ai nói cho ông biết món thịt kho trên mâm cơm ấy có thể được nấu bằng thịt đã thối rữa mà người hàng thịt làm tươi lại bằng hóa chất và bán ra cho dân lành hay không? Có ai nói cho ông biết đĩa rau quả trên mâm cơm ấy được nông trại tưới tẩm bằng thứ phân bón làm cho thân, lá, củ tốt tươi hơn nhưng khó khai thật nó thuộc loại gì? Có ai nói cho ông biết những hạt gạo nuôi sống những gia đình “chạy ăn từng bữa toát mồ hôi” nay được pha chế bằng nhựa dẻo? Và nếu biết, ông sẽ nói gì với vị nguyên thủ của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “đầy tiềm năng” như biểu hiện bên ngoài của nó?

Có thể tổng thống cũng sẽ được mời thăm viếng một trung tâm du lịch tuyệt đẹp và sang trọng của Việt Nam từng được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Vâng, tổ quốc do tiền nhân chúng tôi tạo dựng cho con cháu mỹ miều như thế, nên thơ như thế, kỳ ảo như thế. Từ hơn 40 năm nay, nó đã được chuyển nhượng từ toàn thể dân tộc chúng tôi sang tay một thiểu số kẻ xấu (theo cách gọi của Thượng Nghị Sĩ John McCain) với rất nhiều máu xương của cả hai miền Nam Bắc Việt Nam và trở thành tài sản riêng của những người này. Quá trình chuyển nhượng bất đắc dĩ ấy có bàn tay quyền lực của Hoa Kỳ thúc đẩy và góp phần.

Người dân Việt Nam đọc sử thế giới, ước mong Việt Nam có được vận hội như Nhật Bản sau Thế Chiến II, đón nhận một tướng đầy nghĩa khí và tâm huyết như Douglas Mac Arthur, với lý tưởng và công tâm muốn biến miền đất từng chìm đắm can qua trở nên giầu có, văn hóa phát triển, trình độ dân chúng nâng cao thành một nước lý tưởng như Mỹ. Trong thời chiến tranh, giới lãnh đạo Nhật Bản đã có những sai lầm, nhưng rồi đây, khi Nhật Bản trở thành một nước dân chủ, một nước công nghiệp giầu mạnh, thì cũng như nước Mỹ, Nhật Bản cũng sẽ có nền văn hóa dân chủ, tự do, coi trọng sự lựa chọn của cá nhân. Hơn thế nữa, Nhật Bản nên là như vậy. (Tiến Sĩ Edwin O. Reischauer)

Nước Mỹ đã thay đổi nhiều điều trên nước Nhật nhân danh sự bình đẳng và tiến bộ của nhân loại, nay giúp thay đổi một thể chế cản trở, thậm chí hủy diệt, những giá trị vừa nêu là việc không nên chối từ.

Một danh ngôn được ghi nhớ của Tướng Douglas Mac Arthur : “The old soldiers fade away,” nhưng tư tưởng của ông soi đường cho dân Nhật còn mãi duy trì.

Với những người Việt Nam ly hương đang định cư ở Mỹ, lứa tuổi thất thập cổ lai hy, viễn ảnh một ngày được trở lại quê hương rất mờ nhạt. Dẫu sao, còn hơi thở là còn nuôi hy vọng và còn cầu nguyện, xin cho quê nhà sớm thấy lại ánh dương quang, trẻ thơ có bầu sữa ngọt, cha mẹ già có hạt cơm thơm và 90 triệu dân được thở không khí trong lành, can đảm cất lên tiếng kêu đòi khi có sự bất công để cô giáo Trần Thị Lam không còn rơi lệ trên những dòng thơ châu ngọc.

Ôi, mong ước tràn ngập lòng những sáng, những chiều nhớ thương khôn nguôi!

Bùi Bích Hà
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSun Oct 01, 2017 9:16 am

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Images?q=tbn:ANd9GcR0zh2FL7QY1mnb7vhAimPfiJcnSd78KYNDvJzgHJoRZqXgKtNd

Tạo hoá gây chi cuộc hí trường

Bùi Bích Hà


“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,” câu thơ đầu trong bài “Thăng Long Thành Hoài Cổ” của Bà Huyện Thanh Quan đã khắc ghi đậm nét trong trí nhớ tôi từ những năm ngồi ghế trung học Ðệ Nhất cấp, giờ cổ văn với cô Hòe lớp Ðệ Ngũ trường Ðồng Khánh.

Ðối với tôi ngày ấy, câu thơ không chỉ thuần là câu thơ nổi tiếng của một bài thơ nổi tiếng trong văn học sử nước nhà, được một bậc nữ lưu thi tài lỗi lạc ngẫu hứng viết xuống khi về qua cố đô một buổi chiều phai nắng, nhìn cảnh vật tiêu điều qua bao lớp sóng phế hưng: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.”

Mà hơn thế, câu thơ còn diễn đạt nỗi ngậm ngùi trước những cảnh đời đổi thay hệt như những màn kịch trên sân khấu, khiến tôi không khỏi ngạc nhiên và thầm cảm phục nhân sinh quan đầy đạo vị của nhà thơ ngày ấy.

Sau này khôn lớn, bản thân chứng kiến thế sự thăng trầm, tôi vẫn đọc thơ bà để suy ngẫm. Bị bứng khỏi đất lề quê thói như một cái cây trốc gốc trôi theo cơn lũ thời cuộc ra đại dương, nhiều khi tôi chạnh lòng nhớ về hoàng thành cổ kính ở Huế, nơi bắt đầu và chấm dứt triều đại nhà Nguyễn qua 13 đời vua và 143 năm trị vì trên ngai vàng.

Bến Thương Bạc, lầu Ngọ Môn, điện Thái Hòa, cung An Ðịnh, phủ Bà Chúa Nhất, cửa Ðông Ba, cửa Thượng Tứ, hồ Tịnh Tâm, đức Từ Cung, Hoàng Ðế Bảo Ðại, Hoàng Hậu Nam Phương, Hoàng Thái Tử Bảo Long. Những phương danh quen thuộc, những địa danh ghi dấu một giai đoạn lịch sử với nhiều biến thiên làm nên một Việt Nam minh châu trời Ðông rạng ngời gần hai thế kỷ, nay đâu rồi những người muôn năm ấy? Nay đâu rồi những áo mão, cân đai, lọng vàng, xa mã, một thời lung linh sắc màu và hạnh phúc, một thời vinh quang và một thời tủi nhục?

Tất cả xóa đi, chỉ còn trơ lại cái bàn cờ cũ kỹ xếp vào trầm hương cổ tích. Chỉ còn linh hiển một vầng trăng xanh biếc không nơi nào tôi đi qua trên mặt đất này có một màu trăng “gọi hồn Thục Ðế” huyền ảo như thế.

Vở kịch đã hạ màn. Nhân vật đã ra khỏi sân khấu. Ðể lại một hậu trường ngổn ngang hoài niệm, hoen ố và buồn bã. Ðể lại những khán giả hậu sinh như tôi lạc loài phương trời, đem theo mình nỗi u hoài khiến nhìn đâu cũng tưởng chừng chan chứa biệt ly.

Hôm Chủ Nhật, 14 Tháng Năm, 2017, dưới bầu trời Paris trong xanh và nắng vàng trải lụa khắp nơi, lễ nhậm chức của Tổng Thống Emmanuel Macron diễn ra trang trọng tại điện Elysée với tất cả vẻ đẹp của một nước Pháp cổ kính.

Ông rời nhà riêng để tới nơi hành lễ trên chiếc công xa bóng loáng, được đoàn mô tô của cảnh sát hộ tống rầm rộ, chạy theo đội hình trên đại lộ Champs Elysée sạch như vừa được giội nước, qua những vòm cây xanh mướt bên lề đường trang hoàng nhiều cờ tam tài tung bay trong gió.

Dân chúng vui vẻ tụ tập phía sau cái rào gỗ thấp để vẫy chào tổng thống mới của họ. Trên các bao lơn những ngôi nhà gần khu vực hành lễ, nhiều gia đình tề tựu, người lớn tay cầm biểu ngữ viết lời chúc mừng.

Thảm đỏ trải từ chỗ xe dừng bánh tới tận thềm điện Elysée. Tân tổng thống đắc cử đi những bước dài, chững chạc, tự tin, gót giầy chạm đất trước, mũi giầy nhấc cao, đều đặn, là cách đi của người muốn làm việc khó và làm thành công, bền lòng, tự chủ, kỷ luật, chăm chỉ.

Tổng thống mãn nhiệm Francois Hollande đứng chờ người kế vị trên thềm cao, nét mặt căng thẳng, đôi lông mày khẽ cau không biết vì nắng chói hay vì những giây phút đợi chờ bao giờ cũng dài quá. Họ bắt tay nhau, mở ra cánh cửa phân định vị thế của mỗi bên. Họ cùng đi một chặng đường thật ngắn để tới nơi bàn giao chính quyền rồi cánh cửa đóng lại sau lưng một người.

Chiếc công xa đổi vị trí. Mũi xe bây giờ hướng ra cổng. Hai tổng thống một cũ, một mới từ biệt nhau ở cuối cái thảm đỏ, một chút buồn vội vàng trong mắt người rời đi, một chút bâng khuâng trong mắt người quay lại cái chỗ họ vừa bắt tay chào nhau và tân tổng thống thấy mình đang ở ngày thứ nhất trong vị thế của người ông vừa từ giã.

Trong đại sảnh điện Elysée, đông đảo khách mời tham dự lễ nhậm chức của tân tổng thống kiên nhẫn đứng hàng giờ đồng hồ chờ ông xuất hiện sau nghi thức bàn giao.

Nước Pháp từng trải qua chiến tranh, từng bị đoàn quân chiến thắng chiếm đóng nhưng may mắn làm sao, các đền đài, cung điện ở Paris vẫn giữ nguyên kiến trúc lộng lẫy mang dấu ấn của nền văn minh cổ đại La Hy. Trần nhà cao, chạm trổ tinh vi. Những hình tượng điêu khắc tuyệt kỹ. Những chùm đèn trần pha lê lấp lánh sáng.

Khung cảnh tráng lệ của triều đình Pháp hiện diện nhiều thế kỷ hôm nay mở màn phiên bản mới với dàn diễn viên mới, vở kịch đã diễn ra nhiều lần ở đây. Những toán quân lính trực thuộc phủ tổng thống bồng súng gắn lưỡi lê sáng bóng dàn chào trong quân phục thời Nã Phá Luân, giầy ống cao, quần chẽn, nón chóp với chùm lông ngất ngưởng, nón sắt kiểu La Mã hoặc mũ nồi kiểu thuộc địa, ngù vai, dây biểu chương, trông rất đẹp mắt trong ngày hội lớn.

Quả nhiên, khung cảnh lễ nhậm chức của tổng thống thứ tám trẻ tuổi nhất trong lịch sử nước Pháp có đủ tình tiết và các yếu tố thẩm mỹ của một vở kịch lớn. Tôi bâng khuâng tự hỏi liệu cái sân khấu ở điện Elysée sáng nay có liên quan nhân quả gì tới cái sân khấu nhỏ ở ngôi trường trung học tỉnh Amiens, nơi cậu học trò 15 tuổi Emmanuel Macron được cô giáo môn kịch nghệ cố vấn trong một vai diễn khiến cậu khám phá cùng một lúc vừa tư chất bản thân vừa tài năng của cô giáo ra đời trước cậu 24 năm? Emmanuel gọi mối tình của ông và cô giáo là sự bí ẩn lạ thường, có nghĩa là chỉ một mình ông biết nguyên do để tự giải thích với mình.

Ở khắp nơi, người ta thấy không ít những cuộc hôn nhân so le tuổi nhưng chúng có những động lực bắt nguồn từ vài nguyên nhân đời thường: nhan sắc, dục tình, lợi lộc, danh vọng, tiếng sét, sự thách đố… Hầu như không một đôi lứa nào trong cảnh ngộ bất thường ấy gắn kết vào nhau bền chặt và đạt tới một sự nghiệp chung lẫy lừng như tân Tổng Thống Pháp Emmanuel Macron và Ðệ Nhất Phu Nhân Brigitte Trogneux.

Hình như tạo hóa trớ trêu tạo ra người này cho người kia nhưng bắt họ, những con người ngoại khổ, phải trả một cái giá không dễ dàng. Cả hai có 15 năm để tự vấn về tình yêu của họ, trong sự sáng suốt tuyệt đối.

Trả lời phỏng vấn của báo chí, ông Macron nói: “Chúng tôi quyết định không có con vì sự chênh lệch tuổi tác, tôi còn quá trẻ…” Về phần bà Trogneux, bà ý thức rõ sự già nua của mình trên hai cánh tay để trần, trên khuôn mặt đầy dấu vết thời gian, không cần đi mỹ viện, không cần bất cứ hình thái che đậy nào. Bà nói với ông: “Nếu ông định ra ứng cử tổng thống thì đừng chần chờ nữa, 10 năm tới ông sẽ có vấn đề với khuôn mặt của tôi đấy!”

Rõ ràng ông Macron không nhìn vợ bằng con mắt của những người đứng ngoài sự bí ẩn của họ. Trong mắt ông, bà là hiện thân hoàn hảo những gì ông muốn có, cần có trong cuộc đời. Không già. Không trẻ. Không xấu. Không đẹp. Là giấc mơ kỳ lạ nhất, khó nhất, trở thành hiện thực. Cả hai không chỉ kề cận, cũng không chỉ là hai nửa ghép lại.

Họ thẩm nhập vào nhau liền lặn, toàn vẹn, tuyệt đối, không có chỗ cho bất cứ thứ gì ở giữa. Với họ, trở thành vợ chồng là trong ý nghĩa ấy. Người đàn bà có thể kháng cự với cám dỗ hay đe dọa nhưng rất khó từ chối định mệnh lạ thường khi nó gõ cửa.

Xử sự trước đám đông của tổng thống và vợ ông biểu tỏ sức mạnh phi thường của niềm tin, của tình yêu có lựa chọn, cam kết và trách nhiệm, một thứ hạnh phúc tín thác trong bình an giúp họ vượt qua mọi dị nghị, đàm tiếu vốn thường xảy ra với mọi đôi lứa không chỉ vì một lý do chênh lệch tuổi tác.

Các thủ tục và nghi lễ chuyển giao quyền hành tại điện Elysée giữa cựu và tân tổng thống chấm dứt khi bầu trời bên ngoài thả xuống Paris những hạt bụi nước của cơn mưa nhẹ cuối Xuân. Theo phong thủy, là dấu hiệu phát triển phồn thịnh cho sự nghiệp chính trị của tổng thống với các tiêu chí ông theo đuổi: phục hồi tư thế của một nước Pháp vững mạnh trong khối Liên Âu, an ninh và đoàn kết tiến bước trong thời đại toàn cầu!

Khách dự lễ lác đác ra về dưới những cái ô xinh xắn và cơn mưa “làm phép” nhanh chóng tạnh, trả lại nắng vàng trên đại lộ Champs Elysée, Khải Hoàn Môn uy nghi, ngọn lửa thiêng trên nấm mộ người chiến sĩ vô danh tổng thống vừa thắp lên, vòng hoa vinh danh tổng thống để lại với lòng biết ơn và cuộc diễn binh theo truyền thống có những con tuấn mã gõ móng xuống mặt đường, là hình ảnh của hàng hàng lớp lớp tuổi trẻ sẵn sàng bước ra khi tổ quốc kêu gọi.

Xin chúc lành đến tổng thống, gia đình và sự nghiệp của ông. Ở bước ngoặt lịch sử này, rồi ra tổng thống sẽ phải một mình một ngựa xuất hiện ở nhiều nơi, bắt đầu với chuyến công du Ðức quốc nhưng chúng tôi biết, dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, người đàn bà của ông vẫn hiện diện trong tim ông, nồng ấm và chói lòa như đã thế suốt những năm tháng qua.
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSat Oct 07, 2017 12:10 am

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Images?q=tbn:ANd9GcQgSPb-M9sjomlXEGeBw23hXhucn_3ofcOv4iOaiulGjX2YrU0N

Bùi Bích Hà: Phịa

Thoạt tiên, một người bạn trong nhóm gởi ra cái email nội dung như sau: “Tối hôm nay tôi đang nằm đọc sách, chợt nghĩ lơ mơ một điều, muốn đem hỏi các bạn. Câu hỏi thế này: Trong ngôi nhà mình ở, cái vật gì biểu tượng cho trống vắng và cô đơn nhất? Hoan nghênh bạn nào trả lời đúng.”

Trưởng tràng của cả nhóm lên tiếng trước: “Trống vắng hay cô đơn thuộc lãnh vực tình cảm riêng tư, mỗi người mỗi khác, làm gì có câu trả lời nào là đúng nhất?”

Người thứ hai không phản bác câu hỏi mà trả lời: Bản thân.

Người thứ ba không trả lời câu hỏi, cũng không phản bác nhưng sửa lưng câu trả lời của người thứ hai: “Sai rồi, “cái vật gì” sao lại là con người?”

Người thứ tư kể ra một lô những vật dụng mà theo anh, có khả năng đáp ứng câu hỏi, nếu không hoàn toàn đúng thì cũng ở cự ly gần nhất với đúng: Cái gương. Cái lược. Con dao. Cái trần nhà. Cái ảnh thờ. Cái giường. Kèm theo cũng một lô những lời dẫn giải lý do vì sao anh chọn từng ấy món?


Người thứ ba, sau khi phê bình câu trả lời của người thứ hai, đến lượt mình điểm: Cái cửa sổ. Theo chị, cái cửa sổ không có căn tính mà chỉ hiện hữu cho mọi thứ khác.

Người thứ năm vào cuộc chậm nhất và giữa chừng, không nắm tình hình từ đầu nên gõ xuống bàn phím hai chữ Cái Giường, hoàn toàn không biết giải đáp của mình trùng lắp với một món người thứ tư trong nhóm đã chọn ra.

Đến đây, lây sự hào hứng của cả nhóm, người thứ nhất lại nhẩy vào, đưa ra một món rất ngoạn mục và bất ngờ: cái restroom, nôm na trong tiếng Việt gọi là cái cầu tiêu.

Luôn nhậy bén với thực tế thời đại số, trong 15 giây thôi, người thứ ba trả lời vị trưởng tràng nhanh như chớp: Sai rồi, bây giờ ai vào restroom cũng mang theo iPhone hết!

Qua một buổi tối nhặng cả lên với nhau, ngày hôm sau, tác giả câu đố được yêu cầu bạch hóa câu trả lời đúng nhất.

Chị từ tốn dẫn giải: “Đó là cái trần nhà. Luôn luôn bị bỏ quên. Luôn luôn trống trơn, trơ trọi. Nếu có gắn đèn thì cũng là để soi sáng những vật bên dưới nó chứ không phải chính nó. Mỗi căn phòng có 6 mặt phẳng. Bốn mặt tường đều có trang hoàng tranh ảnh, kỷ vật. Sàn nhà được trải thảm, bày chậu hoa. Chỉ có trần nhà ít ai ngó ngàng tới trừ phi nó dột mà sửa xong chỗ dột, lại rơi ngay vào quên lãng.”

Cả nhóm nhao lên vì không đồng ý.

Người thứ hai “pháo” trước: “Trần nhà phòng con gái tôi là toàn bộ thái dương hệ trong vũ trụ. Trần nhà phòng ăn của tôi lúc nào cũng Giáng Sinh trắng tinh, vui tươi, rộn rã.”

Người thứ tư thở hắt một hơi dài thất vọng: “Mèng ơi, một người nằm tênh hênh trên giường, không nhìn cái trần nhà thì nhìn cái gì? Có lẽ người đang hạnh phúc cùng mình nên chợt thấy cái trần nhà lạnh băng, im như thóc, bèn động từ tâm mà đoái thương, nghĩ nó cô đơn, trống vắng! Thế mà làm cả đám suy nghĩ nát cả óc, chán mớ đời!”

Đành là có thế nhưng hình như chính anh cũng từng trải qua kinh nghiệm “nằm tênh hênh trên giường, không nhìn trần nhà thì nhìn cái gì?” Cũng cùng tâm trạng y như tác giả câu đố, nghĩ nó cô đơn, trống vắng, nên anh đoán trúng phóc ý của tác giả mặc dù hơi tham, còn cố liệt kê thêm vài món nữa.

Anh trưởng tràng thấm nhuần triết lý trong Kiều của cụ Nguyễn Du, cười mỉm và phán: “Thấy chưa? Toàn là suy nghĩ chủ quan, kiểu ‘người buồn cảnh có vui đâu bao giờ,’ cứ áp đặt tâm sự của mình lên ngoại cảnh rồi đem ra đố, làm sao có lời giải đúng được vì chẳng phải chính chánh chủ khảo đã sai ngay từ đầu rồi ư?” Hà… hà…

Biết anh trưởng tràng phê phán rất đúng trong “cuộc đố vui không tìm ra lời giải” này nhưng nếu không đố mà chỉ chia sẻ thì chia sẻ của mỗi người, dù không đạt được sự đồng cảm, có đáng được cả nhóm tiếp nhận không?

Chia sẻ của tác giả câu đố cho tôi hình dung ra bạn, một buổi tối yên ả, thư thái ngả lưng xuống giường đọc cuốn sách. Tôi thậm chí có thể đoán ra nhan đề cuốn sách trên tay bạn tôi, viết về những người Việt Nam vượt biển tìm tự do nhưng không may mắn đến được bến bờ mong đợi. Là đề tài chúng tôi đang trao đổi mấy hôm nay khi cuối Tháng Tư tới gần. Tôi cũng hình dung ra căn phòng bạn tôi đang ở trong, có khung cửa sổ rộng trông ra ngã ba cái hồ bát ngát như cửa một con sông lớn; những buổi tối bạn tôi vừa râm ran chuyện trò vừa xoa dầu ở hai bàn chân sau một ngày đứng nhiều và đi lại nhiều, mùi khuynh diệp thoảng bay làm ấm cả không gian xung quanh. Tôi đã đến đây không ít lần và thường thức giấc giữa đêm, nhìn ra mặt hồ nhòa trong sương khuya, thương nhớ con sông của tuổi thơ tôi tận quê nhà xa tít tắp, xót đau một mái ấm giờ đây cũng mất tăm trong mịt mờ ký ức. Bạn tôi đang buồn hay đang vui mà bỗng dưng gán cho cái trần nhà sự cô đơn và trống vắng?

Trở lại chuyện câu đố, người thứ hai sau anh trưởng tràng, đoán nhanh và chắc nịch, là “con người.” Trong nhóm chúng tôi, có vẻ cô có cuộc sống nội tâm nhiệm nhặt và sâu sắc nhất. Cô hay đi bộ một mình trong núi và không lái xe xa lộ. Tôi đoán cô thường có những khoảng thời gian và không gian tịch lặng để lắng đọng tâm tư, để khơi trong gạn đục những tầng cảm xúc bên trong mình tựa như người đãi vàng dưới suối, không chấp nhận để lẫn một hạt sỏi nào. Trong giao tế, cô ròn rã, nồng ấm nhưng không hiểu vì sao, tôi cứ có cảm giác cô giấu đâu đó một chỗ đau, một vết thương nhỏ. Có lẽ tại đôi mắt cô đầy nghi ngại và buồn như đêm. Thế nhưng, chẳng lẽ cô là (sinh) vật cô đơn và trống vắng nhất dưới mái nhà của mình?

Cô em khác, người thứ ba, đoán là cái cửa sổ. Trong nhóm, cô ba thông minh và có tưởng tượng phong phú nhất. Quả thật, đóng hay mở, cửa sổ bao giờ cũng trống vắng và chỉ hiện diện cho mọi thứ khác như cô mô tả. Tuy vậy, tôi không hình dung ra được nó cô đơn. Nó luôn luôn bận rộn, đầy ắp một cái gì: cây cối, hoa lá, nắng gió, những mái nhà nâu, những con chim se sẻ, hồ nước, giòng sông, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, bóng người hàng xóm, v.v… Liệu cô đơn có phải là tình trạng đứng yên một chỗ nhìn mọi vật di chuyển, thay đổi qua mình, xung quanh mình, trôi tuột đi, như nắng mưa, như gió mây thoảng bay, không một thứ gì bám víu và ở lại với nó? Hay nó cô đơn vì nó suốt đời hiện diện bên cạnh cái cửa sổ thứ hai trong cùng một gian phòng, gần nhất cũng cách nhau một sải tay? Nhìn nhau mà chẳng nói, có nói cũng khôn cùng! Tội nghiệp ghê!

Thế còn người thứ tư chọn cái giường, anh ấy nói gì? “Một vật tiêu biểu cho sự cô đơn, có lẽ cái giường nói lên được nhiều nhất, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Cái giường giữ nhiều kỷ niệm của một người đã không còn nữa hay hai người mỗi người là một ốc đảo không tình yêu. Chưa kể một ngày nào đó, ai trong chúng ta cũng sẽ phải đối diện những giấc ngủ chỉ có 1 mình khi mà người vợ hay chồng như chim vỗ cánh bay đi… Nó cô đơn lắm, hãi hùng lắm.”

Đến đây thì tôi phục lăn anh trưởng tràng. Bởi vì tuy tôi cũng chọn cái giường như anh bạn số 4 trong nhóm nhưng do chủ quan, chúng tôi có những liên tưởng khác nhau. Đối với tôi, ngoài bếp, phòng ngủ trong nhà là nơi hội tụ nhiều sinh khí nhất. Những lúc đi xa, nhớ nhà, tôi nhớ nhất phòng ngủ và cái giường, địa đàng nghỉ ngơi của tôi mỗi tối và bình minh mới của tôi hôm sau khi mở mắt ra. Qua một ngày dài làm việc, thời khắc hạnh phúc nhất của tôi là được ngả lưng xuống giường, nơi chốn thân cận với tôi như một người bạn chí tình từ khi tôi lọt lòng mẹ cho tới giờ khắc chia tay cuộc đời ở sân ga cuối, qua bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mẹ tôi đã ngồi, đã nằm ở đây, đã ẵm ru tôi những sáng tinh mơ, những đêm khuya muộn, một đèn, một bóng; đã gói chặt tôi trong tã lót, chèn chăn gối xung quanh và giao phó tôi từng chập cho giường để gồng gánh công việc trong một ngôi nhà đông người, luôn luôn bắt đầu từ gà gáy cho đến quá nửa đêm. Hết thời nuôi con của mẹ, đến thời nuôi con của tôi. Dù nửa thế kỷ đã trôi qua với vô vàn biến động, mùi thơm da thịt trẻ sơ sinh, mùi sữa hoi hoi từ bầu vú mẹ, hình hài bé nhỏ, mỏng manh như búp hoa non yếu vừa bung nở của từng đứa con vẫn rỡ ràng trong trí nhớ tôi như mới vừa đâu đây. Cái giường câm nín chuyên chở nhiều cảnh đời trong nhẫn nhịn, không đòi hỏi gì cho nó, kể cả chăn gối đẹp mắt, thơm tho, cũng chỉ để làm vui lòng chủ nhân của nó thôi. Nó cho tôi cả bầu trời hạnh phúc nhưng tôi chưa bao giờ chuyện trò với giường để biết nó buồn vui và cô quạnh ra sao? Nói như anh trưởng tràng của nhóm chúng tôi, con người toàn “phịa ra trăm điều” theo tâm cảm của mình từng lúc. Tôi nhớ câu thơ thời đi học, của  Lamartine: “Objets inanimés, avez-vous donc une âme qui s’attache à notre âme et la force d’aimer?” Tạm dịch là: Hỡi các vật dụng vô tri, các ngươi có một linh hồn gắn bó với linh hồn ta và thúc dục nó yêu thương không? Hình như có ai đó đã nói rằng “Trong mỗi người Việt Nam, có một thi sĩ” (kẻ viết bài này xin thêm: dù không biết làm thơ) Hình như chỉ cần một trái tim tràn ngập tình yêu, cho ta nghe được, thấy được, cảm được cả những điều kỳ diệu trong thế giới vô ngôn của muôn loài trong vũ trụ. Có “phịa” không khi tiếng chim hót chiều trong các lùm cây, lúc ríu rít du dương, lúc chí chóe cãi nhau, nghe mà thương? Có “phịa” không khi tiếng sóng biển lúc êm đềm vỗ lên ghềnh đá, lúc đớn đau gầm thét vì đáy đại dương không yên? Có “phịa” không khi ở nơi này, mỗi buổi tối người lưu dân trở về nhà, nhìn ngọn đèn trên cửa kiên trì cháy lên như con mắt buồn bã canh thức niềm hy vọng thấy lại quê hương trong lòng họ? Có “phịa” không khi tôi muốn thêm vào phần giải đáp câu đố của bạn tôi, khoảng sân lờ mờ sáng dưới ánh đèn hiu hắt ấy, cả hai cô đơn và hoang vắng tận cùng?

Anh trưởng tràng ơi, nếu “phịa” cho đời đẹp hơn, vui thêm, thì có nên không?
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSat Oct 14, 2017 2:30 pm

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Bietnoi


Bao lâu rồi, ta không nhìn nhau?

Buổi chiều cuối năm miền Đông Bắc trời ẩm sẫm. Gió luồn qua cổ áo, lọt xuống ngực, chảy một giòng cảm giác lạnh khô bên trong lớp áo ấm. Chị cẩn thận lái xe qua những con đường lờ mờ tối, lao xao nghĩ tới nồi súp chị đã nấu sẵn cho bữa ăn thanh đạm thường lệ của hai vợ chồng đang chờ trên bếp. Chị đậu xe vào gara, bên cạnh xe của anh rồi bước lên nhà. Căn nhà yên tĩnh như mọi khi. Ngọn đèn trên chiếc bàn nhỏ chị đã để bật sáng tự động cạnh cái sofa, êm đềm tỏa một vòng tròn màu vàng trên vai ghế. Bỗng nhiên chị cảm giác hơi lạ. Có vẻ như căn nhà yên lặng hơn mọi khi và lạnh hơn mọi khi, làm chị rùng mình toàn thân tuy tai chị vẫn nghe mơ hồ tiếng máy sưởi ở dưới tầng hầm. Không thấy anh trong phòng ngủ, chị để nguyên quần áo đi làm, ra đầu cầu thang gọi vọng xuống bàn làm việc của anh dưới basement. Không nghe anh trả lời. Không cả một tiếng động nhỏ. Thanh âm tiếng gọi của chị dội vào khoảng không trống trải, vang lên một cách khó chịu. Không gọi thêm lần thứ hai, chị chạy như bay xuống hết mấy bực thang trải thảm và khuỵu xuống trên nền nhà, chỉ cách anh vài sải tay. Anh nằm đấy, bất động. Không biết từ bao giờ.

Anh về hưu ở tuổi 67. Chị về hưu theo anh (“để anh có bạn” như chị vẫn cười nói với bạn bè.) Chị mê phim Hàn quốc. Anh nể chị, để chị gối đầu lên chân anh, cùng xem. Anh cầm thêm cuốn sách hay tờ báo, thỉnh thoảng đọc riêng. Bài nào hay tin nào khiến anh theo dõi hơi lâu, chị lại rời mắt khỏi màn hình, mè nheo: “Có gì hay không anh, nói cho em nghe với!” Có hôm anh hào hứng bàn bạc, giải thích. Có hôm anh ừ hữ. Những buổi tối ngày thường họ vẫn trải qua bên nhau như thế. Cho tới tối hôm đó, đã hơi khuya, anh nói với chị: “Đi nghỉ đi em, anh hơi mệt.” Anh nhẹ nhàng nâng đầu chị đặt lên chiếc gối rồi đứng dậy. Phim đang tới hồi gay cấn, chị tiếc rẻ bảo anh: “Anh lên trước đi, chút xíu em lên liền.” Chị nói với theo khi anh đã tới chân cầu thang: “Nhớ uống thuốc nghe anh, em thay chai nước mới ở đầu giường cho anh rồi đó!” Không biết “chút xíu” của chị là bao lâu nhưng khi cuốn phim chấm dứt, chị bước vào phòng ngủ trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn trên chiếc bàn đêm phía chị nằm thì anh đã ngủ say. Chị rón rén kéo phần chăn của chị lên ngực và nhìn anh nhắm mắt ngủ yên trước khi tắt đèn. Những hôm vào giường cùng lúc, bao giờ anh cũng quấn lấy chị, kissed goodnight lên trán vợ rồi để chị gối đầu lên cánh tay anh mà ngủ. Phần chị, sợ nặng, làm đau tay anh nên cố nương nhẹ, lựa thế nằm sao cho cánh tay anh luồn qua gáy chị một lúc rồi chị lăn ra cho dễ ngủ.

Tối hôm đó, lặng lẽ một lúc để ôn lại cảnh quân vương tỏ tình thật lãng mạn và say đắm với cô nữ ngự y trong cuốn phim làm chị say mê, chị khẽ trở mình nằm sát vào anh. Chị hơi ngạc nhiên sao bữa nay anh ngủ say quá vậy? Mọi lần, dù chị cử động rón rén thế nào anh cũng tỉnh ngay và khi cảm nhận chị kề cận bên mình, anh quay mặt vào chị, ầm ừ xoa một bàn tay lên lưng chị rồi ngủ tiếp. Đêm tĩnh mịch một cách khác thường. Từ thật sâu trong cái tĩnh mịch ấy, cảm giác lo sợ bỗng nhiên cồn lên, cuồn cuộn như sóng dâng khi chị nhận ra không nghe tiếng anh thở. Chị ngồi bật dậy, hai tay ôm ngực, định thần một giây rồi mở đèn đầu giường. Chị lay nhẹ anh nhưng anh như một phiến đá ấm. Chị ú ớ. Chị hốt hoảng. Chị run lẩy bẩy bấm số gọi mấy đứa con. Gọi 911. Rồi chị ngây ra, bưng mặt khóc.

Cả tháng nay anh chị có vấn đề nan giải. Sắp nghỉ hưu, anh muốn dời về Cali để được hưởng những ngày nắng ấm và gió biển. Chị thương gia đình cậu con trai duy nhất của hai anh chị đang hành nghề bác sĩ ở đây. Chúng nó có con nhỏ, cần chị phụ một tay. Chị nấu nướng cho cả hai nhà, hàng ngày chạy đi chạy lại lo mọi việc cho cả hai nơi. Nên chị dùng dằng. Nên chị muốn anh chậm thực hiện kế hoạch thêm vài năm cho mấy đứa cháu nội vào hết trường tiểu học để cha mẹ chúng nó bớt vất vả. Anh giải thích, biện bạch, cắt nghĩa, vẫn không thuyết phục được chị. Cuối cùng, anh đề nghị để anh về Cali trước, ở tạm với gia đình cô em gái, tìm mua nhà và sắp đặt sẵn nơi ăn, chốn ở, chừng nào chị muốn về thì về sau. Chị bất bình, trách anh ích kỷ, chỉ nghĩ phần mình, không đoái hoài vợ con cháu chắt. Lấy cớ anh đọc sách khuya, để đèn làm chị khó ngủ, chị ôm gối qua ngủ ở guest room. Anh không nói gì nữa và buồn ra mặt. Những bữa cơm tẻ nhạt trôi qua trong không khí gượng gạo, khó thở.

Bản năng làm mẹ, quẩn quanh với bổn phận hàng ngày thấm đẫm tình thương yêu dành cho con cháu, chị vui, không có thời giờ nghĩ đến nhu cầu của người bạn đời hiện diện bên chị đã thành thói quen bất biến, gắn liền với cuộc sống của chị chặt chẽ đến nỗi chị không còn nhận ra chỗ nối để phải bận tâm hay lưu ý. Còn anh, nói như người Mỹ, anh “hang on,” với hy vọng như tia nắng chiều cứ mỏng manh dần rồi đứt. Một buổi sáng, anh ra xa lộ, không biết vì sao mà anh chui cái xe đang tăng tốc của mình vào phía sau chiếc xe vận tải nằm ụ bên lề phất phơ mấy cái cờ đuôi nheo màu đỏ báo động tai họa. Chị đón nhận tin dữ như ngày tận thế, ngơ ngác thấy mình lẻ loi đứng lại giữa hoang tàn đổ nát, không biết phải làm gì?

Nhiều cuộc chia ly không hẹn hò. Nhiều cái chết như cơn mơ không chờ đợi. Để lại nuối tiếc, bàng hoàng, ân hận. Tôi chợt nghĩ đến “Chúc thư của tình yêu.” Viết mỗi ngày. Thi hành mỗi ngày. Gia hạn mỗi ngày. Sao không để lại cho nhau tất cả những gì mình có và biết là sẽ không thể mang theo khi ra khỏi đời sống này? Giữa bộn bề những món nợ thế gian ngày ngày chạy vạy, đêm đêm nằm gác tay lên trán tìm phương cách hoàn trả, món nợ tình yêu dễ thanh thỏa nhất thì con người quỵt nợ hơi nhiều. Ai cũng muốn thấy số tồn căn là Zero trên báo cáo nợ ngân hàng nhưng có lẽ không mấy ai nhớ ra còn một bản báo cáo không bao giờ được viết xuống từ trái tim, cái ngân hàng có vốn liếng vô tận. Chẳng biết triết gia hay nhà thần học vĩ đại nào đã cấy vào đầu óc chúng ta quan điểm trở thành lời sấm truyền và được rao giảng rộng rãi trong dân gian: Đời là bể khổ. Cứ tạm tin như cụ Nguyễn Công Trứ từng ngâm ngợi: “Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, trần có vui đã chẳng cười khì.” Nhưng kinh nghiệm sống của con người là mặt đối chọi tích cực, không phải vô sở cứ: Bệnh quỷ có thuốc tiên! Chỉ hiềm thuốc tiên vì quý nên hiếm, tìm nó không dễ mà cần có “huệ nhãn,” ngụ ý con mắt được thiêng liêng soi sáng.

Tôi lang thang trên mạng, gặp bài hát Hãy Yêu Nhau Đi của Trịnh Công Sơn, có mấy câu từng được nhiều triệu thính giả Internet lắng nghe, “Hãy yêu nhau đi bên đời nguy khốn, hãy yêu nhau đi cho gạch đá có tin vui…” Quả nhiên, tình yêu là thần dược đem theo nó phép lạ vào chỗ khốn cùng, ban cả linh hồn cho gạch đá vô tri. Khi giới trẻ Tây phương chán ghét chiến tranh, họ hô hào Make Love, not War, có lẽ thế giới nên hiểu ngoài cái mặt phẳng dưới lưng ra, con người còn có khả năng yêu nhau bằng ngôn ngữ, bằng tiếng cười, bằng mắt nhìn “Hãy nhìn vào mặt người lần cuối trong đời…” Nhất là bằng mắt nhìn vì con người thường “thấy” nhau chứ không “nhìn” nhau. Đừng chờ như Trịnh Công Sơn cố vớt vát niềm tin trong phút giây vĩnh biệt mà khi còn có thể, hãy “nhìn” nhau như đây là lần cuối. Sẽ không phải hối tiếc hay ăn năn muộn màng. Sẽ giầu có, hạnh phúc đến chói chang, chất ngất. Sẽ cảm nhận dưỡng khí căng đầy buồng phổi, sinh lực lan tới từng ngón tay chân. Sẽ muốn ân cần ban phát, chia sẻ, vì vơi đi sẽ đầy lại.

Anh mải mê xông pha trận mạc, chắc không còn nhớ có lần cô em gái nhỏ nói và hỏi khẽ anh: “Anh có ánh mắt nhìn rất đẹp, làm tan chảy cả sắt thép. Đã bao lâu rồi anh không “nhìn” nữa?” Hoa hồng vẫn nở ngoài sân, những chậu phong lan vẫn thoảng hương trong gió và ngày cứ ngắn lại dần…

Vừa rồi, nói chuyện với nhà thơ Tây Bắc về đề tài thỉnh thoảng “nhìn” nhau, cái nhìn “chậm, lâu, quan tâm, trao gởi, bày tỏ, xin lỗi,” chị cười ầm, bảo tôi: “Sao dạo này cải lương thế?” Tôi biện bạch: “Bạn bè bỗng dưng đi nhiều quá!” Và cố cãi nên bất giác viện cả ông bà ra để tự bênh vực, nhắc chị câu: “Phu phụ tương kính như tân.” Triết lý khôn ngoan và khiêm nhượng của người xưa không được hậu thế coi trọng có lẽ vì nay mọi người sống cho mình và vì mình nhiều quá. Thay vì nghiêm túc lắng nghe, thẩm thấu, đa số chúng ta đều coi thường và bác bỏ lời căn dặn ân cần này, cho là khách sáo, thậm chí, xin lỗi quý anh chị nghệ sĩ cổ nhạc, bỗ bã cho là cải lương. Ngẫm cho kỹ, cốt lõi của sự từ khước là chúng ta không coi trọng nhau và từ đó, ngỡ như không cần nhau tuy ai cũng kêu gào hạnh phúc.

Trong cuộc hành trình vòng quanh thế giới để phỏng vấn những đôi vợ chồng thành công trong hôn nhân nhằm thu thập tài liệu cho cuốn sách bà muốn viết với nhan đề The Happy Wives Club, tác giả Fawn Weaver ghi nhận nhiều lần tầm mức quan trọng của NGHI THỨC trong cuộc sống chung. Trở lại nhà, bà nói với chồng: “Giữa chúng ta không có một nghi thức nào cả trong khi nó chính là bí nhiệm của hôn nhân hạnh phúc.” Quý độc giả chịu khó vào internet, tìm đọc bài viết “Những Lứa Đôi Hạnh Phúc Làm Gì Trước Bữa Ăn Sáng” để thử làm một trắc nghiệm giản dị với mình. Nếu vị nào ngẩn ra một giây, tôi hy vọng quý vị sẽ cảm thấy thú vị sau đó. Nếu có ai cười, cho là tôi lẩm cẩm, tôi sẽ vui lòng đợi tới ngày “ai” này bằng tuổi nhạc sĩ Anh Bằng khi ông hạ bút viết “Anh còn nợ em nụ hôn vội vàng…”

Quả nhiên, hạnh phúc rất cần nghi thức để thể hiện, không phải do ở sự rườm rà, khách sáo mà chính bởi lòng trân quý hạnh phúc ấy đã cho ta nhiệt tình luôn cố gắng vượt qua mình và giữ gìn nó. Công phu lắm, tựa như mỗi ngày chúng ta cẩn trọng gói những món quà thật đẹp để trao cho mọi người khi gặp gỡ. Tuy nhiên, phần thưởng nhận lại thật không nhỏ. Có bao nhiêu cha mẹ và con cái, vợ và chồng, bạn bè của nhau có lúc tự hỏi “Bao lâu rồi chúng ta chỉ thấy nhau chứ không nhìn nhau?”

Bùi Bích Hà

.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSun Oct 22, 2017 9:22 pm

.


Sách có linh hồn không?
Bùi Bích Hà


Sinh trưởng ở thành phố Huế cổ kính, những thập niên đầu và giữa thế kỷ 20, chúng tôi chịu một nền giáo dục hết sức nghiêm khắc của gia đình. Cha mẹ và cả các anh chị, kiểm soát con em rất chặt chẽ về cả hai phương diện hành vi và tư tưởng. Người lớn rất sợ chúng tôi tiêm nhiễm những điều chất chứa trong nội dung các cuốn sách, nặng nhất là sách truyện hay tiểu thuyết. Bàn học của chúng tôi không có sách nào khác ngoài tập vở liên quan đến chương trình học ở nhà trường, Vài bạn may mắn được gia đình chăm sóc kỹ thì có mấy cuốn sách hồng mỏng tang nêu cao gương đạo đức cho tuổi thiếu niên.

Phần tôi, người vô tình gợi ý cho tôi tò mò muốn đọc sách từ tuổi lên bảy là chị cả của tôi. Bố mẹ tôi vì công việc, thường vắng nhà. Khác với tôi bị một chị và một anh trên mình canh gác và trừng phạt thay bố mẹ, chị không bị ai giám sát cả nên chị tự do đọc bất cứ sách gì chị muốn. Tôi còn nhớ như in cảnh những buổi trưa mùa Hè gió hây hây mát, chị ngồi dựa lưng trên cái ghế xích đu đặt ở mé hiên thấp thoáng nắng từ cái dàn thiên lý lá xanh như ngọc, quyển sách úp hờ hững trên ngực, hai mắt chị lim dim, khuôn mặt chị đằm đằm nét dịu dàng thỏa thuê của một bông hoa hé cánh. Chị ngưng đọc từng lúc như thế khiến tôi thầm đoán chắc chị đang ôn lại những gì chị vừa thấy mô tả qua mấy trang sách chị cầm trên tay. Điều này kích thích trí tưởng tượng non nớt của tôi, khiến tôi liều giấu một cuốn của chị trên cái hộp nước trong bồn cầu để tôi có chỗ đọc nó. Dần dần, bằng cách này, tôi đọc được nhiều sách lắm, của Dương thị Hạnh, Hoàng Ngọc Phách, Lê văn Trương, Phạm Cao Củng, v.v.. nhiều nhất là của Tự Lực Văn Đoàn. Có những cuốn đối thoại giữa các nhân vật rất hay và tôi bắt chước họ bằng cách một mình lần lượt đóng mấy vai, một mình đối đáp qua lại, làm đủ cử chỉ như sách mô tả đằng sau cánh cửa phòng vệ sinh tôi đã chốt kỹ. Sau này lớn lên, ăn nói trôi chảy, khẩu khiếu của tôi chắc từ đây mà ra.

Năm tháng trôi qua, như các bạn bè cùng trang lứa, thời mới lớn, tôi cũng có nhiều anh ngấm nghé. Có một anh du học bên Pháp về, cứ mỗi lần đến thăm tôi, anh đều cho sách, những cuốn anh chọn mua ở nhà sách Albert Portail (sau này là Xuân Thu) trên đường Catinat, Saigon. Nhờ anh, tôi đọc hết những cuốn của Francoise Sagan và rải rác trong chương trình học bên Văn khoa, vài cuốn của Jean Paul Sartre, Albert Camus, Somerset Maugham, Andre Gide (tôi bỏ nửa chừng) Alain Robbe-Grillet (tôi không mấy thích). Riêng trong số sách anh cho, có một cuốn không thuộc loại văn học nên tôi đặc biệt lưu ý, cuốn Sur Les Hauts Plateaux du Vietnam, viết về đời sống của các bộ lạc thiểu số vùng cao.

Thấy anh qua lại đã lâu mà tôi thì lửng lơ, mẹ tôi khuyến khích: “Này con, mẹ thấy cậu Thụy được đấy. Trai gái quen nhau mà cậu ấy chỉ cho con sách. Người quý sách tính tình nho nhã, thanh lịch và sâu sắc con ạ!”

Tôi ngạc nhiên nghe nhận xét của mẹ trong cách đánh giá một con người. Nhất là bà xuất thân từ một làng quê nghèo Bắc Ninh, bản thân mù chữ, trưởng thành với công việc đồng áng lam lũ cho đến khi bước vào ngôi nhà bề thế của bố tôi để sinh con cho ông. Mãi sau này, nghĩ lại, tôi mới nghiệm ra niềm an ủi nuôi sống mẹ tôi qua suốt cuộc đời nhọc nhằn, cơ cực của bà là mấy cuốn Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc mà tôi thực sự không biết nhờ đâu bà thuộc lòng không sót một câu!

Đến đời tôi, đứa con không ai chờ đợi trong gia đình vì trên tôi đã có một chị xinh đẹp và một anh khôi ngô, tuấn tú. Từ khi lọt lòng, tôi hẩm hút trong tay người đàn bà sinh ra tôi mà tôi chỉ được gọi là chị, loanh quanh với “người chị” từ tinh mơ đến quá nửa đêm, ngày nào như ngày nấy, phải làm trăm công ngàn việc, nhiều lắm chỉ cho tôi thỉnh thoảng ngửi hơi áo đầy mùi mắm muối của chị, không có thì giờ bế ẵm, chuyện trò với tôi, bỏ mặc tôi trong cái xe đẩy bằng mây, lọc cọc bốn cái bánh gỗ trong gian bếp ám khói là nơi chị phải đánh vật suốt ngày với mấy ông đầu râu để lo cơm nước cho mấy chục nhân khẩu. Biết đi rồi, tôi vẫn một mình lủi thủi chơi với mấy con côn trùng vô hại, với cái chày giã cua quấn cái tã cũ giả bộ làm búp bê, với cái bánh xe lăn vòng quanh cái sân gạch và tôi luôn miệng mời chào, “Chị ơi, chị đi xe của em lên chợ Đông Ba không?” Lớn hơn tí nữa, tôi lăn lóc từ sáng đến chiều tối với con cái những người thợ thuyền và công nhân trong nhà, chơi đủ thứ trò chơi lảm nhảm của đám con nít không có ai giáo dục như tôi. Phước đức tổ tiên để lại, nhờ chị cả, tôi bước vào thế giới sách và học được bao nhiêu điều kỳ diệu qua ngôn ngữ và cách ứng xử của các nhân vật tác giả vẽ ra trong những cuốn sách ấy. Cũng cắp sách đi học như nhiều trẻ con khác nhưng vì có tình yêu chữ nghĩa, tôi với biển học như cá gặp nước, cha mẹ không cần roi vọt đe nẹt, thúc bách. Hơn ai hết, tôi sớm biết sách là chìa khóa mở cửa một thế giới huy hoàng, của ánh sáng, của tâm hồn, của trí tuệ, của trái tim và của trí khôn nhân loại.

Mấy tháng nay, tôi có chị bạn đang loay hoay tìm hiểu, thu góp mọi tài tiệu liên quan đến những vụ đốt sách xảy ra ở Sài Gòn những ngày đầu tiên sau biến cố 30 Tháng Tư 1975, khi cả miền Nam bị Cộng Sản Bắc Việt trắng trợn vi phạm Hiệp Định Paris, lợi dụng thời cơ đến trong tầm tay và xua quân nuốt trọn phần lãnh thổ VNCH phía Nam vĩ tuyến 17.  Chị nói với tôi: “Tội đốt sách cũng ngang với tội diệt chủng. Lịch sử kết tội những lò hơi ngạt của Hitler, sao không ai kết tội kẻ đốt sách?” Bạn tôi không quá lời nếu chúng ta hình dung được mỗi con chữ, mỗi cuốn sách cũng có linh hồn.

Trận đốt sách đầu tiên tôi chứng kiến diễn ra tại lề đường trước mặt rạp chiếu bóng Cao Đồng Hưng, gần chợ Bà Chiểu, Gia Định. Tôi không biết có bao nhiêu cuốn sách và những loại nào được gom thành đống có ngọn, cao chừng hơn một thước, đáy tòe ra chừng thước rưỡi. Nam nữ đoàn viên đội băng đỏ xúm quanh, hăng hái diễn thuyết về nền văn hóa Mỹ Ngụy đồi trụy cần phải được đốt sạch. Họ kêu gọi dân chúng tự giác đem nộp sách cho ủy ban quân quản xử lý hay là chờ nhà cửa bị lục soát, sách bị tịch thâu và người mang tội với giải phóng và nhân dân? Hiệu triệu xong, họ cùng nhau hò hét inh ỏi rồi châm lửa vào nấm mộ sách. Ngọn lửa nhanh chóng bốc lên ngùn ngụt, khói bay khét lẹt. Tôi hơi lạ, nghĩ sao sách mới in ra thơm mùi giấy, mùi mực là thế mà khi bị đốt, sách không thơm nữa? Mỗi tờ, mỗi trang là thịt da của sách chăng?

Sau màn đốt sách này, tôi chờ đợi phải chứng kiến thêm nhiều lần nữa nhưng không! Có ai đó thông suốt về kinh tế tầm nhỏ, đã mách nước chính quyền giải phóng đừng dại dột đem sách ra đốt vì tiền đấy! Đem bán ve chai hay giấy lộn sẽ thu được khối tiền. Thế là lề đường đầy người trải những tấm bạt bày bán sách cân theo kí lô và bạn hàng chạp phô các chợ xé sách xoàn xoạt để lấy giấy gói các vật phẩm bán lẻ cho người mua. Đó là cách làm kinh tế cấp kỳ của những người chủ mới của miền Nam Việt Nam sau “chiến thắng vĩ đại đưa họ lên đỉnh cao trí tuệ của loài người.”

Không đốt sách nhưng sách vẫn là một hiểm họa đáng sợ cho những kẻ không có khả năng đọc sách, hiểu sách để làm chủ sách. Sách vẫn muôn đời là ngọn đuốc soi đường, là vũ khí tranh đấu hiệu quả trên mặt trận xây dựng Tự Do/Dân Chủ/Nhân Quyền và Hạnh Phúc cho con người chống lại bóng tối của ngu muội và của sự ác. Không triệt được sách, không bỏ tù được sách thì triệt người viết sách, bỏ tù tác giả. Sau cuộc chiến đốt sách sớm tàn lụi là cuộc chiến truy đuổi và bách hại các văn nghệ sĩ, nhà báo, học giả, trí thức kẹt lại trong nước.

Viết đến đây, tôi sực nhớ mẹ tôi xuất thân mù chữ. Rõ ràng bà không có khả năng đọc, hiểu và làm chủ sách nhưng sao mẹ tôi không hằn thù, không sợ hãi sách mà trái lại, bà quý sách và ca tụng những người quý sách? Sự khác biệt giữa mẹ tôi và các đội viên mang băng đỏ ở tay áo ngày 30 Tháng Tư 1975, cả những kẻ ra lệnh cho họ đốt sách, là gì? Phải chăng là trái tim của yêu thương con người, của thiện ý muốn thấy cuộc đời này tươi đẹp hơn, tiến bộ hơn, sáng sủa hơn? Phải chăng là niềm tin vào khối óc con người cần được nuôi dưỡng và phát triển thay vì triệt hạ nó?

Thi sĩ Phùng Quán hạ bút viết những câu thơ để đời: “Có những phút ngã lòng, tôi vịn câu thơ mà đứng dậy.” Mẹ tôi là nhân chứng cho thơ của ông khi bà sống được như một người tử tế và đi trọn cuộc hành trình khốn khó của bà trên mặt đất này cũng chỉ nhờ những câu thơ trong Kiều, Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc, để bà vịn đứng lên và không qụy ngã. Chữ nghĩa là tường thành, là đá tảng, là gậy thép, là sức mạnh sinh tồn vượt qua mọi thử thách và đe dọa. Sợ là phải.

Mới đây, nhân chuyện con nhện giăng tơ ở vườn sau nhà tôi, chúng tôi nhớ lại bài thơ cổ đăng trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư, người Việt Nam nào ra đời trong thế kỷ 20 đều thuộc: “Đêm qua ra đứng bờ ao/ Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ/ Buồn trông con nhện giăng tơ/ Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai?”… Điều bất ngờ vô cùng lý thú là một anh trong nhóm chúng tôi đang có nguyên vẹn cuốn sách này trong tay, khiến tôi ngẩn ngơ rồi kinh ngạc, tự hỏi làm sao mà một cuốn sách mỏng có thể trôi nổi gần một thế kỷ, qua biết bao tai ương, sóng gió để vẫn đường hoàng tồn tại trong tủ sách của một người suốt đời yêu sách như thế? Tôi nhất định tin rằng không chỉ xương da mà sách còn có linh hồn và linh hồn ấy bất tử, sá gì ý đồ diệt sách của một chính thể vô đạo mà sự hiện diện tính bằng cái ngắn ngủi của một kiếp người?

Bùi Bích Hà



Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà 33322520050_e24d7ef4d0_o
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSat Nov 04, 2017 12:12 am



Dấu chân để lại

Bùi Bích Hà

Nhà thơ Phùng Quán hạ bút viết mấy câu: “Có những lúc ngã lòng, tôi vịn câu thơ mà đứng dậy.” Thi sĩ yêu thơ, thơ là tình yêu của thi sĩ. Vịn câu thơ là vịn vào tình yêu. Sách vở, thi phú, kinh nghiệm truyền khẩu kể lại quá nhiều những cơ hội hồi sinh do (sức mạnh) tình yêu. Tình yêu vượt qua nỗi chết. Kỳ diệu như thế, quyền lực như thế, sao vẫn có người xua đuổi tình yêu? Nhổ vào mặt nó. Vùi dập nó. Ném nó vào thùng rác. Xong lại cầy cục, mò mẫm đi tìm. Tìm được tình yêu mới, ba bẩy hai mươi mốt ngày, như người uống xong nước trà đầu tiên đem bã trà đi đổ, rồi mọi việc lại tái diễn theo chu kỳ cố hữu. Cũ/mới, mới/cũ. Kịch bản y hệt nhau. Lần sau kém nồng nhiệt hơn lần trước, chóng phai tàn hơn lần trước vì đã lẩn quẩn chút hồ nghi.

May mắn thay, cuộc sống muôn màu. Cũng có những lứa đôi yêu nhau toàn vẹn. Hai người là những sợi tơ quấn quyện dệt vào vuông lụa đẹp như mây, ấp ủ, dịu dàng, êm ả, “tay anh em hãy tựa đầu, em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây.”

Cuộc hôn nhân của cụ ông Patrick Roach và cụ bà Rose Scott đã vượt qua lễ kim hôn 13 năm. Họ cưới nhau trong một ngày đẹp trời cuối tháng 6 năm 1952, khi Nữ Hoàng Elizabeth Ðệ Nhị của Anh Quốc vừa mới lên ngôi và nước Mỹ đang dưới thời Tổng Thống Harry Truman. Con đường hạnh phúc của đôi uyên ương có vẻ lên thác xuống ghềnh, đi tìm rơm rạ xây tổ từ Bắc Mỹ qua Ireland rồi bay tuốt tới Nam Phi. Họ dọn nhà nhiều lần và nơi này tới nơi kia xa quá, chắc là tay xách nách mang nên một lúc nào đó, cuốn album bìa bọc da giữ trọn bộ hình cưới của họ bị thất lạc trước khi họ định cư tại Staffordshire.

Trong suốt thời gian họ nuôi dạy hai đứa con khôn lớn, trưởng thành, lấy vợ lấy chồng và sanh cho họ 4 đứa cháu, cuốn album quý giá của hai ông bà, không biết vì duyên cớ nào, lại tìm tới nằm nghỉ ngơi trong cái thùng chứa đồ phế thải của một công ty luyện thép trong vùng Birmingham để rồi cuối cùng, lọt vào tay bà Tina Bradley, 56 tuổi, nhân viên tiếp thị. Khi bắt đầu việc dò tìm chủ nhân của cuốn album, bà Bradley nói với tờ báo địa phương Birmingham Mail như sau: “Tôi nghĩ là bố tôi đã lượm được cuốn album trong cái thùng chứa xà bần và có lẽ ông nghĩ chủ nhân của nó chắc phải khổ tâm lắm vì đã đánh mất nó nên ông đem nó về nhà với ý định sẽ hoàn trả cho khổ chủ một dịp nào đó, cũng y như mong muốn của tôi giờ này đây.”

Bà Bradley tìm thấy cuốn album khi dọn dẹp các di vật của thân phụ, một cựu chiến binh Thế Chiến II, sau khi cụ qua đời ở tuổi 83 và cho biết bà cần trao nó lại cho người sở hữu nó để vinh danh cụ, một người sinh tiền luôn luôn làm điều phải.

Ngày 28 Tháng Sáu năm 2011 vừa tròn 61 năm ngày cưới của ông bà Roaches, tờ Mail khởi sự đăng tải vài tấm hình chụp hôn lễ của họ kèm với lời rao tìm tung tích hai ông bà. Một tháng sau, nhờ cô con gái của một trong mấy cô phù dâu ngày vui năm xưa nhận ra, cuốn album được trao trả tận tay chủ nhân của nó.

Với lòng biết ơn và tâm trạng buồn vui lẫn lộn, đôi uyên ương đầu bạc vẫn hạnh phúc bên nhau trong tuổi già lần dở từng tấm ảnh cũ, kiểm điểm người còn kẻ mất, thấy nước mắt dâng lên mi. Cụ ông Patrick ở tuổi 84, nói với BBC News: “Chúng tôi không còn chữ nào đủ để cảm ơn vị ân nhân đã tìm được kỷ vật quý giá này cho chúng tôi.” Cụ bà Rose Scott phụ họa thêm với chồng: “Thật hết sức cảm động trước công khó bà ấy đã bỏ ra để đi tìm chúng tôi.”

Nhờ vào sự phát triển của Internet và truyền thông, người ta ghi nhận nhiều bức hình kỷ niệm bị thất lạc vì nhiều lý do, đã được thu hồi. Trong trận bão Sandy năm 2012, một phụ nữ ở Connecticut bắt gặp cuốn album cưới năm 1962 tấp vào gần nhà. Sau đó, được biết nó thuộc về cụ bà Betty Elio, 82 tuổi, tài sản bị lũ cuốn trôi sạch sành sanh, thế nhưng “của tin còn một chút này.” May mắn châu đã về Hiệp Phố nhờ một người bà con của cụ nhận ra cuốn album khi tờ báo địa phương đưa hình ảnh lên mạng. Trong cuộc phỏng vấn với cơ quan truyền thông này, cụ Elio vừa ngắm nghía những tấm ảnh ghi lại ngày vui trọng đại của đời mình vừa nói: “Như thể tôi đang đi ngược lại thời quá khứ vậy.”

Ông bà mình ngày xưa đã nói (và hẳn là đã thực chứng): “Tâm động quỷ thần tri,” đồ vật thất lạc mà duyên may vẫn còn thì cố nhân sẽ có ngày tìm lại được nhưng ngoài duyên may, liệu tâm thành tưởng nhớ, mong cầu của đi không đi mất có khiến cho cái ngỡ mất sẽ quay về không? Tôi đặt câu hỏi này vì mới đọc cuốn The Secret của bà Rhonda Byrne nói về định luật hấp dẫn trong vũ trụ. Giả dụ cuốn album cưới trong hai trường hợp trên thuộc về hai cuộc nhân duyên tan vỡ, không còn ai mong đợi, chúng nó đâu có địa chỉ nào để tìm về?

Sống ở Mỹ gần 30 năm, có nhiều dịp đi nhiều tiểu bang vì nhiều lý do. San Jose chỉ cách quận Cam một giờ bay hay nửa ngày lái xe thì với tôi vẫn rất xa lạ. Một lần đi gần tới, rẽ về Sacramento trong ngày cưới của cậu em họ. Vài lần đi qua để chạy thẳng lên San Francisco thăm con gái đang học ở đấy rồi chạy tuốt lên Reno ngắm hồ nước ven đường và thưởng thức bình minh ửng hồng trên những đỉnh cây nhìn xuống thung lũng. Vẫn chưa lần nào đặt chân xuống San Jose. Nay nhân dịp cần đi thăm một người bạn thân lâm trọng bệnh, thay vì đáp máy bay, TD từ San Diego đề nghị hai chị em lái xe tàn tàn lên Bắc Cali, vừa đi vừa ngắm những khu vườn cây trải mình hai bên xa lộ 5 rồi lượt về ngắm biển dài theo xa lộ 101. Lâu lắm tôi mới có lại cái thú vào những quán ăn giữa chuyến đi, cảm giác sự tạm bợ vừa lôi thôi vừa đượm chút buồn vui của gặp gỡ và chia tay không hẹn hò. Chị TD cười cười: “Ðúng là cơm hàng cháo chợ nhé!”

Ðến Milpitas gần 6 giờ chiều. Nắng cuối ngày vàng nhạt trên dãy hành lang khách sạn lác đác người vào ra. Mấy bụi chuối dại. Vài khóm hoa không tên nở đó đây. Tôi chắc cảnh trí này bình thường như mọi ngày thôi nhưng có lẽ nỗi buồn trong lòng tôi lúc này đã khiến nó trông ủ ê tội nghiệp.

Sáng hôm sau, TD thức dậy sớm. Chắc chị đi một vòng thể dục như thường lệ. Trở về phòng, chị khoe: “Tìm được đường đi tới Vườn Tre rồi, chỉ chừng 20 dặm về phía Nam, tiện lắm!” Không nghe chị nhắc nhở gì về bữa điểm tâm Continental do nhà hàng hứa khoản đãi khách mướn phòng. Hỏi. Chị lắc đầu: “Mình ăn nửa cái bagel rồi! Có mỗi một cô vừa làm nhiệm vụ tiếp tân, vừa lo ăn sáng, chẳng ra làm sao cả! Thảo nào trông con bé không thân thiện chút nào ngay từ đầu.” Hóa ra chân lý “Hiểu để Thương” do thầy Nhất Hạnh rao giảng muôn đời đúng (tuy để “hiểu” được, lắm khi phải bửa cái đầu ra!)

Buổi sáng mùa Hè ở một thành phố lạ, tự nhiên có nét quyến rũ riêng. Của cảnh quan mới thấy lần đầu. Của hứa hẹn những điều chưa biết. TD và tôi đồng ý sẽ ăn sáng ở nơi nào muốn dừng chân trên đường đến làng Saratoga, nơi có Vườn Tre cả hai đang muốn tới thăm. Khởi đi từ năm 1915 với một đôi vợ chồng cư dân San Francisco có tấm lòng nhân ái, ông Oliver và bà Isabel Stine, khi họ chọn mua khu đất 18 acres này để làm nơi lui tới di dưỡng tinh thần cho gia đình, các nhân sĩ trên thế giới và bằng hữu yêu chuộng nghệ thuật. Bà Stine thân hành đáp tàu thủy qua Nhật, lưu lại đây gần trọn năm 1916 để đi chiêm ngắm các khu vườn Nhật, đặc biệt trong vùng Fuji-Hakone National Park. Trở về Mỹ, bà cho mời các kiến trúc sư người Nhật chuyên vẽ kiểu nhà và chuyên vẽ kiểu vườn để khởi công xây cất khu lâm viên này theo lối đồng quê Nhật, được bà đặt tên là Hakone.

Gần một thế kỷ trôi qua với rất nhiều thăng trầm và thử thách, quyền sở hữu cũng qua tay nhiều người mãi cho tới năm 2000, chi phí bảo trì khu vườn trở thành gánh nặng quá lớn khiến cho sự sống còn của nó bị đe dọa nghiêm trọng. May mắn thay, Quỹ tài trợ của ông bà David & Lucile Packard đã rót vốn ban đầu giúp thành lập ngân sách bảo trì riêng cho khu vườn. Với chế độ tự quản như hiện nay, hy vọng trong tương lai, Hakone sẽ mãi còn là thắng cảnh rất nên ghé lại dành cho khách du lịch và vãng lai đến từ khắp nơi trên địa cầu.

Ngoài các kiến trúc khác trong khu lâm viên, vườn tre được thêm vào trong một dịp đại trùng tu năm 1987, dưới sự giám sát của ông Kiyoshi Yasui, thế hệ thứ 14 của một giòng họ chuyên về kiến trúc của hoàng gia Nhật.

Bỏ đồng token vào cái khe của chiếc hộp sắt ở cổng và lách mình vào trong, dù trời đang nắng chang chang giữa trưa hè, sự yên tĩnh mênh mông xung quanh lập tức cho tôi cảm giác thư thái cũng mênh mông không kém. Cũng bầu trời chung, cao thăm thẳm ấy nhưng sao như gần gũi, thân thiện và hiền hòa hơn. Cũng con đường đất cát như mọi nơi nhưng sao mỗi bước đi như có tiếng thì thầm êm đềm ngân dội. Tôi đoán là do những cái cổng gỗ kiểu Nhật mang đầy thiền vị. Tôi cũng nghiệm ra có lẽ vì dân Nhật chịu nhiều thảm nạn từ miền đất và thổ ngơi họ sinh sống, thiên nhiên và con người có những lúc hung hãn đến điều nên, như phượng hoàng thoát thai từ lửa đỏ qua hai trái bom nguyên tử rót xuống Hiroshima và Nagazaki, kết thúc Ðệ Nhị Thế Chiến, người Nhật tái sinh một kiếp mới và có một nền văn hóa khác. Hơn ai hết, họ thực chứng nguyên tắc sống lấy nhu trị cương vì cứng chọi với cứng là gẫy. Phải như xe hơi cần lắp hệ thống ống nhún để đi qua con đường mấp mô hầm hố. Phải như dòng nước mềm chảy qua ghềnh thác để tung tăng reo vui. Phải như những hạt mưa để làm nguội mặt đất cho cỏ cây nhú mầm và xanh lộc. Phải buông lơi cảm xúc, thư giãn hình hài để nương theo cơn đau và làm chủ hơi thở. Lịch sử của dân tộc đã tôi luyện cho người Nhật bản năng hay kỹ năng sinh tồn tuyệt diệu.

Ðộng mà tĩnh. Tĩnh mà động. Tôi đứng trong khu vườn Hakone, cảm nhận cả tâm hồn và châu thân bung nở, từng tế bào thấm đượm rào rạt, no nê, khí uyên nguyên trong trời đất, ngỡ mình như quả bong bóng sắp bay lên tầng không. Lầu Vọng nguyệt bốn bề trống trải nhưng tôi biết trăng sẽ rất đẹp, rất huy hoàng trên cái hành lang gỗ nhìn xuống hồ nước này. Những dây hoa wisteria chờ đến mùa nhắc tôi vạt áo lụa mát rất Huế ơi của Trần Thị Lai Hồng. Bước vào khu vườn tre xanh nghít, thẳng tắp, yên lặng tuyệt đối, thỉnh thoảng lắm mới nghe một tiếng chim trong trẻo như ngọc rơi, tôi hỏi TD đang thoăn thoắt tả xung hữu đột với máy ảnh trên tay: “Sao tre ở đây không kẽo kẹt như ở vườn nhà mình ngày xưa nhỉ?” Chị trả lời không cần một giây nghĩ ngợi: “Nhìn đi. Những thân tre thanh mảnh, thẳng tắp như thế kia, làm sao cọ vào nhau thành tiếng được? Vườn Nhật mà kẽo kẹt suốt ngày thì sốt ruột quá!”

