Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon

Diễn Đàn của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  GalleryGallery  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Keywords
hoang nguyet Chung linh Nhung luong trong sáng Nguyen VNCH thuoc quang chuyen nhac truyện quốc quan bich quynh Trung không Saigon chất ngắn ngam phải
Latest topics
» qua đi thôi bão nổi
Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeSat Mar 11, 2023 3:11 am by Admin

» Cụ Hoang Xuân Hãn
Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeSun May 08, 2022 10:37 pm by Admin

» Giáo dục VNCH - Giáo dục con đường khai phóng
Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeMon Jan 10, 2022 4:06 am by Admin

» Suy tư về kiếp người - Về Cùng Cát Bụi
Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeSun Jan 09, 2022 4:25 am by Admin

» AI ĐÃ HẠ GỤC CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN?
Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeSat Jan 08, 2022 2:41 am by Admin

» NHẠC THIỀN - Cõi Thiền trong Âm Nhạc
Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeThu Jan 06, 2022 4:11 am by Admin

» Trở về miền ký ức : Một bài viết về người lính VNCH
Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeTue Jan 04, 2022 3:06 am by Admin

» Tôi Cưới Vợ
Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeTue Jan 04, 2022 2:44 am by Admin

» Giáo sư Phạm Hoàng Hộ
Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeMon Nov 29, 2021 3:05 am by Admin

March 2024
MonTueWedThuFriSatSun
    123
45678910
11121314151617
18192021222324
25262728293031
CalendarCalendar
Affiliates
free forum

Affiliates
free forum


 

 Hãy thong thả Sống

Go down 
3 posters
Tác giảThông điệp
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeWed Aug 21, 2013 1:26 am

Hãy thong thả Sống  Mua-11

Hãy thong thả Sống
Trần Mộng Tú

Nhiều khi chúng ta sống mà quên bẵng đi là mình có thể chết bất cứ lúc nào. Ta hối hả sống, vui, buồn, khỏe, yếu, ta cứ lướt qua rồi không ngoái đầu lại nhìn chuỗi ngày tháng ta đã tiêu hao của một đời người.


Cho đến khi có một người bạn vừa ngã bệnh, bệnh nặng, không biết sẽ mất đi lúc nào, lúc đó ta mới xa, gần, hốt hoảng gọi nhau. Tưởng như chưa từng có người bạn nào “Chết” bao giờ. Hay ta có một người thân trong gia đình, đang rất khỏe vừa báo tin bị bệnh hiểm nghèo. Gia đình, họ hàng cuống lên, sợ hãi như chưa nghe đến ai nói về cái chết bao giờ, chưa chứng kiến cảnh vào bệnh viện, cảnh tang ma bao giờ.
Cả hai người trên có thể đã ngoài 70 tuổi. Lạ thật! Cái tuổi nếu có chết thì cũng đã sống khá lâu trên đời rồi, sao những người chung quanh còn hoảng hốt thế. Hóa ra người ta, không ai muốn nghe đến chữ “Chết” dù chữ đó đến với mình hay với người thân của mình.

Hình như không ai để ý đến mỗi sáng chúng ta thức dậy, nhìn thấy mặt trời mọc (nếu còn để ý đến mặt trời mọc) là chúng ta đã tiêu dùng cái ngày hôm qua của đời sống mình. Có người vì công việc làm ăn, cả tuần mới có thời giờ ngửng mặt nhìn lên mặt trời. Buổi sáng còn tối đất đã hấp tấp ra đi, buổi chiều vội vã trở về lúc thành phố đã lên đèn, làm gì nhìn thấy mặt trời. Nhưng mặt trời vẫn nhìn thấy họ, vẫn đếm mỗi ngày trong đời họ. Họ tiêu mất cái vốn thời gian của mình lúc nào không biết. Tiêu dần dần vào cái vốn Trời cho mà đâu có hay. Rồi một hôm nào đó bỗng nhìn kỹ trong gương, thấy mình trắng tóc. Hốt hoảng, tiếc thời gian quá! Khi nghe tin những người bạn bằng tuổi mình, bệnh tật đến, từ từ theo nhau rơi xuống nhanh như mặt trời rơi xuống nước, họ vừa thương tiếc bạn vừa nghĩ đến phiên mình.

Thật ra, nếu chúng ta bình tâm nghĩ lại một chút, sẽ thấy “Cái chết” nó cũng đến tự nhiên như “Cái sống”.
Đơn giản, mình phải hiểu giữa sống và chết là một sự liên hệ mật thiết, vì lúc nào cái chết cũng đi song song từng ngày với cái sống.
Dẫu biết rằng, đôi khi có những cái chết đến quá sớm, nhưng ta cũng đâu có quyền từ khước chết.

Tôi biết có người mẹ trẻ, con của bạn thân tôi. Chị bị ung thư, chị cầu xin Thượng Đế cho sống đến khi đứa con duy nhất của mình vào Đại Học. Chị không cưỡng lại cái chết, chị chỉ mặc cả với Thượng Đế về thời gian vì con chị lúc đó mới lên 3 tuổi. Thượng Đế đã nhận lời chị. Ngày con chị tốt nghiệp Trung Học, chị ngồi xe lăn đi dự lễ ra trường của con và tuần lễ sau chị qua đời. Trong suốt mười mấy năm trị bệnh, chị vẫn làm đủ mọi việc: chị đội tóc giả đi làm, đến sở đều đặn, lấy ngày nghỉ hè và ngày nghỉ bệnh đi trị liệu. Những bạn làm chung không ai biết chị bị ung thư, ngay cả xếp của chị. Khi họ biết ra, thì là lúc chị không đứng được trên đôi chân mình nữa. Chị sửa soạn từng ngày cho cái chết với nụ cười trên môi. Vẫn vừa đi làm, vừa cơm nước cho chồng con, ân cần săn sóc cha mẹ, hiền hòa giúp đỡ anh em trong nhà, chị mang niềm tin đến cho tất cả những người thân yêu của mình. Sau ba năm chị mất, cậu con trai, mỗi năm vẫn nhận được một tấm thiệp sinh nhật mẹ viết cho mình (Mẹ đã nhờ qua người dì gửi hộ). Hôm sinh nhật 21 tuổi của cậu cũng vào ngày giỗ năm thứ ba của Mẹ, cậu nhận được tấm thiệp mừng sinh nhật mình, với dòng chữ nguệch ngoạc, chị viết cho con: Mừng sinh nhật thứ 21 của con. Hãy bước vui trong đời sống và nhớ rằng mẹ luôn luôn bên cạnh con. Tôi đọc những dòng chữ mà ứa nước mắt.
Tôi nghĩ đến chị với tất cả lòng cảm phục. Chị là người biết sống trong nỗi chết. Khi không thắng được bệnh tật, chị biết hòa giải với nó để sống chậm lại với nó từng ngày cho con mình. Chắc “Cái chết” cũng nhân nhượng với chị, thông cảm với chị như một người bạn.

Một chị bạn kể cho nghe về một bà bạn khác. Bà này mới ngoài sáu mươi, nhanh nhẹn, khỏe mạnh và tính nết vui vẻ, yêu đời. Nhưng khi nào đi ra khỏi nhà bà cũng mang theo một bộ quần áo đặc biệt, đủ cả giầy vớ bỏ vào một cái túi nhỏ riêng trong va-li. Hỏi bà, sao lại để bộ này ra riêng một gói vậy, bà thản nhiên nói: “Nếu tôi chết bất thình lình ở đâu, tôi có sẵn quần áo liệm, không phiền đến ai phải lo cho mình.” Bà mang theo như thế lâu lắm rồi, tôi không biết có khi nào bà ngắm nghía mãi, thấy chưa dùng tới, bà lại đổi một bộ mới khác cho ưng ý không? Giống như người phụ nữ sắp đi dự tiệc hay cầm lên, để xuống thay đổi áo quần sao cho đẹp. Đi vào cái chết cũng có thể coi như đi dự một đám tiệc.
Tôi nghĩ đây là một người khôn ngoan, sẵn sàng cho cái chết mà bà biết nó sẽ đến bất cứ lúc nào. Bà đón nhận cái chết tự nhiên,giản dị như đi dự tiệc, hay một chuyến đi xa, đi gần, nào đó của mình.

Nhưng không phải ai cũng nghĩ về cái chết giản dị như vậy. Phần đông muốn được sống lâu, nên bao giờ gặp nhau cũng thích chúc cho nhau tuổi thọ. Thích hỏi nhau ăn gì, uống gì cho trẻ trung mãi. Loài người nói chung, càng ngày càng thích sống hơn chết. Họ tìm kiếm đủ mọi phương thuốc để kéo dài tuổi thọ. Người ta ức đoán, trong một tương lai rất gần, loài người có thể sống đến 120 tuổi dễ dàng với những môn thuốc ngăn ngừa bệnh tật và bồi dưỡng sức khỏe.
Rồi người ta sẽ còn tạo ra những bộ phận mới của nội tạng để thay thế cho những bộ phận gốc bị nhiễm bệnh. Gan, ruột, bao tử v.v, sẽ được thay như ta thay những phần máy móc của một cái xe cũ. Chúng ta, rồi sẽ sống chen chúc nhau trên mặt đất này.
Chỉ tiếc một điều là song song với việc khám phá ra thuốc trường thọ người ta cũng phải phát minh ra những người máy (Robot) để chăm sóc những người già này, vì con cháu quá bận (Chắc đang chúi đầu tìm thuốc trường sinh) không ai có thời giờ chăm sóc cha mẹ già. Theo tôi, ngắm nhìn hình ảnh một cụ ông hay một cụ bà lưng còng, tóc bạc, đang cô đơn ngồi trong một căn buồng trống vắng, được một người máy đút cơm vào miệng, thật khó mà cảm động, đôi khi còn cho ta cái cảm giác tủi thân nữa.

Nhưng sống như vậy mà có người vẫn thích sống. Một người đàn ông ngoài bẩy mươi, bị bệnh tim nặng, đang nằm trong phòng đặc biệt (ICU) khi mơ màng tỉnh dậy, nhắn với các con cháu là khi nào vào thăm không ai được mặc áo mầu đen. Ông kiêng cữ mầu của thần chết. Ông quên rằng thần chết, đôi khi, có thể đến với chiếc áo mầu hồng.

Thật ra, chính nhờ “cái chết” cho ta nhận biết là “cái sống” đẹp hơn và có giá trị hơn, dù có người sống rất cơ cực vẫn thấy cuộc đời là đẹp.
Những bậc thiên tài, những nhà văn lớn đã tự tìm về cái chết khi họ bắt đầu nhìn thấy cái vô vị trong đời sống như nhà văn Ernest Hemingway, Yasunari Kawabata và họa sĩ Vincent van Gogh, v.v. Chắc họ không muốn sống vì thấy mình không còn khả năng hưởng hết vẻ đẹp của “cái sống” nữa. Họ là một vài người trong số nhỏ trên mặt đất này sau khi chết để lại tên tuổi trên những trang sử, lưu lại hậu thế, còn phần đông nhân loại, sau khi chết một thời gian, không để lại một di tích nào. Con cháu có thờ cúng được một hai thế hệ, sau đó tên tuổi mờ dần, mất hẳn theo ngày tháng, vì chính những kẻ thờ phụng đó lại tiếp theo nằm xuống cùng cát bụi.

Ðời sống con người chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích. (Thánh Vịnh)

Thượng Đế khi đem mình vào đời, có hỏi ý kiến mình đâu. Nên chắc chắn là khi Ngài gọi mình đi cũng chẳng cần thông báo trước.
Chúng ta cứ thong thả sống từng ngày, khi nào chết thì chết, mặt trời mọc rồi mặt trời lặn, bông hoa nở rồi bông hoa tàn, thế thôi.

Tại sao ta phải cay cú với cái chết? Hãy dùng trí tưởng tượng của mình, thử hình dung ra một thế giới không có cái chết. (*)
Chắc lúc đó, chúng ta sẽ không còn không khí mà thở  chứ đừng nghĩ đến có một phiến đất cho bàn chân dứng.

Trần Mộng Tú

Viết trong ngày các bạn ở Người-Việt và Diễn Đàn Thế Kỷ đi thăm bạn Nguyễn Xuân Hoàng - Aug.10th/2013

(*) Why this fuss about death? Use your imagination, try to visualize a world without death.
- Charlotte Gilman

Hãy thong thả Sống  HAYTHONGTHASONG
Về Đầu Trang Go down
bhtran
Khách viếng thăm




Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeThu Apr 03, 2014 11:20 pm


Đời sống cựa mình


Trần Mộng Tú

Hãy thong thả Sống  E4AC5612-AE27-4F21-842A-173B31B67927_w268_r1_cx0_cy2_cw0

Tôi trở về nhà sau hai đám tang ở California. Một của người anh thân yêu, sau gần một năm mang trọng bệnh, một của người bạn trong giới truyền thông mất đột tử ngay trong nhà anh. Cả hai đều trên bảy mươi tuổi.
 
Lòng tôi vô cùng buồn bã nhưng vẫn phải chấp nhận những cuộc tiễn người thân đi lần cuối. Ở lứa tuổi bảy mươi, cái chết không còn là một sự tình cờ nữa, nó chỉ là một sự chuyển tiếp của đời người, của luật sinh tử mà thôi.
 
Thành phố Seattle đã ngớt những cơn mưa. Hoa đào trong phố thi nhau nở từng mảng hồng dưới nắng xuân ấm áp. Trong vườn nhà ai hoa thủy tiên đất đã loang loang vàng, hoa mộc liên (magnolia) cánh ngôi sao cũng nở rộ, trắng như những chùm hoa tuyết. Ngày xuân phân vừa bước qua thềm nhà tôi, cánh cửa ra vào nhận những vệt nắng lấp lánh làm mới hẳn lên cái mầu sơn đỏ. Ngoài vườn, dưới những phiến đá rải rác những con giun chui ra tìm nắng phơi mình cho ấm. Cỏ non bắt đầu nhú ra cùng một lúc với những cây hoa nho nhỏ. Cả mảnh vườn đang lên tiếng gọi bàn tay người đến chăm nom, làm mới lại. Trong đầu tôi đã hình dung ra những bao phân bón, những vỉ hoa mới cần chêm thêm vào vườn cho mùa xuân, mùa hạ. Máng chim ăn cũng cần được đổ đầy sau mấy tuần vắng nhà. Cả khu vườn, mặt đất như đang mở ra, chờ người làm vườn cúi xuống.
 
Mặt đất trong vườn nhà tôi cũng cựa mình bởi những gót chân nai. Sau mùa đông trốn trong cánh rừng gần nhà, mùa xuân nai bắt đầu đi tìm búp non. Đã rất nhiều lần, tôi phân vân chọn lựa, giữa nai và hoa. Ngắm cả một gia đình cha mẹ, con cái nai vào vườn quả là một bức tranh thật đẹp của mùa xuân, của đời sống thanh bình, nhưng khi gia đình nai bỏ đi thì bao nhiêu cây hoa trong vườn bị ăn không còn một nụ. Trông những cái cây thương lắm! 
 
Bây giờ tới lượt đàn kiến, những con kiến chui ra khỏi tổ tìm mùa xuân, gặp mấy giọt nước mưa, chúng chui ngay vào nhà tôi trú ngụ. Trên gác, dưới nhà, trong bếp, buồng ngủ, dưới gầm bàn viết, cứ thỉnh thoảng cúi xuống là gặp ngay hai ba chú kiến đen khá to đang đi lang thang.
 
Tôi mang nỗi buồn của mình, bẻ ra, chia cho mỗi con kiến một mảnh rồi bắt nó thả ra ngoài cửa. Tôi biết thế nào nó cũng quay lại và tìm cách chui vào nhà nữa. Những con kiến này, chúng nhắc nhở cho tôi sự cựa mình của trời đất, đời sống đang trôi theo thời gian, mùa màng bắt đầu khai mở.
 

Hãy thong thả Sống  Images?q=tbn:ANd9GcSUIe50yE6q28NF49yGUznn5Q6wohBsT1xH7-DAKvWlVlYT96apYg

Tôi vừa đi qua hết tháng ba của đất trời. Bắt đầu sang tháng tư, nghĩ đến những vụ mùa đang mở ra, những hoa trái sẽ đâm chồi, kết quả, trong mùa xuân và mùa hạ. Khoảng thời gian từ đầu xuân cho tới cuối hạ là khoảng thời gian Hoa Niên của đất trời. Tất cả sức sống vươn lên từ nắng gió của hai mùa này.
 
Trong tháng ba tôi đi nhỏ lệ cho người nằm xuống đất, thì cũng là tháng đất được các nông gia hồi sinh. Đời sống vẫn cựa mình.
 
Tháng ba, nhà nông ở bang California với những chiếc cầy máy, thay cho con trâu   họ bắt đầu vỡ đất, đánh luống, bón phân và giữ mực nước 5 inches trên những thửa ruộng. Sang tháng tư, một chiếc máy bay sẽ làm công việc gieo những hạt thóc giống xuống những cánh đồng thay cho bác nông phu. Những hạt giống nằm sâu trong đất và nước cần 5 tháng để trở thành một bông lúa cao 3 feet.

Tháng 9 đến, là mùa lúa chín. Những hạt thóc vàng làm bông lúa nặng trĩu, cong xuống. Những chiếc máy gặt sẽ được đem ra, bác nông phu ngồi trên đó điều khiển máy qua lại trên từng luống lúa. Gặt lúa xong, bác mang đến xưởng, ở đó những người thợ khác sẽ cho thóc vào máy, đánh lớp vỏ trấu ra lấy gạo. Trung bình cứ 1 acre cho 8,000 pounds gạo.
 
Cũng thế, đời sống cựa mình khắp nơi. Trên 15 tiểu bang của nước Mỹ người ta cũng thi nhau trồng khoai sau giấc đông miên. Tùy theo khí hậu từng vùng, khi mặt đất đã tan những phiến băng mỏng giòn, nhà nông bắt đầu trồng khoai vào đầu tháng tư, có nơi ấm áp họ trồng sớm hơn. Khoai có nhiều loại khác nhau. Có loại phải đợi từ 65 cho đến 140 ngày. Có loại từ 100 cho đến 130 ngày mới thu hoạch được. Nhưng bao giờ cũng phải đợi cho những cuống hoa trên mặt đất phải thật sự héo tàn mới đào củ lên. Hoa khoai có mầu trắng, ẻo lả trong đám lá xanh màu ngọc, rất đẹp. Khoai giữ trong kho lạnh, khô và tối có thể sau 10 đến 12 tháng, vẫn còn nguyên chất bổ dưỡng.
 
Gạo và khoai là hai thực phẩm chính cho con người trên khắp mặt đất. Vì là thực phẩm nuôi cơ thể nên mẹ thiên nhiên đã cho hai thứ này sinh sôi, nẩy nở vào mùa xuân, mùa hạ. Con người thấy được no đủ sau những ngày thu đông.
 
Không như những thức ăn thể chất, về thức ăn tinh thần, mùa nào thiên nhiên cũng chiều theo lòng người: Xuân có cánh đồng cỏ thơm cho bàn chân thỏa mãn; hạ có hồ sen cho hơi thở thơm lừng; thu có hoa cúc, rượu cúc, để bạn hiền vừa nhâm nhi vừa nhìn vào mắt nhau; đông có tuyết, có gió mưa để có cớ sưởi ấm vai nhau. Và cả bốn mùa thơ lúc nào cũng đọc được trên môi.
 
Tôi bắt đầu sửa soạn làm vườn, tôi chăm chú cúi nhìn mặt đất: cỏ xanh đang nhú ra, những côn trùng nho nhỏ; cái xẻng nhỏ bám chút đất nâu hồng; mầm hoa vàng hé nở; cánh chim bay ngang vai đang gọi mồi; cái máng thức ăn chao chao dưới cành lá xanh thẫm. Nắng ngời ngời chiếu rực những phiến đá trong vườn. Ai đó đã nói: “Tôi xới đất trồng trọt mảnh vườn của tôi và mảnh vườn cũng trồng trọt lại trong tôi.”(*)  Đúng rồi, tôi luôn luôn cảm thấy những hạt giống khỏe mạnh, tốt đẹp, lương thiện được gieo trong lòng mỗi khi xới đất lên, trồng một cây hoa xuống. Hóa ra cả tôi và vườn đều được cái ân huệ cho và nhận.
 
Tôi nói thầm thì trong đầu. Đời sống đang cựa mình, nhà nông đang vỡ đất, thực phẩm sẽ sinh ra trên mặt đất phì nhiêu, mặt đất bao năm đã cất giữ những hình hài xương da người đi trước của bao nhiêu thế hệ, nay tất cả đã thành phân bón. Có người anh và người bạn của tôi vừa đóng góp thân thể họ vào việc giúp cây lúa trổ hoa cho khoai sinh củ.
 
Những con kiến đang tìm cách đi vào trong nhà tôi, trời bắt đầu ấm áp. Những giọt mưa xuân trên hoa đào, chút nắng hắt lên cánh cửa sơn đỏ. Tôi chia nỗi buồn của mình trên lưng mỗi con kiến để nghe lòng mình lắng xuống và nghe tiếng thở của đất phà lên.
 