Quả nhiên, tôi xem lại lịch sử khu vườn, thấy mãi tới năm 1987, bậc thầy của ngành kiến trúc thuộc Hoàng Gia Nhật là ông Kiyoshi Yasui, mới thêm công trình kén chọn này vào. Thời đó, tôi đã định cư ở Mỹ được hơn một năm rồi, đang cặm cụi làm thợ trong một xí nghiệp sản xuất y cụ ở Irvine. Trẻ con lớn lên trong gia đình, trong lớp học, trong xã hội. Vườn tre xanh biếc, cao vút, lớn lên giữa thiên nhiên. Tôi chợt nghĩ mình có già đi cũng đành!

Tôi đã đi thăm vườn Nhật ở thành phố Bellevue, WA và nhiều vườn Nhật lớn nhỏ đó đây, có khi ở tư gia bạn hữu. Những không gian ấy có khác nhau về kích cỡ nhưng các họa tiết tạo nên khung cảnh đều theo một công thức chung, mang đến cho người chiêm ngắm sự tĩnh lặng. Riêng ở Hakone, diện tích quá lớn để được gọi là vườn. Cũng thú vị khi được biết Hakone từng được sử dụng để thực hiện phần lớn ngoại cảnh cho cuốn phim Memoirs of a Geisha đoạt tới 3 giải Academy Awards.

Ngoài khu Vườn Tre, làng Saratoga còn có suối ôn tuyền và khu phố xá thương mại ở đầu con dốc thật xinh xắn và thơ mộng. Trên đường ra, TD hỏi bâng quơ: “Bao giờ người Việt Nam mình để lại đất nước này những dấu chân như vậy?” Khi không có câu trả lời, tôi hay đổ thừa cho duyên số. Mãi về sau, tôi mới nhớ ra tin tức về một triệu phú Việt Nam, ông Phạm Ðình Nguyên 39 tuổi, cách nay vài năm, đã mua thành phố Buford của tiểu bang Wyoming với giá $900,000 Mỹ kim và giữ luôn chức thị trưởng từ người chủ cũ. Tuy nhiên, đến từ một xứ sở nghèo khó vì chiến tranh và giờ đây hãnh tiến chen chân vào thương trường quốc tế để làm giàu, nghe nói ông ta dự tính biến Buford thành trung tâm phân phối cà phê Việt Nam.

Sắp sang Tháng Bảy âm lịch rồi! Ở đây không có mưa ngâu nhưng chiều tối ở quận Cam thời tiết giữa mùa Hè mà sao dịu dàng đến lạ. Có người bạn gởi cho tôi mấy tấm ảnh chụp trời mưa ở Huế, làm tôi buồn muốn khóc, thương nhớ biết bao những mùa mưa thời thơ ấu ở nơi xa xôi ấy, với cha, với mẹ, với anh, với chị, với mộng mơ ngập lòng. “Gió bao lần từng trận nhớ thương đi, mà kỷ niệm ơi, còn gọi ta chi?” (Xuân Diệu)
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSun Nov 26, 2017 9:40 pm



Kinh nghiệm

Bùi Bích Hà


Sống đến một tuổi nào đó, người ta có khá đủ từng trải để hiểu rằng cái giá của kinh nghiệm thường rất đắt, ở cả hai mặt thời gian và tổn thất.

Có một lý thuyết được các bậc tiền bối (gồm cả cha mẹ) tin tưởng và ra sức cổ võ, truyền bá, là con người có thể ứng dụng kinh nghiệm của kẻ khác để tránh những va vấp tương tự. Trong một giới hạn liên quan đến những vật thể cố định, những nguyên tắc bất di dịch (ví dụ: kinh nghiệm mở cái nắp hộp không phải dùng sức nhiều, nấu món ăn với thịt dùng nước lạnh, với cá dùng nước sôi…) lý thuyết này không sai.

Tuy nhiên, với con người hay những hoàn cảnh không thập phần giống nhau ở chiều sâu, có vẻ những kinh nghiệm cứng nhắc không phát huy được tác dụng và con người phải tự mình trải qua các bài học đắt giá để có kinh nghiệm riêng.

Xin đan cử một ví dụ đời thường khá phổ thông khác để minh chứng: kinh nghiệm “quất ngựa truy phong” trong tình trường, cách nay vài thập niên và bây giờ, trước đây ở quê nhà và lúc này ở Mỹ, nếu các bạn gái học được kinh nghiệm của cha mẹ hay của nhau, có lẽ không có người thứ hai rơi vào tình huống “thua thì thua quyết níu lấy con…”

Ai cũng nghĩ mình khôn ngoan hơn, may mắn hay phúc đức hơn, có lý lẽ riêng để đi con đường của mình. Cho nên, thông thường, chúng ta rút kinh nghiệm qua những bài học thực tế chua cay, những biến cố bi thảm hơn là từ người xung quanh hay từ những bài học từ chương dưới mái trường và mái gia đình.

Chẳng thế mà kinh nghiệm với cậu Adam Lanza, 20 tuổi, con của một gia đình ly dị, sống giam mình suốt bao nhiêu năm trong căn phòng riêng không chỉ đóng kín cửa mà còn trùm kín cả mọi cửa với các túi nylon màu đen loại dùng để chứa rác nhưng bà mẹ sống cạnh con vẫn không hay biết, không quan tâm, không mảy may băn khoăn về những biểu lộ bất thường ấy.

Cho tới một ngày cậu chĩa súng vào mẹ, chĩa súng vào 20 bé thơ và sáu cô giáo/nhân viên văn phòng trường tiểu học Sandy Hook, thành phố Newtown, tiểu bang Connecticut, sáng ngày 14 Tháng Mười Hai, 2012, lấy đi sinh mạng của các nạn nhân vô tội chỉ để hả lòng hận thù và căm phẫn số mệnh, sự thờ ơ của mọi người.

Trong một vụ thảm sát đau lòng khác xảy ra tại trường Virginia Tech năm năm trước đó, ngày 16 Tháng Tư, 2007, 33 ngưởi tử nạn, cậu sinh viên Nam Hàn 23 tuổi, Cho Seung-Hui đã viết trong lá thư giãi bày nguyên nhân việc làm của cậu như sau: “Các người đã có tỷ tỷ cơ hội để ngăn cái ngày hôm nay đừng tới nhưng các người lại quyết định dồn tôi vào chân tường và chỉ cho tôi một lựa chọn này…”

Kết quả điều tra thân thế thủ phạm cho thấy Cho Seung-Hui là con một gia đình Nam Hàn di dân, bố mẹ làm nghề giặt ủi lam lũ, tất cả tâm trí, thời giờ dồn hết vào việc nuôi con ăn học, không bao giờ ngờ cảnh khổ của gia đình giữa một xã hội phồn vinh khiến cậu buồn tủi, khi tìm cách đến gần một bạn học, chưa kịp cả tỏ tình đã bị cô công khai từ chối mà cậu nghĩ là do mình nghèo thì cậu đâm ra hận thù xã hội và ghét bỏ chính mình vô dụng.

Lựa chọn của cậu trong cùng khốn và tuyệt vọng là tàn sát cả hai để tự giải thoát. Vậy, kinh nghiệm chữa lành những thương tích nội tâm của một người là gì? Sách vở, tin tức, tài liệu từ những công trình nghiên cứu của nhân loại đầy rẫy, sao chúng ta cứ thất bại hoài? Thất bại tệ hại nhất vừa lập lại ở Las Vegas, Nevada, hồi đầu Tháng Mười, 2017, với hung thủ Stephen Paddock trong một đại nhạc hội quy tụ trên 20,000 khán giả.

May thay, chúng ta có ngoại lệ. Có những người tâm phước đức, trí nhờ đó mà minh mẫn, hốt nhiên bắt được kinh nghiệm như người trúng số. Đạo Phật gọi trường hợp này là “Ngộ.” Đạo Công Giáo gọi là “Mặc Khải.” Một tia sáng xẹt qua đầu, soi rọi những vùng thâm u nhất, nói là bỗng nhiên nhưng không bỗng nhiên.

Cơn giông, sấm chớp đều có chuẩn bị. Hạt giống tốt nẩy mầm đều có chọn lựa và công trình gieo trồng. Lắng lòng. Quan tâm chính mình và người xung quanh là chuẩn bị từ trong vô thức. Tín đồ sau khi vào chùa lễ Phật, vào nhà thờ quỳ gối đọc kinh, ra về thấy lòng trí ung dung, thanh thản, sáng suốt, phấn chấn, nghĩ là Phật ban phước, Chúa, Mẹ ban ơn, thực tế chứng nghiệm được là do những giây phút lắng lòng, tập trung vào ý lành, xua bỏ tạp niệm trước bàn thờ, tạo điều kiện cho năng lượng tốt phát sinh.

Tuần lễ này, tôi nhận được lá thư tuyệt đẹp của một đồng hương vừa “Ngộ” ra một điều tựa như nguyên lý của hạnh phúc gia đình, viết như sau:

“Tôi vừa có một khám phá mới khá thú vị, nghĩ là nên chia sẻ với chị.

Hôm qua, tôi đi tìm mua một món quà mừng sinh nhật chị bạn đồng nghiệp dạy cùng trường với tôi thời còn ở Sài Gòn trước 1975. Trước khi lái xe ra mall, tôi cũng đã nghĩ qua về món quà định tặng, đã search trên mạng để tìm vài gợi ý thích hợp nhưng khi tới mall rồi, vào các cửa tiệm bách hóa, thực sự cầm mấy món quà lên tay, ngắm nghía, cân nhắc, tôi thấy thật khó quyết định món nào vì không biết lựa chọn của tôi, tuy đầy thành ý nhưng chắc gì bà bạn đồng nghiệp của tôi sẽ đồng thuận với lựa chọn ấy và cũng yêu thích món quà thay vì vứt nó vào một góc tủ?

Trước khi làm việc này, tôi có bàn qua với nhà tôi, hỏi ý kiến cô ấy nhưng nhà tôi biết trước rồi vợ chồng cũng lại sẽ cãi nhau như mỗi khi vợ hay chồng muốn bàn với nhau bất cứ chuyện lớn/chuyện nhỏ nào nên câu trả lời của cô là: “Anh muốn làm sao thì làm, không cần hỏi em vì anh hiểu chị ấy hơn em. Em làm sao biết chị ấy muốn quà gì?” Nhà tôi thường than thở với bạn bè là chúng tôi số khắc khẩu nên tốt nhất hãy bớt nói, bớt trao đổi để bớt cãi nhau ầm ỹ cửa nhà.

Thật ra, cuộc sống của vợ chồng tôi mấy chục năm qua tương đối ổn thỏa, không có sứt mẻ nào quan trọng vì chúng tôi đều giữ lễ với nhau theo phong cách cả hai đều là nhà giáo. Tuy qua Mỹ không còn đi dạy học nữa nhưng vẫn phải dạy con nên vẫn phải làm gương. Lúc nào giận tôi chuyện gì quá lắm, nhà tôi than với cô em gái tôi: “Nói cô đừng buồn, chị cứ phải nhịn anh như nhai cơm sống! Khổ lắm! Chán lắm cô ạ!”

Phần tôi thì vui là vui gượng thôi vì cứ nghĩ đến vợ là ngại ngùng phải thấy bộ mặt cam chịu ngấm ngầm của cô ấy. Rõ ràng dù tình yêu lâu rồi không còn nữa nhưng trong đáy lòng cả hai, vợ chồng vẫn thương nhau bởi nếu không thương thì đâu còn muốn ở bên nhau nữa mà đường ai nấy đi tìm hoa thơm cỏ lạ chứ líu ríu với nhau làm chi?

Tuy nhiên, hòa bình cỡ nào, giữ lễ cỡ nào mà biết cái người sống bên cạnh mình chán mình, chịu đựng mình thì có khác gì chiến sĩ “nằm gai nếm mật,” ngày đêm chỉ có mỗi một việc là tiếp tục thắng địch và phất ngọn cờ đầu ngay trong nhà mình?

Nhưng mà may cho tôi chị ạ, chậm còn hơn không, nhờ có hảo ý đi tìm mua món quà sinh nhật mừng thọ bạn mà hôm qua tôi chợt khám phá ra điều này, nôn nóng chia sẻ với chị, để chị sẽ chia sẻ lại với những cặp vợ chồng trong hoàn cảnh tôi, quanh năm mùa đông và mắt em ướt, chị nhé!

Là thế này: Tôi nghiệm ra, đi mua món quà tặng bạn mà tôi lưỡng lự, đắn đo mãi không dám quyết, sợ bạn không vừa lòng thì phí tiền mà mình lại quê nữa. Ấy vậy nhưng mỗi khi tôi muốn nói gì hay làm gì đối với vợ là tôi cứ nói, cứ làm thẳng tuột, giữ ý mình mà tôi cho là đúng nhất, best choice rồi!

Khi nhà tôi tỏ vẻ không vui, không thích, tôi hay cáu, tự nghĩ mình đã để bao tâm huyết vào mỗi suy nghĩ, mỗi cử chỉ như những món quà yêu thương của tôi tặng cô ấy với cả tấm lòng mà sao cô ấy không biết nhận, ngu quá! Thế là cãi nhau. Được cái nhà tôi tốt nết, bao giờ cũng để tôi là kẻ chiến thắng và đây là món quà cô ấy tặng đúng ý tôi tuy phần cô luôn phải trả cái giá đắt nhất, hiếm có tri kỷ nào làm được.

Món quà ấy chính là cái gift card tôi mua tặng chị bạn sáng hôm qua để chị ấy có cái vui tùy thích và tôi thì làm xong bổn phận. Thật ra, làm xong bổn phận cũng có sự bằng lòng hay vui thỏa nhưng hình như không bằng được sự sướng khoái khi cái mầm sân si trong tự ngã được thỏa mãn. Hóa ra khi lắng nghe người khác thì mình cũng tự hiểu mình. Không lắng nghe là vì sợ hiểu ra cái mình không hoàn hảo mà có khuyết điểm cần sửa.

Trong mọi cái cần sửa, sửa mình là khó nhất chị ạ, tam đoạn luận, phải không? Trong mọi cái nhường nhịn, cái “tôi” khó nhường nhịn nhất tại vì bị sân si nó khống chế. Tôi nhớ có lần nói chuyện với vợ chồng một người bạn thân khác, cũng hay cãi nhau nẩy lửa vì mâu thuẫn, nhiều lúc tưởng là bỏ nhau, tôi hỏi chị ấy: “Sao tôi thấy anh nói nghe phải mà chị cứ cố tình làm ngược ý anh?” Chị trả lời tôi không chút do dự: “Ông ấy càng nói tôi càng làm trái lại! Đừng hòng chỉ huy hay dạy đời tôi!” Tôi thành thực không nghĩ chị ấy nói thật lòng mình vì mắt chị đỏ hoe. Bây giờ thì tôi biết cũng là do sân si mà ra cả.

Lấy kinh nghiệm đi mua quà cho bạn hôm qua, tôi chợt nhận ra tôi chưa bao giờ “đãi” vợ tôi như đãi bạn, có lẽ chỉ ngoại trừ mỗi cái lúc đang tán tỉnh nhau, được cái Tình nó phù trợ làm điều tốt. Quan tâm đến người kia một chút để hiểu buồn vui của họ, cả những cái trái khoáy mà nếu bình tĩnh nghe nhau và tìm cách giải quyết vì lợi lạc chung, cùng nhau kê cái giường cho bằng, tôi nghĩ cuộc sống sẽ đẹp hơn, tươi tắn hơn, có hòa điệu hơn, chẳng hơn “tự sướng” à? Mỗi khi sắp sửa nộ khí xung thiên cãi nhau, hãy chậm vài chục giây khoan nổ để nghĩ xem mình sắp nói cái gì, tôi chắc những lời nói sau đó sẽ có ý nghĩa và hiệu quả nhiều hơn ngôn từ cãi nhau.

“Khám phá” của tôi chẳng có gì ghê gớm hay to tát cả nhưng với tôi là cuộc cách mạng đổi đời cần nhất cho tôi. Chia sẻ với chị, có thể chị sẽ cười tôi trẻ con nhưng sự thật tôi là người đàn ông vừa trưởng thành, có lẽ cũng không khác mấy với những gì chị nghĩ khi bỏ thời giờ đọc thư này. Cảm ơn chị nhé!



Và dưới đây là phần phúc đáp của tôi:

Rất cảm kích được ông chia sẻ một kinh nghiệm sống quý giá (tuy không có gì to tát như ông viết.) Trong thiển ý tôi, cuộc cách mạng thành công nhất trên đời này là cuộc cách mạng bản thân, từ đó, sẽ nảy sinh nhiều cuộc cách mạng xã hội có ý nghĩa, làm cho mặt đất này đẹp hơn và cuộc sống của mọi người hạnh phúc hơn.
Cảm ơn ông và mừng ông đã tìm ra con đường an lạc.

(Bùi Bích Hà)
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeFri Dec 01, 2017 9:20 am

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Bigs-Seal-Beach-Pier-from-south-sunny-day-4880944-Large-1000x625

Tìm nhau

Bùi Bích Hà

Anh chị làm chủ một ngôi nhà đẹp, tiện nghi, trị giá bạc triệu ở thành phố Irvine. Thời gian làm việc kiếm tiền của anh chị từ trong nước ra ngoài nước cho phép anh chị có những năm vàng ở tuổi hưu trí.

Thời giờ rảnh của anh chị, họ đi du lịch. Đường hàng không. Đường thủy. Đường bộ. Không đi du lịch thì họ họp nhau đánh mạt chược hay ăn nhậu, hát karaoke. Anh thỉnh thoảng cầm vợt ra sân tennis. Chị thỉnh thoảng đi gym. Anh sở hữu hai xe hơi loại đắt tiền, chị lái xe SUV hiệu Lexus mới toanh. Các con anh chị đều thành đạt, có địa vị xã hội cao lại ở cùng thành phố với anh chị. Phải nói đây là sự may mắn hiếm hoi, không nhiều người có được hoàn cảnh của anh chị.

Nói tóm lại, cuộc sống của anh chị ở nước Mỹ đẹp như mơ. Trời đang xanh. Biển đang êm. Nắng gió đang dịu dàng và mượt mà thì bão tố đến bất ngờ. Anh ho thúng thắng vài tiếng rồi vài cơn. Trong một cơn chưa thấy dấu hiệu bất thường nào ngoài cảm giác ngưa ngứa ở cổ và lúc bỏ tấm khăn giấy che miệng ra, anh thấy có chút hoen đỏ. Đi gặp bác sĩ gia đình, ông nghe tim, nghe phổi, đoán là anh bị dị ứng phấn hoa, ho mạnh quá có thể làm cuống họng bị trầy sướt. Chuyện thế cũng bình thường thôi, anh lại tung tăng hát hò với bạn bè. Vài tuần, một tháng qua rất nhanh, anh ho ngày càng nhiều. Anh sụt cân trông thấy tuy thể lực dường như chưa có triệu chứng bất tường nào báo động. Đến lúc anh ho ra máu thì không còn chần chờ được nữa, phải đi gặp bác sĩ chuyên môn. Kết quả thử nghiệm sinh thiết cho tin xấu: anh bị ung thư phổi thời kỳ cuối.

Tuy vậy, tinh thần anh vẫn rất cao. Điện thoại cho cô em họ ở tiểu bang xa, anh còn chế nhạc và hát ư ử: “Anh không chết đâu em, anh chỉ vừa mới bệnh sơ sơ…” Cả nhà cũng lây thái độ lạc quan của anh và bình tĩnh hỗ trợ anh trong việc chữa trị kéo dài và khá căng thẳng. Anh cầm cự được một năm thì sức khỏe suy sụp dần rồi anh chấp nhận bỏ cuộc.

Tang lễ xong, còn chị một mình trong ngôi nhà vốn đã rộng, nay vắng anh, càng rộng hơn. Con cháu chạy qua chạy lại với chị một thời gian nhưng không kham được mãi vì họ đều có thời khóa biểu riêng phải chu toàn. Chị tậu cái bàn mạt chược mới để ngay giữa phòng ăn và mời bạn bè đến xoa nhưng rồi chị thấy giải pháp này không ổn thỏa như chị thoạt nghĩ vì bóng dáng anh cứ thấp thoáng đây đó với chốc chốc tiếng anh gọi chị nói một điều gì. Buồn quá, chị gọi thợ đến tân trang phòng ốc, thay mới bàn ghế và sắp đặt lại vị trí của chúng. Chị càng không yên khi vài người bạn thân của chị dọn ra ngoại ô thành phố, về một vùng biển. Họ rủ rê chị: “Đi theo tụi tao cho vui chứ mày ở đây một mình, buồn chết đi được!” Chị vẫn có những người bạn chí thiết từ thời trung học. Bây giờ cùng già với nhau nhưng họ vẫn mày tao chí chạt như thuở nào, khiến chị cảm thấy rất ấm lòng. Có người còn đủ đôi, có người lẻ bóng như chị. Bất luận cuộc đời riêng may rủi thế nào, họ đến và ở lại bên nhau bằng tình bạn khăng khít không rời.

Chị hình dung ra nay mai những người bạn ấy không còn quanh quẩn bên chị mà sẽ xa thêm một chặng đường vài chục dặm, chị thấm thía nỗi biệt ly. Ngủ một giấc chập chờn qua đêm chờ sáng, chị thức dậy điện thoại ngay cho người chuyên viên địa ốc vừa giúp mấy bà bạn chị mua nhà, nhờ họ kiếm cho chị một căn trong cùng khu. Chị rủ con gái đi ăn trưa vào giờ lunch của cô để loan báo breaking news.

“Mẹ muốn nói với con mẹ đã quyết định dọn nhà về S. Beach.”
Hơi bất ngờ, con gái chị mở to hai mắt, nhướng cao đôi lông mày thay cho câu hỏi chắc cô chưa tìm ra chữ.

Chị nói tiếp và nói thật mau để con gái biết chị không định hỏi ý kiến cô và chị cũng không đùa:
“Các bạn mẹ đã về đấy trước mẹ và đời sống dễ chịu lắm. Gió biển rất tốt cho sức khỏe của mẹ, an ninh và tiện nghi đầy đủ. Điều tốt nhất với mẹ là mẹ có bạn ở quãng đời không thể thiếu họ và các con thì sẽ ít phải bận tâm về mẹ hơn.”

Tất nhiên bữa ăn trưa của hai mẹ con ở cái tiệm họ yêu thích nhất là Paneira Bread, không vui như mọi khi nhưng chị cũng cảm thấy nhẹ nhõm vì đã nói được với con gái điều khó nói mặc dầu từ đáy lòng, có lẽ cả hai đều ngầm thấy đây là một sắp đặt hợp lý.

Việc mua nhà tiến hành nhanh chóng. Trước khi dọn vào, chị cho thợ tân trang gần như toàn diện nơi ở mới. Chị chọn cách trang trí nội thất đơn giản mà thanh lịch với rất ít đồ đạc nhưng thuộc loại tuyển chọn. Toàn bộ ngôi nhà toát lên sức mạnh của sự ngăn nắp và cái trong sáng của một bắt đầu mới.

Tôi bước chân vào nhà chị, chưa biết ất giáp gì, chỉ thấy vui và mừng cho chị. Chị hơi lên cân, khuôn mặt đầy đặn, làn da hồng hào, trông khỏe hơn hẳn dạo năm ngoái tôi gặp chị trong chuyến đi giải khuây vùng Tây Bắc.

Tuy nhiên, cô em họ của chị cùng đi với tôi đến thăm chị có vẻ tần ngần, ấp úng mãi mới hỏi chị: “Chị đâu có cần phải về sống ở đây và trong căn nhà như thế này?”
Chị khẽ chau mày như bị chạm vào chỗ đau. Chị trả lời với một chút chua chát: “Tôi phải về đây và sống trong căn nhà như thế này để tôi có bạn. Anh đi rồi, tôi như chim lẻ đôi, như cây gãy cành. Cô có chồng bên cạnh, làm sao nghĩ giùm tôi được?”

Chúng tôi đang ngồi xung quanh cái bàn ăn kê gần bếp, uống nước và ăn bánh ngọt chị mời. Ngôi nhà có nhiều cửa sổ mở ra nhiều bãi cỏ và nhiều con đường. Qua lá màn mỏng phơ phất gió, tôi thoáng thấy một phụ nữ đội cái nón cói rộng vành đi nép sát tường nhà chị, đoán là chị có bạn tới chơi. Quả nhiên, bạn chị tới rủ chị đi nhà thờ chỉ cách chỗ họ ở chừng nửa mile. Mỗi tuần họ hẹn nhau mạt chược ba lần, mỗi ngày hẹn nhau đi bộ sáng chiều chuyện vãn hai lần và đi nhà thờ một lần. Khi nào cao hứng, họ lấy shuttle của khu cư xá đi ra mấy cái chợ lân cận mua thức ăn và đồ dùng vặt vãnh. Hôm nào muốn nghe tiếng sóng và để chân trần đi trên cát ẩm, họ ra biển. Bãi S. Beach nhỏ, kín đáo, yên ả. Những người ra đây hứng gió muối, thả diều, lội nước, tắm hay trượt sóng phần đông là cư dân trong vùng, họ vui vẻ, hiếu khách và lễ độ.

Tôi nghĩ chị phải sáng suốt và may mắn lắm mới chọn nơi này để sống quãng đời còn lại với nhiều ý vị. Ở đây, chị được hưởng thêm cái thú “đi xóm” ngày xưa ở quê nhà, ai có bát canh hay trách cá là ơi ới gọi nhau. Định cư ở Mỹ mấy thập niên, nhiều người gồm cả tôi, không còn cơ hội để thưởng thức thói quen “đi xóm” nữa. Đã lâu rồi, ngày H. chưa mất vì ung thư, có vài buổi tối khá muộn, cô thình lình bấm chuông nhà tôi, đem cho tôi rổ đậu phụng luộc nóng hôi hổi và cô thì sôi nổi bảo tôi: “Em luộc đậu, thấy ngon quá, chạy tới chia cho chị một mớ.” Mắt cô ướt dưới ánh đèn. Tóc cô ướt xõa trên vai, thơm mùi shampoo. “Chạy tới” với cô là phải lái xe chừng 3 dặm. Tôi ôm vai cô, nghẹn ngào: “Em không phải cực thân như vậy, thời giờ không có, ở nhà với con em ạ!” Và cô ù té chạy, lại 3 dặm trở về trên chiếc xe hơi có khi nằm ăn vạ giữa đường. Hơn tình hàng xóm… xa, cô cho tôi tình bạn thật hiếm hoi!

Ở tuổi chị và tôi, chúng tôi ngày càng thấm ngấm tình bạn. Trịnh Công Sơn viết ca từ “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau,” chúng tôi không biết sỏi đá cần nhau thế nào nhưng có lẽ đời sống con người thiếu tình bạn giống như mùa đông không có lửa củi, tối tăm, lạnh lẽo.

Từ biệt chị ra về, tôi mang theo hình ảnh chị một mình trong căn nhà mới, tươi tắn, mạnh mẽ, với một diện tích vừa đủ cho chị và bằng hữu của chị, buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều và cả buổi tối, líu lo tiếng nói, tiếng cười. Hình ảnh ấy nhắc tôi sực nhớ bài hát Papa nổi tiếng của Paul Anka, có một câu tôi giữ mãi trong tâm tưởng mình khi người cha góa bụa đã già, thương yêu nói với con mình: “Con hãy đi, sống tự lập. Con có nhiều việc phải làm, nhiều nơi chốn phải đi qua. Đừng bận tâm về cha, I’m OK, alone.”

I’m OK, alone. Đối với riêng tôi, đây là hy sinh cuối cùng và lớn nhất cha mẹ có thể tặng cho con cái mình. Đến một lúc nào đó, vai diễn phải bước ra khỏi sân khấu và thành công của họ là để lại sự tưởng nhớ lâu dài cho khán giả. Tất nhiên không phải ai cũng có khả năng/điều kiện thu xếp và đối phó với hoàn cảnh như nhân vật Papa hay như chị nhưng nếu làm được, cũng nên lắm!

Phải chăng câu nói của ai đó nghe rất quả quyết, “Don’t worry, I’m OK, alone,” có thể thuyết phục con cái nhưng không thuyết phục được những người bạn chí tình và họ vẫn đi tìm nhau.

.


Được sửa bởi NTcalman ngày Sun Nov 18, 2018 9:16 pm; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSat Dec 09, 2017 12:08 am

.

Anh em như tay chân

Bùi Bích Hà

Hai anh em tôi sinh ra cùng một mẹ cha nhưng chúng tôi chỉ biết điều này khi anh tôi 17 tuổi và tôi 14. Hoàn cảnh éo le ấy là do bố tôi hiếm muộn, ngoài 50 vẫn chưa có mụn con nào.

Hai mẹ già tôi là vợ cả, vợ hai của bố tôi, giòng giõi trâm anh thế phiệt nhưng không biết tại sao không sinh được con cho nhà họ Bùi. Khi bà hai chính thức bước chân vào nhà bố tôi, bà nhất mà sau này chúng tôi gọi là Me già, cư xử rất phong cách và chững chạc, phù hợp với tư thế bề trên của mình. Bà dọn ra một cơ ngơi riêng và ngày càng ít can thiệp vào công việc của bố tôi. Tôi nghe nói rằng thời gian đầu, bố tôi dùng bữa trưa ở nhà me già và bữa tối ở ngôi nhà ông sống với me trẻ. Tuy vậy, khi sự nghiệp của bố tôi phát triển lớn với nhiều cơ sở từ Bắc vào Trung, bố tôi thường phải di chuyển, không còn giờ giấc cố định nên khi ông về nhà thì đây là ngôi nhà ông sống với bà hai.

Thời khoảng một phần tư đầu thế kỷ 20, không biết do đâu mà bà hai của bố tôi nảy ra ý định lập công bằng cách đi tìm người thay bà sinh con cho bố tôi. Ban đầu, bà nhòm ngó các cô mặt hoa da phấn ở thành thị. Tôi đoán các cô nhận vai trò này vì bố tôi vừa đẹp trai, tướng mạo uy nghi, quắc thước, lại tài năng, danh vọng, sản nghiệp đầy đù. Thế nhưng có lẽ số phận chọn mẹ tôi gánh vác sự bất công tủi cực này nên không ai sanh nở gì cả cho tới một ngày, bà hai của bố tôi nhân chuyến về Bắc Ninh thăm họ hàng và thu mua gạo, tình cờ nhìn thấy mẹ tôi đang xắn quần cấy mạ dưới ruộng, dáng vóc thôn nữ tươi mươi, khỏe mạnh, đúng tiêu chuẩn “tốt nái” bà săn tìm nên bà vào làng, tìm gặp, thương lượng với ông bà ngoại của tôi rồi đem mẹ tôi “về dinh.”

Định mệnh làm phép lạ nên mẹ tôi sớm cấn thai. Bố tôi có “tin mừng” nhưng mẹ tôi lãnh họa trước vì bà hai không vội tin ngay. Suốt ba tháng trời ròng rã, mẹ tôi vừa bỡ ngỡ chuyện thai nghén lần đầu, vừa phải làm lụng công việc nằm trong phận sự không khác gì tôi tớ trong nhà, vừa phải trả lời sự chất vấn cay nghiệt của bà hai hỏi xem mẹ tôi có lỡ dại với thầy thông/thầy ký nào dưới quyền bố tôi không? Câu hỏi lập đi lập lại của bà với hàm ý đe dọa là tại sao những cô ngàn lần đẹp hơn, thanh lịch hơn mẹ tôi đã không thể nào sinh nở mà mẹ tôi lại sớm mang thai với bố tôi? Câu trả lời của mẹ tôi cũng lập đi lập lại trước sau không sai một chữ là: “Thưa bà, con không biết ai ngoài ông cụ.”

Mẹ tôi trở dạ sinh chị Túy Sơn đúng ngày tháng bố tôi ghi trong sổ nhật ký. Thời đó chưa có thử nghiệm DNA để truy tầm phụ hệ, chỉ thấy chị giống bố như hai giọt nước và mẹ tôi được minh oan.

Sau lần đầu nhiều nghi nan và tủi cực ấy, mẹ tôi liên tiếp bỏ một anh, sẩy một lần trước khi sinh và nuôi được anh thứ tư. Là đứa con trai nối dõi tông đường hiếm muộn, lọt lòng mẹ, anh tôi lập tức được bà hai của bố tôi bế tắp lên nhà trên, khai sinh là con của bố tôi và bà, được bà thành kính sửa soạn lễ vật và thân chinh ẵm ra đền đức Thánh Trần, đội sớ bán khoán anh, nhận pháp danh cho anh là Minh Châu.

Tôi lót tót ra đời sau anh ba năm, lại là gái nên xem ra thừa, không ai đòi quyền sở hữu cả và mẹ tôi được… tự do nuôi tôi. Sau này tôi nghe mẹ kể mùa Đông ở Huế mưa dầm, mẹ không có đủ tã lót cho tôi nên chỗ ướt mẹ nằm, chỗ khô phần tôi, cứ thế thay qua đổi lại cả đêm. Do vậy, tuy anh em tôi cùng giòng giống cha, cùng bọc trứng mẹ sinh ra nhưng chúng tôi được nuôi dạy tinh thần và thể lý bằng hai nền giáo dục và hai chế độ dinh dưỡng khác nhau. Dưới mắt anh, tôi là con của cô S, người hàng ngày nấu cơm, dọn cơm cho anh ăn, giặt quần áo, bỏ màn buổi tối cho anh đi ngủ, vắt màn và làm giường buổi sáng khi anh thức dậy, v.v… Anh hay cậy quyền, bắt nạt tôi nên tôi rất sợ anh. Không chỉ một mình tôi sợ, né tránh anh tối đa mà đám con nít bạn học cùng lớp với tôi thỉnh thoảng đến chơi vì vườn nhà tôi nhiều cây ăn quả lắm, thoáng thấy anh là chúng dạt ra ngay.

Hoàn cảnh anh em tôi nhì nhằng như vậy cho tới một hôm, anh tôi không bằng lòng với những món ăn “cô S” dọn ra mâm và bưng lên bàn cho anh ăn trưa nên anh vung tay hất cả mâm cơm đổ xuống đất rồi chạy lên lầu mách bố tôi “cô S” ăn bớt tiền chợ, cho anh ăn đồ ăn dở. Có lẽ việc này là giọt nước cuối cùng làm tràn cái ly đã quá đầy nên ông quản gia lâu năm, rất mực trung thành của gia đình tôi không nhịn nữa, càng bất chấp bị bà hai của bố tôi đuổi nên ông tiết lộ bí mật với anh tôi: “Này cậu, ‘cô S’ là mẹ đẻ của cậu đấy, không phải bà L. đâu!” Tôi thấy anh tôi đứng ngây ra một lúc, không nói gì rồi lẳng lặng vào phòng riêng đóng cửa lại. Ít lâu sau, anh bỏ học và anh nói với bố tôi anh muốn tình nguyện vào trường Bộ Binh Thủ Đức. Ở tuổi 17, bố tôi phải cùng ký đơn với anh để anh hội đủ điều kiện nhập ngũ. Tôi hơi ngạc nhiên thấy bố tôi không phản đối đề nghị vào quân trường của anh vì tôi biết bố tôi đặt nhiều kỳ vọng và đầu tư nhiều vào anh trên con đường học vấn. Có lẽ vì thành tích học của anh không xuất sắc nên bố tôi hoặc hoài nghi về đường lối giáo dục gia đình áp dụng cho anh, hoặc muốn thấy anh được thử thách cách khác xem năng khiếu của anh là gì nên bố tôi không ngăn cản mà ủng hộ quyết định thoát ly của anh.

Anh khăn gói rời nhà. Đối với bà hai của bố tôi, anh đã tự nhổ cái gai trong mắt bà vì anh lạnh nhạt và xa lánh bà kể từ khi anh biết mình bị người lớn lừa dối, không những cư xử sai trái với người mẹ đã rứt ruột sinh ra anh mà còn khiến anh vô tình ăn ở như một kẻ vô đạo. Đối với mẹ tôi, không còn được nhìn thấy anh hàng ngày, âm thầm chăm nom anh dù chỉ với tư cách người hầu hạ thân tín, tệ hơn nữa, anh còn dấn thân vào chỗ hiểm nguy khi không ai bắt buộc, mẹ tôi đau đớn tận cùng trong câm nín, như phiến đá chảy mồ hôi dưới trời băng giá. Đêm đêm, mẹ thắp nhang khấn khứa. Ngày ngày, thỉnh thoảng mẹ chết sững, quên quên nhớ nhớ giữa bộn bề công việc, sợ anh tôi ăn không đủ no, sợ anh bị hiếp đáp và cuộc sống nhà binh vô cùng khắc nghiệt.

Nếu tấm lòng thương con của mỗi bà mẹ sẽ động tới ý Trời thì mẹ tôi đã được ơn phước này. Anh tôi ra trường, về qua nhà trong quân phục oai vệ, lon chuẩn úy mới tinh trên cầu vai, cao lớn, khỏe mạnh. Anh đã có đủ thời gian để nhai, nuốt, bỏ qua chuyện cũ, bắt đầu cái mới dưới mái nhà cha mẹ. Anh nhìn mẹ với ánh mắt đằm thắm, thương yêu, thậm chí bảo bọc nhưng anh không biết xưng hô với mẹ thế nào? Anh hỏi tôi: “Cả em nữa, chúng ta không thể tiếp tục gọi bà L. bằng me và gọi mẹ mình bằng chị. Mình phải làm sao?” Ở tuổi 15, tôi không có nhiều kinh nghiệm ứng xử nhưng tôi nhớ người Bắc quê mùa hay gọi mẹ bằng “Đẻ,” nghe gần gũi và dễ thương nên tôi trả lời anh: “Hay mình gọi mẹ bằng “Đẻ” nhé?”

Do ảnh hưởng giao tế rộng rãi của bố tôi, anh tôi được liên tục theo học các khóa huấn luyện chuyên môn và anh chọn phục vụ trong các đơn vị Công Binh chiến đấu. Đóng quân ở đâu chừng vài tháng, nếu vào mùa Hè tôi được nghỉ học, anh đem mẹ và tôi theo. Tôi với mẹ được trải qua một mùa Hè tuyệt đẹp với nắng gió lồng lộng và trời nước mênh mông ở Hà Tiên.



Kỷ niệm một thời niên thiếu và tuổi trẻ xanh tươi, ròn rã, lung linh hạnh phúc, chan chứa ước mơ tưởng như mới đâu đây nhưng tôi bây giờ đang trên chuyến bay trở lại quận Cam sau cuộc thăm viếng anh tôi vỏn vẹn năm ngày. Bây giờ, anh là một ông già tuổi ngoài 80, gầy guộc, lưng khòm, râu tóc bạc, một mình lui cui trong ngôi nhà anh giữ sạch như ly như lau, như nỗi quạnh vắng của anh khi chiều xuống không một tiếng động khắp xung quanh. Máy đo áp huyết, hộp dụng cụ đo đường mỗi sớm mai để ngay ngắn ở đầu bàn. Chiếc xe lăn mới tinh ở cửa ra vào. Cái gậy chống đầu tòe hoa thị dựng bên chiếc ghế trong phòng ăn. Suốt ngày anh điện thoại cho sở xã hội để khiếu nại về thái độ kỳ thị của case manager, để cãi nhau về các chương trình trợ giúp y tế dành cho người cao niên không còn khả năng tự lo cho mình một số việc. Suốt ngày anh điện thoại cho các văn phòng bác sĩ để theo dõi hay cự nự về giấy tờ referral/approval chậm trễ, khiến anh cứ phải chờ đợi mà không thực hiện được các thủ tục y khoa chẩn bệnh cần thiết.

Anh có một vườn hoa hồng và rau xanh, một hồ cá Koi với suối nhân tạo ở sân sau, hai con chó Chihuahua làm bạn với anh đã hơn mười năm. Trời mưa, anh cười, mắt nheo lại vì vui, bảo tôi: “Vừa mát, khỏi tưới cây, lại có nước dự trữ (trong dãy thùng phuy xếp hàng dưới hiên) đỡ phải trả bill cô ạ!” Nhìn anh lúc này, tôi biết ý nghĩ riêng trong tôi khi bay sang thăm anh, muốn anh về Cali để anh em có điều kiện thăm nom, tiếp trợ nhau khi cần, sẽ không thể thành sự thực. Anh như cái cây đã bắt rễ sâu vào cảnh thổ nơi này, mỗi mỗi đều gắn bó xương thịt với anh, hà hơi nuôi dưỡng anh. Từ cái góc nhà nơi anh ngồi một mình mỗi buổi tối dưới ánh đèn, thong thả ăn những món ăn anh yêu thích, xem một cuốn phim có những vai diễn thông minh, tàn bạo, luôn xoay chuyển hay làm chủ tình hình; từ cái sofa êm ái đôi khi anh thức ngủ chập chờn theo cách một người già, giữa tiếng người cười nói ồn ào hay tiếng nhạc phát ra từ cái TV to đùng ở phòng khách ít khi tiếp đãi ai. Dẫu sao, tôi vẫn xót xa thương anh, thương cái hình ảnh anh lọm khọm kéo cái túi rác tôi buộc sẵn ra lề đường để sáng sớm hôm sau xe rác tới mang đi tuy nhìn vào mắt tôi, anh biết tôi thắc mắc điều gì nên anh bảo tôi: “Anh còn chưa có thời giờ đề nghị thành phố phải cấp thùng rác như bên Cali của cô để có an toàn vệ sinh hơn.”

Anh em ruột như tay chân, giữ một phần thịt da của mẹ cha và cả quãng đời chung nhiều kỷ niệm. Đau một người là đau cả hai, cả ba,… Mỗi chuyến đi thăm anh về, tôi buồn rất lâu, nhớ anh và khóc một mình. Con gái tôi nói với tôi: “Mẹ sai rồi. Mẹ đừng nghĩ thay bác. Mẹ tự làm khổ mình khi hình dung bác bằng cảm xúc của mẹ. Tất cả những gì mẹ nên làm, có thể làm là cầu nguyện bình an cho bác, nghe bác nói nếu bác có nói, ngoài ra, mẹ chớ bao giờ vạch ra cho mình phải thế nào thì mới đúng cho bác?” Cháu làm tôi nhớ lại lời Linh Mục U. đã phê bên lề một bài viết của tôi khi Cha dạy môn cổ văn Pháp ở Đại Học Huế: “Cô nên thận trọng, đừng để tưởng tượng đưa cô đi quá xa.”

Tôi cũng biết người ta thường khổ vì chính những điều mình nghĩ hơn là sự thật. Bây giờ, tôi chọn ly nước đầy một nửa thay vì vơi một nửa để nghĩ và nhớ về anh tôi trong sự hài lòng riêng của anh với những gì anh đang có, thêm được niềm vui cho anh thì tốt nhưng đừng muốn anh phải thay đổi.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeTue Dec 12, 2017 10:44 am

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Maxresdefault

Tự do ơi tự do

Bùi Bích Hà


Tôi nhớ lại mọi việc trong quãng đời khá dài đã sống qua. Nếu có lúc nào ý niệm tự do thoáng qua trong cái đầu thơ dại của tôi thời bắt đầu có trí khôn, thì đó là vài buổi chiều hoặc tôi ham vui theo chân chúng bạn la cà đâu đó hoặc cô giáo bảo tôi ở lại phụ cô sắp xếp tập vở chút đỉnh rồi về cùng cô, tôi biết thế nào tan học về nhà trễ cũng bị mẹ tôi mắng mỏ rồi lãnh đòn của bà vì tội rong chơi luông tuồng để bà phải lo lắng.

Suốt con đường thăm thẳm xa, năm, sáu cây số từ trường tới nhà, những bước chân ngắn chủn của tôi nặng trĩu nỗi sợ hãi, khiến tôi sớm hiểu rằng vì tôi còn bé, phải chịu sự giám sát và kỷ luật của người lớn. Những lúc bị đòn vọt như thế, chưa biết tự do là gì nhưng tôi vừa khóc vừa tự hỏi bao giờ thì mẹ tôi chết để tôi muốn làm gì thì làm?

Lớn hơn một tí, tôi quen với bổn phận và sự vâng lời để được yên thân, nhất là không làm mẹ tôi buồn. Lớn hơn tí nữa, tấp tểnh làm thơ, viết văn, tôi biết phải giấu bố mẹ vì mẹ tôi chỉ cần tôi chăm chỉ lo học để không bị ở lại lớp và đối với bố tôi thì trẻ con không được viết lách lăng nhăng, đi thi thì phải đậu và đúng tháng, đúng năm phải ra trường, tôi không có chọn lựa nào khác.

Đến tuổi trưởng thành, tôi theo nghề dạy học. Chưa hết một năm làm cô giáo, gia đình gả chồng, tôi theo chồng vào Nam. Nhà tôi dặn tới trường, tôi không được nói chuyện với các nam đồng nghiệp vì các ông ấy không đáng tin. Hằng ngày ngoài giờ đi dạy, tôi đi đâu cũng phải nhớ về nhà trước khi mặt trời lặn. Trái lại, phụ nữ có giáo dục, chồng về nhà trễ, không bao giờ được hỏi lý do…

Tóm lại, từ bé đến lớn, ở đâu tôi cũng được dạy bổn phận và vâng lời. Tôi đã quen với cách sống tẻ nhạt ấy nhưng không có nhu cầu thay đổi.

Biến cố 30 Tháng Tư, 1975, xảy ra, cả Sài Gòn nhốn nháo chuyện di tản vì người ta bảo nhau không thể sống với Cộng Sản được. Không chỉ quân đội, công chức cao cấp, nhân viên sở Mỹ mà cả những ai từng di cư năm 1954 khi mất miền Bắc, vì có kinh nghiệm thực tế với Cộng Sản, cũng đều khăn gói tìm phương tiện ra đi. Lần đầu tiên tôi nghe nói nhiều đến hai chữ “tự do,” mơ hồ mường tượng được tự do là gì chính là ở thời điểm này.

Vì nhiều lý do, tôi kẹt lại Sài Gòn. Lúc mọi nhà trong khu cư xá Phú Nhuận trong đó có nhà tôi, đi chợ phải dùng bị cói để công an khu vực không nhìn thấy nội dung bên trong, miếng thịt, con gà hay bó rau, thì tôi bắt đầu hiểu ý nghĩa hai chữ tự do một cách cụ thể.

Tại lớp học tôi dạy, khi tôi gọi hai tổng thống của hai nền Cộng Hòa miền Nam Việt Nam bằng đại danh từ “ông,” tôi bị học sinh chi bộ đảng trong trường báo cáo với cán bộ chỉ đạo và bị mời lên “trao đổi.” Họ nói: “Chị là giáo viên đứng lớp, phải có lập trường chuyên chính, phải biết phân biệt rõ bạn và thù, không được gọi những kẻ có nợ máu với nhân dân là ông mà phải gọi chúng bằng thằng, chị thông suốt chưa?” Tôi trả lời ông ta rằng tôi được giáo dục không gọi bất cứ ai bằng thằng cả. Dưới chế độ cũ, chúng tôi vẫn gọi cụ Hồ…” Ông cán bộ ngắt lời tôi, hơi lên giọng: “Thôi, tôi không đôi co với chị. Đây là lệnh.”

Như vậy, hóa ra suốt quãng đời từ thơ ấu đến khôn lớn của tôi tuy tôi không có tự do nhưng tôi không hề biết là vì tôi như người soi gương ở phía sau cái mặt tráng thủy của tấm gương, không thực sự biết diện mạo của tôi và của tự do như thế nào?

Qua tới Mỹ, tôi dần dần có thêm nhiều chứng nghiệm về hai chữ tự do. Ở đất nước này, tự do cao nhất là tự do tư tưởng/tự do ngôn luận, không chỉ được ghi vào Hiến Pháp, còn được bảo vệ bởi tu chính án số 1 ứng dụng như một nét văn hóa sống động, tiêu biểu cho cả một dân tộc phú cường có trên ba trăm triệu dân đến từ tứ xứ và chọn nơi này là quê hương.

Tuy nhiên, như một bình hoa đẹp, nhiều màu sắc và hương thơm, tự do cũng có khuôn khổ và trật tự để mỗi người như một bông hoa, có thể cùng nhau đẹp và tỏa hương, không lấn át nhau, không loại bỏ nhau. Trong các gia đình, nhà trường, trẻ con có tự do đặt câu hỏi, thậm chí tranh luận với cha mẹ, thầy cô giáo nhưng với mục đích tìm hiểu, học hỏi, tìm đến chân lý chứ không cãi bướng, không hỗn, không phát ngôn bừa bãi. Cho đến khi rời nhà hay rời trường, các cô/cậu lúc còn sống trong những môi trường ấy, phải tuân thủ một số nguyên tắc để hòa nhập.

Đến bây giờ thì tôi nghiệm ra các bậc tiền bối ở quê nhà vốn bị các thế hệ sau ngờ vực về kiến thức thời đại, về ứng xử phù hợp với tiến hóa xã hội và văn minh thế giới, các cụ sáng suốt một cách đáng sợ.

Các cụ không đề cập đến tự do không phải là không biết đến tự do. Thú ngắm trăng ngâm ngợi mấy vần thơ, thú tiêu dao giữa đất trời cao rộng, thú trà rượu đối ẩm hay đối bóng một mình đều là những biểu lộ tự do.

Các cụ thừa biết tự do là vũ khí tối thượng quyền lực nhất cho phép con người đạt đến mọi ước vọng và nó như con dao hai lưỡi, cắt một quả cam ngọt hay cắt chính tay mình; như khẩu súng sát thương hằng loạt ngoài trận địa đối đầu với địch để bảo vệ bờ cõi nhưng nó cũng sát thương hàng loạt nhiều nạn nhân vô tội như trong vụ Stephen Paddock xảy ra ở Las Vegas, Nevada, đêm 1 Tháng Mười, vì nhu cầu riêng của một người rồi cũng chết dưới họng súng tự do nhả đạn của chính mình.

Giao vũ khí ấy vào tay những ai chưa được trang bị với tinh thần trách nhiệm, ý thức về bổn phận, trình độ văn hóa để biết tôn trọng người và bản thân cùng chia nhau không gian một sân chơi, là tạo nguy cơ bị tổn thương cho cả cộng đồng xung quanh họ và chính họ.

Con cái bỏ nhà đi bụi đời trước khi có khả năng tự lập là một thứ tự do chín ép, thui chột. Sỉ nhục, tấn công, chà đạp hay xâm phạm an ninh người khác là một thứ tự do hoang dại, tội lỗi. Quốc pháp có hay không, mạnh hay yếu, đều can thiệp chậm trễ và không có hiệu quả thật sự.

Xử sự như các “anh hùng bóng bầu dục,” từ chối chào quốc kỳ và hát quốc ca để gọi là phản đối một ai đó hay một điều gì là thứ tự do mông muội, thiển cận, lấy đi của chính mình cái vinh dự to lớn của những công dân có tổ quốc và lịch sử. Hối mại quyền hành nhất thời, dùng mưu chước quanh co để làm những việc phi pháp, ảnh hưởng tiêu cực tới đại cuộc hay đại chúng là thứ tự do bị lạm dụng, mù quáng và phản bội, sớm muộn cũng đi đền chỗ cùng đường.

Cho nên, tự do là báu vật linh thiêng, không thể làm ô uế. Tạo hóa ban tự do cho con người để làm đẹp con người và cuộc đời, không để bị vùi dập. Tổ tiên bao đời và bao nhiêu người còn tiếp tục đổi máu xương gìn giữ tự do cho nhau, để kiến tạo hạnh phúc, không thể không coi trọng. Tự do của người này cũng là tự do của người kia vì cùng chung một tiêu chí, thể hiện khác biệt nhưng không đối nghịch, càng không triệt hạ nhau.

Mùa lễ Tạ Ơn cho tới cuối năm, nhiều nhà nhận được những tập sách mẫu mời chào từ các công ty sản xuất hàng gia dụng. Giữa cả ngàn món hàng đầy tính sáng tạo hấp dẫn người mua, chứng tỏ các nhà buôn không thiếu sáng kiến để thu nhiều lợi nhuận và làm giàu, thế nhưng vẫn có một mặt hàng được in rành rành với lời rao: “Giấy vệ sinh nhà cầu in hình tờ bạc $100 với hình tổng thống Hoa Kỳ (Benjamin Franklin)! Khách đến chơi và gia đình nghĩ là quý vị giật nước cho trôi đi những tờ tiền mặt kiểu mới này trong phòng vệ sinh, có thể không dùng chúng để mua bán được nhưng chắc chắn quý vị sẽ được những tràng cười thoải mái! Mỗi cuộn có 200 tờ kép, giá…”

Tôi thực sự choáng váng trước món hàng không thể làm tôi cười ồ như quảng cáo rao bán nó đã tưởng tượng ra một cách bệnh hoạn trên giấy trắng mực đen. Có lẽ cũng có người đọc tôi đến đây sẽ nhún vai và phán rằng: “Có gì quan trọng đâu mà ầm ĩ? No bid deal! Là giấy vệ sinh làm vui mắt trong nhà cầu thôi mà!”

Tôi tự biết tôi lẩm cẩm, tụt hậu, nhưng quả thật tôi hy vọng có nhiều hơn những bàn tay không đem các cuốn giấy vệ sinh này về phòng tắm nhà họ. Công dụng của những cuộn giấy ấy rất khác với tranh biếm họa về các nhân vật thời sự, kể cả các nguyên thủ quốc gia, được truyền thông báo chí đưa ra nhằm biểu tỏ một cách nhìn, một quan điểm của họ nhắm tới điều tốt hơn những gì hiện có, đang xảy ra…

Tôi thực sự không biết cha mẹ tôi ngày xưa, nhất là mẹ tôi quê mùa, mù chữ, dạy tôi không được dùng giấy báo có chữ nho (là chữ của thánh hiền) vào công việc vệ sinh là đúng hay sai nhưng cha mẹ tôi khiến tôi cảm nhận được lòng biết ơn và sự kính trọng đối với những con chữ một thời là nguồn gốc của trí tuệ mà tôi được phần nào thụ hưởng.

Đối với riêng tôi, tự do của trí tuệ là thênh thang, vô hạn. Cao ngất. Sâu thẳm. Rộng đến vô biên. Bất chấp thời gian. Làm tan chảy cả sắt thép. Giải phóng toàn bộ con người khỏi thất tình, lục dục. Tự do của xác phàm trong đời thường thì có giới hạn vì có sự cọ xát. Tôi không sở hữu cả Địa Cầu này hay mặt đất nơi tôi đang sống mà tôi chia với những người đồng cư. Trịnh Công Sơn từng viết mấy ca từ đáng yêu: “…Con chim ở đậu cành tre, con cá ở đậu trong khe nước nguồn, như anh ở trọ tim em…”

Tôi biết ơn cha mẹ trước khi cho tôi tự do, đã cho tôi cắp sách tới trường để tôi biết suy luận, đã dạy tôi vâng lời và kỷ luật để tôi biết tôn trọng, giữ gìn tự do và được sống tự do. Nước Mỹ đang ở trong một giai đoạn mà truyền thống tự do đang bị thử thách một cách khắc nghiệt. Các thể chế độc tài hiện nắm quyền sinh sát một số quốc gia chậm phát triển, đã nhân cơ hội này, tìm một thực tế biện hộ cho họ bằng cách đặt câu hỏi: Tự do như nước Mỹ hiện nay thì có gì hay ho hơn chứ?

Đứng trước câu hỏi không bỗng dưng này, nỗi đau buốt tim gan của những người yêu nước Mỹ như phần đất đẹp nhất, văn minh nhất của thế giới, có một câu tự hỏi khác: Có lẽ nào người Mỹ thường nhân danh dân chủ/tự do đành xô đẩy nước Mỹ đến chỗ bị xếp hạng dưới cả những xứ sở độc tài kia?

(Bùi Bích Hà)
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSat Dec 23, 2017 6:44 pm

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Love-is-a-many-splendored-thing-img-139185

Chữ tình

Bùi Bích Hà


Khắp nơi trên Địa Cầu loài người, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, bằng đủ mọi ngôn ngữ, người ta không ngớt ca tụng tình yêu dưới muôn vàn hình thức: thơ, nhạc, văn xuôi, tiểu thuyết, biên khảo, phim ảnh, tranh vẽ, điêu khắc…

Để mô tả tình yêu, người ta dùng những mỹ từ tinh tế và diễm lệ nhất. Tình yêu luôn là nguồn cảm hứng để hình thành những bức họa độc đáo, những bản nhạc với giai điệu sống mãi qua thời gian, những câu thơ nuột nà nhung gấm trở thành kinh nhật tụng cho nhiều thế hệ.

Nói tóm lại, tình yêu lung linh, rực rỡ, ban phát hạnh phúc và là mạch sống của loài người. Đôi khi tình yêu hiện ra đơn giản nhưng mang theo nó cảm xúc của một lần sẽ mãi mãi không thể nào quên: “Tình yêu như trái táo thơm…”

Tôi cũng tin như nhân loại quanh mình. Như lời của bài hát “Love Is a Many-Splendored Thing” của hai ông nhạc sĩ Sammy Fain và Paul Francis Webster: “Tình yêu là lẽ sống tự nhiên của chúng ta. Có một lần trên ngọn đồi cao đầy gió và trong sương mai, đôi người tình trao hôn khiến vũ trụ ngất ngây và ngừng chuyển động. Những ngón tay anh chạm vào trái tim thinh lặng của em và dạy nó cất lên tiếng hát. Anh ạ, tình yêu chân thật là một điều gì rực rỡ muôn màu…”

https://www.youtube.com/watch?v=aJ-vJI6jypM

"Love Is a Many-Splendored Thing" by Andy Williams

Chỉ có một chút bất tiện là thỉnh thoảng (hay rất nhiều khi) chúng ta chạm phải mặt trái của cái mề đay.

Tuy nhiên, đầu tuần này, một người bạn gởi cho tôi cái video clip ngắn, ghi lại sinh hoạt hằng ngày của một đôi vợ chồng già yếu ở đâu đó trên quê hương tôi. Cụ bà 89 tuổi, thời gian và cuộc sống cơ cực để lại trên khuôn mặt đôn hậu của cụ những nếp nhăn sâu như những luống cày. Cụ ông 99 tuổi, thính lực kém, có lẽ chỉ còn nghe được tiếng nói quen thuộc của cụ bà ở cái tần số duy nhất mà tai cụ tiếp nhận được. Cả hai cụ là sự thách đố kỳ lạ nhất mọi quy luật về dinh dưỡng và tuổi già không cần cao lương mỹ vị, không cần sở học chuyên môn, thuốc men và bàn tay người y sĩ.

Ba năm nay, để làm nhẹ đôi vai gánh nặng của mấy đứa con cũng khó nghèo như cha mẹ, hai cụ chuyển về sống trên cái xác ghe cũ bỏ hoang gần bờ một cái lạch cạn đầy rác. Chiếc ghe chỉ có cái khoang nhỏ đủ để máng cái võng vải cho cụ ông nằm, cụ bà chắc là trải chiếu để ngủ qua đêm ngay trên ván sàn. Cái ghe trống lốc với mấy khung cửa sổ đã mất hết cửa. Cụ bà phải nhặt nhạnh bất cứ cái gì có thể che bớt sương gió cho cả hai: mấy tấm mền rách, mấy tấm bạt ni lông, mấy cái hộp cạc tông còn tốt. Họ có một cái lò đất duy nhất chụm củi, để ở mé sau ghe, thổi nấu thức ăn đa phần là cháo trắng.

Ở cái tuổi bình thường trong hoàn cảnh cụ, chỉ sống thôi cũng đã là phép lạ, cụ bà Nguyễn Thị Dung vẫn nói năng rành mạch, thứ tự, lớp lang, không lẫn lộn, không quên quên, nhớ nhớ. Cụ ngồi bên bếp lửa, đun mấy thanh củi vào giữa lò cho lửa cháy đều mọi phía, kể chuyện: “Tụi tui dời về đây được ba năm rồi! Ở với con, nhà chật chội, chúng nó cũng nghèo khổ, mình cứ ngồi chờ con nó lo cho ăn, thấy nó quạu cọ mình cũng không chịu nổi. Thôi thì cứ ra đây, mai mốt già nữa đứa nào nó nuôi thì chết nó chôn. Hai ba đứa, chẳng biết đứa nào lãnh nợ…” Cụ nâng cái khăn vải lên thấm lệ ở đuôi mắt mà đôi môi gượng cười.

Có lẽ người quay video đem thịt gà quay xà lách tới cho hai cụ ăn trưa. Cụ bà xé thịt gà, gói gọn ghẽ vừa miếng ăn vào lá rau xà lách, âu yếm bón cho cụ ông ăn. Cụ hỏi cụ ông: “Ông ăn ngon không? Lâu lắm mới có được bữa ăn ngon!” Cụ ông móm mém gật đầu. Sau miếng thứ hai, cụ ông nói với cụ bà: “Bà ăn đi!” Nhưng cụ bà lắc đầu. Khi cụ ông ra dấu không muốn ăn nữa, cụ bà dỗ dành: “Không ăn thịt gà thì ăn cháo nha?” Có lẽ cho đủ bữa thường lệ của cụ ông.

Dọn dẹp xong, cụ bà lấy nón, đeo giỏ lên vai, ghé sát bên tai cụ ông và căn dặn: “Ông chờ tui đi bán vé số một chặp tui về.” Cụ nói nếu không dặn thì cụ ông khi không thấy vợ, sẽ bỏ chân xuống võng đi tìm. Xong xuôi, cụ bà bước xuống ghe, lội nước một khoảng ngắn mấp mô những miếng xi măng vỡ để vào bờ, bắt đầu một ngày rủi may trông cậy vào những khách hàng tốt bụng sẽ mua giùm cụ vài chục tờ giấy số cụ ráng bán mỗi ngày để có tiền mắm muối củi lửa nuôi nhau. Cụ đi lắc lư trên con đường vùn vụt xe gắn máy xuôi ngược, một tay xòe vé số chào mời. Cụ ghé quán ăn, tiệm nước, với niềm hy vọng những khách hàng cụ mời mọc cũng nuôi hy vọng giống cụ, cho một may mắn lớn hơn nên họ vui lòng mở ví.

Cụ cho biết cả năm nay cụ cảm thấy sức khỏe suy giảm, cái đầu bưng bưng (chẳng có ai đo áp huyết cho cụ) người mệt mỏi, đi một lúc thấy chóng mặt, phải ngồi xuống nghỉ, khi lại sức thì đi tiếp (chẳng có ai khám tim cho cụ). Cụ nói nhiều khi tưởng như không giở chân lên nổi nhưng cụ cứ phải ráng lê mình đi tới để lo cho cụ ông. Dù vậy, chắc qua năm không đi được nữa rồi. Ở tuổi cụ, chuyện gì xảy ra cũng không sao nhưng nếu cụ mất trước thì cụ ông sống với ai? Với tâm tư nặng trĩu ân tình ấy, cụ chỉ biết cặm cụi với bổn phận trước mắt, không nhìn xa hơn chặng đường đi/về quen thuộc hằng ngày, phó thác mọi sự cho Trời Đất. Nghe mà nao lòng!

Có lẽ không hào nhoáng và nên thơ bằng hình ảnh đôi tình nhân trẻ trung trao hôn trên đồi gió nhưng thực tế hơn và xúc động không kém là hình ảnh bà cụ gần 90 tuổi, quê mùa, mộc mạc, lo âu ghé vào tai người bạn đời gần 100 tuổi, hom hem, yếu ớt, dặn dò chờ tôi đi kiếm gạo, chút xíu tôi về.

Tôi không chắc thời còn trẻ, có khi nào hai cụ nói với nhau những lời tình tự không nhưng họ thật đã sống và cho nhau thương yêu, khăng khít, cho nhau gắn bó, nương tựa, trăm ngàn lần tha thiết hơn những lời tình tự để cơn gió thanh xuân cuốn đi.

Cuộc đời của hai cụ cùng đi bên nhau đến chỗ hẹn cuối như mọi người thấy, là bức tranh minh họa rõ nét nhất lời ca “Tình yêu là lẽ sống tự nhiên của chúng ta” trong bản nhạc “Love Is a Many-Splendored Thing,” xuất hiện lần đầu trong cuốn phim có cùng tên, đoạt giải Oscar, năm 1955.  Riêng bản nhạc cũng được bình chọn và trao giải bản nhạc hay nhất.

Tôi thật sự không biết bằng cách nào, nếu không là bởi chữ “Tình” trong tâm hai cụ, mà cả hai đã đi một hành trình bình an quá dài trong cuộc đời cơ cực của họ? Ăn uống kham khổ, làm việc lam lũ, trần thân với nắng mưa sương gió, không bệnh hoạn, không thuốc men, không người săn sóc, con cái có cũng như không, xem ra tuổi thọ an nhiên của họ là một nghịch lý hoàn toàn đi ngược lại các chuẩn mực y khoa hiện nay. Liệu các nhà bác học nghiên cứu về tuổi già có khám phá nào mới để giúp quý cụ cao niên trong mọi hoàn cảnh, sống trường thọ và… đẹp lão, như người Mỹ vẫn diễn tả bằng mấy chữ “age gracefully” hoặc thậm chí, ageless, không?

Tôi nghiệm ra hai cụ trong câu chuyện này không chỉ có chữ “Tình” trong tương quan vợ chồng hay đôi bạn mà các cụ còn có “Tình” với mọi người, với cả cuộc đời luôn có những sự bất ưng và bất như ý nữa. Họ không cưỡng cầu, không than thở, trách móc, buồn giận hay oán hận. Họ chấp nhận. Họ xót thương. Họ tha thứ. Họ yêu những gì họ có. Họ vun vén, làm cho những điều tệ hại nhất trở thành không đến nỗi nào.

Ôi, một chữ “Tình” mà bao la đến thế! Mà có sức mạnh chế ngự những điều ngoài tầm tay đến thế! Mà có vẻ đẹp làm rung động lòng người đến thế!

Chữ “Tình” không có tuổi, là bù trừ đẹp nhất tạo hóa ban tặng cho ai biết tìm kiếm.

(Bùi Bích Hà)
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeFri Jan 05, 2018 5:20 pm

.

Chỉ số hạnh phúc
Bùi Bích Hà

 làm việc với văn phòng du lịch ATNT của anh TNT nhiều năm, nghe anh tường thuật nhiều chuyến đi qua nhiều quốc gia có những địa danh thu hút du khách rất nổi tiếng. Với bản chất của một người có óc nhận xét tinh tế, anh không chỉ là một hướng dẫn viên du lịch nhiều kinh nghiệm mà hơn thế, còn là một nghệ sĩ say mê vẻ đẹp của cảnh vật trong thiên nhiên, một triết gia đứng trước những đổi thay của thời tiết, những khác biệt của con người ở các vùng đi qua nên nắm bắt rất nhanh mọi tình huống ở chiều sâu nghiêng về văn hóa của từng quốc gia. Câu chuyện anh kể có sự linh động của những thước phim vì nó phản chiếu con người, không chỉ là những bức tranh sao chép ngoại cảnh.

Có lần anh nói về Bhutan, gọi đây là đất nước mà người lãnh đạo tối cao đặt chỉ số hạnh phúc của người dân (Gross National Happiness) là mục tiêu cao hơn tổng sản lượng quốc gia. Anh cũng nói về cách hành trì tôn giáo ở nơi này nặng tính cách nhân sinh hơn là tuân thủ giới pháp v.v… Tuy nhiên, tôi vẫn chưa hình dung ra được thế nào là chỉ số hạnh phúc mà quốc vương Bhutan toàn tâm toàn ý hướng đường lối cai trị của Ngài vào đây nhằm tạo cho thần dân của Ngài một cuộc sống vui tươi và có ý nghĩa.

Cho tới tối hôm qua, tôi được chị bạn chuyển qua email bài đọc về bốn hoàng hậu xinh đẹp của xứ sở này thì tôi mới vỡ lẽ và bàng hoàng hiểu ra. Cùng với địa vị cao sang của các bà trong hoàng cung, họ là những phụ nữ có cá tính, biết tự phát triển năng khiếu, trau dồi bản thân và nhiệt tình đóng góp cho xã hội. Tôi thành thực không biết thổ ngơi của Bhutan ẩn mình dưới bóng dãy núi Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ hay môi trường thấm đẫm triết lý Phật Giáo của đất nước Bhutan (hay cả hai) đã là tác nhân tích cực tạo nên tâm thế người phụ nữ Bhutan nhẹ nhàng như mây trời, ngời ngợi như ánh dương?

Đức Vua thứ tư của Bhutan nối ngôi cha rất sớm, ở tuổi 17, sau khi phụ hoàng bất ngờ băng hà năm 1972. Hai mươi hai tuổi, trong cùng một năm 1979, theo phong tục đa thê của Bhutan, Đức Vua tuyển cung bốn chị em ruột trong một gia đình thế gia lệnh tộc nề nếp, cô nào cũng xinh đẹp, phong họ là hoàng hậu. Thứ tự giữa 4 chị em trong gia đình cũng là thứ tự trong hoàng cung: chị cả là hoàng hậu đệ nhất và cứ thế tính xuống đến cô út là hoàng hậu đệ tứ. Tuy xếp đặt vậy nhưng Đức Vua thương yêu, nể trọng và cư xử với các hoàng hậu cùng một cách như nhau, không có chút phân biệt nào. Song song với việc sinh cho Ngài 10 hoàng tử và công chúa, các hoàng hậu tuy không trực tiếp tham dự việc triều chính nhưng mỗi bà tùy khả năng riêng, hỗ trợ nhà vua trong các lãnh vực cần thiết của đất nước Bhutan. Sinh hoạt yên ấm, trên thuận dười hòa của hoàng gia khiến thần dân Bhutan rất ngưỡng mộ. Về mặt trị quốc, nhà vua tiến hành cải cách hệ thống giao thông để góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội, tăng cường dịch vụ y tế, tạo nguồn nước sạch và nâng cao chuẩn mực dinh dưỡng toàn dân. Họ cung kính nhà vua như Thánh sống. Những năm cuối triều đại, Ngài có khuynh hướng chuyển đổi chế độ từ quân chủ tuyệt đối sang quân chủ lập hiến với nghị hội do toàn dân bầu lên để chia sẻ trách nhiệm lãnh đạo đất nước phòng khi người kế thừa không đủ tài năng đức độ để tận trung chăm lo cho dân, cho nước.

Năm 2006, sau 34 năm trị vì trên ngôi báu và sau khi đã tuyển chọn được thái tử nối nghiệp dựa trên tài năng, đức hạnh và lòng dũng cảm, là con trai của hoàng hậu đệ tam, nhà vua nhanh chóng thoái vị, giao việc trị quốc an dân cho con nay là vị vua thứ năm của Bhutan, cũng là vị vua tiên khởi của nền quân chủ lập hiến được hình thành qua cuộc bầu cử nghị viện lần đầu năm 2008. Từng được vua cha cho đi du học ở các quốc gia tây phương, tốt nghiệp Đại học Oxford, sau khi gặp gỡ và chọn được ý trung nhân vốn là cô bạn nhỏ từ tuổi niên thiếu ở quê nhà, cũng du học Anh Quốc cùng thời, tân vương Khesar Wangchuck nhân dịp đất nước đổi mới, đã quyết định chấm dứt chế độ đa thê, chỉ cưới và chỉ lập một ngôi hoàng hậu, viết xuống sử sách Bhutan câu chuyện tình đẹp hơn cổ tích và hoàn hảo hơn chuyện tình của cha mẹ.

Trở lại 4 hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ của Bhutan, đệ nhất hoàng hậu Dorji sinh cùng năm 1955 với nhà vua, được toàn dân kính trọng và yêu mến vì tài năng và đức độ. Bà khởi xướng các chương trình cải thiện cuộc sống của người dân Bhutan tại các thôn làng xa xôi nhất bằng cách thiết lập quỹ Tarayana tặng nhà ở, cấp học bổng để đào tạo nhân sự, sản xuất và tiếp thị các nông phẩm giúp dân làng gia tăng thu nhập. Về mặt văn hóa, bà ủng hộ và tài trợ các hoạt động nhằm phát triển văn học. Bản thân là một nhà văn lỗi lạc, bà biên soạn nhiều sách về thi ca, lịch sử, văn học dân gian, hồi ký, cả sách luận bàn quốc sự. Không ngừng ở từng đó công việc, bà còn đề xuất các chương trình bảo vệ môi trường bao gồm các khu công viên quốc gia, các trường học; các chương trình dân sinh xóa đói giảm nghèo, nâng cao vị thế của nữ giới trong xã hội. Vẫn chưa hết, bà còn là sáng lập viên bảo trợ Viện Bảo Tàng Di Sản Dân Gian ở thủ đô Thimphu; là chủ tịch danh dự của một tổ chức lâu đời và uy tín liên quan tới thanh thiếu niên và vấn đề giới tính.

Từ gia đình đến hoàng cung, bà luôn là người chị cả tình nghĩa vẹn toàn với các em, làm gương cho các em trong cuộc sống chung/riêng sao cho ích nước lợi mình để cùng nhau thăng tiến.

Sinh năm 1957, kém chị cả 2 tuổi, hoàng hậu đệ nhị Tshering Pem tích cực tham gia sinh hoạt cộng đồng, hỗ trợ phát triển thanh thiếu niên. Bà sáng lập Bhutan Youth Development Foundation, qua tổ chức này, vừa giúp đỡ các em có hoàn cảnh khó khăn, vừa khơi gợi và truyền đạt cảm hứng sáng tạo cho giới trẻ với nhiều chương trình đem lại cơ hội trải nghiệm thực tế hữu ích, làm giàu vốn sống cho thế hệ công dân rường cột của Bhutan mai sau.

Sinh năm 1959, hoàng hậu đệ tam Tshering Yandon kém chị hai 2 tuổi, sau này là mẹ của quốc vương thứ năm nối ngôi phụ hoàng trị vì Bhutan. Quan tâm đặc biệt đến cuộc sống của phụ nữ và các bé gái, năm 2009, bà thành lập quỹ Bhutan Nun với mục đích hỗ trợ việc nâng cao nữ quyền thông qua giáo dục để xây dựng ý thức tự túc về kinh tế cho nữ giới. Song song với công việc này, bà còn là người bảo trợ Hội Bảo Vệ và Chăm Sóc Các Động Vật của hoàng gia.

Sinh năm 1963, hoàng hậu đệ tứ Sangay Choden ít tuổi nhất nhưng nổi tiếng hơn cả về sự cống hiến tận tụy cho công việc trong nội bộ hoàng gia lẫn ngoài xã hội. Bà tham gia tích cực vào các hoạt động bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống Bhutan. Năm 2011, bà thành lập bảo tàng dệt/may quốc gia nhằm quảng bá và gìn giữ các sản phẩm dệt/may nhiều màu sắc, được xem là một mảng rất sinh động của nền văn hóa đặc thù dân tộc. Với vẻ đẹp sắc sảo, vóc dáng thanh lịch, giỏi giang và năng động, bà nhiệm chức đại sứ thiện chí của Bhutan năm 1999 và tham gia Quỹ Dân Số Liên Hiệp Quốc. Sáng chói theo cách riêng trên trường ngoại giao quốc tế, bà hoạt động giúp Bhutan cởi mở hơn với cộng đồng thế giới ngày nay.

Chao ôi, trông người lại ngẫm đến ta! Cả 4 hoàng hậu Bhutan nổi trội những dấu ấn hiển thị trí tuệ và phong cách riêng của mỗi người, là hiện thân giấc mơ tuyệt vời nhất của nữ giới khắp nơi từ ngàn xưa tới ngàn sau, trong tình yêu, trong sự nghiệp, thăng tiến hài hòa và quân bình về mọi mặt, tưởng là chung song vẫn riêng và trong từng cái riêng vẫn có cái chung gom hết tinh hoa tạo nên một khối ngọc lưu ly tỏa rạng.

Nếu lấy việc nơi này xét việc nơi kia, hẳn là có nhiều bạn gái thời nay không đồng thuận với bốn hoàng hậu Bhutan về nếp sống đa thê trong hoàng cung nhưng đây là tập tục văn hóa của xứ sở Bhutan. So với tam cung lục viện của các vương triều Á Châu, xử sự của nhà vua và các hoàng hậu Bhutan nếu chưa văn minh thì cũng rất nhân bản và tiến bộ. Đứng trước một điều bất như ý, nâng vạt áo lau nước mắt ngày này qua tháng khác cho đến khi mù lòa hay biết tận dụng một vài yếu tố có thể chấp nhận để từ đó thay đổi chính mình, hoàn cảnh và cả tha nhân xung quanh? Con đường nào xứng đáng với đời người hơn? Làm vợ, làm mẹ theo thiên chức Tạo hóa ban tặng là hạnh phúc tự nhiên của người phụ nữ. Những lý luận, suy nghiệm hay đòi hỏi xung quanh việc thể hiện thiên chức ấy là sản phẩm của con người bị xã hội điều kiện hóa. Xã hội thay đổi tốt hơn, điều kiện sẽ thay đổi tốt hơn.

Người viết bài này thực sự không biết trường đại học Oxford… nước Anh hay chính Hoàng hậu đệ tam triều đại nhà vua thứ tư của Bhutan đã thực sự khai mở tình yêu chuyên chính và hằng cửu trong trái tim của con trai bà để khi lên ngôi, kết hôn với người phụ nữ mình chọn, tân vương đệ tứ dứt khoát bãi bỏ chế độ đa thê để tận hiến cho tình yêu?

Từ nay cho tới ngày đáp chuyến tàu không khứ hồi đi vào vũ trụ, tôi ao ước được có một lần đặt chân tới đất nước Bhutan huyền ảo, xanh bóng núi, xanh rừng nguyên sơ, đi trong không gian tinh khôi dưới trời hạo nhiên, đi trên những con đường tĩnh mịch không có cột đèn lưu thông, đi qua những ruộng đồng bậc thang thơm mùi lúa mới, màu mỡ, đẹp và sạch như tranh vẽ, đi để có duyên lành chiêm ngắm tu viện Taktshang cheo leo đầu núi và để biết thế nào là kiếp đời tu hành lánh xa phiền trược. Nhìn bản đồ, Bhutan bé nhỏ nằm nép giữa hai đại cường dân số đông hàng tỷ nhưng nhìn từ trái tim, Bhutan là viên ngọc quý dấu mình trong hang động ẩn mật, là quà tặng trời ban cho một dân tộc nuôi thiện tâm sống từng phút giây để xưng tụng yêu thương, hòa bình và niềm an lạc.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSun Jan 14, 2018 12:55 am




Ðã Quên Hay Còn Nhớ?
Thứ Hai, 05 tháng Chín năm 2016
Bùi Bích Hà 
  
 
Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Tuongdai_kyniem_quenhaynho
Soldierstone Memorial – Rio Grande National Forest

Cho đến nay, đã nhiều người từng biết, từng xem hình ảnh, thậm chí, từng đi qua thắng tích kỷ niệm các anh hùng tử sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến Đông Dương kể từ 1945, một công trình được xây dựng với nhiều tâm huyết, bằng xi măng, đá tảng, sừng sững trong không gian bát ngát của rặng núi Rocky, Colorado.

Không có nhiều người chứng kiến lúc nó bắt đầu, cách thức khiến nó nên hình nên vóc, lúc nó hoàn thành sau chặng đường 10 năm, từ cái buổi sáng một cựu trung tá hồi hưu quân lực Hoa Kỳ bước vào cửa tiệm đá của ông Mike Donelson ở Rocky Ford. Đối với dân thể thao thích đi bộ ven núi, khi bất ngờ chạm mắt vào khu tượng đài ở một nơi hẻo lánh, giữa bốn bề cỏ cây tịch mịch, trời đất hoang vu, đã giật mình kinh ngạc vì tầm vóc, kích cỡ của các khối đá hình thành nó, không một chỉ dấu nào về xuất xứ ngoài mấy cái địa danh xa tít mù tắp bên trời Á, những câu danh ngôn bằng nhiều ngôn ngữ (có cả bốn câu thơ trích từ Hoa Địa Ngục của Nguyễn Chí Thiện) chạm khắc bằng tay trên 36 phiến đá tảng màu xám nhạt, to hơn những mộ chí bình thường và đặt rải rác trong chu vi 30 bộ xung quanh tượng đài. Là một bí ẩn lạ thường.

Tháng 10 năm 2013, một video về tượng đài chiến sĩ trận vong này xuất hiện lần đầu trên YouTube, đã lôi cuốn 66,000 lượt người truy cập vào. Tra cứu tài liệu sở Kiểm Lâm Hoa Kỳ tại địa phương, không thấy bất cứ một thông tin hay chỉ dẫn nào. Vẫn chỉ có những người thích môn thể thao đi bộ xuyên rừng núi tình cờ bắt gặp rồi truyền miệng nhau con đường tới đây theo trí nhớ được trực giác hỗ trợ thay vì bản đồ. Với dân lướt mạng gà mờ, chậm lụt như kẻ viết bài này, phải chờ tới lúc được bạn gởi cho cái link vào Facebook của một đôi vợ chồng Mỹ trẻ mê hiking thì mới biết đến nơi chốn linh thiêng, chạm vào hồn sông núi Việt Nam kia!

Hôm trước, người chồng đi rừng cùng vài người bạn, ngẫu nhiên phát giác kiến trúc kỳ lạ này. Khi về lại nhà, anh kể cho vợ nghe. Người vợ hiếu kỳ, muốn được chồng đưa tới tận nơi để “thập mục sở thị.” Người chồng hơi ngần ngại, sợ không tìm ra con đường bọn anh đã đi không chủ ý nhưng chiều lòng vợ, anh chỉ giáo đầu là có thể khó khăn song anh sẽ cố nhớ. Vì lộ trình khá xa, vài chục dặm nên họ bảo nhau dùng xe gắn máy và họ nai nịt áo mũ an toàn rồi lên đường.

Qua mô tả của người vợ trên Facebook, con đường mòn trườn lên núi dốc cao, nhiều đoạn gập ghềnh, chật, mấp mô, khó di chuyển, chồng phải lái chiếc xe phân khối to hơn của anh lên trước, tìm chỗ đậu rồi trở xuống, chạy giùm xe của chị và chị lội bộ qua khúc đường này. Đã có lúc họ thất vọng, tưởng không tìm ra dấu lông ngỗng Mỵ Châu thì họ thấy thấp thoáng tượng đài qua rặng cây thưa, không thật sự vĩ đại, chỉ lạ mắt, đứng chơ vơ giữa cái tam giác bằng đá xếp chồng lên nhau, có thể hiểu là ẩn dụ tượng trưng ba nước Việt-Miên-Lào, làm thành bức tường thấp chừng qua khỏi đầu gối. Trên chóp tượng đài bằng phẳng, có một vật trang trí nhìn trong ảnh không rõ, có vẻ là mô hình khẩu bazooka thu nhỏ như đồ chơi. Ở một mặt bia, trên cùng, là hàng chữ  SOLDIERSTONE, hàng dưới là ba chữ “In Memory of” hàng dưới nữa là nhóm chữ dài hơn: LONG WARS LOST and the Soldiers of  dưới nữa là hai chữ VIETNAM tô đậm, nổi bật. Dưới nữa, là hai câu văn xuôi, đọc lên nghe như thơ: “Nếu khóc than mà có thể biến đổi được tiến trình sự việc/thì dòng lệ của tôi sẽ đổ xuống không ngừng cho đến ngàn thu.” Trên mặt phiến đá tiếp theo cùng chiều thẳng đứng, khắc câu: “Still in Death lies everyone And the Battle’lost.” Và phiến đá trước phiến đá cuối cùng để trống, có chữ SACRIFICE, cũng tô đậm.

Các từ chọn lựa và câu trích dẫn bằng tiếng Việt chứng tỏ tác giả công trình này rất tinh thông cả hai ngôn ngữ Anh/Việt. Chắc cũng không ai khác ngoài chính tác giả với phần chia sẻ tâm tư bày tỏ niềm hối tiếc khôn nguôi về diễn tiến xảy ra trong cuộc chiến Việt Nam mà tác giả từng hăng say trong nhiệm vụ huấn luyện binh sĩ, thúc đẩy họ cầm súng ra trận để sau cùng, thấy xót đau máu xương đổ xuống cho một lý tưởng hão huyền và một niềm tin khờ khạo. “Sự chết đã vùi chôn mọi sinh linh vào tịch mịch và cuộc chiến đã mất” để chỉ còn lại chữ hy sinh cao quý nhưng vô nghĩa mà nhiều thế hệ người dân nhược tiểu sau này nên lấy làm bài học của thời mạt sử.

Giờ đây, người ta đã tìm ra tung tích nhân vật bí mật quyết tâm bỏ công sức, bỏ tiền bạc, bỏ thời gian, thực sự từ năm 1990-1995 (không kể những năm tháng ưu tư về dự án) để xây lên đài tưởng niệm này, ở một địa thế tuyệt đẹp và hẻo lánh trên núi đồi Colorado, ngày đêm chỉ có mặt trời, mặt trăng, tinh tú, mây và gió phủ lên nó ánh sáng, bóng tối, mùi cây cỏ dại khắp xung quanh, xa lánh chốn bụi hồng.

Năm 1973, sau 11 năm quân vụ tại Việt Nam, Trung tá lục quân Hoa Kỳ Stuart Allen Beckley về hưu, một năm sau khi cuộc hòa đàm 4 bên nhóm họp tại Paris kết thúc nhằm khép lại cuộc chiến tranh Việt Nam để Mỹ rút chân ra một cách thanh lịch và trong danh dự. Những cái mặt nạ sân khấu nửa đêm về sáng phấn son nhếch nhác, nhìn gần ở góc độ của Trung tá Beckley, tất đoán thấy sự thật chung cuộc. Ông về Mỹ, mang theo nỗi ngậm ngùi tiếc thương các đồng ngũ của ông với nhiều quốc tịch, đã tình cờ gặp nhau, chia nhau một quãng đời với nhiều mơ ước đẹp cho một lý tưởng họ cùng theo đuổi, khác nhau ở chỗ các đồng ngũ ấy, nhất là các chiến hữu Việt Nam của ông, sau khi ông đi rồi, sân khấu chưa thực sự hạ màn, hý viện chưa thật sự tắt đèn, họ vẫn ung dung cống hiến đến giọt máu cuối cùng cho Tổ quốc oan khiên. Họ về đất, *“rải rác biên cương mồ viễn xứ,” và ông trở về quê hương với một cõi lòng đầy thương tích, sống những năm tháng còn lại của đời mình trong ray rứt, không thôi nghiền ngẫm ý nghĩ phải làm một cái gì để sự hy sinh kia được nhìn nhận.

Một trong trên 30 phiến đá tại Soldierstone trên có khắc bản dịch sang tiếng Anh bốn câu thơ trích trong Chinh Phụ Ngâm, nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn, được bà Đoàn Thị Điểm dịch sang thơ tiếng Việt. Bốn câu thơ trong ảnh tương đương với bốn câu dịch sang Việt ngữ: Hồn tử sĩ gió ù ù thổi, / Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi. / Chinh phu tử sĩ mấy người, / Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn. (Ảnh Grace Hood, Hidden Colorado, KUNC.org)

Ông sống ở Texas nhưng gia đình sở hữu đất đai ở Westcliffe, Colorado, nơi rặng núi Rockies là lời gọi chân mây đầy quyến rũ cho những ai từng nghe tên nó. Có lẽ cựu trung tá hồi hưu Stuart Allan Beckley không ngoại lệ khi đi tìm một nơi yên nghỉ thích hợp, xứng đáng với những người chiến sĩ vô danh đã hy sinh mà ông ngưỡng mộ và muốn lịch sử tôn vinh họ với tất cả sự công chính cần thiết.

Từng là chứng nhân/nạn nhân gián tiếp của biết bao hệ lụy trần gian xung quanh cuộc chiến, theo ông, đã thua đậm, điều quan trọng đầu tiên ông tâm niệm là phải tránh những tạp âm làm hoen ố một lần nữa linh hồn những anh hùng đã chết cho tình yêu nước, yêu con người và yêu tự do, đã thánh hóa vì sự cao cả ấy. Ông biết một kiến trúc có tính cách riêng tư, của duy nhất một người lính Mỹ vô danh muốn bày tỏ lòng tôn kính đối với những người chiến binh bị lãng quên mà lại muốn được xây lên ở đất công thì không dễ, phải trải qua nhiều thủ tục hành chánh nhiêu khê, phải chịu sự xăm xoi của nhiều cơ quan liên hệ không có mỹ cảm với dự án, ngay cả của nhiều cá nhân không chấp nhận cuộc chiến nên khi thỉnh cầu sự chấp thuận của sở Kiểm Lâm địa phương về địa điểm ông đã cất công tìm kiếm, đã chọn, ông yêu cầu (như một mật ước) không được công chúng hóa, không có điều trần ở quốc hội, không thông báo với truyền thông. Mong muốn tha thiết của ông là sẽ không có nhiều những bước chân hoặc lãnh đạm, hoặc thù nghịch, dày xéo nơi chốn thiêng liêng này mà chỉ có những tâm hồn đồng điệu, nhờ duyên lành đưa đẩy khiến tìm ra viên ngọc quý ông giấu giữa khu rừng rộng tới 1.8 triệu mẫu tây ở quê hương ông.

Như một thiên tình sử đẹp cho đến giòng chữ cuối cùng, đơn xin phép của cựu Trung tá Beckley thoạt đầu bị bác nhưng kết quả khám nghiệm y khoa cùng trong năm 1995 bất ngờ cho biết ông bị ung thư và bản án nghiệt ngã này đã làm mềm lòng ông Giám đốc sở kiểm lâm, khiến ông nhanh chóng bật đèn xanh cho dự án.

Tượng đài hoàn tất vào tháng 7 năm 2005, theo đúng ý nguyện của người chủ xướng. Ông Beckley khi đó đã quá yếu để có thể tới tận nơi nhìn ngắm tác phẩm của mình và chỉ 4 tháng sau, ngày 5 tháng 11, ông qua đời, lấy cái chết của chính ông thay cho cả nước Mỹ, đền tạ ân tình sâu nặng với những người đã khuất.

Một trong những trang thư trao đổi giữa cựu Trung tá Mỹ Stuart Allen Beckley và Mike Donelson, chủ nhân tiệm khắc đá ở Rocky Ford, Colorado. Ông Beckley chiến đấu ở Việt Nam từ 1962 tới 1973. Ông vẫn ước ao xây một tượng đài để tưởng niệm tất cả những người đã từng chiến đấu cho tự do không phân biệt chủng tộc. Nhưng ông qua đời vì bệnh ung thư trước khi Soldierstone, hoàn toàn do tiền túi của ông bỏ ra, hoàn tất vào năm 1995. Ông Beckley đã nhấn mạnh là ông không muốn tên ông ghi khắc ở đâu trên những phiến đá này. "[Tượng đài] này làm cho họ, không phải cho chúng ta," ông từng nói. (Ảnh Grace Hood, Hidden Colorado, KUNC.org)

Năm 2014, dù khó khăn cỡ nào, vẫn có vài du khách đầu tiên đã đến đây, có người kể lại, có người giữ im lặng vì tôn trọng tinh thần người dựng tượng đài nhưng tuyệt đối không một ai chỉ dẫn lộ trình đưa tới thắng tích này. Một hình ảnh bằng ngàn lời nói. Sau này, ông Donelson, chủ nhân tiệm đá ở Rocky Ford, người thợ và cũng là người nghệ sĩ đã giúp ông Beckley thực hiện ước mơ ấp ủ đằng đẵng qua hai thập niên, đã nói về ông Beckley đại ý: “Qua thư từ trao đổi trong nhiều năm trước khi khởi công tượng đài, tôi linh cảm ông ấy có nỗi băn khoăn mãi gậm nhấm tâm can ông như thể có điều gì đó trong cuộc chiến để giờ đây ăn năn.”

Theo kẻ viết bài này, ông không làm gì sai cả ngoại trừ sở hữu một trái tim trong trẻo. Nó khiến ông muốn nhận tội và tạ tội thay cho cả đất nước ông khi cần một lý do để đi ra khỏi cuộc chiến tranh đã hết ý nghĩa thì vội vã phủ nhận vinh quang máu xương của đồng minh, trút lên họ những cáo buộc thiếu công bằng để chính mình không phải trả lời câu hỏi trước giờ lương tâm phán xét.

Đáng yêu thay nước Mỹ vẫn là xứ sở của những giá trị nhân bản, của những công dân biết tôn trọng lịch sử, yêu vẻ đẹp và muốn công lý cho mọi người. Nói như Bill Gates, một đất nước hưng thịnh không chỉ căn cứ vào sản lượng quốc gia mà ở cung cách người dân hành xử trong cuộc sống.  Đôi vợ chồng trẻ trên Facebook đã vượt mọi khó khăn cùng nhau đến chiêm ngắm SoldierStone, kể lại chuyến đi của họ với lòng thành khẩn: “Tôi nhắm mắt lại, lắng nghe tiếng gió trong rặng cây. Tôi thở bầu không khí núi, lắng đọng hương rừng và trong giây phút ấy, tôi thề tôi đã nghe tiếng thì thầm Hãy Nhớ Chúng Tôi nhé! Tôi hứa là tôi sẽ nhớ.”

Vài bức ảnh cho thấy nhiều bạn trẻ đi xe gắn máy tới đây. Phải chăng gởi gấm tâm huyết của cố trung tá Stuart Allen Beckley đã tới với đúng đối tượng mà ông mong muốn, thế hệ sẽ theo đuổi một cuộc chiến khác, vì Tự Do đã đành mà trước hết, còn vì đồng loại nữa.

* Trích Tây Tiến, thơ Quang Dũng.
* Tượng đài là những phiến đá granite khắc chữ đơn sơ nhưng trang trọng chồng lên nhau, cao khoảng 10 feet (3m). - (Ảnh Grace Hood, Hidden Colorado, KUNC.org)


Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Soldierstonememorial1

Mysterious Viet Nam War Memorial (MilitaryCom/Video)

http://brownshighway.blogspot.fr/2015/09/9-1-2015-soldier-stone-memorial.html

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Soldierstonememorial2

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Soldierstonememorial4

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Soldierstonememorial5

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Soldierstonememorial6

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Soldierstonememorial7

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Soldierstonememorial8

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Soldierstonememorial9


http://brownshighway.blogspot.fr/2015/09/9-1-2015-soldier-stone-memorial.html

Bài viết bằng tiếng Anh & Video clip về tượng đài này ▼


http://www.military.com/video/operations-and-strategy/vietnam-war/vietnam-memorial-on-remote-trail/2805626482001

http://urlz.fr/42iH
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeWed Jan 17, 2018 5:09 pm

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Them-duoc-goi-hai-tieng-me-oi

Nợ công
Bùi Bích Hà
December 13, 2017


Tôi nhận được điện thư của người bạn quý, cảm nhận qua nét vui tươi trong những con chữ chị đánh xuống bàn phím, sự hứng khởi khi chuyển cho tôi nội dung của một bài viết kèm theo trích từ Facebook Giao Thanh Pham mà xem ra chị rất đắc ý. “Này, cho một đề tài để chia sẻ đây!”

Quả nhiên nhận xét của chị không sai. Đề tài của bài viết luận về công ơn cha mẹ, một vấn đề dù nói ra hay không, đã, đang và có lẽ còn làm bận lòng nhiều thế hệ con dân Việt Nam trong nước hay hải ngoại trong tiến trình hội nhập vào xã hội Hoa Kỳ, phải ứng xử với những mâu thuẫn văn hóa khác biệt.

Đại ý bài viết nêu ra vài quan điểm chống lại món nợ công, giữa ông bà, cha mẹ và cháu con, chuyền vai từ thế hệ này sang thế hệ kia trong các gia đình như một hủ tục cần chấm dứt. Lý lẽ để biện minh cho lập luận này như sau:
- Những đứa trẻ vì thời cuộc, sống không có cha mẹ thân thuộc bảo bọc từ tuổi niên thiếu, khi lớn lên vẫn có sự nghiệp bề thế.
- Tác giả đã nghiên cứu “nhiều sách vở giáo khoa ở Mỹ, chẳng bao giờ tìm được những câu răn dạy về ‘Công Ơn Cha Mẹ’ hoặc việc phải đền đáp, trả nghĩa cho ‘Công Đức Sinh Thành,’ lại càng không thể tìm ra được những gì nói đến ‘Bổn Phận Phải Trả Hiếu’ của con cái sau này khi cha mẹ về già. Người Mỹ hay nói chung, người Tây phương không có cái ‘Đạo Lý Thánh Hiền’ nhập cảng từ Tàu ấy.”
– Con cái sinh ra là do ý định của cha mẹ hoặc trong vài phút nông nổi của người lớn, không có chúng dự phần. Có con vì “tai nạn.” Có con cho vui cửa vui nhà, cho ông bà bế ẵm, để cầm chân người phối ngẫu, để làm tròn vẹn cái hình ảnh mái ấm gia đình có tiếng khóc cười trẻ thơ… Tuyệt nhiên không bao giờ cha mẹ sinh con vì chúng nó muốn được góp mặt với đời…

Vẫn theo bài viết, vậy mà trong các sách giáo khoa, các nền giáo dục trong quá khứ ở mọi thời đại, người ta luôn kể về công ơn của cha mẹ, mang nặng đẻ đau, sớm hôm tảo tần, vất vả nuôi con cái, nêu những sự kiện đó ra như những món nợ vay trả, trả vay giữa cha mẹ và con cái, truyền tử lưu tôn từ đời này sang đời khác.

- Đối với cha mẹ Mỹ, nuôi dạy con cái là bổn phận, trách nhiệm phải chu toàn. Đối với cha mẹ Việt Nam, đó là ân đức do cha mẹ ban phát, con cái phải đáp đền; là món nợ công đã có từ khi chúng chưa mở mắt chào đời.
- Cha mẹ Mỹ coi việc con cái giúp đỡ trong tuổi già là quà tặng. Cha mẹ Việt Nam coi đó là nợ, bắt buộc phải hoàn trả.
- Cha mẹ Mỹ chuẩn bị hành trang cho con cái vào đời ở lứa tuổi 18-20 rồi đẩy chúng ra riêng, sống tự lập, cha mẹ được rảnh tay lo cho tương lai tuổi già của mình. Cha mẹ Việt Nam ấp ủ con cái, tuổi 30-35 vẫn còn rụt rè chưa dám đối mặt với xã hội. Đợi đến khi chúng vào đời rồi, cha mẹ đã lụm khụm, không còn thời gian để lo cho tương lai về già của bản thân nữa.

Bài viết kết luận: Thế là cái vòng lẩn quẩn của món nợ sinh thành ấy cứ được trao qua vai hết đời này sang đời khác, cứ tiếp tục làm khổ lẫn nhau khi nhu cầu đòi hỏi giữa đôi bên không được đáp ứng như mong đợi. Ở Mỹ, hai đứa trẻ sau khi ra đời chỉ phải lo lắng cho tương lai của gia đình chúng. Ở Việt Nam, hai đứa trẻ ấy còn phải cõng thêm tương lai của cha mẹ. Muốn chấm dứt cảnh này, cha mẹ Việt Nam cần thoát khỏi lối tư duy cổ hủ, không còn thích hợp như nói trên.

Phải công nhận các dữ kiện bài viết đưa ra đều chính xác, phản ảnh một thực tế khó chối cãi, dựa trên nền văn hóa “Trẻ cậy cha, già cậy con” lâu đời của người Việt Nam trước đây vài ba thập niên ở quê nhà.

Tôi chỉ băn khoăn không hiểu cách nhìn mối liên hệ giữa cha mẹ và con cái như món nợ công theo quan điểm của tác giả bài viết. Trong thực tế và ngay cả trong môi trường ở hải ngoại ngày nay, liệu có bao nhiêu phần trăm được sự đồng thuận của cộng đồng người Việt ở cả hai phương vị cha mẹ và con cái?

Vắn tắt thôi, ai cũng biết con người sống ở đời kể từ lúc lọt lòng mẹ là bắt đầu ngay những món nợ chằng chịt với người xung quanh, với đồng loại, bởi vì giản dị là con người không thể sống một mình và hữu dụng một mình. Đó là món nợ lớn nhất, đã làm người thì không ai thoát được, thế hệ này sang thế hệ khác, trước khi trở thành “chủ nợ” hay đang là “chủ nợ,” ai cũng từng là con nợ và nợ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Có những đứa con cảm kích tấm lòng trời biển của cha mẹ, còn cười đùa bảo nhau: “Cha mẹ đi rồi vẫn chưa trả hết nợ con cái vì chúng con gặp khó khăn, còn thắp nhang xin cha mẹ phù hộ.”

Sách vở giáo khoa hay nhà trường Mỹ không dạy trẻ về công đức sinh thành của cha mẹ, bổn phận phải trả hiếu của con cái khi khôn lớn; người Mỹ hay nói chung, người Tây phương không có cái đạo lý thánh hiền nhập cảng từ Tàu. Bởi vì ở đất nước văn minh, mỗi cá nhân từ bé đã sinh ra trong tự do và được tôn trọng, giáo dục không tẩy não hay nhồi sọ trẻ mà hướng dẫn, đào tạo trẻ thành những con người có đầu óc, có trái tim, có nhận thức và suy xét riêng, có khả năng làm những chọn lựa phù hợp với phẩm cách của mình.

Ngay trong mỗi gia đình, cha mẹ không tự coi mình là chủ nợ đối với con cái nhưng làm gương cho con về tình thương yêu, lòng khoan dung, bác ái, tinh thần trách nhiệm, ý thức tương trợ; nuôi dưỡng, tưới tẩm trong con trái tim mẫn cảm, biết thưởng thức cái đẹp và sống đẹp. Một xã hội tiến bộ đề cao nhân phẩm khuyến khích con người phát huy các giá trị nội tại thay vì dùng thần thánh làm ông ngoáo ộp để dọa dẫm hay hứa hẹn vu vơ.

Cha mẹ Mỹ với kinh nghiệm bản thân, biết rõ hơn ai hết con cái là những nhánh sông, con sẽ có ngày đổ ra biển lớn, đầu tư vào con cái là đầu tư không hoàn vốn nhưng không vì thế mà buộc chặt túi tiền. Họ đầu tư khôn ngoan và có kế hoạch để xã hội phát triển mà không ai lỗ lã, rất khác với cha mẹ Việt Nam cả đời sống theo câu châm ngôn “nước mắt chảy xuôi,” có khi chảy đến cạn dòng và tiếp tục khóc bằng đôi mắt khô không lệ.

Cha mẹ không đòi nợ thì con cái không phải lo trả nợ nhưng khả năng của trái tim yêu thương thì vô hạn. Một đứa con bị người đời gọi là bất hiếu, vô đạo, không phải vì nó không có đồng lớn đồng bé cho cha mẹ, vì nó không nuôi nổi cha mẹ bằng sơn hào hải vị hay lụa là nhung gấm mà vì nó vô cảm trước tuổi già sức yếu, những vụng về yếu ớt, những khao khát một lời nói, một ánh mắt, một nụ cười, một chút ân cần để sưởi ấm buổi chiều mùa Đông sắp tắt của cha mẹ.

Cảm xúc từ trái tim không phải mua bằng tiền mà một đứa con nào đó vẫn không có được để làm quà cho cha mẹ thì thật tội nghiệp bởi vì nó khốn khổ hơn cả một người khốn khổ bình thường nhưng có một trái tim biết buồn vui và san sẻ. Tình cha mẹ nếu không cao cả, thâm sâu và diễm lệ hơn một món nợ thì đã không có những đứa con thất lạc gia đình, thậm chí bị bỏ rơi trong một hoàn cảnh nào đấy, cả cuộc đời còn lại miệt mài đi tìm những người sinh thành ra chúng để không bị dày vò bởi mặc cảm không có một gốc gác vào đời như mọi ai trên mặt đất này.

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày.” Cha mẹ sẽ không buồn vì con cái không thể trả nợ mà sẽ rất buồn vì cuộc sống bận rộn quay cuồng với cơm áo của một Hoa Kỳ thực dụng đã lấy đi năm ba phút thư giãn cần thiết cho tâm hồn con cái họ, để chúng không còn cái hạnh phúc thưởng thức hương thơm của hoa hồng mà thiên nhiên ban tặng hậu hĩ cho nhân loại và làm đẹp Địa Cầu.

Bùi Bích Hà

.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeFri Jan 26, 2018 1:05 pm



Vuông Lụa Cũ

Bùi Bích Hà


Một buổi chiều cuối Xuân thời tiết khác thường ở Orange County. Những bông hoa hải đường ngả màu nâu tàn úa rụng đầy một khoảng sân. Những bông cúc đại đóa đã thôi uống nước, chờ qua đời trong chiếc chậu sứ trên thềm nhà.

Bầu trời lãng đãng mây mù, chốc hửng sáng, chốc phẳng lì một màu xám buồn. Gió lay nhẹ các đỉnh cây hai bên con đường vắng, thưa thớt xe cộ qua lại. Cảnh vật có chút gì ngậm ngùi trong mắt một người luống tuổi như tôi ngồi nhìn vẩn vơ xung quanh, không biết cây cỏ có nhìn mình như mình đang nhìn chúng không? Bỗng nhiên đài phát thanh cho nghe bản nhạc của Vũ Thành An phổ thơ của Nguyễn Ðình Toàn (nếu tôi nhớ không lầm) “… Ðời một người con gái Trời cho không được mấy, đến khi lấy chồng chỉ còn mối tình mang theo…”

Ca từ nghe đi nghe lại đã mấy trăm lần, thuộc làu, với cảm xúc quen thuộc, mòn nhẵn, tựa như con đường quen thuộc về nhà không còn gợi chút bâng khuâng, sao sáng nay bỗng dội vào hồn tôi nỗi đau xót đến lạ. Hình như người con gái Việt Nam nào, nghe Bài Không Tên Số 2, cũng thấy trong đó thấp thoáng mình thời mới lớn, mơ mộng thì nhiều mà chẳng được toại lòng, toại ý bao nhiêu. Tình yêu đầu đời của họ, có khi là ước hẹn không thành nhưng rất nhiều khi chỉ là mơ mộng bâng quơ gởi cho một vầng trán rộng, một đôi mắt thoáng buồn, một dáng đi lênh khênh, một mùi hương thoảng bay trong gió. Như có. Như không. Dù mong manh là thế. Dù nước chẩy hoa trôi là thế. Những thoáng ghi nhận đầu tiên trong buổi bình minh đầu tiên của tuổi dậy thì rộn ràng giai điệu cũng đủ khắc họa trong hồn non yếu của cô thiếu nữ những đường cọ không mờ phai.

Nghĩ mà thương. Trong đời thường có bao nhiêu cô TTKH ép hoa tigôn vào tập vở cho riêng mình, chẳng để nhớ nhung ai mà để đôi khi soi lại bóng mình một thời nên thơ và vụng dại.

Nhà thơ Trần Mộng Tú có bài thơ Bông Hoa Ðỏ, theo tôi, đáng yêu hơn bài thơ Tiết Phụ Ngâm nổi tiếng của Trung Hoa cổ, tác giả Trương Tịch, mượn lời hay ý đẹp trong thơ để giãi bày tâm sự khi phải khước từ đề nghị công danh của Lý Sư Ðạo hầu giữ được tiết tháo của người trung thần không phò hai chúa:

“Quân tri thiếp hữu phu
Tặng thiếp song minh châu…
… Hoàn quân minh châu song lệ thùy
Hận bất tương phùng vị giá thì.”

Tạm dịch nghĩa là: Chàng biết em là bông hoa có chủ, sao còn tặng em đôi ngọc quý? Trả ngọc cho chàng mà lệ ứa. Hận không gặp nhau lúc em còn son.

Ca dao Việt Nam cũng có bài diễn tả tình cảnh muộn màng này: Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, em lấy chồng, anh tiếc lắm thay! Tiếc gì một miếng trầu cay, sao anh không hỏi những ngày em còn không?

Trong cả hai trường hợp, người phụ nữ trong thơ được yêu, được cầu cạnh, được thèm muốn, có nhiều hơn những gì cô cần. Người phụ nữ trong thơ Trần Mộng Tú giông giống người chị cả hy sinh tuổi xuân thay mẹ nuôi em ăn học trong bản nhạc Chị Tôi của nhạc sĩ Trần Tiến. Khi các em khôn lớn thành người, cô đã luống tuổi, những tưởng gặp được duyên may với người công nhân một hôm về làng xây cầu cùng cô ước hẹn trăm năm. Ngờ đâu cầu xây xong, chàng ra đi biền biệt, không quay lại bến sông chứng kiến sự chờ đợi mỏi mòn của nàng. Thời gian lạnh lùng trôi, chỉ còn nấm mộ nhỏ quạnh hiu ven sông nhắc người qua lại câu chuyện tình thiên cổ.

Trong bài Bông Hoa Ðỏ, thơ ngũ ngôn Trần Mộng Tú, những câu năm chữ là tiếng nấc nghẹn ngào của Em tuổi mới chớm xuân, hồn như vuông lụa nhỏ. Anh là cánh bướm xa tới từ miền đất với bao điều kỳ diệu, mang cho em bông hoa đỏ như than hồng thắp lên ngọn lửa tình yêu sưởi ấm tim em.

Em gói hoa vào lòng
Sợ hương bay theo gió
Ngờ đâu hoa có gai
Rạch hồn vuông lụa nhỏ.

Mùa Xuân của đất trời cứ hết một chu kỳ bốn mùa lại trở về, tiếc thay, mùa Xuân đời người có khi không trở lại. Tương truyền bà Huyện Thanh Quan, một hôm ngồi ở công đường thay ông huyện công cán phương xa, thấy lá đơn của cô Nguyễn Thị Ðào xin phép được tái hôn vì bị chồng phụ rẫy. Cám cảnh nghĩa đàn bà, thương cho người phụ nữ chỉ có một thời xuân sắc vắn vỏi, bà hạ bút phê chuẩn thỉnh cầu của nguyên đơn Nguyễn Thị Ðào như sau:

Phó cho con Nguyễn Thị Ðào
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai?
Chữ rằng xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già…

Mùa Xuân của em trong thơ Trần Mộng Tú như hoa chỉ nở một lần:

Như xuân không trở lại
Anh đến rồi anh đi
Ðể mặc em vụng dại
Với vết thương dậy thì.

Qua mùa Hè nức nở. Tàn mùa Thu gió ngập phòng. Em không chờ đợi nữa, ngậm ngùi gấp lại vuông lụa như gấp lại trang sách đời mình và theo chồng sang sông.

Ngày tháng bẽ bàng rụng rơi cùng mộng mị. Dòng thời gian như dòng sông tắm gội hết muộn phiền, cho em quên đi, tái sinh kiếp khác. Thế nhưng “anh trở về, đòi lại bông hoa anh bỏ rơi.” Tình yêu là huyền thoại. Bông hoa không là huyền thoại. Em cũng không là huyền thoại nên em, dù tưởng tiếc hay đã đành lòng quên, xin ngậm ngùi nói với cố nhân:

Anh ơi hoa đã héo
Vết thương xưa đã lành
Vuông lụa chồng em giữ
Không còn gì cho anh.

Bốn câu ngũ ngôn mềm như lụa mà sắc như gươm dao, cắt ngọt vào đá núi. Lời gọi tưởng chừng thống thiết như lệ khóc tình xưa cũng là lời trối trăn cuối cùng cho một chia tay lần này là mãi mãi.

“Không còn gì cho anh.” Cánh cửa nhẹ nhàng khép lại. Dứt khoát. Ðoan chính. Sòng phẳng. Với mình. Với người. Bài thơ chấm dứt ở đây vì em đã khôn lớn, không còn là em vụng dại ngày anh vui bước phiêu du, trao em Bông Hoa Ðỏ có gai, để nó “trượt xuống hồn em một vết thương” rồi vô tình quên đi, cả hoa lẫn em. Không. Hoàn toàn không như Vũ Thành An đã viết thành ca từ trong Bài Không Tên số 2: “… Ðến khi lấy chồng, chỉ còn mối tình mang theo…” Càng không như tưởng tượng phong phú của người nhạc sĩ gửi vào câu hỏi dỗ dành chính mình: “Mưa bên chồng có làm em khóc, có làm em nhớ những khi mình mặn nồng…”

Hy vọng cách bình giải bài thơ Bông Hoa Ðỏ của nhà thơ Trần Mộng Tú như trên dù không lãng mạn, không say đắm, đã không làm bài thơ kém hay. Ít nhất, có một phụ nữ biết lau nước mắt cho mình khi bị tình phụ, biết tự chữa lành vết thương lòng trên đường đời hoạn nạn, biết đứng dậy từ vấp ngã và chọn cho mình một cơ hội khác. Ðời sống không hề là giấc mơ và thi sĩ không đi bên lề cuộc đời. Họ sống đẹp, có khả năng diễn đạt tinh tế và đầy xúc cảm mọi trải nghiệm của mọi người.

Có lẽ trong âm nhạc, những chia tay của nhạc sĩ Từ Công Phụng nhân bản nhất, hiền hậu nhất nên cũng thánh khiết nhất: “Một mai xa nhau, người cho tôi tạ lỗi.” Và, “Xin yêu nhau như tuổi ngây thơ. Thôi, đừng lừa dối nhau làm gì! Thôi, đừng tìm nhau nữa mà chi. Ðường vào ngày mai sỏi đá, thôi em về quên hết đi ngày xưa.” (Lời Cuối)

Ðường trần gian sỏi đá, hãy nghiêng vai trút xuống mọi hành trang của mỗi chặng đường qua cho nhẹ thân phù thế. Hãy ngợi ca tình yêu, từ mỗi sớm mai qua từng buổi chiều như thời gian dệt toàn bằng sợi tơ yêu thương êm ái. Và, bởi vì con đường nào cũng sớm muộn dẫn tới biệt ly, hãy biệt ly nhau trong vòng tay yêu thương ngay trong gặp gỡ và cả khi rời nhau.


Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Th?id=OIP.72CHmHxIXkKXJTobMJlDMAHaFj&pid=15

Bông hoa đỏ
Trần Mộng Tú


Xuân xưa chưa theo chồng
Hồn như vuông lụa nhỏ
Anh đến từ phương xa
Đặt vào bông hoa đỏ.

Em gói hoa vào lòng
Sợ hương bay theo gió
Ngờ đâu hoa có gai
Rạch hồn vuông lụa nhỏ.

Như xuân không trở lại
Anh đến rồi anh đi
Để mặc em ngơ ngẩn
Nhìn vết thương dậy thì.

Hạ về em nức nở
Thu sang gió ngập phòng
Gấp hồn như gấp lụa
Mùa đông em sang sông.

Tháng năm tàn như mộng
Chảy một giòng sóng đời
Anh trở về đòi lại
Bông hoa anh bỏ rơi

Anh ơi hoa đã héo
Vết thương xưa đã lành
Vuông lụa chồng em giữ
Không còn gì cho anh.
.

Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSat Feb 03, 2018 12:06 am

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Th?id=OIP.V9jPnUJLMfbsk7UMABbvMgHaFq&pid=15


Hàng hiệu

Bùi Bích Hà


Các câu tục ngữ trong kinh nghiệm xử thế khôn ngoan của tổ tiên người Việt, ví dụ như: “Quen sợ dạ, lạ sợ áo quần,” “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” hay câu cùng một ý nghĩa tương tự của Tây phương: “L’habit ne fait pas le moine” (tạm dịch “Chiếc áo không làm nên ông thầy tu”) hay câu thành ngữ mới nhất của quốc gia tiến bộ non trẻ nhất châu Mỹ: “Don’t judge a book by the cover” (“Đừng đánh giá một cuốn sách qua cái bìa”) đều nhắm vào một ý chung là “Không nên xét người hay vật thể bằng cái vỏ bề ngoài.”

Tuy nhiên, nhận xét của ông bà trong lời dặn dò “Lạ sợ áo quần” không phải là vô căn cứ. Trái lại, nó được minh chứng hầu như hàng ngày trong sinh hoạt xã hội, giữa con người với con người, giữa con người với một vật dụng “tốt nước sơn” rất dễ làm chóa mắt. Người đi xin việc, hẳn nhiên phải kiếm bộ quần áo vía dù trông không lịch sự lắm nhưng ít ra phải tươm tất để gây thiện cảm và không bị nghi ngờ… Một chuyên viên địa ốc môi giới bán nhà thường chạy xe đắt tiền để khi đưa đón khách, không bị đánh giá mức độ thành công không cao, v.v…

Tôi còn nhớ trong chuyến du lịch bằng đường biển đi Alaska năm 2005, khi tàu ghé qua cảng Anchorage, chúng tôi xuống bờ lang thang dạo phố, vui chân tạt vào mấy cửa tiệm bán nữ trang để rửa mắt. Ngoại trừ tôi, mấy người bạn cùng đi đều thuộc hàng ngũ đại gia đã nghỉ hưu sớm hay đang làm ăn phát đạt, chỉ là du lịch thì y phục giản dị, thế nhưng khi chúng tôi bước vào một tiệm chuyên bán nữ trang bằng huyền, một loại đá quý màu đen, tò mò hỏi giá một đôi hoa tai ($12,000) một chiếc thánh giá nhỏ ($3,700) và sau khi nghe chàng thanh niên bán hàng nói lên con số, chúng tôi vội vàng đưa trả lại anh ta món hàng vừa trao tay thì một chàng tuổi trẻ khác, âu phục tề chỉnh đứng gần đó, làm ra vẻ lễ phép nói với chúng tôi rằng: “Các ông bà ơi, tàu đang hụ còi kìa!” Hóa ra tiếng đồn dân tỉnh lẻ hiền lành và hiếu khách coi bộ có ngoại lệ.

Trở lại chuyện “vẻ ngoài.” Vừa qua, tôi đọc được bài phóng sự của nhà báo Trúc Linh trên tờ Người Việt, viết về những cái túi xách hàng hiệu của quý cô/quý bà, trị giá bằng nửa căn nhà loại trung bình tại quận Cam, nghĩa là cỡ trên dưới $300,000, biết thêm những điều chưa bao giờ biết, thậm chí chưa bao giờ tưởng tượng ra, vừa giật mình, vừa thú vị, có chút hãnh diện thấy trên bảng phong thần có cả phương danh các bậc nữ lưu người Việt mình hiện sinh sống trong và ngoài nước. Bài phóng sự cũng cho biết theo khảo sát của công ty Niesel, Việt Nam đứng hàng thứ ba trên thế giới về căn bệnh mê hàng hiệu, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ. Theo nhà báo Trúc Linh, vì “hay bị người khác đánh giá qua vẻ bề ngoài nên nhiều người phải trang bị cho mình những món đồ xịn kể cả khi không có tiền.”

Đến đây, tôi chợt nhớ lại có thời quý ông Bolsa từng mắc tiếng thị phi khi dư luận đồn đãi ì xèo là họ chạy xe brand name nhưng sau cốp xe toàn mì gói. Tôi thực sự chưa bao giờ “bắt gặp” tình huống này mà chỉ thấy quý ông lái xe loại sang, nhìn qua thảy đều có tướng mạo và phong cách phù hợp với nhãn hiệu xe họ làm chủ, own hoặc lease.

Theo thông tin từ nhà báo Trúc Linh, tôi tự hỏi không biết tại sao dân tình ba xứ sở nghèo, được xếp vào loại đang phát triển như kể trên, lại nhiễm bệnh mê hàng hiệu nặng đến thế?  Phải công nhận ông bà mình tinh tế đáo để, không có gì qua mắt được các cụ khi các cụ phán rằng “Xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ, nghèo hay làm sang.” Phục các cụ thì nói vậy nhưng thật ra mọi sự đều có ngoại lệ cả. Như trường hợp thấy ở Anchorage/Alaska kể trên. Như trường hợp Bác Sĩ Xuyến Đông góp tiếng trong bài phóng sự của Trúc Linh. Trong sinh hoạt cộng đồng, tôi hân hạnh được biết bà trên hai thập niên qua. Bà là một phụ nữ chức nghiệp trẻ tuổi, nhiệt tình, giản dị, khiêm tốn, có tên tuổi và địa vị. Nếu muốn, bà có thể mua túi xách hiệu Louis Vuitton bất cứ lúc nào nhưng bà chỉ mua vào dịp được tăng lương, vì vui, vì cảm giác hưng phấn thấy công việc có thành quả nên muốn tự thưởng mình sau những đóng góp liên tục ở một lãnh vực nhiều áp lực, là phản xạ tâm lý rất chung và dễ hiểu. Ngoài ra, vẫn theo bài báo, phần đông sở hữu chủ của những cái túi xách giá cao ngất ngưởng trời xanh trên thế giới, thuộc giới nghệ sĩ trình diễn và các cô làm móng tay. Nghệ sĩ tài sắc được nhiều khán giả hâm mộ, những túi xách đắt giá của họ có thể là quà tặng từ các vương tôn công tử thừa tiền lắm bạc mong nhận được sự quan tâm của giai nhân/tài nhân, là biểu hiện quyền lực của nhan sắc và sức quyến rũ Trời ban cho họ, là một thứ trò chơi phù phiếm biết là thời gian sẽ lấy đi nhưng có vẫn hơn không. Riêng các cô làm nail, tuy họ xuất thân từ những trường huấn luyện, về cơ bản, không khác nhau; cùng trải qua các cuộc sát hạch lấy chứng chỉ hành nghề với tiêu chuẩn chung nhưng họ có thân phận may rủi khác nhau khi ra đời kiếm sống. Có cô tay nghề không kém đồng nghiệp nào, nói được tiếng Anh nhưng chỉ tìm được việc ở các khu vực loàng xoàng. Họ ăn mặc loàng xoàng, cả ngày cắm cúi phục vụ khách, ăn vặt không thành bữa vì nhiều khách walk-in. Tan buổi làm, hôm thì hộc tốc đi chợ, hôm thì hối hả chạy ra Walmart mua sữa, mua tã cho con, ở nhà có một ông chồng tuy cũng yêu đương, hẹn hò rồi mới lấy nhau nhưng cái não trạng có vợ làm nail thì đương nhiên mình được nuông chiều đã thành cố tật, khiến cô thợ nail muốn chồng thay đổi, dễ vác chiếu ra hầu tòa ly hôn hơn là tìm thấy hạnh phúc, chưa kể có ông buồn buồn vì vợ không nấu cơm bèn có cớ bỏ nhà đi ăn phở luôn. Những cô này làm việc cần mẫn, vất vả mà thu nhập thấp. Nếu chồng không phụ giúp được nhiều, các cô cố gắng lắm cũng chỉ nối được đầu tháng/cuối tháng, có tiền trả góp một căn nhà nhỏ và hai cái xe loại phổ thông để lái đi làm, lâu lâu shopping ở Ross Store, Marshalls hay T.J Maxx là mãn nguyện rồi.

Trái lại, những cô may mắn tìm được việc làm ở những khu sang trọng, nhiều du khách và khách da trắng, ngoài thu nhập ăn chia với chủ, họ nhận được những khoản tip hậu hĩnh. Họ ăn mặc đẹp, shop ở các khu mua sắm cao cấp, đeo vòng tay, dây chuyền kim cương, nhẫn kim cương 2 carats, thường xuyên lui tới mỹ viện tu bổ nhan sắc, không hoàn toàn vì nghề nghiệp mà vì muốn giữ chân ông chồng có nhiều thời giờ rảnh rỗi hơn họ. Quả thật những bạn gái này thích xài túi xách hàng hiệu như một bù trừ nhằm xóa bỏ mặc cảm thân thế không được nể trọng đúng mức trong một cộng đồng vẫn còn nhiều định kiến về khoa bảng. Dầu sao, làm đẹp mình, đeo nữ trang đắt giá, lái xe xịn, xài vật dụng hàng hiệu vẫn tốt hơn mua vui giây lát trong sòng bạc. Nghe nói có các cô làm móng tay theo chúng bạn đi chơi casino, đánh bài ở phòng VIP, thua một canh đến vài chục ngàn trong quỹ tiết kiệm. Tôi nghĩ không biết đúng hay sai nhưng có lẽ đây không phải là máu mê mà chỉ là một lúc hứng chí muốn mạo hiểm hay muốn tỏ cho bạn bè biết mình gan dạ, chì, theo kiểu đám trẻ Mỹ thường ca tụng đứa có máu lạnh, cool! Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối, còn hơn buồn le lói suốt trăm năm…

Nói như Luật Sư Hằng Nguyễn cùng góp tiếng trong bài phóng sự của nhà báo Trúc Linh, đại ý người có tiền muốn xài thế nào là chuyện của họ, miễn phê phán, nhưng riêng với luật sư, bỏ ra hàng chục ngàn mua một cái túi xách là quá lãng phí. Ra đi từ một đất nước triền miên khói lửa, thừa hưởng tính cần kiệm bao đời của nhiều thế hệ cha ông, ăn bữa nay, lo bữa mai, coi sự phí phạm ngoài nhu cầu là một cái tội, phụ nữ Việt Nam càng thành danh càng có cuộc sống cân bằng về cả hai mặt tinh thần và vật chất. Tôi được biết vợ một ông bác sĩ trẻ ở quận Cam, cũng là bác sĩ, khi được chồng tặng quà trong ngày kỷ niệm sinh nhật một bộ hai chiếc ví Chanel trị giá hơn $5,000, bà đã lẳng lặng đem bộ ví trả lại tiệm, tự mua cho mình một túi xách hiệu Coach, giá hơn $300. Số tiền dư ra, bà bỏ vào quỹ học vấn cho hai con. Khi biết được việc này, ông bác sĩ giận điên người, trách vợ không tôn trọng ông, không tôn trọng hình ảnh người vợ (có vẻ ngoài) như ông muốn thấy. Sau này, lúc họ li dị, người chồng coi hành động của vợ là một lỗi lầm trong các dị biệt không thể hòa giải giữa hai người.

Vấn đề ở đây không chỉ là cái xách tay hiệu gì, giá bao nhiêu làm hôn nhân đổ vỡ mà ở cách thế người chồng nhìn vợ và người vợ tự nhìn mình không giống nhau, khiến người chồng thấy mình bị tổn thương thay vì chấp nhận sự khác biệt, về mặt tích cực, có khi bổ sung cho nhau.

Nhờ đọc bài báo của Trúc Linh, tôi mới biết trong thế giới phụ nữ có món “phụ trang” đắt giá kinh hồn! Chị Vương Trân, chủ một tiệm nail ở Alhambra, nói rằng “ngoài phẩm chất (mà Bác Sĩ Xuyến Đông cũng thừa nhận) xách tay hàng hiệu mắc tiền còn làm nên "giá trị" một con người, khiến họ được đón tiếp niềm nở, đặc biệt ở những nơi mua sắm của người Việt thường xảy ra việc dòm ngó bề ngoài dữ lắm!” Tôi thiển nghĩ cái “giá trị” xét trên khả năng chi tiền ở nơi shopping không thật sự là giá trị lâu dài của một người ở những nơi khác và thời điểm khác, khi khả năng chi tiền vì một lẽ gì không còn nữa ở con người đó. Đúng là gỗ bền bỉ hơn nước sơn và cái áo tràng không là ông thầy tu. Tôi kinh ngạc khi biết được cái xách tay hiệu Hermès Himalayan Crocodile Birkin với cái tên dài lê thê như hàng số giá tiền của nó, tự hỏi không biết nhà sản xuất đã dùng tới những vật liệu ngoại hạng cỡ nào, những thợ tay nghề siêu việt tới đâu để tạo ra một cái xách tay có trị giá tưởng chừng như vô lý đến thế?

Viết đến đây, tôi liên tưởng tới các tạp chí của Mỹ có những trang cho điểm các nhân vật nổi tiếng mặc cùng một mẫu y phục giống nhau, khoảng cách điểm khá xa giữa người này và người kia cho thấy dù là vẻ ngoài, quần áo không làm nên phong cách người mặc mà ngược lại. Trong đôi mắt phàm tục với khiếu thẩm mỹ không được bảo kê của cá nhân tôi, cái xách tay hiệu Hermès Himalayan Crocodile Birkin, trông bề ngoài và trên cánh tay người đẹp Ngọc Trinh, chẳng có gì hớp hồn tôi cả, rất khác với chiếc áo hàng hiệu được người mặc chọn lựa phù hợp với nhân dáng riêng, nâng cao vẻ ngoài của cả người lẫn áo. Người sành điệu thường tìm mua được y phục hàng hiệu giá rẻ ở các out-lets với nguyên vẹn phẩm chất như khi chúng vừa ra khỏi xưởng may tới các cửa hàng bách hóa sang trọng với cái giá nguyên thủy, người tầm tầm như tôi sờ vào phỏng tay, chỉ phải tội ăn mặc kiểu tiết kiệm này thì không hướng dẫn thị trường thời trang như Công Nương Kate Middleton của Hoàng Gia Anh được!

Để kết luận, suy rộng ra từ phát biểu của Luật Sư Hằng Nguyễn là chí phải: “Mỗi người có tự do chọn một cách thể hiện mình riêng,” kẻ bàng quan chỉ nên ngắm nghía thôi, miễn bàn.

.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeWed Feb 21, 2018 1:19 pm



Ngó dzậy mà không phải dzậy

Bùi Bích Hà


Hai cô cháu đang líu tíu sổ sách, giấy tờ ở quầy tiếp khách thì thấy một ông Mỹ cao lớn, cồng kềnh, quắc thước như Từ Hải, đến trước khung kiếng cửa sổ, nói xì xà xì xồ tràng giang đại hải một chuỗi tiếng Anh, loáng thoáng nghe được mấy chữ, ráp lại thì hiểu đại ý là ông ta lỡ độ đường. Xe hết xăng, vào cây xăng ở đầu đường xin đổ chịu, hứa sẽ trả nhưng họ không cho mà lại bảo ông ta đi vào phố, tìm người giúp.

Câu chuyện này tôi đã có dịp nghe nhiều lần quanh khu Bolsa nhưng kẻ khó chỉ xin chứ không hỏi vay. Họ là đồng hương của tôi hay người cùng quốc tịch với tôi, ở nhiều độ tuổi khác nhau, khổ hơn tôi vì đang cần lúc thì $5, lúc thì $7 để có đủ “tiền đổ xăng” cho một cuốc xe về nhà. Tôi cũng đoán biết họ nói dối nhưng hai chữ “về nhà” họ thốt ra làm tôi mủi lòng và muốn tin là họ nói thật. Ðành xùy tiền ra. Quả đáng tội, cũng không nhiều nhặn gì.

Ông Mỹ chiều nay không giống những người tôi gặp trước. Ngoài hình dung trông no đủ ra mặt, dáng vẻ ông ta “phởn phơ” rõ, tương phản hoàn toàn với cái bằng lái xe ông chìa ra để làm chứng là ông lương thiện và có một cái địa chỉ làm tin cho câu chuyện ông kể. Cái bằng lái cũ xì, sờn mòn, không nằm trong một cái ví mà nhét ở túi quần sau, tôi đoán để ông ta tiện lôi ra lôi vào vì cùng một nguyên nhân như thế này nhiều lần rồi!

Căn cứ vào các chỉ dấu ấy, cô cháu tôi dư biết là ông bịa chuyện. Ðáng lẽ chỉ cần lắc đầu, trả lời: “Chúng tôi rất tiếc không giúp được ông vì không có tiền mặt ở đây,” nhưng cô cháu tôi lại nhìn nhau, ngại ngần. Ừ, thì 99.9% là không thật nhưng ngộ nhỡ cái 0.01% kia là thật thì sao? Trong ví của hai cô cháu lại đang có hơn $10, có thể giúp ông ta được.

Tôi chưa kịp nói gì, cô cháu đã xòe ngay 2 tờ giấy $5. Ông ta còn hỏi xin danh thiếp để gửi tiền trả sau này. Tôi cười thầm: “Lại còn mất thêm tấm business card!”

Nhưng thôi, cho ông ta được hưởng cái mà người Mỹ gọi là “benefit of the doubt.” Khi chưa chắc hẳn thì chớ vội quyết đoán để có thể bị lầm lẫn. Cầm $10, tôi bảo cô: “Cháu ơi, cô không có hy vọng là ông ta sẽ trả như lời ông nói đâu.” Và tôi nhớ lại thời mấy mẹ con đi định cư, phải ghé qua trại chuyển tiếp Swan Plu, Thái Lan, ở lại mươi ngày để làm thủ tục vào Mỹ. Cơm trong trại rất tệ nên mọi người phải mua thêm ở ngoài mì gói, nho hay táo. Mẹ con tôi không có đồng Mỹ kim nào mang theo nên các cháu phải nhịn thèm, đến bữa sắp hàng chờ lãnh khẩu phần trong cái khay sắt lèo tèo vài miếng thịt bạc nhạc kho và tô canh gừng nhạt thếch. Một chị đi cùng chuyến với chúng tôi chắc đã kín đáo nhận xét thấy vậy nên chị dúi vào tay tôi 20 Mỹ kim, bảo cho mượn để mua thức ăn cho các cháu. Thấy tôi ngần ngại, chị cụp bàn tay tôi lại, dặn dò, “Qua tới bển, chị gởi trả cho tôi, không sao đâu. Trẻ con thiếu ăn, tội lắm!” Chị làm sao biết chắc tôi sẽ gởi trả? Cách nay trên ba mươi năm, $20 to bằng $200 bây giờ, với một người đàn bà mình trần thân trụi, nheo nhóc con thơ, mẹ già nơi xứ người, khả năng quỵt món nợ này cao hơn khả năng hoàn trả nhưng vì lòng trắc ẩn, chấp nhận thua thiệt, chị đã cho tôi được hưởng cái benefit of the doubt.

Giờ đây, chị đã đi thật xa rồi. Tôi không còn cơ hội nhắc lại với chị lời cám ơn sâu xa nhất của tôi về lòng thương người vô điều kiện của chị ngày ấy, khiến chị không nhìn sự việc theo con mắt người đời mà theo tiếng nói từ trái tim chị vượt lên trên những ngăn trở thế gian.

Bài học chị để lại khắc sâu trong trí nhớ tôi không bao giờ phai mờ nên mỗi khi đứng trước cảnh ngộ tương tự mình ngày nào, tôi muốn sống lại kinh nghiệm với chị và không ngần ngại mang nó ra ứng dụng. Tôi nghiệm ra dù kết quả sau cùng của cái “benefit of the doubt” thế nào, nó ít làm tôi bận tâm bằng nếu tôi bỏ qua một trường hợp mình không biết chắc mà không xử sự phải lẽ, như chị đã làm.

Nói về “benefit of the doubt,” người Việt miền Nam chúng ta có câu châm ngôn dung dị mà rất hay: “Thấy dzậy mà hổng phải dzậy.” Nhiều người trong chúng ta cũng đã đọc câu chuyện Nồi Cơm Khổng Tử, khiến không khỏi giật mình mỗi khi phải xét người hay việc.

“Một lần, Khổng Tử dẫn học trò đi du thuyết từ Lỗ sang Tề, trong đám môn sinh đi theo, có Nhan Hồi và Tử Lộ là 2 học trò yêu của Khổng Tử.

Thời Ðông Chu, chiến tranh liên miên, các nước chư hầu loạn lạc, dân chúng phiêu bạt điêu linh, lầm than, đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng lâm vào cảnh rau cháo cầm hơi và nhiều ngày phải chịu đói khát. Tuy vậy, không một ai kêu than hay thối chí mà tất cả đều quyết tâm theo thầy đến cùng.

Ngày đầu tiên đến đất Tề, may mắn có một nhà hào phú từ lâu đã nghe danh Khổng Tử nên đem biếu thầy trò một ít gạo. Khổng Tử liền phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc thổi cơm. Trong hoàn cảnh đói kém, Khổng Tử chọn giao phần việc nấu cơm cho Nhan Hồi vốn là đệ tử đạo cao đức trọng mà Khổng Tử kỳ vọng nhất, không phải là không hữu ý.

Tử Lộ vâng lời, dẫn các đồng môn vào rừng kiếm rau, Nhan Hồi lo thổi cơm ở nhà bếp. Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà trên, cách bếp một cái sân nhỏ. Chợt nghe tiếng động như vật gì rơi từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử liếc mắt nhìn xuống, thấy Nhan Hồi lấy đũa xới cơm trong nồi cho vào tay, nắm lại từng nắm nhỏ. Xong, Nhan Hồi đậy vung nồi cơm, ngần ngừ giây lát rồi đưa cơm lên miệng. Chứng kiến hành động của Nhan Hồi, Khổng Tử thở dài, ngửa mặt lên trời mà than thầm: “Chao ôi! Học trò tin cẩn nhất của ta mà lại ăn vụng thầy, vụng bạn, đốn mạt đến thế ư? Thôi! Bao nhiêu kỳ vọng của ta đành là hư huyễn cả!”

Khi Tử Lộ cùng các đồng môn mang rau về, Nhan Hồi luộc rau. Khổng Tử vẫn nằm im, trong lòng đau khổ. Một lát sau rau chín, bữa cơm được dọn ra và các môn sinh chắp tay mời Thầy. Khổng Tử ngồi dậy và nói rằng: “Này các con, chúng ta đi từ đất Lỗ sang Tề đường xa vạn dặm, thầy rất mừng vì trong hoàn cảnh loạn lạc, dầu dãi nắng mưa, đói khổ trăm bề mà các con vẫn giữ được tấm lòng đoan chính, vẫn yêu thương đùm bọc nhau, vẫn một dạ theo thầy không chút quản ngại. Hôm nay, đến đất Tề, may mắn làm sao thầy trò ta có được bữa cơm rau, khiến thầy chạnh lòng nhớ quê hương nước Lỗ, nhớ cha nhớ mẹ, thầy muốn xới bát cơm để cúng các bậc sinh thành, các con nghĩ có nên chăng?”

Trừ Nhan Hồi đứng im, các môn sinh khác đều chắp tay thưa: “Nên lắm ạ!” Khổng Tử bèn hỏi: “Nhưng không biết nồi cơm này có sạch hay không?”