Đời sống cựa mình.
 
tmt
3/30/2014

Nguồn: Rice and Potato –Wikipedia
(*) I cultivate my garden and my garden cultivates me. Robert Brault
Về Đầu Trang Go down
hoangvu
Khách viếng thăm




Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeSun Jun 22, 2014 10:03 am


Căn nhà cuối cùng của tôi


Lê Hữu

Hãy thong thả Sống  Images?q=tbn:ANd9GcQVOGncO6mgI_7yqwtM3YM7yER3t_oW_Z2Yqj0Hxit3DPdwi2pcJA

Tôi không nhớ được gì nhiều về “căn nhà đầu tiên” của mình, như có người từng kể cho chúng ta nghe trước đây, (*) tuy nhiên về “căn nhà cuối cùng” thì tôi biết rõ hơn vì là nơi tôi đang cư ngụ, và cũng muốn chia sẻ với các bạn ít chuyện vui buồn về căn nhà khá đặc biệt này. 

Tôi dọn về đây cũng hơn hai năm. Nhà chỉ có một phòng và tôi cũng chả biết gọi nó là gì, không phải Studio, cũng không phải cái Suite. Ai muốn gọi sao thì gọi, có điều là tôi rất chịu cái nhà này. Lúc mới dọn vào tôi chỉ sợ là sẽ lạnh lẽo vì nhà chẳng có máy sưởi máy heat chi cả, thế nhưng càng ở lâu thì càng cảm thấy ấm áp. Trong đời mình tôi đã bao lần thay đổi nơi cư trú, trong số ấy có những căn nhà đã cho tôi mái ấm gia đình và những thời kỳ hạnh phúc. Tôi vẫn thường nói với bạn bè rằng, điều có ý nghĩa không phải là sống trong ngôi nhà nào mà là sống với ai. Riêng căn nhà cuối cùng này thì tôi chẳng sống với ai cả. Nhà được thiết kế khá phù hợp cho người lớn tuổi thích sự tĩnh lặng và thích sống một mình, “độc lập-tự do-hạnh phúc”. Kể ra thì nhà có hơi tối và cũng hơi chật một chút, tuy nhiên ở lâu thì cũng quen thôi, hơn nữa trong nhà cũng chẳng có vật dụng gì nhiều. Trước ngày dọn về đây tôi đã quẳng đi không biết bao nhiêu đồ đạc lỉnh kỉnh như một cách thu gọn lại cuộc sống và tự giải phóng mình ra khỏi những trói buộc của tiện nghi vật chất mà con người tạo ra để rồi trở thành nô lệ cho chúng. “Sắm sửa làm gì cho lắm,” tôi vẫn nói với vợ con, “lúc chết có mang theo được đâu.” Mặc dù đã nói trước với người nhà là nơi tôi dọn đến có sẵn mọi thứ và tôi không cần mang theo gì cả, vậy mà hôm chia tay mọi người vẫn lăng xăng đóng gói cho tôi món này món nọ, cả đến cây thánh giá nhỏ bằng đồng, bộ sách Kinh Thánh toàn tập (chắc họ nghĩ đấy là những vật bất ly thân của tôi), bộ vest màu xám đắt tiền mà tôi ít khi mặc (chắc để tôi đóng bộ cho trịnh trọng đi gặp ai đấy), chưa kể không biết bao nhiêu là hoa tươi (chắc để chưng bày trong nhà mới cho vui mắt). Ngó mặt mũi ai nấy rầu rĩ như là đưa đám, tôi cũng đành nhận cho xong chuyện.

Nghĩ cho cùng, đây không phải là căn nhà tôi vẫn mơ ước đấy sao? Này nhé, thường thì khi chọn mua nhà tôi chú trọng đến cái view, rồi đến cái neighborhood. Căn nhà nằm giữa đồi cỏ rộng thênh thang, bốn bề gió lộng, cách biệt hẳn tiếng động ồn ào của xe cộ và mọi sinh hoạt nhốn nháo của đời thường. Thằng con tôi biết ý bố nó nên chọn cho tôi lô đất nằm dưới bóng rợp của một tàn cây sồi khá rộng. Sáng ngắm cảnh mặt trời lên và chiều xuống thật êm đềm với màu nắng vàng phai trải rộng trên sườn đồi làm tôi nhớ câu hát trong bài “Chiều vàng” của Nguyễn Văn Khánh, “Trên đồi xanh chiều đã xuống dần / mặt trời lấp ló sau đồi chiều vàng...” Lúc đêm xuống thì cảnh vật vắng lặng và chìm trong bóng tối mờ mờ vì khu vực này ít đèn đuốc. Tối thì có tối nhưng từ ngày tôi dọn về đây cũng chẳng có chuyện gì xảy ra, có lẽ vì trộm cướp cũng biết nhà cửa ở đây chẳng có tài sản quý giá gì. Hàng xóm láng giềng khá tử tế và dễ chịu, lại được cái ít nói, chẳng ai làm phiền ai.

Tôi cũng chịu điểm nữa là nhà nào cũng xây cất gần như cùng một kiểu và cũng chỉ có một phòng tạo cảm giác bình đẳng, thoải mái do không có sự cách biệt giàu nghèo. Cũng có những gia đình bố mẹ con cái cùng dọn về đây nhưng không ở chung mà mỗi người một nhà trong cùng một lô đất. Như vậy cũng tốt thôi, thỉnh thoảng qua lại thăm nhau vẫn hơn là ở chung chạ dễ có những va chạm dẫn đến mất mát tình cảm. Có những lô đất được ai đó mua sẵn (thường là ở cạnh nhà của người thân trong gia đình), nhưng khá lâu vẫn chưa thấy xây cất gì cả.

Nằm đây tôi có nhiều dịp suy gẫm về cái vô nghĩa và phù vân của kiếp người. Người ta phung phí tiêu pha hết một đời để đua chen những danh, lợi, quyền, và mải mê tìm kiếm những hoan lạc của cuộc sống trần tục. Đời sống ngày càng thu ngắn lại, với những người lớn tuổi thì một ngày sống là một ngày đi lần về phía cái chết. Ai cũng biết rõ là như vậy nhưng mọi người làm như đấy là chuyện của người khác chứ không phải chuyện mình. Thật buồn cười, cho dù cái chết không chừa ai, và những người bạn đồng hành của mình trên con đường đời bỗng lần lượt ngã lăn quay ra, như những người lính bị bắn sẻ. Nhận thức rõ điều ấy nên vào những năm tháng cuối đời tôi không còn màng đến những chuyện vặt vãnh thế gian thường tình. Kẻ sang người hèn, kẻ trọng người khinh, kẻ thắng người bại, kẻ yêu người ghét, tất cả đều chẳng có nghĩa gì khi con người sắp sửa rẽ vào exit cuối của freeway Đường Đời, và rồi biến mất khỏi mặt đất này.   

Cuộc sống thật ngắn ngủi. Nhiều lúc tôi tưởng như mình chưa từng hiện hữu trên thế gian này bao giờ. Khi phải đặt bút tính sổ cuộc đời, tôi lấy làm hổ thẹn chẳng có nổi thành tích nào gọi là vẻ vang, để khi bức màn sân khấu đời từ từ khép lại đành ngửa mặt lên trời than rằng “Ta đã làm chi đời mình!?” Lỗi lầm lớn nhất của tôi là tiêu xài hoang phí vốn liếng thời gian để đuổi bắt những ảo ảnh cuộc đời, cho đến lúc quỹ thời gian gần cạn vẫn chẳng thấy đâu là bến, là bờ. Giá mà được sống thêm một lần nữa chắc tôi sẽ bắt đầu lại khá hơn. Tôi biết mình sẽ phải đi trên con đường nào, sẽ có những chọn lựa và quyết định khôn ngoan hơn để không làm hỏng đời mình. Nhưng làm thế nào được, người ta chỉ sống có một lần.

Tôi cũng có dịp suy gẫm về nhân tình thế thái. Những người tôi vẫn cho là thân thiết thì lại không phải vậy. Những người tôi không kể là thân tình thì lại tình nghĩa thắm thiết. Chắc phải đợi đến lúc nằm xuống mới biết đâu là tình thật, đâu là tình giả, như là câu hát trong bài “không tên” nào, “Triệu người quen, có mấy người thân? Khi lìa trần, có mấy người đưa?”

Nằm đây, tôi cảm nhận được những đổi thay kỳ diệu và nhạy bén của thời tiết, mùa màng. Bây giờ đang là cuối thu, những xác hoa tàn úa và từng cánh lá khô rụng đầy mặt đất. Tôi để mặc chúng rã mục, ngấm vào lòng đất lạnh, như ngấm vào lòng tôi ấm lạnh. Tôi cảm nhận được cả “hương thu màu tím buồn”, nói như ông nhạc sĩ Đoàn Chuẩn, tràn vào phòng tôi kể từ mùa thu trước. Hơn thế nữa, tôi cảm nhận được bao hương vị lâng lâng của đất trời, của cây cỏ thiên nhiên thấm vào trong tôi cả bốn mùa. Có hạnh phúc nào bằng!

Có lúc tôi tận hưởng cái thú cô đơn của mình, có lúc tôi mong được ai đó gõ cửa đến thăm. Thay vì trải tấm thảm “Welcome!” trước cửa nhà như cách người ta vẫn làm, tôi tính nhờ thằng con tôi khắc câu gì đó trên tấm biển gắn trước cửa nhưng chưa nghĩ ra câu nào hay ho. Tiếng Mỹ tiếng Việt gì cũng được. Có thể là câu gì vui vui, như là

“Khi thấy buồn em cứ đến chơi
Chim vẫn hót sau vườn đấy thôi…”

như trong bài hát nào đó, nhưng lại có vẻ hơi dài. Chắc phải tìm câu nào ngăn ngắn thôi, và tránh những câu người ta vẫn quen dùng như là “Stop by anytime!”, “Thanks for coming!”, “Coming soon!”, “See you soon!”... 

Hỏi ý cô bạn hàng xóm thì cô nói đùa, “Viết gì thì viết, chú nhớ đừng có ghi là ‘See you tonight!’ làm cho người ta sợ.” Tôi cười, “Hông dám đâu. Muốn thăm viếng gì thì cũng phải hẹn hò trước chứ, ai lại xồng xộc đến nhà người ta bao giờ.” Sau cùng tôi tạm bằng lòng với câu “Welcome to my last house!”

Hãy thong thả Sống  Images?q=tbn:ANd9GcTKK-MpTOPCHo-iJ0j3q33iuJg9jPu3mHNB1kQyx_-2KXliIvYH

Tôi thực lòng cảm kích những ai còn phút giây nào nhớ đến mình. Những người đến thăm tôi thường không hẹn trước, chắc họ cũng biết ban ngày tôi ít ra khỏi nhà, chỉ ban đêm đôi lúc đi dạo loanh quanh một vòng cho dãn gân cốt, bớt tù túng và tận hưởng không khí tịch lặng chỉ mình ta với ta. Thường thì mấy anh chị em tôi vẫn ghé thăm vào dịp Tết hoặc những ngày lễ tôn giáo. Thỉnh thoảng cô vợ cũ cũng nhớ chút tình xưa nghĩa cũ mà ghé thăm chốc lát (vào những năm cuối đời chúng tôi thỏa thuận trả tự do cho nhau sau thời gian dài chung sống trong ngôi nhà rộng vắng tiếng cười). Lần nào cô cũng cầm theo bó hoa tươi thắm, cắm vào chiếc bình hoa đặt trước thềm nhà. “Em đến thăm anh,” cô nói thì thầm đủ cho tôi nghe. Khuôn mặt lặng lẽ, thoáng buồn và ánh mắt xa xôi. Nhìn cô chậm rãi đi lại trước hiên nhà, câm lặng như chiếc bóng, lòng tôi dâng lên nỗi xót xa. Cô ấy tốt hơn tôi tưởng, chỉ có tôi là ít chịu nhìn thấy những cái tốt của người khác. Cô dọn cỏ sạch sẽ và trồng trước nhà tôi cụm bông hồng Lady Banks’ Rose, loại hồng leo không có gai, nở những bông hoa nhỏ phơn phớt màu vàng nhạt là màu tôi vẫn yêu thích. Chắc cô vẫn nhớ tôi gọi giống cây ấy là “xanh hoài ngàn năm” (evergreen) vì không chết theo mùa đông.

Hãy thong thả Sống  Lake-0803-books1
Lady Banks’ Yellow Rose

Người chịu khó đến thăm tôi nhất là thằng con tôi, có khi vào cuối tuần, có khi vào buổi chiều sau giờ làm việc. Có những hôm bất chợt nhìn ra ngoài tôi đã thấy nó đứng đấy từ bao giờ. Ngồi bên tôi khá lâu, nó nói những lúc buồn và cô đơn nó hay nghĩ về tôi và muốn tìm đến tôi, ngỡ như hai bố con vẫn bên nhau như ngày nào. “Lúc nào con cũng tưởng như bố vẫn luôn ở cạnh con,” nó nói. “Bây giờ con hiểu bố nhiều hơn và thấy thương bố nhiều hơn.” Tôi để cho nó nói hết, chỉ lặng yên và lắng nghe. “Đúng thế,” tôi nói thầm với nó. “Con yêu, bố luôn ở bên con trên đường đời. Bố luôn dõi theo bước con đi, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Con không cô đơn đâu.” Tôi nói và cảm thấy ngượng vì biết mình nói dối. Tôi còn làm được gì cho nó bây giờ!

Cả những lúc gặp chuyện gì khó xử nó cũng kể tôi nghe, làm như tôi vẫn là “cố vấn tối cao” của nó vậy. “Bố biết không,” nó nói, “mỗi khi gặp chuyện gì đau đầu, con tự hỏi giá như bố có ở đây thì bố sẽ làm như thế nào, và con tìm ra được cách giải quyết vấn đề.”  Hóa ra tôi vẫn là “thần tượng” của thằng con mình. “Bố biết không,” nó hạ thấp giọng, “mẹ vẫn kể là ngày xưa bố thường…”  Có khi nó cười, có khi nó khóc, quệt những giọt nước mắt, làm tôi mủi lòng muốn khóc theo. “Đừng khóc,” tôi nói. “Con trai không khóc. Mạnh mẽ lên, dũng cảm lên, con trai của bố!” (Nói cho ra vẻ vậy, chứ thằng bố của nó cũng yếu xìu). Một trong những điều tôi vẫn ân hận trong đời mình là tôi chỉ có đứa con duy nhất. Trông dáng vẻ nó lúc nào cũng cô đơn đến tội nghiệp, vì nó chẳng có anh chị em chi cả để bầu bạn. Nhiều lúc hai bố con trò chuyện với nhau như là hai người bạn. Đến thăm tôi, có lúc nó đi một mình, có lúc với bạn gái nó. Trông mặt con nhỏ cứ bơ bơ, chẳng thèm thăm hỏi ngó ngàng gì đến tôi, chỉ bám riết lấy thằng bồ nó. Có khi thằng con tôi đi với đứa khác, đứa nào nó cũng nói là bạn gái nó. Tôi cũng chịu thua bọn trẻ bây giờ. Thôi kệ, miễn nó vui là tôi vui. Nó còn nghĩ tới mình, còn chịu khó tới lui thăm viếng mình là phước đức lắm rồi.

Vui nhất là tên bạn nối khố lâu lâu ghé thăm. Hắn rút ra trong túi quần chiếc khẩu cầm và đưa lên miệng thổi bài “Come back to Sorrento”, là bài hai thằng đều thích từ thuở còn đi học và tôi vẫn bắt hắn chơi cho tôi nghe.

Về đây nhé, cắm xong chiếc thuyền hồn
Ôi, lãng du quay về điêu tàn

“Thêm một bài nữa nhé!” hắn nói, chùi sơ chiếc khẩu cầm vào gấu áo rồi chơi thêm bài “If you go away”, bài hát ngày xưa tôi vẫn nghêu ngao mỗi khi thất tình và có một kỷ niệm nhớ đời về mối tình dang dở. Tôi nghe mà chảy nước mắt. Tên này đúng là bạn mình thực sự, biết tỏng những sở thích, những tính tốt tính xấu của thằng bạn mình.

If you go away as I know you must
There'll be nothing left in this world to trust
Just an empty room full of empty space
Like the empty space I see on your face

Từ khi dọn về đây tôi có cái vui được gặp lại những người thân yêu mà trước đó tưởng như chẳng bao giờ trông thấy nhau lần nữa. Trước hết là ông bố tôi. Bố con tôi cách xa nhau từ thuở tôi còn bé tí, đến nỗi nhiều lúc tôi quên bẵng là tôi từng có một người bố. Hai bố con gặp lại nhau mừng mừng tủi tủi, giống như là câu chuyện gia đình phân tán, bố mẹ con cái lưu lạc nhau đến mấy mươi năm sau chuyến vượt biển hãi hùng tìm tự do. Nước mắt rưng rưng, bố tôi nói ông thật có lỗi đã thiếu bổn phận chăm sóc tôi khiến tôi lớn lên thiếu vắng tình thương của người cha. Tôi nói, “I’m ok, Dad. Bố có muốn như thế đâu, phải không?” Ông hỏi thăm nhiều về mẹ tôi, tỏ ra cảm động khi biết bà tuy già yếu lụm khụm vẫn cứ đọc kinh mỗi ngày cầu Chúa ban phước lành cho ông. (Thỉnh thoảng tôi vẫn bay về thăm mẹ tôi. Bà đã lẫn nhiều và cứ nói với mọi người là bà vẫn gặp tôi trong… giấc mơ).

Rồi đến đứa em gái tôi, anh em cách biệt nhau từ khi nó lặng lẽ bỏ đi xa thật xa không một lời từ giã sau cơn bão tàn khốc của lịch sử năm 1975. Hai anh em ôm chầm lấy nhau mà ứa nước mắt. Em tôi không muốn kể và tôi cũng không hỏi nó đã “sống” như thế nào trong suốt bấy nhiêu năm ấy. Chúng tôi đều muốn quên, quên hết. Sau cùng thì anh em tôi đã gặp được nhau, thế là đủ. Rồi cả những bạn bè cũ thân thiết, cả những tên bạn mất tích trong cuộc chiến mà tôi cứ nghĩ chẳng bao giờ còn gặp lại vì chắc đã chết mất xác, âm dương đôi đường cách biệt. Vui nhất là thằng bạn mà chúng tôi vừa làm một cú tiễn đưa tháng trước. Tên này hiền lành, tốt bụng với bạn bè nên ai cũng sụt sùi. Bất ngờ gặp tôi, nó ngạc nhiên đến tròn mắt, há hốc mồm, “Trời đất, mày tới đây hồi nào vậy? Có chuyện gì vậy? Sao lại mò xuống đây? Sao không báo tao ra đón?” Nó hỏi một tràng, tôi chẳng biết đằng nào mà trả lời. Thằng này thật buồn cười, có phải là đi du lịch đâu mà đưa với đón. Nó làm như tôi tiên liệu, sắp đặt hết được mọi chuyện vậy. Cuộc sống vốn lắm cái bất ngờ, sống ngày nào biết ngày đó, ngủ một đêm biết sáng mai thức dậy còn trông thấy ánh mặt trời. “Thì nhớ bạn bè,” tôi nói, “kiếm mày đi nhậu thôi.”  “Mày lúc nào cũng đùa được,” nó nhăn mặt. “Thôi để tao tính cho.” Tôi cũng chẳng biết nó nói “tính” là tính cái gì.

Tất cả, bao nhiêu người thân quen, những con người “tuyệt tích giang hồ” đã bao năm, bỗng dưng xuất hiện cùng một lúc như từ phía sau bức màn quá khứ bước ra, nói cười, đi lại như trong một giấc mơ kỳ lạ.

Có những buổi chiều vàng, nhìn ra bốn phương tám hướng là đồng cỏ rộng mênh mông với từng vạt cỏ may rập rờn “cuốn theo chiều gió” chạy về những phía xa chân trời, tôi như gặp lại tôi của những ngày xưa còn bé, cùng lũ bạn thả diều, bắt dế, chạy nhảy trên khắp cánh đồng tuổi thơ. Bất chợt tôi nhớ tới đoạn văn trong truyện dài Bướm Trắng của Nhất Linh, “Chàng hơi buồn nghĩ đến chẳng bao lâu nữa lại có những đứa trẻ như chàng hồi còn bé, chạy nhẩy trên mộ chàng, hoặc thả diều, hoặc bắt châu chấu trong những buổi chiều hè lộng gió. Chàng sẽ không còn biết đau khổ là gì nữa. Trên mặt đất, chỗ chàng nằm, chỉ còn có mấy ngọn cỏ may hồng rung rung trước gió thờ ơ.” Đoạn văn ấy, những câu văn êm ả, buồn buồn ấy “thấm” vào lòng chàng trai mới lớn là tôi từ thuở còn ngồi trên ghế nhà trường. Tôi đã ngẫm nghĩ về cái chết từ lúc đọc được đoạn văn tả tình tả cảnh ấy, và giờ đây tôi thấy mình chẳng khác gì anh chàng Trương tội nghiệp trong truyện ấy. “Và ở một nơi nào đó, Thu mà chàng không bao giờ quên được, vẫn cười nói, vẫn đi lại, vẫn sống tự nhiên trong ánh sáng của thế gian trên kia.”  Tôi thoáng chạnh lòng nhớ đến cô bạn cũ và mối tình đầu vụng dại của một thời tuổi trẻ sống sôi nổi, yêu thiết tha. Giá mà trời xui đất khiến cô ấy chịu khó “em đến thăm anh một chiều mưa” như buổi chiều này thì tôi nhắm mắt cũng cam lòng. Thế nhưng tôi biết đấy chỉ là mong ước hão huyền và nỗi đợi chờ trong vô vọng. Cô ấy chắc chẳng còn phút giây nào nhớ đến tôi, một kẻ nhạt nhẽo và tầm thường chỉ tạt ngang qua đời cô trong chốc lát không để lại chút gì so với những anh chàng bảnh hơn tôi nhiều đã chiếm trọn trái tim cô. Dù sao tôi vẫn mong cô sống hạnh phúc, và cho dù “Từ nay mãi mãi không thấy nhau...” thì xin “Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em / vẫn chờ / vẫn chờ đợi em…” như những câu hát sầu thảm trong bài “Mùa thu chết” của bố già Phạm Duy. 