Ðám học trò ngơ ngác nhìn nhau, không rõ Khổng Tử ngụ ý gì? Lúc bấy giờ, Nhan Hồi mới chắp tay thưa: “Dạ, nồi cơm này không được sạch vì khi cơm chín, con mở vung ra để ghế, chẳng may gió tràn vào, làm bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống đầy nồi, con vội vàng đậy vung lại nhưng không kịp, đành phải xới lớp cơm bẩn ra và toan bỏ đi nhưng con chợt nghĩ cơm thì ít, anh em lại đông, bỏ chỗ cơm bẩn này là bớt một phần ăn. Vì thế, con đã mạn phép thầy và tất cả anh em, ăn phần cơm bẩn ấy để không ai phải nhường nhịn, phần cơm sạch xin dâng thầy và tất cả anh em. Nồi cơm đã bị ăn rồi, không nên cúng nữa ạ!”

Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngửa mặt lên trời, than rằng: “Chao ôi! Hóa ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu đúng sự thật! Suýt tí nữa thì Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ!”

Kết luận là: làm sao hiểu biết tường tận một chuyện gì nếu không phải là người trong cuộc?

Tuy vậy, dù có nói và làm như người Mỹ, “Hãy đứng trong chiếc giầy của người khác” thì chiếc giầy vẫn không thực sự là giầy của mình.

Người đàn bà có chồng ngoại tình, vào đơn ly dị. Bạn bè thấy bà son phấn nhởn nhơ, ăn mặc đẹp hơn thường, nói cười như không có chuyện gì xảy ra làm bà đau khổ nhưng khi người chồng dọn ra theo thỉnh nguyện của bà trước tòa, bà đóng cửa phòng lặng lẽ khóc một mình. Nhiều ngày. Nhiều đêm. Nhiều tháng năm. Không có ai đi vừa chiếc giầy của bà vì chính bà cũng có miếng lót riêng theo thời tiết nắng/mưa hay nóng/lạnh. Khi một lúc nào đó, trong số bạn gái hiếm hoi của bà, một người yên lặng cầm tay bà, bóp nhẹ, bà nghĩ người đó, ít nhiều, đã đọc được tâm can mình và đôi bạn trở nên thân thiết hơn. Ngày qua tháng lại, họ đi la cà mua sắm, đi ăn nhà hàng, đi nghe nhạc, xem phim, du lịch bên nhau, thân thiết tới mức người ngoài trông vào, suy đoán thế này thế kia. Có người xa gần bình phẩm, bà chỉ cười. Chỉ có bà biết ngay cả người bạn quý ấy cũng chỉ chia với bà những giây phút vui tươi nhẹ nhàng trong cuộc đời không nên làm cho bi thảm, không chia những hạt lệ bà đã tự hứa sẽ cất giấu trong kín đáo tận cùng của trái tim với lời nguyền sống để dạ, chết mang theo. Cái ngày người bạn ấy tái hôn, bà tiễn bạn sang sông với lời chúc tốt đẹp và yêu thương nhất nhưng vẫn không ngăn được suy diễn của bạn bè, đã không hiểu, vẫn không hiểu và sẽ không bao giờ hiểu rõ bà. Cũng không sao. Cũng chẳng để làm gì. Như người chồng bà từng nghĩ trao xương gởi nạc, khi ra đi chỉ mang theo những thứ mua hôm nay, cũ ngày mai, đâu biết đã bỏ lại cuộc tình mãi mãi thanh xuân trong tâm hồn bà.

Người đàn ông có bề ngoài làm nhiều người dị nghị. Ông đeo hoa, đeo nhẫn ở hai tai, ở ngón tay, ngón chân. Ông xâm hình ở nhiều nơi trên thân mình vạm vỡ. Ông lễ độ, niềm nở, tươi tắn chào hỏi mọi người thân/sơ. Ông nói cười hỉ hả, tiêu pha rộng rãi trong mọi trường hợp. Dư luận sầm xì ông là… bóng. Tôi không biết “bóng” là gì nhưng biết ông kinh doanh giỏi, làm ăn tín nhiệm, ngược xuôi nuôi một đàn con, một đàn cháu nội ngoại mấy chục người lớn nhỏ trong ngôi nhà và khu vườn rộng, có cả hồ bơi và sân chơi đủ trò cho người lớn/trẻ con. Vợ ông bỏ ông, đi với người khác. Ông vẫn cười và nói: “Món ăn còn phải vừa khẩu vị, cuộc sống cũng vậy thôi. Không vui nơi này mà vui nơi khác là được!” Cao hứng, ông còn dẫn giải thêm: “Cũng là cơn gió, khi thì thầm, khi gào thét. Cũng là con sóng, khi ảo não, khi vỗ về, khi nào cũng có nét đẹp cho mình thưởng thức nếu mình trải lòng ra… Huống chi đâu phải tại gió, tại sóng đổi thay mà còn tại tâm tình người nghe khi này khi khác nữa.” Lời ông nói làm tôi chợt nghĩ: “Bà vợ ông ra đi mang theo mấy vali quần áo thời trang, bỏ lại người họa sĩ cất giấu tác phẩm của ông ta như người chồng trong câu chuyện trên, ra đi tìm sự phai tàn, bỏ lại tình yêu thanh xuân trong đuôi mắt rạn chân chim của vợ.”

Có phải bây giờ người ta sống vội vã, chỉ đủ thời gian thấy nhau thay vì nhìn nhau nên bỏ qua cái gì có thật để đuổi theo bóng của cái thật vuột khỏi tầm tay và khổ đau lòng vòng ở chốn nhân gian “có những điều không thể hiểu” như lời thở than bi phẫn của nhà thơ Du Tử Lê? Thân phận con người là một, đâu phải như dầu và nước mà tung tóe, không thể tan vào nhau?

Chấp nhận một thoáng ngờ vực, có khi là con đường đưa tới hạnh phúc chăng?
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSat Mar 03, 2018 5:18 pm

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Huehotel_anh_tuyet_dep_kinh_thanh_hue_xua_nhin_tu_may_bay_1
 
Những năm tháng xa cách
Bùi Bích Hà


Chuông điện thoại reo. Trên mặt kính chiếc điện thoại, một số lạ hiện ra giữa cái khung nhỏ. Tôi dùng một ngón tay miễn cưỡng nhấn vào cái nút màu xanh lục non. Tiếng một phụ nữ trẻ, trong trẻo, reo vui, cất lên, xưng danh, tự giới thiệu liên hệ với một phụ nữ khác mà nghe qua tên, tôi nhận ra ngay là vợ một người bạn cố cựu của gia đình từ trong nước, những năm thập niên 60 thế kỷ trước. Tiếng trong điện thoại tiếp tục báo tin người phụ nữ ấy vừa dời cư về Quận Cam và đi tìm tôi. Tất nhiên cùng với tên chị bất ngờ nghe lại, kỷ niệm cả một thời quá khứ êm ả ùa về như cơn lũ, khi con cái hai nhà còn là những đứa bé lên ba, lên bẩy, xinh đẹp, khỏe mạnh, ấp ủ, cưu mang mọi hy vọng tốt tươi của cha mẹ, những buổi chiều gió mát ở Phú Nhuận, ở xa lộ Hàng Xanh, xúng xính quần áo đẹp theo người lớn sang chơi nhà nhau.

Bốn mươi năm trôi đi như dòng sông câm nín giữa hai bờ chia cách. Biết bao dâu bể xảy ra cho mỗi nhà với những nỗi đau chung/riêng. Trong bóng chiều bảng lảng một ngày cuối tháng chín mây mù, tôi một mình đến thăm chị ở ngôi nhà chị mới dọn vào không còn những đứa trẻ năm xưa xung quanh. Chúng ở xa. Một cháu gái đi không về nữa, như con gái đầu lòng của tôi. Một con trai vào dòng tu, như một đứa con khác của tôi. Một đứa con nữa của chị bị tai nạn, mất một chân. Chúng tôi ngồi tính sổ đoạn trường trong gian phòng khách bài trí thanh nhã và tuyệt đối im lặng của khu nhà lưu động giành cho người cao niên. Hai người đàn ông gia trưởng của hai nhà đều đã theo nhau về thiên cổ, để lại những khoảng trống đìu hiu giữa cuộc cờ nơi này sớm tàn canh mãn cuộc, nơi kia đang dở dang và câu chuyện về họ, nhắc lại trong cái không gian họ không từng hiện diện, giống như những nhân vật không có thật nên không gây xúc động cho người kể cũng như người nghe ngoài tiếng cười khẽ thỉnh thoảng cất lên rồi vụt tắt.

Nếu cuộc đời của bất cứ ai cũng ví như một cuốn tiểu thuyết trường thiên hàng nghìn trang giấy thì cuốn tiểu thuyết của những người Việt Nam ra đời ở tiền bán thế kỷ 20 có những chương quá đỗi lạ lùng. Ngoài Thượng Đế là tác giả kịch bản viết cho riêng từng người, không một ai trong nhân loại có thể dự đoán đúng mọi tình tiết những chương sách chưa mở ra; không một nhà văn lớn nào của nhân loại có thể tạo nên trong đời thật, thậm chí theo kịp những tình huống ngoài mô phỏng từ nguyên bản thấy đâu đó của Tạo Hóa.

Tôi ngồi nhìn lại mình. Từ một con bé mẹ đẻ rơi trên ngạch cửa căn buồng nhà thương Huế lúc mẹ nó đang bưng trên tay chậu nước rửa chân cho mẹ già nó nằm dưỡng bệnh ở đấy, lủi thủi lớn lên đa phần thời gian trong gian bếp ám khói nhìn thấy sông Hương sau một ruộng mía; trải qua tuổi thơ hoang dại giữa khu vườn sum suê cây trái rộng một mẫu tây đất gần Bãi Dâu; hết tiểu học đi chân đất khập khễnh trên con đường đá răm tới trường, hết trung học đi guốc gỗ trong thánh thót mồ hôi hay giọt mưa qua hai con sông tới lớp; hết đại học chạy xe đạp những ngày thu đông ướt át, chạy solex những ngày cuối xuân, đầu hạ nắng chang chang tới giảng đường để hoàn tất học trình sư phạm và văn khoa; hết cả tuổi xuân từ giã dàn thiên lý ngoài hiên và những nhánh sầu đông đong đưa mấy chùm hoa tím nhạt bên cửa sổ, nhắm mắt theo chồng vào Sài Gòn, xuống tận Long Xuyên, Châu Đốc ăn gạo thơm nanh chồn và tôm càng gạch đỏ phù sa; hết những năm tháng buồn vui hoang mang để biết thế nào là hạnh phúc và đắng cay của tình vợ chồng, tình mẹ; sau cùng, lạc loài tới khu gia cư trải mình hai bên bờ lề một con đường ngắn, quanh năm ngập những xác lá rụng gió vun thành đống của thị xã Santa Ana thuộc miền Nam tiểu bang California. Những tháng năm lạ lùng ấy, những bước chân vô định ngả nghiêng, những có mặt bị xô đẩy đó đây tới những nơi chốn không hẹn hò, chờ đợi, làm thành những trang tiểu thuyết nhạt nhẽo, lập cập, đứt đoạn, rời rạc của cuốn truyện đời tôi, chẳng có độc giả nào ngoài chính mình vài khi rảnh rang soi lại bóng mình trên những trang giấy vàng úa màu thời gian.

Tôi hay là ai chiều chiều thay đôi giày thể thao, đi bộ suốt con đường có hai hàng cây cổ thụ đen sì, vẫy tay nói cười như robot với những người láng giềng chân thật ngồi hóng gió ở thềm nhà họ, cố xử sự với phong cách bằng thứ ngôn ngữ đôi bên cùng vay mượn như một thứ trang sức giả làm đẹp những lần chạm mặt? Tôi hay là ai hàng ngày chạy xe lòng vòng, làm những công việc của cái máy photocopy, mong lúc đêm về được ngả lưng xuống đệm giường với chút mừng rỡ gặp lại chính mình sau cả một ngày dài thất lạc nhau.

Những trang tiểu thuyết dần dần khô cạn đề tài, nhạt nhẽo hơn nên cũng sang trang nhanh hơn, vừa đầu tuần đã cuối tuần, vừa đầu tháng đã cuối tháng, im lìm một cách đáng sợ. Có lẽ người bạn cũ vừa gặp lại cũng cảm nhận sự im lìm đáng sợ ấy nên gặp nhau, chị nói không ngừng. Có một lúc giữa câu chuyện, chị thừ ra rồi xuống giọng phàn nàn: “Từ ngày bị nạn, cháu út cắt hết giao tiếp, sống khép kín. Mình khuyên giải thế nào cũng không được.” Tôi không có câu trả lời nào khác ngoài lời khuyên chị nên kiên nhẫn, chờ thời gian làm cái việc chữa lành của nó. Trong trí tôi, thoáng hiện hình ảnh đôi thanh niên nam nữ, hằng tối, áng chừng vừa ở một lớp đêm ra, thường đưa nhau tới quán cà phê dạo sau tháng tư 1975, tôi mở chung với vợ chồng một người bạn trên đường Trương Tấn Bửu, Phú Nhuận. Người thanh niên đèo xe đạp cô bạn gái khuyết tật. Đến nơi, anh thận trọng đỡ cô xuống khỏi yên sau, âu yếm đưa đôi nạng cho cô, chờ cô đứng vững trên hè xong anh mới thả cái chống xe xuống, khóa xe rồi cả hai cùng vào quán. Anh có cái cặp giấy khổ lớn, bìa cứng, khiến tôi đoán một trong hai người hay cả hai, là sinh viên lớp đêm trường mỹ thuật, nhạc hay vẽ. Họ tới quán vài lần mỗi tuần, trong suốt ba tháng cho tới khi tôi rời bỏ công việc này. Với thời gian như sương mù một đêm hè ẩm ướt, tuy nay không còn nhớ rõ khuôn mặt họ nhưng tôi không bao giờ quên dáng vẻ thanh mảnh, mềm mại của cô gái trong chiếc áo dài trắng cô vẫn giữ giữa một Sài Gòn sớm lầm than đã bỏ hết áo dài, có lẽ để đôi chân tàn tật của cô trông bớt thương tâm. Hình ảnh họ bên nhau là hình ảnh của tình yêu, đẹp, cao cả, đầy cảm xúc, ám ảnh tôi lâu dài. Cuộc sống của họ sau đó không biết ra sao nhưng với tôi, con đường họ đi là một bí nhiệm của niềm tin, không có hay không cần câu trả lời.

Nhờ đôi bạn trẻ ngày ấy, tôi biết tình yêu có cái nhìn khác về những đôi chân bị tàn phế và tôi chia sẻ với bạn tôi ý nghĩ này, lòng thầm mong con của bạn sẽ nuôi ý chí gầy lại, thổi hồng lên ngọn lửa tin yêu cho mình và cho người để đi nốt cuộc hành trình trăm năm dù bắt đầu với đôi chút hư hao nhưng vẫn còn biết bao sự bất ngờ chờ đợi. Nước Mỹ luôn mở ra nhiều cánh cửa cơ hội cho mọi người trong mọi cảnh ngộ. Tin tức thời sự cho thấy bất cứ ai từ chỗ đứng của mình, nhìn ra điểm đến với quyết tâm và tập trung đủ, vận dụng được hết các phương tiện trong tầm tay, sớm muộn cũng tới đích. Chỉ cần bạn tôi đừng là người bỏ cuộc; đừng là người gập mình trên nỗi đau riêng để không còn nhớ ra khả năng sinh con nhiều lần của mỗi bà mẹ có khi chứng kiến con mình bao phen chết đi sống lại.

Trong thực tế, thiếu một bàn chân và thiếu một phần ống chân không là gì nếu so sánh với bé gái lọt lòng mẹ không có cả hai cánh tay mà còn thêm dị tật ở hai bàn chân. Không có bàn tay, em vẽ tranh bằng hai ngón chân cũng không toàn vẹn, chỉ đủ kẹp cây cọ. Điều kiện đầu tiên để làm được như thế và thành công là em không khóc. Em chẳng biết số phận là gì nên không kêu ca. Em không có lòng ganh ghét nên không ghen tỵ. Em loay hoay nhìn ra xung quanh xem mình có thể làm được gì để vui chơi lấy mình và em tìm ra cái cách của em. Chỉ cần đừng ai nhìn em với ánh mắt thương hại, tội nghiệp hay rẻ rúng, làm em mất tinh thần và lạc hướng đi.

Từ hơn hai thập niên qua, thế giới đã quan tâm đến những phận người kém may mắn, ra đời với một thân thể bất toàn nhưng họ có những nỗ lực riêng để không chỉ vượt lên mà thăng hoa từ sự bất toàn ấy. Họ có cả những thế vận hội tổ chức cho họ để hiển lộ tài năng trong mọi môn thi đấu lập thành tích. Nữ vận động viên Yip Pin Xiu, 24 tuổi, công dân Singapore, bị bệnh suy nhược bắp thịt do di truyền (muscular dystrophy) đã đoạt hai huy chương vàng, lập hai kỷ lục thế giới trong thế vận hội Rio 2016 ở môn bơi lội, là người đầu tiên đem vinh quang về cho đất nước và dân tộc cô. Trong quán cà phê bên lề thế vận, chia sẻ kinh nghiệm nuôi dạy một đứa con mắc bệnh hiểm nghèo thành danh như Yip Pin Xiu, song thân cô cô mãn nguyện nói về trách nhiệm làm cha mẹ với nhiều thử thách nhọc nhằn họ trải qua và cá tính độc lập của cô từ thơ ấu. Ngoài thành tích vượt bậc nói trên, cô còn chủ trương một trang mạng xã hội chuyên kể chuyện cười cho những ai cần lý do để cười. Ảnh chân dung cô cho thấy cô có khuôn mặt thanh tú, đôi mắt thông minh sau chiếc kính cận và nụ cười sáng rỡ. Ít ai có thể nghĩ rằng nhờ những tiến bộ y khoa kỳ diệu ngày nay thuộc lãnh vực hô hấp và tim mạch, trường hợp may mắn lắm thì các bệnh nhân mắc chứng suy cơ bắp như cô chỉ có thể sống tới tuổi 40/50. Biết sống như Yip Pin Xiu, phẩm chất và ý nghĩa cuộc sống ấy đâu tính bằng thời gian trên cuốn lịch?

Phải chăng vì ý thức cuộc sống không dài nên cô không phí phạm mỗi giây phút sống mà yêu quý nó, tận hưởng nó với tất cả sức lực mình như ngọn pháo bông cháy lên huy hoàng giữa bầu trời đêm?
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeMon Mar 19, 2018 10:57 pm

Những cái chết oan uổng
Bùi Bích Hà


Từ nhiều năm nay, khi làm bản tin, tôi đau lòng được biết đó đây, hiện tượng các em học sinh trong tuổi niên thiếu vẫn tiếp tục chết những cái chết oan uổng vì tệ nạn bạn bè trêu ghẹo trên Internet.

Những câu chuyện cá nhân với tình tiết riêng tư bị phơi bày lộ liễu đưa các em đến chỗ quá đau khổ, phải tự chấm dứt cuộc sống nhiều đến mức không thể chấp nhận được. Cùng tháng 6 này, Shania Sechrist, 15 tuổi, treo cổ trong ngôi nhà của cha mẹ ở Pennsylvania sau khi bị đem ra trêu chọc trên Facebook cộng với một núi text messages. Tháng 1, David Molak, học sinh năm đầu tiên trường trung học ở San Antonio, tự tử vì liên tục bị trêu ghẹo trên mạng Instagram cũng như bằng texting. Tin tức đọc được trên mạng Heavy.com còn cho biết các hình thức trêu chọc đi tới chỗ quá đáng là hăm dọa sẽ giết em, tựa như một tin nhắn viết với lời lẽ như sau: “Tụi tao sẽ chôn mày dưới 6 feet sâu.” Thế đấy nhưng bọn tiểu quỷ phá phách và hành hạ tinh thần David thì không bị truy tố vì không đủ bằng cớ để buộc tội chúng!

Một vài trường hợp nổi bật về các em tự tử do bị trêu chọc trên mạng gồm có Amanda Todd, treo cổ chết đúng một tháng trước ngày sinh nhật 16 tuổi. Trước khi ra đi, em đã công bố trên YouTube một video gây sôi nổi rộng rãi về trường hợp em bị tấn công, nặng nhất khi kẻ trêu chọc em phóng lên mạng Facebook một bức hình bán thân để ngực trần của em. Năm 2010, Tyler Clementi, 18 tuổi, đồng tính, sinh viên trường đại học Rutgers, đã nhảy cầu George Washington chết vì bị bạn cùng phòng lén quay phim em đang ôm hôn một người nam rồi phóng lên Twitter.

Danh sách các nạn nhân đáng thương này ngày càng dài thêm.

Mới đây, một gia đình ở Tampa, Florida, thay vì ăn mừng tròn một năm con gái họ vào trung học thì nay lại phải lo tang lễ cho cô cũng chỉ vì nạn trêu ghẹo trên mạng. Cô bé Tovonna Holton, 15 tuổi đã dùng khẩu súng lục của mẹ bắn vào đầu tự tử sau khi một đứa trong đám bạn tai quái của cô quay phim cảnh cô đang trần truồng tắm rồi tung lên mạng Snapchat với ác ý và tất nhiên không hỏi ý kiến cô. Kể lại thảm kịch này, bà mẹ Levon Holton-Teamer thảng thốt khóc ròng, cho biết bà cố thu hết nghị lực mới có thể mở cửa bước vào phòng tắm để nhìn thấy máu con mình đầm đìa thành ao trên nền nhà. Bà muốn cứu con nên một tay bịt vào chỗ chảy máu trên đầu cô bé, một tay bấm số gọi cấp cứu. Bà mẹ đau đớn tận cùng cho biết bà đã nhiều lần thân hành tới trường báo cáo về việc con gái thường xuyên bị bạn bè trêu ghẹo nhưng bà không được hài lòng với cách nhà trường đáp lại. Bà còn đang nghĩ ngợi, chưa kịp lấy con ra khỏi ngôi trường trung học Wiregrass Ranch thì thảm họa đã giáng xuống gia đình bà sáng sớm Chủ Nhật tuần trước. Tin tức mới đây trên tờ Daily Beast cho biết chính bạn trai cũ của Tavonna đã đưa lên Twitter cuốn video này nhằm trả thù mối tình với cô bị tan vỡ. Vào lúc cơm lành canh ngọt của đôi tình nhân, cuốn video được thực hiện để ca tụng vóc dáng đẹp của cô bé nhưng khi chia tay, nó trở thành vũ khí sát hại cô. Cuộc điều tra đang được tiến hành để truy nguyên căn cớ đưa tới nội vụ.

Thực tế đáng buồn là những vụ tự tử vì bị sách nhiễu trên mạng rất thường xảy ra. Theo trang mạng DoSomething.org, một trong những tổ chức lớn nhất toàn cầu dành cho người trẻ và các thay đổi xã hội, nạn nhân của tệ nạn trêu ghẹo có tỉ lệ tự tử từ 2 tới 9 lần nhiều hơn các trẻ bình thường khác, trong đó, 43% được báo cáo là bị trêu chọc trên mạng. Đáng buồn hơn nữa, 90% những em trẻ chứng kiến hành vi trêu chọc trên mạng này, khi được hỏi, nói rằng chúng biết nhưng mặc kệ.

Theo bà Nancy Lublin, sáng lập viên và cũng là tổng giám đốc của tổ chức Crisis Text Line, thật là một phán đoán sai trái khi nói rằng truyền thông xã hội không phải là vấn đề mà chính con người mới là vấn đề. Lẽ ra, trong trường hợp này, các công ty điều hành truyền thông xã hội có thể đóng vai trò tác nhân tốt, thiết lập một hệ thống báo động giúp nhận diện dễ dàng và sớm sủa các vụ trêu chọc quá đáng rồi hợp tác với các tổ chức như tổ chức Crisis Text Line (CTL) của bà để có phương hướng giải quyết. Ví dụ, CTL cộng tác với After School, You Tube và nhiều tổ chức nữa nhằm giúp đưa lên diễn đàn đại chúng một giải pháp khả thi.

Tóm lại, chúng ta có thể làm gì để giúp ngăn chặn những cái chết vô nghĩa của đám trẻ nói trên? Một phát ngôn viên của cơ quan National Society for the Prevention of Cruelty to Children, Anh, lưu ý các bậc phụ huynh nên tích cực tham gia vào sinh hoạt trong thế giới mạng của con em để bảo đảm sự an toàn của chúng. Tổ chức này hỗ trợ cha mẹ, cho lởi khuyên và các thông tin để giúp cha mẹ biết thế nào là sự trao đổi lành mạnh trên Internet. Đối với trẻ, cơ quan này khuyến khích chúng nên bày tỏ sự việc xảy tới với một người lớn nào mà chúng tin cậy để được giúp đỡ bất luận trong hoàn cảnh khó nói tới đâu.

Bà Lublin chia sẻ: “Tôi cũng là mẹ của một bé gái 11 tuổi. Hai mẹ con tôi thường xuyên chuyện trò về truyền thông xã hội, cùng hình dung ra những ai là người có thể thấy những gì cô bé đưa lên mạng. Tôi hỏi cháu: Con cảm thấy thế nào nếu những thứ ấy lọt vào mắt thầy hay cô giáo của con? Hoặc: Bà ngoại con sẽ nghĩ sao nào? Tôi không ra lệnh mà chỉ hỏi để gợi ý cho cháu suy nghĩ thôi! Tôi cũng dạy cháu biết tôn trọng sự riêng tư vì điều này rất quan trọng và tình hình sẽ thay đổi. Tôi dạy cháu chớ bao giờ đưa lên mạng hình ảnh hay bất cứ gì khiến cho bà ngoại phải nhăn mặt và sợ co rúm người lại.”

Bên Anh, tổ chức Childline có thể nhân danh các nạn nhân, giúp lấy xuống ngay khỏi mạng các hình ảnh bất hợp pháp và nộp bản báo cáo cho cơ quan Internet Watch Foundation. Tại Mỹ, trẻ được khuyến khích gọi ngay cho Crisis Text Line khi các em bị trêu chọc để có người đại diện can thiệp nếu hình ảnh, video hay text messages về các em được loan tải. Nạn nhân thiếu nhi hoặc bất cứ ai (không cần xưng danh) lâm hoàn cảnh bị trêu chọc, có thể gọi the National Suicide Prevention Lifeline 24/7 tại số 800-273-8255.

Phải nói xã hội Hoa Kỳ luôn có giải pháp hợp lý cho mọi tình huống, mọi người, mọi vật, ngay cả một cọng rác. Để có được cái trật tự trong sáng ấy, người Mỹ phải giản lược tất cả thành những vật thể không có sức đề kháng mà có một vị trí nhất định, đặt đâu ở yên đấy. Khốn thay, con người có thất tình lục dục, tâm hồn và cảm xúc, không thể đóng hộp được, không thể chịu an vị như tượng cho nên cung cách giải quyết gọn nhẹ của nước Mỹ không hoàn hảo cho con người. Bệnh nhân đi gặp bác sĩ ư? Đúng chỗ, đúng việc rồi nhưng bác sĩ có nhìn đúng và toàn diện con người thật của bệnh nhân đứng hay ngồi trước mặt không hay chuyên môn càng cao càng đi vào những mẫu mực có sẵn với kết quả vật lý trên hồ sơ và hồ sơ thì được nhận diện bởi mã số?

Cho nên, vẫn có những vấn nạn liên quan tới con người tưởng chừng đã được giải quyết êm thấm, ổn thỏa rồi, các bên liên hệ đã hân hoan phủi tay để “move on” nhưng đùng một cái, nội vụ nổ ra như một trái mìn gài ngầm dưới đất. Câu hỏi:“Chúng ta có thể làm gì để giúp ngăn chặn những cái chết vô nghĩa nói trên của đám trẻ?” cứ mãi còn là một câu hỏi nhức nhối của một xã hội bất lực không thiếu phương tiện và thừa trăn trở. Tại sao?

Theo bà Nancy Lublin, nếu các phương tiện truyền thông xã hội không phải là vấn đề mà chính con người mới là vấn đề thì các bậc cha mẹ đã làm gì với con cái mình một khi không thể cấm chúng tiếp cận với các phương tiện ấy? Gần gũi, chuyện trò với con như bà Lublin đã làm, viện dẫn cả bà ngoại, cả thầy cô giáo ra để làm cho nó sợ, là tốt, là tích cực, hơn hẳn không làm gì, hơn hẳn nhắm mắt mong chờ vào may rủi nhưng liệu đã đủ chưa? Nạn trẻ con trêu chọc nhau ở trường học không phải mới thấy ở nước Mỹ mà đã có từ lâu và ở khắp nơi, ở cả Việt Nam một khi người Việt có câu tục ngữ Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò nhưng rõ ràng không từng làm đứa trẻ nào chết cả bởi vì những chọc ghẹo dù có tinh ma song không ác độc, có gây sợ hãi hay làm rơi nước mắt thì cũng không quá đáng vì nó chỉ xảy ra trong phạm vi một lớp học, một quãng đường ngắn từ nhà tới trường hay ngược lại. Thêm nữa, cha mẹ hai bên, thầy cô giáo luôn có đủ uy lực để kỷ luật thủ phạm, rất khác với sức công phá to lớn ngày nay được khuếch đại qua các phương tiện truyền thông xã hội tối tân không gì ngăn chặn được cả trước và sau khi sự việc xảy ra.

Nước Mỹ đề cao các giá trị nhân bản nhưng từ một quan niệm tự do tuyết đối. Ai cũng có quyền lựa chọn những giá trị họ thích song giáo dục không được phép “uốn nắn” con người theo một khuôn mẫu nào cả cho dù tốt tới đâu. Một khi giáo dục đã vượt qua giới hạn chính sách và trở thành truyền thống thì nó là bản sắc đặc thù của một dân tộc, được người dân tuân thủ và gìn giữ. Cá nhân tôi đến từ một nền giáo dục dạy sự vâng lời nên rất tin và yêu tự do, theo tôi, là nguồn gốc của phát triển và sáng tạo. Tôi có một ví dụ sống động và đơn giản: bà mẹ Á Đông chia bánh cho hai đứa con lên 3 và lên 5. Hai miếng bánh cắt không đều. Bà nói với thằng anh 5 tuổi: “Con là anh, nhường em miếng lớn nhé! Chóng ngoan mẹ thương.” Nó ngần ngừ. Mẹ quay sang con em: “Con là em, nhường anh miếng lớn nhé! Nghe lời bà thương.” Con em phụng phịu. Thằng anh suy nghĩ mấy giây đồng hồ rồi hỏi mẹ: “Sao mẹ không làm hai miếng bánh bằng nhau?” Không bị bắt buộc, đe nẹt hay nhồi sọ, đứa trẻ 5 tuổi có ngay ý niệm hồn nhiên về sự công bằng. Tôi ủng hộ đường lối giáo dục cho trẻ được tự do có phán đoán riêng, từ đó, từng bước hình thành nhân cách của đứa bé. Trở lại vấn đề lựa chọn, tôi nghĩ lựa chọn thường nghiêng về lý trí vì có sự cân đo. Lựa chọn đúng là ưu điểm của tự do nhưng trong đó, trái tim ít khi có tiếng nói cân đối. Nếu không đặt để những mẫu mực của tiếng nói này (lắm khi trật lất như trong câu chuyện của bà mẹ bên trên) mà sống, chăm chút sửa mình, làm gương và chan hòa yêu thương thì liệu có tạo ra hòa điệu hay không? Tôi thành khẩn tin là có.

Một đường lối giáo dục nhân bản/khai phóng bắt đầu từ gia đình bao gồm Tự Do, Tôn Trọng và Công Bằng có thể giúp cuộc sống con người bớt lệ thuộc vào kỹ thuật, trang trải hòa điệu với đời và tha nhân, giải tỏa được bản năng làm khổ nhau trong đó có nhu cầu đem nhau ra làm trò giải trí.
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeWed Mar 28, 2018 8:10 am

.

Ngày tháng cũ
Bùi Bích Hà


Mặc dầu ngay từ trước Tết năm Ất Mão 1975, không khí đón Xuân Sài gòn đã có chút gì bồn chồn, gượng gạo, nhưng thời sự chỉ thực sự bốc cháy khi tin tức tái phối trí vùng II chiến thuật được truyền thông loan tải rộng rãi. Tình hình chính trị và quân sự biến chuyển rất nhanh, với tốc độ băng tan dưới mặt trời. Sáng 30 tháng tư, gần trưa, lệnh kêu gọi quân nhân các cấp và các binh chủng buông súng được đích thân Tổng thống Dương văn Minh phát đi trên làn sóng của đài phát thanh quốc gia. Sài gòn nhốn nháo mấy ngày qua như một thân thể cường tráng bị bóp cổ chết đứng. Thỉnh thoảng đâu đó có tiếng súng lẻ tẻ, hoặc của một người lính nào đó bắn phát cuối cùng trước khi giã từ vũ khí, hoặc của một quân nhân phẫn uất tự xử mình vì không chấp nhận số phận.

Sáng sớm mùng một tháng năm, công chức các cơ quan chính quyền VNCH gồm cả giáo chức các cấp được lệnh trình diện tại nhiệm sở. Tôi đi giữa những núi rác không lồ qua một đêm sở vệ sinh không làm việc. Quân phục, giầy saut, khẩu phần lương thực cá nhân, vứt bừa bãi giữa đường. Những giây đạn đồng sáng choang treo trên các quân xa bỏ không ven bờ lề các phố Hai Bà Trưng, Hiền Vương, Duy Tân. Tôi trình diện với Ủy ban quân quản tiếp thu trường trung học đệ nhị cấp Nguyễn Trãi ở trước mặt kho năm bên quận Tư, là nơi tôi dạy học được 8 năm. Sau khi làm một số thủ tục khai báo, tất cả thầy cô giáo và nhân viên hành chánh được cho về nhà chờ lệnh mới.

Chúng tôi phải học tập cải tạo tập trung 8 ngày ở một số địa điểm được chỉ định do sự điều động của sở giáo dục thành phố trước khi được trở về trường tiếp tục công việc giảng dạy với danh xưng mới là “giáo viên.” Khoảng chừng nửa năm sau, đầu niên khóa mới dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, giáo viên cấp ba được chỉ thị phải theo một lớp học cấp thành, kéo dài 4 tuần lễ về chủ nghĩa Mác xít.

Lớp học tổ chức vào buổi tối, tại một ngôi biệt thự lầu mà chủ nhân đã di tản. Không còn một vết tích gì về những đồ đạc trang trí nội thất trước đây trong ngôi nhà sang trọng nay được trưng dụng làm lớp học với ít bàn ghế tạp nhạp, cọc cạch, thu lượm ở đâu về. Chính là ở đây tôi gặp anh Nguyễn Xuân Hoàng lần đầu rồi mất dấu anh cho đến khi gặp lại nhau trong tòa soạn nhật báo Người Việt trên đường Moran, thành phố Westminster, quận Cam, hơn mười năm sau.

Lớp học chỉ có chừng ba mươi giáo viên các trường đệ nhị cấp vùng nội thành, có hay không có tuyển chọn và nếu có tuyển chọn thì trên những tiêu chuẩn nào, chúng tôi hoàn toàn không biết, cứ nhận được lệnh là phải thi hành. Buổi học đầu tiên, NXH tới trễ. Chiếc lambretta của anh dựng nghiêng trên cái lối đi xi măng rồi anh sà vào chỗ tôi ngồi ở ngay cuối lớp. Sẵn giấy trắng cho học viên trên bàn, anh rút chiếc bút nguyên tử vẽ nguệch ngoạc những hình kỷ hà rồi chắc là tiện tay, anh viết lên giấy mấy chữ Tôi là Nguyễn Xuân Hoàng. Tôi ghi nhớ tên anh và nhờ cái tên, biết anh dạy ở Petrus Ký nhưng tuyệt nhiên không biết anh là nhà văn tên tuổi của Sàigòn trước khi miền Nam Việt Nam đổi chủ. Lý do giản dị là thời đó, hàng ngày tôi chỉ làm công việc của một cô giáo và của một bà nội trợ chăm lo con cái, nhà cửa và bếp núc, hoàn toàn không có sinh hoạt văn chương.

Được chừng hơn tuần lễ tối nào anh cũng tới lớp trễ, sà vào đúng một chỗ ngồi ở bàn cuối phòng ngay gần cửa ra vào, gật đầu chào tôi với nụ cười mà không cười của anh rồi cúi xuống tờ giấy hý hoáy vẽ linh tinh một lúc là chuồn êm. Tôi không biết người cán bộ quản giáo có lưu ý đến chàng học viên ơ thờ này hay không nhưng có vẻ như anh đến và đi mà không gây chú ý cho ai cả ngoại trừ tôi ngồi gần anh do sự tình cờ ban đầu. Giao tình chỉ từng ấy thôi, thời gian còn lại của khóa học, tôi không thấy anh và chiếc xe Lambretta của anh dựng nghiêng như chực đổ ngoài sân nữa. Anh tới và đi cùng một cách: thoắt biến, thoắt hiện, không một tiếng động.

Ít lâu sau, trước khi chương trình học Mác-Lê do thành ủy tổ chức kết thúc, tôi được tin anh cùng gia đình vượt biên từ một tỉnh cực nam nhưng không thoát, bị bắt. Mùi hoa hoàng lan trong vườn ngôi biệt thự vắng chủ bỗng nhiên thoảng nỗi buồn của những gặp gỡ và chia tay bị gió cuốn đi. Tôi đi qua đường Tự Do cũ, thấy gian hàng tơ lụa mượt mà, lộng lẫy, trước đó không bao lâu thấp thoáng bóng chị Vy, hiền thê của anh và cũng là chủ nhân của tiệm, nay cửa khóa then cài im ỉm, ngậm ngùi biết rằng tin đồn là sự thật.

Đến đây, tôi không còn nhận được tin tức gì về anh nữa. Nhiều năm sau, trải qua nhiều biến cố nhọc nhằn, tôi và gia đình lên đường đi định cư ở Hoa Kỳ dưới sự bảo trợ của anh ruột tôi sinh sống tại quận Riverside, cách Little Sàigòn khoảng 40 dặm về hướng Đông. Vì nhu cầu hội nhập và sự thuận tiện riêng, chỉ hơn một tháng sau khi đại gia đình mẹ, con, anh, em và các cháu đoàn tụ, tôi cùng tiểu gia đình chuyển về quận Cam. Trong một lần tới tòa soạn báo Người Việt trên đường Moran, thị xã Westminster, nhằm chuyển lời của chị Mai Hương, bạn rất thân của tôi, nhờ hỏi thăm thi sĩ Hoàng Anh Tuấn, tôi bất ngờ gặp lại anh, anh Trần Đình Quân và qua hai anh, được quen biết thêm nhiều anh chị em khác đang làm việc cho tờ báo.

Tha hương ngộ cố tri, gặp người cũ, xưa chỉ biết nay thành quen, xưa chỉ quen nay thành thân. Nhân lúc quán cà phê Hải Âu (?) của Hoàng Khởi Phong sang cho chủ mới, Người Việt hẹn gặp gỡ nhau một buổi tối ở đây có cả thi sĩ Hoàng Anh Tuấn từ San Jose về. Thêm một lần nữa, tôi lại tình cờ ngồi bên cạnh Nguyễn Xuân Hoàng quanh cái bàn nhỏ chỉ có thức uống chứ không có thức ăn. Giờ đây, chúng tôi chuyện trò, nói cười thoải mái và tôi nhận ra anh Nguyễn Xuân Hoàng không bao giờ nói to hay cười to.

Anh không khác mấy so với hơn một thập niên trước. Vẫn dáng đi hơi nghiêng về một bên, bước như không chạm đất, Vẫn mái tóc cắt ngắn và cao, đôi mắt có ánh nhìn chậm, tha thiết và lặng lẽ. Sau này gặp anh thường hơn, tôi nhận thấy ngay cả những khi bạn bè tranh luận một đề tài gây nhiều mâu thuẫn, cần đưa ra lập luận của mình, anh vẫn có sự chừng mực để không bao giờ cất cao giọng. Sự khẳng định của anh dù cương quyết đến đâu cũng luôn đi kèm với cái nhìn ngại ngần, ngụ ý Tôi có làm bạn phiền lòng không? Xin lỗi nhé!

Thời gian tôi phụ trách trang Phụ Nữ trên tờ Người Việt, anh là Tổng thư ký tòa sọan. Lúc đó chưa có máy điện toán, mỗi tuần lễ vào chiều thứ năm, tôi đến tòa soạn giao bài. Đi qua chỗ anh ngồi, tôi hay dừng lại trao đổi vài mẩu chuyện thời sự hoặc tin tức về bạn bè xa gần, bây giờ hồi tưởng lại, không thấy kỷ niệm nào nổi bật, có nghĩa là nói chuyện với anh không bao giờ “găng” cả. Anh có cách thoát khỏi những hoàn cảnh tế nhị trước khi để chúng trở thành khó xử. Tôi không biết đây là triết lý xử thế bỏ của chạy lấy người của anh hay do bản tính anh không muốn gây thương tích cho người và cho mình. Bây giờ mỗi khi nghĩ về anh, tôi hình dung ra một hành khách đáp xe buýt trên một tuyến đuờng đông khách, dù đứng hay ngồi, anh cố thu nhỏ mình để bớt va chạm.

Khoảng đầu những năm 90, tờ nguyệt san Tin Điện bên Tây Đức nhờ tôi làm chủ bút. Tôi cầu cứu anh giữ giùm phần tin tức và lay out. Tuần lễ trước khi đến hẹn gởi báo đi, có những hôm chúng tôi phải làm việc đến tận nửa đêm. Hai cháu Ốc Tiêu và Tina ngày đó còn bé, chốc chốc Tina lại chạy đến chỗ bố, vin cổ anh xuống và hôn lên má anh. Tôi còn nhớ mãi khuôn mặt trái soan trắng hồng, đôi môi chúm chím đỏ như một nụ hoa đào của cháu nhìn thấy qua vai anh khi anh nghiêng xuống với cháu.

Sau này, nhiều lúc nhớ lại kỷ niệm làm tờ Tin Điện với anh, nhớ lại cảnh anh tỷ mỷ cắt dán những mẩu tin để lay out, cẩn thận dùng thước đo từng milimét cho đúng với đòi hỏi quái đản của ông Chủ nhiệm bên Tây Đức, tôi chợt nghiệm ra có lẽ khi đó anh chỉ muốn giúp một người bạn có thêm chút phương tiện tài chánh để nuôi con hơn là vì chính nhu cầu của anh. Ngày nay, tôi càng thấm ngấm tấm lòng của anh hơn không phải chỉ vì sự giúp đỡ của anh như nói trên mà vì sự tế nhị về phía anh đã không một giây phút nào khiến tôi cảm thấy áy náy vì mang ơn.

Mười lăm năm trôi qua từ khi anh và gia đình dọn lên bắc Cali vì một công việc mới rất tốt cho anh với công ty San Jose Mercury News. Chúng tôi vẫn giữ liên lạc nhưng không thường xuyên. Những dịp anh về lại quận Cam, thời giờ ít ỏi, công việc bề bộn, những cái hẹn không ăn khớp và chúng tôi ít gặp lại nhau. Một buổi tối khoảng tháng ba năm nay, Trần Mộng Tú từ Seattle xuống quận Cam. Chúng tôi đang ngồi ở nhà Thùy Hạnh thì anh ghé qua. Trông anh hơi gầy đi, mái tóc trắng như mây nhưng anh vẫn giữ dáng vẻ trẻ trung mọi khi, quần jeans, áo sơ mi không cài khuy cổ. Anh ngồi trên cái ghế nhỏ, yên lặng như thường lệ, thỉnh thoảng nhẹ nhàng trả lời một câu hỏi. Nhìn anh giống như một mảnh puzzle lạc loài không khít vào đâu cả.

Đầu tháng bẩy, anh gọi điện thọai báo tin sẽ về dự sinh hoạt kỷ niệm 80 năm Tự Lực Văn Đoàn và 50 năm ngày giỗ Nhất Linh do Diễn Đàn Thế Kỷ thực hiện và theo lời mời của anh Phạm Phú Minh. Trong lúc tôi và Trần Mộng Tú đinh ninh sẽ có dịp gặp lại anh như đã hẹn thì anh Phạm Phú Minh báo tin không lành: NXH không về được vì kết quả khám nghiệm chứng đau lưng của anh cho biết anh bị ung thư và bác sĩ quyết định gởi anh đi làm xạ trị ngay.

Tôi á khẩu. Trong nước mắt lòa nhòa, bỗng dưng chập chờn thấy lại khung cảnh một lần nào đó gặp anh bên giường bệnh Nguyễn Mộng Giác. Họ vẫn nói chuyện thời sự văn chương với nhau nhưng câu chuyện chỉ để khỏa lấp những điều buồn bã không thể nói của một tình bạn đang chia cùng nhau nhưng viên thuốc đắng của đời người. Những viên thuốc mà lớp đường bọc ngoài đã từng ngày tan dần vị ngọt. Trên đầu lưỡi không trừ một ai.

Chị Trùng Dương và tôi lên Milpitas thăm anh đầu tháng tám. Anh nói: “Mình chết thì OK, chỉ muốn đừng đau đớn.” Anh không ăn được và cũng không muốn ăn. Anh ngủ là do thuốc. Thỉnh thoảng anh theo chị Vy ra tòa soạn, dù không viết lách gì nữa nhưng sinh hoạt của tòa báo tiếp hơi thở cho anh.

Trên đường về lại quận Cam, có lúc chị Trùng Dương nói với tôi: “Cái không may của Hoàng là chọn học Triết. Đã vậy, còn dấn thân vào văn chương.” Tôi cũng đồng ý với chị. Hành trình đi tìm ý nghĩa của cuộc sống và đi tìm cái mới hay sự thay đổi trong sáng tạo không bao giờ êm ái, càng không bao giờ dễ. Khi bỏ dở tập trường thiên Người Đi Trên Mây, thậm chí đốt luôn bản thảo cuốn II, phải chăng anh không còn lối thoát nào cho những đam mê bị bào mòn trong “cuộc chơi mệt mỏi và tuyệt vọng” (chữ của Đào Trung Đạo) mà định mệnh đã xô anh vào hay do anh chủ tâm chọn lựa?

Cảm ơn tình bạn anh cho tôi, như cánh diều bay êm ả trên những tầng mây khi tụ khi tan, khi gần khi xa, như có như không, một tình bạn chân thật, giản dị, để có khi nào nhớ về, ký ức sẽ gọi dậy trong tôi mùi hoa hoàng lan huyền ảo vẫn dịu dàng thơm những tháng ngày tăm tối nhất của một Sàigòn vừa bị xóa tên.
 
bùi bích hà
Garden Grove, tháng 9/2013.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeTue Apr 03, 2018 5:32 pm

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Th?id=OIP.0KqgDEKeGLK62SGEHRtEOQHaFj&pid=15

Nhưng anh đâu rồi

Bùi Bích Hà

Sau đợt nắng nóng hầu như lệ thường mỗi cuối Tháng Mười ở quận Cam, Nam California, buổi chiều Thứ Bảy, ngày 28, bầu trời một màu xám nhạt, gió hiu hiu se lạnh và nắng lụa tơ tằm bỗng dưng gợi niềm thương nhớ xa xôi. Tiếng bạn tôi hân hoan mừng rỡ bên kia đầu dây điện thoại, báo tin Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa sắp được trùng tu. Chị bảo tôi mở email để xem bản tin chính thức loan tải trên báo chí.

Tôi làm theo lời chị. Bản tin cho biết sau nhiều cuộc vận động chính giới Hoa Kỳ của Sáng Hội Việt Mỹ (VAF) với Chủ Tịch Nguyễn Đạc Thành và ông Phạm Huy Khuê – một thành viên ban chấp hành của tổ chức, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và chính phủ Việt Nam đã cùng đồng ý mở những cuộc thảo luận về việc trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, bắt đầu với chuyến viếng thăm đặt vòng hoa và dâng hương ở Nghĩa Dũng Đài của phái đoàn nhân viên Đại Sứ Quán Mỹ tại Việt Nam sáng 24 Tháng Mười.

Bên cạnh nội dung bản tin, có bài thơ nóng hổi lệ mừng của bạn tôi, nhà thơ Trần Mộng Tú, nhan đề “Nhưng Anh Đâu Rồi:”

Có một điều tốt đẹp sắp xảy ra
những tan vỡ có bàn tay hàn gắn
cỏ chết khô sẽ tìm về mọc lên
cây gục ngã được mang trồng lại
mỗi ngôi nhà sẽ một con số mới
đường tới thăm anh đẹp như đường làng

Nhưng anh đâu rồi em tìm không thấy?

Nhang mới được thắp lên ngày hôm qua
hương khói đó có bay vào mắt khép
những lóng xương của anh còn đủ không
chiếc thẻ bài còn mang mang thiên cổ
rễ cây nào như nòng súng đâm ngang
có xuyên qua những bức tường áo quan
cho anh thêm vài ba thương tích mới

Bao hứa hẹn cho điều tốt đẹp tới
nước mắt nào rửa sạch những vết thương
tình yêu nào băng bó hết tủi hờn
ai nhớ thổi cho bay mùi thuốc súng

Nhưng anh đâu rồi em tìm không thấy?

Hãy đứng lên hãy chống nạng bước ra
với bộ ngực gầy như chiếc lồng chim
những chiếc nan xương có trái tim nhỏ
trái tim khốn khổ vẫn đập nồng nàn
trái tim anh vẫn đập nhịp bao dung
giọt máu đỏ nhỏ trên mồ hoang phế.

Nhưng anh đâu rồi em tìm không thấy?

tmt

Gần 43 năm đã trôi qua kể từ lần cuối tôi chạy xe qua khu nghĩa trang, nhìn bức tượng Tiếc Thương đặt ngay lối vào của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu với những nhát búa xuất thần chỉ thể hiện một lần trong đời người nghệ sĩ.

Nay được thấy lại một phần nơi này trong loạt hình đăng báo, cỏ khô úa vàng bên lối đi, lá rơi gió vun thành đống xung quanh những nấm mồ rêu xanh, con đường đất bụi bay lên dưới gót giày, cây cối non trẻ năm xưa giờ thành rừng xanh ngăn ngắt…
Đã hơn 40 năm nơi này tịch mịch. Không còn tiếng kèn đám ma. Không còn tiếng khóc. Không còn xô gai trắng toát trên đầu cô nhi và quả phụ xiêu đổ đi sau áo quan tử sĩ, những anh hùng vị quốc vong thân được tổ quốc ghi ơn.

Bức tượng Tiếc Thương bị kéo sập ngay những giờ khắc “giải phóng” đầu tiên nhưng điều gì đã cầm chân những kẻ phá hoại không cho chúng bước vào Nghĩa Dũng Đài nên các kiến trúc xung quanh khu này còn nguyên vẹn, kể cả cái lư hương lớn không chút sứt mẻ, cũng không có cả chân nhang, ngày đêm đứng trơ gan cùng tuế nguyệt.

Trong một chừng mực được chính quyền trong nước cho phép, có lẽ sáng hội VAF đã lui tới nơi này nhiều lần nên cảnh quan bớt phần hoang phế.
Có lẽ không ai thực sự biết có bao nhiêu ngôi mộ đã được cải táng, hiểu theo nghĩa được thân nhân còn sống giúp “di tản” hài cốt để người quá cố không bị chết hai lần dưới “chế độ mới.” Những ngôi mộ thưa thớt còn lại có cái kiến trúc còn nguyên, tên người dưới mộ còn đọc được trên mộ chí và hình ảnh còn rõ nét, có cái phần trên mộ bị sụp hẳn hay sụp một bên, mộ chí chỉ còn lại một phiến đá nhỏ nét khắc phai mờ dưới tro bụi thời gian.
Có điều rất lạ, trên cái màu hoen ố của vôi gạch cũ kỹ qua tháng năm không có bàn tay ai chăm sóc, những mảng rêu bám nổi lên xanh mướt như nhung xung quanh chân mộ, ở những khe nứt, bồi hồi nguồn sống linh thiêng, tươi trẻ, khiến mắt tôi khi chạm vào, bỗng liên tưởng mấy câu thơ Hữu Loan khóc vợ trong bài “Màu Tím Hoa Sim:” “Gió sớm Thu về, rờn rợn nước sông, đứa em nhỏ lớn lên ngỡ ngàng nhìn ảnh chị, khi gió thu về cỏ vàng chân mộ chí…” Tuy nơi này không có sông nước chảy nhưng dường như cùng với rừng xanh đang xào xạc thở giữa thâm u, rêu xanh cũng rờn rợn thở…

Bạn tôi có cuộc tình đầu dâng hiến cho núi sông. Mỹ từ đã được khắc vào bia đá nhưng trong tận cùng nỗi đau tử biệt, chị khước từ mọi chia cắt trong lòng người: “Máu anh và máu địch, xin em cùng xót thương, tmt.” Sự chết đã thanh thỏa cho nhau nợ nần và tội lỗi thế gian, để chỉ còn hư vô. Để chỉ còn những bài học khôn ngoan và đớn đau.

Tục ngữ nước ta có câu “Trăm năm bia đá thì mòn,” mặc dầu vậy, đối với riêng tôi, mọi nghĩa trang, dân chính hay quân đội, ở bất cứ đâu, đều nhắc tôi một phần liên hệ nào đó của chính mình, khuất lấp nhưng thường hằng, với nơi chốn ấy.
Ngay cả những người chưa từng gặp gỡ hay quen biết, khi ra đi đều để lại một chút gì của họ trong cuộc sống chung trên mặt đất này, hình thành nền văn hóa chung của cả nhân loại và mọi người đều thừa hưởng lợi lạc từ kho báu lớn lao ấy, cách này hay cách khác, mà không ngờ.
Người đi qua xe tang, ngả mũ chào để tỏ lòng tôn kính và biết ơn. Xe đi qua nghĩa trang, lặng lẽ không nhấn còi. Một phút giây chậm bước, một phút giây lắng đọng, để nghĩ về thân phận làm người, giúp chúng ta sống tỉnh thức và có ý nghĩa hơn.

Sau hơn bốn thập niên, giờ đây, những lối đi quạnh hiu trong nghĩa trang lạnh lẽo nghe lại tiếng chân người, không gian thơm lại mùi nhang khói, rừng thấy lại hoa tươi và bạn tôi ngơ ngác thấy mình, trong giấc mơ dài, đi tìm lại người bạn đường ngày tháng cũ: “Nhưng anh đâu rồi em tìm không thấy?”
Chị không hỏi cho riêng mình câu hỏi xé nát tim gan ấy, chị hỏi giùm cho tất cả những ai, trong mọi cuộc chiến tranh, có người thân yêu từng ra đi, hẹn về nhưng lỗi hẹn: “Anh bảo em đợi chờ rồi anh không về nữa! tmt”
Thật ra, anh còn nơi nào để về ngoài trái tim em anh chưa bao giờ rời xa? Ngôi mộ không nắng mưa hư hoại, nghĩa trang không khói lạnh hương tàn, là tấm lòng của đấng sinh thành suốt đời cưu mang, của người vợ hiền can đảm sống giùm nhau cuộc đời ngắn ngủi.

Cho nên, nghĩa trang là việc của người ở lại. Người đi trả nợ núi sông an nghỉ cùng một cách, hiển linh cùng một cách, trở về cùng một cách, bất kể trong poncho buồn hay trong hòm gỗ cài hoa hay vùi nông ở một nơi nào tưởng không còn vết tích.
Như anh Nguyễn An Khang, số quân 68/144.681, loại máu B.Rh+, hy sinh tại chi khu Kiến Đức, tỉnh Đắk Lắk, di cốt vừa được anh Long, chị Nhung tìm thấy và loan báo trên mạng tìm thân nhân đón anh về. Họ đều là anh hùng được tổ quốc ghi ơn. Họ ở khắp nơi. Họ trong lá cờ tổ quốc, dẫu lưu vong, vẫn lồng lộng tung bay.

Họ trong bài quốc ca vẫn được đàn con luân lạc hát lên bằng lửa trong tim và lệ trên mắt. Họ trên những tầng mây cao. Họ trên những đỉnh cây vi vu gió. Họ là mặt đất bình an dưới bước chân trẻ thơ chập chững đi. Họ trong nụ cười buồn vui của người vợ cũ, của người tình chưa kịp đeo nhẫn cho nhau nên nhớ thương khôn nguôi.
Họ ở trên bàn thờ ấm áp dưới mái nhà của cha, của mẹ. Họ trong cả bát cơm, hớp nước có khi nghẹn ngào cố nuốt. Họ trong mỗi bàng hoàng thức giấc nửa khuya ở xứ người. Họ trong từng ngụm khí trời không mùi vị, không màu sắc, cần cho mọi hơi thở. Họ ở khắp nơi trên quê hương vẫn rừng vàng biển bạc. Lớn lao là thế, cao cả là thế nên họ ở ngoài mọi tranh cãi, kèn cựa, mặc cả một cái giá để vinh danh hay không vinh danh họ, chân thành hoặc giả dối.

Bản tin sáng 24 Tháng Mười vừa qua khiến trái tim bạn tôi bồi hồi kêu đòi được trả lại một điều không ai có thể trả lại và bạn tôi, thật sự, cũng không cần ai trả lại vì bạn tôi chưa bao giờ mất. Đối với tôi, có lẽ đối với cả “Anh” ở một nơi nào đó trong vũ trụ bao la này, bài thơ viết trong hối hả của bạn tôi là tượng đài vinh danh lộng lẫy nhất, bền bỉ nhất, đáng quý nhất, là nước mắt đẹp như những hạt châu nhỏ xuống tách trà người vợ góa uống một mình không bao giờ cạn.
Cảm ơn VAF đã kiên trì với nguyện vọng xây lại ngôi làng tử sĩ trên mảnh đất mà chính các anh hùng này, thuở bình sinh, đã đem xương máu thanh xuân bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của người Việt Nam với quyết tâm nối chí tiền nhân.

Người đi rồi không cần nữa nhưng người còn ở lại sẽ cảm thấy được an ủi và hãnh diện với một Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa có những con đường làng ấm cúng, yên ả, đẹp đẽ (như thơ Trần Mộng Tú) dẫn tới những ngôi mộ xếp hàng thẳng tắp (như ngày nào người dưới mộ cùng chiến đấu bên nhau, cùng rập bước bên nhau trong những cuộc diễn binh hào hùng, lẫm liệt).

Về phía Hoa Kỳ, ít ra công việc trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa cũng là lời tạ lỗi tuy muộn màng, nhưng nước Mỹ không thể bỏ qua. Để trả lại các chiến binh Việt Nam (và gia đình họ) đã hy sinh trong một thời khoảng lịch sử nhiều oan khiên cho cả hai quốc gia, sự công chính xứng đáng với họ.

(Bùi Bích Hà)
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeWed Apr 11, 2018 7:25 am

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Vietnam+war+film
Source internet.


“VIETNAM WAR”
Bùi Bích Hà

October 15, 2017

Chiến tranh
Việt Nam , sau hơn 4 thập niên, vẫn mãi là một ám ảnh ray rứt cho nhiều người, nhiều thế lực ở nhiều phía. Có một câu nói nghe hay đọc được đâu đó, hình như từ kinh Thánh, đưa ra một chân lý: Chỉ có “sự thật” mới giúp giải thoát. Khốn thay, sự thật luôn có nhiều bộ mặt của những kẻ đại diện nó và bao lâu con người chưa có phép thần thông để nhìn thấu suốt sự thật đằng sau những sự thật ấy thì hầu như  sự thật cứ mãi là sự kể lại, vẽ ra, thêu dệt, theo mong ước riêng, theo trí nhớ mù mờ lúc biến cố xảy ra, đã bị thời gian bôi xóa, vì nhu cầu thanh minh, bào chữa, thậm chí vu vạ để chạy tội, nên không bao giờ là sự thật chính nó!

Thập niên 70 thế kỷ trước, lúc văn hóa/đạo đức toàn cầu chưa sa sút như bây giờ, chiến tranh VN chưa kết thúc để có kết quả ngã ngũ, để những thế lực và những nhân vật liên hệ tới cuộc chiến này có nhu cầu lên tiếng, khán giả ở nam VN đã được xem phim Rashomon, làm quen với cách chấp nhận những sự thật không bao giờ là sự thật, tới từ Nhật Bản, xứ sở nhờ thua trận mà lột xác, lớn lên trong một phong cách khác, đưa nước Nhật và dân Nhật lên địa vị hàng đầu của tư cách và đạo đức làm người, để rửa mặt, để tự răn dạy mình và để chứng tỏ với thế giới họ thừa sức xoay chuyển thất bại và viết ra những trang sử mới như phượng hoàng bước ra từ lửa đỏ, không cần phù phép, sơn phết, tô vẽ lại cuộc thất trận của họ nay được nhìn như kinh nghiệm trưởng thành trong đau thương của nước Nhật.

Đi tìm sự thật đằng sau cuộc chiến tranh tại Việt Nam ư? Còn mất thì giờ, công sức đi tìm nó ở đâu nữa khi nó đã chình ình hiện nguyên hình, nhầy nhụa, tanh hôi, sình thối trên các chiến địa im tiếng súng? Giờ phút này, có lẽ chỉ còn những người được trả công để thỉnh thoảng hô hoán lên họ tìm được một cái xác sự thật khác, ít nhem nhuốc, ít ghê tởm hơn thôi! Từ chối nó, nguyền rủa hay tung hô nó, chẳng thay đổi gì được một cái xác ngoại trừ chịu làm cái công việc của các sinh viên trường thuốc, can đảm mổ xẻ nó để có được những bài học cứu người trong tương lai.

Có một thời điểm trong cuộc chiến tranh lạnh, nước Mỹ có nhu cầu xây dựng một lực lượng đối trọng với khối cộng sản, cụ thể là Nga và Trung cộng, để bảo vệ thanh thế và vai trò của một siên cường cầm cân nẩy mực sự quân bình giữa hai thế lực tư bản và vô sản. Mỹ nhìn thấy Việt Nam là chiến trường tiêu biểu cho khuynh hướng này, thể hiện bởi một bên là phe quốc gia hậu thuộc địa, thèm khát và cực lực muốn xây dựng một thể chế độc lập, tự do, bên kia là phe cộng sản dưới lá bùa chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc nhưng lại nương dựa vào hai đàn anh khổng lồ là Liên Xô và Trung hoa lục địa. Bên nào thắng sẽ làm nghiêng cán cân quyền lực về phía họ ở châu Á.

Có chủ trương rồi, Mỹ dùng đủ mọi mưu chước/thủ thuật để không những dọn đường vào VN mà còn chủ trương giải quyết chiến trường thay cho VN: ép người Pháp phải rời khỏi Việt Nam một cách nhục nhã, lập chính phủ rồi đảo chánh lật chính phủ theo nhu cầu của họ từng thời kỳ. Đến cao điểm, Mỹ công khai đưa quân vào VN và trực tiếp điều động chiến lược/chiến thuật trên khắp lãnh thổ miền nam VN. Để có chính nghĩa, họ tạo dư luận chê bai khả năng tác chiến của quân lực VNCH yếu kém trong khi không thiếu các cố vấn Mỹ đứng đắn, có công tâm, từng trực tiếp tham chiến bên cạnh binh sĩ và tướng lãnh VNCH, đã hết lời ca tụng lòng dũng cảm và kinh nghiệm chiến trường xuất sắc của quân lực VNCH.

Cuối thập niên 60 thế kỷ trước, tình hình từ âm ỷ nhiều năm do mâu thuẫn về quyền lãnh đạo phong trào cộng sản Cọng sản quốc tế giữa hai đảng Cộng sản Trung hoa và Liên Xô, bất ngờ bùng nổ với cuộc xung đột võ trang ngày 13/8/1969 ở biên giới Tân Cương, khiến cho rạn nứt trong khối CS không có hy vọng hàn gắn và đồng thời đẩy Trung Hoa xích lại gần với Mỹ vì những đe dọa của Liên Bang Xô viết. Nặng nề nhất khi chỉ 2 ngày sau, 15/8, Leonid Brezhnev thông báo cho Mỹ biết Liên Xô chuẩn bị đánh đòn hạt nhân để phủ đầu Bắc Kinh. Lúc này, Hoa Kỳ vừa thấm đòn với cuộc chiến tranh Việt Nam không dễ nuốt như họ nghĩ lúc ban đầu, vừa bị áp lực dữ dội của nhóm phản chiến được quần chúng, quốc hội và truyền thông phe tả tiếp tay thổi bùng lên, lập tức nhìn thấy một lối thoát “trong danh dự” cho họ. 

Những chuyến bay đi bay về bí mật của Kissinger đến Trung quốc, gặp họ Chu, họ Mao, cam kết bỏ VNCH, cuối cùng với cuộc viếng thăm của Tổng thống Nixon năm 1972, được Trung quốc đánh giá là một quyết định tiến bộ mở ra trang sử mới trong lãnh vực ngoại giao của thời đại, dọn đường cho hòa đàm Paris diễn ra năm sau đó với thân phận của miền Nam Việt Nam được định đoạt ngoài thẩm quyền của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đương nhiệm. Đại diện nước Mỹ, Kissinger uốn ba tấc lưỡi để hết sức thuyết phục họ Chu đa nghi về sự thành thực của họ, để lại những câu nói hoạt đầu vô trách nhiệm mà sử sách còn ghi: “Vì vậy, khi tôi đưa đề nghị rút ra khỏi Việt Nam, đó không phải là tìm mưu mẹo gì để rồi lại vào lại (VN) trong cách nào khác, nhưng là chúng tôi muốn chính sách ngoại giao của chúng tôi dựa vào những điều thực tại hiện thời, không phải dựa vào những giấc mơ của quá khứ.“ Có thể ai cũng biết nước Mỹ thực dụng nhưng chắc không ai có thể ngờ nước Mỹ đã dựa vào những giấc mơ khi bước vào cuộc chiến ở Việt Nam và giẫm lên hàng triệu xác người.


Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Richard-nixon-mao-zedong-in-china-1972-everett 


Thời cơ thuận lợi, Mỹ thương lượng chia thị phần thế giới với Trung Hoa cộng sản và bỏ VN, khác với cộng sản luôn keo sơn gắn bó với cộng sản Bắc Việt vì tham vọng bành trướng mà Hoa Kỳ không theo đuổi. Mặt nạ chống cộng để bảo vệ Tự do/Dân chủ của Mỹ rơi xuống một cách thảm hại. Trước cái chết bị lạm dụng của 58,000 quân nhân Hoa kỳ hy sinh trên chiến trường VN, của con số không ít cựu quân nhân Mỹ về nước mang theo họ hậu chấn của chiến tranh vẫn còn sống lây lất, các nhân vật dính líu vào thảm kịch này có nhu cầu rửa mặt, chạy tội, họ viết hồi ký để đưa ra những tại, bị, bởi thế này thế kia nhưng họ không thể xóa bỏ câu nói của tướng Abrams Creighton, tư lệnh các lực lượng viễn chinh HK tại nam VN (từ tháng 12/1968) trước khi ông hồi hương, tháng 11/1972: “Chúng tôi bước vào một cuộc chiến với hai tay bị trói” để nói về ý đồ không muốn thắng, về cuộc chiến tranh có giới hạn của quân đội Mỹ ở VN. Sự thật trong lời tuyên bố của tướng Abrams, sau này được Tiến sĩ Lewis Sorley xác nhận trong cuốn A Better War mà ông là tác giả, như sau: “Khác với đánh giá của phần lớn các nhà phân tích, sau khi Tướng Creighton Abrams thay thế Tướng Westmoreland, tình hình chiến cuộc Việt Nam đã xoay chiều, tới mức có lúc có thể khẳng định lực lượng đồng minh đã thắng. Mọi sự diễn tiến tốt đẹp tới mức có lúc tôi đã mạnh dạn viết trong quyển 'A Better War' rằng có một thời điểm khi có thể nói thắng lợi đã về tay miền Nam. Tôi viết rằng mặc dù giao tranh vẫn chưa chấm dứt, nhưng coi như chúng ta đã thắng, lý do là bởi vì chính phủ miền Nam Việt Nam đã đủ khả năng để có thể duy trì độc lập và tự do, với điều kiện Hoa Kỳ phải giữ những cam kết đã hứa với họ.”

Sự thật ư? Chẳng phải đã có một sự thật rành rành đó sao? Chỉ có những người không chịu nhìn nhận nó. Vậy, còn ai muốn đi tìm sự thật nào và ở đâu nữa? Ông Ken Burn và Bà Lynn Novick khi làm cuốn phim gọi là tài liệu, sao lại nêu lên vấn đề “Cuộc chiến Việt Nam là chủ đề khó khăn và phức tạp nhất mà họ từng thực hiện khi có quá nhiều luồng quan điểm, quá nhiều cách nhìn nhận từ các đối tượng khác nhau”? Vậy đâu là những dữ kiện lịch sử khách quan mà họ tìm kiếm và thu thập được với sự xác tín cao nhất của họ?

Cháy nhà hàng xóm, bằng chân như vại. Tổ tiên đã dạy. Chúng ta không nên trách móc ai cả ngoài tự trách mình, càng không nên trông đợi ở lòng tốt vô điều kiện của đồng minh mà hãy tiếc là “lãnh đạo” của Việt Nam đã không tương kế, tựu kế để nhân cơ hội, đem lại những điều tốt đẹp cho đất nước và dân tộc khi thời thế cho phép. Tháng 4/1975, người Mỹ ra khỏi VN, sự can thiệp chính trị của Trung cộng chưa lộ diện, Mặt trận GP Miền Nam còn nguyên vẹn cơ chế, dân chúng hai miền Nam/Bắc đã thống nhất, của chìm của nổi của miền Nam còn nhiều, nếu lãnh đạo cộng sản VN quả thật vì dân, vì nước, có chí khí, có tài năng và đức độ thì đã biết cùng toàn dân nắm lấy vận mạng của cả nước, đã có thể vận động đại khối dân tộc lúc đó mạnh như nước vỡ bờ để cùng nhau xây dựng nền độc lập tự do dân chủ thực sự cho một Việt Nam đầy tiềm năng, đâu có thua kém ai bên trời Đông?

Tiếc thay và buồn thay, những người chủ mới hiện nguyên hình những kẻ đánh thuê, làm thuê, mang tâm lý đòi công, siết nợ, rủ nhau trộm cắp, cướp ngày cướp đêm kiếm tiền bỏ túi riêng, phá tan mọi tiềm năng lớn lao của dân tộc, mọi giá trị nhân bản còn sót lại ở miền nam, tiếp tục chịu ách nô lệ ngoại bang để vinh thân phì da đúng như Lê Duẩn từng nói “chúng ta chiến đấu vỉ Nga Xô và Trung cộng.” Một chính thể không xây trường học thì sẽ phải xây thêm nhà tù. Từng tập đoàn cán bộ lớn bé các cấp ăn không đồng, chia không đều, kéo nhau ra tòa lãnh án về tội tham ô, nhũng lạm của công, bán đất, bán rừng, bán biển, bán tài nguyên. Vẫn chưa đủ, đi vay, đi xin, thể hiện một cuộc sống vô liêm sỉ chưa từng thấy trên suốt dòng lịch sử của dân tộc. 1977, khi cần đánh tư sản để vô sản hóa họ, là thành phần từng đóng góp tiền bạc bảo bọc “cách mạng,” lãnh đạo Cộng sản tuyên bố: “Vai trò lịch sử (nuôi quân giải phóng)  của các anh đã chấm dứt. Đây là thời điểm các anh vì yêu nước, phải tự xóa bỏ mình.” Hay quá! Bây giờ không thấy lãnh đạo nào tự nhắc mình câu nói năm xưa ấy: “Vai trò lịch sử đuổi ngoại xâm, thống nhất đất nước của chúng ta đã chấm dứt. Đây là thời điểm mà chúng ta vì lòng yêu nước, phải tự xóa bỏ mình.”

Đây là một sự thật sống động khác, của dối trá và ươn hèn, cũng nên nhìn nhận bên cạnh những sự thật đầy nghi vấn trong các cuốn sách, các bộ phim về cuộc chiến tranh Việt Nam trong hơn bốn thập niên qua.

Chiều chủ nhật vừa qua, đến chung vui lễ Tết Trung Thu của thiếu nhi vùng Quận Cam tổ chức trên sân cỏ của công viên Một Dặm Vuông, nhìn các em thơ hồn nhiên vui chơi hay tận lực cống hiến khả năng mình qua tiếng trống thúc quân hào hùng, qua những vũ điệu tình tự dân tộc, qua các thế võ múa gậy, múa quyền chuẩn bị các em mai này bước vào đời biết tự vệ, biết tấn công khi cần, tôi không ngăn được nước mắt dâng lên mi, càng thấm ngấm câu hỏi “Người lớn chúng ta đang để lại cho những thiên thần nhỏ này một di sản thế nào đây?”

Bùi Bích Hà

.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSun May 27, 2018 9:38 pm

.

Mẹ đi lấy chồng
Bùi Bích Hà


Cơn mưa giông Sài Gòn đổ xuống thình lình trên hè phố. Trời xám ngoét. Nước mau chóng tụ ở các chỗ trũng rồi ào ạt tuôn về các miệng cống, cuốn theo rác rưới trôi lêu bêu. Ðầu những hạt mưa, khi chạm mặt đường, búng thành những cái bong bóng nước phập phồng, lênh đênh theo chiều gió.

Dưới cái mái hiên ngắn, không đủ làm chỗ trú chân cho người qua đường, một phụ nữ còn trẻ, đứng co ro, đôi mắt bồn chồn ngó nhìn trời đất mông lung dưới cơn mưa. Một cậu bé chừng năm sáu tuổi, nắm chặt vạt áo ướt của bà. Hình ảnh ấy lọt vào tầm mắt của người đàn ông vừa qua tuổi trung niên, về thăm quê hương, đang ngồi cùng bạn bè trong cái quán ăn bên kia đường, làm tim ông nhói đau. Trong cơn mưa nhiệt đới oi nồng mùi đất nóng, đang đổ xuống một góc phố Sài Gòn chiều nay, người đàn ông bất chợt nhớ lại câu ca dao vẫn làm ông xúc động mỗi khi nghĩ tới:
“Trời mưa bong bóng phập phồng,
Mẹ đi lấy chồng, con ở với ai?”

Trên mặt Địa Cầu này, tự cổ chí kim, đã có hằng triệu triệu các bà mẹ, vì lý do này hay lý do khác, đi lấy chồng nhưng có ở nơi nào như đất nước Việt Nam, mà dân gian có câu hỏi não lòng đến vậy không? Như thế, phải chăng là vì bà mẹ Việt Nam sống gần gũi với thiên nhiên, đồng ruộng, muông thú, trái tim trong trẻo, hồn nhiên, đôn hậu của bà đã thâu góp được hết cả lượng đất trời bao dung, để bà có thể ban phát nhiều hơn cho con cái mình, để từ đó, bà được tiếng là biết hy sinh cho người khác nhiều hơn phụ nữ các sắc dân còn lại trên mặt địa cầu này? Bà mẹ ấy là hình ảnh con gà mái xòe đôi cánh nhỏ của nó để bảo vệ đàn con trước nanh vuốt quạ hay diều hâu, những móng chân sắc, nhọn của nó tung bụi đất mù mịt và toàn thân nó xoay tròn, làm thành cái hàng rào kín bưng che chắn lũ gà con nhao nhác vì sợ.

Không phải chỉ ở cái thời mà những người đàn bà thượng lưu, vì thủ tiết thờ chồng, được nhà vua ban tặng danh hiệu “Tiết Hạnh Khả Phong,” một thứ huy chương đạo đức cao quí, mà ở bất cứ thời nào, đẳng cấp xã hội nào, cũng có những bà mẹ tận hiến đời mình cho con cái không cần được ai tuyên dương. Những bà mẹ quê Việt Nam gia cảnh bần hàn, nghèo khó, góa bụa, dở dang, cắn răng gởi con còn trứng nước cho thân bằng quyến thuộc, đem thân đi làm tôi tớ nhà giàu ở chốn phồn hoa để chắt chiu đồng gạo, đồng muối nuôi con, đêm nằm, ngực căng sữa, xót xa nghe nước mắt nhớ nhung ướt đầm vạt áo. Những bà mẹ thành thị Việt Nam không mò cua, bắt ốc, đào khoai thì tất tả ngược xuôi, tay mang, tay xách, buôn thúng bán bưng, làm sao để chiều về có tí gạo, tí rau, con tôm, con tép, cho đàn con có bữa cơm no. Cho nên, đối với con, Mẹ là tất cả, là Phật Bà Quan Âm, là Mẹ Maria, là huyền sử lạ thường.

“Mẹ đi lấy chồng, con ở với ai?”

Rồi, tiếp đến một thời chiến tranh tàn khốc, thuở trời đất nổi cơn gió bụi, thân thế người phụ nữ trong cuộc chiến càng điêu linh, vùi dập. Huyền sử vỡ tan, như những cái bong bóng nước chiều mưa. Người mẹ góa không còn cả đồng ruộng, đất đai, ao hồ để mò mẫm nuôi con, không còn cả niềm tin và hy vọng vào cuộc sống dài lâu để đứng vững trên hai chân mình mà dìu bước con theo. Trong cuộc chiến, hè đường là nơi đầy rẫy những nỗi bất trắc của chào mời dễ dàng, của gặp gỡ tạm bợ. Những đứa trẻ mất cha, lạc mẹ, bị quăng ném ra bãi rác, xó chợ, bạn bè chúng là những con chó hoang xác xơ, cũng sục sạo kiếm ăn chút cơm thừa, canh cặn như chúng. Vuột chéo áo mẹ rồi, trời đất bao la này có nơi nào là tổ ấm cho con nương náu để lớn khôn?

“Mẹ đi lấy chồng, con ở với ai?”

Chiến tranh tàn lụi, đến một thời các bà mẹ đứng lên, hô hào đòi quyền sống. Hôn nhân bất như ý trở thành tù ngục. Người đi về cõi khác trở thành quá khứ. Tù ngục phải thoát ra. Quá khứ phải quên đi.

“Gió bao lần từng trận nhớ thương đi,
Mà kỷ niệm ơi, còn gọi ta chi?”
(Xuân Diệu)

Người sống cần sống. Mẹ như con chim lẻ bạn, vẫn tiếc nhớ bầu trời chứa chan nắng gió của yêu đương nồng ấm. Mẹ như sợi dây đàn câm, cần chiếc phím  tài hoa để làm ngân lên giai điệu. Cất bước ra đi, cũng xót đau lắm bàn tay con thơ luống cuống trên tà áo mẹ, cũng băn khoăn lắm câu hỏi lặng thầm trong những cặp mắt nai:

“Mẹ đi lấy chồng, con ở với ai?
Con đói thì con ăn khoai,
đừng ở với dượng, điếc tai láng giềng…”

Người đàn bà tự nhủ “mình vẫn đem con theo, bảo bọc chúng mà!” Mẹ biết đâu cái chỗ của con trong trái tim mẹ đã chật lại, đã cạn bớt, cái chỗ của con sau lưng hay bên cạnh mẹ đã trở thành bóng tối. Mẹ là bát cơm đầy, nay con chỉ còn những hạt rơi. Mẹ là vầng trăng rằm, giờ đây mây khuất che. Mẹ là ngọn đèn soi, nay đã dầu hao, bấc lụn. Mẹ là bếp lửa hồng, giờ đây tro than quạnh quẽ.

“Cũng giống như câu chuyện đứa bé lên ba, ngủ mê
Nửa đêm giật mình, thức giấc
Mẹ đi đâu mà đêm khuya lắc
Hay là mẹ đã mất?
Nếu mẹ còn, sao mẹ không ôm con?”

Cánh cửa xe mở ra, đóng lại vội vàng, đẩy xuống bờ lề đứa học trò nhỏ với cái túi lưng nặng trĩu những điều nó không có ai để san sẻ. Nó đi thơ thẩn. Nó ngồi thơ thẩn. Nó học hành thơ thẩn, thấy sự trống trải ở khắp mọi nơi, bắt đầu từ thiếu vắng vòng tay ôm ấm êm của mẹ nó. Nó đá cái bàn. Nó giẫm lên chân đứa bạn ngồi cạnh. Nó phải luôn làm một cái gì cho hả cơn tức giận triền miên trong cõi lòng côi cút của nó. Ðêm hôm qua, nó chui vào closet để chạy trốn tiếng cãi vã, tiếng khóc của mẹ nó với cái người đàn ông không phải là bố nó rồi nó ngủ quên giữa đống quần áo bừa bộn, làm người nó chảy nước ra, ướt sũng mồ hôi và cả nước mắt.

Phần cuối câu chuyện của nó, có người viết giùm mẹ nó như sau:

“Cũng giống như câu chuyện buồn của bạn,
Mắt nheo, cười ngất
(Cơn mưa nào lạnh buốt hai vai?)
Bạn không hiểu vì sao đứa con trai
Ðêm hôm qua, kê súng vào đầu
Bắn chơi viên đạn thật.
Bạn không hiểu vì đâu
Nó có một căn phòng
Mà không về?”

Mẹ là niềm tin, là sự thánh thiện cho đời con nương tựa. Mẹ to lớn, cần  thiết cho con hơn mẹ nghĩ. Biết bao bàn tay thơ dại, non yếu, đã không nắm giữ được vạt áo mẹ, để rồi

“Mẹ đi lấy chồng, con ở với ai?”

Thần thoại chấm dứt. Những chiếc bong bóng màu của tuổi thơ con vỡ tan như đám bọt nước chiều mưa. Trong lòng con có nấm mộ sâu chôn cất mẹ. Trong đời con có nỗi quạnh hiu của cái bến sông đưa tiễn một người, khi ra đi, mang theo trọn những hành trang vào đời tươi thắm của con.

Khi cái bóng đại thụ của nền luân lý thờ chồng, nuôi con dạt đi, không còn nữa, những đứa con thiếu mẹ, mất mẹ, giữa cuộc sống, hiểu rằng mẹ chúng đã không (hay không thể) lựa chọn cái hạnh phúc làm mẹ thường hiện ra rỡ ràng trong văn chương, nghệ thuật của nhân loại. Nếu con cái không bao giờ là đủ cho một bà mẹ thì đấy chính là nỗi khốn cùng đáng thương nhất của cả hai phía, là thất bại chua chát nhất của Thượng Ðế đã muốn tạo dựng tình mẫu tử như một kỳ quan tuyệt vời trong trái tim bà mẹ. Như câu ngạn ngữ rất dễ thương treo trong căn bếp nhỏ nhà ai:
" Vì Chúa không thể có mặt ở khắp mọi nơi, Ngài tạo sinh các bà mẹ.”

(Bùi Bích Hà)
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeThu Jun 14, 2018 5:55 pm

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Stephen%2BHawkin

Dài, Ngắn Thế Nào?
Bùi Bích Hà


Câu nói cửa miệng của mọi người thường nghe thốt lên mọi nơi, mọi lúc, là “đời người ngắn ngủi quá, vừa sáng sớm chớp mắt đã hoàng hôn.” Có vẻ cảm nhận không sai mấy nhưng biết vậy mà không nghĩ ra được cách nào để, nếu không thay đổi được lịch, thậm chí kim đồng hồ thì chí ít, có thể tận dụng sự ngắn ngủi ấy. Cứ ngồi nhìn thời gian hao mòn như cát lở ven sông thì có nên không?


Viết ra hay nói với nhau điều này tưởng như lý thuyết suông, triết lý vặt nhưng thiết nghĩ lý thuyết cũng rất cần. Bản thân kẻ viết bài này thậm dốt về môn Toán nói riêng và Khoa Học nói chung, thật lòng không dám ví von gì nhưng nhớ là có nghe ai nói đâu đó mấy chữ “Lý thuyết toán học” trước khi đi vào phần chứng minh.

Gần đây nhất, nhân cái tang nhà vật lý lỗi lạc của nhân loại Stephen Hawking vừa qua đời ngày 14 Tháng Ba, 2018, ở tuổi 76, sau hơn nửa thế kỷ vật lộn với bệnh tật trong những điều kiện gay gắt có một không hai, qua đó, cho thấy đời sống ngắn hay dài còn một cách đo đạc khác, hạnh phúc hay khổ đau còn một cách đón nhận khác, mọi người bảo nhau tìm xem cuốn phim Hollywood thể hiện một trong hai di sản to lớn ông để lại cho đời nay và đời sau: “Theory of Everything,” tôi càng thêm tin tưởng rằng Lý Thuyết rất quan trọng để bắt đầu một việc quan trọng, miễn là Lý Thuyết cần được Hành Ðộng thích hợp hỗ trợ.

Hành Động thiếu Lý Thuyết hướng dẫn, có thể đưa tới tình trạng thiếu tập trung, tản lạc, mất tác dụng; ngược lại, Lý Thuyết thiếu Hành Động dễ đưa tới huyễn mộng, “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây.” Làm một điều gì, dù lớn dù nhỏ, dù chỉ có ảnh hưởng tích cực tới bản thân vẫn hơn là không làm gì vì thời gian lạnh lùng trôi chảy, không hề ngừng.

Cũng giống như nhiều người khác, cuộc sống chịu ảnh hưởng của một ai đó xung quanh mình. Riêng tôi, ngoài cha mẹ dạy dỗ, có hai người đã trở thành bậc thầy vĩ đại của tôi trong một cơ duyên tuyệt diệu, giúp tôi cách đi tìm và khám phá những kho báu vô hạn của cuộc đời này.

Người thứ nhất là thầy giáo dạy kèm môn Toán cho tôi chỉ trong một mùa Hè của tuổi thơ tôi ở Huế. Thầy dạy chúng tôi: “Cuộc đời có những hương thơm và mùi xú uế, các em hãy chọn lấy hương thơm. Cuộc đời có những hạt ngọc và nhiều sạn sỏi, các em hãy chọn lấy những hạt ngọc.” Câu nói của thầy đi vào trí nhớ tôi, ở yên đấy cho tới khi tôi thấy mình đứng trước những lựa chọn thì ngộ ra sự khôn ngoan thầy truyền dạy.

Thời thơ ấu ở Huế, tôi cũng thuộc nhiều thơ của Hàn Mặc Tử, “Trời hỡi làm sao cho khỏi đói? Gió trăng sẵn có, làm sao ăn?” Hai câu thơ lặn sâu trong trí nhớ cho tới khi tôi bắt đầu chương trình đi bộ mỗi ngày 45 phút, vừa để thư giãn, tái tạo, bồi bổ năng lượng, cơ thể được hoạt động, vừa để có chút thời gian “thưởng thức hương thơm của cuộc đời” như lời thầy tôi dặn: hương thơm của những bụi hồng ngoài hiên, của bình trà gia đình hàng xóm vừa pha sau bữa cơm chiều; của gói mì ăn liền, một người cha, người mẹ hay người con đi làm về muộn nấu vội cho mình; của cái máy giặt đang nhả khói thơm mùi xà bông trong gara ngôi nhà bên đường; của mái tóc một thiếu nữ trẻ tuổi bước nhanh qua mặt tôi, có lẽ trên đường đi đến chỗ hẹn với người yêu…

Đến đây, tôi chợt có câu trả lời trễ tràng cho nhà thơ họ Hàn và cảm thấy xót xa ông hơn. Có hôm, con đường tôi đi dài theo bờ sông Santa Ana, dù nước không đầy lòng sông xi măng nhưng không gian trên đầu và xung quanh tôi thoáng đãng, gió mát lùa giữa hai kè đá thoải sạch sẽ và trăng non như một nét mày thanh tú hay trăng già tròn vo như cái đĩa ngọc treo ở chân trời, tha hồ cho tôi ngậm miệng hít vào những hơi dài, cảm thấy no nê bằng ngũ quan, không nhai nhưng nuốt đầy thần trí và căng buồng phổi nguồn sinh lực mới.

Người thầy thứ hai dạy tôi bài học khác là thân mẫu một người bạn thiết. Cụ thọ ngoài chín mươi, tướng mạo tươi tốt, dáng đứng thẳng băng. Cụ cười, nói với con cháu và bạn bè của chúng đến chơi nhà: “Chao ôi, cuộc đời biết bao nhiêu cái đẹp đẽ thế này mà bà phải đi, không được sống thêm để an hưởng, thật tiếc quá!” Tôi ngẩn người trước tinh thần lạc quan yêu đời của cụ.

Ngày còn bé, linh cảm về hạnh phúc của tôi ở tuổi lên bẩy, lên tám là vài khi thấy mẹ tôi buồn ngủ ríu cả mắt giữa trưa hè râm ran tiếng ve sầu trong khu vườn rộng vắng, bà vừa cầm cái quạt mo phủi quèn quẹt một chỗ trên sàn xi măng xám, đủ cho bà ngả lưng, vừa nói với tôi líu cả lưỡi: “Ui dào, được chợp mắt cái, thích quá!” Hạnh phúc và cách bộc lộ của mẹ tôi thật giản dị nhưng xem ra những giây phút ấy không nhiều. Dường như thảng hoặc những lần ngủ ngày chốc lát chỉ có hai mẹ con với nhau như thế, bà phải lấy trộm chúng từ gia nương bận rộn, bề thế của bố tôi, phải trả lại những giờ khuya khoắt để công việc vẫn đâu vào đấy trong một ngày, không có tâm trạng thảnh thơi và phong cách an nhàn như cụ thân mẫu bạn tôi.

Được biết cụ góa chồng sớm, một mình tần tảo gánh gia đình thời còn trẻ. Hai lần di tản, khi về già ở quê người, cụ cũng có lúc đau nhức mình mẩy nhưng không bao giờ nghe cụ thở than. Con cháu đứa nào rảnh rỗi, chở cụ đi chơi, vãn cảnh đó đây, cụ rất vui. Tiệm ăn nào mới mở, tiếng đồn có món ngon, cụ theo con cháu đến thưởng thức. Cụ luôn có nụ cười trên môi và lời nói ân cần với mọi người. Một hôm cụ bảo tôi: “Tôi làm món thịt bò xào cần ngon lắm, cô đến ăn cơm với các cháu nhé?” Tôi tới theo hẹn. Các thứ cần dùng để nấu nướng món ăn đã chuẩn bị tinh tươm sẵn trên mặt bàn. Cụ lăn xe gần vào bếp lò, hướng dẫn chị giúp việc từ lúc bắc chảo lên bếp, phi dầu với hành tỏi cho thơm, xào rau cần nhanh tay theo công thức “cần tái cải nhừ” rồi sau cùng xào thịt bò đã ướp sẵn. Chảo xào dậy mùi thơm lừng lẫy trong khi quạt hơi ở nhà bếp hoạt động hết công suất. Cơm dọn ra, có cả món thịt quay chọn rất khéo của ông trưởng nam gửi về để mẹ đãi khách và gia đình các em, các cháu. Cụ không ăn mà lăn xe đến, ngồi vào bàn, nhìn mọi người ăn uống với đôi mắt tinh anh, ấm áp tình cảm. Đĩa thịt quay tuy trông rất ngon nhưng vẫn y nguyên. Cụ cười tươi như hoa, nói đùa: “Món của tôi ngon hơn thịt quay, phải không? Mua phí tiền!”

Một tuần sau, tôi được tin cụ quy tiên. Các cháu kể lại: “Nửa đêm bà thức giấc và muốn uống nước. Bà chỉ trở mình vài lần rồi ngủ giấc nghìn thu. Nhẹ nhàng. Yên ả. Như chiếc lá cuối đông rời cành về với đất.”

Từ đấy, bên tai tôi thường văng vẳng tiếng cụ lẫn vào hình ảnh đôi môi mỉm cười: “Chao ôi, cuộc đời với bao nhiêu cái đẹp đẽ thế này mà mình không được sống để hưởng…” Ngay cả sự tiếc nuối, nếu quả thật là thế, đối với cụ cũng đượm nét an hòa. Ngay cả sự ra đi gần kề, cụ cũng bình tâm đón đợi, như người vừa nhẩn nha nhấm nháp tách cà phê thơm, vừa lắng nghe tiếng chim hót ngoài cửa sổ, tiếng trẻ thơ bi bô dưới mái nhà. Nhờ cụ, tôi thấm ngấm ca từ trong bản nhạc của Trịnh Công Sơn, có một lúc, tôi thấy nó vô duyên và nhà quê: “Tôi là ai mà yêu quá đời này?”

Bây giờ, có lúc tôi cảm thấy trong tôi rạt rào ý muốn kêu lên như ông khi tôi đã quen lắm với lời thầy tôi dặn dò: “Hãy nhặt lấy những hạt ngọc, hãy đón lấy những hương thơm.” Cuộc đời bỗng dưng đẹp ở những mắt nai bé thơ, ở những cung đàn muôn điệu ru hồn người, ở đôi tình nhân cầm tay nhau đi dưới hàng cây trong công viên, ở những cửa hàng hoa rực rỡ, thắm tươi bên hè phố, ở ngay cây chanh sau vườn nhà tôi bông nở trắng xóa, chi chít quả non vừa đậu, ở thương yêu có chút vụng về nơi ông bố trẻ cho con bú bình giữa một tiệm ăn đông khách, ở bàn tay người y tá cẩn thận nâng ly nước vừa tầm uống của một bệnh nhân không còn khả năng tự lo liệu cho mình…

Ôi, bút giấy nào kể hết vẻ đẹp của thế gian này? Tất nhiên cuộc đời cũng có những quy luật khắt khe, là cái giá phải trả cho nhiều điều khác. Biết thế và biết ứng xử, như thầy tôi, như cụ thân mẫu bạn tôi, để chân bước đi trong càn khôn nhẹ nhõm, để túi lúc nào cũng rủng rỉnh, leng keng mấy đồng xu hạnh phúc, để ly rượu uống chậm say đắm đến giọt cuối cùng. Vẫn hơn là cứ phải ép mình nghĩ đời là bể khổ.

Người tu khổ hạnh mong được niết bàn mà quên niết bàn không ở đâu khác, trái lại, sẵn có trong tâm lành. Thượng Đế tạo sinh con người với cả hai khả năng khổ đau và hạnh phúc, cho con người có tự do lựa chọn, vì sao con người tự đặt ra luật lệ, tự tìm kiếm cực hình để giam hãm, đày đọa mình trong ngục tù khổ đau (vô ích) thay vì chắp cánh cho mình bay cao, vượt thoát những giới hạn trầm luân ấy? Nỗi đau dài ba, bốn thập kỷ không còn là nỗi đau với cường độ ban đầu nữa mà chỉ còn là ý niệm, là cái vỏ rỗng đã khô ruột, là hồn ma bóng quế ám ảnh, là hình dung từ vẽ vời của ngôn ngữ như một món trang sức làm đẹp của văn chương. Đừng quạt mãi những hòn than đã lịm tắt trong nước mắt mình rỏ mãi vào đống tro tàn. Đừng chốc chốc quen tay châm ít giọt dầu nếu không thể gây nên đám cháy lớn cho phượng hoàng bước ra từ lửa đỏ.

Sau hết, di sản to lớn thứ hai của Stephen Hawking là “Theory of Love” được thể nghiệm qua cuộc đời dài của ông, bắt đầu từ tình yêu bản thân, nghe qua chừng như nghịch lý nhưng thực sự, từ đây, con người luận ra sự đền đáp là tố chất không thể thiếu để tình yêu được mãi xanh tươi.

Bùi Bích Hà
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeMon Jul 02, 2018 5:20 pm

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Thuyennhan101
Ðài Tưởng Niệm Thuyền Nhân ở Westminster, California

Dặm trường lưu lạc
Bùi Bích Hà


Vượt thoát ách Cộng Sản bằng nhiều cách và định cư ở nhiều quốc gia ngoài lãnh thổ, khối người tỵ nạn lưu vong vừa hoàn hồn thì đã bắt đầu thao thức, lo âu, về việc làm sao bảo toàn nguồn gốc và bản sắc dân tộc trên hành trình hội nhập hướng về tương lai?

Khá sớm sủa, sau khi việc mưu sinh tạm ổn định ở quê hương mới, các nhà giáo Việt Nam lập tức như chim gọi bầy, bớt chút thời giờ eo hẹp của mỗi người, cùng nhau thành lập hội ái hữu cựu giáo chức để bàn tính công việc tìm kế hoạch duy trì và bảo tồn tiếng Việt, được xem là căn cước của cộng đồng tỵ nạn trên bước đường di tản để không thất lạc nhau.

Trải qua hơn ba thập niên, với con tim đau đáu tình yêu nước, với ý chí kiên cường quyết tạo lập và gìn giữ tiếng Việt, văn hóa Việt cho một phần nước Việt ngoài biên cương đất tổ, các nhà giáo lưu vong cũ/mới, già/trẻ từ nơi trú ngụ của mỗi vị ở khắp các địa phương có sự hiện diện của người Việt, tại Hoa Kỳ cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, đã cùng nhau liên kết trong một nỗ lực chung nhằm bảo tồn và phát huy tiếng Việt.

Công việc trước tác, dịch thuật nở rộ trong lãnh vực biên khảo và văn học, thổi bùng hoạt động in ấn, phát hành sách báo đủ loại trong suốt những thập niên cuối thế kỷ 20.

Bên cạnh đó, âm thầm và bền bỉ hơn, phong trào thành lập các trung tâm dạy và học tiếng Việt lan tỏa cùng với sự lớn mạnh của cộng đồng do các thầy cô giáo chuyên nghiệp và chưa chuyên nghiệp tình nguyện đảm trách, hoạt động cuối tuần tại trường lớp mượn của học khu địa phương hoặc của các cơ sở tôn giáo trong vùng.

Tổ chức có tính cách tự nguyện lúc ban đầu, với thời gian, đã dần dần đi vào hệ thống qua nỗ lực không ngừng của các nhà giáo yêu nước và sự hưởng ứng nồng nhiệt của phụ huynh.

Đầu thập niên 1980, các trung tâm Việt ngữ lần lượt ra đời, sinh hoạt ngày càng quy củ hơn, thực hiện thế đòn bẩy qua nhiều cuộc thi có thưởng hàng năm để, thông qua các bậc cha mẹ, khuyến khích con em yêu và học tiếng mẹ đẻ. Đáng khích lệ hơn cả là những khóa tu nghiệp sư phạm cũng đồng thời được Hội Giáo Chức tổ chức hàng năm tại California, nơi có đông người Việt di tản nhất. Các thầy cô giáo trẻ từ khắp các tiểu bang nước Mỹ, bằng phương tiện riêng, đã nhiệt tình rủ nhau về Cali tham dự, con số có năm lên tới cả trăm người. Họ được các nhà giáo chuyên nghiệp trao truyền kỹ năng sư phạm trong giảng dạy tất cả các bộ môn khoa học và văn sử, bao gồm việc soạn giáo trình, nghệ thuật đứng lớp, khả năng chuyển lửa để hâm nóng một môn học ít nhiều bị nguội lạnh nơi xứ người…

Phải khách quan nhìn nhận đây là một công trình to lớn của tập thể người Việt tỵ nạn trong tình cảnh nước mất nhà tan, dầu sôi lửa bỏng, nhờ công đầu của một số nhân vật nổi bật trong và ngoài hàng ngũ giáo chức cũ và mới mà tôi còn nhớ tên (vô vàn tạ lỗi về mọi sự sai sót do ký ức khiếm khuyết) gồm các nhà giáo Lưu Trung Khảo, Dương Ngọc Sum, Phạm Văn Quảng, Phạm Quốc Bảo, Phạm Quân Hồng, Nguyễn Đình Cường, Nguyễn Song Thuận, Cao Minh Châu, Phạm Thị Nga, Nghiêm Thị Hiếu, Vũ Ngọc Mai, luật sư và bà Nguyễn Quang Trung…

Tôi đặc biệt ca ngợi cô Chiêu Loan trong vai trò ủy viên liên lạc giữa nhà trường và phụ huynh trường Trung Học Westminster đầu thập niên 1990, ông Hùng, chủ tịch Hội Phụ Huynh tại đây, bà Lành (phụ huynh nay đã qua đời). Cả ba vị trong thế chân vạc đã huy động mọi khả năng có được trong ba năm để tranh đấu đưa tiếng Việt vào chương trình giảng dạy chính thức, có tính điểm, của trường Westminster thời gian đó.

Mặc dầu kế hoạch đạt thành tựu khiêm nhượng lúc bắt đầu vì dự án thiếu giáo viên song ngữ được đào tạo chính thống nên không thu hút được học sinh, cô Chiêu Loan phải rời bỏ nhiệm sở vì áp lực nhưng thành quả cô để lại vẫn tiếp tục và hoàn thiện, mở đường cho các trường lân cận. Đã lâu lắm tôi không gặp lại cô để thăm hỏi, chỉ biết cô về trường La Quinta là cơ sở thứ hai có chương trình dạy tiếng Việt sau Westminster High.

Hồi đó, nhóm tranh đấu của cô Chiêu Loan đã nhìn xa, thấy rộng, phối hợp với Tiến Sĩ Nguyễn Lâm Kim Oanh trong kế hoạch đào tạo giáo viên song ngữ tại Đại Học Long Beach, tiếc rằng tiến độ của hai chương trình thiếu nhịp nhàng nên gây trở ngại ở khâu giảng dạy. Sau đó, Tiến Sĩ Nguyễn Lâm Kim Oanh lập gia đình rồi dời cư qua tiểu bang Virginia. Quận Cam mất một thành viên quan trọng trong chiến dịch đem tiếng Việt vào nhà trường Mỹ.

Song song với các dự án quy mô như nói ở trên, thế hệ thứ nhất nhập cư già đi, trở thành ông bà nội/ngoại và cộng đồng có được một lực lượng thầy cô giáo không qua huấn luyện trường lớp song đầy đủ phẩm chất để dạy các cháu tiếng Việt bằng vốn liếng phong phú từ ca dao, đồng dao, thơ, bài hát, truyện cổ tích lấy từ Quốc Văn Giáo Khoa Thư và trí nhớ của ông bà.

Thế hệ một rưỡi sau thời gian hòa tan vào cái “melting pot” khổng lồ của nước Mỹ, thấy ra họ không thể đánh mất chính mình trong ảo tưởng trở thành một người khác hay hơn, đẹp hơn, đáng sống hơn nên lại hối hả quay về nguồn, tập nói lại cái ngôn ngữ vốn là mối giây duy nhất cột buộc họ với thâm tình máu mủ, với một tổ quốc, dẫu sao, vẫn cho họ niềm tự hào. Hóa ra định luật tự điều chỉnh trong vũ trụ như cái đồng hồ đã lên giây thiều, tự nó sẽ vận động quay hết những vòng quay của nó.

Đã qua rồi sự hốt hoảng ban đầu, lo sợ con em chúng ta sẽ không còn đọc được, nghe được, viết được tiếng Việt nữa và rồi chúng sẽ quên hết nguồn cội và tâm tình của người Việt, nay tới giai đoạn phải trả lời một câu hỏi khác, quan trọng hơn: Con em các thế hệ sau sẽ đọc gì?

Kỹ nghệ tin học phát triển liên lục địa. Kỹ nghệ du lịch mở cửa đến những chân trời xa xôi nhất. Thời đại trao cho con người khả năng tiếp cận, thẩm thấu, thậm chí sở hữu cả thành quả trí tuệ của nhân loại trên khắp địa cầu. Văn chương. Nghệ thuật. Khoa học. Khảo cứu. Cả cái gia tài nhân văn khổng lồ của loài người thu gọn trong mấy cái mặt phẳng điện tử lớn bé trong mỗi ngôi nhà, tha hồ đọc, tha hồ thưởng thức, tha hồ thu hoạch vượt thời gian và không gian. Thế nhưng có một thời khoảng lịch sử của đất nước tôi, dân tộc tôi, vừa bi tráng, vừa đau thương, khiến ít nhất năm triệu người Việt phải liều chết bỏ xứ ra đi mà cho tới nay, sau gần nửa thế kỷ soi bóng bên này mấy đại dương, vẫn chỉ thấy mây che trên đầu và khói sóng phủ mờ đường về. Đó đây có những công trình thu góp những mảnh đời luân lạc dưới hình thức tài liệu lịch sử truyền khẩu, của nhóm VAHF với bà Nancy Bùi, của Thư khố Đông Nam Á Đại Học UCI với nhóm giáo chức trẻ, bà Thúy Võ Đặng, bà Linda Võ… nhưng toàn bộ lịch sử cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc ngày 30 Tháng Tư, 1975, được viết trung thực bởi một sử gia chuyên nghiệp người Việt để “giải oan cho cuộc bể dâu” này thì đến nay chưa thấy xuất hiện.

Nhìn chung, trong cuộc sống mang ý nghĩa “sống còn” hiện nay đang bị thời gian xoi mòn, tâm thức lưu vong trong chúng ta mờ nhạt dần để chỉ còn lại hai chữ tha hương với ít nhiều ngậm ngùi cam chịu. Trong chiến dịch tranh cử năm 2018 đang diễn ra quanh đây, một ứng cử viên tranh ghế nghị viên thành phố Westminster đã ghi nhận qua một cuộc phỏng vấn truyền hình, hai điều:
- Chúng ta cần người Mỹ hiểu mình.
- Con em chúng ta không biết gì về cuộc chiến tranh Việt Nam và những nỗi khổ của cha mẹ.

- Có lẽ người Nhật thời hậu chiến tranh có cách biểu lộ khác chúng ta để cả thế giới hiểu họ, không riêng người Mỹ. Họ thể hiện tinh thần yêu nước và cái đẹp trong nỗ lực quyết tâm tái tạo một nước Nhật bị chiến tranh tàn phá, họ thành công đem dân tộc họ đi lên từ tro tàn để được cộng đồng hoàn vũ kính nể. Họ thật lòng. Chúng ta đã làm gì để người Mỹ hiểu? Tôi ao ước người Mỹ đừng hiểu gì cả khi nhìn vào cái cách chúng ta thể hiện cuộc sống của chúng ta trên đất nước họ tuy từ đáy lòng, tôi vẫn có sự vui mừng và biết ơn những cá nhân người Việt đã sáng chói riêng mình, giúp người Mỹ hiểu đúng những gì cần hiểu về dân tộc tôi.

- Nếu phải giải thích sự thật trong câu: “Con em chúng ta không biết gì về cuộc chiến tranh Việt Nam và những nỗi khổ của cha mẹ,” phụ huynh trong mỗi gia đình Việt Nam sẽ có suy nghĩ nào và sẽ nói gì? Chúng ta quá bận rộn về sinh kế nên không có thời giờ trò chuyện với con? Thay vì nói về nguyên nhân cuộc trốn chạy, lý tưởng chúng ta mang theo khi tới đây, là bài học lịch sử vỡ lòng và sống động để khơi gợi cho con tình yêu nguồn cội và lòng tự hào dân tộc, chúng ta kể lể quá nhiều về những hy sinh và sự lam lũ của cha mẹ như một ơn huệ các con phải ghi lòng tạc dạ, khiến chúng không muốn nghe? Hay là chúng ta sẵn ghét hơn thương nên mải cấu xé nhau, hận thù và muốn loại trừ nhau vì tư kiến bất đồng, quyền lợi cá nhân mâu thuẫn, chẳng khác gì tự chặt bỏ tay chân mình, đả phá nhiều hơn xây dựng? Hỏi tức là trả lời.

Cũng trong cùng cuộc phỏng vấn, một nhà giáo dục phát biểu: “Dự luật này (SB 895) sẽ tạo cơ hội để viết lại lịch sử?” Giả dụ mọi việc trên đời đều do nhân duyên mà thành thì nhân duyên trong trường hợp này là gì? Một ngân khoản để bắt đầu? Một tiếng cồng chiêng để khua động hoàng hôn? Một tâm thái chuyển dịch, thôi chờ mong phương nọ, ngóng phương này?

Động lực chính cao nhất sẽ không là gì khác hơn tấm lòng yêu nước luôn sôi sục ở các sử gia còn nhiều tâm huyết để tự mình ngồi thẳng lưng, bấm một ô đầu tiên trên bàn phím, từ đấy sẽ mở ra con đường đưa tới hình thành một cuốn Sử Việt Nam trung thực, viết bởi những tấm lòng Việt Nam yêu nước chân chính.

Và, con em chúng ta nhiều thế hệ sau sẽ đọc, sẽ hiểu những điều bây giờ chúng chưa hiểu. Đấy chẳng phải là mục tiêu nhắm tới của mọi nỗ lực bảo tồn tiếng Việt như một phần câu nói của học giả Phạm Quỳnh: “Tiếng Việt còn, nước Việt còn,” hay sao?

(Bùi Bích Hà)
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSun Jul 08, 2018 8:46 pm

.


Kiến tánh thành Phật
Bùi Bích Hà


Giữa Tháng Năm, lịch sinh hoạt của Viện Việt-Học loan báo có buổi nói chuyện của Bác Sĩ TXN từ miền Đông về, với chủ đề “Kiến Tánh Thành Phật.” Tôi hơi tò mò nên thu xếp thời giờ đến nghe.

Giọng nói dõng dạc, rắn rỏi, thỉnh thoảng điểm chút hài hước nhưng diễn giả có vóc dáng nhỏ nhắn, thanh mảnh, đôi mắt sáng. Ông mở đầu phần thuyết giảng nhanh chóng, gọn ghẽ, bằng một ngôn ngữ đời thường giản dị, dễ hiểu. Ông nói: “Những gì tôi trình bày chỉ có tính cách gợi ý. Phần thảo luận theo sau mới là chính và quan trọng vì nó đào sâu vào chủ đề.”

Tôi chăm chú lắng nghe, ghi nhớ đại khái: tánh (hay tánh khí) một người gồm hai phần, di truyền (hay bẩm sinh) và tập thành (do giáo dục, môi trường, kinh nghiệm sống gom góp từ thực tế.) Di truyền hay bẩm sinh cộng với duyên nghiệp tích lũy qua nhiều kiếp, nhiều thế hệ nên có khi cha mẹ hiền lành mà con cái hung dữ và ngược lại. Vì thế, dân gian có câu “Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính.” Điều gì con người không giải thích được thì đổ cho ông Trời tuy cụ Nguyễn Du từng hạ bút viết rõ ràng, “Có Trời mà cũng có ta.”

Lý thuyết Phật Giáo tin có luân hồi và nghiệp chi phối cuộc sống hiện tiền của chúng sinh. Muốn chuyển nghiệp thì phải đổi tính khí. Muốn đổi tính khí thì phải sáng suốt, ra khỏi vô minh (ra khỏi chính mình vốn là cái bóng to nhất trùm phủ đời người) mới thấy được cái cần đổi ở tự ngã để thay đổi. Chuyện này không dễ. Chẳng thế mà dân gian truyền miệng câu “Sông núi dễ dời, tánh khí khó đổi.” Nói sông núi dễ dời là so với tính khí con người chứ câu chuyện nương dâu biến thành biển mặn đâu phải lúc nào cũng thấy!

Câu “Kiến Tánh Thành Phật” chỉ có bốn chữ nhưng thâu tóm trong chúng cả một quá trình tu tập vận dụng không ngơi nghỉ tất cả sức lực và trí lực, cả những trải nghiệm để lại hậu vị chua cay của một con người cho đến khi mở được tuệ giác, đồng thời với buông bỏ, thấy mình vượt qua cái “tôi” nhỏ nhoi và tan vào mênh mông đại ngã. Không vui. Không buồn. Không có. Không không. Không còn. Không mất. Không đầy. Không vơi. Không lớn. Không nhỏ. Không nhiều. Không ít. Không chìm. Không nổi. Trôi êm đềm trên trên một giòng sông trong trẻo, không gợn chút ưu phiền.

Con đường tu chừng như khó nhưng không khó vì nó không là con đường độc đạo. Không nhất thiết mọi người phải cùng đi một con đường mà nó rộng hẹp khác nhau, hệt như tấm áo chùng của các bậc giáo sĩ hay tăng lữ, nhiều màu sắc/kích cỡ/kiểu dáng cho hành giả chọn lựa, có không gian cho mọi cử động để ai cũng thoải mái chưa kể y phục đời thường cho cư sĩ tại gia, cho bậc tu hành khi nhập thế hành đạo.

“Kiến tánh” thì có gì khó? Xem ra ai cũng tự cho là “rất hiểu mình.” Cái “ngã” to tướng bên trong mỗi con người thường lên tiếng: tôi tử tế, tôi thông minh, tôi tài ba, tôi hay, tôi đúng, tôi hơn hẳn mọi người, tôi xứng đáng được xưng tụng… Tôi soi gương, cái gương bảo kiểu áo tôi mặc sang trọng nhất, kiểu tóc tôi chải đẹp nhất, dung nhan tôi có thanh lịch nhất…

Ai nói ngược lại những gì tôi thấy, Tôi nghĩ, hẳn là kẻ thù của tôi, không là bạn, thật đáng ghét. “Ai” ở xung quanh đâu chỉ có một nên cái ghét sẽ triền miên. Để chống lại, Tôi xây thành lũy, pháo đài, ngày càng kiên cố, giam mình vào trong để “tự sướng.” Không chỉ vậy, tôi đi tìm những tiếng nói đồng tình, thậm chí mua chuộc, tự cột vào mình thêm cái giả và cái giả ngày càng chồng chất, cái thật ngày càng xa.

Nên “kiến tánh” không dễ. Phật dạy: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành.” Câu nói ấy không ngoa ngôn, không dẫn dụ. Câu nói ấy là sự thật miên viễn, cất lên từ nhận thức đúng nhất để giải thích kiếp người; từ sự thể nhập toàn vẹn của tự ngã vào vô ngã, của hạt bụi nhỏ tan trong đất trời bao la; từ sự khiêm nhượng thấy mình bé lại cho tha nhân lớn lên.

Cái khó của con đường đi tới sự thật trong lời Phật dạy càng khó thêm khi nó được truyền thừa bằng ngôn từ kinh điển, trừu tượng và phức tạp nên khó nắm bắt, nhất là con người sống vội vã. Để làm chậm lại tốc độ cuộc sống hầu mọi người có chút thời gian suy tư, quán tưởng, như bát nước cần ngưng xao động để lắng cặn, chúng ta học Phật, bảo nhau ngồi thiền theo kiểu lý lịch trích ngang, quên rằng chúng ta không khởi hành ở cùng điểm xuất phát như Phật.

Phật ngồi thiền trong hang động hay dưới cội bồ đề khi Phật đã tỉnh thức mà buông bỏ hết, cái tâm sạch trơn. Là đất đã cày vỡ, được tưới tẩm cho mùa màng mới. Ngày nay chúng ta ngồi thiền giữa ngổn ngang vọng niệm, trì kéo do vật dục, có chỗ nào trong tâm để tu đức phát sinh hoa trái? Ráng sức cho lắm, tập chú quá độ mà không tới đâu sinh ra ảo giác, nôm na gọi là tẩu hỏa nhập ma.

Nhớ lại thuở bé, ban đầu cha mẹ dạy đếm từ 1 tới 10. Tiến bộ hơn một chút, cha mẹ dạy đếm ngược lại, từ 10 xuống 1. Không có đứa trẻ bình thường nào có khả năng đếm ngược khi chưa biết đếm xuôi. Học thiền cũng vậy, kinh nghiệm riêng của kẻ hèn này là bắt đầu từ gốc tới ngọn. Lúc tâm đã tịnh, ly nước đã trong trẻo, cái “thấy” sẽ dễ dàng hơn.

Nói đến kinh nghiệm riêng, tôi xin phép chia sẻ con đường tu thân giản dị nhất tôi đã đi được một khoảng ngắn. Tất nhiên mỗi người chúng ta đều có một cơ duyên bắt đầu khác nhau tùy thuộc cảnh ngộ nào tới với mình, mang theo nó bài học vỡ lòng.

Bước vào tu tập, chúng sinh được dạy buông xả trong khi bản năng sinh tồn thúc đẩy lòng tham: lấy vào càng nhiều càng tốt và ôm chặt những gì mình sở hữu. Cuộc chiến không đồng cân lượng này rất khó thắng nên dầu biết buông xả thì nhẹ thân nhưng mấy ai làm được? Dẫu thuộc lòng câu kệ “sắc tức thị không” nhưng cái sắc vẫn cầm chân con người vì sự hào nhoáng của nó, cái Không vẫn khó chấp nhận vì cảm giác không còn gì trong hai tay.

Bài học đời cho tôi dễ thực hành hơn nhiều: tình thương. Như trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư, “Thương người như thể thương thân.” Trong quý vị độc giả, sẽ không ít vị kêu lên: ta và người, làm sao mà như thể được?

Thưa, được chứ, vì có một điểm chung: thân phận. Ai trong chúng ta không đi qua con đường sinh, lão, bệnh, tử? Ai trong chúng ta tránh được mất mát, đau thương, phiền não, lúc này lúc khác trong đời? Kẻ sang người hèn, kẻ cao người thấp, có thể có ưu tiên khi lọt lòng mẹ nhưng đường đời phải đi đến chung cuộc sẽ chẳng khác gì nhau, trong nỗi thống khổ và ngay cả trong niềm hạnh phúc, những thứ thoắt hiện, thoắt biến, khôn lường.

Định kiến “làm sao mà như thể được” là nguyên cớ đưa đến ngã mạn, coi rẻ người khác, tự cô lập mình trong ảo tưởng, cuộc sống thu gọn lại trong khung thời gian vật lý hạn hẹp, tay trắng lúc nào đâu có hay?

Thấy được ta trong người và người trong ta là bước đầu của buông xả, của cảm thông, của tình thương, của đem cho, của hòa nhập cái nhỏ vào cái lớn, của niềm vui nhân rộng lên, của buồn đau tan loãng đi, của sức mạnh tăng trưởng đến không ngờ. Như một ca từ của Trịnh Công Sơn: “Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ!” Từ tình thương đến buông xả chỉ là cái động của đôi cánh bướm.

Cách nay 2,500 năm, Đức Phật Thích Ca, hậu thân của Thái Tử Tất Đạt Đa, con trai vua Tịnh Phạn xứ Ca Tỳ La Vệ, khi xả thân đi tìm chân lý để khả dĩ có câu trả lời cho sự bí ẩn của sinh mệnh, đã thể hiện trọn vẹn các tiêu chí cao quý nhất mà mọi cuộc cách mạng chân chính trong lịch sử loài người, cho tới nay, vẫn mãi kêu đòi: công bằng xã hội, tự do tư duy, bác ái để hợp quần, độc lập trong bản thân, quyền phán xét và tự quyết cá nhân, quyền không bị hiếp đáp.

Cuộc cách mạng của Phật đổ mồ hôi, không đổ máu, xây dựng một triết lý nhân sinh tích cực, không xây dựng lãnh tụ, hướng tới sự hình thành một xã hội nhân bản lấy hạnh phúc của con người làm phương châm.

Cuộc cách mạng của Phật bắt đầu từ cuộc cách mạng nội tâm nơi mỗi con người dựa vào niềm tin và sức mạnh tự thân, không a dua lôi kéo đám đông, thuyết phục nhưng không mông mị, không dùng bạo lực mà cổ võ tri thức, chống lại mọi hình thức tế lễ mê tín chủ trương kêu cầu các thần lực vô hình ban phước, ban lộc…

Con người là vũ khí của chính mình để khám phá và khai phá, trong đó có cả những tầng nội tâm u ám để “kiến tánh,” nghĩa là nhìn thấu suốt bản lai diện mục và khiêm nhượng hoàn thiện nó. “Biết mình biết người, trăm trận trăm thắng.”

Trận thắng lớn nhất là làm chủ được một phần định mệnh bí ẩn của đời người trong khả năng mình. Không biết từ đâu đến trong cuộc đời này và sẽ đi về đâu sau cuộc đời này, tại sao sống, tại sao chết nhưng có lẽ mỗi chúng ta đều có thể trả lời đã chủ động dùng khoảng thời gian giữa hai cực bí ẩn kia như thế nào?

Hậu sinh tôn vinh Phật, đặt ngài lên tòa sen ngự trị Tam Bảo để Phật tử thờ lạy nhưng chỗ thật nhất của Phật là trong tâm mỗi chúng sinh. Phật là con đường đồng hành với những ai tìm kiếm điều Phật tìm kiếm 2,500 năm trước. Là hạt giống của từ bi và hoan lạc gieo rắc trong thinh không bao la, thời gian vô tận, nhờ cơn gió duyên nghiệp mà đậu lại đó đây, cũng do duyên nghiệp mà cho mùa màng hoa trái hay thui chột.

Sau cùng, “kiến tánh” dù không thành Phật thì cũng giúp mỗi người vì “biết” mình nên không trách người và sống an vui với bản thân.

Bùi Bích Hà

.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeFri Jul 13, 2018 2:08 pm

.

Áo cài khuy bấm
Bùi Bích Hà

March 7, 2018

Đã lâu lắm, có một lúc tôi mê mải xem bộ phim Đại Hàn nhiều tập có tên là Đại Trường Kim. Truyện phim không có gì mới mẻ, xoay quanh các bi kịch thuộc loại thâm cung bí sử, nhiều tình tiết éo le, thường xảy ra bên trong hậu cung các vương triều Á Đông, có nguyên do sâu xa từ tham vọng cá nhân, ganh ghét phe phái hoặc mưu đồ tranh đoạt địa vị quyền lực.

Tuy vậy, cuốn phim làm tôi say mê theo dõi không dừng được trong điều kiện thời gian rất eo hẹp mà tôi phải chia sẻ giữa nhiều trách nhiệm đòi hỏi sự chu toàn từng ngày, trước hết bởi diễn xuất của dàn tài tử nam nữ, phong cách, tinh tế, nhuần nhuyễn, thu hút. Thứ đến là ngoại cảnh với cỏ cây, hoa lá, thiên nhiên tuyệt đẹp. Thứ đến nữa là y trang Hàn Quốc, trong ngoài gọn ghẽ, đẹp mắt, phái nam vừa có dáng trượng phu, vừa gợi cảm và lãng mạn nhờ ánh sáng lọc qua vành nón rộng làm cho khuôn mặt họ có chút mờ ảo lẫn vào các giải mũ phất phơ bay. Sau cùng, điểm then chốt, là những mối tình lý tưởng trong phim. Lý tưởng thế nào, xin hẹn một bài khác vì bài cho thứ năm tuần này, tôi chỉ muốn đề cập đến vài nét của Thế Vận Hội Mùa Đông PeongChang vừa diễn ra tại tỉnh Gangwon, Nam Hàn, trong hơn hai tuần lễ, từ ngày 9 đến ngày 25 Tháng Hai, 2018.

Tin tức truyền thông cho biết Thế Vận Hội Mùa Đông lần thứ 23 kỳ này có tiêu đề “Chuyển động trong hòa bình,” có lẽ là lời cầu chúc an lành cho tình hữu nghị giữa hai miền Nam Bắc Triều Tiên hứa hẹn sẽ nồng ấm trở lại thông qua tinh thần thể thao được thắp sáng bằng ngọn đuốc Thế Vận rực rỡ giữa bầu trời băng giá. Tất nhiên tự đáy lòng vẫn còn âm ỷ thương tích, nghĩ về giòng sông Bến Hải một thời cưa đôi Việt Nam ở vỹ tuyến 17, mở màn biết bao cảnh ngộ thương đau cho dân lành hai vùng Nam Bắc, tôi chân thành muốn được góp lời cầu nguyện cho một Triều Tiên thống nhất và làm chủ vận mệnh đất nước của họ. Chính trị vốn là những điều không dễ hiểu, dễ chấp nhận cho người đứng ngoài cuộc cờ nên tôi ít bận tâm về khía cạnh này của thế vận hội mà chỉ thú vị chọn ra đôi ba nét nhân sinh gần gũi với cuộc sống bình thường của con người để ngẫm nghĩ và vui lấy mình.

Phải nói ngay là Nam Hàn đã chi tiêu khá mạnh tay để chuẩn bị cách tốt nhất các cơ sở vật chất phục vụ cho các vận động viên tham dự thi đấu và cả khán giả trên các khán đài lộ thiên trong thời tiết lạnh đến mức tuyết không rơi được. Lễ khai mạc được thiết kế với các ứng dụng công nghệ cao, phối hợp ánh sáng, âm nhạc, vũ điệu, y trang với ảnh chụp không gian ba chiều cùng những trải nghiệm thực tế ảo trên một sân khấu lộng lẫy, hoành tráng. Thỉnh thoảng, pháo bông để rơi trong không gian mờ tối những đợt mưa hoa ngũ sắc, lóe lên rồi lả tả tàn rụng vội vàng. Một đoàn những người đàn ông Hàn Quốc mặc quốc phục truyền thống như thường thấy trong các phim truyện, đi diễu hành trong vận động trường và tôi không biết phải gọi họ bằng gì, hiệp sĩ hay võ quan? Khán giả thưởng thức vẻ đẹp của họ trong một hoạt cảnh sống động pha trộn lịch sử một Hàn Quốc cổ xưa và nền văn minh hiện đại xung quanh họ.

Một nữ ca sĩ rất trẻ, trang điểm nhẹ nhàng, khuôn mặt đẹp như thiên thần, nụ cười thật tươi, hát đơn ca với dàn nhạc đại giao hưởng. Cô mặc chiếc áo dạ hội bằng hàng ren màu hoa hồng Brigitte, là sự kết hợp giữa thời trang Hàn Quốc và Tây phương, thanh nhã, mềm mại, tươi tắn giữa mùa Đông dường như bớt khắc nghiệt vì cô xuất hiện mang theo sự nồng ấm trong mắt môi và nụ cười. Đoàn nữ vũ công trong vũ y thiết kế cách tân, tạo nét bạo dạn với vạt ngoài kéo cao ở góc phải, trông như một bông hoa đẹp mắt tuy vẫn giữ được cốt cách truyền thống với giải lụa thắt nơ sau lưng và đường eo cao lên gần ngực. Mỗi cô cầm một quả cầu lấp lánh trong ánh đèn sân khấu nên tôi, vì không hiểu gì, tự đặt tên cho điệu vũ của họ là Khúc Tú Cầu, với mong ước hòa bình đến cho mọi miền trên hành tinh trái đất xinh đẹp đang bị chiến tranh xâu xé hay đe dọa.

Trẻ con có mặt đông đảo trong ca đoàn và kiến tạo chủ đề cho lễ khai mạc, là thông điệp gởi ra thế giới của đất nước Hàn Quốc với những đóng góp hướng về tương lai. Thông điệp này càng được tô đậm thêm trong lễ bế mạc ngày 25 Tháng Hai, 2018, khi những nét cổ kính và diễm lệ của Hàn Quốc như được thấy trong thịnh thời của phim bộ, hoàn toàn nhường chỗ cho K-Pop.

Đóa hồng màu Brigitte dịu dàng, tha thướt, đơn ca trong lễ khai mạc nhường chỗ cho người nữ ca sĩ mặc quần áo bó chẽn kiểu Iron man, xõa tóc hát rất “hung.” Và, so với Gangnam Style từng gây chấn động thế giới nhiều năm trước, vũ bão nhưng kém thanh lịch, giờ đây, K-Pop band BTS với 7 cậu boys khôi ngô, đĩnh ngộ, mỗi người một vẻ, một nhân cách đáng yêu, tuổi từ 20 đến 24, có sức thu hút khác, đến nỗi các cậu nay cắt nghĩa 3 chữ BTS là viết tắt của Beyond The Scene!

Thành công chói lòa của BTS tại cuộc trình diễn “du thuyết” của họ ở 2017 American Music Awards chỉ là khởi đầu con đường chinh phục nước Mỹ bởi trước đó, họ đã là những siêu sao quốc tế, mẫu mực cho các fan ngưỡng mộ trên toàn thế giới, được tạp chí Time xưng tụng là một trong 25 nhân tố có ảnh hưởng sấm sét trên truyền thông. Họ tự sáng tác ca khúc, không chỉ mua vui mà qua đó, gửi gấm, chia sẻ nỗi niềm của họ, kêu gọi lương tâm xã hội và làm lay động lòng người về nhiều vấn đề thế hệ tuổi trẻ ngày nay phải đương đầu: khủng hoảng tâm thần, bị bắt nạt thô bạo, vào đại học khó hơn nhưng ra trường không tìm được việc làm.

Họ cũng muốn bác bỏ những mẫu mực xã hội gây tranh cãi bằng giai điệu lời ca tiếng hát chuyên chở những băn khoăn, trăn trở trong tâm can họ. Nói tóm lại, họ có một nội dung phong phú trong trình diễn. Họ nhuộm tóc (chứ không highlight) mầu vàng, mầu tím, mầu xanh và gội chải tươm tất, sạch sẽ, dễ thương. Chuyển động thân thể của họ tràn đầy sức sống, mượt mà, tươi trẻ và mỹ thuật, trong một hòa điệu dễ gây mỹ cảm. Quan trọng hơn cả, họ sáng tạo và giữ được bản sắc. Xem họ, nhìn họ, cảm giác mọi phiền muộn của riêng tôi trôi đi trong ánh sáng và hy vọng.

Nhìn lên khán giả trên khán đài, khu vực các vận động viên Hoa Kỳ, mọi người đồng loạt hào hứng lắc lư và nhỏ giọng hát theo. Rõ ràng BTS đã nói thứ ngôn ngữ thân thiện của thời đại được thế giới tiến bộ hưởng ứng. Hàn Quốc hãnh diện về những đứa con tài năng của họ, dành cho chúng một vị trí xứng đáng không chỉ nói lên khả năng hội nhập văn hóa vào cộng đồng toàn cầu của tuổi trẻ mà cả khả năng đồng hóa những nền văn hóa chúng cọ sát trên con đường tiến về tương lai.

Cũng cùng một thời gian hơn bốn thập niên tương đương với miền Nam Việt Nam lâm vào cảnh nước mất nhà tan, nhiều triệu người chọn sống lưu vong, Hàn Quốc được yên bình ở phía Nam bán đảo Triều Tiên, đã có những thành quả đáng nể trong nỗ lực công nghệ hóa đất nước họ với nhiều tập đoàn thương mại danh giá trong nhiều lãnh vực. Họ không chỉ hội nhập, họ xâm nhập, chiếm lĩnh. Tầm thường thôi nhưng quan yếu trong cuộc sống: Đi chợ nào sạch sẽ, thức ăn tươi, lành, ngon? Đi chợ Đại Hàn. Xài mỹ phẩm hiệu nào tốt, thích hợp với làn da của người Á Đông? Nhãn hiệu Đại Hàn. Xem phim gì hay, tài tử đẹp, diễn xuất thu hút? Phim Đại Hàn. Sửa sắc đẹp ở đâu ưng ý nhất? Bác sĩ Đại Hàn. Thức ăn, đồ gia dụng, máy móc, soong chảo, ấm chén nhà bếp? Sau Nhật, sau Mỹ, là Đại Hàn. Xe Hyundai, TV, điện thoại Samsung nay ngang ngửa với Toyota, Sony, Apple,…

Ghi nhận như trên xong, tôi bâng khuâng tự hỏi: con đường hội nhập ấy có cái giá nào phải trả không? Dường như cơn sốt vỡ da nào ở tuổi dậy thì cũng đưa tới sự phổng phao làm quần áo cũ không còn vừa nữa, có thương tiếc lắm thì cũng chỉ xếp vuốt cẩn thận để vào ngăn tủ làm kỷ niệm, thỉnh thoảng may ra có lúc nhìn lại như một người bạn thiết đã thực sự xa xôi rồi! Tôi nhớ Nguyễn Bính với bài thơ Chân Quê của ông mà tôi mượn 4 chữ làm tựa đề bài chia sẻ này. Một khi thay đổi là yếu tính của muôn loài, kể cả thiên nhiên, kể cả buồng phổi, trái tim con người trong mỗi sát na trước và sau, kể cả cây chanh trong vườn các ngôi nhà của kẻ di tản nay cho hoa ở xứ người, quả to hơn, mùi vị đã khác, làm sao mà “Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa”?

Vậy thì không còn “khăn mỏ quạ, áo tứ thân, yếm lụa sồi, quần nái đen” nữa, em cứ “khăn nhung quần lĩnh rộn ràng, cứ áo cài khuy bấm” hay kéo zipper rất hiện đại theo thời trang phụ nữ Việt đầu thế kỷ 21 này nhưng xin hãy giữ lại cho anh và cho đời, tâm hồn em, tình tự em, nét dịu dàng thiên cổ làm nên bản chất em rất đặc thù, rất tiêu biểu, rất Việt Nam – một chút gì giúp anh còn nhận ra em – mà anh cực tin là sẽ mãi mãi tỏa rạng cùng với lịch sử phát triển của dân tộc mình. Có được không em?

(Bùi Bích Hà)
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeWed Aug 01, 2018 5:34 pm

.

Một chuyến đi
Bùi Bích Hà
July 25, 2018


Với kẻ viết bài này, mỗi chuyến đi là thêm một chút khám phá về thế giới xung quanh đang cùng mình chuyển động cách này hay cách khác nhưng hoàn toàn ở ngoài khả năng nhận thức của mình. Chuyến đi nào cũng được mong đợi, sắp đặt cẩn trọng và chu đáo nhiều việc cần thiết để khi lên đường, tạm rời xa guồng máy hoạt động nhịp bình thường nơi mình cư trú, không có điều gì làm bận rộn tâm trí người đi và làm cho chuyến đi trở thành khó khăn.

Sáng sớm một ngày Chủ Nhật của Tháng Bảy, người bạn hẹn đưa giúp ra phi trường đến rất đúng giờ. Mùa Hè ở Quận Cam năm nay nóng, cảm giác nóng hơn mọi năm nhưng có lẽ cái nóng mặt trời đang nhả vào tôi lúc này gần gũi, cụ thể hơn cái nắng mùa Hè năm ngoái chỉ còn là ký ức mơ hồ thôi.

Con đường trước nhà lác đác tiếng chim hót trên những đỉnh cây cao, xe cộ vẫn đậu ngoan hiền và tuyệt đối im lặng dọc theo hai bờ lề chưa tỉnh giấc, ngoại trừ những vòng bánh lăn đầu tiên của chuyến xe đưa đón tôi có thể đã đánh thức một ít viên sỏi vương vãi từ khoảnh vườn đã triệt hết cỏ vì Cali thiếu nước nên chính quyền yêu cầu dân chúng hạn chế tưới cỏ.

Người bạn bên cạnh tôi chỉ có thú vui duy nhất là chuyện trò với cái cell phone của anh. Bây giờ đang lái xe, anh vẫn không ngớt nhớ cái điện thoại thông minh có thể làm anh hài lòng trong bất kỳ nhu cầu và hoàn cảnh nào nên chỉ hỏi tôi một câu ngắn gọn, biết trước tôi sẽ không thể chối từ: “Chị say hello chị T. nhé!”

Và, thế là câu chuyện nổ ra giữa ba người như pháo ran, lấp kín quãng đường hai mươi phút từ nhà đến cổng departure của sân bay John Wayne. Cảm ơn thiện chí khéo bày tỏ của anh, muốn tạo cho bộ ba chúng tôi chút ấm lòng trong buồi sáng tinh khôi đã được kỹ thuật thời đại cho phép lúc đầu ngày.

Chuyến bay đúng giờ, cất cánh êm ả. Tôi ngồi giữa hai thanh niên trẻ, một Trung Đông, gầy gò, khuôn mặt mới cạo hết râu, sạch như đồng xu mới và để không xảy ra bất cứ ngờ vực nào, anh không mang hành lý theo người; một Hoa Kỳ da trắng, cao to, hồng hào, khoẻ mạnh, balô nặng trĩu ấn sâu vào gầm ghế trước. Do ám ảnh khủng bố trên không đã trở thành một thứ bản năng tự vệ thụ động, tôi kín đáo quan sát anh Trung Đông, yên lòng và cảm động thấy anh nhắm mắt lại, cầu nguyện ngay từ lúc yên chỗ. Anh cầu nguyện khá lâu, vẻ mặt buồn bã và hết sức thành khẩn. Cầu nguyện xong, máy bay đã lên không phận, anh thu hai bàn tay giấu vào lòng và ngủ. Người thanh niên Hoa Kỳ bên phải tôi, như hầu hết giới trẻ ở tuổi anh, mở cái màn hình ti vi nhỏ trước mặt, đeo earphone và chọn băng tần theo sở thích để giải trí trong suốt chuyến bay kéo dài ba tiếng đồng hồ.

Máy bay hạ cánh an toàn ở phi trường Dallas-Forworth, tôi đứng dậy mới biết cái chân bắt đầu làm phiền tôi. Cái giỏ xách nhỏ đựng các món ăn anh tôi ưa thích trở thành gánh nặng dù tôi đã phần nào dự đoán trước tình cảnh này nên giới hạn tối đa việc mua sắm. Cố gắng lắm nhưng quả thật viễn ảnh đoạn đường từ cổng ra đến chỗ nhận lại hành lý, vào lúc này, là nỗi kinh hoàng của tôi với cái chân đau sau mấy tiếng đồng hồ bất động mà tôi lại ỷ y, không đặt trước xe để được giúp. Tuy nhiên, nước Mỹ luôn có sẵn giải pháp cho mọi người khi cần nên vừa lắc lư nhô ra khỏi vòm cổng, tôi mừng rỡ như buồn ngủ gặp chiếu manh, thấy mấy cái xe đẩy chờ sẵn cùng với nhân viên phục vụ. Bình an tới quầy trả hành lý, tôi đang ngơ ngác thì cô bạn trẻ đã đến sớm chờ tôi và giúp tôi những việc còn lại.

Con đường về nhà anh tôi khá quen thuộc nhưng hôm nay với người lái xe trẻ tuổi, dường như ngắn và nhanh hơn những lần tôi được anh đón. Không phải nhìn hộ đường sá và lo lắng, tôi thảnh thơi chuyện trò với bạn nên để ý thấy cây cối ở Dallas rậm rạp, xanh tươi hơn hẳn Cali mặc dầu khí hậu sa mạc vùng này rất khắc nghiệt. Trao đổi với bạn, H. nói: “Chị may mắn vì hai hôm nay, Dallas có mưa.” Tôi còn may mắn nốt tối Chủ Nhật vì nửa đêm, Dallas có mưa rào, hơi đất hăng nồng của Huế yêu thương ngày xưa thoảng lên từ cái sân gạch nung, từ vườn cây quanh nhà trong tiếng mưa rì rào như vãi gạo xuống không gian, khiến tôi vội mở hé cửa để thấy tâm hồn được tắm gội một hạnh phúc bất ngờ.

Dallas có những cơn mưa nhiệt đới vạm vỡ, ồ ạt, lênh láng nước, như đạo diễn Trần Anh Hùng đã thể hiện trong phim “Mùi Đu Đủ Xanh.” Tôi sinh trưởng ở Huế, tuổi thơ và tuổi niên thiếu từng ướt đẫm những cơn mưa nhiệt đới, thơm ngái mùi đất nóng, ào ạt đổ nước xuống thành phố và vùng ngoại ô có khu vườn rộng một mẫu tây trồng toàn hoa và cây ăn quả của phụ thân.