Nói chuyện nọ lại xọ chuyện kia, e đến cả ngày cũng chưa hết chuyện. Thôi để dành khi khác vậy, hẹn ngày nào ta gặp nhau tay bắt mặt mừng mặc sức mà tâm tình.

Lúc nào tiện mời các bạn ghé qua chỗ tôi một lần cho biết nhà. Để không phải xục xạo tìm kiếm mất thì giờ và lẫn lộn nhà này nhà kia, nhớ là trước nhà có hàng chữ “Welcome to my last house!”

Lê Hữu

(*)  Căn nhà đầu tiên của tôi, Trần Mộng Tú:  http://www.diendantheky.net/2014/02/tran-mong-tu-can-nha-au-tien-cua-toi.html


Hãy thong thả Sống  Images?q=tbn:ANd9GcR-XGhY9X15_dM0yMduV4jdhB3QsgXtreKuNqNQttuZmLWJ7uIFLg
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeTue Dec 23, 2014 1:54 pm


Hữu thân hữu khổ, phàn nàn cùng ai?


Đoàn Thanh Liêm


Từ xa xưa, vì sách báo chưa được phổ biến rộng rãi, thì người dân Việt nam chúng ta vẫn thường trao đổi truyền tụng với nhau bằng những câu ca dao tục ngữ thật đơn sơ ngắn gọn, chỉ gồm dăm ba tiếng thôi để cho ai ai cũng có thể hiểu và nhớ được một cách dễ dàng. Điển hình như những câu chủ ý nói về thân phận của con người trong cuộc sống trên dương thế này: “sinh lão bệnh tử”, “hữu sinh, hữu tử”, “hữu thân hữu khổ, phàn nàn cùng ai.”

Thế hệ chúng tôi gồm những người sinh ra trước năm 1945, thì đến nay đều đã ở vào lứa tuổi trên dưới 80 cả rồi. Cuộc đời đã trải qua nhiều nỗi truân chuyên sóng gió – vì bị thực dân đế quốc kìm kẹp, vì bị lôi cuốn vào chiến tranh hận thù tàn bạo, vì bị nạn độc tài khắc nghiệt áp bức. Thật là đày dẫy nhưng đau thương tủi nhục khổ ải. Bài viết này nhằm ghi lại những suy nghĩ và trải nghiệm của lớp người đã sống sót qua bao nhiêu vất vả khó nhọc đó.

I – Vài trường hợp điển hình với chuyện “làm người cho ra người”.

A - Nhà thơ Hữu Loan, người rất nổi tiếng với bài thơ bất hủ “Màu Tím Hoa Sim”- đã trả lời cho anh cán bộ ở vùng quê Thanh Hóa bằng một câu nói thật khẳng khái đáng ghi nhớ như sau: “Tôi đang bận làm người chưa xong, hơi đâu mà lo làm nhà”. Và rõ ràng là ông đã sống hết mình với lý tưởng đó.

Hãy thong thả Sống  2Q==

Sau vụ “Nhân Văn Giai Phẩm” ở miền Bắc vào thời kỳ 1956 - 58, ông bỏ hết chức vụ của một cán bộ văn nghệ ở Hà nội để về quê làm việc chân tay mệt nhọc vất vả - như vào khu đồi núi kiếm củi, đục đá rồi cu ky dùng xe cút kít mang về bán lấy tiền mua gạo nuôi gia đình.

Hữu Loan thà chịu đói khổ cực nhọc, chứ nhất định không bao giờ chịu hạ mình uốn cong ngòi bút để làm thứ văn nô ca tụng chế độ độc tài cộng sản. Nhà thơ Hữu Loan (1916 – 2010) được nhiều người mộ mến kính phục vì nhân cách trong sáng, cương trực của người sĩ phu quân tử.

B - Cách đây không lâu, ông Đoàn Duy Thành (sinh năm 1929) là một cán bộ cộng sản cao cấp xuất thân từ thành phố cảng Hải Phòng, thì lúc về nghỉ hưu ông này cũng đã viết một cuốn Hồi ký với cái nhan đề thật ngộ nghĩnh: “Làm Người Là Khó.” Cuốn sách này bị một số giới chức có quyền có thế phản đối vì họ cho là nó chứa đựng những “chuyện nhạy cảm” làm sao đó, nên đã không được phổ biến rộng rãi cho công chúng. Ông Thành lại còn bị đe dọa phải chịu biện pháp kỷ luật của đảng cộng sản nữa. Và chỉ mãi gần đây, cuốn sách mới được phổ biến trên internet.


Ông cho biết là luôn chịu khó trau dồi kiến thức để có đủ khả năng làm việc nhằm hòan thành nhiệm vụ chuyên môn được trao phó cho mình. Mặt khác, ông cũng luôn cố gắng gìn giữ được truyền thống lương hảo tốt đẹp của dòng họ nhà mình.

Bạn đọc có thể tìm thấy nhiều thông tin với chi tiết lí thú về hai nhân vật Hữu Loan và Đoàn Duy Thành trên internet một cách thật dễ dàng - nên tôi thiết nghĩ khỏi cần phải dài dòng ghi lại ở đây nữa vậy.

II – Thái độ kiên trì tích cực trước nghịch cảnh thử thách.

Thông thường, mỗi người trong chúng ta đều được sinh ra, lớn lên trong một mái ấm gia đình tùy theo hòan cảnh, nơi chốn và thời điểm khác nhau trên cõi đời này. Với số phận từng người cũng khác nhau, kể cả giữa anh chị em ruột thịt cùng cha cùng mẹ với nhau nữa. Và nói chung, thì ai ai cũng đều có những niềm vui nỗi buồn riêng biệt của mình suốt trong cuộc sống trên thế gian này cả.

Vấn đề đặt ra cho mỗi cá nhân từ lúc đã trưởng thành chững chạc rồi - đó là làm sao mà tự tạo cho mình có được một lối sống an vui hạnh phúc, có phẩm chất cao quí (quality of life). Như dân gian thường nói: “Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”, hạnh phúc của một con người thì tùy thuộc chính yếu từ những sự chọn lựa, cách ứng xử chủ động của chính người đó – hơn là do tác động của hòan cảnh khách quan bên ngòai.

Quả đúng như câu nói thông dụng: “Phúc, Họa là do nơi chính mình”, mỗi người phải tự cố gắng sắp xếp tổ chức công việc làm sao để bản thân mình có thể sống cho thỏai mái, hạnh phúc một cách tương đối - trong bất kỳ tình huống nào nơi môi trường xã hội xung quanh.

1 – Niềm an ủi cho người bị giam giữ trong tù: Tình liên đới của bạn hữu.

Khỏi cần nói, thì ai ai cũng hiểu được cảnh sống ngột ngạt, khốn khổ trong các trại tù rồi – nhất là trong các nhà tù cộng sản. Nhưng mà nhiều tù nhân chính trị chúng ta đã cố gắng vượt qua được cái hòan cảnh khổ nhục đó – băng cách gắn bó liên đới và an ủi động viên tinh thần lẫn nhau. Nhờ vậy mà giúp tăng thêm nghị lực và sức chịu đựng của mỗi người bạn đồng cảnh giữa cơn bĩ cực bế tắc lúc ấy. Điều này đã được trình bày với nhiều chi tiết hết sức cảm động trong những cuốn hồi ký của rất đông cựu tù nhân chính trị trong mấy chục năm gần đây rồi, nên thiết nghĩ ở đây tôi chỉ xin vắn tắt ghi lại cái kinh nghiệm nho nhỏ của bản thân mình trong thời gian bị tù ở Việt nam từ năm 1990 đến 1996 mà thôi.

Khi bị biệt giam trong phòng tối, không được giao tiếp thông tin với bất kỳ một ai – thì tôi luôn cố gắng gợi lại những kỷ niệm đẹp tươi với bà con thân thương trong gia đình hay với bạn bè thân thiết mà đã từng sát cánh với tôi trong những công tác xã hội. Nhờ vậy, mà tôi có được niềm vui thanh thóat, tình cảm nồng ấm và niềm an ủi hy vọng tích cực về một tương lai tươi sáng đang chờ đợi mình ở phía trước – nó giúp cho tôi quên đi nỗi bực bội cô đơn và sự bi quan tuyệt vọng thường có nơi một người bị nhốt trong nhà tù.

2 – Dù bị giới hạn bởi nhiều nghịch cảnh trở ngại, chúng ta vẫn có thể chủ động trong việc mưu cầu hạnh phúc cho bản thân mình.

Người Pháp có câu nói mà từ lâu tôi rất tâm đắc, đó là câu: “Người có văn hóa, thì biết rõ giới hạn của mình” (L'homme cultivé connait bien ses limites). Những giới hạn này, cha ông ta cũng đã nêu rõ như trong các câu ca dao được ghi ra ở đầu bài viết này. Tôi chỉ xin nhắc lại câu mà được lấy làm nhan đề cho bài viết này: “Hữu thân hữu khổ, phàn nàn cùng ai?”. Câu này được trích từ một bài thơ rất thông dụng trong dân gian, nói về chuyện của “Lính thú đời xưa”. Vì chấp nhận chuyện đau khổ là điều đương nhiên nó luôn gắn liền với cuộc sống con người, nên ta khỏi cần thắc mắc hay than phiền làm chi nữa. Cứ như vậy đi, cho nó “tiện sổ sách” - để mà cứ tiếp tục đi tới, tiếp tục vui sống với “cái hiện tại đang xảy ra tại đây, lúc này”. Cũng giống như chuyện mưa, chuyện nắng là chuyện thường tình, nó xảy ra ngòai tầm tay, ngòai ý muốn của ta. Vì thế, mà bất kể thời tiết thay đổi ra sao, ta cứ việc chủ động để “vui khi nắng” và cũng “cứ vui khi mưa” nữa.

Mặt khác, chúng ta hiện đang được sống trong một xã hội văn minh - với bao nhiêu tiện nghi thỏai mái do khoa học kỹ thuật tiến bộ và do nền kinh tế thịnh vượng hào phóng cung cấp cho mọi người ở khắp nơi. Và nhất là với sự tự do thỏai mái về mặt văn hóa tinh thần - điển hình là nhân phẩm, nhân quyền của mỗi người đều được đề cao, tôn trọng.

* * Để tóm tắt lại, thì nhân lọai ngày nay đang được hưởng thụ một tình trạng hòa bình ổn định kéo dài đã đến 70 năm nay, kể từ khi thế chiến thứ 2 chấm dứt vào năm 1945.Và đặc biệt là khu vực Xã hội Dân sự đang mỗi ngày thêm phát triển khởi sắc – để tạo cơ hội dễ dàng cho mọi người có thể tham gia vào công cuộc cải thiện môi trường sống của cộng đồng gần gũi thân thiết với bản thân mình, cũng như của tòan thể dân tộc quốc gia nữa.

Và chính đó là cơ sở vững chắc cho niềm lạc quan vui sống của chúng ta trong thế kỷ XXI lúc này vậy./.

Westminster California, Tháng 12 Năm 2014
Đoàn Thanh Liêm
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeSun May 17, 2015 8:13 am

.

Hạnh phúc là...???
“Nếu chỉ có một củ khoai thôi, thì hãy nướng nó cho thật thơm mà đớp”!


Hãy thong thả Sống  Images?q=tbn:ANd9GcSxEzZB3xFWZGMEoBUFybPvBqLKJiu9tFj7gUtF_Yh1P3Vx5NPv

Triết lý củ khoai

- Tràm Cà Mau


Năm học lớp Đệ Ngũ bậc trung học, tương đương với lớp tám bây giờ, một hôm thằng bạn nhỏ ngồi cạnh tôi thì thầm:
“Tại sao trong tiểu thuyết, mỗi khi có hai người ôm nhau, thì tác giả có đề cập đến hạnh phúc? Hạnh phúc là cái gì mầy có biết không?”.
Tôi liền dong tay rụt rè hỏi giáo sư đang dạy môn nghị luận luân lý:
“Thưa thầy, hạnh phúc là cái gì?”.
Hỏi mà run lắm, vì lỡ ra hạnh phúc là chuyện bậy bạ, thì e lãnh phạt đủ.
Thầy liền ra cho cả lớp một bài luận văn, bình giải câu: “May thay, ngoài hạnh phúc ra, đời còn có cái gì khác nữa.” Thầy còn ghi chú thêm câu viết bằng nguyên văn tiếng Pháp để học trò có thể hiểu rõ hơn. Thầy giảng rằng, hạnh phúc như là cái bóng, mà mọi người trên thế gian nầy đều luôn luôn theo đuổi, cố chạy theo nhưng không bao giờ bắt gặp được cả. Bỡi vậy, cho nên may mắn quá, cuộc đời nầy còn có nhiều thứ khác nữa, để bù đắp vào cái thiếu thốn hạnh phúc, mà con người như chẵng bao giờ tìm thấy, không bao giờ nắm được.

Chúng tôi hiểu mập mờ rằng, hạnh phúc là cái gì đó xa lắm, là như thứ ảo ảnh, mà con người thế gian ai cũng mơ ước, quay quắt đi tìm, và chẵng bao giờ tìm thấy. Tôi thầm nghĩ, thầy bắt chúng tôi bình luận làm chi cái thứ không có và khó khăn, để thêm tốn giấy mực, tốn thì giờ. Thế là cả đám học trò nhi nhô đầu còn cắt tóc trọc, đau khổ nhăn nhó, nặn óc bình giải về hạnh phúc, cái thứ mà chúng mù mờ, chưa ý thức, chưa hiểu nổi vài ba phần trăm ý nghĩa. Thằng bạn ngồi sau lưng, thụi tôi hai cái đau điếng, để phạt cái tội hỏi thầy câu hỏi cắc cớ, làm cho cả lớp phải nhức đầu. Tôi biết tội, ngồi yên. Tôi cứ yên chí là hạnh phúc không có thật trên đời nầy, và không tội gì uổng công tìm kiếm. Dù sách vở, thơ văn, có nói nhiều đến hạnh phúc, tôi e rằng đó là chuyện mơ mộng ao ước hão huyền, chuyện bánh vẽ của những người chuyên làm thơ văn.
Nhưng khi lớn lên, được đọc kinh Phật, kinh Thánh, và nhiều sách triết lý Âu Á như Khổng, Lão, Chu… và luôn cả kinh Koran và kinh đạo Bahai nửa, thì tôi tìm cho tôi được một triết lý đơn sơ, mộc mạc, là cái món hổ lốn vắt ra từ tinh túy của các triết lý khác. Tôi tạm gọi là “Triết Lý Củ Khoai”. Vì nó đơn sơ như củ khoai, rẻ tiền, mộc mạc, và dễ tìm thấy như củ khoai trong đời nầy. Triết lý đó được đơm gọn lại trong một câu ngắn ngủi: “Nếu chỉ có một củ khoai thôi, thì hãy nướng nó cho thật thơm mà đớp”. Ý nghĩa của câu đó cũ mèm, hình như ai cũng biết, và có nhiều câu nói tương tự. Cái triết lý đơn giản nầy giúp tôi thấy được rằng, hạnh phúc là cái rất cụ thể, rất gần gủi, bất cứ ai, và bất cứ lúc nào, cũng có thể tìm dược hạnh phúc rất dễ dàng. Ai cho rằng hạnh phúc là cái xa vời, thì vì họ chưa nắm hết phần tinh túy của các triết lý khác, hoặc chưa từng nghe một phần của triết lý củ khoai. Nhiều sách vở khác cũng có nói đến, nhưng người đọc vô tình hoặc cố ý làm ngơ, hoặc biết rất rõ nhưng chẳng bao giờ thực hành.

Năm 1975 tôi mang cái “triết lý củ khoai” vào nhà tù cộng sản. Cộng sản gạt rằng, đi học tập chính trị trong vòng một tháng, cho “thông suốt đường lối của cách mạng” rồi về. Nghe dễ quá, nên bà con miền Nam mắc bẩy. Trong tù, ai cũng nôn nóng, chờ “học tập” cho xong, mà về với vợ với con, vì việc nhà còn trăm chuyện lu bu lắm, cả tháng trời ai mà lo cho. Lo nhất là hai ba tuần đã qua rồi, mà chưa thấy bài vở, chưa thấy học tập chi cả. Không lẽ khóa học phải kéo dài thêm vài tuần? Trong tù, ngoài đau khổ vì thiếu tự do, còn bị cái đói hành hạ, cái lạnh cắt da thịt từng đêm và nỗi khó nhọc hàng ngày khi làm lao động tay chân không quen mà tình trạng sức khỏe thì quá suy yếu. Còn phải đau khổ tinh thần vì làm đi làm lại bản tự khai tự thú, phải tự bịa đặt tỗi lỗi gán cho mình, để được cái gọi là “thành tâm cải tạo”. Nhưng nỗi mong chờ làm cho đám tù nhân phờ phạc mau hơn các nguyên nhân khác. Một hôm đi lao động bên ngoài vòng trại, có anh lượm được bản nháp bức thư của một lính cộng sản, trong đó viết cho cha mẹ ngoài Bắc rằng, dạo nầy con canh gác tù rất nhàn nhả, bọn chúng toàn cả cán bộ cao cấp ngụy quyền. Anh tái mặt và đem lá thư về cho vài người bạn xem, có người xem xong phát khóc vì biết mình đang ở tù chứ không phải học tập chi cả.
Phần tôi, sau một tháng chưa được về, tôi lờ mờ hiểu rằng “có cái gì không ổn đây”. Tôi chuẩn bị tinh thần để đón nhận những gì không thể tránh được. Một hôm, sau buổi cơm chiều, tôi chỉ ngọn đồi bên kia nói với người bạn tù:
“Cứ xem như đó là nơi chôn chúng ta khi tóc bạc lìa đời, và xem đây như là nơi chúng ta phải sống trọn đời còn lại. Hãy tìm và tạo những niềm vui nhỏ nhoi nhất mà chúng ta có được ở nơi nầy. Ráng tìm vui, buồn bả cũng vô ích, mà còn có hại cho sức khỏe.”

Nghe thế, người bạn tù của tôi gần khóc vì sợ. Tôi đem triết lý củ khoai ra giảng giải.
Về sau, nhiều người bạn tù khác gai mắt bực tức vì thấy chúng tôi vẫn tỉnh khô, vẫn thản nhiên vui vẻ cười đùa như không phải đang ở tù, như không phải đang cực nhọc, thiếu thốn, đói khát. Mặc dầu sức khỏe của chúng tôi sút kém rất mau, gầy gò, răng vẫu, mắt sâu. Chúng tôi cứ xem những bữa ăn thiếu thốn kham khổ kia là cao lương mỹ vị, tận hưởng từng miếng nhai nuốt. Khi chúng tôi bắt được con nhái bén nhỏ, ướp chút muối, nướng cho thơm ngậy, tổ chức một bửa tiệc thưởng trăng, xé con nhái làm ba. Ba anh em tù bí mật ăn trong đêm tối bên hè nhà, nhìn trăng chênh chếch, cười với nhau sung sướng và ngâm nhỏ vài đoạn cổ thi. Ngoài những sinh hoạt công khai trong tù, chúng tôi còn tổ chức được các buổi văn nghệ bỏ túi, cấp tốc. Ba bốn tù nhân hẹn nhau ở đám cỏ cao bên cầu tiêu, một người canh chừng, mấy người kia hát “nhạc cũ” cho nhau nghe đở ghiền, sửa lại lời hát các bản nhạc của cộng sản, dể châm biếm cười chơi. Anh nào làm được bài thơ đắc ý, đem ngâm nga cho bạn tù chia xẻ, thưởng thức. Những khi đi lao dộng khổ sai như cuốc rẫy, khiêng đất, tôi và anh bạn, hai đứa hai đầu gánh nặng, vừa làm việc vừa đánh cờ tướng không bàn: “Pháo hai bình năm, mã bảy tấn sáu, mã hai tấn ba, xa một tấn môt...vân vân.” Mãi suy nghĩ để chuyển quân trong bàn cờ, chúng tôi quên cả nhọc nhằn, cả hôi hám, cả nắng cháy, và quên luôn thời gian. Buổi lao động nhọc nhằn qua đi lúc nào mà không hay.
Chúng tôi chơi cờ không cao, nhưng chơi mãi rồi thành quen, không cần bàn, mà vẫn quần nhau từ sáng đến khuya. Cả những đêm học tập chính trị chán ngắt, chúng tôi ngồi như chăm chú lắm, không ai biết chúng tôi đang chơi cờ không bàn, đang dàn trận, bắt quân, dứ, chiếu, đang chống đở cho khỏi bị chiếu bí. Chúng tôi say sưa với trò chơi, chấp cán bộ cộng sản nói dai, nói dài, nói dở, nói đến khuya. Chúng tôi còn tổ chức các cuộc đua kiến, dấu dế. Bắt dế bỏ vào hộp cho chúng “học tập cải tạo”, cho chúng cắn nhau. Những con ngất ngư sắp chết, chúng tôi thả ra và nói: “Nhờ học tập tốt và thành tâm cải tạo, nhờ ý thức giác ngộ cách mạng cao, và nhờ chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước, nay cho về đoàn tụ với gia đình,” Chúng tôi nháy mắt cười với nhau. Chúng tôi tạo những cuộc giải trí nho nhỏ, những buổi văn nghệ bí mật để quên ngày tháng, và thấy lo buồn tan biến đâu cả.