Không so sánh được với mưa rừng hung hãn, hoang dại nhiều lần hơn, có thể làm tôi sợ hãi, mưa nhiệt đới mang theo chúng sức sống mượt mà, sung mãn, cảm giác thỏa thuê, phơi phới sau cơn mưa mịt mờ đất trời nhưng nhanh chóng dứt hạt, khiến cả không gian quanh tôi sáng choang, cỏ cây như lột xác, lộng lẫy và huy hoàng đến ngộp thở.

Khác với Cali những đêm làm việc khuya khoắt dưới ánh đèn riêng, giấc ngủ từ chập tối hôm ấy ở Dallas cho tôi niềm vui êm đềm của một trở về quê cũ trong tiềm thức chưa bao giờ nguôi quên. Ngôi nhà của anh tôi (như mọi nơi khác anh từng ở qua) luôn được săn sóc kỹ càng, bàn ghế không một hạt bụi, một dấu tay, không một thứ gì vương vãi và luôn có một cái gì mới khi tôi đến thăm anh.

Cái lò sưởi không đốt củi thật trong phòng khách vốn rất ít thân thuộc/bằng hữu lui tới. Cái mái hiên che nắng mở đóng tự động phía vườn sau. Pho tượng nhỏ mỹ thuật đứng nhìn lũ cá Koi bơi lội dưới hồ nước, cây vả tây vừa cho quả, chín không kịp ăn…

Cái gì cũng đẹp hơn lần trước tôi về, chỉ có anh mỗi ngày một sa sút. Anh chăm chút giữ gìn nhà cửa có lẽ để bù trừ những gì trên chính ngoại hình của mình mà anh không thể. Vai anh lệch đi, lưng anh cong thêm vì đau, chân bước chậm vì không muốn vấp ngã, tay trái cần tay phải giúp nâng lên để anh có thể cầm nắm hay khởi động một đồ vật gì.

Một bài toán có nhiều yếu tố thay đổi, đáp số thay đổi theo. Anh tôi đang đứng trước một bài toán theo đúng định luật biến thiên này, đáp số cách nay chừng 10 năm không còn y như vậy nữa bên cạnh người phụ nữ được gọi là bạn đời, kém anh 20 tuổi và nhất định từ chối thời gian. Giữa thiên nhiên hoa cỏ tốt tươi, bừng bừng hồi sinh khi mùa Đông qua đi, giữa căn nhà quanh năm bày biện, trang trí đẹp mắt với đồ đạc thủy chung, vô âm và vô cảm, anh tôi như phiến đá mòn trơ trọi nỗi buồn riêng. Có chút gì nhắc tôi nhớ lời thở than của Lamartine, có lẽ cùng tâm cảnh như anh tôi khi ông viết xuống câu hỏi não nùng: “Objets inanimés, avez vous donc une âme?” Để biết rung động và chia sẻ? Tuyệt vời! Để biết khổ đau như loài người? Thì thôi.

Để thay đổi không khí lạnh nhạt, rời rã trong căn nhà có người luôn muốn mở tung các cửa, chúng tôi quyết định đi Houston thăm bà chị họ. Tài xế đưa đón chúng tôi trọn chuyến đi và về giữa hai thành phố cần khoảng bốn giờ lái xe mỗi lượt, là một phụ nữ nhỏ nhắn, lanh lợi, đôi mắt thông minh trên khuôn mặt trái soan lốm đốm tàn nhang. Cô mặc chiếc đầm ngắn, gò bụng nhô lên sau làn lụa áo. Tôi vừa cảm thương phận đàn bà, vừa khâm phục sự quả cảm của những phụ nữ như cô, bỏ nước ra đi cho một hành trình biết trước sẽ gian nan, nhiều bất trắc và thử thách nhưng can đảm chấp nhận đối đầu để mưu cầu cuộc sống có phẩm giá hơn cho bản thân và tương lai tốt đẹp cho con cái.

Dọc đường, qua chuyện trò, tôi biết được cô đã qua tuổi sinh nở, cái gò bụng nhô lên dưới áo cô là do một chuỗi những cái bướu lành ở gan, không thể giải phẫu cắt bỏ, không phải một thai nhi bình thường sẽ chào đời sau thai kỳ. Chúng phát triển chậm, tuy có lớn theo thời gian tính bằng năm và cô cứ phải mang nặng không biết bao lâu nữa? Tôi càng khâm phục cô hơn vì phong cách vui tươi của cô, ứng xử thiện hảo với nghịch cảnh như thơ Mai Thảo: “Gối tay lên bệnh nằm thanh thản, thành một đôi ta rất đá vàng!”

Chương trình ban đầu của chúng tôi là qua đêm ở Houston, sáng hôm sau về lại Dallas sớm nhưng cô đổi ý, muốn về ngay. Cô lái khứ hồi một hơi, chỉ ngưng một lúc để vào tiệm ăn tối mà cô chọn nhầm một món không vừa ý nên chỉ nhấm nháp qua loa rồi bỏ dở. Cô lái chiếc Lexus 350 SUV đời 2015, còn mới toanh, đầy đủ tiện nghi nhưng cô không dùng GPS của xe hay của điện thoại thông minh mà chạy bằng trí nhớ, trực chỉ khu chợ Hồng Kông trên đường Bellaire.

Khi tôi đưa cho cô địa chỉ nhà bà chị họ, thành phố League, cô tặc lưỡi: “Em chưa hề tới hoặc nghe ai đó nói tới cái tên thành phố này nhưng không sao, em biết nó ở đâu, chị yên tâm.” Khổ thay, tôi không yên tâm được vì lộ trình này chưa được ghi trong bộ nhớ của cô nên cô phải sử dụng điện thoại nhiều lần, không để định vị hướng đi mà để hỏi tin tức cô cần rồi từ đấy… suy ra.

Con đường trở về Dallas trong màn đêm đã buông rất khác với con đường dưới ánh mặt trời trưa nay, thăm thẳm, có đoạn hoàn toàn không thấy một xe nào chạy song song hay ngược chiều. Thế nhưng cô lái phom phom, tự tin tuyệt đối, biết cả nơi rẽ ngoằn ngoèo vào trong sâu có cây xăng sáng choang giữa trời đêm tối đen như một hòn đảo thần tiên! Cô cười nói: “Em hay đi câu bằng con đường này, khuya về vui lắm. Lúc này chán rồi, không đi nữa nhưng em thuộc lòng mọi xó góc của nó, chị đừng lo.”

Ôi, những người phụ nữ Việt Nam nhỏ bé, thân tầm gửi của quê hương tôi, khi lưu lạc xứ người, đã như những con mèo giấu nanh vuốt, nay bung ra như triều dâng, can trường và dũng mãnh. Vượt qua mọi thử thách khó khăn và sống với khổ nạn, họ luôn vươn lên, khống chế hoàn cảnh, hiện diện lẫm liệt ở khắp nơi. Hỏi cô nghị lực này ở đâu ra, cô cười: “Chị cứ làm việc bác ái, sẽ thấy câu trả lời!” hàm ý: “Xung quanh mình, nhiều hoàn cảnh kém may mắn so với mình, đáng thương quá, hãy sống chan hòa với họ để thấy mình cũng được cứu rỗi.” Cô làm tôi nhớ Thơ Tô Thùy Yên: “Thế giới vui từ mỗi lẻ loi.” Ghép những mảnh puzzles nhỏ nhoi ấy lại, bức tranh đời sống luôn đẹp tuyệt vời và vang lừng giai điệu.

Trở về Quận Cam chiều hôm trước, hôm sau, với cõi lòng vừa ly biệt như căn nhà cháy dở, ngổn ngang tro than, âm ỷ khói, tôi đi nghe Duy Khang hát lần đầu bản “Thu Hát Cho Người,” thấy mình trong đó: “Hoàng hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ. Về đồi sim, ta nhớ người vô bờ. Đêm nguyệt cầm ta gọi em trong gió. Sáng linh lan hồn ta khóc tự bao giờ…”

Hóa ra, không một quá khứ nào thật xảy ra và thật mất đi, chỉ là cách gìn giữ hoài niệm mà chúng ta chọn lựa để ngậm ngùi tưởng tiếc hay để mãi đi những bước đầu/bước cuối của hành trình đời mình trên mặt đất này.

(Bùi Bích Hà)


https://www.youtube.com/watch?v=g52MtLf9Dfg
Thu hát cho người


Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeWed Aug 08, 2018 1:50 pm

.

Muôn sự tại tâm
Bùi Bích Hà

Qua điện thoại, tiếng nói của người bên kia đầu dây gọi vào chương trình phát thanh cho phép đoán tuổi của bà khoảng trên dưới 70. Bà khóc nức nở, tức tưởi, mếu máo, như có nỗi uất ức không kềm hãm được, phải bung ra. Lẫn trong tiếng khóc khàn đặc, người nghe lõm bõm câu chuyện bà kể: “Tui đã năn nỉ nó, con ơi, lấy ai thì lấy, đừng bao giờ lấy Mỹ đen nha con, cả đời má, má quá sợ Mỹ đen, má sợ lắm, tội nghiệp má, con đừng… Vậy mà bây giờ nó ưng một thằng Mỹ đen, nó đem thằng đó về nhà cô ơi!”

Tiếng khóc của bà vút cao, mỏng như tiếng vĩ cầm trên thang âm rồi đứt. Tiếng người điều khiển chương trình vừa dịu dàng, vừa dứt khoát: “Thưa bác, chúng tôi hết sức thông cảm với hoàn cảnh gia đình bác vừa chia sẻ nhưng đây là giờ hội luận thời sự, xin lỗi bác và hẹn bác trong chương trình thư tín cuối tuần bác nhé! Kính chúc bác sức khỏe.”

Tâm sự của những bà mẹ nệ cổ trong các cuộc hôn nhân của con cái không thuận theo mong đợi của quý bà khiến tôi nhớ lại một chuỗi những phiền muộn nát lòng kiểu này tôi từng nghe qua hay chứng kiến cách nay gần 30 năm, thời tôi mới tới Mỹ và đi làm ở một công ty có đông công nhân người Việt mình cũng như các sắc tộc khác.

Một bà mẹ người Hoa nhất định phản đối, không cho con gái kết hôn với người cô yêu là một thanh niên Việt, tuyên bố: “Tôi nói thẳng là cậu đừng mất công theo đuổi con gái tôi nữa. Dầu cậu có đi tới đi lui cho mòn cả chục, cả trăm đôi giày lẫn gạch lót đường thì tôi vẫn không gả nó cho cậu.” Cô khóc hết nước mắt với tôi nhưng rồi cũng đành chia tay người tình để rồi ba năm sau mới kết hôn với một thanh niên đồng hương ở tuổi 32 cho mẹ vui lòng. Cô hối hả sanh hai con trong vòng ba năm, trước khi “trứng của người mẹ không còn tốt nữa” như bác sĩ cảnh báo. Hú vía! Trời thương ban cho một cháu là con trai!

Một cô khác cương quyết hơn, nhất định lấy người yêu là một thanh niên người Mễ dù cái giá cô phải trả là bị mẹ từ chối, không tổ chức hôn lễ, cô được tự do khăn gói ra khỏi nhà, nói cách khác, tự do “theo trai” và không bao giờ được về nhà cha mẹ nữa. Chưa hết, sau khi cô đi rồi, thân phụ cô đổ bệnh, bị bán thân bất toại. Mẹ cô quá buồn, đóng cửa tiệm kim hoàn để ở nhà săn sóc chồng và chính bà cũng cần “dưỡng thương.” Cô không về thăm nom cha mẹ được, khiến cô không bao giờ có niềm vui trọn vẹn trong cuộc đời riêng. Ngay cả khi các con cô lớn lên, cô vẫn không có câu trả lời nào nghe được khi chúng hỏi: “Con có ông bà ngoại không vậy mẹ?”

Một cô nữa có hai bằng cử nhân giáo dục và sử học, yêu một người đàn ông Latino ly dị vợ có hai con, thề sẽ không lấy ai nếu cha mẹ phản đối. Vì cha mẹ cô là tín đồ Công Giáo thuần thành, dù không vui nhưng sống thuận theo ý Chúa, sợ con cái lỗi đạo nên đành cắn răng chấp thuận cho cô chu toàn bí tích hôn phối. Không hiểu vì sao, cô không sanh con, lúc nào trong hạnh phúc riêng mình cũng có chút ngậm ngùi đã làm cha mẹ buồn lòng.

Trải qua hơn bốn thập niên ở xứ người, tôi nghĩ giờ đây những cuộc hôn nhân dị chủng đã không còn là vấn đề cấm kỵ quá nghiêm trọng về mặt tâm lý, văn hóa, ngay cả luân lý cho các bậc cha mẹ và con cái đến tuổi trưởng thành của họ nữa. Tôi thực sự không biết những kết hợp như thế có còn gây ra ít nhiều khiên cưỡng cho người trong cuộc hay không cho tới vừa mới đây, một nữ thính giả luống tuổi ở Atlanta gọi vào đài và khóc lóc rất bi thương, gần như hoảng loạn hay mê sảng.

Có một lý thuyết cho rằng cha mẹ người Việt thường dạy con bằng kinh nghiệm bản thân. Nếu tin điều này thì chúng ta phải nghĩ có thể bà mẹ trong trường hợp nêu trên không do kỳ thị chủng tộc mà do bà bị ám ảnh từ một biến cố nghiêm trọng nào đấy đã xảy ra cho bà hoặc thân nhân của bà, liên quan đến người da đen, lâu nhất từ cuộc chiến tranh thập niên 40 thế kỷ trước khi đội quân đánh thuê cho Pháp gọi là lính lê dương (hay Tây đen rạch mặt) hiếp đáp các cô thôn nữ ở những làng mạc chúng đi qua. Trường hợp này, bà nên đi gặp bác sĩ tâm lý để được giúp đỡ hầu lấy lại sự an vui trong tuổi già mà bà xứng đáng được hưởng ở đất nước Hoa Kỳ.

Tuần qua, cộng đồng mạng được xem một live stream phổ biến rộng rãi trên YouTube, cho thấy cuộc sống riêng tư của một cặp đôi, chồng Trung Quốc, 43 tuổi, vợ Phi Châu, 27 tuổi. Chỉ một thời gian thật ngắn, đã có 20,000 người ghi danh theo dõi và đặt nhiều câu hỏi hiếu kỳ, quan tâm muốn tìm hiểu sự thật phía sau cuộc hôn nhân của họ. Phải nói là trong mắt tôi, họ là một đôi uyên ương xứng hợp, dễ thương, không thấy ra một lý do nào khiến nghĩ là họ không thể là một đôi vợ chồng. Hơn thế nữa, họ là một đôi vợ chồng hạnh phúc, đứa con trai đầu lòng bốn tháng tuổi của họ là trái quả của hạnh phúc ấy, khôi ngô, tuấn tú, bụ bẫm, là sự pha trộn hài hòa, đáng yêu của cả hai nguồn gốc đã phối hợp sản sinh ra bé.

Cuộc hôn nhân của hai người không chỉ nói lên hạnh phúc đương nhiên của họ mà còn nói lên một điều quan trọng hơn, đó là sự mở rộng tầm nhìn đưa tới mở rộng trái tim và vòng tay trong một nhân sinh quan mới, làm cho đời sống đẹp hơn vì con người biết tôn trọng nhau và yêu quý sự khác biệt, thể hiện yếu tính cốt lõi của một nền văn minh cao nhất trên hành tinh của loài người. Nghĩ cho cùng, lột bỏ lớp vỏ bọc ngoài (ngôn ngữ, làn da, mái tóc, đôi môi dầy, mắt nâu, mắt xanh, v.v…) cấu trúc sinh học của con người bất cứ thuộc sắc tộc nào là một, cảm giác của cơ thể con người là một, tâm hồn bên trong mỗi con người  buồn/ vui, yêu/ghét như nhau, hy vọng/thất vọng, giận hờn/nhung nhớ  như nhau, có gì khác? Những dị biệt nhỏ là vấn đề điều chỉnh, “khi thương trái ấu cũng tròn.”

Zou Qianshun, 43 tuổi, là một ngư phủ Trung Quốc làm việc trên tàu đánh cá. Cô Sandra, gốc Phi Châu, cách đây ba năm, làm chủ một tiệm cắt tóc trong khu vực ven biển của Châu Phi. Có lẽ nhân một chuyến Zou ghé bờ, hai người gặp nhau và đem lòng yêu nhau. Tháng Ba năm ngoái, 2017, họ cử hành hôn lễ tại Cameroon, quê hương của cô dâu. Sandra mặc áo cưới, đội vòng hoa, khuôn mặt hiền hậu, tươi tắn, đứng giữa họ hàng. Chú rể mặc sơ mi thêu hoa hai vạt trước, hân hoan đứng cạnh vị mục sư chủ hôn.

Tiễn chân cô dâu về nhà chồng ở mãi tận ngôi làng gần Dandong, phía Bắc tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc, thân nhân cô dâu rất lo lắng, sợ cô không được đối xử tốt, sợ cô khó thích nghi với cuộc sống mới theo văn hóa mới, giữa một cộng đồng nói thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ. Thế nhưng, thực tế đã có câu trả lời tích cực nhiều lần hơn: Sandra chuyện trò với chồng bằng tiếng Pháp và đang bập bẹ nói đôi chút tiếng địa phương, cô cũng học cách nhóm lò thổi nấu theo truyền thống quê chồng. Cô may mắn hơn so với cô bạn đồng nghiệp người Hoa của tôi cách đây ba chục năm, bị mẹ ruột cấm cản kết hôn với ý trung nhân Việt Nam và người yêu của cô bị hăm họa đi mòn nhiều đôi giày, mòn cả sân nhà bà thì cậu vẫn không bao giờ cưới được cô, mẹ của Zou hết lời “khen Sandra  thông minh, xinh đẹp và có tấm lòng nồng ấm.”

Đọc bản tin đến đây, tôi hết sức ngạc nhiên thấy một bà mẹ quê nghèo ở Trung Hoa lục địa, cuộc sống khép kín, ít cơ hội giao tiếp với thế giới bên ngoài, lại vốn được coi là bị ràng buộc sâu đậm với phong tục tập quán lâu đời của dân tộc, ấy vậy mà cách nào bà có cái nhìn rất nhân hậu về cô con dâu dị chủng như thế? Tôi không mảy may tin vào cái kết luận dễ dãi của một số người cùng xem cái live stream này, cho rằng Trung Quốc đang có khủng hoảng dân số trai thừa, gái thiếu, là hệ quả của chính sách một con trước đây và vì gia đình nào cũng cần con trai nối dõi tông đường khiến con gái không được phép ra đời nên giờ đây đàn ông Trung Quốc rất khó tìm được vợ. Muốn có vợ, họ phải “vượt biên” đến các quốc gia khác. Điều này có thể đúng nhưng không nhất thiết rơi vào trường hợp vợ chồng anh Zou một khi anh “không đi mua nái để gây giống cho lợn” mà họ là hai con người yêu nhau và đợi chờ ba năm mới cưới, hệt như con đường của mọi cặp đôi khác yêu nhau và trở thành vợ chồng khi cuộc tình đã chín.

Vì hàng xóm láng giềng xôn xao khi anh Zou đưa “cô Thắm” về làng nên anh nảy ra ý định quay video phóng lên mạng chuyện tình của mình cho mọi người được thỏa lòng, mãn nhãn. Anh trả lời mọi câu hỏi, nhiều nhất là câu “Anh chị có thật lòng yêu nhau không?” Trả lời thì không khó nhưng để chiêm nghiệm được sự thật trong lời anh nói thì chỉ khi nào “thấy ta trong người và người trong ta,” may ra mới “ngộ.”

(Bùi Bích Hà)
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSat Aug 18, 2018 6:20 pm

.


Đứa con lạ mặt
Bùi Bích Hà


Cuộc hôn nhân khó khăn của họ tới ngã rẽ khi người chồng tìm được công việc mới khiến anh một mình xách vali rời Nebraska về California, để lại sau lưng cả cái gia đình trên đà tan rã, người vợ khép kín và đứa con trai lên 10, thể tạng yếu đuối, tính tình nhút nhát.

Ba năm sau, ở tuổi 13, cậu bé được mẹ dẫn ra ga hàng không, một mình đáp máy bay về Cali, nhập vào gia đình mới của bố cậu và người mẹ kế đối xử với cậu khá tử tế.

Cậu có một căn phòng đầy đủ tiện nghi trong ngôi nhà khang trang để cư trú và đi học, được bố bảo vệ, chăm sóc đến mức cưng chiều. Ngoài công việc làm toàn thời gian và trách nhiệm lo bếp núc cho cả gia đình, người vợ sau của bố cậu hầu như không bao giờ đụng chạm tới sự riêng tư của hai cha con cậu. Tuy rằng những lúc bà có mặt ở nhà thì thời giờ của bố cậu dành trọn vẹn cho bà, kể cả các cuối tuần họ thường ra ngoài vui chơi với bạn bè. Cậu không lấy thế làm phiền, trái lại, bằng lòng thấy cậu cũng có một khoảng cách với bố để được tự do vẫy vùng trong một không gian riêng.

Cuộc sống của họ trôi qua êm ả như vậy cho tới năm cậu 17 tuổi, phải đối đầu với thành tích học tập bết bát, không hứa hẹn sẽ tốt nghiệp trung học. Bố cậu quýnh quáng, đi gặp counsellor, đi tìm lớp dạy kèm cho con nhưng vấn đề của cậu không chỉ là văn hóa mà còn về tiến trình phát triển tâm sinh lý phức tạp ở cậu.

Thay vì với tuổi tác, ngày một trưởng thành, cậu có dấu hiệu ngừng lại, thậm chí lùi lại. Sự lo lắng quá độ, gần như hốt hoảng của bố cậu bắt đầu làm phiền tới bà mẹ kế của cậu khiến họ thường xuyên cãi nhau. Không khí trong nhà trở nên u uất, ngột ngạt, khó thở.

Căn phòng của cậu trước đây luôn đóng cửa nhưng không làm phiền ai cả vì sự yên lặng bên trong được coi là bình an thì nay nó chứa nhiều sự bất ngờ rất khó chịu. Chẳng đặng đừng, bà mẹ kế phải dùng chìa khóa riêng một lần để biết qua sinh hoạt của cậu ra sao phía sau cánh cửa đóng ấy và cảnh tượng bừa bộn, bẩn thỉu bà nhìn thấy trong đó khiến bà hỡi ơi! Đứa con riêng của chồng nay có bộ mặt khác.

Lần đầu tiên bà tự thống trách mình về sự tin cậy và tuyệt đối tôn trọng chồng, nghĩ rằng thái độ không can thiệp vào cuộc sống của cha con họ là khôn ngoan và đại lượng. Bây giờ bà mới hiểu sống và yêu thương là chia sẻ trách nhiệm, không phải là nhắm mắt cầu an. Bà đã vậy, nhưng chồng bà, điều gì khiến ông đi bên cạnh con hằng ngày mà không thấy sự bất thường biểu hiện cách này hay cách khác ở nó? Hay ông vì yêu con, bảo vệ nó môt cách mù quáng nên không còn tin ở mình qua những đánh giá tiêu cực mà ông mạnh mẽ chối bỏ vì không thể chấp nhận?

Chúa ơi! Đứa con trai duy nhất của ông có ngoại hình đẹp đẽ, giống ông đúc khuôn, cao lớn, thanh mảnh, chải chuốt, lẽ nào bên trong lại là cái ruột cây sùng? Ông quyết tâm giúp con, muốn đền bù cho nó sự thiệt thòi do cuộc hôn nhân nửa chừng gãy gánh của cha mẹ, muốn nó được thỏa lòng, như ý trong mọi ước mơ, muốn nó có mọi sự dễ dàng, suôn sẻ mà quên rằng cuộc đời chưa bao giờ dễ dàng, suôn sẻ, trái lại, luôn chông gai. Ông để sự ngây thơ vô tội của con mà mắt ông, mê hoặc trái tim ông hay chính ông tự mê hoặc mình bằng cách tự kỷ ám thị, đoan chắc con đường sương mù một chiều ông đi sẽ dẫn tới thành công, không mảy may tiên liệu mình có thể lầm lẫn.

Nhiều người tin vào “nghiệp” để giải thích những điều không giải thích được, để tự tha thứ mình và nhủ lòng thuận theo nghịch cảnh cho bớt đau, không biết con người tạo nghiệp và có khả năng giải nghiệp bằng cái tâm lành và ý chí vượt thoát cá nhân.

Tôi có cậu cháu đến Mỹ theo diện H.O., năm 1990, ở tuổi 28. Thời gian đầu nhập cư, cậu bị hụt hẫng, mặc cảm không đủ khả năng bươn chải, vốn liếng Anh văn và chuyên môn không có dưới áp lực gay gắt của bà mẹ nhiều tham vọng. Cậu rơi vào trầm cảm, lo sợ vu vơ, biếng ăn và mất ngủ triền miên.

Bệnh tăng tiến tới tình trạng hoang tưởng, cậu nghe nhiều tiếng nói lạ trong đầu và sau cùng, được bác sĩ chẩn đoán bị tâm thần phân liệt. Trong suốt chặng đường khó khăn này, cậu vẫn cố gắng đi làm công việc assembly cho một công ty lớn sản xuất y cụ và may mắn được bảo hiểm sức khỏe. Cậu ý thức mình có bệnh và nuôi quyết tâm chữa chạy.

Cậu nhờ tôi cùng đi với cậu những lần thăm khám với bác sĩ chuyên khoa của công ty trong vòng hai năm. Cậu uống thuốc đều đặn, làm đúng các lời khuyên của bác sĩ, tập thể thao, tập ngồi thiền. Cậu vẫn ít nói, dáng vẻ vẫn buồn u uất nhưng trong cư xử với mọi người, đã thấy dễ dàng hơn và được sự cảm mến của mọi người đáp lại.

Sau hai năm, bệnh tình ổn định, cậu có khả năng kiểm soát bản thân, bớt nghi ngờ và hết sợ hãi. Tuy cậu vẫn được bác sĩ theo dõi định kỳ nhưng hầu như cậu đã lấy lại được phong cách sinh hoạt bình thường qua nỗ lực học lấy bằng đại học hai năm, có bạn gái rồi kết hôn và mua được căn condo xinh xắn để xây dựng tổ ấm. Bây giờ ở tuổi 52, tuy sức khỏe có chút nhạy cảm nhưng cậu sống bình thường như mọi ai, gia đình êm ấm với cô con gái lên 7 rất sáng dạ và thân thiện.

Cổ nhân có câu: “Bệnh quỷ, thuốc tiên,” ngụ ý bệnh khó có thuốc hay. Miễn là người bệnh biết mình mắc bệnh và có niềm tin tìm thầy chạy thuốc để chiến thắng bệnh. Quả là tôi có kiên trì làm bạn đồng hành với cháu tôi những lượt đi/về gặp gỡ bác sĩ, giúp cậu hiểu rõ/giãi bày rõ mọi tình tiết trong quá trình chữa trị hai năm để ứng phó nhịp nhàng nhưng chính cậu phải đi bằng đôi chân của cậu tới phòng mạch bác sĩ, phải đích thân nói và nghe những gì liên quan tới căn bệnh của mình, chắt chiu mọi tiến bộ lớn nhỏ đạt được làm ngắn lại cuộc trường chinh của cậu. Nếu tin vào nghiệp thì cũng phải tin cả định luật vay/trả sòng phẳng, bằng tỉnh thức, bằng nỗ lực cá nhân, không có gì tự nhiên sinh ra và tự nhiên mất đi, tìm được nguyên nhân thì tìm được giải pháp.

Đó là câu chuyện giải nghiệp. Vậy thì tạo nghiệp là gì? Là đi trước các hậu quả tiên liệu để tránh thấy chúng xảy ra rồi phải chạy chữa.

Một người bạn khác của tôi có hai cô con gái sinh năm một. Khi biến cố 30 Tháng Tư, 1975, bất ngờ giáng xuống và nuốt trọn miền Nam, một cô lên 5, một cô lên 4. Trước đó, bố các cô mịt mù chinh chiến. Lúc đó, bố các cô đi tù “cải tạo,” càng sương khói mịt mù. Mẹ các cô ngoài nghề dạy học, bấy giờ phải lăn lưng ra chợ trời buôn bán vặt để kiếm thêm lợi tức nuôi con và thay chồng phụng dưỡng mẹ già.

Mấy đứa bé cả ngày quẩn quanh bên bà nội già nua, yếu ớt, không thấy mặt mẹ từ tinh mơ đến sẩm tối, liu hiu bảo nhau học hành, liu hiu bảo nhau ăn uống thức ăn mẹ nấu sẵn đậy dưới cái lồng bàn nguội lạnh trong bếp. Mười năm tuổi thơ của các cô như bức tranh tĩnh vật rêu mốc bỏ ở một nơi hoang phế nhưng có tiếng nói riêng của nó, ảnh hưởng trên suốt cuộc đời mai sau của các cô ở Hoa Kỳ.

Khi có dịp trò chuyện, cô chị tâm sự: “Cháu không ngớt bị ám ảnh vì cảm giác cô đơn, sợ hãi không có mẹ bên cạnh khi cháu cảm thấy cần mẹ nhất. Vì vậy, ngay khi có đứa con đầu lòng, cháu đã thuyết phục chồng cháu chấp nhận từ nay cháu chỉ đi làm bán thời gian để được luôn kề cận với con cháu.” Cô là một phụ nữ chức nghiệp, lương cao, quyền lợi nhiều, lựa chọn của cô là một hy sinh lớn, không phải không có mặt cực đoan song cô biết rõ động lực đằng sau sự hy sinh ấy là gì và cô nhận trách nhiệm về quyết định của mình. Các con cô lần lượt trưởng thành xuất sắc, mỗi cháu được mẹ hỗ trợ tối đa để bộc lộ và thi thố năng khiếu. Điều quan trọng hơn cả, chúng có tuổi thơ tràn ngập niềm vui, sự yên tâm phát triển và khôn lớn hạnh phúc.

Cô em, không đơn giản như cô chị, nên nói với tôi: “Khi chưa có đủ trí khôn để hiểu nhân quả của mỗi việc, cháu rất tức giận và oán hận người lớn. Điều này làm tổn thương cháu lâu dài vì khi hiểu ra, cháu không tự tha thứ sự hẹp hòi của cháu. Đáng buồn hơn nữa, những thương tích đầu đời đáng lẽ không nên có kia cứ dai dẳng, không chịu lành. Cho tới nay, cháu luôn bị ám ảnh vì ý nghĩ nếu lúc đó có ai giúp cháu giải tỏa được những cảm xúc âm u trong lòng cháu, có thể cháu đã là một người khác, đón nhận cuộc sống một cách trong sáng hơn và không bị dày vò vì muốn quên, muốn bỏ qua một kinh nghiệm xấu không muốn nhớ mà không được.”

Cô cho biết hiện nay cô làm việc kiếm tiền 6 tháng và đi làm từ thiện 6 tháng. Nhìn bên ngoài như vậy, chỉ một mình cô biết cô làm từ thiện để tự cứu mình khỏi cảm giác tầm thường, vô dụng, dễ ghét, nhiều thói hư tật xấu. Bi kịch của cô là chán ghét chính mình trong khi người bàng quan nhìn cô, ao ước được là cô chỉ vì họ không bao giờ có thể hiểu được sự phiền não trong nội tâm cô, nó bắt đầu từ một tuổi thơ cô đơn và rối rắm.

Có một sự thật không thể chối cãi tuy người ta luôn phóng đại nó, là ký ức tuổi thơ và ảnh hưởng của quãng đời này trong sự hình thành nhân cách một đứa trẻ là hiển nhiên. Với chính bản thân kẻ viết bài này, tôi nghiệm ra sự có mặt thưởng hằng của một bà mẹ trong đời những đứa con tự nó thánh thiện và là thành trì bảo vệ chúng vững chãi nhất. Có thể nói không quá là tương lai mỗi đứa con bắt đầu từ trái tim bà mẹ. Không chỉ xây dựng, nó ngăn ngừa tai họa và chữa lành những vết thương khó chữa nhất.

(Bùi Bích Hà)
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeMon Sep 03, 2018 9:50 am

.

Mưa nắng bất thường
Bùi Bích Hà


Khác hẳn những buổi sáng đầu tuần nắng rực rỡ trong thời tiết oi bức của Tháng Tám đã qua, sáng nay bầu trời quận Cam đầy mây xám. Không gian như màu mực pha loãng, khiến lòng người cũng chập chùng sương khói.

Máy thu thanh trong xe đang nhả ra tiếng hát lạ, trình bày một ca khúc có lời từ dịu ngọt: “Em là ai mà hoa nhờ em thêm hương sắc, em là ai mà nhờ em anh thấy đời vui hơn, mà anh ngẩn ngơ nhìn vì dáng em đi rất dễ thương…”

Nghe những ngôn từ thả buông tha thiết nhường ấy, những cung bậc du dương, thánh thót nhường ấy, tôi bỗng tự hỏi thầm vì đâu có khi chúng trở thành gươm dao đâm nát trái tim nhau? Những mỹ từ khả ái kia có giống như những bông hoa mãn khai trong khoảnh khắc rồi tàn rữa? Chúng có thật hiện hữu hay cũng giống như hiện hữu của tuổi thanh xuân ngắn ngủi rồi già nua, xấu xí và qua đời? Chúng là đời sống hay chúng là chiêm bao?

Ðôi vợ chồng trong khu chung cư tôi ở vài năm trước, cứ vài hôm lại chửi bới nhau om xòm giữa đêm khuya thanh vắng, có khi nào họ nói với nhau thứ ngôn ngữ êm đềm, ngà ngọc như nghe được trong văn chương, thơ nhạc không? Có chút gì chua chát khiến tôi chợt nhớ mấy câu của thi sĩ Hàn Mặc Tử “Trời hỡi, làm sao cho khỏi đói? Gió trăng sẵn có, làm sao ăn?” Châu báu nhiều quá giữa thế gian, sao không ai nhặt cho mình một ít mà cứ mãi chịu sống trong khó nghèo? Sơn hào hải vị la liệt trên bàn tiệc, sao không ai buồn thưởng thức mà cứ tìm đắng cay? Bi kịch của con người phải chăng là mắt nhìn nhưng không thấy, tai nghe nhưng không ghi nhớ được? Một ngày qua là một ngày phí uổng, chìm đắm trong thói quen và sự thờ ơ.

Một người bạn vừa gởi cho tôi cái video clip đường lên núi Hoa Sơn bên Trung Quốc. Con đường cheo leo khủng khiếp, có đoạn người lên phải lần từng bước, bám theo mắt xích của những sợi dây sắt dùng làm rào ngăn trống trải ở khúc quanh các sườn núi hiểm nghèo. Dư luận cho biết hàng năm có cả trăm nạn nhân sẩy chân rơi xuống vực, chết mất xác nhưng số người hàng ngày lên núi vẫn đông, như một đàn kiến nhỏ cần cù, mải miết đi. Ðộng cơ nào thúc đẩy họ? Duyên lành, phúc đức của cuộc hành hương tìm Phật? Thách đố với số phận để biết mình gan dạ tới đâu? Ðể có kinh nghiệm nếm trải một điều to lớn trong cuộc sống không có gì vui và đáng hãnh diện, ở một đất nước mà sáng kiến và nhu cầu thi thố của người dân không có nhiều nơi và nhiều cách để bộc lộ?

Người đi đã vậy, những người xây dựng Hoa Sơn đã làm cách nào tạo ra cảnh trí hùng vĩ giữa thiên nhiên núi non hiểm trở, làm nên một kỳ quan vượt khỏi tầm tưởng tượng của con người như thế này? Ðâu phải chỉ có Tạo Hóa là đấng duy nhất làm nên những kỳ công khó hiểu? Ngồi yên trước máy điện toán, quan sát những thước phim chuyển động trên màn hình, tôi cảm nhận nỗi sợ hãi làm lạnh buốt sống lưng, tựa như thân thể chạm vào làn da trơn nhẫy, mát lạnh của một con rắn độc trườn trong áo.

Khách hành hương chiêm bái, đặt bước tới tam bảo chênh vênh trên đầu non, là tới được Niết Bàn ở ngay đời này, chứ còn gì nữa? “Mai sau dù có bao giờ, đốt lò hương ấy, so tơ phím này…” Chặng đường lên đã khó, chặng đường về còn khó mấy lần hơn. Một chuyến đi bao nhiêu là cảm xúc, bao nhiêu là bài học, đủ làm phong phú một đời người. Không biết có ai đã viết ký sự du ngoạn về chuyến đi thật hy hữu này chưa?

Tôi cũng tình cờ được dự khán trên ti vi, băng tần 25 của Time Warner cable, một buổi nói chuyện rất lý thú của Dr. Wayne W. Dyer. Ông là tác giả của hai bộ sách “Excuses Begone” và “Virus of the Mind” mà độc giả có thể tìm mua ngoài các tiệm sách hay trên mạng. Là một diễn giả, ông có tài hùng biện. Là một tác giả, ông có tư tưởng sâu sắc. Là một người thường xuyên phấn đấu với bản thân, ông có nhiều trải nghiệm tích cực. Ðối với ông, không một ai nên giữ trong tự điển ngữ vựng của mình những chữ “tại, bởi vì…”

Ông nói ông không cần phải giải thích với ai cả ngoài giải thích với bản thân. Theo ông, khi bạn nghĩ bạn không thể làm được một việc gì và bạn bỏ cuộc ngay trước khi thử bắt đầu, tất nhiên bạn sẽ không đi tới đâu hết. Trái lại, khi bạn nghĩ bạn có thể làm được, 50% bạn vẫn có khả năng thất bại nhưng ít ra bạn cũng có 50% cơ may thành công, nghĩa là một nửa hy vọng đi tới cái nơi bạn muốn. Vậy, tại sao không chọn trường hợp có hơn một kết quả? Sợ thất vọng? Sợ bị tổn thương? Có con đường nào đưa đến thành tựu mà không trầy vi, tróc vẩy?

Ngoài ra, theo Dr. Wayne, những tư tưởng yếm thế, tiêu cực, sân hận… đều là virus gây bệnh cho trí não chúng ta. Phải chữa chạy, thuốc men, tập thể dục (cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen) để tống khứ chúng ra khỏi đầu óc chúng ta thì nhiên hậu chúng ta mới có sức khỏe, sự trong sáng trong tâm linh để sống tràn đầy cuộc sống của chúng ta. Không nhận diện được chúng, để mặc cho chúng mai phục bên trong và ngỡ chúng với ta là một xương một thịt thì chúng tha hồ phá phách, tác yêu, tác quái cho tới khi bệnh hết thuốc chữa.

Quả thật xung quanh chúng ta vẫn có rất nhiều những điều hết sức tầm thường, giản dị, mà nhiều khi chúng ta không để ý thấy, phải chờ có ai đó nhắc nhở, tựa như những bông violette nép dưới khóm lá thấp, chờ một cơn gió qua làm thoảng mùi hương, lay động cánh lá để nó hiện ra… Ðối với ông, không phải vấn đề nào cũng giải quyết được. Khi thực sự không thể, chúng ta phải vượt qua để sống còn.

Nói xong, Dr Wayne rao bán sách. Trước đây, cứ theo dõi những chương trình như chương trình này, đến phần bán sản phẩm liên quan tới nội dung buổi nói chuyện của diễn giả, tôi lại cười thầm, nhủ lòng: “Cũng đến chỗ này thôi!” Làm như kiếm tiền là không quân tử, là một cái tội. Nhiều lần như vậy, có một lúc tôi chợt nghiệm ra chính tôi cũng tiêm nhiễm sâu đậm nền văn hóa coi nhẹ tiền tài của ông cha mình thời xưa.

Giờ đây, chúng ta đang sinh sống ở một đất nước quá to lớn, mọi việc đều tính bằng con số, không một công trình tử tế nào muốn mở rộng đến đại chúng mà không cần đến phương tiện tài chánh. Ở đây, khả năng và nghệ thuật tiếp thị là nền tảng của mọi sức mạnh kể cả sức mạnh tinh thần. Người làm ra sản phẩm, bất luận thuộc lãnh vực nào, muốn có nhiều người biết đến và sử dụng, đều phải gánh thêm nỗi nhọc nhằn rao bán sản phẩm ấy. Ví von thực tế, cưu mang rồi khai sinh một đứa bé chưa đủ mà còn phải nuôi dưỡng nó khôn lớn, trở thành người hữu dụng. Ðây là cả một công trình liên tục và dài hơi.

Cứ thử nghĩ, Dr Wayne không bán sách của ông thì chắc chắn ông không có cách nào mua được thời lượng phát hình chương trình của ông để chuyển tải tới người xem những suy nghiệm khôn ngoan ông muốn chia sẻ. Thiết tưởng mỗi người chúng ta cần làm quen với nền văn hoá công bằng và hợp lý của nước Mỹ: trả tiền để mua cái gì mình cần.

Viết đến đây, tôi nhớ lại những kỷ niệm buồn khi còn trông coi tờ nguyệt san PNGĐ. Nhiều bà, nhiều chị, cầm lên tay tờ báo mới ra khỏi nhà in, dáng vẻ muốn đọc, muốn xem, nhưng lại ngần ngại phải trả vài đồng để lấy một số đem về nhà. Ai cũng biết các bà, các chị không nghèo số tiền lẻ nhỏ nhoi in trên bìa báo mà chỉ là vì nhu cầu xem và đọc chưa thực sự thôi thúc, các chị cũng chưa quen với việc trả tiền để mua một sản phẩm trí tuệ, nghĩa là một món không ăn được để thấy ngon miệng, không mặc được để thấy đẹp ngay, không là chai nước hoa cho mái tóc các chị mượn hương thơm, không là thỏi son cho đôi môi các chị mượn màu hồng của nó. Phải cần thời gian để những trang sách đọc đó đây, lưu giữ kỹ và thấm ngấm trong tâm hồn các chị, như rượu cũ dậy hương, như kim cương kết tủa, ánh lên trong đôi mắt lung linh niềm hạnh phúc và tự tin của một người được trang bị đủ kiến văn và kỹ năng để biết rõ bước chân mình đi về đâu trong cuộc lữ hành qua thế gian này, không vấp váp, không mất phương hướng và lạc đường.

Con đường Orangewood đoạn giữa Euclid và Brookhurst, trong buổi sáng Chủ Nhật Tháng Tám khá muộn này trông sạch sẽ và ngăn nắp một cách đáng yêu. Xe cộ lưu thông thưa thớt, lịch sự chờ nhau ở ngã tư có ưu tiên và lăn bánh chậm rãi. Có một lằn kẻ sơn trắng ôm theo bờ lề để những chiếc xe đậu ngay ngắn, đều tắp. Bên kia cái stop sight đầu tiên từ ngã tư Euclid, có cả một bóng đèn đỏ chớp tắt để lưu ý tài xế qua lại, là chùa Khánh Hỷ, kín đáo nép mình trong màu xanh mướt mát của cây lá tươi trẻ dài theo hai bên lối vào.

Ngoài các ngôi chùa kiến trúc quy mô và hoành tráng với mái cong chạm trổ rồng phượng, phần đông các chùa quanh vùng Little Saigon được cải biến từ những ngôi nhà mua lại của cư dân. Với cá nhân kẻ viết bài này, những ngôi chùa nhỏ tùy duyên mà hình thành như nói trên có chút gì gần gũi và thân thiện với Phật tử trong đời thường hơn là những kiến trúc nguy nga giữa phố sá nên thiếu hẳn thiền vị so với chùa ở quê nhà, cảnh trí u mặc, thanh tịnh và xa hẳn phồn hoa.

Ngôi Tam Bảo của chùa Khánh Hỷ chiếm phần diện tích lớn nhất của căn nhà, đèn nến sáng choang, bài trí đơn giản song không kém phần uy nghi. Ngoài tượng Phật Thích Ca ngự giữa chánh điện, còn pho tượng nằm lúc Phật sắp nhập diệt, dung quang vẫn sáng ngời. Không một phút giây xao lãng sứ mệnh hoằng dương đạo pháp nên Phật không ngớt hỏi các sa môn theo ngài ai còn điều gì chưa quán triệt thì hãy đặt câu hỏi.

Ngày nay, Phật tử lên chùa lễ Phật để tìm được câu trả lời cho nhiều nỗi băn khoăn: vì sao đứa con trai duy nhất, hiền ngoan rất mực lại chết vì tên bay đạn lạc? Vì sao tài sản gây dựng bao nhiêu năm khó nhọc, mất sạch trong vài tuần? Vì sao ăn ở hết lòng mà chồng/con phụ rẫy? Câu hỏi trong dân gian hằng hà sa số, câu trả lời đến từ sự tĩnh lặng trên khuôn mặt từ bi của Phật, trong khói hương nhẹ nhàng tan biến, ở một góc sân chùa thanh tịnh cỏ cây xanh như không nơi nào khác xanh đến thế, đung đưa tiếng cái phong linh trên cành ngọc lan khẽ ngân lên trong gió, ở đôi mắt thăm thẳm bóng chiều của người đồng đạo…

Lên chùa lễ Phật hay làm công quả để tạm buông bỏ, tạm quên mọi phiền trược, một nơi thiện nam tín nữ tới để mở lòng, khai trí, nghĩ những điều lành và nói với nhau bằng ái ngữ. Bao giờ thì trong tâm mỗi người có một cảnh chùa để Phật ở cùng?

(Bùi Bích Hà)

Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSun Sep 09, 2018 12:18 am

.

Lẻ Bóng
Bùi Bích Hà


Ông là một trong những bác sĩ Việt Nam di tản kịp trong biến cố 30 Tháng Tư, 1975. Tới Mỹ, ông đi học lại, hành nghề rất sớm và thành công tại quận Cam ít nhất trên ba thập niên cho tới khi nghỉ hưu.

Tất nhiên như mọi người có cùng địa vị với ông, ông làm chủ một quỹ về hưu khá lớn, cho phép ông vẫn giữ nếp sống thoải mái như thời còn làm việc. Chỉ có điều, ông than thở: “Nhà cao cửa rộng phải bán đi vì lầu cao, đầu gối đau, không lên xuống cầu thang được, chưa kể nhà lớn quá mà một thân một mình, ở sao hết? Sức đâu mà dọn dẹp?

Nhìn cái hồ bơi đầy lá vàng chỉ thêm cám cảnh. Thảm cỏ sân trước, vườn sau cần người chăm sóc nhưng người làm vườn khi tới khi không, gọi khi được khi mất, chỉ tổ bực mình, nhức đầu. Mời các con, cô cậu nào muốn lấy cái nhà, ông giao nhưng chúng nó, thứ nhất đã có nhà rồi, đẹp và sang gấp mấy lần cái nhà của ông ở Fountain Valley, mắc mớ gì phải nhận của ông để bị anh chị em nhòm ngó, tỵ nạnh, chưa kể nhận cái nhà rồi, sau này khi ông cần gì, nó sẽ là đối tượng thứ nhất được chiếu cố và giao phó trách nhiệm.

Ông đành bán nhà, dọn vào một căn mobile home ở giữa khu Little Saigon cho ông tiện đi lại hoặc hẹn hò bạn bè cũ mới. Nhà ba phòng, sửa sang tươm tất trông cũng khang trang, đẹp mắt, nhưng với ông hôm sớm vào ra một bóng, vẫn còn quá dư thừa. Mấy bụi hoa xung quanh nhà được cắt tỉa gọn ghẽ vì người phụ trách cây cảnh của chủ đất rất dễ gọi để nhờ vả. Tuy nhiên, “vườn Thúy” của ông thiếu đôi mắt phượng nên không được sum suê và mỹ quan như bên hàng xóm. Ông nhớ cái vườn cây quý tự tay ông đi kén chọn mua giống, chăm bón và săm soi những ngày xưa thần tiên đã xa xôi rồi, ông tặc lưỡi, lắc đầu mấy cái, như người đi dưới cơn mưa muốn rũ sạch những giọt buồn trên khóe mắt.

Nhà đã vậy, xe đẹp cũng thường xuyên nằm ụ vì ông không còn đi đâu xa, ngay cả đi gần thì cũng phải về nhà trước khi tắt nắng vì mắt quáng. Gần đây, vẻ ngoài cái xe và ông chênh lệch nhau nhiều quá, một bên bóng lộn, khỏe mạnh, vạm vỡ, một bên hom hem, xập xùi, yếu ớt, khiến ông ngại ngùng mỗi khi ngồi vào ghế lái, chậm rãi lùi xe ra khỏi gara mà có người đang nhìn ông.

Thêm nữa, do thị lực yếu đi, ông không mấy tự tin vào khả năng ước lượng khoảng cách của cặp mắt mỗi khi cần vào một chỗ đậu xe hơi chật, sợ cọ quẹt, nên ông bắt đầu thấy cái xe Lexus 450 của ông không thích hợp với ông nữa. Gần đây, ông nghe bạn bè kháo nhau xe Honda kiểu Civic đời 2018 rất đẹp, đầy đủ tiện nghi, thoáng nhìn sang trọng không kém kiểu xe đắt tiền, mua mới từ dealer ra chỉ trên dưới $20,000, xài xăng thường, đổ đầy bình chỉ $20 một lần, bảo hiểm cũng rẻ, bảo trì càng không tốn vì hợp đồng bảo trì miễn phí của dealer có lẽ dài hơn số năm tháng còn lại của ông, chưa kể xe nhỏ nhắn, vào ra parking dễ dàng. Ông đang tính bữa nào chờ có đợt xeo, sẽ ra Honda World đổi một chiếc.

Lúc mới dọn vào khu mobile home trên đường Bolsa, thấy chợ Mỹ, chợ Việt đều gần, ông sung lắm, tự đi chợ và nấu nướng. Được ít ngày, một bữa ông đang ngồi xem ti vi, thoáng thấy có lửa cháy trên màn hình, ông hơi ngỡ ngàng, chưa biết là chuyện gì thì ông nghe mùi khét. Quay nhìn vào bếp, ông hết hồn thấy lửa đang phừng phừng. May phước đầu óc còn tỉnh táo, ông phóng ba bước tới cái lò và nhanh tay vặn cái nút tắt. Sau lần đó, lớp thì cọ rửa soong nồi, lớp lau bếp bắt mệt, may là máy báo khói chưa hú chớ không cả xóm kinh động rồi, ông quyết định thôi không nấu nướng nữa mà ăn cơm phần hay cơm chỉ cho khỏe, ngày nào ưa ăn ngon thì đi kéo ghế. Tủ lạnh nhà ông lúc nào cũng có chả lụa, chả chiên; tủ pantry thì đầy oat meal, súp hộp và mì gói, không bao giờ sợ cơ lỡ.

Thức ăn giải quyết được rồi nhưng ông nói ăn một mình buồn quá, nhiều khi nghẹn ngào muốn buông đũa, buông chén. Ông than không có gì chán hơn là cứ lui cui cặm cụi gắp, nhai, nuốt một mình, xung quanh vắng lặng không tiếng người, không cả tiếng dép hay tiếng rót một ly nước. Có bữa ông bưng cái tô vừa cơm vừa thức ăn ra đứng bên cửa sổ bếp, ngó mông ra ngoài, thử coi có gì vui không nhưng cũng đâu có gì vui?

Cư xá của ông toàn người cao niên, vắng cả tiếng trẻ con nô đùa. Cụ Nguyễn Du chẳng đã từng hạ bút viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!” ư? Trong trí tưởng ông, thấp thoáng hiện lên quang cảnh gia đình đông vui ngày nào, vợ ông  tươi mát như một bông huệ tây, ngồi giữa đám cháu nội ngoại lau hau, đứa này níu tay ông, đứa kia níu tay bà, om xòm tiếng Anh tiếng Việt, grand ma, grand pa, bà ngại, ông ngại, hỏi một trăm câu hỏi mà ông chỉ trả lời qua loa rồi bán cái cho bà, bà không biết sao thì lại chỉ qua ông.

Riêng ông chốc chốc nhìn đồng hồ, chỉ mong sao đến giờ, bố mẹ chúng tới đón hết đám trẻ của từng nhà về để trả lại ông bà ngôi nhà yên tĩnh trong buổi chiều. Trong khi bà kiên nhẫn dọn dẹp đồ chơi và thức ăn thừa mứa do lũ trẻ bỏ lại, ông ngồi duỗi chân xem ti vi tin tức hay ca nhạc, chờ bữa ăn tối ngon lành, nóng sốt, thay đổi hàng ngày nhờ bàn tay của bà.

Bây giờ, ông đảo mắt nhìn một lượt căn nhà sạch sẽ, sàn gỗ không một cọng rác, một mẩu giấy vụn, bàn ghế ngay ngắn, đồ đạc đâu vào đấy, trật tự, lạnh lẽo như chưa từng xô động, như không có ai ở, ông thấm ngấm đến tận xương tủy cảm giác hiu quạnh lạ thường. Đàn cháu nội ngoại ngày nào ríu rít như chim, nay đã trưởng thành, vào/ra đại học hết. Thỉnh thoảng có đứa còn nhớ ông, điện thoại hỏi thăm, tới chở ông ra phố uống cà phê hay ăn chè, khiến ông vui cả ngày.

Bạn bè cũ biết ông thích hát, có người rủ ông đi karaoke buổi tối ở các câu lạc bộ khiêu vũ. Ông theo họ đi giải trí cho quên bớt thời giờ trống trải nhưng trở ngại của ông là ông thích hát song không thích nhảy đầm. Hát xong vòng đầu, ông phải chờ khá lâu mới đến vòng nhì và sẽ về khuya lắm, ông sẽ mất ngủ vì quá giấc rồi lại phải uống thuốc ngủ mà ông thì rất sợ bị nghiện. Vì vậy, ông không đi thường xuyên như lúc bắt đầu nữa, đành chấp nhận nhiều hôm một mình đối bóng với đêm trường.

Năm nay ông đã ngoài 80 nhưng 10 năm trước ông chỉ mới ngoài 70. Chẳng phải ông vì lễ giáo của tông môn và sợ miệng đời mai mỉa mà nhắm mắt bỏ qua cơ hội đi tìm kiếm một hạnh phúc cho quãng đời còn lại của ông ư?

Như gia chủ buổi họp mặt bằng hữu hôm nay cũng ngoài 70 khi hai ông bà gặp nhau trong tình cảnh góa bụa, hiểu ra họ cần nhau và quyết định tạo dựng một mái ấm chung với con cái hai bên đều đồng thuận chọn lựa của bố mẹ. Họ vui lòng trả giá để có những buổi sáng thức dậy cùng nhau đón mặt trời và nghe chim hót trong vườn, ngồi bên nhau uống tách cà phê thơm đầu ngày, ăn món điểm tâm tùy thích, nói năm ba câu chuyện trên trời dưới biển đem lại cho nhau những tràng cười sảng khoái.

Tại sao khước từ những ngụm mật ngọt ấy, cái hạnh phúc ấm êm cận kề ấy mà nghĩ rằng mình khôn ngoan? Thật ra, chỉ vì vẩn vơ lo sợ những điều mình không biết trước và biết chắc có xảy ra hay không? Mà nếu biết trước và biết chắc, liệu có tránh được không, ngay cả xoay chuyển chúng được không? Ở chặng đường cuối một đời người, không ai còn nhiều thời gian phí uổng nữa nhưng có lẽ phí uổng là cách giải quyết dễ nhất khi không có nhiều chọn lựa.

Trên cõi trần gian nhiều phiền trược này, chỉ nghe con người phàn nàn đời không một ngày hạnh phúc nhưng không nghe ai thở than đã một thời hạnh phúc cho dù sau đó, như bầu trời mưa nắng bất thường, vạn vật đổi thay và hạnh phúc cũng sang trang…

Riêng ông, hoàn cảnh có khắc nghiệt hơn vì bà đang ở nhà dưỡng lão. Hằng ngày vào thăm bà, nhìn vào đôi mắt trống vắng, lạnh băng của bà, cầm hai bàn tay bà ấm thân nhiệt, không ấm một dấu hiệu cảm xúc, ông nghẹn ngào nói thầm: “Em ơi, em đã trả lại mọi buồn vui cho đời, không còn bận tâm chi nữa, có biết là anh rất khổ không?” Ông hỏi rồi ông tự nghiệm ra câu trả lời, không ai có thể giúp ông một câu trả lời nào khác.

Mỗi ngày qua, hết chiều đến đêm, hết những công việc phải chu toàn cho mình trong cuộc sống như một bổn phận không thể chối từ, ông ngồi trên ghế bành, mở ti vi cho có tiếng người, không xem, không nghe. Mở nhạc để âm thanh cho ông sự êm dịu trong căn nhà lạ dù ông đã ở đây gần ba năm. Nó không cho ông một hồi ức nào nên không có gì gắn bó.

Ông thèm một tách trà thơm, một ly cà phê nóng nhưng ông ngồi yên vị tại chỗ vì biết những thú vui nhỏ ấy sẽ làm ông mất ngủ. Con đường của người già là con đường trong những bức tranh hay tấm hình vẽ hoặc chụp viễn cảnh, hun hút, thu hẹp dần trong mắt nhìn.

Ông chợt mỉm cười nhớ lại câu nói bâng quơ của người bạn đồng cảnh, thốt lên trong một cuộc họp mặt anh em: “Mai mốt chắc là phải đặt mua robot của Nhật.” Câu nói nhỏ, tan vào đám đông huyên náo. Ông ngồi gần, nên lọt tai. Không biết có ai cũng lọt tai câu nói như ông nhưng cũng như ông, đã cất riêng cho mình như lời tự thú về một mơ ước không tiện bày tỏ?

Đôi mắt ông nhìn mông lung ra xung quanh, chạm vào cái kệ sách chỉ còn lại ít sách quý ông mang theo tới đây, ngậm ngùi hình dung ra đời mình như cuốn sách, nay cũng đang khép lại trên án thư. Các nhân vật có vai trò đã xuất hiện, đã làm xong nhiệm vụ, đã bước ra, chỉ còn ông ở trang cuối cùng chờ cơn gió nhân duyên thổi tắt ngọn nến từ bi trong thời kinh Bát Nhã ông tụng hằng đêm, đóng lại giùm ông cuốn sách sẽ được xếp lên kệ rồi bỏ quên như chưa từng hiện diện.

(Bùi Bích Hà)
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeThu Oct 04, 2018 4:50 pm


Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà DP-Uyen-uong-gay-canh
Ngỡ là tri âm, tri kỷ. Ngỡ là trọn đời bên nhau. Nhưng rồi nó lớn khôn èo uột bằng lo toan, cơ cực của mẹ. (Hình: shepherdshouseministries.org)

Uyên ương gãy cánh

Bùi Bích Hà


Họ là một đôi vợ chồng bắt đầu hôn nhân trong tình yêu như bao nhiêu đôi vợ chồng khác trên trần gian này. Họ từng trải qua hẹn hò, nhớ nhung, chờ đợi, khao khát, thèm muốn nhau.

Ngỡ là tri âm, tri kỷ. Ngỡ là trọn đời bên nhau. Rồi đứa con trai đầu lòng ra đời. Rồi theo sau nhiều bất bình, hệ lụy. Rồi thống hối, ăn năn. Rồi thiên đường thành địa ngục và uyên ương gãy cánh, bỏ đường bay.

Chàng đi xa, thật xa, bỏ lại người đàn bà ôm vết thương lòng quá nặng; bỏ lại đứa con thơ chập chững đi những bước chân đầu đời ngơ ngác trong nước mắt buồn tủi của người mẹ là hiện thân của khổ đau.

Tuổi thơ của nó hiếm nụ cười. Ngày tháng của nó quanh năm mùa Đông. Nó lớn khôn èo uột bằng lo toan, cơ cực của mẹ. Nó khập khiễng đi qua các lớp vỡ lòng, mẫu giáo, tiểu học rồi trung học cấp một, cấp hai, rồi tốt nghiệp ra trường, chia thời gian với những người giữ trẻ, với bốn vách tường câm nín nhiều hơn với mẹ. Cảm giác ngọt ngào của nó tới từ những gói kẹo M&M xanh, đỏ, vàng, nâu, nhận từ bàn tay người trông giữ nó để đổi lấy sự im lặng cho họ.

Ngày xếp hàng trên sân cỏ đầy nắng để nhận chứng chỉ tốt nghiệp, nghe tiếng hò hét từ hai phía khán đài của thân nhân bạn bè nó khi tên từng đứa được xướng lên qua máy khuếch âm, nó an phận biết rằng đến phiên nó, mẹ nó một mình ở đâu đó sẽ chỉ im lặng cố thu hình ảnh nó bằng cái điện thoại cầm tay của bà để giữ làm kỷ niệm.

Xong lễ, lũ trẻ như chim rời tổ, tung nón tân khoa lên trời như chính tâm hồn chúng cũng tự do bay bổng trong không gian bao la đang chờ đón, chỉ một mình nó âm thầm đi tìm mẹ trong đám đông huyên náo, trao cho bà tấm bằng bé vừa bằng hai bàn tay nó ghép lại, là quà tặng bà mong đợi, miễn cưỡng cúi đầu để nhận lại từ mẹ vòng hoa đeo cổ và chùm bong bóng mầu chúc mừng, nghe tiếng lòng riêng nó than thầm: “Trời ơi, mẹ đâu cần phải phí đồng tiền cực nhọc của mẹ để mua những thứ phù phiếm này?”

Mẹ nó vui ra mặt. Bà hỏi nó có đói không, chắc nó nôn nao không ăn phần cơm trưa bà để sẵn cho nó dưới lồng bàn? Mẹ nó từ chỗ làm, xin nghỉ buổi chiều để ra đây, nó thì quá giang đứa bạn gần nhà. Nó cảm thấy người nhẹ tưng, trống trải. Tiếng mẹ nó thoảng lên bên tai, hỏi bây giờ nó muốn đi ăn ở đâu? Nó chỉ mỉm cười theo thói quen mỗi khi không có câu trả lời, ngụ ý “Mẹ muốn sao cũng được, con đi theo mẹ.” Có lúc nó nhận ra giữa mẹ nó và nó không có nhiều trao đổi nên nó hầu như không có khả năng diễn tả, thậm chí không có cả ý muốn chia sẻ những gì nó cưu mang.

Để không làm tắt niềm hy vọng của mẹ, nó ghi tên đi học bán thời gian ở một trường đại học cộng đồng gần nhà và nó đọc báo tìm việc làm. Nó xin được một công việc với lương tối thiểu.

Được vài tháng, một hôm nó nói với mẹ: “Con cần ra ngoài để có chỗ học hành tiện nghi. Vả lại, con đi học, đi làm về khuya, sẽ làm mẹ khó ngủ.” Mẹ nó không hốt hoảng như nó lo sợ, bà bình tĩnh hỏi lại nó như thể bà đã đoán trước sự việc phải xảy ra: “Con ở đâu? Với ai? Hay là bây giờ con đi làm, có lương rồi, mẹ cố dọn ra căn chung cư có hai phòng?”

Nó dứt khoát trả lời: “Không! Mẹ ở đây quen rồi, có hàng xóm, láng giềng. Mẹ không cần đi đâu cả. Cho con ít thời gian, con sẽ thu xếp tốt hơn. Trong khi chờ đợi, nếu mẹ muốn, con sẽ về ăn tối với mẹ mỗi ngày cho tới khi nào mẹ chán, không muốn chứa con nữa thì bảo con!” Nó gượng cười cho câu chuyện bớt nghiêm trọng, để mẹ nó bớt lo nghĩ.

Và mẹ nó nhượng bộ. Nó dọn đến chỗ thằng bạn thân có cùng hoàn cảnh côi cút như nó. Hai đứa share một căn phòng có lối đi riêng, ở phía sau một ngôi nhà lớn chủ là người đồng hương. Chúng nó có thời khóa biểu riêng, mạnh ai nấy đi về, thỉnh thoảng mới gặp nhau, chuyện trò dăm ba câu vẩn vơ trước khi ai đâu lo việc của người đó.

Thằng bạn sáng ngủ dậy muộn, chiều đi học, tối đi bưng phở ở một tiệm đông khách, quá nửa đêm mới mò về tới phòng, rửa tay, rửa mặt rồi lăn ra ngủ như củ khoai. Thấy nó hay buồn, đêm trằn trọc tới khuya, thằng bạn rủ nó uống rượu, hút thuốc lá, hút cần sa, bảo nó: “Sao mày ngu thế, ốc sên? Buồn làm mẹ gì, có thay đổi được gì đâu, chỉ phí uổng thời giờ đời trai thôi! Noi gương tao đi, mày sẽ vui, sẽ hết buồn mà không phải sợ nghiện ngập vì mày thấy tao đấy, chỉ giải trí thôi mà, có nghiện đâu!”

Có lúc nó xiêu lòng, đã toan thử nhưng rồi từ trong sâu thẳm đáy lòng, nó biết nó không giống thằng bạn. Nó không chỉ có một nỗi buồn để tìm cách quên đi như người ta thường dùng con dao cắt bỏ cục bướu mà cả cuộc đời nó, cho tới nay, là một tấm bố đan kết chằng chịt những sợi màu tăm tối, ảm đạm, cuộn nó, gói nó, mỗi vùng vẫy của nó chỉ làm nó bị siết chặt thêm và đau đớn hơn.

Đã lâu rồi, nay nó chỉ còn cảm giác bần thần, mỏi mệt, không muốn động cựa chân tay, thèm ngủ mà không ngủ được, khiến nó thường xuyên bực dọc, cáu kỉnh, thù ghét cha mẹ tạo sinh ra nó trong sự nhẫn tâm, thù ghét chính nó với sự hẩm hiu của mình. Nó muốn bỏ đi thật xa thế giới loài người đầy rẫy tội lỗi và sự ác. Nó muốn đến nơi nào có đồng cỏ xanh tươi, êm ả, cho nó được ngả tấm thân đau, nhìn mây trắng bay và ngủ một giấc dài.

Sau cùng, nó nghiệm ra nó muốn chết. Nó thương mẹ lắm nhưng nó không thể làm nhẹ nỗi khổ của bà. Biết đâu, vì có nó, mẹ đâm ra hy vọng hão huyền, khiến bà không sống thật được cuộc đời của bà một số năm bằng với tuổi của nó. Tội nghiệp và bất công cho mẹ xiết bao! Nó sống để trơ mắt nhìn mẹ oằn vai gánh vác sự bất công ấy, chẳng khác gì bố nó mà nó là hiện thân gần gũi và đáng ghét nhất!

Ý nghĩ sự chết sẽ giải thoát nó khỏi những nhọc nhằn vô ích, kể cả chính nó rồi sẽ lặp lại vở bi kịch bố nó đã diễn xong màn một, nó tiếp tục màn hai với một bà mẹ khổ đau của những đứa con vô phước khác. Không. Nó cương quyết từ chối vai trò bất nhân và bỉ ổi ấy. Nó phải phản kháng con đường được an bài sẵn ấy.

Tiếc rằng con đường nó chọn lựa, cho nó cảm giác làm chủ được mình cũng chỉ là con đường được an bài sẵn, bởi vì khi quyết định chấm dứt cuộc sống trên mặt đất này, nó cũng sẽ chấm dứt luôn những cơ hội thể hiện mình rõ nét hơn trong từng giây phút nó hiện hữu, ngay cả trong sự bất toàn, bằng ý chí riêng không có chỗ nào cho hành vi tự hủy mình.

Tiếc rằng nó đã không có ai, cũng không tìm kiếm một người nào để thổ lộ những suy nghĩ cùng đường mà lẽ ra, đem chia sẻ với một ai đó, nó sẽ thấy con đường nó tin là đã an bài, cũng chỉ là một lựa chọn có thể thay đổi hay hơn với tự do nó vốn có.

Tiếc rằng nếu nó mở lòng nói cho mẹ nó biết ý định của nó, nó đã có cơ hội hiểu vì sao mọi khổ đau thế gian đều có ý nghĩa, vì sao mẹ vẫn gánh vác được đời mẹ để thấy cái ngày nó mũ áo tân khoa, ngồi giữa bạn bè trên khoảng sân đầy nắng, chờ nhận tấm bằng tốt nghiệp từ thầy cô giáo, những người tử tế đã cùng với bà nuôi dạy nó khôn lớn, chuẩn bị hành trang cho nó đi vào tương lai.

Một ngày trời đất buồn bã, thằng bạn nó về phòng, thấy nó nằm im lìm, ngay ngắn trên chiếc giường nhỏ, hai tay xếp chéo đặt ngang bụng, đầu nó trùm cái túi nhựa đi chợ, buộc lại thật chặt dưới cằm. Thằng bạn hay cười cợt của nó hỡi ơi, chết lặng một lúc rồi buột miệng buông ra tiếng chửi thề đầy hối tiếc “Shit,” chợt hiểu ra cách nhìn đời như một trò đùa của nó cứu được nó nhưng không cứu được bạn nó.

Tin xấu loan ra. Thầy cô giáo, bạn bè cũ tiếc thương muộn màng với lời chào từ giã của nó trên Facebook không một ai kịp đọc. Mẹ nó như cái cành khô mùa Đông bị dập vùi giữa cánh đồng băng tuyết. Bố nó ở xa được báo tin nhưng không về. Bà chủ nhà vừa lau mắt bằng chiếc khăn giấy, vừa ngậm ngùi thở than: “Thằng bé trông hiền lành mà ngờ đâu nó gan góc thế? Mai kia bán nhà, không biết phải khai báo thế nào đây?”

Như hòn sỏi nhỏ ném xuống hồ làm mặt nước vỡ ra, xao động giây lát rồi sẽ yên lặng khép lại. Mọi người ồn ào vài hôm rồi sẽ quên đi. Riêng kẻ viết bài này, cảm giác ảo não cứ đeo bám trong lòng.

Biết rằng không chỉ một đứa con ở tuổi hai mươi vừa nằm xuống giữa tiệc vui chưa bắt đầu mà nhiều đứa con khác ở nhiều độ tuổi khác và nhiều nơi khác, không kham nổi cảnh đời nghiệt ngã, không sáng lên được với mặt trời mỗi sớm mai, không yêu được cuộc sống, thiên nhiên và con người với bao điều kỳ diệu trong tầm mắt, tầm tay, xung quanh chúng, mà chấp nhận khô héo, tàn tạ từng ngày rồi rơi rụng, là những nụ mầm không chịu nở nhưng cũng không làm ai bận tâm chữa chạy.

Gia đình, nhà trường, xã hội đã làm hết trách nhiệm của mình chưa? Hay là nhịp sống bận rộn, vội vã ở nơi này, càng bận rộn và vội vã hơn với các sản phẩm công nghệ tin học mới khiến mọi người bị cuốn hút vào một nhu cầu mới, dựng lên những tấm chắn vô hình mà kiên cố giữa con người với con người; lấy đi khả năng tế nhận của đôi mắt, lắng nghe của trái tim, vốn là căn bản của cảm thông, của yêu thương; lấy đi những khoảnh khắc an tịnh của tâm hồn vốn là khu vườn nuôi dưỡng lý tưởng và gieo hạt cho tương lai?

Thiếu các tố chất mang hơi hướm con người, cuộc sống đang phải đối đầu với mùa hạn hán lớn làm khô cạn suối nguồn hạnh phúc và trẻ con là những nạn nhân chết khát đầu tiên thật đáng thương.

(Bùi Bích Hà)
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeFri Oct 26, 2018 11:35 pm

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Hinh-1-day-con

Tản mạn về văn hóa
Bùi Bích Hà


Chương trình pháp thoại của Tỳ Kheo Hằng Trường tối Thứ Bảy, 6 Tháng Mười, 2018, nghe được qua làn sóng 106.3FM của đài phát thanh Việt News Radio, nội dung bàn về sự khác biệt văn hóa thu hẹp trong sinh hoạt của cộng đồng người Việt chúng ta. Phản chiếu rõ nhất qua tương quan gập ghềnh giữa cha mẹ và con cái, hai thế hệ thấm nhuần nhiều khác biệt tới từ nguồn gốc và quá trình hội nhập vào xã hội Mỹ.

Bài pháp thoại dài 30 phút, đưa ra bốn “tầng” văn hóa tạm đặt tên là văn hóa phục tùng, văn hóa cởi mở, văn hóa tình thương và văn hóa giác ngộ.

Nhiều thập niên trước đây ở quê nhà, người Việt chúng ta chịu ảnh hưởng nặng từ nền văn hóa Khổng Mạnh, rao giảng, thậm chí áp đặt nền luân lý tam cương quân/sư/phụ trong đường lối giáo dục ở cả ba cơ chế gia đình, nhà trường và cộng đồng. Trong gia đình, con cái phải tuyệt đối vâng lời phụ huynh. Ở nhà trường, tuyệt đối vâng lời thầy giáo. Ngoài cộng đồng, tuyệt đối tôn trọng người trên trước, kính lão đắc thọ.

Người lớn dạy dỗ người nhỏ bằng kinh nghiệm đóng khung của thế hệ mình, không đếm xỉa tới quy luật tiến hóa của xã hội (nếu không nói là ngăn chặn hay phủ nhận). Người nhỏ không được có tư kiến, không được “cãi.”

Tai hại lâu dài của “truyền thống” này, di căn tới bây giờ, là người Việt chúng ta dù đã ra khỏi nước, đi tới chân trời góc bể nào, tuyệt đại đa số vẫn chưa quen, chưa chấp nhận tinh thần thảo luận, nghĩa là khuyến khích, lắng nghe, tôn trọng quyền suy nghĩ và bày tỏ khác mình của người khác.

Thảo luận hay tranh luận nhằm bênh vực quan điểm của mình theo sự xác tín cao nhất để thuyết phục nhưng cũng để biết quan điểm của người đối thoại, rất khác với cãi nhau để tranh thắng lấy được, bất kể sự thật rành rành và lòng công chính.

Sau nữa, thảo luận/tranh luận là đi tìm câu trả lời cho vấn đề, câu trả lời dù thế nào, dù chưa thể làm sáng tỏ vấn đề, cũng không gây ra, không liên quan gì tới sự thương tổn của mỗi bên. Thảo luận/tranh luận không thể tiếp tục khi người trong cuộc cảm thấy cá nhân mình bị tấn công và trong lòng dấy lên sự ghét bỏ, có khi đẩy tới thù hận.

Nhẹ nhất thì hẹn nhau từ nay trở đi, không đề cập tới những vấn đề tương tự nữa. Tránh cãi nhau để giữ hòa khí là một cố gắng tốt nhưng mặt sâu xa hơn, nó dựng lên rào cản trong cảm thông và sự hòa đồng, nghĩa là sẽ có những lãnh vực không thể chia sẻ được với nhau (thì sẽ chia sẻ với ai?).

Văn hóa phục tùng dẫn tới hai hệ quả cho thế hệ sau: Tinh thần trông cậy, ỷ lại; triệt tiêu ý niệm tự do và khuynh hướng sáng tạo.

Một khi xã hội thay đổi (sau cuộc di tản Tháng Tư, 1975) phong tục, tập quán phát xuất từ nền văn hóa phục tùng như cái hàng rào bị giông bão xô sập, các hình thức tôn ti trật tự bó buộc trước đây không còn được tuân thủ dưới ảnh hưởng của nền văn hóa khai mở phát sinh ồ ạt sau biến cố như nấm gặp mưa, đưa tới mâu thuẫn khốc liệt giữa hai khối người đại diện hai nền văn hóa nói trên sinh sống ngoài xứ sở.

Thế hệ đi sau tiếp cận những không gian mới, không còn mảy may quan tâm in đúng lên dấu chân của thế hệ đi trước, không chịu áp dụng những kinh nghiệm sống không còn hữu hiệu cho họ trong cuộc sống hiện tại, không còn nhắm mắt tin quả đất hình vuông vì khoa học chứng minh cho họ thấy là quả đất hình cầu dẹt ở hai đầu…

Nhà trường, xã hội, bản năng sinh tồn thúc đẩy mỗi người có tư kiến và được tự do bày tỏ. Văn hóa phục tùng không còn chỗ đứng, phải nhượng bộ nếu không muốn mất trắng. Tuy nhiên, nhượng bộ với ít nhiều khiên cưỡng, mỗi bên cố thủ phía sau thành lũy của mình để tạm có an toàn rất khác với hòa hợp có khả năng đến gần chân lý và tạo lập sức mạnh chung.

Muốn tiến tới cảnh giới mong ước này, bài pháp thoại kêu gọi tình thương vì tự cổ chí kim, theo kinh nghiệm muôn đời đúng của loài người, chỉ có tình thương từ trái tim với cấu trúc duy nhất cho mọi ai và không bao giờ đổi thay mới giúp xóa nhòa mọi biên giới và hàn gắn mọi rạn nứt. Cứ thương nhau là thấy người trong ta và ta trong người, là hết tị hiềm và phân chia.

Tình thương thì vô điều kiện đấy nhưng để cảm nhận được tình thương, dường như cần có điều kiện và điều kiện này được gọi tên trong bài pháp thoại là giác ngộ. Nói đến giác ngộ là chạm vào thế giới tâm linh với nhiều câu hỏi không có giải đáp.

Nhiều người tin rằng giác ngộ có được là nhờ công trình tu tập. Nhiều người khác thấy giác ngộ là một ơn phước tình cờ, tựa như ơn mặc khải bên Công Giáo, khi một tín hữu bất ngờ được soi sáng và thăng hoa. Cũng còn trường hợp khác nữa khi giác ngộ đến sau một biến cố lớn làm đảo lộn cuộc sống đang yên ả, như tia chớp nháng lên soi tỏ vạn vật dưới bầu trời kéo mây đen kịt.

Trường hợp thứ nhất nêu ra câu hỏi: tu tập để đạt tới giác ngộ hay vì đã giác ngộ nên mới tìm đến tu tập để tinh tấn hơn? Tựa như con vịt có trước hay cái trứng có trước? Trường hợp thứ hai, giác ngộ (hay mặc khải) là một ơn phước tình cờ, câu hỏi nêu ra: ơn phước tình cờ có chọn rơi vào người thụ hưởng một cách bỗng dưng không hay người này có một phẩm chất gì đặc biệt xứng đáng? Trường hợp thứ ba, giác ngộ đến sau một biến cố lớn làm đảo lộn cuộc sống, câu hỏi: có bao nhiêu người đãi lọc được bài học giác ngộ để thoát thai từ lửa đỏ như phượng hoàng và bao nhiêu người bị biến cố thiêu rụi trong đám cháy?

Cho nên, kẻ viết bài này tâm đắc cụm chữ văn hóa giác ngộ trong bài pháp thoại của Tỳ Kheo Hằng Trường. Nếu hiểu Văn Hóa là một tổng hợp những động thái sinh hoạt đời thường của một dân tộc, một cộng đồng hay một cá nhân thì văn hóa giác ngộ là một chuỗi thời gian liên tục thẩm thấu và phát triển (trong ý thức hay vô thức) những hạt mầm tư duy thiện hảo nơi những con người ấy, trở thành quán tính thường hằng và phổ cập giúp họ tự hoàn thiện mình trong từng hơi thở.

Tương truyền đức Phật có nói: Ta là Phật đã thành. Chúng sinh là Phật sẽ thành. Có lẽ nên hiểu Phật không nhất thiết mặc sa y ngự trên tòa sen mà Phật có mặt khắp mọi nơi, dưới nhiều dáng vẻ khác nhau và làm nhiều công việc khác nhau, chia nhau một cái tâm lành, tất nhiên ở mức độ khác nhau nhưng hãy bắt đầu ở chỗ bắt đầu.

Chỗ bắt đầu cũng có thiên hình vạn trạng và ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào: một nụ cười, một ánh mắt, một lời nói tử tế, một thái độ quan phòng, một lời chúc lành toàn tâm, toàn ý, một mong muốn san sẻ buồn/vui, một chia sớt những gì mình có và có nhiều…

Triết gia/nhà văn Jean Paul Sartre từng nói: “L’enfer c’est les autres.” Tạm dịch: Địa ngục là tha nhân. Do mâu thuẫn, tranh chấp, ganh tỵ. Do không dung nạp được nhau, không thương được nhau trong khi con người sinh ra với bản chất bầy đàn. Khiến con người trong cô đơn, lẻ loi, phải thống thiết kêu lên với gỗ đá xung quanh: Objets inanimés, avez-vous donc une âme? (Lamartine).

Bi kịch từ đây nảy sinh. Để chấm dứt bi kịch, con người cần một tâm thức lành mạnh ngược lại những những nét tiêu cực nói trên, chan hòa mọi khoảng cách, kê bằng mọi khập khiễng, cảm nhận trong sâu xa thân phận con người bắt đầu và kết thúc chẳng khác gì nhau để biết cảm thông và xót thương. Triết lý Phật Giáo đề cao hạnh bố thí, với ý nghĩa đơn giản nhất là mở rộng lòng mình, điều mọi người vẫn làm hằng ngày dười hình thức tặng quà trong giao tế hạn chế với đối tượng mình thương mến.

Cái vòng tròn thân ái này cần nới rộng đến vô cùng như cổ nhân đã khuyến khích, “thêm bạn bớt thù.” Cứ thử tưởng tượng xem, cuộc đời sẽ đáng sống biết bao khi mỗi sớm mai, mỗi đêm thâu, tâm hồn mọi người nghe ân tình đàn lên giai điệu, phả vào vũ trụ vô cảm những cung bậc yêu đương thay thế cho sợ hãi, đổ vỡ, và thù nghịch rồi một ngày cũng tan vào hư vô hay rữa mục trong nghĩa trang.

Có lẽ cản trở lớn nhất khi cho đi là con người cảm thấy mất mát và mất mát to lớn nhất là cái “ngã,” cái “tôi” hay “chính mình,” có biết đâu cho đi là nhân rộng nhiều lần hơn những gì mình đang có và cái “chính mình” nhỏ nhoi cũng lớn lên gấp bội khi cộng hưởng với nhiều “chính mình” khác tựa vào nhau.

(Bùi Bích Hà)
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeFri Nov 23, 2018 9:45 am

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà 2Q==

Hương xưa
Bùi Bích Hà


Tôi có vài người bạn thân thiết đã về hưu. Người còn đủ đôi, như chim liền cánh, cây liền cành. Ríu rít. Thỉnh thoảng chí chóe cho có chút rộn ràng, mắt nhìn nhau có đuôi. Người lẻ bóng, mỗi khi có dịp quần tụ, lại nhắc kỷ niệm thời uyên ương xung quanh cái ghế bây giờ bỏ không.

Chúng tôi thường hẹn nhau đi ăn ở các tiệm ăn ngoài Little Saigon vì các anh chị có thời giờ rảnh rỗi, khám phá nhiều địa chỉ hoặc món ăn lạ, hoặc cảnh trí nên thơ. Tôi rất háo hức được theo chân các anh chị đi đến những nơi mà nếu một mình, chắc chắn sẽ mãi mãi hoàn toàn xa lạ với tôi. Tôi cũng có đôi ba bạn thân thiết khác với nhiều khám phá to lớn khác mà trong khả năng hạn hẹp của mình, tôi không “đánh đu” theo được, chỉ xách hành lý tiễn bạn lên xe hoặc ngồi yên, mở to mắt hết cỡ, lắng nghe câu chuyện đường xa, xứ lạ họ kể sau những chuyến đi như chiêm bao.

Chủ Nhật vừa qua, tôi lại được tham dự bữa ăn trưa với nhóm “tinh hoa ẩm thực” nói trên.
Lượt đi, chị KC lái xe xa lộ vòng vèo, tôi không nhận ra phương hướng, thấy chừng như xa lắm. Lượt về, chị đi một quãng đường trong để vào xa lộ 55, tôi hỡi ơi, thấy xe chạy qua lối vào nhà cô con gái thứ hai của tôi ở thành phố Tustin. Thường thì Chủ Nhật cuối tuần, tôi hay nhẩn nha lấy đường 17 để đến thăm con cháu. Tôi chỉ đi quá một chút xíu vẫn trên đường 17, sẽ thấy tiệm ăn Mã Lai này bên tay phải. Hôm sau có dịp hỏi con, cô cười xì xì trả lời: “Con tới đó rồi nhưng nghĩ mẹ không thích vì gia vị chủ đạo của tiệm là nước cốt dừa và càri.” Quả là vậy. Nước chấm của tiệm dùng cho món bánh mì Ấn Độ khai vị được pha chế với nước cốt dừa và bột càri, không phải là món “hẩu” của tôi nhưng bữa đó tôi thưởng thức niềm vui của bằng hữu cũng no nê rồi! Dẫu sao, món cá rô Phi tươi deep fried, xốt chua ngọt, dòn rụm từng cái vi, cái xương nhỏ, quá ngon; món gà luộc có tên trên thực đơn là Gà Hải Nam, thơm, mượt mà như lụa, không khác gì gà Quý Phi ở Bolsa nhưng có da thịt hơn, cắn vào ngập răng, cũng rất “đã.” Nhà hàng dọn cơm trắng theo gà song khách có thể gọi thêm (side order) chén cơm nấu với nước dừa theo khẩu vị miền Nam. Món tráng miệng của nhà hàng là cà rem, đá nhận thập cẩm (?) với xương xáo, bánh lọt, đậu đỏ, dừa nước và… nước dừa.

Chỗ chúng tôi ngồi, hai phía cửa sổ mở ra khoảng sân thoáng đãng bên ngoài. Không gian buổi trưa cuối hè hừng hừng sáng, nắng trong veo và trời hây hẩy gió, khiến tâm hồn tôi cũng lao xao theo lá đùa vui trên các đỉnh cây. Tôi ngồi đối diện chị V, nghe lại cái giọng miền Nam êm dịu, tròn trịa, ấm áp, thả buông chậm rãi của chị mọi khi, pha trộn với giọng Bắc ầm ào của anh. Họ là một đôi với nhiều tương phản hài hòa, là bản trường tấu với nhiều nốt thấp cao mà tiết điệu vẫn quấn quyện trên thang âm. Nhất là lần này gặp lại, anh để bộ râu cắt tỉa khéo, trông anh giống tác giả cuốn Ngư  Ông và Biển Cả thập niên 1950, chỉ khác một chút ở tiếng cười lúc nào cũng phô hết tâm can. Trong nhóm họp mặt bữa nay, có chị D. và chồng chị mà chúng tôi hay gọi thân mật là ông J. Ở tuổi ngoài 90, ông vẫn rất phong độ trong chiếc áo sơ mi mùa hè, dáng dấp thanh lịch, đôi mắt tinh anh, nụ cười rộng và câu chuyện trao đổi duyên dáng, rành mạch. Chị D. chăm chút lấy thức ăn vào đĩa cho ông. Xong bữa, chị gượng nhẹ đặt vào lòng bàn tay ông viên thuốc với ánh mắt âu yếm. Chúng tôi ở xa nhau nên đã lâu lắm mới gặp lại, mái tóc chị nay đã hoa râm, muối nhiều hơn tiêu nhưng rất đẹp ở tuổi chị. Nhiều năm qua, bây giờ chị thong thả hơn, trông chị Hà Nội hơn với nét nhìn thăm thẳm, chiếc cằm thon, làn môi tươi tắn. Hai chị ở hai đầu đất nước, gom lại tinh hoa của hai miền, là quê hương gấm hoa một thời và mãi mãi.

Ra về, chúng tôi bịn rịn tiễn chân nhau trên hành lang nhà hàng. Luôn luôn ân cần và chu đáo, KC đứng bên cạnh tôi, đưa trả chị D. và ông J. hai cái nón cói rộng vành, nhìn họ tay trong tay đi hết cái hành lang, bước xuống mấy bậc thềm và đi vào trong nắng. Bóng họ di động, lấp loáng như những sợi tơ trời óng ánh trong một bức vẽ yêu đương đầy nghệ thuật.

Bốn người chúng tôi còn lại cũng lên xe. Mỗi khi có dịp đi đâu với KC, ngồi vào cái ghế bên cạnh trước đây của anh G. tôi luôn có chút ngậm ngùi thương bạn góa bụa, bất ngờ mất đi người bạn đời và những tháng năm hạnh phúc biết có bao giờ có lần nào nữa? Buổi chiều còn nguyên vẹn trước mặt mọi người với ý nghĩ lại đến lúc từ giã nhau, chị V. bâng khuâng lên tiếng: “Mình sắp đi qua một tiệm cà phê/bánh ngọt real Pháp, ngon tuyệt vời!” KC sốt sắng: “Chị V. muốn ghé không?” Tôi ăn theo liền: “Ghé đi các bạn ạ! Anh K. thì sao?” Như chỉ chờ cơ hội được hùa theo bất cứ đề nghị nào của hiền thê, anh K. trả lời: “Nên lắm chứ!” Vậy là chị V. hướng dẫn KC chạy xe đến Moulin, tọa lạc tại 1000 N. Bristol, thành phố Newport Beach.

Đúng như chị V. giới thiệu, tiệm do một ông Tây thứ thiệt làm chủ, bắt đầu kinh doanh từ Tháng Chín năm 2014, tự hào mang lại cho khách hàng bước chân vào đầy đủ hương vị các món ăn uống truyền thống theo văn hóa Phú Lang Sa. Mùi thơm nhẹ và ấm, không khắc, không khét, không pha hương liệu của cà phê nguyên chất xay/rang kiểu Pháp. Mùi thơm cào cấu dạ dầy của bột bánh mì nhồi bằng tay, đặc biệt của các bà mẹ quê nước Pháp, đeo tablier vào bếp mỗi ngày nướng bánh mì cho cả nhà như người Việt Nam nấu cơm. Cảnh tượng những con gà đẫy đà quay vòng trong lò nướng và thực phẩm đủ loại nhập cảng từ chính quốc, chất đầy trong các tủ và kệ cao thấp, lao xao tiếng người “parlant francais,” véo von, trầm bổng. Moulin cũng rất tự hào được mời tới đây tìm lại hương vị xưa những ai từng quen với món ăn sáng đặc thù của người Pháp, thực chất chỉ là món bánh mì fromage kẹp jambon nướng nhưng cầu kỳ, lãng mạn hơn hẳn Hamburger vừa ăn vừa lái xe ở Mỹ. Croque Madame/Croque Monsieur của Pháp khi ăn phải ngồi xuống, thong thả, phong cách, thưởng thức bánh với tách cà phê ngon, bên cạnh người tình, bất luận ở một cái tiệm nhỏ nào có nhiều trên đường phố Paris hay ngay trên chiếc giường gối chăn còn ấm áp, Bà hay Ông chỉ khác nhau ở cái trứng ốp la phủ lên mặt bánh và một chút mù tạt hiệu Dijon có vị chua cay và mùi tỏi cho quý bà.

Nếm ngụm đầu tiên tách cà phê sữa chị V. gọi cho, tôi bàng hoàng thấy lại những buổi sáng ngày tôi còn bé ở Huế. Chừng như là những buổi sáng mùa Hè, tôi không phải đi học nên lảng vảng quấn chân mẹ trong gian bếp ám khói. Khi mâm đồ ăn sáng bố tôi dùng xong được dọn xuống, tôi tò mò húp nốt chỗ cặn cà phê còn lại trong cái tách men trắng, lần đầu làm quen với vị cà phê làm tôi hơi váng vất say. Ký ức tuổi thơ tôi ghi nhớ mãi cho tới tận bây giờ, khiến tôi thường ca cẩm với bạn bè về cái vị cà phê dịu dàng, êm ái ngày xa xưa ấy nay không thể tìm thấy ở đâu nữa từ khi tôi theo chồng rời xa Huế và bố tôi qua đời. Bỏ ra ngoài yếu tố tâm tư hay hoài niệm thường thiếu khách quan, rõ ràng tách cà phê nào uống trong quãng đời khôn lớn của tôi cũng đắng, chát và gắt, rất khó chịu.

Ngoài cà phê hương vị tuyệt hảo đối với người Việt Nam sớm làm quen với cà phê truyền thống Pháp, ngoài mấy tủ bánh ngọt đủ loại với kiểu cọ quý phái và đẹp mắt mà chị V. và KC vừa nức nở khen, vừa cố nài ép bạn nếm thử, tôi chỉ ngắm để thưởng thức bằng mắt vì bản tính không thích của ngọt từ bé. Thế nhưng croissant của Moulin thì rất đặc sắc, có thể nói quanh vùng Little Saigon và phụ cận không đâu sánh bằng, nhất là so với croissant của Costco vỏ ngoài quá nhiều bơ nhưng bột bánh khô như rơm.

Sau croissant, bánh mì baguette của Moulin cũng tuyệt vời sương khói. Ít ruột, vỏ mỏng nhưng không vỡ, ăn ngay rất thơm, nướng lên thì dòn mà không cứng. Anh K. khen pâté tươi của tiệm rất ngon nhưng tôi không kịp mua vì tiệm xin phép đóng cửa nghỉ trưa lúc 4 giờ.

Chủ nhân của Moulin, ông Laurent, nói với khách hàng lui tới tiệm, rằng nơi chốn thanh lịch, vui tươi và hiếu khách này không chỉ làm sống lại những kinh nghiệm đã qua của quý vị mà còn là thể hiện lung linh giấc mơ của ông từ thời niên thiếu, khi ông còn là đứa trẻ sinh ra rồi trưởng thành ở khu văn hóa/nghệ thuật nổi tiếng khắp năm châu Montmartre, cái rốn của Paris hoa lệ. Dời cư qua California thập niên 80, sau 30 năm sinh hoạt trong kỹ nghệ thể thao, ông vẫn không nguôi quên “tình yêu say đắm” dành trọn cho không khí những quán nhỏ khu Montmartre, nơi ông lui tới, vào ra suốt thời tuổi trẻ, hẳn đã nuôi dưỡng trong ông biết bao mộng ước nên thơ.

Nhiều thi sĩ Việt Nam nổi tiếng của chúng ta đi qua Paris cũng nặng tình với Montmartre, có thơ phổ nhạc bởi các nhạc sĩ tài danh:
- Thanh Tâm Tuyền với Dạ Tâm Khúc (Phạm Đình Chương)
Đi đi anh đưa em vào quán rượu/ Có một chút Paris/ Để anh được làm thi sĩ/ Đi đi anh đưa em vào quán rượu/ Hay nửa đêm Hà Nội/ Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới…

https://www.youtube.com/watch?v=2bzCwQUY9Zw
- Cung Trầm Tưởng với Mùa Thu Paris (Phạm Duy)
Mùa thu Paris/ Trời buốt ra đi/ Hẹn em quán nhỏ/ Rưng rưng rượu đỏ tràn ly/ Mùa thu nơi đâu?/ Người em mắt nâu/ Tóc vàng sợi nhỏ/ Chờ mong em chín đỏ trái sầu…

Giữa Quận Cam vội vàng, náo nhiệt, đi tìm một mảnh trời có chút hương vị tình yêu hay tình bạn, tưởng cũng nên lắm chứ?

(Bùi Bích Hà)
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSat Dec 15, 2018 9:40 am

.


May rủi
- Bùi Bích Hà


Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Mail?url=https%3A%2F%2Fi1.wp.com%2Fwww.nguoi-viet.com%2Fwp-content%2Fuploads%2F2018%2F10%2FDP-May-rui-Warren-Buffett.jpg%3Fresize%3D696%252C490%26ssl%3D1&t=1539028662&ymreqid=0deb80c2-730c-1c8f-1c32-17012a01dc00&sig=ilhizmHtFvKY_9SL
Ông Warren Buffett đi cùng vợ là bà Astrid.
(Hình: Scott Olson/Getty Images)

CEO của định chế tài chánh Berkshire Hathaway là ông Warren Buffett, vừa đây, trong dịp kỷ niệm 12 năm ngày thành hôn của ông với bà Astrid, đã chia sẻ: “Đối với tôi, việc kiếm tiền sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu không có ai khác, tựa như người vợ, cùng chia xẻ phú quý với tôi.”

Ông nói với tạp chí Forbes: “Không nghi ngờ gì nữa với chân lý muôn đời đúng là cuộc sống của chúng ta sẽ trải nghiệm những niềm vui trọn vẹn với một người bạn đồng hành trung tín. Sẽ có nhiều lợi lạc to lớn đến từ cái quan điểm riêng tư này của một người chủ trương đời cần có tri âm. Đây là thực tế hiển nhiên trong hôn nhân, theo tôi, đây là quyết định quan trọng nhất bạn đã làm. Bạn kết hôn với một người thực sự là cộng tác viên tốt thì đây chính là yếu tố quan trọng nhất sẽ giúp hình thành vừa hạnh phúc, vừa thành công của bạn trong cuộc sống. Tôi là kẻ rất may mắn trong lãnh vực này.”
Nhận định của ông Buffett không là ngoa ngữ mà được các công trình nghiên cứu khoa học hỗ trợ. Một cuộc nghiên cứu do trường đại học Carnegie Mellon University thực hiện cho thấy những ai có được người phối ngẫu luôn sẵn sàng hỗ trợ, sẽ có nhiều cơ may đạt tới thành công hơn.

Các nghiên cứu gia tiến hành tìm hiểu 163 cặp đôi hôn nhân, phát hiện rằng những ai có chồng hay vợ tâm thế tích cực, luôn ủng hộ người bạn đời của mình, sẽ dễ dàng chấp nhận đương đầu với những thử thách lớn. Vài tháng sau những thử thách này, phúc trình cho thấy các đương sự cảm nhận tự ngã trưởng thành hơn, đạt được hạnh phúc và sự mãn nguyện trong lòng hơn.
Chia sẻ với tạp chí Forbes, ông Buffett nói: “Bà vợ đầu của tôi, Susan Buffett, là một trong những người thầy vĩ đại của tôi bên cạnh phụ thân tôi là Howard đã quá cố và thầy phụ giáo của tôi là Benjamin Graham.”
Bà Susan qua đời năm 2004, sinh thời là người phụ nữ thứ 17 giàu nhất thế giới, từng giữ vai trò tổng giám đốc công ty Berkshire Hathaway và đồng thời cũng là chủ tịch sáng hội Buffett Foundation.
Năm 2006, ông Buffett tục huyền với người bạn gái thâm giao Astrid Menks qua một lễ cưới trang trọng và đơn giản cử hành đúng vào sinh nhật thứ 76 của ông. Chú rể mặc y phục đi làm hằng ngày, cô dâu mặc áo sơ mi lụa và quần tây trắng, chủ trì buổi liên hoan nhỏ tổ chức tại nhà cô con gái Susie của chú rể ở Omaha, tiểu bang Nebraska. Chú rể còn các con trai lúc đó xuất ngoại vì công việc nên những người hiện diện chỉ gồm cô chủ nhà Susie, em gái bà Menks và ông chánh án chủ tọa buổi lễ với phần nghi thức hoàn tất trong vòng mười lăm phút.

Theo ông Buffett, “mặc dầu có lẽ các bạn không có sự chọn lựa cách thế vào đời và hoàn cảnh khôn lớn song các bạn hẳn có thể nói đôi ba điều về đối tượng bạn muốn cùng người đó trao xương gởi nạc.”
Thời yêu đương hẹn hò, ai cũng có nhiều hơn đôi ba điều thật tốt đẹp để nói về người bạn đường tương lai nhưng câu chuyện kết thúc thế nào, có giống như dự đoán lúc ban đầu hay không thì lại là điều rất khó tiên đoán.
Cuộc đời của ông Warren Buffett có những thành tựu lớn lao cả thế giới biết, đã tới từ câu nói ngắn gọn do chính ông thốt ra: “Tôi là kẻ rất may mắn trong lãnh vực này.” Thiếu hai chữ “may mắn” như một bí nhiệm, mọi nỗ lực của con người, kể cả tài năng, cũng đành mai một.

Sống đến một tuổi đời nào, con người không còn mảy may ngờ vực gì về sự bất toàn được xem là yếu tính của cuộc sống. Luôn có một điều gì ray rứt trôi chảy ngoài tầm tay con người đưa tới thất vọng, oán than, nếu như con người không ý thức để chuẩn bị mình đón nhận và ứng xử.
Ở nhà, tôi dùng nước nóng trong cái bình thủy điện tự động, vừa nấu nước sôi vừa giữ được nhiệt độ. Có một đường vạch bên trong cái bình, chỉ mức chứa tối đa của nó. Trước khi sử dụng, tôi đọc kỹ cách dùng và bảo trì cái bình, luôn luôn đổ nước đúng ở mức được phép. Tất nhiên không có trục trặc nào xảy ra. Cái bình thủy hoạt động liên tục và rất tốt gần một thập niên.
Vừa qua, bạn tôi ở xa về chơi, thấy nước trong bình cạn nên châm nước giúp tôi. Bất chợt nghe tiếng bạn la chói lói trong bếp vì chị không đóng được nắp cái bình thủy xuống. Tôi chạy ra, loay hoay thử. Đúng là không thể đóng được mặc dù khoảng cách giữa cái nắp và miệng bình chỉ là khoảng không. Đảo mắt một lúc mới thấy ra bạn tôi tiện tay đổ nước đầy bình, vượt qua đường vạch báo động.
Tôi thật tình không hiểu nguyên tắc vật lý nào ngăn cái nắp bình thủy không đậy xuống được một khi mực nước quá lằn ranh cho phép mà chỉ hiểu đơn sơ là tôi không thể tham công tiếc việc, đổ lấy được nước đầy bình thủy khiến trục trặc nảy sinh.
Trong đời thường, như một câu ngạn ngữ Pháp mà tôi thuộc nằm lòng: Tout excès est mauvais (quá độ là không tốt), có lẽ mọi người đều biết điều giản dị này, chỉ không biết thế nào là “quá độ” vì đâu phải ở đâu, lúc nào cũng có đường vạch báo nguy, thậm chí, được lập trình sẵn như máy điện toán? Cho nên, “vấn đề” luôn xảy ra, từ nhẹ đến nặng, may (lại may!) lắm thì chữa kịp, nhiều khi không may, hết thuốc chữa!

Ở tuổi 76 cách đây 12 năm, tỷ phú Warren Buffett cảm nhận ông là một người may mắn. Lúc đó, mùa Hè đang rực rỡ xung quanh ông. Kẻ viết bài này ở vị thế xa tít mù tắp với nơi ông đứng, ngước nhìn ông như kẻ ngắm sao trời, cũng cảm thấy mình may mắn theo cách riêng. Nhiều mùa Hè trôi qua, nhiều mùa Đông tiếp theo cũng trôi qua, nay ông 88 tuổi, có vẻ như may mắn vẫn theo ông.
Như một bí nhiệm lạ thường hay do công lao vun xới mà có? Nghe nói người ta trả nhiều trăm ngàn vào quỹ từ thiện do ông bảo trợ để được tham dự bữa ăn tối với ông, được ông chia sẻ kinh nghiệm thành công của ông về mọi phương diện trong cuộc sống. Tôi tự hỏi liệu ông có chia sẻ được sự may mắn không dù tôi cực tin ông là một người có lòng quảng đại?

Trong những cái khổ vây hãm đời người, cái khổ khó tránh là bệnh nạn. Y học lâm sàng cắt nghĩa được nguyên do gây bệnh nhưng không cắt nghĩa được nguyên do ấy từ đâu mà có? Do đâu mà phát sinh? Hay tại sao điều kiện là một mà kết quả lại là hai, ba…? Khi không giải thích được cặn kẽ, người ta đổ cho số phận và số phận trong trường hợp này, đồng nghĩa với may mắn/không may mắn. Chấm hết.
Vậy nên, may mắn muôn đời là cứ là một ẩn số không có lời giải, chi phối buồn vui của cả nhân loại mà không ai có thể chủ động. Tôi trải qua một quãng thời gian dài sống bình yên, hầu như không có dịp nhớ đến cuộc đời còn có những rủi may bất thường, không hẹn trước.

Thỉnh thoảng nghe bạn bè nhận xét: “Chị cứ gọi là sống trăm tuổi nhé!” tôi nghĩ bạn vì tình cảm mến mà chúc tụng quá lời tuy trong lòng có trộm nghĩ, một phần sức khỏe là do di truyền từ bố mẹ, phần khác do ăn uống đạm bạc, hồn trí an tịnh và thường xuyên tập thể dục.
Cho tới một hôm, bắp chân bên phải của tôi bỗng nhiên đau kịch liệt, khiến tôi phải bỏ việc đi bộ hằng ngày từ nhiều chục năm qua. Đứng lên, ngồi xuống, nằm, cúi, khom lưng, trở mình, mỗi một cử động là một cơn đau thắt ruột.
Đi gặp bác sĩ, ông khám nghiệm kỹ lưỡng, xét nghiệm đủ thứ và phán rằng: “Đây không phải là bệnh bà nhé! Khi tuổi lớn (ông tế nhị nên không nói khi về già, sợ bệnh nhân bị ám ảnh) các mạch máu không làm việc hữu hiệu nữa, co bóp nhiều, gây ra cảm giác đau đớn. Bà cần mang loại vớ chật để giúp máu lưu thông dễ hơn. Đau quá thì có thể uống Advil.” Tôi vâng lời bác sĩ, chỉ không uống Advil.

Tôi mua vớ chật, dệt bằng nhiều loại vật liệu khác nhau, trùm cả bàn chân hay để hở nửa bàn chân, chả có vớ nào “works” mà nóng nực muốn tắt thở. Quyết định bỏ mang vớ, phải nín luôn không dám than thở vì các cô con gái làm việc ở nhà thương, sẵn sàng mắng mỏ: “Mẹ cứng đầu, không chịu mang vớ thì phải chịu đau thôi!”. Tôi chỉ thắc mắc nhưng nể tình không hỏi lại bác sĩ “Vì sao cả hai chân tôi cùng lớn tuổi mà chỉ một chân bị đau?” Hỏi thầm xong, chợt nhận ra tôi có may mắn. Đau cả hai chân thì ngồi xe lăn rồi!
Tây y không chữa nên nghe thầy châm cứu, điểm huyệt, thầy lang ở đâu hay là tôi tìm tới. Bệnh không chuyển, ngày càng đau hơn. Hết tiền mặt nhưng còn thẻ nhựa. Ai mách thuốc gì, bảo là rất hiệu nghiệm, cũng theo. Nhắm mắt uống chưa hết một chai nhỏ, thấy đôi chân múp míp như khoai lang Mỹ, sợ quá bèn thôi, vứt thuốc đi để lo chữa bệnh bàn chân bị phù! Nào rễ tranh mía lau. Nào bo bo hầm chân gà. Nào lá lốt vừa ăn vừa uống. Nào xoa bóp với mật gấu pha rượu…
Loanh quanh gần nửa năm trôi đi, tôi với bệnh thập thò rình nhau hết sáng qua chiều, hết chiều qua sáng, có lúc tưởng hết rồi lại không hết và ngược lại, tiếng Anh gọi tình trạng này là on and off, tiếng Việt gọi là bệnh giả đò hay bệnh ma làm. Cuối cùng đành mặc kệ, thử “trơ gan cùng tuế nguyệt để xem con Tạo xoay vần tới đâu?” Chả biết con Tạo là ai, có thật hay không nhưng thời gian quả có xoay vần, nóng lạnh thay nhau bốn mùa và, bà thầy tử vi đoán vận mệnh như thần: “Qua hết Tháng Tám Âm Lịch thì cô hết bệnh.”

Chưa hết Tháng Tám Âm Lịch, chân tự nhiên bớt đau, không còn nặng như đá đeo nữa nên đi lại như bước trên bông mềm, bạn cùng đi cứ phải cho mượn cánh tay. Tôi buồn cười tự nhủ: chắc phải tập đi như trẻ con sau tuổi thôi nôi. Nằm, ngồi, đứng lên, khom xuống, di chuyển đã dễ dàng hơn nửa năm vừa qua, cũng chẳng biết tại sao hay nhờ cái gì? Hay là hết rủi thì lại may?

Kết luận sau cùng: vẫn là chuyện rủi may luôn xảy ra mà con người tu tập cỡ nào cũng không thể kiểm soát được để làm chủ lấy mình. Bao giờ thì cái iPhone vạn năng có đáp số cho vấn đề này?

Bùi Bích Hà
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeSun Dec 30, 2018 12:38 am

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Room-for-rent-1-166x150

Nền văn hóa ‘Thời Thế?’
Bùi Bích Hà


Nếu viết cho đầy đủ để dễ hiểu, thì câu viết phải như sau: “Thế chiến quốc, thế xuân thu, thời thế thế, thế thời phải thế.” Chả biết gốc gác câu này từ đâu nhưng nghe nhiều người nói quá, tôi đâm thuộc lòng. Mỗi khi chạm mặt một tình huống chẳng đặng đừng, lại thấy mình hào hứng đem câu này ra, hoặc tự an ủi mình hoặc an ủi người bên cạnh.

Do thời cuộc kể từ biến cố 30 Tháng Tư, 1975 và sau đợt di tản đầu tiên, những năm tháng tiếp theo, người Việt Nam bảo nhau tiếp tục liều mình tìm đường đi định cư ở nước ngoài, nhiều nhất ở Hoa Kỳ. Những người thiếu may mắn, lâm nạn giữa chuyến đi không tới thì nằm lại trong lòng đại dương, trong rừng sâu, nơi hoang địa, không còn bận tâm chuyện đời như trang sách đã thiên thu đóng lại. Những người may mắn đến được bến bờ tự do thì thấy mình ngỡ ngàng đứng trước nhiều vấn đề xa lạ với kinh nghiệm sinh tồn họ thừa hưởng qua nhiều thế hệ tổ tiên và được xem là truyền thống văn hóa đặc thù của dân tộc. Rất khác với ở quê nhà, họ thấy mình không được xả rác, khạc nhổ hay tiểu tiện thoải mái ở bờ tường, gốc cây, không được mặc quần áo ngủ dù mới toanh khi ra đường, không được gọi nhau ơi ới hay nói to khi ở trong khu thương xá, không được chen lấn giành chỗ những nơi công cọng mọi người đang xếp hàng chờ tới lượt v.v…

Khó khăn hơn cả là rất nhiều người không giữ được nội dung câu tục ngữ ông bà để lại: “Sống mỗi người một nhà, chết mỗi người một mồ.” Đã lâu lắm, thời tôi mới tới đây khoảng giữa thập niên 80, có nhìn thấy đâu đó cuốn sách “Share Phòng, Share Tình” của ông Lâm Tường Dũ, sau được quay thành phim, nhưng tôi không mấy chú ý giữa nhiều ưu tiên khác ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống riêng của mấy mẹ con chỉ tạm trú một thời gian ngắn ở nhà cậu cháu rồi dọn vào chung cư.
Càng về sau, với những đợt di tản diện thân nhân bảo lãnh hay HO, hai chữ “share phòng” được nói tới rất nhiều trong đồng hương. Chúng cũng xuất hiện ồ ạt cho tới tận bây giờ trên các mục rao vặt của nhiều tờ báo tiếng Việt tại địa phương, tựa như: “Nhà dư phòng cho share. Free Wifi + giặt quần áo. Nấu ăn OK. $500/tháng. Liên lạc (714)…” “Nhà ít người, yên tĩnh, cho share một phòng lối đi chung, ưu tiên nam/nữ độc thân. Bao điện nước, nấu ăn chút chút. Liên lạc (714)… “Phòng rộng, có buồng tắm/vệ sinh. Lối đi riêng. Gần chợ ABC. Vợ chồng có việc làm tốt. $800/tháng. Liên lạc (714)…”
Đọc vậy, biết vậy, mường tượng một nét văn hóa khác lạ trong cách sống của người Việt ở đây song tôi không thực sự hình dung ra diễn tiến của câu chuyện như thế nào? Vài lần đi đón một người bạn ở share phòng, tôi chỉ tới cửa đã thấy bạn chờ sẵn nên đoán bạn có đôi chút e dè về nơi ở nhưng tôn trọng sự riêng tư của bạn, tôi không thắc mắc lâu.

Tuần qua, tôi có anh chị bạn cùng học thời tiểu học, nay mới nghỉ hưu, ngỏ ý muốn dời cư từ Gardena về quận Cam có đông đồng hương, chợ búa và tiệm ăn cho thêm vui lúc tuổi già. Các con anh chị đều ở tiểu bang xa nên con đường ngắn nhất để anh chị có một nơi ở tử tế trong khu Little Saigon là tìm thuê một căn phòng tiện nghi trong một ngôi nhà thân thiện. Không theo cách thông thường mọi người quanh đây thường làm là đọc báo để tìm địa chỉ có phòng cho thuê vì anh chị cảm thấy ngại ngùng khi lần đầu tiếp xúc với một người chưa từng quen biết để hỏi về một việc xem ra chỉ nên hỏi một người đôi bên từng có chút giao tình qua lại thì dễ thực hiện hơn. Anh chị bắt đầu nhờ bạn bè địa phương mai mối giùm. Tôi ở trong số bạn bè này nên cũng hối hả thăm dò vài nơi quen biết để giúp anh chị.
Buồn ngủ gặp chiếu manh, thời may tôi hỏi trúng một gia đình có phòng trống vì người ở trước vốn là một tên tuổi trong giới nghệ sĩ vừa dọn ra.

Ba chúng tôi tới nơi theo hẹn trong buổi sáng trời quận Cam bỗng đổ mưa từng cơn tầm tã. Tôi ái ngại nhủ lòng lát nữa phải chùi giầy thật kỹ đây. Đậu xe sát bờ lề phía trước xong, chưa kịp dừng chân ngắm nghía khoảnh vườn hoa cỏ rộn ràng đã thấy gia chủ mở rộng cửa và bước ra ngoài niềm nở chào hỏi. Theo chủ nhân vào trong, không biết anh chị bạn tôi nghĩ sao nhưng riêng tôi thực tình kinh ngạc. Nội thất ngôi nhà bài trí đẹp và thanh lịch, ngăn nắp, sạch sẽ như không thể nào ngăn nắp và sạch sẽ hơn nữa, mỗi đồ vật ở đúng vào vị trí thích hợp nhất của nó khiến tôi nhận ra ngay không một ai hay một một vật dụng nào khác có chỗ trong toàn bộ khung cảnh rất riêng tư này. Dù kết quả việc “coi mắt” share phòng thế nào, tôi muốn nói lên lời cảm ơn duyên may đã cho tôi cơ hội hãn hữu, như một đặc ân, để bất ngờ được đặt chân tới đây. Dẫu sao, câu chuyện đã bắt đầu cần một kết thúc. Ông bà chủ nhân hướng dẫn chúng tôi vào căn phòng đầu tiên dài theo bên hông ngôi nhà, có lối đi riêng, có cái patio nhỏ cho những buổi chiều mùa hè ngồi hóng gió, nhâm nhi ly rượu đỏ; có cái bàn viết kê sát khung cửa sổ nhìn ra vườn sau cũng gọn gàng, tươm tất, tựa mái tóc được cắt chải cẩn thận. Căn phòng này dường như được cơi thêm ra nên chắc không có hệ thống sưởi, cảm giác lạnh lẽo thấm qua cửa sổ, qua tường, trong buổi sáng thời tiết ướt át và gió lùa từng đợt. Căn phòng thứ hai nằm hẳn bên trong ngôi nhà, ấm áp, kín đáo, rộng rãi, không chê vào đâu được ngoại trừ như tôi mô tả lúc đầu, nó là một phần bất khả phân chia với toàn bộ ngôi nhà, nhất định không giành cho người ngoài. Đến đây, tôi thoáng thấy nét ngại ngùng trên khuôn mặt anh chị bạn của tôi, có lẽ cũng cùng một tâm cảm với tôi.

Bây giờ thì tôi thực sự hiểu được khả năng thích nghi của người Việt chúng ta, hoàn cảnh nào cũng có cách khắc phục, bằng suy nghĩ và ứng xử vượt qua biên giới của những điều bất khả.

Mẹ tôi thuộc rất nhiều ca dao/tục ngữ. Có lẽ tất cả nền giáo dục gia đình, nếu có cho tôi, là từ cái kho tàng văn hóa dân gian truyền khẩu này. Mẹ tôi có khả năng áp dụng tài tình những bài học cổ nhân soạn sẵn, ngắn gọn và cô đọng ấy để dạy tôi, vừa thích hợp, dễ nghe, vừa nhanh chóng thẩm thấu vào trí nhớ của đứa bé đang khôn lớn là tôi ngày đó. Rất nhiều khi những áp dụng văn vẻ bất chợt của bà khiến tôi phải bửa óc ra, tự tìm câu trả lời hàm chứa trong nội dung các bài học không phải lúc nào cũng đi cùng một chiều. Không biết do đâu mà tôi sớm hiểu được để không nghi hoặc, phải đem chất vấn mẹ nhưng biết rằng mâu thuẫn của các kinh nghiệm sống cũng là mâu thuẫn giữa nhiều cảnh đời phức tạp. Ví dụ, mẹ tôi dạy không được tò mò, tọc mạch, không được bình phẩm chuyện của người khác, “Đèn nhà ai nấy rạng” nhưng có lúc mẹ lại đọc vào tai tôi câu “Bán anh em xa, mua láng giềng gần” và bảo tôi mang ít gạo cho bà bán bánh dạo vì mấy hôm rồi bà ngã bệnh, không đi bán được, tiền đâu mà mua gạo? Dẫu sao, sự tọc mạch của mẹ tôi về gia cảnh bà bán bánh là hành vi nhân đức, cần thiết cho bà ấy, lại thêm “láng giềng gần” tuy gọi thế nhưng cũng cách nhà nhau chừng chục bước chân. Trong câu chuyện “share” phòng, láng-giềng-gần đùm đậu nhau sống ở quê người là “bưng luôn nhau vào nhà,” nghĩ kỹ, thấy giật mình vì quả là chí tình, độ lượng đến mức liều lĩnh.

Tất cả “thông tin” về nhau trước khi kết ước chỉ là câu chuyện trao đổi qua loa, phần lớn do mục Rao Vặt, cái nhìn quan sát kín đáo và trực cảm lúc đối diện. Tôi không biết thời gian của một hợp đồng miệng kiểu này có tuổi thọ bao lâu nhưng có lẽ cũng may rủi, không khác gì các giao kèo sống chung khác, ít nhất vài tuần/vài tháng, bất bình, eo xèo rồi chia tay; nhiều nhất vài năm vì hoàn cảnh thay đổi, cũng chia tay nhưng đôi bên lưu lại nhiều mỹ cảm, đã xa rồi song thỉnh thoảng có cơ hội vẫn ghé lại thăm nhau, thậm chí tặng quà.
Trong các cuộc hạnh ngộ “share phòng” tốt đẹp (hay không tốt đẹp) như nói trên, chủ nhà và người ở thuê đã tạo ra một văn hóa thời thế kỳ lạ. Tất nhiên khởi đi từ nhu cầu của sở hữu chủ ngôi nhà cần có thêm thu nhập để trang trải món nợ địa ốc trả góp hàng tháng cho ngân hàng nhưng không biết ai là người đầu tiên xướng xuất sáng kiến độc đáo này, mở đường cho nhiều người khác theo rồi hình thành cả một văn hóa share phòng, thậm chí lan sang cả cộng đồng bản xứ và cộng đồng nhiều sắc dân khác trong khu vực có đông người Việt định cư? Có lẽ căn cứ trên tính khí chịu đựng và cốt cách xuề xòa, nhân hậu của các bà mẹ Việt Nam luống tuổi, có thói quen voi vét, chắt chiu, tìm kiếm, thu vén từng đồng để không phí phạm và để có khả năng làm một bài toán có lợi cho con cháu, theo cách tôi đoán mò, nhiều phần trăm chúng ta có thể nghĩ việc cho share phòng là do ý kiến của các bà mẹ này.

Dẫu ai thì ai, mai sau, kinh nghiệm share phòng chắc phải được ghi vào lịch sử nhân văn của người di dân Việt Nam khi rời bỏ xứ sở ra đi lánh nạn Cộng Sản cuối thế kỷ 20. “Sẩy nhà ra thất nghiệp,” họ như những cánh chim vỡ tổ bay dưới trời giông bão, bơ vơ tìm nơi trú ẩn và tìm nhau để cùng nhau gánh vác những nỗi nhọc nhằn nằm trong thân phận. Chính cái chung gần gũi này đã giúp họ quên hết tỵ hiềm và nghi nan để vượt qua mọi rào cản cấm kỵ, gắng sống chan hòa, đong cho đầy, kê cho bằng, thể hiện nét văn hóa ngộ biến tòng quyền rất đặc biệt của một thời đại cũng rất đặc biệt.
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeFri Feb 01, 2019 9:05 pm

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Bui_Bich_Ha

Người Muôn Năm Cũ

- Bùi Bích Hà


Đã hơn 41 năm trôi qua mà cảm giác đau xót, tê dại vẫn mới như trong buổi trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi binh đoàn Bắc Việt Nam tràn vào thành phố mang theo những đôi dép cao su của họ cơn thủy tai bùn đất sạt lở lạ thường trên mọi ngả đường Sài Gòn và các vùng phụ cận.

Tôi đi ngơ ngẩn quanh mấy gian phòng hẹp trong ngôi nhà bên hông chợ Bà Chiểu. Bên ngoài, cả Sài Gòn thân yêu của tôi thở rốc trong cơn hấp hối. Bên trong nhà, chiếc điện thoại màu đỏ nằm vô dụng ở một góc cái tủ nhỏ đựng quần áo của trẻ con, đã thôi những hồi chuông thỉnh thoảng rung từ một đầu dây đoán được sự hốt hoảng của người bên kia, hỏi thăm hoặc gửi lại một lời chào vội vã. Mấy đứa bé tuổi từ lên 3 đến lên 10, chưa thực sự biết gì, rụt rè như gà bị cáo trong không khí gia đình đột nhiên nghiêm trọng một cách khó hiểu. Khó khăn lắm tôi mới nói được với mẹ già năm đó đã gần tám mươi: “Con xuống nhà bác Đ. sáng nay nhưng cả nhà đi rồi.”

Trong trí tôi, hình ảnh đôi dép ngủ rất sạch của anh tôi để ngay ngắn dưới gầm chiếc ghế ở bàn ăn, không biết vì sao cứ mãi mãi hiện ra như thế trong ký ức tôi mỗi khi nhớ về cuộc di tản của gia đình anh. Hình như nó cho tôi hình dung ra một cử chỉ tôi thường thấy những lần anh thay đôi giầy quân đội xong, bao giờ cũng cẩn thận cúi xuống, đẩy đôi dép ngủ vào gầm ghế rồi mới đứng dậy, phủi mấy ngón tay vào quần như một thói quen và cất bước. Tôi đã không chứng kiến lần cuối cử chỉ này của anh và vụt thấy thoáng nhanh qua đầu ý nghĩ từ nay là thôi, sẽ không còn một lần nào nữa giữa hai anh em. Tôi hiểu ra hình ảnh đôi dép ngủ của anh xếp ngay ngắn bên nhau là hình ảnh anh đã đi rồi. Của biệt ly.

Hơn mười năm lang thang, lây lất, vất vưởng giữa một Sài Gòn tan hoang, khô héo, tàn tạ, mấy mẹ con bà cháu bữa cháo bữa cơm, trẻ con không có tuổi thơ, mẹ già không có tuổi hưu, cuộc sống của những người kẹt lại miền Nam mò mẫm trôi đi trong hy vọng mà không biết hy vọng gì.

Ngày leo lên chiếc taxi thuê bao để ra phi trường Tân Sơn Nhất đi đoàn tụ với anh tôi sau 11 năm dài lê thê không nhìn thấy nhau, chuyến đi cũng hoang đường không kém ngày Sài Gòn thất thủ. Ở sân bay, công an và hải quan khu xuất cảnh khám xét kỹ hành lý của người đi. Tôi đứng tim khi một anh công an trẻ tìm thấy cuốn băng tiếng hát Khánh Ly nhà tôi bỏ quên trong cái máy cassette cũ mang theo, chưa kịp nghĩ cách phản ứng thì bất ngờ nghe anh ta nói nhỏ: “Chị cho em cuốn băng này nhé!” và không đợi tôi trả lời, cậu đã nhanh tay gạt cuốn băng xuống chân ghế, tiếp tục khám xét những thứ khác. Thế nhưng trước đó, vì quá sợ bị truy xét lý lịch gia thế làm trở ngại chuyến đi, tôi đã phải nuốt nước mắt đem gửi bà chị dâu con nhà bác tấm ảnh duy nhất còn giữ được cho tới ngày hôm đó, chụp bố tôi mặc phẩm phục Nam Triều, mũ cánh chuồn, lưng mang đai hốt. Tôi thấm ngấm hai chữ vô sản của chế độ. Người dân không chỉ trắng tay của cải mà trắng tay cả quá khứ của dòng họ.

Dẫu sao, điều gì đã ghi khắc vào tâm can, thậm chí vào thân thế một người, cứ vẫn còn tồn tại mãi ở chỗ của nó cho dù có một ngày người đó sẽ ra đi nhưng dấu chân để lại.

Đã hơn bốn thập niên mất tăm vào hư không. Cùng với trí nhớ tôi ít nhiều mòn mỏi, nói như nhạc sĩ Lê Uyên Phương, “dù gương xưa không được lau,” nói như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, “bạn bè rồi xa, dấu chân xưa cũng bụi mờ,” thế nhưng dường như ngọn bấc đèn trong đĩa dầu cạn luôn cháy lên những khoảnh khắc rực rỡ, dòng lệ ngậm ngùi nhỏ xuống từ đôi mắt người già như cơn mưa tắm gội sáng choang một thời đã qua. Đôi khi thấy trên truyền hình, nhiều khi thấy lại trong riêng tư một mình, hình ảnh những cuộc diễn binh hào hùng của quân đội miền Nam Việt Nam trước 1975, trên đại lộ Thống Nhất thênh thang của Sài Gòn tự do. Những thanh niên/thiếu nữ trẻ đầy nhiệt huyết và sức sống, quân phục thẳng nếp, đi đều tắp bên nhau, lưng thẳng, ngược ưỡn về phía trước, đầu ngẩng cao, “súng ngửi trời,” gươm chỉ đất, cuộc sống trận mạc tính từng ngày nhưng không một ngày tránh né, bây giờ họ đâu rồi sau cơn cuồng phong của lịch sử? Họ còn sống hay đã chết hay còn sống mà như đã chết? Họ nghĩ gì về họ, về bạn bè họ những tháng ngày sa trường oanh liệt ấy? Cùng với họ là những ông cha, những bà mẹ, những máu mủ thâm tình, những gia đình mưa nắng chắt chiu chăm bón mùa màng để chờ đợi hiến dâng. Ôi, những người muôn năm ấy, hồn ở đâu bây giờ?

Buổi sáng Chủ Nhật đầu tháng Mười, nắng chứa chan sân trước, vườn sau, trên những tàu cau xanh mướt bên hàng xóm. Điện thoại reo. Tiếng người nghệ sĩ/học trò cũ ở phía kia: “Cô có bận gì không? 12 giờ trưa nay có mấy người cựu quân nhân Hoa Kỳ ở xa về đặt vòng hoa tưởng niệm tại tượng đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, có đề tài cho cô viết bài đấy, mời cô ra nhé!” Méo mó nghề nghiệp, tôi vội vàng hỏi lại: “Có cần báo chí, phát thanh hay truyền hình đưa tin không?” “Không đâu cô, nếu cô thấy hay hay thì viết, không thì thôi. Đơn giản chỉ là họ bỗng nhớ nhau thì đánh đường đi thăm nhau, chẳng có gì để rềnh ràng, to tát cả.”

Họ là một nhóm 5 người cựu chiến binh từng tham chiến ở Việt Nam, nay chắc vào độ tuổi ngoài 60, xấp xỉ 70, râu tóc bạc. Họ mặc thường phục, một người mặc cái gilet màu đen có in huy hiệu các binh chủng hai bên ngực áo. Người xa nhất về từ Georgia, từ Texas. Người gần nhất về từ Fresno. Ông này tự tay kết một vòng hoa bằng những đóa cúc vàng trong vườn nhà, với hai lá cờ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa xòe như đôi cánh chim, với hai dải lụa nhỏ gọi những người ông đến thăm trưa hôm nay là chiến hữu ngoài trận địa, là anh em trong quân chủng. Hôm ấy tình cờ đúng vào lễ thượng kỳ hàng tháng của tập thể chiến sĩ Nam California tại tượng đài nên những người chiến binh một thời cùng chiến tuyến có dịp gặp gỡ, bắt tay, chuyện trò.

Những cựu binh Việt Nam còn giữ nguyên quân phục, huy hiệu binh chủng và dây biểu chương, tái tạo bằng ký ức toàn vẹn, không mờ nhạt của họ, rất đẹp, là những kỷ niệm thiết thân họ mang theo trên bước đường lưu lạc, có lẽ cho đến giây phút cuối cùng, khi bước xuống sân ga cuối cùng trong cuộc hành trình với bao nguyện ước dở dang. Tôi hình dung những bộ quân phục ấy được giặt hấp sạch sẽ, được treo cất ở một nơi trịnh trọng nhất trong ngôi nhà đầy ắp quá khứ, là những dòng di cảo bất thành văn, minh chứng có một thời con dân nhà Nam đã không tiếc máu xương, đem thân mình bảo vệ giang sơn gấm vóc tổ tiên để lại, đâu ngờ rồi có một ngày, hy sinh ấy sẽ trở thành niềm uất hận khôn nguôi?

Phần tôi, bất giác biết ra đây đó, dưới gầm trời bao la này, ở những ngôi nhà cách xa nhau nhiều ngàn dặm, vẫn có những con người còn tưởng tiếc nghĩ về quê hương tôi, còn nhớ nhung những buồn vui đã trải qua ở đó, còn gửi lại mảnh đất hẩm hiu ấy một phần ký ức thanh xuân của họ với nỗi tiếc thương… Tôi tự hỏi điều gì đã khiến 5 người cựu chiến binh Việt Nam kia khăn gói hẹn nhau về Little Saigon để đến khu tượng đài chiến sĩ, nói với các đồng ngũ của họ trên tầng mây xanh biếc là các bạn không đi vào quên lãng? Họ có thể đã phải thu xếp những ngày nghỉ, cả số tiền chi phí cho chuyến đi không biết phải dành dụm bao lâu? Họ chắc chắn phải điện thoại/điện thư cho nhau nhiều lần để bàn bạc kế hoạch gặp gỡ, cùng nhau count down giây phút bồi hồi này. Còn nữa. Họ có 5 người, mỗi người chỉ cần góp $20 mỹ kim là đủ để mua một vòng hoa và bảo tiệm hoa giao tới tận nơi nhưng họ không chọn giải pháp này dễ dàng này. Người cựu chiến binh ở Fresno đã bao nhiêu sáng chiều ngắm nhìn những luống hoa vàng trong vườn, nâng niu ý nghĩ tự tay kết một vòng hoa nặng tình đồng đội cho người đã nằm xuống. Có chút gì trong cử chỉ ân cần này làm tôi nhớ một câu thơ của nhà thơ Du Tử Lê đã được phổ nhạc và hát lên cho một tình yêu nhìn lại với nhiều trăn trở: “Thương em kim chỉ khíu tình.” Ôi, những rách nát tang thương của bản dư đồ đất nước tôi sau tháng 4,1975 chẳng kim chỉ nào may vá lại được nhưng tôi thành thực biết ơn món quà phúng viếng đặc biệt của “người lính già” Hoa Kỳ trong buổi sáng Chủ Nhật đầu tháng Mười vừa qua, tại khu tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ thành phố Westminster, từ nay, sẽ giúp tôi xua đuổi nỗi buồn mỗi khi nhìn thấy đâu đó hình ảnh cuộc duyệt binh hào hùng của quân đội VNCH năm xưa trên đại lộ Thống Nhất, cho tôi câu trả lời cứ mãi khắc khoải trong lòng tôi “Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ?” Trên mặt đất này, trong cuộc đời này, hóa ra vẫn có những người thực sự còn nhớ họ, còn vui lòng sống thay họ dưới nhiều hình thức, trong nhiều hoàn cảnh, những mơ ước bị vùi chôn trong cuộc chiến nửa chừng tro bụi.

Họ an nghỉ trong những nghĩa trang lưu động, êm ả, trang trọng, ít ai ngờ tới nhất, được xây cất với lòng ngưỡng mộ và thương yêu. Họ là sương khói, là mây bay ngàn năm trên đỉnh ngọn đồi cao của rặng Rocky Mountains, đẹp, hùng vĩ và cô quạnh, là chính cuộc đời họ đã sống như một huyền thoại.

Bùi Bích Hà
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeFri Mar 08, 2019 3:40 pm


Cư dân Lộc Hưng "đấu tranh tìm công lý trong cô đơn”

Cư dân ở vườn rau Lộc Hưng, ở phường 6, quận Tân Bình bị chính quyền địa phương phá hủy nhà trong những ngày giáp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi tiếp tục đấu tranh đòi công lý vì những khuất tất trong việc san ủi khu đất mà cha ông và họ cùng con cháu sinh sống từ những thập niên 1950.



Bể Dâu - Bùi Bích Hà

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Loc-Hung
Một góc vườn rau Lộc Hưng trước khi bị nhà cầm quyền thành phố Sài Gòn triệt hạ và san phẳng. (Hình: Facebook Lê Nguyễn Hương Trà)

“Sông kia giờ đã nên đồng,
Nơi thành nhà cửa, nơi trồng ngô khoai
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn ngỡ tiếng ai gọi đò.”
(Tú Xương)

Đó là câu chuyện bể dâu, phù sa của một giòng sông vừa chết đã bồi đắp cho con người một vùng đất mới để cư trú và canh tác hoa màu nuôi thân. Nước dòng sông vừa cạn đi đâu nếu không là về nguồn, lặn sâu và tiếp tục luồn lách chảy giữa những tầng địa chất như giòng sữa mẹ Thiên Nhiên vô tận, không ngừng luân lưu, nuôi nấng những đứa con đi tìm đất sống trên chính hình hài của mẹ. Ông Tú Vị Xuyên đêm đêm nghe tiếng ếch nhái ì ọp ngoài bờ ruộng, sinh lòng thương tưởng con sông xưa, bến đò cũ và cô lái đò đã thôi chở người qua lại giữa đôi bờ một thời nghe tiếng khách lỡ độ đường gọi đò lồng lộng trong đêm khuya.

Thời nay, dưới triều đại Xã Hội Chủ Nghĩa, vừa hết Tháng Giêng qua Tháng Chạp âm lịch, Xuân của đất trời và Tết của lòng người vừa lấp ló bên thềm những ngôi nhà lam lũ trong vườn rau Lộc Hưng, phường 6, quận Tân Bình. Họ hiện diện ở đây hơn 40 năm qua sau ngày đạo quân Cộng sản miền Bắc nhân danh giải phóng và thống nhất dân tộc kéo vào đánh phá miền Nam, xua ra biển một số dân miền Nam không chấp nhận họ, xua ra khỏi nơi cư ngụ một số dân khác chậm chân, không có nơi nào dạt vào để tiếp tục sinh tồn ngay trên giải đất do tổ tiên đổ máu và mồ hôi tạo dựng, là của chung cho con cháu mai sau cùng thụ hưởng và gìn giữ nhưng giờ đây bị những kẻ quyền thế chiếm đoạt.

Những phận đời khốn khó cố gắng sống lương thiện trong cơ cực, không hẹn mà quần tụ về đây, đem theo họ những luống rau, dây đậu mượt mà, biến khu đất hoang thành một thung lũng xanh tươi nằm lọt thỏm giữa những ngôi nhà cao tầng xung quanh. Người trẻ sinh con đẻ cái ở đây, ban ngày tỏa ra khắp nơi, lao động cật lực kiếm miếng ăn, cóp nhặt từng miếng ván, từng tấm tôn, dựng những ngôi nhà thô sơ thay cho những túp lều ban đầu vá víu chằng đụp bằng bất cứ thứ gì có thể để đêm về, người về có chỗ chui rúc chờ rạng đông hôm sau.
Nhiều người khác cuốc đất, bón phân, trồng trọt hoa màu, đem ra chợ bán. Vài gia đình khá hơn, xây được nhà gạch, Gọi là thế nhưng khi búa xẻng, cơ giới của đạo quân nhân danh chính quyền ngang nhiên đến đây đập phá vào những ngày đầu Tháng Giêng năm 2019, đầu Tháng Chạp năm Mậu Tuất sắp hết. Những tường gạch rất mỏng ấy vỡ ra từng mảng, để lại những hốc mắt đen ngòm, bị móc mất con ngươi, những buồng ngực gầy không còn tim, không còn phổi, chết im lìm trên những thân người đầy thương tích gây ra bởi thảm họa nhân tai.
Nhiều ngày qua, nhiều cư dân ở đây vội vã lánh xa cái nơi đã làm tan nát chút hy vọng nhỏ nhoi họ cố chắt chiu gầy dựng lại trên tro tàn một đổ nát lớn hơn gấp bội trên quê hương gần nửa thế kỷ qua. Họ đi đâu, về đâu, hay lại bắt đầu một lưu lạc khác không bao giờ thực sự ổn định ở cái vùng đất từ bao lâu nay càng ngày càng biết ra không đâu có thể hứa hẹn điều gì lâu dài cho họ!

Sau biến động, vài người già còn quyến luyến, quay về, đứng ngẩn ngơ như những bóng ma ngày giữa đống xà bần ngổn ngang, vài người đàn bà loanh quanh nhặt nhạnh chút gì còn sót lại. Để chắc với mình lần cuối là mình không nằm mơ, để thôi đặt ra những câu hỏi đau đớn đến cháy lòng. Vài người trẻ thì quay về tìm lại những con thú thương yêu và trung thành, bỏ chúng vào cái lồng bằng lưới mắt cáo, chở chúng trên cái xe đẩy cút kít, đi tìm ân nhân nuôi giúp.
Trái tim của các bạn này có cùng cấu trúc sinh học hệt như trái tim các nhà lãnh đạo chính quyền chóp bu, hiện đang ngất ngưởng trên ghế cao, trong những ngôi nhà vô liêm sỉ đáng giá bạc tỷ nhưng giòng máu chảy bên trong những trái tim của hai đẳng cấp người ấy rất khác nhau, bất khả trộn lẫn, bất khả hòa đồng.
Còn nhiều thứ nằm lại, vương vãi, thê lương, gợi nhắc cảnh tượng điêu linh với nhiều di vật nằm lại trên đại lộ kinh hoàng ngày nào trong mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Như đôi nạng gỗ, hai cái chân giả một bên còn mang vớ, máy trợ thính rơi ra từ đôi tai một người nghễnh ngãng, cả nồi cơm không kịp chín để được mang theo, tượng Thánh Giuse bị xô đổ không chút ngần ngại, ngã sấp trên mặt đất… những tấm tôn bị giật xuống, nằm cong queo chất đống…
Đó là chứng cớ tồi tàn của loại hành vi cướp bóc tới từ một chính phủ được thành lập, được điều hành bởi những phần tử tiêm nhiễm thói quen trấn áp người dân vô tội bằng bạo lực, tàn ác đã đành, còn vô luân tới mức vu vạ cả cái cộng đồng Lộc Hưng nhỏ bé là một tập hợp những người dân bất hảo, sống bên lề xã hội, phải triệt hạ. Trong khi đó thì các nạn nhân trả lời phỏng vấn báo chí là ông bố nói năng đâu ra đấy; là cô gái đẩy xe chở con chó đi lánh nạn; là cháu bé ngây ra như pho tượng đá vì sợ, đôi mắt thơ dại lần đầu nhìn ra cái xã hội gồm những con người đầy dã tâm, đang ra tay đập nát ngôi nhà thân yêu của gia đình; là các linh mục DCCT đã quyên góp những đồng bạc từ ái của người hằng tâm, xây dựng ở đây một căn nhà làm nơi cư ngụ cho gần hai mươi thương phế binh đã hiến một phần thân thể họ cho tổ quốc trong chiến tranh.
Cuộc chiến đã tàn nhưng hận thù vẫn bám sát và truy bức họ, quyết gây thêm thương tích cho những người thua cuộc.