Phương châm của chúng tôi là “không”, không mong ước, không hy vọng gì cả. Không hy vọng thì khỏi thất vọng. Không mong ước thì không bồn chồn nôn nao. Khi thấy vài người bạn tù được thả – theo lối làm kiểng của cộng sản – các anh khác buồn tủi, đau đớn thất vọng cho thân phận của mình, thì chúng tôi vẫn bình tĩnh ngồi đánh cờ, chẳng xôn xao, chẳng bàn tán chi cả. Chúng tôi biết, chưa đến phiên mình, thì có bàn tán xôn xao, đoán mò, suy diễn lạc quan hay bi quan, thì chỉ thêm buồn khổ mà thôi. Gạt hết ra ngoài tai cho yên lòng. Chúng tôi tập bình thản tâm trí, và luôn tìm cơ hội tận hưởng những thứ hạnh phúc nhỏ nhặt nhất mà chúng tôi có thể có được. Những khi có được một chậu nước nhỏ để tắm, chúng tôi cử hành cái lể tắm, tận hưởng niềm sung sướng khi cảm giác của nước mát chảy trên da thịt, trên mình mẩy, trên tóc tai, và hạnh phúc đến rên lên thành tiếng. Nước tắm trong tù quý như nước cam lồ. Chúng tôi chia cho nhau vài cọng rau hái được, và cảm được sâu xa nỗi hạnh phúc có thêm một miếng ăn trong tù, tận hưởng cái khoái khẩu, an ủi với cái tình bạn chân tình, vì ai cũng đói. Đêm đêm trước khi ngủ, tôi nghe nhiều tiếng bạn tù thở dài não lòng ngao ngán. Có lẽ họ đang lo cho vợ con bên ngoài, giờ nầy không biết làm sao mà sinh sống, mà tồn tại trong một xã hội đổi thay từ gốc rễ. Tôi biết rõ, ở trong tù lo ra cho bên ngoài, ở bên ngoài lo vào cho trong tù. Không có ích chi, cũng không giải quyết được việc gì. Không lo cho vợ con bên ngoài, không phải là vô tình bạc nghĩa, mà chỉ là không làm cái việc vô ích mà thôi. Để tránh suy nghĩ và lo âu, mỗi khi vào giường, tôi tìm cách giải một bàn cờ thế, hay làm vài ba câu thơ, cũng có khi ôn lại những kỷ niện đẹp đẻ êm đềm trong quá khứ mà thấy lâng lâng, hoặc ôn lại các chuyện tiếu lâm mà cười một mình trong bóng tối. Nhờ thế mà ngủ thiếp đi rất mau.
Chúng tôi tập coi thường những nhọc nhằn, khó khăn và đau đớn thể xác. Chấp nhận định mệnh khắt khe mà không cần than van. Tinh thần chúng tôi vững mạnh, sáng suốt. Chúng tôi cố gắng ý thức và hưởng thụ những hạnh phúc rất nhỏ từng ngày, từng giờ, từng phút, mà ít người cảm nhận. Triết lý củ khoai đã giúp tôi qua được những tháng ngày tù đày không quá nặng nề, khó chịu từ tinh thần dến vật chất.

Khi ra khỏi tù, sống trong chế độ cộng sản, người người cơ cực, thiếu thốn, sầu thảm, tinh thần bị đe dọa, sinh hoạt bị dòm ngó, rình mò. Trong cái giòng xã hội đó, chúng tôi cùng chung thân phận. Thân phận chúng tôi còn bạc bẻo, yếu kém hơn, thứ phó thường dân bên lề “xã hội chủ nghĩa tiên tiến”. Nhưng nhờ triết lý củ khoai, tôi vẫn tìm được hạnh phúc từng ngày. Hạnh phúc của mỗi sáng dậy sớm, pha một chén trà nóng, uống vào lòng ấm áp, ngâm vài câu thơ, vặn đài phát thanh BBC, VOA nghe nho nhỏ. Để biết biến chuyển quốc tế, tin tức quốc nội mà cộng sản cố tình bưng bít, ngăn chặn, che dấu. Hạnh phúc khi trao đổi tin tức quốc tế, quốc nội với bạn bè, bà con và ước đoán tình hình. Hạnh phúc nhất là cởi trần nằm phơi gió hây hây ngoài công trường, có khi ngủ tới hai ba giờ chiều mới thức dậy. Tôi đem cái triết lý thô sơ đó truyền bá cho vài anh em thân thiết, và khen xã hội cộng sản đã đem đến cho con người sự làm biếng vô cùng tận. Làm biếng cũng là một hình thức hạnh phúc nho nhỏ. Thật lạ lùng, nhà nước cho đến cán bộ to nhỏ, miệng ai cũng lớn lối đại ngôn ca ngợi lao động siêng năng cần mẫn, mà tất cả mọi người đều biếng nhác, tà tà. Đúng là cha chung không ai khóc.

Trong xã hội cộng sản, con người không được sống yên ổn, nay chính sách nầy, mai chính sách khác, thay đổi lung tung, chẳng ai hoạch dịnh cho đời sống riêng mình dược cả. Chúng tôi vẫn tìm được nhiều hạnh phúc trong châm ngôn “không ước mơ, không hy vọng”. Phải dập tắt mọi ước mơ, mọi hy vọng để mà sống, nghe thì như vô lý, nhưng thực vậy. Cứ thuận theo giòng khổ đau mà trôi nổi với tinh thần sáng suốt. Không than van, không kể lể, không bi ai. Khi có cơ hội bắt được niềm vui thì cứ tận hưởng hết mình chút hạnh phúc đang có. Chấp nhận nhưng không buông xuôi cho số mệnh. Tìm lối thoát với tinh thần nhẹ nhàng, lạc quan, sáng suốt. Khi leo lên chiếc thuyền nhỏ bé để tìm đường đào thoát ra khỏi vòng tay cộng sản , chúng tôi cứ tự nghĩ như mình đang đi du lịch. Đề phòng tối đa, nhưng không quá nhiều lo âu sợ sệt. Cũng có sợ, nhưng sợ ở một mức độ nhẹ nhàng, đến nỗi đôi lúc còn cảm thấy thản nhiên và sung sướng, vì biết mình đang trên con đường đào thoát. Có gì mà lo? Nếu bị bắt thì ở tù lại, mà ở tù lâu thì tìm cách vượt ngục. Chiếc thuyền nhỏ đi từ bến sông Sài Gòn về miền Tây, ra cửa Ghềnh Hào. Trên đường đi, chúng tôi gặp nhiều trạm kiểm soát bắn súng kêu vào xét hỏi giấy tờ. Thấy chúng tôi vui vẻ, bình tĩnh quá, công an cộng sản không ngờ chúng tôi đi vượt biên. Như những kẻ ham chơi, chúng tôi thoát ra được hải phận quốc tế. Thuyền chết máy giữa biển mênh mông nhiều ngày, nhưng sao trong lòng chúng tôi vẫn thấy vui, và còn cảm ơn Trời Phật đã giúp chúng tôi thoát được bàn tay cộng sản độc ác. Có chết cũng vui, thỏa nguyện. Dược chết giữa biển trời tự do. Chúng tôi vẫn kể chuyện tiếu lâm, cười đùa và có khi còn cùng nhau ca hát.

Khi may mắn đến được trại tị nạn, thiên hạ ai cũng nóng lòng, ăn không yên, ở không yên, mong được đi định cư sớm. Họ cứ đưa ra giả thuyết nầy, giả thuyết kia để tự gây nên nỗi lo lắng cho chính họ và cho bà con chung quanh. Lo lắng về một bệnh dịch có thể phát ra, và phái đoàn Liên Hiệp Quốc sẽ không dám dến phỏng vấn. Lo lắng quốc tế thay đổi chính sách tị nạn. Họ lo để mà lo, không có đường lối và phương sách giải quyết các mối lo âu đó.
Tôi bảo họ: “Hãy xem những ngày tháng nầy như đi cắm trại nghỉ hè dài hạn bên bờ biển, cơm nước có Cao Ủy Liên Hiệp Quốc nuôi báo cô, chỉ cần cái xà lỏn thôi là đủ lịch sự như mọi người, cứ vui vẻ nhẫn nại chờ ngày đi dịnh cư”. Không ai nghe lời tôi, ngày ngày họ họp nhau bàn tán, uyên bác suy diển, bày đặt dủ tin đồn dễ gây cho nhau lo âu thêm, rồi đêm về mất ngủ thở dài thở ngắn. Phần tôi, thì lên đồi mắc võng nằm ngủ mơ màng trong gió hiu hiu, thưởng thức tiếng chim ca, nhìn dám mây mỏng lơ lửng bay qua bầu trời xanh, khi nóng thì nhào xuống biển nô giởn với sóng nước mát dượi, rồi nằm dài trên cát. Chán thì chơi vài ván cờ tướng, nằm nghe nhạc “chùa” vẳng từ các lều lân cận có máy hát. Buổi chiều về chòi, ăn một bụng no, uống ly trà, họp bạn bè, kể chuyện tiếu lâm, vui cười vang rân. Đêm nhóm vài cành thông khô đốt lửa ngồi quanh nhắc chuyện Việt Nam, chuyện cổ tích, chuyện vui lạ trong đời mỗi người. Nhiều người ngứa cổ, ca hát, ngâm thơ, cuộc vui kéo dài mãi đến khuya như một thời thanh bình nào đó ngồi bên lửa trại. Tôi thấy tâm hồn mình nhẹ nhàng thanh thản. Không bận tâm lo âu sinh kế, thì giờ tự do không ai bó buộc, không có chuyện khẩn cấp phải làm, không ưu tư về tiền bạc, trong túi không có một xu, không bị công an dòm ngó, đe dọa, khủng bố, và không có bổn phận, trách nhiệm gì cả. Thảnh thơi, vui thú. Cuộc đời có lẻ chưa bao giờ có được những ngày tháng thần tiên như vậy. Sẵn đó, mà có mấy ai cảm nhận được?

Một anh bạn trẻ đã nghe lọt tai cái triết lý củ khoai, đã cùng tôi gọi cái đảo tị nạn là miền đất thần tiên vô ưu. Nhưng với đa số, thì họ gọi dảo nầy là “Buồn Lo Bi Đát” đọc trại ra từ tên đảo là Pulau Bidong, họ cho là nơi chật chội, thiếu thốn, nóng nực, chờ mong, khổ sở, lo lắng. Tôi khó truyền bá cái triết lý củ khoai ra rộng rải, vì người nghe sẽ cho tôi là thằng khùng. Không ai tin câu nói của tôi rằng: “Dù có nóng lòng lo âu đến mấy, cũng không thể đi định cư sớm hơn một phút, mà dù tà tà vô lo đến đâu, cũng không chậm đi định cư hơn nửa giờ.” Tôi xem thời gian tại trại tị nạn như nửa năm đi cắm trại, còn sướng hơn là đi cắm trại. Trở về với thiên nhiên, quần xà lỏn, ở trần, đi chân đất, ngủ gốc cây, nằm trên cát biển, không lo âu sinh kế, và trong túi không có một đồng xu, mà cũng chẳng cần tiền bạc làm chi. Tôi chắc chắn trăm phần rằng, tôi là người sung sướng nhất đảo, vì tôi nhìn thấy được điều sung sướng, tôi cảm nhận được cái hạnh phúc to lớn thực sự tôi đang có. Còn đa số thì không thấy, không cảm được.

Tôi đến Mỹ, lang thang đi tìm việc, lội tuyết ngập nửa ống chân, rả cẳng, gió buốt lạnh cắt da thịt. Trong lòng vẫn vui, vẫn sung sướng, vì biết mình là kẻ may mắn, đang sống đời tự do. Đa số bà con bạn bè giờ nầy đang khắc khoải sống trong áp bức, xiềng xích gông cùm của cộng sản. Nhiều bạn bè đã ra đi, nhưng không đến, đã chết giữa biển khơi,chết trong rừng sâu, bị bắt bớ tù đày, hành hạ. Biết bao nhiêu triệu kẽ mong được lội bảo tuyết đi tìm việc như tôi mà không được. Tôi may mắn thế nầy, thế thì sao mà lòng không rộn rã niềm vui, ca hát cùng gió, cùng tuyết, cùng đất trời trắng phau phau .
Nhờ xông xáo, chỉ hơn mười ngày sau khi đến Mỹ, tôi tìm được một chân phụ bếp trong tiệm ăn Tàu. Làm việc hơn 15 tiếng mỗi ngày, làm không ngơi nghỉ. Cắt rau, gọt khoai, chặt thịt, xẻ cá, lạng tôm, chùi nồi, rửa bát, lau nhà, liền tay liền chân suốt ngày từ sáng sớm cho đến khuya mịt. Di chuyển, nhảy nhót trong cái khu bếp sực nức mùi dầu ăn, tôi nghĩ có lẽ những cao thủ võ lâm khổ luyện bí kíp chờ ngày xuống núi tranh hùng trong các tiểu thuyết kiếm hiệp, cũng chuyên cần đến thế mà thôi. Trong lòng tôi cũng tràn ngập vui sướng, hạnh phúc, vì mới đến miền đất lạ chưa được bao lâu, mà đã tự lập và sinh sống được. Tôi cũng tự phục mình, suốt đời ngồi văn phòng, mà thích nghi được việc lao động rất dễ dàng. Ông chủ tiệm rất bằng lòng cái vui vẻ, yêu đời, chăm chỉ của tôi. Một khuya trên đường về, tuyết phủ mênh mông, băng qua công viên tối, tôi trượt chân té ngữa nằm dài. Nhìn lên trời thấy trăng vằng vặc sáng với ngàn sao long lanh. Tôi thấy trời đất đẹp quá, cuộc đời đáng yêu vô cùng, và thân thể khoan khoái vì cái xương sống được nằm trong thế nghỉ ngơi sau hơn mười mấy giờ lao động tay chân. Bao nhiêu mệt nhọc trong thân thể như chảy loảng tan biến, chạy thấm vào nền tuyết sau lưng. Tôi nằm yên rất lâu ngắm trăng, và ngâm vài câu cổ thi ca ngợi trăng sao. Giá như có ai thấy được cảnh nầy, chắc họ tưởng tôi điên khùng. Cái lần té nầy, làm tôi bong gân, không đi được, phải nghỉ làm, nhờ đó mà tôi có thì giờ, tìm ra được một công việc trong nghề cũ.

Khi đi làm việc, đôi khi gặp những cấp chỉ huy dốt nát, hoặc đồng sự kém cỏi mà lương cao hơn mình, tôi không lấy đó làm điều bất mãn, thắc mắc như nhiều người khác. Vì công ty thì của tư nhân, họ muốn thuê ai, giỏi dốt, trả lương cao thấp là quyền của họ. Mình chấp nhận làm việc, thì rán làm tròn bổn phận của mình, làm tốt tối đa. Nếu không bằng lòng với đồng lương, thì cứ tìm nơi khác khá hơn. Vã lại, đất nước của họ, thì ưu tiên chút đỉnh dành cho họ là phải. Mình ganh tị thì hóa ra là kẻ không biết điều. Tổ tiên họ đã đổ xương máu ra khai phá, để bị đâm chết, lột da đầu, bệnh hoạn. Biết bao nhiêu thế hệ đã đóng thuế, xây dựng nên những tiện nghi ngày hôm nay. Mình là kẻ may mắn nhảy xổm vào chia phần. Thì cũng cứ vui mà hưởng cái phần chưa được hoàn toàn bình đẳng đang có.
Qua những cảm nhận, so sánh hàng ngày, tôi dễ dàng tìm được cho mình cái hạnh phúc của tâm hồn yên ổn. Ở sở, tôi gắng tạo cho mình một môi trường vui vẻ, thân thiện, cởi mở. Để cảm thấy tám giờ trong ngày là thời gian dễ chịu, vui, hạnh phúc, chứ không phải là thời gian ”đi cày” khổ nhọc như nhiều người quan niệm. Mình chấp nhận công việc để được lãnh lương, thì để trả lại, ráng sức làm việc. Tập yêu thích công việc, làm việc với tinh thần vui vẻ, dù công việc có lập đi lập lại nhàm chán, thì cứ nghĩ rằng sướng quá, công việc quen tay, dễ dàng, khỏi phải suy nghĩ nhiều, khỏi phải lo âu sợ làm sai, khỏi phải năn nỉ hỏi ai. Cứ yên tâm mà làm tới. Thế thì không phải sung sướng, hạnh phúc sao? Biến cái văn phòng của sở làm, thành một nơi ấm cúng, vui vẻ, yêu thích, thì đời mình có giá trị, hạnh phúc phong phú hơn nhiều. Những khi gặp khó khăn trắc trở, gặp những thay đổi bất thuận lợi, tôi cứ bình tĩnh chấp nhận chuyện không may, và tự bảo rằng, cuộc đời nầy như một chuổi kết hợp giữa cái may mắn và xui xẻo, giữa hạnh phúc và đau khổ, giữa thuận lợi và trắc trở. Thì cứ từ từ mà giải quyết, sẵn sàng chấp nhận cái kết quả xấu nhất. Thế là yên tâm, và đôi khi cũng nhờ cái yên tâm, mà công việc được thuận buồm xuôi mái hơn.

Sống ở đất nước lạ, lòng hoài hương làm nhiều người thương nhớ không nguôi, làm đau nhức con tim. Tôi biến tình cảm đó thành một thứ an ủi dịu dàng, một thứ hạnh phúc êm đềm khi nhận được thơ nhà, thơ bạn bè. Những giúp đở nho nhỏ cho người cùng khổ bên quê nhà là một thứ an ủi cho những giây phút mệt nhọc khó khăn trong công việc nơi quê người.
Những buổi sáng, khi chuông đồng hồ rền rỉ đánh thức dậy đi làm, nhất là những sáng thứ hai ngày mùa đông rét mướt tối tăm, nhiều người cảm thấy quá mệt nhọc, quá khó chịu, và họ “giả như” hôm nay được nghỉ thì sướng vô cùng. Còn tôi, thì mỗi sáng thức dậy với tràn ngập niềm vui, biết hôm nay ta sống thêm một ngày trong thế giới tự do, hôm nay ta còn công ăn việc làm, chưa thất nghiệp. Thế thì lòng đã phơi phới, sá chi đông giá lạnh lẽo tối tăm. Con đường đi đến sở, nhạc trong xe dịu dàng rải rắc khắp không gian. Có lần tôi bị thất nghiệp, buổi sáng thức dậy, tận sâu thẳm trong lòng tôi vẫn lâng lâng niềm hạnh phúc lạ kỳ, với ý nghĩ rằng, nhờ thất nghiệp mà còn được ngủ nướng, muộn màng, nằm dã dượi, nhìn nắng ấm dịu dàng len qua song, trải lên chiếu giường. Chốc nữa, sẽ nằm đọc truyện, uống trà, nghe nhạc cổ điển êm dịu. Chiều đi câu bên hồ. Tối nay thức khuya xem phim muộn về đêm, khỏi phải sợ ngủ gục trong sở. Việc chi mà quá lo âu về kinh tế gia đình, khéo co giản nhu cầu theo hoàn cảnh, thì không việc gì phải lo,. Vả lại, công việc làm, thì cửa nầy đóng, cửa kia sẽ mở, đâu đến nỗi chết đói mà sợ.