Tôi định cư ở Mỹ trên ba thập niên, dọn nhà 7 lần, mỗi lần xê dịch là một vết thương để lại sẹo buồn trong trí nhớ cho dù chính tôi chủ động ở nhiều thời điểm với nhiều nhu cầu khác nhau. Vậy mà đủ ngần ấy lần, khi bước ra, quay nhìn lại một vòng cái nơi từng chia với tôi một quãng đời buồn vui nhọc nhằn trên xứ người, đã giữ của tôi bao nhiêu kỷ niệm thân thiết như máu thịt. Biết rằng đây là giây phút chia tay, sau khi rút chìa khóa ra lần cuối, sẽ không bao giờ còn đi lại những con đường đưa về chốn này nữa, lòng tôi quặn đau, khiến tôi liên tưởng đến thảm họa Tsunami, nhiều người sáng ra đi, chiều quay về không còn nhận ra ngõ vào vì cả mái nhà cùng người thân yêu đã bị sóng gió thiên tai bất ngờ cuốn đi.
Thiên tai do thời tiết là những chuyển động vật lý trong trời đất, con người không thể khống chế, không bao giờ có khả năng chủ động nhưng còn nhân tai như ở vườn rau Lộc Hưng, do con người gây ra, thì quả là tội ác thật đáng ghê tởm, không có ngôn ngữ nào đủ để nguyền rủa. Không biết ai là kẻ có máu lạnh đã ra lệnh tiến hành cuộc tàn phá này nhưng cho dù để phục vụ một công trình cần thiết trong kế hoạch chỉnh trang hay phát triển thành phố thì kế hoạch ấy phải có phần giải quyết ổn thỏa cho số 400 hộ gia đình đang sinh sống ở đấy chứ sao lại bức bách họ như vậy?
Không phải chỉ gửi một thông báo, cho họ một thời gian là xong vì họ có đi đâu thì một tấc đất hoang cũng thuộc quyền sinh sát của chính quyền. Họ có cắn răng cắm cọc dựng lều một lần nữa như đã làm với Lộc Hưng thì thời gian qua không cần biết bao lâu, tấn tuồng hôm nay sẽ lại tái diễn, họ lại bị đánh đuổi như đàn thú hoang vừa bị đánh đuổi ra khỏi Lộc Hưng. Họ cần một lời hứa được thực hiện ngay: cho họ một mảnh đất an cư để họ dời đi.

Hãy nhìn kế hoạch giải tỏa Hạ Long năm 2017 theo đề nghị của UNESCO căn cứ trên vấn đề nước trong vịnh bị ô nhiễm và kỹ nghệ du lịch thế giới muốn kỳ quan Hạ Long được bảo vệ. Người dân ngụ cư ba đời trên sóng nước Hạ Long được mời họp nhiều lần với chính quyền sở tại, được thuyết phục hết mềm mỏng đến cứng rắn, được cấp ngay một căn hộ trong đất liền trang bị tiện nghi với máy điều hòa không khí, tủ lạnh, lò vi ba, máy giặt máy sấy… Ngày họ phải rời vịnh ra đi, đám nhân viên công lực hò hét như một lũ điên, đập phá mặt tiền các căn nhà nổi dựng trên những cái mảng lớn, giật tung màn cửa sổ, xô ngã những tấm ván gỗ trên lối đi, hệt như lũ hải tặc thế kỷ thứ 18 nhìn thấy trong các bộ phim của Hollywood. Có vẻ như phá phách là hội chứng tâm thần của đám người mất thăng bằng trong cuộc sống, nát rượu, nhìn đâu cũng thấy căm hờn.
Cổ nhân có câu “Sẩy nhà ra thất nghiệp,” bề ngoài cuộc giải tỏa Hạ Long xem ra chu đáo vì có bàn tay Liên Hiệp Quốc rót tiền vào nhưng bề trong không phải vậy. Người dân Hạ Long có văn hóa và cách sống đặc thù trên sóng nước, có loại công việc sinh nhai rất khác với đất liền. Cho họ nhà cao cửa rộng nhưng họ không tìm được việc làm thích hợp, Đàn ông thất nghiệp nằm dài xem TV, hút thuốc lá vặt. Có anh mò vào sòng bài thử thời vận, vừa chẳng kiếm được việc gì, vừa thua trắng những đồng tiền chắt chiu thời làm lái tàu du lịch trong vịnh, đẩy anh đến chỗ thất chí và tự tử suýt chết, bỏ lại mẹ già, vợ yếu, con thơ. Đàn bà lam lũ gấp đôi vì ngoài việc buôn bán cò con, chiều tối về nhà còn phải bếp núc rửa dọn nồi niêu soong chảo, cách rách gấp đôi gấp ba ngày ở vịnh, mọi thứ đơn giản và ngay trong tầm tay. Trẻ con hết học thì ra phố thụt bi da, mười giờ tối mẹ gọi mãi mới về.
Lẽ ra sau giai đoạn dời cư từ vịnh vào đất liền, chính quyền sở tại phải có kế hoạch giúp người dân ổn định tâm lý thông qua các chương trình huấn nghệ, cho họ hội nhập vào cộng đồng nơi mới tới, thì chính phủ đem con bỏ chợ, sống chết mặc bây, tiền thầy đút túi rồi là chấm hết! Sau cùng, họ trả lại nhà cho chính quyền, trốn về Hạ Long sống lại những ngày lênh đênh cũ, càng lênh đênh hơn vì bây giờ cả nhà chỉ có một chiếc thuyền con, nổi trôi bất hợp pháp. Vì vậy, dời cư muôn đời là vấn đề nghiêm trọng cho mọi người, nói chi tới việc phá nát ngôi nhà đang có người ở.

Các linh mục dòng Chúa Cứu Thế có sáng kiến tổ chức cuộc thi lấy giải thưởng những ảnh chụp cảnh tàn phá Lộc Hưng, không để bêu riếu chính quyền vì chính quyền miễn nhiễm với bêu riếu mà để đau thương được nhận diện, được khắc ghi, làm bài học cho nhiều thế hệ sau, để nuôi hy vọng vào ngày mai vì lòng công chính sẽ tất thắng và hoa hồng vẫn nở trên những ống sắt bị bẻ cong, hai cây chuối con vẫn đâm chồi từ bụi chuối mẹ bị dày xéo hôm qua.
Cuộc phát thưởng được thu hình, được phóng lên YouTube. Các tác giả trúng giải được phỏng vấn về động lực thúc đầy họ thu vào ống kính cảnh điêu tàn của Lộc Hưng. Anh Tùng Nguyễn, giải ba với bức ảnh tựa đề “Lộc Hưng hôm nay hay Mậu Thân?” cho biết trong mắt anh, Lộc Hưng không khác gì những khu Saigon đổ nát vì súng đạn Tết Mậu Thân. Chiến tranh vô cảm không chừa ai, cái gì nhưng con người với con người sau chiến tranh vẫn cư xử tàn nhẫn với nhau đến mức này sao?
Đặc biệt anh Trần Bang, bộ đội phục viên, giải 4, tác giả bức ảnh “Bám sát Chiến Sự,” đã xúc động và phấn khích cho biết năm 1982, ba năm sau cuộc chiến ở biên giới với Trung Quốc, đơn vị anh được điều động về Lào Cai, giúp dân xây dựng lại thành phố bị tàn phá. Anh nói chính sách triệt hạ đối phương của Trung Quốc ngày ấy là tận diệt sự sống trong từng ngọn cỏ cho súc vật ăn, từng thước đất để con người trồng trọt lấy hoa màu, từng cái nền nhà để bắt đầu lại, từng cây cầu qua sông bị đánh sập, rừng cho bóng mát bị đốn sạch, nghĩa là sau bước chân xâm lăng của họ, nơi nào cũng hoang phế, cũng cùng kiệt, không còn là đất sống cho bất cứ ai, tàn ác ngoài sức tưởng tượng của con người. Thế mà cảnh tận diệt ấy hôm nay tái diễn ở Lộc Hưng, bởi chính những người Việt Nam nhân danh giải phóng miền Nam đối xử với đồng hương kém may mắn phải sống trong gông xiềng của họ.
Buổi trao giải cuộc thi ảnh kết thúc bằng lời cầu nguyện dõng dạc, minh bạch của Cha Anthony Ngọc Thanh DCCT, xin cho Việt Nam không còn bị chính quyền Cộng sản cai trị nữa, khán giả nghe anh Tùng Nguyễn, giải 3, kêu khẽ trong cổ họng: “Chỉ mong cảnh tượng Lộc Hưng không còn xảy ra nữa!”

Chao ôi, tội nghiệp biết bao cho đồng bào tôi đã bị nhồi nắn để trở thành nhát nhúa, sợ cảnh máu đổ thịt rơi nên chỉ muốn cầu hòa, tin vào sự đổi thay tốt hơn không thể nào xảy tới trong những con người mê sảng quyền lực và lương tâm đã chết.
Không một ai trong những vị nhận giải đã chỉ nhận bằng tưởng lục và sẵn sàng trao lại chi phiếu (không biết bao nhiêu) cho ban tổ chức cuộc thi để gây quỹ tương trợ nạn nhân Lộc Hưng. Cho đến khi nghe Linh Mục Anthony Ngọc Thanh DCCT, lên tiếng kêu gọi những ai có ảnh của Lộc Hưng mà vì nhiều lý do không tiện ra mặt dự thi, xin gửi ảnh về album Lộc Hưng, chỉ mong những vị này không đòi thù lao bản quyền thì quý lắm.
Kẻ viết bài này chua xót nhận ra người Cộng Sản không chỉ phá nát những công trình lớn nhỏ của con người, phá nát giang sơn hoa gấm Việt Nam mà còn phá nát cả nền văn hóa trọng nghĩa khinh tài của một dân tộc có hàng ngàn năm văn hiến rực rỡ ở phương Đông! Đau đớn thay Lộc Hưng ơi!

Bùi Bích Hà
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeTue Apr 02, 2019 10:26 am

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Co_vang

Lá Cờ Tổ Quốc
Bùi Bích Hà


Hơn hai mươi năm trước, một buổi sáng mờ sương, tôi lái chiếc Corolla cũ đi làm trên đường Euclid hướng về Bolsa. Nhà cửa, hàng phố hai bên vỉa hè còn yên ắng, xe của những công nhân đi làm ca sớm lưu thông thưa thớt và tôi đang lơ mơ nghĩ về một ngày như mọi ngày.

Thốt nhiên mắt tôi chạm vào những lá cờ quốc gia màu vàng với ba sọc ngang màu đỏ bay phấp phới bên cạnh cờ Hoa Kỳ trên các trụ điện thành phố. Tôi cựa mình ngồi thẳng lên, tỉnh táo, mở mắt to hơn, chạy qua những cái cột điện treo cờ như trong một cuộc diễn hành kỳ lạ. Cảnh vật nhòe đi trong nước mắt tôi mừng vui tuôn rơi trên vạt áo, xúc động và hãnh diện thấy mình bỗng nhiên tìm lại được một thời tươi đẹp ở quê hương.

Tôi đã không nhìn thấy lá cờ tổ quốc một thời gian thật dài, sau biến cố 30 Tháng Tư, 1975. Sài Gòn thân yêu của tôi kể từ mốc lịch sử oan khiên, đau buồn ấy đã oằn mình dưới một rừng cờ đỏ, cuồn cuộn màu chu sa, làm sống lại cái thê lương trong thơ Trần Dần khi về giữa Hà Nội năm 1954: “Tôi đi không thấy phố thấy nhà / Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ.”

Tưởng rằng đã thôi. Đã mất. Đã trăm năm chia tay. Sẽ ngàn năm vĩnh biệt. Một dân tộc điêu linh. Một đất nước tội tình. Những phận người phiêu bạt lênh đênh không còn biết đâu là nhà, không còn cả một lá cờ là căn cước để biết chúng ta từ đâu đến và sẽ đi về đâu?

Thế nhưng không, lá cờ tổ quốc của tôi vẫn hiện diện cùng đồng hương của tôi trên xứ sở vĩ đại này. Chúng tôi có cả một lịch sử nhiều ngàn năm văn hiến. Chúng tôi vẫn còn một điểm hẹn chung để hội tụ, vẫn còn cơ hội nắm tay nhau để cùng hành động cho một ngày trở về dưới bóng cờ tổ quốc linh thiêng của 90 triệu con dân cùng một tổ tiên oai hùng. Tôi cực tin rằng lá cờ ấy mang linh hồn của những người Việt Nam trong mọi cương vị, từng hiến dâng sự sống cho tổ quốc tồn sinh và cũng như thế cho mọi lá cờ của mọi quốc gia trên địa cầu này. Cho nên, cứ mỗi lần được nghe bản quốc ca cất lên, lòng tôi không khỏi bùi ngùi và mắt tôi không khỏi rướm lệ.

Cùng với ý nghĩa thiêng liêng và to lớn của lá cờ tổ quốc, vào thời điểm rực rỡ nhất trong lịch sử định cư trên bốn thập niên tại Mỹ của cộng đồng người Việt tị nạn hải ngoại, tôi tin rằng mỗi thành viên của tập thể lưu lạc ấy đã có lúc cảm thấy mình hồi sinh với lá cờ tổ quốc tung bay dưới bầu trời này.

Chúng ta vẫn mang theo nhân thân mỗi người một mảnh vỡ tổ quốc sẽ có ngày hàn gắn lại như văn hào Voltaire từng viết: “Tổ quốc là tâm điểm cột buộc trái tim chúng ta.”

Về sau, vì cộng đồng thiếu một chiến lược nhất quán, vì sự phá hoại thiên hình vạn trạng của đối phương, vì nỗ lực sinh tồn vừa xói mòn năng lực, vừa làm nguội lạnh nhiệt tình với đại cuộc ngày càng trôi xa mục tiêu, lá cờ tổ quốc từ vị thế là đích nhắm cao cả “tổ quốc còn thì con dân còn” đã trở thành phương tiện đấu tranh được sử dụng tùy tiện trong tay một số người tự cho mình quyền suy nghĩ và hành động thay cho mọi người, quyết định cả sự an vui của mọi người nhưng thực tế chỉ tạo ra bầu khí gây chia rẽ, lo sợ, hận thù ngay trong lòng mình và trong lòng anh chị em một nhà.

Thậm chí lá cờ tổ quốc là cái nhãn hiệu để nhận ra nhau ở bề ngoài, hệt như cái nhãn hiệu dán trên một sản phẩm để bảo đảm nguồn gốc và chất lượng bên trong bao bì thực tế có khi đã thay đổi. Các ông/các anh thắt cà vạt, các bà/các chị quàng khăn, mặc áo dài có hình tượng cờ tổ quốc, nhịp nhàng, đồng điệu, làm sao biết được tâm thế đã cách chia, không còn cùng nhau một mối tương đồng?

Từ đó, phải thú thật, hình ảnh lá cờ tổ quốc trở thành một ám ảnh buồn bã trong tôi, cả hồn lẫn xác, cho dù ở một nơi sâu thẳm nhất trong tâm tư mình, tôi biết lá cờ ấy vẫn cháy lên như ngọn đuốc thiêng Thế Vận Hội, mãi mãi được tiếp nối, được gìn giữ với tràn trề sức sống thanh xuân không bao giờ phai tàn.

Lá cờ tổ quốc của tôi không ai được làm nhem nhuốc hay có thể lấy đi, bỗng nhiên mất cả danh xưng mạnh mẽ, oai hùng của nó để nhận lấy cái tên thông tục “cờ vàng ba sọc đỏ,” làm đau lòng toàn bộ con dân nhà Nam hết thế hệ này sang thế hệ khác, luôn ngước nhìn, trông vời lá cờ như ngọn hải đăng soi đường để không lạc bước, như ngôi nhà luôn ao ước trở về dẫu xa xôi cách trở ngàn trùng.

Lá cờ tổ quốc phủ lên quan tài các tử sĩ hy sinh ngoài chiến trường theo đúng lễ nghi quân cách, nay phủ lên quan tài những chiến binh không có vinh dự này như một cách thể hiện giùm cho người nằm xuống mang theo họ giấc mơ hồi hương không trọn.

Lịch sử Việt Nam xa xưa đã có giặc cờ đen, cờ vàng, cận đại có đảng Cộng sản cờ đỏ sao vàng, là những liên tưởng đầy bóng tối không một công dân nào của tổ quốc Việt Nam muốn có. Cờ đỏ sao vàng là đảng kỳ của đảng Cộng sản Việt Nam, chưa bao giờ chính danh là cờ của tổ quốc Việt Nam có lãnh thổ, có dân tộc, có lịch sử riêng, hiện nay gồm hơn 90 triệu dân cùng một tổ tông. Lá cờ đó muôn năm cứ là cờ đỏ sao vàng, không có một danh xưng nào khác. Cùng lắm, chỉ có hơn ba triệu đảng viên người Việt đứng dưới lá cờ ấy, nhìn nhận nó khi tuyên thệ nhận căn cước Cộng Sản của họ.

Thấm thoát, cộng đồng người Việt tị nạn Cộng sản đã rời bỏ quê cha đất mẹ gần nửa thế kỷ. Chúng ta như những mảnh puzzles của một mô hình kiến trúc lớn bị gió bão đánh đổ, không tìm được cách gắn ghép vào nhau và ngày càng chông chênh, trôi dạt. Gần đây, một số khá lớn chúng ta có dấu hiệu mỏi mệt, muốn bỏ cuộc và buông xuôi theo thời thế. Tuổi trẻ không tin tưởng và ngưỡng phục người lớn trong cách hành xử nên kính nhi viễn chi. Người lớn thấy năng lực hao mòn cùng tuổi tác trước viễn ảnh một tương lai vô vọng, cũng muốn dừng chân, gác kiếm, để xem con Tạo xoay vần đến đâu?

Người anh hùng bĩ vận Ngô Thì Nhậm có câu đối nghĩa khí: “Thế Chiến quốc, thế Xuân thu, gặp thời thế thế thời phải thế.” Người Mỹ có nhân sinh quan tương tự: “If you can not fight them, join them.” Vậy là khôn ngoan, quyền biến, thức thời. Dù chưa xoay chuyển được thời cơ thì cũng là một cam tâm khí phách, biết đâu bàn cờ có lúc phá được thế bí?

“Thế thời phải thế” hay “join them” không có nghĩa là đầu hàng mà chỉ là tạm hòa để bảo toàn lực lượng và mưu sự. Hơn nữa, là dấn thân khi không còn ai để trông cậy ngoài chính mình, kiểu “không vào hang cọp, sao bắt được cọp con?” Nghịch lý trong cả hai trường hợp là sau cùng, kẻ yếu phải cầm được bánh lái để chiến thắng, nếu không, sẽ là sự thua cuộc trá hình ngay từ đầu, dối lòng, dối người, nào có ích gì nếu không là tội lỗi?

Trong cuộc chiến cuối cùng này, vũ khí của chúng ta là lá cờ tổ quốc phấp phới bay trên các trụ đèn đường của nước Mỹ như nó đã phấp phới bay trên cổ thành Quảng Trị, thôi thúc chúng ta hãy bền lòng nuôi những giấc mơ và biến chúng thành sự thật, hãy bền lòng nhớ rằng chúng ta có một cội nguồn, một quê hương để trở về xây dựng lại. Hãy luôn mang lá cờ ấy trong tâm khảm, đi bất cứ đâu, làm bất cứ điều gì vì dù có lúc khó khăn, nó luôn chứng minh chúng ta có một lịch sử hào hùng và đáng hãnh diện.

Hình như tôi đang mắc cạn trong một thời đại nhiều dối trá, hời hợt, ươn hèn, mỗi ngày tự ve vuốt mình để quên đi những điều không muốn nhớ. Lâu dần, mọi thứ trở thành tự nhiên. Tôi thấy mình vật vờ như một sinh vật không có căn tính, một sợi khói vô định, mờ nhạt, lang thang đi tìm mái xưa trong trời chiều bảng lảng quê người. Cho nên, tôi thực sự cảm ơn lá cờ tổ quốc linh thiêng cho tôi nơi an trú trong quãng đời lưu lạc, cho tôi đường hoàng ngẩng cao đầu trả được món nợ đất nước này đã cưu mang, cho tôi thoát khỏi thân phận kẻ côi cút không nhà cửa, không gốc gác, trôi sông lạc chợ đến đây như cánh bèo mặt nước.

Mai kia, nếu phải gửi xác ở chốn này, tôi xin được là gió để mãi mãi quẩn quanh ở các khu kỳ đài của cộng đồng người Việt di tản khắp nơi trên thế giới, lưu dấu bước chân của một dân tộc chấp nhận trả giá cho lỗi lầm lịch sử và kiên cường đứng lên, xây dựng lại từ những mất mát và đổ vỡ đau thương bi thảm nhất trên dòng sinh mệnh của nhân loại cuối thế kỷ 20.

Bùi Bích Hà


Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Th?id=OIP
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeMon Apr 22, 2019 9:42 am

.
Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Th?id=OIP

Tưởng niệm 30 Tháng Tư 1975
- Bùi Bích Hà

April 25, 2018

Hằng năm, đến Tháng Tư, cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng Sản định cư ở khắp nơi trên thế giới đều cảm thấy đau buồn. Mỗi người âm thầm tưởng niệm biến cố lịch sử đầy uất hận này trong tâm tư hoặc thể hiện qua việc tổ chức, tham dự các lễ nghi có tính cách đoàn thể.

Lá cờ tổ quốc trên các kỳ đài và công thự miền Nam Việt Nam, sau buổi trưa 30 Tháng Tư, dù có bị kéo xuống bởi bàn tay những kẻ thắng thế nhờ thời cơ, mãi mãi tung bay rực rỡ trong ký ức những ai từng xả thân chiến đấu bảo vệ lý tưởng Tự Do Dân Chủ dưới màu cờ ấy. Nó không mất, chỉ rủ xuống trong một giờ đúng giữa trưa ngày 30 Tháng Tư, 1975 và từ đó, hàng năm, để chịu tang cho đất nước, để quấn lên trí nhớ mỗi người dân một vòng quốc hận, dặn dò nhau đừng bao giờ quên bài học xương máu của chế độ vừa bị bức tử.

Những người phụ nữ từng can trường đóng góp bản thân họ và con cháu họ cho cuộc chiến bảo vệ lý tưởng Tự Do, bảo vệ những giá trị làm người cao quý, có một cách tưởng nhớ 30 Tháng Tư riêng, không ồn ào, sôi nổi, mà lặng lẽ trong mỗi ngày sống, mỗi giờ sống, vun xới cho cuộc tồn sinh nơi xứ người có phẩm giá hơn, xứng đáng hơn, ý nghĩa hơn, sao cho nhìn lá cờ tổ quốc không thấy thẹn với lương tâm, không thấy đắc tội với tiền nhân.
Sau cuộc khánh tận quân sự và chính trị 30 Tháng Tư, 1975, tiến trình gom vốn để gây dựng lại niềm tin và sự nghiệp bắt đầu trước hết với mỗi cá nhân mà việc nhìn lại lịch sử, nhìn lại dân tộc và nhìn lại mình để tu thân là điều kiện căn bản. Cái thân suy đồi, tham ác, không trọn, không thật, thì mọi việc khác đều là hão cả.
Tưởng niệm 30 Tháng Tư Đen sau 43 năm kể từ biến cố, nhiều người trong chúng ta đã không còn thấy đường về. Bạn gái lưu lại dấu vết thành công ở mọi lãnh vực, nhìn vào tưởng chừng hoang đường nhưng chiến thắng lẫy lừng nhất chính là nỗ lực thích nghi của họ với hoàn cảnh mới, vươn lên từ vực sâu, dẫm lên khổ đau và vượt qua muôn trùng thử thách để gìn giữ, phát huy truyền thống và sáng tạo dưới mỗi mái nhà, làm bệ phóng cho con cái bay vào quỹ đạo thế giới, chuẩn bị những thế hệ kế thừa có đủ năng lực và tình yêu nước cho một ngày trở về trong tương lai.

Ðược như vậy, kỷ niệm 30 Tháng Tư mãi mãi là một dấu mốc thời gian cần ghi nhớ.
Bề ngoài, người đàn bà tôi bất ngờ nhìn thấy ở bãi đậu xe trên đường Moran vào lúc buổi chiều nhá nhem tối một ngày Thứ Năm, trông như đã qua tuổi 70. Bà mặc chiếc áo lạnh rộng lùng thùng mầu xanh sẫm, đội cái nón len xanh đỏ tím vàng ôm gọn mớ tóc muối tiêu vào trong, hàm răng chỉ còn lơ thơ vài chiếc. Tôi trông theo khi thấy bà quày quả tiến về chiếc xe truck đậu trên parking lot. Thùng xe đầy ngập đồ đạc. Nhìn từ khoảng cách chừng 30 thước, tôi không phân biệt được cái nội dung bề bộn đó là những thứ gì. Tôi thấy bà lui cui ôm những cuốn sách từ cái thùng giấy để dưới đất, chất lên khoang xe phía trước. Sau cùng, bà bưng cả cái thùng chừng đã nhẹ bớt, cố nhét vào khoảng diện tích đã đầy ứ trong xe. Cung cách xốc vác khi bà làm việc, lẽ ra phải là của một người còn trẻ lắm, khiến tôi kinh ngạc nên tôi muốn đến gần bà để nhìn kỹ hơn và tìm hiểu thêm.

Thoạt tiên, tôi tưởng bà là một người không nhà, có nhiều “hành lý” hơn những người đồng cảnh chỉ có một tấm bảng nhỏ ôm trước ngực, đứng ở mấy ngã tư đường hay những người đẩy cái shopping cart lấy từ một cái chợ nào đó, lang thang trên vỉa hè. Thế nhưng không, trong cái khối lượng đồ đạc ngổn ngang khắp nơi, lèn chặt cứng trên chiếc xe truck, không thấy thứ gì là đồ tế nhuyễn, của riêng tây của chủ nhân, chỉ có vật dụng linh tinh, tạp nhạp, rất nhiều bánh mì mặn ngọt tôi đoán là thực phẩm cũ các chợ thải ra và nhiều nhất là sách báo. Trong khoảng cách một tầm tay với, khuôn mặt người đàn bà đầy đặn, hồng hào như con gái Ðà Lạt, tương phản rõ với hai bàn tay thô, sần sùi của bà.

Hỏi bà:  Bà làm gì với những thứ này?
Bà nói: Tôi nuôi chim và đi bán sách báo cũ để giúp chùa nghèo ở Việt Nam.
Bà cho biết đã làm công quả hơn mười năm nay, từ lúc vùng đất nuôi chim hoang ở ven biển chưa bị cấm (đến nơi không phải trốn cảnh sát) và chùa nghèo trong nước còn thiếu miếng ăn.
Hỏi tiếp: Bà có con cháu nào không?
Bà cười: Con đang cho ở nhờ.
Hỏi thêm: Bà không phải trông cháu ư?
Bà lắc đầu: Ðã có cha mẹ chúng lo. Mai kia tôi ra đi cũng bỏ chúng lại mà!
Hỏi thêm nữa: Vậy bà có cái gì mang theo không?
Bà cười, trơ mấy cái răng lẻ loi và trả lời như một nhà hiền triết: Tôi mang theo cái thiện.
Trong buổi chiều chập choạng tối, trời trở lạnh, bà lái cái xe nặng trĩu ra khỏi bãi đậu, tiếp tục cuộc hành trình xuôi ngược hàng ngày chỉ có bà tự hiểu lý do.

Kể lại câu chuyện này cho người bạn thiết nghe, bạn nhắc: Còn nhớ nhân vật huyền thoại Sisyphe không? Vì sao mà cứ lăn mãi hòn đá trên triền núi, rớt xuống lại đun lên, bộ không chán, không mỏi mệt, không thấy công dã tràng hay sao? Ấy là vì niềm tin đặt vào con người, vào lý tưởng mình theo đuổi. Sự thành công không bữa nay thì ngày mai, tháng sau, năm sau… Chẳng có công khó nào phí uổng cả, chỉ có thời gian phí uổng nếu không cố gắng làm một việc gì tử tế.
Tôi chắc rằng gần xa, xung quanh đây, tất cả những ai đêm ngày miệt mài, thầm lặng, làm cùng một công việc như người đàn bà tôi gặp chiều nay, dưới nhiều dạng thức khác nhau, đều có niềm an ủi đã không sống bo bo vì những lợi ích riêng mình.

Chúng tôi bước vào tiệm ăn quen, thấy dàn tiếp viên gồm các em gái trẻ thường ngày mặc áo bà ba lụa, mảnh mai, thon thả, vui vẻ, tươi tắn, phục vụ nhanh chóng, dường như được thay thế bởi các cô đứng tuổi hơn, cử chỉ nền nã hơn và chu đáo hơn. Còn đang lơ mơ quan sát thì một chị bạn đi cùng khều tôi, khẽ nói: Em biết cô này, hàng xóm hồi ở Sài Gòn.
Tôi thấy vui, chợt nghĩ tha phương ngộ cố tri đây! Hỏi lại bạn: Có thân nhau không? Có vẻ chị ấy không nhận ra em.
Bạn ngần ngừ: Em không biết nhưng em nhận ra chị.
Vốn yêu quý những tình bạn cũ, tôi khuyến khích: Nếu chắc chắn không lầm, chào nhau một tiếng.
Bạn tôi vẫn ngần ngừ. Đoán họ là hàng xóm một thời nào song có lẽ không thân thiết lắm nên tôi tôn trọng sự riêng tư của cả hai, im lặng theo đến chỗ ngồi. Cho tới khi “người xưa” đến bàn chúng tôi với cuốn sổ nhỏ trên tay để ghi thực đơn thì họ nhìn vào mặt nhau. Một chút ngỡ ngàng nén lại. Một chút vui nguội đi rất nhanh. Họ chào nhau chừng mực rồi mỗi bên chú ý vào việc đang làm. Bạn tôi tránh không gọi món ăn mà bảo tôi ăn gì thì gọi luôn cho chị.

Khi thức ăn đã đưa ra đầy đủ, mọi người đã bắt đầu cầm đũa, bạn tôi mới nhỏ nhẹ nói với tôi: Em gặp chị vài lần rồi nhưng ở tiệm khác và không có dịp đối diện nhau. Ở Việt Nam, chị là vợ một ông bác sĩ. Chị ấy không phải đi làm, chỉ ở nhà chăm sóc con cái và gia đình. Tánh chị hiền hậu, dễ thương và ít nói.
Những gì bạn tôi mô tả về người láng giềng cũ dường như vẫn thể hiện nguyên vẹn sau cuộc đổi đời và thời gian họ xa nhau vì nhiều lý do. Bất cứ có chồng là bác sĩ, không phải lăn thân ra ngoài xã hội vì sinh kế hay nay là người tiếp viên trong một nhà hàng ăn, phục vụ thực khách, chị vẫn có phong thái lịch sự riêng biệt, từ dáng đi, giọng nói hay cách chào hỏi. Điềm đạm, lễ độ, mờ nhạt, hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh. Đến đây, bạn tôi không nói thêm gì nữa về chị và tôi cũng không tọc mạch, hiểu rằng có những điều không cần nói hay nghe mà chỉ cảm thôi. Có thể đúng, có thể sai nhưng đúng hay sai đâu có quan trọng gì trong một liên hệ qua đường miễn là giây phút này để lại một kỷ niệm cho mình niềm cảm kích.

Đâu đó trong cộng đồng, tôi từng thoáng nghe có tâm lý phân biệt giữa những đợt người nhập cư vào Mỹ ở những thời điểm trước hay sau cách nhau khá lâu, rất khác với cuộc di tản đầu tiên, chính thức, hạn chế, và tưởng là vĩnh biệt phần đất cùng bao thâm tình bỏ lại những ngày cuối Tháng Tư 1975, khi mọi người tình cờ trông thấy nhau trong cảnh tha hương, đổ xô hỏi thăm nhau, vồ vập, mừng rỡ, tựa như bắt tay nhau là bắt được vàng. Cho dù sau này, cuộc sống gượng lại của người di tản có ít nhiều bị xã hội nơi họ định cư điều kiện hóa, tôi cực tin rằng bản chất “nhiễu điều phủ lấy giá gương” của người Việt vẫn muôn đời tiềm ẩn trong huyết quản mỗi chúng tôi. Mọi ngăn cách, ngại ngùng, có lẽ do mặc cảm đến từ sự khác biệt bề ngoài qua thời gian hay từ một mong đợi đặt không đúng chỗ vào một lúc bất tiện nào đó.
Riêng cá nhân tôi, tôi tâm phục khẩu phục những người phụ nữ kiên cường, can đảm thích nghi với mọi thời thế thực chất chỉ là sân khấu diễn tuồng với cảnh trí và vai trò luôn đổi thay, không là chính họ với phẩm cách bất biến. Nhờ những phụ nữ được tôi luyện trong lửa phần thư của Tháng Tư lịch sử, nhờ trải nghiệm lẽ vô thường qua những mất còn không ngờ, họ trở thành những cột chống vững chãi cho bản thân và nhiều thế hệ tiếp nối của nòi giống Lạc Hồng.
Nói một cách khác, giản dị hơn, hãy làm một ly nước chanh với những trái chanh nhận được từ nghịch cảnh nghiệt ngã, thưởng thức nó trong từng ngụm thơm ngon. Hãy tiếp tục gieo hạt giống lành, để đất và thời gian làm phép lạ. Nhìn về Tháng Tư quốc nạn, tôi thích nhìn ở những khía cạnh tích cực, cho tôi niềm tin, niềm tự hào và nghị lực xây dựng một điều gì tốt đẹp, một bước gần hơn với ngày trở về.

Như vầng dương không bao giờ không trở lại ở phương Ðông ngay cả trong những ngày mưa mù và bầu trời không có nắng.
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeFri May 17, 2019 8:40 pm

.
Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà 217370-ThanHuuVietAnh-SachMoi-2-400


Thiên thu trong phút giây
- Bùi Bích Hà


Tạo hóa thật ưu đãi muôn loài sinh vật. Chẳng biết cỏ cây hoa lá và muông thú có biết nhìn ngắm con người và những kỳ công của nó hay không nhưng con người có thêm khả năng thưởng thức vẻ đẹp của muôn loài trong vũ trụ, như một ân huệ từ Trời.

Văn chương, thi phú, âm nhạc, vũ điệu, hội họa, điêu khắc, nhiếp ảnh, là những sinh hoạt nghệ thuật làm đẹp, làm phong phú đời sống vượt qua ranh giới thời gian và sự hạn hẹp của kiếp người. Trong các loại hình nghệ thuật mang tính sáng tạo kể trên, có lẽ âm nhạc và nhiếp ảnh gần gũi nhất với cảm quan của chúng ta, hầu như thường trực hiện diện, xâm nhập, thẩm thấu toàn bộ cơ cấu con người, làm nên một mảng sống thi vị.
Khoảng cuối thập niên 2000, lúc kẻ viết bài còn trông nom hội trường Văn Lang trên đường Moran, thị xã Westminster, mỗi năm một lần, có năm hai lần, tôi được hân hạnh tiếp tay với nhiếp ảnh gia Phí Văn Trung, chưởng môn hội Việt Ảnh Nghệ Thuật, cùng các học viên tổ chức những buổi triển lãm công trình săn ảnh của các anh chị thành viên trong hội. Ngoài triển lãm thu gọn trong hai ngày, các tác phẩm thể hiện tài năng, cảm xúc và những góc nhìn mới mẻ, đa dạng của các hội viên được in vào cuốn sưu tập ảnh do Hội phát hành, rất giá trị.

Chúng ta thường nghe câu "một bức hình bằng vạn lời nói hay trang sách," điều này không ngoa. Lời nói nếu không dùng dao khắc lên đá, lập tức thoảng bay, bốn ngựa đuổi không kịp, chưa kể bia đá cũng mòn theo tháng năm. Trang sách so với đá, xem ra mỏng manh hơn. Tuy không giãi dầu mưa nắng nhưng ròn vỡ qua thời gian, có chăng phải thu vào vi phim để gìn giữ. Trên đường dài, màu ảnh chụp cũng phai úa nhưng khoảng khắc thu vào ống kính là thiên thu ngưng lại trong một giây, thậm chí một sát na.
Tôi thực sự không biết niềm say mê trong trái tim các nhiếp ảnh gia là sự soi thấu những tầng nội tâm bí ẩn của một người (trong ảnh chân dung) tượng trưng cho nhiều người; là duyên may bắt gặp đâu đó một thoáng đẹp đến nao lòng , đến ngây ngất của thiên nhiên đổi thay; là bộc lộ xuất thần của bất cứ đối tượng nào với cuộc sinh tồn ẩn mật của nó; là chỉ có mấy phút để mặt trời như trái chín nứt ra ở phương đông hay chìm xuống ở phương tây.

Tôi không có kiến thức về nhiếp ảnh để có thể thẩm định giá trị những tấm ảnh trưng bày trong các cuộc triển lãm hay tại ảnh viện của các nhiếp ảnh gia tài danh, về chủ đề chọn lựa, ánh sáng, bố cục, tính cân đối cùng nhiều chi tiết nghệ thuật khác đưa chúng lên vị trí các tác phẩm để đời nhưng với tôi, có lẽ cũng hệt như với các nhà săn ảnh tài tử, quyết định trong chớp mắt thu cái gì vào ống kính hay sự thưởng thức của khán giả khi đứng trước tấm hình, cũng trong chớp mắt, là sự đồng cảm soi tỏ tâm can đôi bên như một thứ duyên tình tri ngộ.
Được xem qua hai cuộc triển lãm của hội Việt Ảnh Nghệ Thuật, tôi cảm nhận được tấm lòng trân quý đời sống vô biên của nhiếp ảnh gia Phí văn Trung khi ông đặt nặng tình yêu cuộc sống, lòng khao khát thể hiện cuộc sống ấy (gồm cảnh trí và muôn loài sinh vật) trong những khía cạnh đa dạng và chân phương nhất hơn là sự cầu kỳ về mặt kỹ thuật. Tất nhiên vẫn có những hạt ngọc bất ngờ chiếm vị thế trang trọng trong phòng tiển lãm nhưng những hạt mưa ồ ạt từ cơn mưa lớn mới đem theo chúng sức sống cho mặt đất trở nên giàu có.

Tôi nhớ một lần lúc bước vào phòng triển lãm của Việt Ảnh. Không khí yên lặng với những bước chân xê dịch chậm và khẽ trên thảm không gây tiếng động. Ba phía tường rộng treo kín những khung ảnh của Thầy Trò, đủ loại hình và đủ kích thước, tạo ra một góc đời kỳ thú. Tôi đi quẩn quanh trong thiên thu lặng thầm của những khung kính bất động với lòng biết ơn người đã phát minh ra chiếc máy chụp hình đầu tiên. Tuy vậy, phải chờ tới khi điện ảnh ra đời, thách đố giữa quyền năng vô hạn của Tạo Hóa và trí khôn của nhân loại mới có cơ may tiến gần đến một hình thức thỏa hiệp, phần thua vẫn về phía con người lăn lóc trong vòng quay sinh tử.
Hàng trăm bức ảnh với chủ đề con người, muông thú, cảnh trí thiên nhiên, được các tác giả hoặc dàn dựng để gửi gấm ước mơ hoặc tình cờ bắt gặp trong một tích tắc rủi may, san sát bên nhau như những mộ bia nghệ thuật. Mắt tôi bỗng dưng chạm vào một thân cây cổ thụ không biết bao nhiêu thước cao, bao nhiêu tầng lá nhưng dưới gốc nó là một vùng rêu xanh sống động, tựa như từng cọng rêu đang thi nhau rào rạt thở làm tôi quá đỗi kinh ngạc. Tôi không biết điều gì đã tạo nên cái sức sống rạo rực của vạt rêu kia? Ánh nắng xuyên qua những tàn lá cổ thụ, đổ xuống nó, nóng ấm, lung linh? Ống kính máy ảnh quá tốt, đôi mắt người nghệ sĩ quá tinh anh, ngón tay người nghệ sĩ quá tài hoa hay còn gì nữa để ghi nhận được cả những hạt sống vi tế của mảng rêu bám vào mặt đất ẩm?

Tôi dọn nhà, không nhớ đã xếp tập sách Việt Ảnh ở đâu ngoài những gì ký ức ghi lại từ hai cuộc triển lãm nhiều năm trước. Bên cạnh những tấm hình là phiên bản sao chép thiên nhiên hay sinh hoạt đời thường, có những tấm là tuyệt phẩm với nhiều công trình sáng tạo đượm màu sắc tâm tư và tài năng của từng tác giả, một mình trong giây phút thiêng liêng ở một cõi riêng. Thật không lạ khi đọc qua những bài viết về sự đam mê khó hình dung ra của số người chọn đi tìm hạnh phúc trong thú vui săn ảnh.  Cũng có những tình cờ may mắn nhưng thường thì họ thức dậy trước hừng đông, mang vác, lang thang hay ẩn nấp đâu đó ở một địa điểm nổi tiếng và đôi khi chỉ còn chừng 30 phút là buổi chiều tắt nắng họ mới bấm được một "shot" cuối cùng ưng ý. Chờ đợi nhiều giờ, nhiều ngày cho một cái hẹn hoàn toàn không báo trước, một khoảnh khắc đẹp, một người tình như có như không. Một ngàn hay ba ngàn lần bấm máy mới thấy hoan lạc đến bất ngờ. Trong sửng sốt. Trong rã rời. Trong tận cùng vui thỏa. Sự kiên nhẫn ấy có phần thưởng xứng đáng theo sau.

Cảm ơn nhiếp ảnh gia Phí văn Trung. Tạ ơn đời với chỉ một lần đi qua trần gian này, sao đủ? Nên nấn ná. Nên miệt mài. Nên mải mốt mời gọi những đôi mắt, những trái tim, những tấm lòng. Để thu góp cho nhau những hạt ngọc trời nếu thiếu bàn tay người chắt chiu và gìn giữ, cuộc sống sẽ nghèo nàn và vô cùng buồn bã, sẽ mất trắng biết bao tặng phẩm kỳ diệu Tạo hóa yêu thương giành tặng cho con người để đền bù kiếp nhân sinh ngắn ngủi.
 
Bùi Bích Hà
Quận Cam, 8/2016
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeThu Jul 11, 2019 10:15 pm

.

Hành trình một đời người
- Bùi Bích Hà


Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà DP-Hanh-trinh-Nguyen-Dinh-Toan-1-696x463
Nhà văn, nhà thơ và nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn.
(Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Tôi đọc Nguyễn Đình Toàn ngay từ tập truyện đầu tay của ông, “Chị Em Hải,” 1961, thời còn cắp sách đến trường, hồn cũng như lòng còn rất tinh khôi.
Thời gian trôi qua đã lâu, tôi không nhớ nội dung truyện nhưng tôi không quên không khí truyện. Thật đẹp. Thật dịu dàng. Thật ấm áp. Như một thứ nhan sắc chỉ gặp một lần là ghi nhớ mãi. Tôi biết ơn sự may mắn trong vài giây cuối cùng này vì chỉ chưa đầy một năm ngắn ngủi sau đó, tôi bước vào cuộc hôn nhân đầy bão tố. Từ đây, sách, truyện, báo chí, với tôi, trở thành cấm địa. Tôi như con cá ngáp trong bồn nước thiếu dưỡng khí. Là người, tôi đã sống nhờ hồi tưởng.

Cuối thập niên 1990, tôi vui mừng nghe tin ông cùng gia đình tới Mỹ, định cư ở Quận Cam sau 23 năm kẹt lại Sài Gòn, trong đó có hơn 10 năm tù đày dưới chế độ mới. Tôi cũng nghe tin ông bế môn tạ khách, sống bình lặng theo ý riêng nên nghĩ thầm hẳn là rất khó để được diện kiến ông.
Đầu thập niên 2000, một thân hữu giúp ông ra mắt CD đầu tiên ở hải ngoại “Hiên Cúc Vàng,” tại vũ trường Majestic, thu hút một lượng khán thính giả đông vượt bực chưa bao giờ ngừng hâm mộ ông, trong đó có tôi và bạn bè tôi. Quả nhiên, ông không xuất hiện. Tôi đoán là ông chưa sẵn sàng cho một môi trường thù tạc mà ông xa lánh đã quá lâu.

Mãi sau này, khi ông chuẩn bị gửi ra độc giả bộ “Bông Hồng Tạ Ơn” gồm hai cuốn (2006/2012) và tôi bất ngờ được hân hạnh ông cho phép bày tỏ đôi chút cảm nghĩ của mình nhân dịp này, tôi mới thực sự biết ông trong đời thường.
Hiền thê của ông, bà Thu Hồng, đi bên ông như bóng với hình. Bà có khuôn mặt trái soan, đôi mắt bồ câu long lanh và làn môi như đóa hồng hàm tiếu. Lần đầu gặp nhau, vẻ hồn nhiên và nụ cười thật tươi trên môi bà lập tức cho tôi sự yên tâm và cả cái tình ấm áp, dịu dàng của “Chị Em Hải” ngày nào. Chúng tôi chuyện trò râm ran bên tách cà phê tối và tôi nhận được tấm hình lồng khung rất lịch sự, chụp trong buổi giới thiệu “Bông Hồng Tạ Ơn” để làm kỷ niệm.

Nhiều năm sau này, biết tin bà mắc bệnh quên lãng, không còn lái xe nữa, tôi hay theo Nhã Lan, thỉnh thoảng có thêm một bạn văn từ xa về, đến thăm ông bà tại căn chúng cư tọa lạc trong một khu yên tĩnh thuộc thành phố Westminster. Dù tiến triển chậm so với các trường hợp tương tự, bà ngày một mất dần khả năng tự chủ của một người trưởng thành và trở lại như trẻ thơ. Lần mới nhất chúng tôi đến thăm ông bà, bà vui cười, cung hai nắm tay dứ dứ về phía tôi như trẻ con vẫn dọa nhau, khiến ông khẽ lắc đầu và cũng cười theo cùng với lời giải thích bao dung và hiền hậu: “Có biết gì nữa đâu? Cứ như con nít vậy thôi!”
Trong căn nhà nhỏ ở xứ người với bàn ghế, đồ đạc cũ kỹ, đủ cho sinh hoạt hằng ngày của ông bà, họ có một thế giới thu hẹp từ những khoảng không gian bao la thuở xưa chứa đầy kỷ vật: hình ảnh, CD, sách, tài liệu văn học, nhiều tập nhạc thủ bút của tác giả chưa vội gửi ra. Có cái gì ở đây làm tôi liên tưởng tới “Căn Nhà Xưa” của họ, với những “sớm mai nằm nghe nắng giòn trên mái, có giếng nước soi trời trong, có gió mát đêm bình yên, có những tháng năm buồn tênh, khốn khó quyết nuôi tình duyên đã trốn thoát qua nhiều phen.” Chỉ thiếu khu vườn cải và những liếp hoa vàng.
Ở ông giờ đây, tôi thấy trong ánh mắt luôn thấp thoáng nét cười “Một Ngày Sau Chiến Tranh” không còn chỗ cho máu đổ xương rơi, cho người đầy đọa người, cho oán thù hay căm phẫn dày xéo lương tâm nhau mà chỉ còn hòa bình và yêu thương, bắt đầu từ nội tâm mình. Ở ông, tiếng cười ngắn, chân thực, tận lực, đã cất giùm người đối diện nỗi đau trong lòng họ, đã cho họ sự khôn ngoan của chiếc lá mềm đánh đổi màu xanh sẽ úa vàng lấy hương nồng thơm mãi đến ngàn sau.

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà DP-Hanh-trinh-Nguyen-Dinh-Toan-2
Một số tác phẩm của nhà văn, nhà thơ và nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn.
(Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Bạo lực bỏ tù văn chương của ông, ông buông bút. Bởi vì khi cần, bút trở thành vũ khí. Ông không chỉ có một con đường hãm hại hay phục thù. Ông có nhiều sinh lộ. Ông chọn cầm đàn. Âm nhạc không tàn sát ai cả mà hát lên sự khốn cùng của đời sống không niềm tin, không tình yêu.

“… Hãy thắp cho anh một ngọn đèn/ Dù tình đời mong manh/ Lòng chẳng còn trông mong gì nữa/ Hãy thắp cho anh một ngọn đèn/ Để một mình trong đêm/ Anh tưởng nhìn ra em còn hơn/ Cố thắp cho em một ngọn đèn/ Bằng lửa sầu tim anh/ Một ngọn đèn lênh đênh ngày tháng/ Cố thắp cho em một ngọn đèn/ Dù mệt nhoài trông ngóng/ Để nhủ lòng gắng nuôi niềm tin/ Cố thắp cho em một ngọn đèn/ Bằng nhọc nhằn cay đắng/ Bằng hình hài rã trong trại giam/ Cố thắp cho em một ngọn đèn/ Dù lửa tàn trong anh/ Không còn đủ khêu thêm đèn sáng/ Cố thắp cho em một ngọn đèn/ Để dù trong xa vắng/ Em còn được cháy trong lòng anh…”

Có một thời, tôi đã mồi lửa từ ngọn đèn hiu hắt nhưng không chịu tắt của Nguyễn Đình Toàn để thắp lên ngọn đèn cạn dầu trong tôi những ngày lênh đênh quê nhà, quê người, nên tôi biết ơn ông. Ông có tài năng đã đành nhưng lớn lao hơn cả tài năng, ông có trái tim mẫn cảm chan hòa thiện ý. Ông biết buông bỏ để thu nạp nhiều hơn và đem trang trải cùng thiên hạ. Những gì ông nói ra, viết xuống, hát lên là của riêng ông, không thể lầm lẫn với ai, không vay mượn ai kể cả cuộc đời ông từng đi qua với niềm đam mê cháy lòng và những khao khát yêu thương đến vô biên.
Nhắc đến ông, một người bạn lâu năm của tôi ở xứ sương mù, giá rét, quanh năm mùa Đông, đã nói những lời thiết tha như sau: “Phải nhận là chúng ta đã quá may mắn để được sống cùng thời với Nguyễn Đình Toàn. Ngôn ngữ của ông sang trọng, tinh tuyền, đẹp đến nỗi không la đà cùng khung nhạc mà bay bổng, mà lan tỏa, mà thấm vào những tầng cảm xúc sâu thẳm nhất trong tôi… ‘Ngày thần tiên em bước lên ngôi…’ Cảm ơn ông về một quãng đời xa hoa, lộng lẫy, nhìn đâu cũng thấy tình ca.”

Ông đã đi gần hết cuộc hành trình một đời người trên địa cầu, qua nhiều hạnh phúc và khổ đau, qua nhiều vinh quang và nhọc nhằn, giờ đây “mộng ước đã xa xôi, theo giòng đời trôi,” ông không giữ lại gì cho ông, trong những bước chân chiều chầm chậm đi dưới những tàu chuối tả tơi trong khu vườn nơi ông ở nhưng tôi tin rằng mỗi người biết ông đã giữ giùm ông một chút gì ông tạo ra và để lại. Mỗi người biết ông sẽ còn buồn vui cùng ông bằng nước mắt, bằng tiếng cười vượt qua mọi tang thương nghiệt ngã với một trái tim trong trẻo và một tâm hồn cao thượng. Sẽ không ngồi trong bóng đêm nguyền rủa tối tăm mà “Cố thắp lên một ngọn đèn” để xua đuổi tối tăm, để hồi sinh những bông hoa nở trên huyệt mộ và những mảnh đời ngỡ đã chôn sâu:

“Có tay nào che nổi trời mưa
Cho vai đừng ướt nặng
Hãy nói với đêm khuya
Một lời nói nhỏ
Tình là chi mà nhiều khi chôn được ở lòng ta
Tình là chi mà nhiều khi chôn lại nở thành hoa.”

Gặp ông nhiều lần nhưng chưa lần nào tôi nhớ hỏi ông lý do nào ông kẹt lại Sài Gòn hơn 20 năm? Bây giờ tôi sẽ không hỏi nữa mà nghĩ rằng những người hâm mộ ông, yêu thơ nhạc của ông, đã mắc nợ ông món nợ đau thương to lớn ấy bởi vì người nghệ sĩ không gánh vác khổ đau riêng mình mà gánh vác cả tội lỗi lịch sử thời đại mình khi sống thay cho đồng loại.
Ôi, một ngày sau chiến tranh ở miền Nam vừa đổi chủ, càng có nhiều hơn những xác người vật vờ đi trong thành phố, trên các cánh đồng khô nhà nông không còn cấy mạ, ruộng không còn thấy lúa màu xanh, người dân đốt đèn thả trôi trên sông không để cầu nguyện cho linh hồn kẻ đã khuất mà cho những phận người đang sống trầm luân. “Hãy thắp cho anh một ngọn đèn/ Một ngọn đèn trăm năm/ Rồi thả đèn trôi trên dòng sông/ Như tháng giêng trong đêm nguyệt rằm/ Người thả đèn trôi sông/ Cầu nguyện cho những ai trầm luân…”

Bên ngoài con đường vắng vẻ đưa vào căn hộ biệt lập nơi ông và gia đình cư ngụ suốt hai thập niên qua, dòng sống hối hả, xô bồ, nhộn nhịp của nước Mỹ vẫn tiếp diễn như một dòng cuồng lưu, nuốt trọn thời gian tranh sống của mỗi cá nhân. Bao nhiêu người như kẻ viết bài này, hằng ngày ngược xuôi trên các con lộ xe cộ như mắc cửi, vẫn còn thấy mình tay trắng vật vã đi tìm những điều nghĩ là cần thiết nhưng thật ra có ý vị gì đâu nếu đã không được lớn lên, cũng 20 năm, dưới hai chế độ Cộng Hòa đã đóng góp cho đất nước, ngoài máu xương bảo vệ tự do, một nền văn học nghệ thuật rực rỡ đề cao các giá trị nhân bản, để chúng ta hãnh diện mang theo làm chính nghĩa khi bỏ nước ra đi vì các giá trị cao quý ấy bị cưỡng đoạt và triệt hạ.
Chiều hôm nay trong khi lướt mạng, tôi tình cờ đọc được một câu trích dẫn của Tryon Edwards, nhà thần học người Mỹ nổi tiếng với các bộ sưu tập lời hay/ý đẹp, nói về bài học từ một chiếc lá vàng, đối với tôi thật có ý nghĩa vào lúc này: “Do your work well and then be ready to depart when God shall call” (Hãy sống hết sức mình rồi sẵn sàng lìa cành khi Thượng Đế gọi). Có lẽ nó giải thích cho tôi và nhiều người nữa, thắc mắc không hiểu tác giả Nguyễn Đình Toàn ngụ ý gì khi ông hạ bút viết lời cho bản nhạc “Anh Đến Thăm Em Đêm Ba Mươi” của Vũ Thành An, có câu: “Xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em?” Ông có tự ví mình với chiếc lá vàng trong ngụ ngôn của Tryon Edwards không?

Viết về một nghệ sĩ lớn, có những cống hiến đáng kể về mặt nghệ thuật và nhân sinh qua một bài viết có giới hạn, chỉ xin được viết ở một góc độ nhỏ với những chia sẻ nhỏ vì rất khó để phác họa một chân dung đầy đủ về họ. Viết về nhà văn/ nhà thơ và nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn, tôi thực sự không biết bắt đầu và kết thúc thế nào? Con đường ông đi trong vô thủy vô chung, những khoảnh khắc hiếm hoi gặp gỡ cũng xin còn mãi mãi lưu hương.

(Bùi Bích Hà)
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitimeThu Aug 01, 2019 6:22 pm

.

Bổn phận và tự do
- Bùi Bích Hà


Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà DP-Bon-phan-tu-do-696x464



“Tôi không chọn phá thai không vì gì khác mà vì có tự do, tôi chọn phương cách tốt hơn phá thai để tránh sự ghê tởm mình.” Tại Mỹ, Thống Đốc Kay Ivey của Alabama hôm Thứ Tư, 15 Tháng Năm, 2019, ký ban hành đạo luật chống phá thai đầy tranh cãi và cứng rắn nhất Hoa Kỳ, mà theo đó, bác sĩ thực hiện thủ tục này có thể bị tù chung thân. Trong hình, người biểu tình ủng hộ sự lựa chọn vì tự do sinh sản ở Montgomery, Alabama. (Hình: Seth Herald/AFP/Getty Images)

Báo chí sáng ngày Thứ Hai, 17 Tháng Sáu, 2019, đưa tin kỳ thi tú tài Pháp năm nay đã mở màn với môn thi triết học. Có nhiều đề tài thú vị cho thí sinh chọn lựa, khiến tôi cũng bỗng dưng nôn nao như ngày nào chính bản thân mình cắp giấy bút đến trường thi.
Thử sống lại tâm trạng thời hoa niên tươi thắm ấy, tôi đọc một lượt tất cả các chủ đề, tâm đắc với ba gợi ý sau đây:
-Est-il possible d’échapper au temps? (Có thể nào trốn thoát được thời gian không?)
-Reconnaître ses devoirs, est-ce renoncer à sa liberté? (Một người ý thức về bổn phận có phải từ bỏ tự do của chính mình không?)
-La pluralité des cultures fait-elle obstacle à l’unité du genre humain? (Sự đồng nhất của nhân loại có bị thực tế đa văn hóa cản trở không?)

Nghĩ đi nghĩ lại, tôi nghiêng về gợi ý số 2 vì hai chữ “tự do,” vốn là động cơ đẩy hàng triệu triệu người Việt Nam liều chết bỏ xứ ra đi bằng nhiều phương cách, liên lỉ suốt nhiều thập niên sau khi miền Nam bị quân đội miền Bắc cưỡng chiếm trưa ngày 30 Tháng Tư, 1975. Có vẻ như hai chữ “tự do” và “bổn phận” luôn được hình dung như hai chiếc xe hơi đụng đầu nhau trong một tai nạn lưu thông khó tránh.
Tự do như gió trời (trong nhạc Trịnh Công Sơn) không chấp nhận gò bó, trói buộc, trong khi bổn phận là những điều đến từ ngoại tại, áp đặt cho một người/nhiều người và ai cũng phải miễn cưỡng chu toàn để được cộng đồng chấp nhận.

Thông thường, bổn phận được nhìn như gánh nặng, thậm chí gông xiềng, trong thời khóa biểu hằng ngày của con người: đứa bé phải vâng lời cha mẹ, không được cãi dù có thắc mắc, phải đi học thay vì rong chơi, phải đi ngủ đúng giờ, không được chat với bạn hay bắn game thỏa thích, tùy tuổi tác phải giúp đỡ cha mẹ trong công việc nhà… Phản ứng tự nhiên là nó mong cho mau lớn, đủ 18 tuổi thì ra khỏi nhà, viện cớ đi học xa để thoát khỏi vòng kiểm tỏa của cha mẹ, tuy bổn phận không vì thế mà không tiếp tục đeo đẳng. Làm gì thì làm, tối tối phải điện thoại vấn an cha mẹ, kể chuyện đã thực hiện những gì để cha mẹ vui lòng hay chỉ đơn giản hỏi thăm chiếu lệ.
Bổn phận của vợ hay chồng là phải thủy chung với nhau, phải toàn tâm toàn ý dành hết thì giờ cho gia đình, thậm chí đánh mất mình kể từ giây phút bước vào hôn nhân. Bổn phận của bạn bè, đồng nghiệp với nhau phải luôn hòa nhã, nhường nhịn càng tốt để không gây mất lòng… Cứ thế mà suy ra.
Cả một đời cứ sống vì người khác, tuân thủ những luật lệ bắt đầu bằng chữ phải, tất nhiên cái “tôi” sẽ mai một nếu không nói quá là biến mất! Để cổ võ đường lối xử thế độc đoán này, các nhà luân lý/tâm lý học ra sức hô khẩu hiệu, đại khái như “cái tôi đáng ghét,” “cái tôi xấu xí, ích kỷ” trong khi cốt lõi cái “tôi” này ẩn hiện trong sâu thẳm con người và chi phối nó. Trong bóng tối vô thức, sự dồn nén do áp lực của những bắt buộc có khi nổ ra thành bệnh tâm thần.

Nói như vậy, chẳng hóa ra một xã hội càng tự do, con người càng ít bổn phận không chỉ với nhau mà cả với quá khứ và tương lai nữa ư? Lẽ nào? Tuy nhiên, xét bề ngoài, nghe nhiều lời than vãn đó đây (người lớn, trẻ con bây giờ tự do quá, ngụ ý chỉ sống theo sở thích cá nhân, xô đổ các hàng rào bổn phận, hủy diệt bào thai, bỏ cha mẹ già, ốm đau, vào viện dưỡng lão, ba tháng chưa thăm nom một lần!) thì thấy có vẻ như thế thật.
Vậy, câu trả lời cho đề thi Tú Tài Pháp năm nay sẽ là một câu ở thể khẳng định à? Chưa kể hiểu theo một nghĩa thông thường nhất, bổn phận còn phản chiếu mối tương quan nợ nần giữa các thành viên trong một cộng đồng, tự do chả lẽ là phủi tay quỵt nợ? Không có bổn phận với ai cả, thế nhưng bổn phận với bản thân thì thế nào?
Chẳng phải tự do là khả năng cao nhất làm nên phẩm giá của con người, là mục tiêu đẹp đẽ nhất của đời sống mà tạo hóa ban tặng cho con người từ lúc hoài thai trong bụng mẹ, đã biết quẫy đạp chân tay chứng tỏ sự sống của nó; từ thuở lọt lòng mẹ, đã tự biết há miệng kêu đòi dưỡng khí cho phổi để tồn tại! Tự do bẩm sinh tiềm ẩn ấy không thể mất đi trừ phi con người chối bỏ. Nó chính là một thứ bản năng như vàng ròng cần được tôi luyện để trở thành quý kim hay bỏ hoang để trở thành cỏ dại.

Từ quan điểm này, tôi hơi dị ứng với các biểu ngữ đòi tự do. Tự do có sẵn trong mỗi chúng ta, cần mỗi người ý thức nó, phát triển nó ngày càng tinh tấn hơn, xua đuổi sợ hãi, mở rộng nhận thức và cho con người đạt tới những lựa chọn tuyệt mỹ. Tự do không biết đến trói buộc vì nó ở ngoài, ở trên mọi trói buộc. Ngay cả khi tôi bị giam tù, tư tưởng tôi vẫn là mây bay và gió trời. Ngay cả khi tôi bị đói, chỉ có xác thân tôi tàn tạ, tôi vẫn no tự do vì không ai, không sự đày ải nào chà đạp được tư do trong tôi. Tôi chăm nom cha mẹ không vì sợ tiếng đời chê cười bất hiếu, không cảm thấy đó là gánh nặng người khác đặt lên vai tôi mà chính là tự do với vẻ đẹp của nó mở trí cho tôi chọn lựa tình yêu, sự công bằng, lòng biết ơn và bao dung. Tôi không chọn phá thai không vì gì khác mà vì có tự do, tôi chọn phương cách tốt hơn phá thai để tránh sự ghê tởm mình.
Bi kịch của con người ở chỗ con người là một thành tố xã hội, phải sống với người khác và có cuộc sống hữu hạn trong thời gian, không gian, kéo theo những giới hạn mà dù muốn, dù không, nó phải khép mình tuân thủ, có khi cọ sát đến rướm máu để biết dừng lại. Nếu rèn luyện đủ, thậm chí là tay cao thủ, con người biết sử dụng nhiều chiêu thức để thoát hiểm, không tránh né cũng không làm tổn thương mình/người để đạt mục tiêu của tự do.
Câu nói cửa miệng có lẽ từ một triết gia kinh qua cảnh ngộ này, là kinh nhật tụng trong xử thế cho nhiều người: “Khi không thể thay đổi một tình huống, hãy thay đổi cách nhìn,” “Khi không thể đánh thắng địch, hãy liên kết với chúng.” Liên kết với ý thức tự do không bao giờ là quy hàng hay về hùa mà để chủ động câu giờ, để tạm hòa với địch trong sự tỉnh táo, ở thế kề cận để biết rõ nhược điểm của địch, ngay cả để thuyết phục.

Tự do đúng nghĩa có sức mạnh vạn năng. Có cái mê đắm của một nhan sắc như rượu quý lên men với thời gian. Đã thực sự nếm trải, tự do là một kinh nghiệm thăng hoa tuyệt vời của riêng mỗi người và của mọi người, với sự tôn trọng tự do của nhau để cùng tiến bộ, cùng có cuộc sống tốt đẹp hơn, không đánh nhau nhân danh tự do vì đánh nhau là bản năng của thú dữ, không phải là biểu lộ của tự do.
Giá của tự do rất đắt và cao quý chính vì nó là hạnh phúc viên mãn của đời người, mỗi cá nhân phải tự tìm kiếm và khám phá nó để biết giá trị đích thật của nó, không bao giờ là quà tặng của bất cứ ai khác. Chẳng phải vô lý mà nhiều bậc cha mẹ giàu có ngày nay không để của cải nhiều cho con cái vì đồng tiền không tự tay kiếm được, dễ bị phung phí và lạm dụng. Có tự do rồi, bạn sẽ có cảm giác có tất cả, tuy rằng, tôi xin phép nhắc lại, bi kịch của đời người là tự do ấy giống như của con kiến bò trên miệng chén, có giới hạn trong tay tạo hóa nhưng miệng chén rộng hay hẹp, thơm tho hay tanh tưởi là công trình của kẻ thụ đắc.

Thử tưởng tượng ai đó vô cớ bị phỉ báng mà người ấy có tự do chọn lựa vượt qua hay qụy ngã dưới cơn bão này để vẫn an toàn, có phải là hạnh phúc tuyệt vời không? Thực tế là người đó không mảy may khác với chính họ, càng không là mình trong sự vu khống, có sao đâu mà phải tức tối, khổ tâm?
Thử tưởng tượng ai đó bị tình phụ, một khi họ có tự do để lựa chọn giữa bóng tối của sầu đau, oán thù và trí huệ tỉnh thức, hiểu được lẽ vô thường mà chấp nhận ngã rẽ, “đường dài hạnh phúc cầu chúc cho người” (và cho cả mình) thì cuộc đời vẫn vui như ong bay, cánh cửa này đóng lại, cánh cửa kia mở ra, có hơn không?
Thử tưởng tượng mình bị lừa hay bị trộm một số tiền lớn, chẳng phải lỗi tại mình u mê, ham lợi, cả tin, sơ xuất… hay sao? Rút kinh nghiệm và sửa mình thay vì thống trách mình, đau thêm tầng nữa, vô ích vì lại u mê cách khác thôi!

Trong mọi thứ quyền làm người, tự do là quyền lực cao nhất khi nó cho mình cuộc sống với phẩm giá và hạnh phúc, sức mạnh để tự bảo vệ mình vượt qua mọi sợ hãi và sự xúc phạm, trộm nghĩ thiên đường đâu có xa?
Trở lại đề thi Tú Tài Pháp năm nay, bổn phận là gánh nặng, là gông xiềng hay là lẽ công bằng, tình người, là thương yêu, là bao dung, thể hiện nhau hay loại bỏ nhau tùy ý thức xét đoán, ngay cả quyền ban phát nằm trong tự do của con người, câu trả lời cho bài luận của sĩ tử tú tài Tây năm 2019 sẽ tùy thuộc nhân sinh quan ở tuổi 18 của các em và được hội đồng giám khảo đánh giá. Phần thí sinh đứng ngoài tuổi thi và cuộc thi, kẻ này đã lạm bàn như trên: hãy biết rằng ai cũng có tự do để chọn lựa cách hành xử của mình trong cuộc đời.
.

Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà   Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Bổn phận và tự do - Bùi Bích Hà
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Nhạc và họa trong thơ Bích Khê
» Trang Tưởng Niệm Giáo sư Bùi Bích Hà
» Nghe lại Nhạc Trẻ VN Thập Niên 60-70 (MV 1-5)
» Slides Show "Tưởng nhớ cô Bùi Bích Hà (GS Pháp văn NT 1967-1983)
» Hình ảnh về buổi lễ Tưởng niệm giáo sư Bùi Bích Hà (GS Pháp văn NT 1967-1983)

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon  :: ĐỀ TÀI :: Văn Hóa, Nghệ Thuật :: Văn-
Chuyển đến