Nhiều người hỏi tôi sao không mua nhà để được trừ thuế mà cứ sống trong nhà thuê chật chội. Tôi trả lời là tôi đang mua hạnh phúc. Hạnh phúc mua được rẻ hơn tiền đóng thuế. Mua cái nhà khi chưa vững chắc về tài chánh là mua cả khối lo lắng lớn lao vào thân, làm mất đi cái an bình quý báu của cuộc sống. Nhiều người, vì mua nhà, sợ mất việc, cho nên hèn cả con người. Khi tôi đủ sức mua nhà mà không phải lo âu vì nợ nần, thì cũng có nhiều bạn bè bà con hỏi, sao dư khả năng để mua những căn nhà lớn hơn, khu sang trọng hơn, mà lại mua căn nhà nhỏ. Tôi nói với họ là tôi không có nhu cầu sang trọng, căn nhà nhỏ cũng đủ cho gia đình tôi trú ngụ yên ấm. Nhà càng lớn, càng phải chăm sóc ï quét tước. chùi dọn nhiều, sưả chửa nhiều, mất thì giờ hưởng thụ những thú vui khác của cuộc đời. Lại nợ nần nhiều thêm lo lắng, có hại đến hạnh phúc bình thường. Căn nhà nhỏ của chúng tôi, nếu chẳng may cả hai vợ chồng thất nghiệp, cũng chẳng có chút bối rối nào. Có thể, tôi không khôn ngoan trên nhãn quan kinh tế, nhưng tôi chắc chắn không sai lầm chút nào trên quan điểm hạnh phúc nhân sinh. Vợ chồng chúng tôi thường nói với nhau, nếu bây giờ có thêm vài triệu đồng tiền mặt, thì có lẽ đời sống chúng tôi cũng chẳng thay đổi gì hơn. Cũng không ăn dược nhiều hơn một miếng, cũng không ngủ được một lúc hai giường. Thức ăn thì bò, heo, gà, tôm, cua, cá, rau cải, bất cứ thứ nào cũng thừa khả năng mua. Không cần phải giàu lắm mới mua được. Ngồi ăn trong nhà hàng sang trọng đắt tiền, chắc chi ngon miệng hơn ngồi chồm hổm bên góc đường húp riêu.

Vợ tôi thường trách tôi bạn bè quá đông, bạn tốt cũng đông mà bạn xấu cũng đông. Tôi thì thấy không ai hoàn toàn tốt, mà cũng không ai hoàn toàn xấu. Đã là con người thì có xấu tốt lẫn lộn. Chơi với bạn thì chỉ nên nhìn vào cái tốt bạn có, đừng để ý đến cái xấu . Ngay cả bản thân mình, cũng đầy cả nết hư tật xấu mà chưa chừa được. Chắc chắn, cũng không ít người chê bai sau lưng mình, nhạo báng mình, mà mình không biết đó thôi. Nếu họ có chê trách mình, thì họ cũng đúng phần nào dưới nhản quan của họ. Bởi vậy, tôi thường để vài giờ tự chế diễu mình, ghi lên giấy những lố lăng, những kỳ cục, những khả ố của mình. Để mình thấy rõ mà tha thứ cho cho mình, tha thứ cho người khác dễ dàng hơn.
Thế mà người gần gũi tôi nhất, thân thiết nhất, là vợ tôi, thường chống báng cái triết lý củ khoai nhiều nhất. Nhưng nàng đâu hiểu, những hạnh phúc bình thường tràn đầy mà gia đình tôi thực sự có được, cũng nhờ cái triết lý củ khoai ấy. Thường thường ít ai thấy và cảm được những hạnh phúc mà họ đang có, chỉ khi mất đi rồi, mới nhận chân ra, và chép miệng tiếc thương. Nhiều khi vợ tôi làm những điều không phải, nói những lời khinh bạc, tôi không nổi giận la hét làm dữ như những người khác. Tôi thầm bảo, nhiều người đàn bà còn tệ hơn vợ mình cả trăm lần, mình phải chấp nhận cái tương đối để vui sống. Và lại, mình có hoàn toàn đâu mà buộc người phối ngẫu của mình phải hoàn toàn. Thế là mọi sự đều qua.

Điều tôi thường hay nghĩ đến là nếu. Nếu tất cả sự thực hôm nay là giấc mộng, sáng mai thức giấc, thấy mình đang còn nằm trong nhà tù cộng sản, thì thật có nhiều điều điều đáng ân hận và tiếc. Và nếu đời là một giấc mơ, thì sao chúng ta không mơ cho thật đẹp.

Tràm Cà Mau

Hãy thong thả Sống  358qhqv
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeMon May 25, 2015 8:51 am


Bản Đàn Hạnh Phúc


Tràm Cà Mau

Hãy thong thả Sống  Crane1


Thần thoại Ấn Độ kể rằng : Thượng Đế tạo ra đàn ông trước, thấy đàn ông bơ vơ lang thang tội nghiệp, bèn lấy vẽ yêu kiều của hoa, màu sắc rực rỡ của cầu vồng, tính mềm mại của gió, cái tinh quái của loài hồ ly, cái bất thường của mưa, và sức nóng của núi lửa mà tạo nên đàn bà. Rồi giao cho đàn ông làm vợ, đàn ông mừng lắm, dẩn đi. Không lâu sau đó, người đàn ông đem trả lại cho Thượng Đế, vì chịu hết nỗi đàn bà. Ngài thu nhận. Đàn ông bỏ đi, nhưng rồi không chịu được cô đơn, quay về xin lại. Thương đế đem đàn bà giao lại cho đàn ông. Nhưng rồi sau đó, đàn ông cũng đem trả lại lần nữa. Cứ xin và trả mãi. Đến lần thứ tư, thì Thương Đế bảo: “Lần nầy là lần chót nhé, đừng làm ta phiền nữa. Đem đi, may nhờ rũi chịu, rán mà chịu đựng nhau.” Câu chuyện có vẽ kỳ thị đàn bà do đàn ông đặt ra. Nhưng đó cũng là một ngụ ngôn, nói lên cái đáng yêu và đáng chán của đàn bà. Đồng thời, cũng nêu lên cái cần thiết và giá trị của gia đình, là sự kết hợp của hai giống đực, cái để tạo nên hạnh phúc cho cuộc sống. Hạnh phúc gia đình là một nguồn vui sướng và giá trị nhất trên đời, mọi thứ hạnh phúc khác đều trở nên phù phiếm, nếu mất hạnh phúc gia đình. Đứng trên khán đài cao nghe thiên hạ vổ tay rào rào chào đón, rồi về nằm queo một mình, đâu có sung sướng bằng vòng tay ấm áp của người thân yêu, nụ hôn thắm thiết của người bạn đời. Thành công về tài chánh, chính trị, văn chương, triết học, đều không có nghĩa lý gì, nếu thiếu hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc gia đình, không là gì cả, nhưng là tất cả. Ý nghĩa của đời sống là gì, nếu không phải là đi tìm hạnh phúc? Tuy hạnh phúc có muôn mặt, muôn khía cạnh, và mỗi người quan niệm hạnh phúc mỗi khác. Cũng có nhiều người đang sống trong hạnh phúc tràn đầy, nhưng họ không biết đó là hạnh phúc. Họ không cảm được là họ đang sung sướng. Chỉ khi họ gặp bất hạnh, đã mất đi cái họ đang có, thì mới biết, mới nghĩ được rằng, trước đây đã có hạnh phúc mà không hề hay biết, để cho nó trôi đi. Cũng như bình thường, ít ai ý thức rằng, được khỏe mạnh, không đau yếu, đã là hạnh phúc rồi. Chỉ cần đau răng nhức nhối thôi, thì cũng đã cảm nhận được điều đó. Chứ khoan nói đến những trọng bệnh, như mù mắt, tê liệt, ung thư… Người bị ung thư hành, thì thấy người đau răng là quá hạnh phúc. Hạnh phúc không phải xa xôi khó tìm, nó thực sự, tràn đầy chung quanh chúng ta, mà chúng ta hoặc vô tình không để ý đến, hoặc vì tham lam, muốn có thứ hạnh phúc mà mình chưa có, chưa đạt. Cho nên, cứ chạy đuổi theo cái bóng hạnh phúc, mà không bao giờ bắt gặp cả. Trong ”Cổ học tinh hoa” kể rằng, có một ông đi trên đường một mình mà cười sằng sặc, sung sướng lắm. Có người hỏi chuyện gì mà cười vui thế?. Ông trả lời rằng, ông đang có ba điều sung sướng, nên vui mà cười. Một là trong sinh vật, có thú, có người, mà ông được làm người, thì là một điều sung sướng. Hai là trong loài người có người tàn tật bệnh hoạn, có người lành lặn, ông được lành lặn, thì là hai điều sướng . Ba là trong những người lành lặn, có kẽ là đàn ông, có kẽ là đàn bà, được làm đàn ông, thì là điều thứ ba sung sướng. Có ba điều sung sướng thì tại sao mà không vui cười cho được. Hồi còn nhỏ, đọc bài nầy, chưa hiểu, tôi tưởng là ông nầy mắc bệnh thần kinh. Chị em bạn gái, có thể cười sung sướng vì có hai điều hạnh phúc vậy.

Gia đình là nơi mà mọi người dể dàng tìm được hạnh phúc nhất . Không có thứ hạnh phúc nào êm ấm, ngọt ngào, dịu dàng bằng hạnh phúc gia đình. Nhưng cũng có nhiều trường hợp, không nơi nào cay đắng, bất hạnh và địa ngục bằng gia đình. Hạnh phúc gia đình như một vườn hoa, phải chăm bón, vun xới, thì hoa mới nở rộ, mới thơm tho, huy hoàng màu sắc. Không vun xới, tưới bón, thì cỏ dại mọc tràn lan, hoa lá tiêu điều. Người ta thường tưởng rằng, hạnh phúc gia đình sẵn có đó, cứ bính thản gặt hái mà không cần chăm sóc, không cần lưu ý đến, để cho nó mọc và nẫy nở phát triển tự nhiên. Nhiều gia đình rất hạnh phúc một cách tự nhiên, vì người vợ, người chồng đã hành xử đúng, đã thấm được cái nếp nhà, khi đang ở với cha mẹ. Cha mẹ họ biết gìn giữ hạnh phúc, và con cái học được và noi theo. Bởi vậy cho nên người xưa chọn dâu, chọn rể, thường chon tông, chọn tổ. Những gia đình nào ít hạnh phúc, thì con cái ít có cơ may học được những điều hay ho tốt lành trong đời sống hôn nhân, ngoại trừ họ tự học, tự tìm hiểu lấy.

Có kẽ bảo rằng, có rất nhiều gia đình sống đã gần hết đời người rồi mà vẫn còn thất học trong vấn đề xây dựng hạnh phúc gia đình. Điều đó có lẽ có thật. Cũng có nhiều người biết, nhưng còn mơ hồ, không để hết tâm trí vào việc vun xới hạnh phúc gia đình . Cũng có nhiều người khác, hiểu rất rõ, biết rất nhiều, nhưng không làm, nghĩa là không “tri hành hợp nhất”. Những điều viết sau đây, thì chắc chắc mười người đều biết cả mười, không có chi mới lạ cả. Nhưng không phải vì thế, mà cố tình quên đi, không thèm nhắc nhở.

Sau chừng năm bảy năm vợ chồng chung sống, mọi chuyện hầu như đã cũ lắm rồi. Chưa nói đến năm ba chục năm, thì xem như cũ gần bằng trái đất. Tình cảm lắng đọng, êm đềm, thâm trầm. Vợ chồng thương yêu, chăm sóc nhau như phản ứng tự nhiên, không còn đắn đo, không suy xét. Người cho cũng như người nhận, đều bình thản như hít thở không khí trời. Không ai nghĩ rằng, nếu trong chừng năm ba phút thiếu không khi để thở, thì có thể bất tỉnh và khó sống nỗi. Thế mà có mấy ai biết mình đang sung sướng, đang có nguồn không khí trong lành để hít thở đâu. Vợ chồng, cho và nhận, đều ít cảm được cái rung động và sung sướng khi được chăm sóc, hy sinh và dâng hiến cho nhau. Cái tình cảm thâm trầm, không nói ra, đôi khi tưởng như lạt lẽo, chán nhàm. Phải đến khi mất nhau, khi đó mới thấm thía, mới tiếc những gì mình không cảm nhận, không làm, khi còn có nhau. Đời sống vợ chồng, có nhiều tháng ngày bên nhau, nhưng đừng bao giờ để cho hạnh phúc, sinh hoạt, và tình yêu trở thành cũ kỹ, lạt lẽo. Chúng ta, chồng cũng như vợ, có bổn phận phải làm cho nó sống động, tươi mát, thắm thiết trở lại. Phải biết đánh bóng cái hạnh phúc mà mỗi gia đình đang có. Phải biết nhắc nhở và cảm nhận được hết tất cả những hạnh phúc nhỏ nhặt nhất từng giây, tùng phút mà mình có được. Một nụ cười của người phối ngẫu, một nụ hôn của con, một đóa hoa nở trong vườn, mình phải biết nắm lấy, cảm nhận, và sung sướng thật sự, và nói lên cái hạnh phúc đơn sơ đó cho mọi người chung quanh cùng vui hưởng.

Có người xem truyền hình đài Nhật bản, họ bảo trằng, biết mình may mắn không là đàn bà Nhật. Thấy mấy ông Nhật trong phim đang âu yếm vợ, đang tỏ tình, mà có cái giọng nạt nộ, gắt gỏng, như sắp thượng cẳng tay, hạ cẳng chân. Thật tội nghiệp cho các bà Nhật , nói thì lý nhí, đi thì như chạy chạy từng bước ngắn. Không biết mấy bà có tủi thân không. Ai mà không ưa dịu dàng, ngọt ngào?. Thế mới biết tại sao người ta thích nghe nhạc. Mặc dù biết lời nhạc là không thực, là tưởng tượng, là bày đặt. Nhưng vẫn cứ muốn nghe đi nghe lại mãi không nhàm, không chán. Phải chăng vì lời ca trong bản nhạc êm ái, dịu dàng, nói lên cái ước mơ của con người, ước mơ được thương yêu, ước mơ được hạnh phúc, được nghe những lời êm tai, thỏa lòng. Không ai không thèm khát được đối xủ tử tế, dịu dàng, ngọt ngào. Ngay cả những người tâm tính khó khăn bất thường nhất. Rất nhiều người tuy biết vậy, thế mà khi mở miệng ra, nói với chồng hoặc vợ, thì lên giọng sai khiến, gắt gỏng, lệnh lạc, như sĩ quan truyền lệnh trên chiến trường. Với thứ ngôn ngữ đó, thì chắc kẽ điên khùng cũng biết là làm cho người nghe khó chịu, và nếu có thi hành, cũng với nỗi bực tức trong lòng, miễn cưởng mà làm cho xong kẻo thêm rắc rối. Nhưng cũng cùng một việc đó, nếu biết nói với lời êm ái ngọt ngào, lịch sự, thì người nghe hăng hái, vui vẻ, sung sướng khi thi hành. Có lần, trước chợ, người thấy một bà hùng hổ, trợn mất, chỉ tay vào chồng gay gắt: ”Đứng ì ra đó sao. Anh phải phụ với tôi chứ, nặng quá mà!”. Anh chồng cúi đầu như con mèo cắt tai, vội vả chạy theo chị vợ vào bên trong chợ. Nếu thời mới yêu nhau, mà chị để lộ cái hùng hổ đó ra, thì chắc anh chồng đã ba chân bốn cẳng mà lánh xa ra. Tại sao chị không thỏ thẻ: ”Anh ơi, nặng quá em khiêng không nỗi, anh có thể giúp em một tay được không?” Thế thì dù có phải gảy xương sống, anh chồng cũng vui vẻ cố làm cho xong. Và trong lòng anh còn vui vẻ hân hoan, vì nghe lời ngọt ngào, dể thương của vợ yêu. Nhiều bà lúc nào cũng sẵn sàng thấm mật ngọt trên môi mà: “Anh ơi, anh à, anh giúp em việc nầy được không? Anh có cho em đi Shopping không? Anh có thích giúp em việc nầy không, anh có vui lòng phụ giúp em… Nếu anh giúp em việc nầy thì em cám ơn anh lắm…” Ngay cả những khi ông chồng bận rộn nhất, cau có nhất, bực mình nhất, mà nghe lời thỏ thẻ, nhẹ nhàng đó, thì anh cũng mau mắn, vui vẻ làm những việc vợ yêu cầu. Đổ nước đường ra, không mất gì cả, thì đàn ông, cũng như đàn bà, ai cũng vui vẻ, hăng hái. Nhiều ông chồng nghe ngọt ngào, thì cười mĩm và nháy mắt, tỏ ra anh biết tỏng là đang được uống nước đường của vợ, nhưng anh vẫn vui vẻ, hăng hái làm. Ngọt ngào với chồng, với vợ, thì hiệu quả hơn trăm lần xẳng giọng. Trong tình vợ chồng, những câu nói ”Em yêu anh. Anh yêu em” nghe rất êm tai, rất thỏa lòng, hả dạ, nghe không bao giờ chán, không bao giờ nhàm. Càng nghe, thì tình yêu càng củng cố trong lòng người nói, và càng thắm thiết trong tâm người nghe. Tình yêu nhờ đó mà tăng trưởng, mà bền vững, mà thêm lòng tin. Lời tha thiết êm ái đó nhập tâm mỗi người. Tin chắc tình yêu mình đang cho và đang nhận vô cùng nồng nàn, ấm cúng. Thử hỏi tại sao tụng kinh, hay đọc kinh, thường phải lặp đi lặp lại một câu kinh, có khi cả chục lần, có khi cả trăm lần. Cũng như những điệp khúc trong các bài ca. Lặp lại, nhưng không bao giờ nhàm, không bao giờ chán. Câu nói xưa cũ, cổ điển, mà thần hiệu đó, nhiều gia đình đã quên đi, không nhắc nhở đến nữa, thật là một thiếu sót, uổng của đời.

Châm ngôn của nhiều bà là đừng bao giờ xẳng giọng, đừng bao giờ nói lời bất nhả, mật thì ngọt và kiến hiệu cay đắng thì làm đau lòng và không ai ưa.

Cứ nhớ lại cái thời vợ chồng mới quen biết nhau, sao mà thơ mộng, sung sướng và đẹp quá chừng. Tưởng không lấy được nhau thì đất trời nầy sụp đổ, cuộc đời không còn nghĩa lý gì nửa. Thời đó, chỉ mới cầm tay nhau thôi, mà trong lòng dạt dào sung sướng, xúc cảm, đến run lên. Và cảm thấy trời đất nở hoa rực rở, và ngàn tiếng du dương vang vọng trong lòng. Hai người cư xử đẹp, tử tế, dịu dàng như trong chuyện thần tiên. Có thế mới bỏ cả cha mẹ, anh em, bạn bè mà theo nhau. Khi đó, họ còn có thể sẳn sàng chết cho nhau mà không chút ân hận. Những vòng tay thời đó, thắm thiết, tràn đầy tình yêu, những câu nói ăm ắp ngôn từ đẹp đẻ, những nhường nhịn, hy sinh không chút đắn đo, không chút thắc mắc. Sau đó, người ta quên đi những nhường nhịn, tử tế lúc ban đầu, để lộ ra cái tranh đua, ganh tị, cáu kỉnh, ích kỷ của mỗi cá nhân, một cách quá sổ sàng, không cần che dấu, không kiêng dè. Những va chạm thường ngày làm sao mà khỏi tổn thương đến cái hạnh phúc gia đình, trong lúc mục tiêu chính của gia đình là tạo dựng hạnh phúc cho chính mình, cho người mình thương, cho con cái, cho tất cả. Đa số, chúng ta có được cái hạnh phúc ban đầu vô cùng phong phú, thế mà rất nhiều gia đình, không biết giữ dìn cho nó lâu bền, tốt đẹp. Mà cứ xói mòn, làm cái vun đầy ban đầu hao hớt, vơi đi, và có khi khô cạn. Thay vào cái hạnh phúc bằng sự nhàm chán, bất hạnh, chịu đựng. Có nhiều gia đình biến thành địa ngục, mà mỗi người thở cái không khí nồng cháy nặng nề của khó khăn, tranh chấp, thù ghét . Không ai mà không mơ ước cuộc sống gia đình được đẹp đẻ, thơ mộng, đáng yêu mãi như thuỡ ban đầu. Người ta mong muốn, ước mơ, nhưng người ta không biết cố gắng để giữ dìn và hành động , để làm sao cho gia đình mãi mãi còn là những nồng ấm, thơ mộng của thuỡ xa xưa đó. Có người luôn luôn ý thức được rằng, hạnh phúc nằm trong tầm tay họ, biết vun xới, tưới bón ù, thì nó tươi tốt, hoa lá sum sê, nếu bỏ lơ là, không chăm sóc, thì cỏ dại mọc um tùm, cành lá khô héo. Nếu cố gắng đối xử vối kẽ phối ngẫu tế nhị như thuở ban đầu, và nhắc nhở nhau dìn giữ trân trọng mối giao hảo song đôi. Tương kính nhau, tránh những lời nói làm buồn lòng, làm đau lòng nhau. Mỗi ngày, vuốt ve nhau với niềm xúc cảm tràn đầy của thuỡ ban đầu. Vòng tay ôm thắm thiết, truyền cho nhau tình thương nồng nàn thấm qua làn áo, nắm tay nhau với xúc cảm chân thành, hôn nhau say đắm như nụ hôn đầu. Không phải hôn nhau chiếu lệ, không phải “ôm nhau như ôm khúc củi mục” lỏng lẽo. Khen tăng nhau, cám ơn nhau những săn sóc, những lưu ý. Dù hôm nay bà vợ có bằng đầu, bằng đuôi, như một hình vuông, và má phính núc ních, thì chồng vẫn khen vợ đẹp, đẹp dưới nhãn quan của chàng. Thế là làm gia đình vui, tin tưởng và yêu đời hơn, vợ chồng yêu nhau hơn, và yêu gia đình hạnh phúc đậm đà hơn. Nhiều bà cũng đủ khôn ngoan để biết mình chỉ là thứ nái xề, chẳng có đẹp đẻ gì với ai, nhưng đẹp riêng đối với chồng là quá đủ. Vợ chồng cũng phải biết cám ơn những chăm sóc âu yếm của nhau. Cũng nên biết nói với nhau những câu mà người ta tưởng là thừa thải, đương nhiên, không cần nói ra, đại khái như: “Cám ơn tình thương của anh/em dành cho, không ai trên đời nầy thương anh/em bằng thế nầy cả.” Người phối ngẫu, khi nào cũng cảm động nghe những lời biết ơn của đó. Nhờ vậy, tình yêu càng nồng nàn thắm thiết. Dù đã nhiều năm chung sống, làm sao cho vợ chồng còn say đắm nhìn nhau, và cảm thấy hạnh phúc êm đềm trong ánh mắt, lòng biết ơn nhau. Mỗi người biết hy sinh một ít cá tính, để hòa đồng nhau trong cuộc sống chung.

Gia đình nào cũng có một vài hủ mắm thối, nên chôn thật sâu, thật kỹ, đừng để bay mùi ra làm thương tổn đến hạnh phúc chung. Người xưa có dạy,không ai hoàn toàn. ( nhân bất thập toàn) Ai cũng có tính tốt, tính xấu. Và cuộc đời , mỗi cá nhân phải đấu tranh không ngưng nghỉ giữa cái thiện và cái ác. Khi yếu đuối, thì cái ác làm chủ, xui khiến con người làm những điều tệ hại. Có những cái người ta biết là không tốt, nhưng vẫn cứ làm, như hút thuốc, uống rượu, đánh bài. Đôi khi những cái xấu nho nhỏ, làm cho con người đáng yêu hơn, cuộc sống bớt thánh thiện, nhưng lại có nhiều vui. Quá thánh thiện cũng trở thành công thức, khó khăn. Bởi vậy, chúng ta phải biết tha thứ cho người phối ngãu, những sai lầm đã phạm phải trong quá khứ, dù cố ý hay vô tình. Dù sao thì cũng là việc đã qua, không thể quay lại được nữa. Nên quên đi, đừng bao giờ moi móc ra làm khổ nhau, làm tội làm tình nhau. Chẳng ích lợi gì, mà chính là làm cho mình đau đớn, dằn vặt hơn ai hết. Sai lầm nào cũng có thể tha thứ được cả, nếu biết chấm dứt và hối lỗi. Ngay cả những kẽ giết người, đôi khi còn được pháp luật khoan thứ nữa là. Quá nghiêm khắc cuộc sống mất vui. Vã lại, mỗi chúng ta hãy tự xét mình, xem mình có hoàn toàn không? Chắc chắn là không. Tại sao mình tự tha thứ cho lỗi lầm của mình được, mà không tha thứ cho lỗi lầm của người khác, nhất là người bạn đường của mình?. Tại sao lỗi lầm của mình, thì quên mau lắm, không muốn ai nhắc nhở đến, mà cứ muốn bươi móc lỗi lầm người khác ra?. Cảm thông và tha thứ, rất cần thiết để giữ hòa khí gia đình, và giữ cho ngọn lửa ấm hạnh phúc còn cháy mãi, sáng mãi trong trái tim của mỗi người.

Tình thương thường như như giao thoa cọng hưởng. Tình thương cho đi, thì có tình thương trở về.Tình thương trở về làm nẫy sinh tình thương khác cho đi. Cứ thế mà chập chùng, mà vun dầy thêm lên. Khi ta thương yêu ai với tấm chân tình, không vụ lợi , không ích kỷ, thì sớm hay muộn , chắc chắn tình thương đó sẽ được đáp đền. Trong đời sống lứa đôi, càng cho nhiều thì càng nhận được nhiều. Tình thương thường cho đi mà không mong đền đáp, nhưng thường vẫn được đáp đền nhiều hơn mong tưởng. Ghét bỏ, hận thù, sẽ được đáp lại bằng hận thù và ghét bỏ. Không lợi cho ai cả, mà nó làm cho tâm tư u uất, làm cho cái bao tử ung thối, làm cho thân thể bệnh hoạn, yếu đuối. Không cần phải có cái tâm bồ tát đem ra thương người, chỉ cần có cái tâm thành của vợ yêu chồng, của chồng yêu vợ, hai bên trao tình thương cho nhau không ngưng nghỉ, không đắn đo, rồi từ đó tình thương thành giao thoa cọng hưởng. Gia đình hạnh phúc. Không thể nào một bên, ri rỉ tình thương, mà hy vọng nhận được tình thương tràn đầy không điều kiện.

Mỗi người hãy nhớ rằng ngày tháng qua mau, cuộc sống của con người có giới hạn. Bảy tám chín chục năm, rồi sẽ chết. Mỗi người đều có sẵn bản án tử hình treo trên đầu mà chưa thi hành. Nhưng thái độ của đa số thế nhân, như họ sẽ được cho sống đời đời, không bao giờ chết. Phải ý thức được, mỗi ngày, chúng ta bước gần đến huyệt mộ thêm một bước, không cưởng lại được. Bởi vậy, mỗi ngày sống của chúng ta rất quý báu. Mất đi thì là hết, không thể nào tái tạo, dù có tiền rừng bạc bể, quyền uy ngất trời. Làm sao cho mỗi ngày sống của chúng ta được đẹp đẻ, vui tươi, ý nghĩa và hạnh phúc. Chúng ta phải tự tạo lấy, vun xới lấy. Chờ đợi, thì nó cũng có thể đến, có thể không. Nhưng tệ hại nhất là những kẽ tự đập phá hủy hoại thời gian quý báu của mình bằng gây gổ, bằng hận thù, bằng trách móc, than vản. Phí phạm thời gian thật uổng . Người xưa, ý thức thời gian quý báu, cho nên còn có kẽ thắp đuốc đi chơi, sợ đời chóng hết. Một gia đình hạnh phúc, có đời sống lâu dài bằng hai ba lần hay cả chục lần đời sống của một gia đình bất hạnh. Thà sống hai mươi năm tràn đầy hạnh phúc, còn hơn sống một trăm năm thiếu hạnh phúc. Những gia đình thiếu hòa thuận, thì nên ngưng cuộc chiến lại, ký hiệp định đình chiến ngay để cứu vản thời gian, cứu vản hạnh phúc của đời sống cho chính mỗi cá nhân trong cuộc chiến, cho con cái và những người liên hệ. Đừng để thời gian mất, hạnh phúc phí phạm, rất uổng.

Mỗi ngày thi hành một điều hiến dâng. Vợ chồng, cứ giao ước, mỗi sáng thức dậy, cố đem lại cho nhau một niềm vui nho nhỏ. Có thể là một câu nói làm đẹp lòng nhau, có thể là một lời khôi hài, có thể là một chuyện vui trong giấc mơ, cũng có thể là một nụ hôn thật ấm từ tấm tình thương nồng nàn, không phải là nụ hôn chiếu lệ, trả nợ quỷ thần. Mỗi ngày, gắng làm vừa lòng nhau, cứ bên tung, bên hứng, hòa hợp tâm tư, hòa hợp đời sống. Cũng có những lúc bất đồng, thì phải biết nhân nhượng, mỗi người bước lui một vài bước cho đến khi đồng ý nhau, gặp nhau ở một điểm nào đó, mà cả hai đều vui vẻ chấp nhận. Khi đã chấp nhận, thì dù kết quả nào, cũng lấy đó làm vui.

Chuyện thần thoại Ấn Độ nên sưả lại rằng: Thượng đế tạo nên nhiều người đàn ông xong, thấy họ sống không có ý nghĩa, cầu bơ cầu bất, lại ăn ở dơ dáy, bẩn thỉu, hỗn độn. Ngài bèn lấy tinh hoa của trời đất, và tinh quái của yêu ma tạo nên nhiều người đàn bà, cho kết hợp với mỗi đàn ông thành vợ chồng. Giao cho mỗi cặp hai cây đàn thần, bảo rằng, nếu biết hòa điệu hòa âm, hòa nhịp, thì có được nguồn hạnh phúc vô biên, và đời sống phong phú an lạc. Nhưng nếu mỗi người chỉ muốn độc tấu riêng rẽ, không muốn hòa hợp thanh âm, thì sẽ tìm thấy địa ngục. Sau một thời gian, những cặp vợ chồng biết phát huy cái tinh anh của trời đất trong người nữ, biết hòa hợp âm thanh, thì đều mọc cánh và bay lên trời thành tiên. Những cặp chỉ biết triển khai cái tinh quái, nên độc tấu, không chịu hòa nhịp, hòa âm, đều mọc lông lá đầy mình, trở thành dã thú, chạy vào rừng trốn chui trốn nhũi. Còn những cặp khác, hòa âm, hòa điệu chưa được nhịp nhàng, ăn ý, thì vẫn còn giử lại hình thể của con người, và phải luyện tập thêm cho đến ngày mọc cánh thành tiên.

Muốn gia đình trở thành một góc của thiên đường cũng không khó. Mà muốn gia đình trở thành một xó của địa ngục cũng rất dễ. Chỉ có quyết tâm và hiểu biết của hai vợ chồng. Làm sao cho ăn nhịp, hòa điệu, biết khai thác cái vốn dồi dào trời đất sẵn ban cho. Đời sống gia đình có hạnh phúc là đạt được toàn vẹn ý nghĩa của kiếp sống, không cần phải đi tìm ở nơi nào xa xôi./.

Tràm Cà Mau
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeSun May 31, 2015 9:55 am

Hãy thong thả Sống  2Q==


Ngộ Đạo Đất Trời

Ông Tư bị ung thư và biết chắc không thể sống lâu hơn sáu tháng. Ông bình tỉnh chờ cái chết, và vui vẻ sống những ngày ngắn ngủi còn lại, mà không bi ai, không sợ hãi. Ông muốn sau khi chết, gia đình làm đám tang theo ý riêng của ông. Bà vợ nghe dặn dò cách thức làm đám tang kỳ dị, thì nói giọng buồn, với đôi mắt cầu khẩn:
- Em nghe nói ngày xưa ở Huế, người đàn bà đầu tiên đi xe đạp, bị cả thành phố phỉ nhổ, xem như là Me Tây, như kẽ phá hoại phong hóa nơi đất thần kinh. Cho đến khi chiếc xe gắn máy hiệu "Velo solex" ra đời, người đàn bà đầu tiên xữ dụng, cũng bị xem như là thứ côn đồ, cao bồi du đảng, chẵng ai dám giao du thân mật. Đến như bà Thu, vốn là một công chúa, dù là con của vị phế đế, là người đàn bà có xe hơi, và lái xe hơi dầu tiên ở Huế, cũng bị thiên hạ nghi ngờ oan ức đến cái đức hạnh của bà, mà suốt đời không kiếm được một tấm chồng. Thế mà bây giờ, anh bảo em làm đám tang khác thiên hạ, không giống ai, thì chịu sao nỗi lời tiếu đàm của bà con, họ hàng!

Ông Tư cười, nhìn vợ và nói :
- Cái gì cũng phải có khởi đầu, có người làm trước, về sau thiên hạ thấy hay mà làm theo. Không ai khởi đầu cả, thì làm sao có tiền lệ để mà bắt chước? Thời trước nếu không có cô, bà nào dám tiên phong leo lên xe đạp, thì bây giờ đàn bà đi bộ cho rã cẳng ra. Ngày nay, còn có ai xì xầm khi thấy các cô, các bà đi xe đạp, xe gắn máy và lái xe hơi đâu?
- Sao anh bắt em phải làm cái việc khác đời, cho tội cho nghiệp em. Em đâu phải là hạng người thừa gan dạ, để có thể phớt lờ dư luận, khen chê của thế gian ?
Ông Tư trả lời với giọng rất bình tỉnh:
- Chỉ là ước mong nhỏ nhoi cuối cuộc đời của anh, mà em cũng không giúp anh được sao? Ai có nói gì, thì em cứ bảo đó là ý nguyện của anh trước khi chết. Mà có lẽ, mọi người đều biết anh muốn như vậy, em khỏi cần giải thích cho ai. Em không làm theo ý nguyện, anh chết không nhắm mắt, làm sao linh hồn siêu thoát? Như thế, em không sợ anh về quấy phá em mãi sao?

Nghe đến đây, thì bà Hoa tái mặt. Bà vốn sợ ma, sợ người chết, sợ bóng tối, sợ sự thiêng liêng. Bây giờ ông chồng còn sống, bà có thể lấn áp, bắt nạt ông được, chứ sau khi ông chết rồi, thì bà phải chịu thua, phải sợ ông. Ông Tư biết tính vợ, nên đem ma quỷ ra mà dọa trước, may ra sau khi ông chết, thì bà chịu theo lời ước nguyện của ông.
Nếu có ai biết ông Tư đang cận kề cái chết mà ái ngại cho ông, thì ông cười vui mà an ủi họ - chứ không phải là họ an ủi ông - rằng, nếu tin theo đạo Chúa, thì khi chết được về thiên đàng, ngồi dưới chân Chúa, sung sướng thế sao mà ai cũng sợ chết? Nếu theo đạo Phật, thì khi chết cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, vĩnh cửu an bình, thì mừng vui chứ sao lại bi ai? Và nếu nói theo đức Đạt Lai Lạt Ma, thì cái xác thân ở trần gian, có thể ví như bộ áo quần ta mang, khi nó đã sờn cũ, xấu xí, rách rưới mục nát rồi, thì nên bỏ đi, mà mang bộ áo quần khác, đại ý nói đi đầu thai kiếp khác, mang thân xác mới hơn. Ông Tư nói với bạn rằng, thân xác ông bây giờ như cái quần đã mục mông, rách đáy, không còn che được cái muốn che, thì phải bỏ đi, không xài nữa là hơn. Bởi vậy, ông bình tỉnh đón chờ cái chết cận kề. Khi biết ông bị ung thư sắp chết, thì phút đầu tiên, ông lặng người đi. Nhưng rất mau sau đó, ông nghĩ ra rằng bây giờ chỉ còn hai con đường để lựa chọn. Một là rầu rĩ bi ai, than thân trách phận, oán thán trời đất, làm cho những ngày ngắn ngủi còn lại trở thành u ám, khổ sở, muộn phiền. Hai là bình tỉnh chấp nhận điều không thể tránh được với thái độ tích cực, lạc quan, vui vẻ. Làm cho những ngày còn lại thành tươi vui, tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Khi ra đi sẽ không có chút tiếc thương vướng bận. Ông chọn con đường sau, nên không buồn bả, không hoang mang, không bi ai. Ông thấy cuộc đời bỗng đáng yêu hơn, đẹp hơn. Ông mở lòng vui vẻ đón nhận từng thời khắc, từng ngày còn lại. Mỗi sáng dậy, ông ca hát nhạc vui, và nói chuyện khôi hài cùng vợ con. Ông cố làm đẹp lòng mọi người, vì ông nghĩ rằng, sau khi nhắm mắt nằm xuống, thì dù có muốn tử tế với những người thân thương, cũng không còn làm được nữa. Ban đầu, vợ con, gia đình, ai cũng ái ngại, nên cư xử tế nhị, dè dặt, gượng nhẹ với ông. Về sau, thấy thái độ bình tỉnh của ông, mọi người quên đi chuyện ông sắp xa lìa cõi đời nầy, mà cư xử với ông không khác gì người bình thường. Đôi khi bị vợ gắt gỏng, bị con giận hờn, bị bạn bè to tiếng, ông không buồn giận, mà cảm thấy tức cười, và thấy thương họ hơn.

Ông Tư dặn thêm vợ rằng đừng đăng báo, không đăng cáo phó gì cả. Đừng làm rộn, bận trí bà con gần xa, buộc họ phải thăm viếng. Không nên để phiền ai phúng điếu chia buồn. Ông đưa tờ báo cho bà, và nói:
- Em nhìn vào mấy cái cáo phó nầy đây, đọc thấy buồn cười : Chúng tôi đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc: Ông Nguyễn Văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày , tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi... Được Chúa gọi thì phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin ? Về với Chúa là khổ lắm sao? Có đi tù cải tạo đâu mà đau buồn? Đáng ra phải cáo phó bằng câu : "Chúng tôi hoan hỉ báo tin cùng thân bằng quyến thuộc rằng, Ông Nguyễn văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày, tháng, năm,...". Và đây, một cáo phó khác, cũng "khóc báo" với thân bằng quyến thuộc là thân nhân chúng tôi đã về cõi Phật. Về cõi ma vương quỷ sứ mới khóc báo, chứ về cõi Phật, sướng quá, mà khóc cái nỗi gì?

Bà Hoa nhăn mặt nói:
- Anh đừng chi li bắt bẻ từng câu từng chữ . Đó là một lối nói thôi. Vì có ai biết chắc đi về đâu mà dám vui, buồn. Nhưng cứ cho là về thiên đàng, cực lạc, về với Chúa Phật, cho người sống an lòng. Không lẽ báo tin ông nội tôi được quỷ sứ rước đi rồi. Dù sống có gian ác đến đâu, khi chết cũng có quyền hy vọng về nơi lạc phúc, bình an.
Ông Tư lắc đầu nói tiếp :
- Em có thấy ông cụ Trương nằm liệt giường hai năm, không cử động được, như bị hành hình, cả nhà lao đao lận đận chăm sóc. Hai vợ chồng bác Thu con cụ, vì khổ nhọc quá, gây gỗ nhau, gia đình suýt tan vỡ. Khi cụ mất, cả nhà thở phào sung sướng cho cụ, và cho mọi người trong gia đình. Thế mà khi cáo phó, cũng đau đớn báo tin. Bà con bạn bè đăng báo chia buồn, cũng là vô cùng thương tiếc, vô cùng đau đớn. Tang gia mừng, mà bà con lại chia buồn. Bà con muốn cụ nằm đó mãi, để khổ thân cụ, khổ con cháu cụ lâu dài hơn nữa hay sao? Hay là họ không phải khổ cực chăm sóc cụ, không phải đau lòng khi thấy cụ nằm liệt ra đó, nên cụ chết họ buồn đau? Bỡi thế, khi anh chết, anh không muốn cáo phó, không muốn ai phân ưu chia buồn. Chết cũng là một tiến trình của tự nhiên của trời đất, thì có chi mà phân ưu, chia buồn. Có ai sống mãi được?
Bà Hoa không đồng ý, nói lớn:
- Mất mát nào mà không đau buồn? Dù biết chắc rằng, ông cụ Trương chết là thoát được khổ đau đang hành hạ. Nhưng khi cụ mất, cả nhà cũng buồn vì mất cụ, mà vui vì cất đi được gánh nặng, bớt được mối thương tâm khi thấy người thân yêu của mình khổ cực nằm đó.
- Thế thì khi cụ mất, chắc chắn cả nhà vui nhiều hơn buồn, mừng nhiều hơn tiếc. Không ai dám nói mừng khi thấy thân nhân mình chết, vì sợ thiên hạ hiểu lầm, tiếu đàm. Thế thì đừng giả dối, nói là đau đớn, tiếc thương, mất mát. Mất cái gì mới ngại, chứ mất cái khổ đau hành hạ, thì cầu cho mất sớm, mất đi càng nhiều càng mau, càng tốt. Anh nghe nói người Lào có quan niệm rất hay về lẽ sống sự chết. Khi trong gia đình có người chết, họ không bao giờ khóc lóc rầu rĩ, mà bình tỉnh an nhiên, chắc rằng họ đã thấm nhuần cái lẽ thâm sâu của Phật giáo, biết chết là giải thoát, rũ sạch nợ đời.
Bà Hoa hỏi:
- Hay là đời sống dân họ đau khổ lầm than quá, nên chết đi là khỏe chăng? Chết là hết lo cơm áo, khỏi đói khát bệnh tật?

Bà Hoa nghĩ là ông Tư không thương bà đủ nhiều, nên cứ thản nhiên trước cái chết cận kề. Bà không biết làm sao chịu nỗi cảnh cô đơn khi sống thiếu ông trên đời. Ông Tư thường nói với bạn bè rằng, rồi ai cũng phải chết. Không chết sớm thì chết muộn. Không chết lúc ba bốn mươi, thì bảy tám chín chục tuổi cũng phải chết. Cuộc đời, có thể ví như một đêm, không đi ngủ lúc chín mười giờ, thì mười hai giờ, một giờ sáng cũng phải đi ngủ. Nếu đêm không vui, thì tội gì không đi ngủ sớm cho khỏe, mà phải thức để nỗi buồn gặm nhấm. Nếu đêm nay đau răng thì cố thức làm gì, ngủ sớm đi mà quên đau. Nhiều người sống với thái độ như sẽ không bao giờ chết, cho nên tích tụ của cải, bao nhiêu cũng không vừa, làm nhiều điều không đúng, không phải. Bỡi vậy , khi biết mình sắp chết, thì hốt hoảng khóc lóc, bi ai, mà vẫn không tránh được. Nhiều vị vua chúa đời xưa cũng muốn sống đời, nên uồng thuốc trường sinh, mà ngộ độc chết sớm. Còn gia đình, thì thời gian đầu thấy thiếu vắng, mất mát, nhưng rồi sau cũng quen dần, vì phải lo lắng nhiều công việc khác trong một cuộc sống bình thường, không còn có thì giờ mà tiếc thương, mà bi ai. Phần người chết, buông tay là xong tất cả, bình yên vĩnh viễn. Không còn phải lo công việc làm ăn, lo cơm áo gạo tiền, không còn lo làm giàu, lo tích trữ của cải, không còn ghen tuông, giận hờn, không còn phải thức khuya học hành, hoặc viết văn làm thơ mệt nhọc, không còn theo đuổi mộng lớn mộng bé, không ưu tư dằn vặt vì thời thế, vì đất nước, quê hương... Bỏ hết. Tất cả cũng chỉ là tro bụi. Thiên hạ còn ngưỡng mộ, còn khen ngợi những anh hùng liệt sĩ trong lịch sử, nhưng chính các người nầy có còn biết gì nữa đâu? Cũng là một mớ xương khô mục nát, đâu có nghe, có cảm xúc, hân hoan, vui thú gì. Có ca ngợi, nhắc nhở thì để các thế hệ con cháu về sau noi gương người đi trước mà dìn giữ quê hương, mà sống cho đàng hoàng, cho nên người, đừng làm việc xấu xa đê tiện.

Ông Tư dặn vợ làm một đám tang đơn giản, không mở nắp hòm cho bạn bè thăm viếng nhìn mặt. Hát nhạc vui trong tang lễ, không khóc lóc, mà vui cười tự nhiên. Sau khi thiêu xong thì gởi tro xương về quê nhà, đừng xây mộ, đừng đắp bia. Bà Hoa thì chỉ muốn làm giống như tất cả mọi người. Ai làm sao mình làm vậy trong khả năng tài chánh của gia đình. Bà không muốn làm khác ai, để họ có thể nghị dị, bàn ra nói vào, thêm thắt thêu dệt. Nhưng bà cũng không nỡ từ chối ước nguyện cuối cùng của ông. Hai người con của ông bà, đứa con gái đầu thì tán thành, muốn làm theo ý kiến cũa bố, đứa con trai phản đối, vì sợ thiên hạ chê cười. Ông nói với con : Con nên vì bố, không nên vì thiên hạ. Ông Tư xin nghỉ việc, đi thăm bà con họ hàng, đến đâu ông cũng nói chuyện khôi hài, vui vẻ, nồng nàn với bạn bè bà con, thức đêm, uống rượu, hát hò, ngâm thơ, ăn uống không kiêng cữ. Theo ông, thì kiêng cũng chết, mà không kiêng cũng chết, chết sớm hơn vài tháng, vài tuần, cũng chẵng nghĩa lý gì. Còn chẵng bao lâu nữa, kiêng cử làm chi cho khổ thân, cho đời mất đi một phần ý vị. Ông cho rằng, đã sống đến trên năm mươi tuổi là quá lời, quá đủ, không có gì để nuối tiếc. Thấy ông tươi vui, người biết ông có bệnh sắp chết, cũng quên mất là ông đang bệnh, người không biết bệnh trạng của ông, thì ông cũng không muốn nói ra làm gì. Ông đưa bà và hai con đi chơi một chuyến trên du thuyền. Ông tham gia các cuộc chơi tập thể trên du thuyền như hát hò, nhảy múa ca hát, tham gia các buổi hòa nhạc, uống rượu, cho đến khi mãn cuộc. Ông vui vẻ, bình tĩnh đến nỗi nhiều khi bà quên mất là vợ chồng không còn bên nhau bao lâu nữa.

Ông Tư chuẩn bị tinh thần cho vợ, cho con, để chấp nhận một sự thực không tránh được. Chấp nhận với sự bình tỉnh, sáng suốt, không vui vẻ nhưng không bi ai. Có người nói cho ông Tư nghe về kinh nghiệm của những kẽ đã chết thật rồi, mà sống lại nhờ sự mầu nhiệm nào đó. Rằng khi chết, thì thấy mình đi vào một vùng ánh sáng lạ, rất hân hoan sung sướng, khoái cảm tràn trề. Bỡi vậy, nên người đã trãi qua cận tử, thì không cón sợ chết nữa, mà đón nhận như là một ân huệ của trời đất. Ông Tư không tin chuyện cận tử, vì ông vốn con người thực tế và lý trí, cái gì chưa kiểm nghiệm được thì chưa tin. Nhưng cho rằng, nếu được như vậy thì càng tốt. Nếu không được vậy, thì cũng thôi.
Cuộc đời ông Tư đã trãi qua nhiều giai đoạn sướng khổ. Chưa xong đại học thì bị kêu đi lính, tham dự những trận chiến kinh hoàng, ngày đêm trấn đóng nơi ma thiêng nước độc, đã từng bị bắt làm tù binh, đã vượt ngục. Khi miền Nam thua trận, phải đi tù nhiều năm. Đã sống trong chế độ hà khắc kìm khớp, bữa đói bữa no. Đã đi qua biển tìm tự do. Và ước nguyện rằng, được sống thêm một ngày trong xứ tự do, thì có chết cũng không có gì ø tiếc nuối. Thế mà ông đã sống thêm được nhiều năm trong một xã hội có tự do, dân chủ. Con người được pháp luật bảo vệ, tôn trọng. Ông biết ơn trời đất đã cho ông cái phần thưởng vô cùng quý giá đó trong nhiều năm qua.
Ông Tư chỉ là một người bình thường, có đủ cả tốt xấu. Có chút rượu chè, nhưng không ghiền và say sưa. Khi vui bạn vui bè, thì ai đến đâu, ông đến đó. Ông hòa đồng cùng đám đông. Thỉnh thoảng ăn nhậu cùng bạn bè, nói chuyện trời đất, vui chơi. Cờ bạc ông cũng có chút chút, từ xì phé, bài cào, cờ tướng, cờ vua, đi sòng bài. Nhiều khi ông xoa mạt chược cùng bạn bè, một mạch từ sáng thứ bảy cho đến chiều chủ nhật mới thôi, ai về nhà nấy để chuẩn bị cho ngày đi làm vào thứ hai. Ông không mê, không lậm, biết dừng lại đúng lúc, không phải khi thua cờ bạc thì nóng mặt cố gỡ, và gỡ cho đến bán nhà. Trai gái ông cũng có, nhưng không làm hại đến ai, biết giới hạn của cuộc chơi. Không làm khổ vợ con, không gây khổ đau cho người khác phái. Thuốc lá, cà phê hàng ngày, ông không ghiền, nhưng cũng không bỏ hút thuốc. Ông Tư còn có chút máu nghệ sĩ . Ông thổi kèn hắc tiêu rất đạt, nên lâu lâu theo người bạn Mỹ gốc Phi Châu đến các hộp đêm thổi kèn chơi, không lấy thù lao. Ông có chân trong một ban nhạc tài tử, lâu lâu đi trình diễn ở các nơi công cọng. Ông Tư có sáng tác vài bản nhạc, nhưng không ai hát, và hát không ai nghe, không ai khen, nên ông không sáng tác nữa. Ông Tư cũng thích đọc truyện, đọc thơ. Ông cũng có làm thơ, nhưng bà Hoa là vợ ông, khuyên đừng để cho ai biết những bài thơ đó do ông viết, vì người sợ người ta cười lây cả bà. Ông nghe vợ chê, nãn lòng, không muốn làm thơ nữa. Tuy nhiên, có nhiều khi cao hứng, không cầm được cảm xúc, ông cũng làm thơ chơi, và dấu kín, vì sợ vợ đọc được chê bai.

Một người bạn của ông Tư cũng thích thơ phú, thường cùng ông ngâm vịnh khi nhàn tản, một hôm nghe ông nói về quan niệm cuộc đời, lẽ sống và cái chết. Ông nầy ngồi nghe mà đờ ra, và nói:
- Bác chờ chút, tôi lục tìm bài thơ của một ông bạn tôi, sao mà ý tưởng của bác với ông kia trùng nhau, như cùng học một sách. Kỳ lạ ghê. Lần đầu đọc bài thơ nầy, tôi khoái quá, phải xin ông bạn cho tôi mượn, chạy ra phố, chụp lấy một bản, còn cất giữ đây.
Ông Tư cầm lấy bài thơ dài, vừa đọc vừa gật gù, đọc xong ông vỗ đùi sung sướng, nói:
- Tuyệt. Hoàn toàn giống hệt suy nghĩ của tôi. Bác đem tôi đến giới thiệu tác giả bài thơ nầy đi. Bác xem đấy, đâu phải một mình tôi suy nghĩ khác đời đâu. Có nhiều người cùng một ý nghĩ, nhưng không dám nói ra, không dám thi hành. Đúng như cụ Nguyễn Công Trứ có viết là chỗ ta ngồi hiện tại, người xưa đã ngồi rồi. Tôi dốt chữ Hán, nhớ mang máng hình như là Ngã kim nhật tại tọa chi địa, cổ chi nhân tằn tiện ngã tọa chi . Mấy ông Tây cũng từng viết là dưới ánh mặt trời nầy, không có cái gì mới cả. Những suy nghĩ của tôi về cái chết, sự sống, người xưa cũng đã viết nhiều, tàng ẩn bàng bạc trong kinh Thánh, kinh Phật. Ngày xưa khi còn nhỏ, bố mẹ tôi gởi tôi vào học nội trú trường đạo Thiên Chúa, mỗi ngày mỗi đêm đều đọc kinh Thánh. Hồi đó tôi không hiểu hết ý nghĩa của kinh, tôi tưởng lầm đọc kinh là ngày đêm kêu gào sự xót thương của Chúa. Tuổi trẻ ngu muội và ngông cuồng nên tôi không có cảm tình với chuyện kinh kệ, nhưng khi lớn lên, đọc lại kinh Thánh, tôi thấy hay quá ông ạ. Lời kinh an ủi, vỗ về con người trong khổ đau, trong bước đường hoạn nạn, khi gặp cam go chìm nổi, tìm được yên bình để chịu đựng mà hy vọng qua khỏi nghịch cảnh.

Ông bạn cười, nói:
- Tôi thấy nhà bác thờ Phật, mà lại nói chuyện Chúa rành rẽ. Bác có theo đạo Cao Đài hay không?
- Không phải đạo Cao Đài, nhưng Phật Chúa gì cũng hoan nghênh. Bà xã tôi vẫn thường đi chùa. Ngày xưa khi còn trong quân đội, đóng quân giữa núi rừng, mẹ tôi gởi cho mấy bộ kinh Phật, không có sách vở, báo chí, buồn mà đọc chơi. Không có tâm tu hành, nhưng đọc mãi, nó thấm vào trong tư tưởng lúc nào không hay. Bỡi vậy, tôi có quan niệm rất rõ ràng về sự sống, cái chết, và bình tỉnh đón nhận như một lẽ thường của trời đất, tạo hóa.
Hai người đang nói chuyện, thì có bà bạn ghé chơi. Bà nầy yêu cầu ông Tư và bạn ông đóng tiền để mua đất chôn cất và xây mộ cho một người đồng hương Việt Nam nghèo mới chết. Gia đình không đủ tiền để làm ma chay và mua đất chôn ở nghĩa trang. Ông Tư móc ví, đóng ba chục đồng, và nói:
- Kêu gọi thì tôi đóng tiền, chứ thực tình trong lòng tôi nghĩ khác. Chết thì hỏa thiêu là đẹp nhất, tốt nhất và lại vệ sinh. Chôn xuống đất cho dòi bọ nó rúc rỉa, cho sình thối chứ có được gì. Một vạn cái xác, mới có được một cái không thối rữa, mà cũng khô đét nằm nhăn răng ra, hôi hám xấu xí. Nằm chật chội trong tối tăm âm u, dưới đất lạnh lẽo, chứ có sung sướng gì đâu. Rồi lâu ngày, thịt da cũng rữa, xương cũng mục. Được bao nhiêu năm? Mà cứ nghĩ kỹ xem, nếu mỗi người chết phải có một nấm mồ chừng hai thước vuông, thì trên thế giới nầy từ triệu năm trước đến nay, và nhiều triệu năm sau nữa, tỉ tỉ người đã chết và sẽ chết, lấy đâu ra đất mà chôn. Không lẽ cả thế giới nầy chẵng còn một tấc đất mà trồng trọt, nhịn đói chết hết sao? Nhiều xứ văn minh hiện nay, người ta thiêu xác. Bên Nhật, bên Tàu, Ấn Độ và nhiều xứ khác nữa, người chết được hỏa thiêu. Đạo Phật chính tông, thì các tăng ni đều được hỏa táng, nhưng những người theo đạo Phật nửa vời, thì lại chôn cất. Bày đặt ma chay linh đình cho thêm tốn kém.

Bạn ông Tư hỏi:
- Có phải người theo đạo Chúa không dám hỏa táng? Nghe đâu họ tin có ngày phán xét cuối cùng, và được sống lại. Bởi vậy nên phải giữ thân thể, không muốn thiêu tan thành tro bụi.
Ông Tư cười lớn nói:
- Chờ đến ngày phán xét cuối cùng, thì sắt đá cũng đã mũn ra tro bụi, nói chi đến cái thân xác mong manh? Có lẽ những kẽ mê tín, kém hiểu biết, diễn dịch sai ý nghĩa của kinh Thánh chăng? Mà dù cho xương cốt có còn, thì cũng chỉ là bộ xương cũ mục, làm sao mà sống lại trên bộ xương đó được?
- Nghe đâu các nghĩa trang cũng chỉ bán đất trong vòng một trăm năm thôi- Bà bạn bàn thêm - Sau một trăm năm thì không biết họ có đào lên, đem chôn ở hố tập thể, hoặc đem thiêu đốt đi chăng? Nhưng khi mua đất chôn, thân nhân, không nghe ai nói đến điều nầy. Mà dù cho chủ nghĩa trang có hứa miệng là bán đất vĩnh viễn, thì sau một trăm năm, họ đào bỏ đi, cũng chẵng ai hoài công đi kiện. Lời hứa trăm năm trước con cháu không nghe, không còn chứng cớ, cả người hứa hẹn lẫn người nghe hứa hẹn, đã chết từ lâu. Mà có lẽ con cháu cũng vì lo làm ăn, sinh kế, đi tứ tán, không ai còn đoái hoài chi đến mấy ngôi mộ của tiền nhân trong các nghĩa trang đây đó.
Bạn ông Tư nói:
- Trong phim tài liệu về Tây Tạng, ở đó đạo Phật là quốc giáo, ông Phật sống cai trị dân như vua. Khi có người chết, thì họ quàng dây kéo lê lên núi, sau đó mấy ông chuyên môn chặt xác chết ra nhiều khúc, và ném cho chim kên kên ăn. Trông khiếp lắm. Không biết họ làm như thế, có đau lòng thân nhân? Rõ như câu nguyền rủa ở xứ mình là chim tha quạ rỉa.
- Chẳng có đau lòng chi cả - Ông Tư bàn thêm - Bên đó toàn đá núi cứng. Muốn đào đá ra làm huyệt mộ cũng quá cực khổ. Thân nhân người chết, dẫu có muốn chôn cất đến mấy cũng không ai làm nỗi việc đó. Cho chim ăn là tiện nhất. Có điều, không biết làm sao chim kên kên không lây bệnh người chết, biết bao nhiêu là bệnh nan y, vi trùng, vi khuẩn. Bỡi thế, nên tôi cho hỏa thiêu là sạch sẽ và tiện lợi nhất.

Câu chuyện bàn rộng đến phong trào Việt Kiều về quê xây lăng mộ cho thân nhân, cho tổ tiên, đến nỗi có nhiều làng thi đua xây cất cho nguy nga, cho to lớn. Thấy lăng mộ người khác lớn hơn, thì đập cái cũ ra, xây lại cho lớn, cho đồ sộ hơn. Có nơi người ta đặt tên là Làng Ma, vì toàn cả lăng mộ. Ông Tư cho rằng, xây lại mồ mả cho tổ tiên để báo hiếu, cũng là một hành động tốt, không có chi sai trái. Nhưng thi đua nhau xây và xây cất có tính cách phô trương thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Liệu những phần mộ kia đứng vững được bao nhiêu năm, và còn được con cháu chăm sóc đến bao giờ? Rồi cũng có ngày trở thành hoang phế, chẵng ai đoái hoài đến, mà mục rữa với thời gian. May ra, những nơi thiêng liêng như đền quốc tỗ Hùng Vương, lăng mộ các bậc anh hùng giữ nước, dựng nước, mới được con cháu tiếp tục tu sửa chăm nom. Thế mà cũng có còn tả tơi, tàn tạ, không ai chăm nom. Huống chi mình, là thứ thường dân, vô danh tiểu tốt, chưa làm được gì. Chưa kể những kẽ là tội đồ của dân tộc, bày đặt xây lăng ướp xác, như các ông lảnh tụ cọng sản từ Âu sang Á, từ từ rồi mồ mã cũng bị phá bỏ , san bằng. Bỡi thế, ông Tư dặn vợ con đừng xây mộ, tạc bia cho ông làm chi.
Ông Tư mượn bài thơ của ông bạn về đánh máy và sắp xếp lại cho đẹp, in ra nhiều bản, phóng ra một bản lớn, để dành khi ông chết sẽ sử dụng.

Chỉ bốn tháng, sau khi được báo tin ung thư, ông Tư qua đời mà không đau đớn nhiều, không dùng hóa học trị liệu trước khi chết. Có người mách cho ông nhiều loại thuốc ngoại khoa, ông cũng dùng thử. Trong giới bạn bè thân tình, có người nói là ông Tư đã tự chọn lấy con đường ra đi nhẹ nhàng, không để bệnh hoạn hành hạ trước khi chết. Ông Tư thường đùa rằng, còn nước thì còn tát, biết là dù có tát thì thuyền cũng chìm, thì quẳng gàu đi cho đở mệt trước khi thuyền chìm.
Bà con bạn bè đến viếng tang ông Tư tại nhà, khi bước vào cỗng, họ cố sửa soạn lại bộ mặt cho có vẽ buồn rầu, nghiêm nghị, để hợp với cảnh tang ma, dù trong lòng họ không có chút bi ai nào. Nhưng họ nghe có tiếng nhạc vui đang rộn rã vẵng ra từ bên trong, hòa với tiếng nhạc là tiếng cười vui vang vang, tiếng ồn ào. Người nào cũng giật mình, vội vả xem kỹ lại số nhà, sợ đi lầm .
Vào nhà, mỗi khách viếng tang được phát một tờ giấy màu hồng, bên trên ghi bài thơ Khi Tôi Chết. Bài thơ cũng được chụp phóng lớn, dán trên tấm bảng che kín cả một bức tường. Khách và chủ đang vui vẻ chuyện trò, cười đùa. Không thấy quan tài ông Tư đâu cả. Trên bệ thờ có cái ảnh ông Tư phóng lớn, miệng cười toe toét, tóc bù gió lộng. Trước tấm ảnh có cái hộp vuông chứa tro xương của ông Tư. Tiếng nhạc vui vang vang từ máy hát. Bài thơ in đậm nét:

Khi Tôi Chết

Khi tôi chết, viếng tang đừng buồn bả
Cười cho to, kể chuyện tếu vui đùa,
Trong sáu tấm biết chắc tôi hả dạ,
Lên tinh thần, ấm áp buổi tiển đưa,
Nếu làm biếng, cứ nằm nhà thoải mái
Viếng thăm chi, vài phút có thêm gì?
Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái.
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì.
Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó,
Ai thay da mãi mãi sống trăm đời.
Kẽ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi.
Nếu có khóc, khóc cho người còn lại,
Bỡi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi.
Cũng mất mát, dáng hình, lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời.
Đừng đăng báo, phân ưu lời cáo phó
Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,
Trỗi nhạc vui cho người người ý thức,
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Thì đau buồn hạnh phúc cũng hư không.
Đừng xây mộ, khắc bia ghi tên tuổi
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài.
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đã chết tự sơ khai
Khi tôi chết đừng ma chay đình đám,
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi còn tha thiết chút tình mê
Thì cũng C, H, O, N kết lại
Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì
Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri.

Khi đọc xong bài thơ, có người thì mỉm cười, có người vui hẳn, và nói chuyện oang oang. Họ cho rằng bài thơ đã nói hết ý nguyện của người chết. Người chết không muốn bạn bè buồn rầu, thương tiếc, thì việc chi mà lại làm bộ, gượng gạo tạo ra nét buồn khổ trên mặt. Vợ con người chết cũng không tỏ vẽ buồn rầu, mà cũng không hớn hở. Không một tiếng khóc lóc, thở than. Nhạc vui vẫn dồn dập phát ra từ máy vang dội. Khi khách đã đến chật nhà, và đúng giờ cử hành tang lễ, bà vợ ông Tư và đứa con trai mang áo quần trắng đứng chắp tay bên bàn thờ, cô con gái đứng bên tấm ảnh ông, cầm máy vi âm nhoẻn miệng cười và nói:
-Thưa các cụ, cô bác chú dì, bà con bạn bè thân thiết xa gần, chúng tôi xin cám ơn quý vị đã có lòng đến viếng tang Ba chúng tôi. Tang lễ nầy làm theo ý nguyện của người quá cố. Không làm tang lễ theo tục lệ bình thường, vì sợ trái với ước vọng cuối cùng của Ba chúng tôi. Chúng tôi xin nhận lấy mọi lời trách móc nếu có từ bà con bạn bè. Ba chúng tôi đã bình tĩnh và vui vẻ đón cái chết như một sự trở về không tránh được . Trong những ngày cuối của cuộc đời, Ba chúng tôi rất vui, chuẩn bị kỹ cho gia đình và cho chính ông. Ông đã dặn dò chúng tôi, không nên khóc lóc, không nên buồn rầu, vì sự thực không có chi đáng buồn cả. Ông dặn chúng tôi vặn cuốn băng sau đây cho bà con cô bác nghe.

Người con gái đến bên bàn thờ, bật máy , có tiếng ông Tư cười hăng hắc vui vẻ, làm một số người không cầm được, cũng cười theo. Một vài bà yếu bóng vía sợ xanh mặt. Sau tiếng cười chào, thì có tiếng ông Tư dọc bài thơ dán trên tường, giọng đọc rất chậm rãi, rõ ràng, như đang nói chuyện thủ thỉ với bạn bè. Mọi người im lặng lắng nghe, người thì nghiêm trang, người thì mĩm cười. Giọng Huế của ông Tư đọc chậm và ngân dài những đoạn ông đắc ý : Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó . Ai thay da mãi mãi sống muôn đời, Kẽ trước người sau xếp hàng xuống mộ, biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi. Cuối cùng, có một tràng cười ha ha của ông Tư để chấm dứt bài thơ. Sau bài thơ, có ba ông người Mỹ, hai ông da đen, một ông da trắng, cầm đàn và kèn trỗi lên mấy khúc nhạc vui, các ông nhún nhẫy uốn éo, nhiều lúc dậm chân xuống sàn. Ba ông cùng lúc lắc, làm hàng một, đi quanh phòng khách, như múa lượn trước bàn thờ ông Tư. Những ông nầy, là bạn chơi nhạc với ông Tư tại các quán ca nhạc ban đêm.

Bỗng nhiên, bà chị ông Tư nhào ra, lăn lộn trước bàn thờ mà khóc lóc gào lớn:
- Cậu Tư ơi là cậu Tư. Chúng nó đem cái chết của cậu ra mà bêu rếu họ hàng. Vợ cậu muốn đi lấy chồng sớm nên bày ra cái cảnh chướng tai gai mắt nầy. Con cậu cũng là thứ bất hiếu bất mục, cha chết mà không có một giọt nước mắt, còn cười nói lung tung. Chỉ có tôi là chị câu, thương cậu thật tình thôi, ruột đứt lòng đau, nên khóc than đây.
Ông chồng chạy đến ôm bà kéo ra, và nhỏ nhẹ giãi bày. Bà vùng vằng và càng khóc lớn hơn, xỉ vả bà Tư những câu tục tỉu nặng nề. Bà Tư ôm mặt khóc lóc. Bà chị chồng nói lớn: Mai mốt chúng mày chết, bà đến phóng uế lên hòm chúng mầy. Nhiều người bà con đến phụ ông chồng lôi bà chị ông Tư ra xe chạy đi.

Khách viếng tang lảng ra, và có người lẵng lặng ra về không chào hỏi ai, vì sợ gia quyến ngượng ngùng. Cô con gái ông Tư đứng ra xin lỗi mọi người vì chuyện không may, không vui vừa xẫy ra.
Một bạn thân của ông Tư, quen nhau từ thuỡ trung học, đại diện bà con, đến trước bàn thờ, vỗ vào hộp tro xương, cười ha hả và nói:
- Tư ơi, ông là số một rồi đó, chả có ai bằng ông. Ông hiểu tận tường lẽ huyền vi của tạo hóa. Sống cũng vui, mà chết cũng vui. Sống cũng dám làm, mà chết rồi cũng dám làm, và làm được. Tôi cũng ước mong rằng, sau khi chết, vợ con làm cho tôi một đám tang như thế nầy, thì vô cùng sung sướng. Tưởng ông nói đùa chơi, ai ngờ làm thật.

Một vị mục sư là bạn thân của gia đình, cũng đến trước bàn thờ, và đoan chắc rằng bây giờ ông Tư đã được về với Thiên Chúa. Ông cho rằng thái độ của ông Tư trước cái chết rất sáng suốt, đáng khâm phục, và đáng được mọi người noi theo. Một vị sư già, có bà con họ hàng với ông Tư, đã từng viết nhiều sách Phật và rao giảng đạo từ bi, nói trước linh vị :
- Bần đạo không cần đọc kinh cầu siêu cho thí chủ. Bỡi linh hồn thí chủ đã thực sự siêu thoát trước khi chết. Thí chủ không vướng bận cõi trần, không hệ lụy vào cái thân xác tạm bợ. Thanh thản ra đi như kẽ đi chơi, thong dong, dễ dàng. Thí chủ đã hiểu thấu đáo cái lẽ vô thường trong đạo pháp.

Mọi người ra về, lòng nhẹ nhàng, tưởng như đi trong mơ. Từ phía nhà ông Tư, còn vang vọng nhạc vui đưa tiển đám tang khách.
Sau tang lễ, bà Hoa vợ ông Tư thở phào. Bà vui mừng vì đã làm được đúng lời căn dặn của chồng mà không bị tai tiếng. Bà chỉ sợ tai tiếng thôi. May mắn, đa số bà con đều tán thành nghi thức tang lễ, và nếu không tán thành, họ cũng im lặng, chỉ có bà chị ông Tư gây rắc rối thôi.

Nắm tro xương của ông Tư được vợ con gói kỹ bốn năm lớp, bỏ vào hộp bằng chất nhựa dày, để cho khỏi vỡ, rồi gởi bảo đảm về Việt Nam. Chiếc xe chở hàng của hãng vận chuyển bị tai nạn trên đường ra phi trường. Xe rơi từ cầu xa lộ cao ba từng xuống đất, thùng xe vở nát, hàng hóa tung vung vãi, rách nát, cháy xém. Anh tài xế gảy hết tay chân và xương sống, hấp hối. Người ta đồn rằng anh tài xế buồn vì bị vợ cắm sừng, đã uống rượu say xỉn, không điều khiển được tay lái. Cái hộp tro xương của ông Tư bị rách và cháy xém mất một phần địa chỉ, được gởi lầm đi ngao du qua xứ Nambia bên Phi Châu. Cô con gái ông Tư hỏi tin tức bên nhà hàng ngày, qua liên mạng máy vi tính, về cái hộp tro xương, mãi đến hai ba tháng vẫn chưa nhận được. Bà Hoa viết nhiều thơ khiếu nại hãng chuyên chở. Họ trả lời là sẽ bồi thường cho bà hai trăm sáu mươi tám đồng. Bà Tư khóc lóc, thuê luật sư đâm đơn kiện. Sáu tháng sau, nhờ còn có địa chỉ người gởi, nên cái hộp tro xương được hoàn trả cho gia đình, với ghi chú là không có địa chỉ người nhận. Bà Hoa mừng ôm cái hộp mà khóc ròng.
Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận Việt Nam. Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, thì tấm lòng hoài.

Tràm Cà Mau
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeSun Oct 25, 2015 8:59 pm

Hãy thong thả Sống  Images+(74)

Tạo Nhàn

Tràm Cà Mau

Khi còn trẻ, ông Tư là một người lý tưởng, cầu toàn, bởi vậy, nên khi nào cũng tự dằn vặt khổ sở. Nhìn chung quanh, thấy toàn khuyết điểm, bực mình. Ngay cả đàn bà, con gái, ông chẳng thấy cô nào tạm gọi là đẹp. Cô nào cũng có cái khuyết điểm riêng. Cô thì dung nhan sáng sủa, nhưng dáng đi lúc lắc xiêu vẹo, cô khác giọng nói không được thanh tao, cô khác nữa thì hơi ngu. Ngoài xã hội, thì thấy bất công, tham nhũng, nhiều thiếu sót. Bởi vậy cho nên ông Tư thấy khổ tâm, nghĩ là mình "sinh lầm thế kỷ".
Ðến khi ông Tư được sống chung với cộng sản tại miền Nam Việt Nam sau 1975, ông như người ngủ mê thức dậy, cảm thấy những dằn vặt nội tâm của mình trước đây là điều lố bịch, ngây thơ, tội nghiệp. Bởi sống trong chế độ mới chỉ mong cái xấu xa nó bớt phần xấu đi cũng đã quá mừng, đừng nói chi đến cầu toàn, lý tưởng. Như người tu nhìn thấy bến giác, ông Tư quay hẳn đường lối suy tư, cho hợp lý, hợp tình, nhìn sự vật bằng con mắt thực tiễn hơn, chấp nhận sự vật có mặt trái, mặt phải, có tốt có xấu.
Khi thoát ra được xứ tự do, ông Tư đón nhận cuộc đời với một tinh thần lạc quan, cởi mở, cho nên ông dễ dàng tìm được hạnh phúc chân thực trong cuộc sống mới.

2.
Ðể được nhàn nhã, mỗi ngày ông Tư thức dậy sớm hơn một giờ trước khi rời nhà. Khi đồng hồ báo thức reo, ông cứ tự nhiên nằm nướng trên giường thêm chừng năm mười phút, và để đầu óc thảnh thơi, nghĩ đến một chuyện vui trong ngày hôm trước, hoặc một câu chuyện tiếu lâm, nằm cười một mình, đôi khi ông lay bà dậy, kể cho bà nghe, hai vợ chồng cùng cười. Mở đầu một ngày bằng một miềm vui, bằng nụ cười, ông Tư thấy khỏe khoắn hơn từ tinh thần đến thể xác. Trong lúc thong thả làm việc vệ sinh buổi sáng, ông Tư mở nhạc êm dịu nhẹ nhàng từ chiếc máy hát nhỏ để trên bàn trong phòng tắm. Không việc gì mà gấp gáp, còn nhiều thì giờ chán...
Sau khi vệ sinh xong, ông ngồi vào bàn điểm tâm nhẹ, vừa nghe tin tức buổi sáng, vừa uống trà, với tâm hồn thư thái, tự nhiên. Rồi ra xe đi đến sở. Cứ từ từ mà lái, không việc gì mà gấp gáp, nhanh được vài ba phút mà có thể trễ cả một đời nếu gặp tai nạn. Thói quen đi sớm hơn giờ làm việc chừng mười lăm phút, cho ông có cái nhàn nhã khỏe khoắn hơn những người khác. Cái nhàn và khỏe nó lan tỏa, làm tinh thần cũng như thể xác cảm được cái sảng khoái của trời đất trong một ngày mới chớm. Trong lúc các xe khác nôn nóng, lo lắng trễ giờ, lách qua, chuyển lại, bấm còi, thì ông thản nhiên như ngồi thiền.
Khí hậu thời tiết nào cũng làm ông vui vẻ, sung sướng. Hôm nay trời trong sáng, đẹp đẽ, khí hậu mát mẻ, thì ông mở lòng ra vui đón cái ân huệ của đất trời, ngắm nắng hồng đang ẩn hiện sau đám mây, trên nóc phố, đầu ngọn cây. Nếu trời mù mịt tối thui, mưa gió dầm dề, thì lòng ông cũng mênh mang vui thú, thả cái lãng mạng ra mà hòa cùng mưa gió, ngâm một vài câu thơ, hát một đoạn nhạc. Thấy mưa giăng đẹp như kỷ niệm thơ ấu. Thấy tuyết trắng đẹp như niềm ước mơ. Nắng cũng hân hoan, mưa cũng thú, và bão tuyết cũng vui. Ông biết hòa mình với trời đất với cỏ cây, với hoàn cảnh, để tạo niềm vui cho mỗi ngày. Tiếng nhạc reo vui buổi sáng trong xe như đổ thêm sức sống, tăng niềm tin yêu đời....

3.
Ðúng giờ làm việc, ông Tư nhất định rời tờ báo, bắt tay vào việc. Dù hôm nay công việc có chất chồng, có gấp gáp đến đâu, thì ông vẫn bình tĩnh, lập một bản kê khai thứ tự ưu tiên, việc nào cần làm trước, việc nào làm sau. Cứ từ từ theo đó mà làm, không việc gì phải hốt hoảng. Nếu có công việc khẩn cấp, thì liệu thì giờ mà làm, liệu phương pháp mà theo. Có thì giờ nhiều thì làm kỹ càng hơn, ít thì giờ thì làm sơ sài hơn, ngắn gọn hơn, hoặc yêu cầu gia hạn thời gian hoàn tất. Không phải lo lắng, quýnh quáng. Cũng không chết chóc gì ai. Cũng không ai dám động đến sợi tóc mình. Nếu có ai hỏi tại sao thiếu chi tiết này, thiếu chi tiết kia, thì ông Tư cho biết thời gian giới hạn, chỉ cho phép chừng đó kết quả thôi, không ai có thể làm hơn được. Công việc làm thì cứ từ từ, bình tĩnh làm, hấp tấp thì có khi sai sót và càng mất nhiều thì giờ hơn.
Trong lúc làm việc, nếu thấy mệt nhọc, ông nghỉ ngơi năm ba phút, đi một vòng, thở sâu vài hơi, nói vài câu khôi hài cùng bạn làm việc ... Mỗi ngày có hai lần nghỉ xả hơi, mỗi lần mười lăm phút, ông Tư ra khỏi sở đi bộ vài vòng cho giãn gân giãn cốt, nhìn nắng lung linh trên đầu cây ngọn cỏ. Khi thì đi quanh đường phố, nhìn sinh hoạt thiên hạ; khi thì đi bộ quanh hồ, nhìn hoa nở muôn màu, nhìn nước xanh long lanh trong nắng, có những chiếc thuyền nhàn nhã bơi. Nhìn bầy chim trời ríu rít cả ngàn con chạy theo du khách xin ăn. Nắng trong lành ấm áp, khí trời dịu dàng mát mẻ thông qua buồng phổi, làm cho tinh thần và thể xác thấy mạnh khỏe, khoan khoái. Không một ưu tư lo lắng. Tâm trí thảnh thơi. Mỗi ngày hai lần, mỗi lần mười lăm phút như thân thể được nạp thêm điện, thêm sinh lực.
Khi đi bên hồ, đón nhận một luồng gió mát hây hây, làm sống lại trong ông Tư một miền quê hương yêu dấu, tưởng như mình đang sống tại bên nhà, một ngày đi qua sông Tiền, sông Hậu. Những khi đó, thì trong lòng vang vọng niềm vui, yêu đời hơn, yêu nhân loại hơn, yêu những bạn bè, đồng nghiệp nhiều hơn., nhất là thấy công việc đang làm dễ dàng hơn, thích thú hơn.
Cũng có khi, ông dùng mười lăm phút xả hơi để cùng uống cà phê, bàn chuyện phiếm với bạn bè, ngồi quanh bàn nói chuyện vui vẻ, cười đùa trêu ghẹo nhau. Sau đó, về lại ngồi vào bàn giấy, ông Tư thấy mình sáng suốt và tinh tấn, giải quyết công việc mau hơn, dễ dàng hơn. Nhất là tinh thần thấy thư giản, khoan khoái...

4.
Ông không cần ai khen, cũng không buồn khi bị chê. Không phải ông thiếu tự ái, nhưng ông chấp nhận lời chê như một kinh nghiệm, để thấy mình, soi rọi mình. Mình dở thì người ta chê, cũng là sự thường, không thể dở mà mong được khen. Ông chấp nhận lời chê để thay đổi, để biết rõ mình hơn. Ðối với bạn đồng nghiệp, ông không cần tranh đua hơn thua. Ai muốn tự coi là giỏi hơn ông, ông chấp nhận ngay, không việc gì phải tranh luận, giỏi hay dở là sự việc khá hiển nhiên, nhiều người thấy, không cần phải xác định. Theo ông, thì hơn cũng chẳng được cái khỉ gì, mà thua cũng chẳng thiệt hại chút gì. Việc chi mà tranh hơn thua, nếu có hơn người ta, thì chỉ bị thêm ganh ghét mà thôi. Thua thì không chừng người ta để yên, có ai muốn đá một con chó vô hại làm gì...
Mỗi buổi trưa, ông Tư hoặc đi bộ xuống phố, tìm một quán ăn mới, thưởng thức một món lạ miệng. Thường ông hỏi và yêu cầu dọn cho ông món đặc biệt nhất của quán... Trong khi ăn, ông để ý quan sát chung quanh, từ thực khách đến chủ quán, tìm những đặc điểm, những kỳ dị, và thường thấy tội nghiệp cho nhân sinh, quay quắt trong đời sống, cả đến khi ăn uống cũng không được thảnh thơi, tận hưởng hương vị.
Khi chờ món ăn thì bồn chồn nhìn quanh, lâu lâu liếc mắt về phía bếp, hoặc thấy hầu bàn bưng món ăn ra, nhìn chằm chặp, hy vọng là món ăn của mình.Khi ăn thì cũng gấp gáp, có người như nuốt vội ra đi cho kịp thì giờ, làm cho xong cái bổn phận với bao tử.
Cũng có những buổi trưa, ông Tư ngồi quán có bàn kê bên hè phố, vừa ăn uống vừa nhìn thiên hạ đi qua, nhìn những bà đầm mông vĩ đại như lăng lãnh tụ, những cô con gái kiêng ăn giữ gìn thân thể ốm o như ma đói lảng vảng, những ông Mỹ mông teo rí bụng thì thề lê trong lúc hai vai xuội lơ, những bước chân lóc cóc vội vã, những khuôn mặt chảy xệ vì sức căng của đời sống. Ông Tư muốn thét to lên với mọi người rằng: "Hãy thong thả, buông lỏng tâm trí, tạm gác qua các lo lắng muộn phiền, không tội chi mà phí đi một buổi trưa nắng tươi đẹp đẽ như thế này. Quên đi và vui lên". Ông chỉ nghĩ thầm, không dám thét to, vì sợ người ta cho rằng ông bị bệnh tâm thần. Ông ngồi thong dong nhìn mây bay trong đáy cốc, nhìn hơi cà phê uốn éo như khói sương, gỡ một cánh lá rụng trên bờ vai, nhìn vào xác lá mà như nghe được âm thanh huyền diệu của đất trời. Rồi lửng thửng ra về, nghe nhịp giày nhàn nhã của mình vang vọng trên hè phố.

5.
Cũng có những hôm, ông Tư cùng bạn bè xuống phố ăn chung, gần chục người, kêu một bàn ăn chừng chục món. Ðôi khi còn ngon hơn tiệc tùng, hoặc ăn cưới. Vừa ăn, vừa bàn chuyện trời đất, nắng mưa, toàn chuyện phù phiếm, vui vẻ, mua được những phút thanh thản, quên đời. Có những buổi trưa, trời tốt, ông Tư mua một bao thức ăn, ra công viên, đi dạo cùng một vài bạn Việt Nam, bàn chuyện thời sự, chính trị, văn chương, có khi cao hứng ngâm sang sảng vài ba câu thơ đắc ý. Cứ ngâm to, mặc kệ thiên hạ qua lại, có ai hiểu gì đâu mà ngán. Cũng có khi bên bờ hồ nằm ngửa dưới bóng mát tàng cây, vừa ăn vừa nhìn mây bay, nhìn vòm lá xanh ngắt, nhìn những tàng hoa long lanh trong nắng, nhẹ rung gió vờn, tiếng chim ca líu lo, cảm thấy cái thảm cỏ như tấm nôi êm ngập tràn hạnh phúc, trong lòng sảng khoái thênh thang. Có khi gió hây hây mát, làm mắt nặng trĩu mơ màng, và thiếp đi trong một giấc ngủ ngắn, thật say, thật ngon. Khi tỉnh dậy giật mình biết mình đang nằm trên thảm cỏ, chỉ có năm mười phút chợp mắt mà tưởng như đã ngủ được một giấc dài mấy giờ liền. Nằm lơ mơ nhớ đến giấc mộng mà sảng khoái, rồi lửng thửng ra về. Thấy mình nhàn như tiên, thảnh thơi như thần thánh, nhẹ nhàng như có mọc cánh bay cao.
Ðời sống sao mà dễ thương và quí hóa quá. Tại sao sẵn đây, mà có nhiều người không chịu đón nhận, thụ hưởng, mà lại để cho những mối lo âu, phiền não ám ảnh, làm băng hoại cả một ngày vui. Có chi đâu, hãy tạm gác lại những việc chưa tới và quên đi những bực bội khó khăn đã qua. Gác quá khứ về cho quá khứ, để dành tương lai cho tương lai. Hiện tại không giải quyết được chuyện quá khứ, cũng chưa đến thời điểm để thanh toán chuyện tương lai, thì tạm quên đi. Có được một giờ vui, thì vui đi kẻo uổng ...
Buổi chiều tan việc, ông Tư buông bút, để lại công việc sở tại sở. Quên hết việc sở, không chút vướng bận, không chút âu lo suy nghĩ.
Ông có thói quen không đem việc nhà đến sở, cũng không đem việc sở về nhà. Rõ ràng, phân minh. Ði làm để kiếm sống. Về nhà để sống, để vui thú gia đình, vui với vợ, với con, hướng dẫn cho con học hành trong tinh thần thoải mái, dễ dàng...
Ông đã có con đường tiến thoái rõ ràng, không việc gì phải lo lắng mất công. Tiến, thì cứ cuộc sống này, mà thoái thì thu hẹp cuộc sống lại, bớt chi tiêu, ở cái xứ này, thì không phải sợ đói, sợ lạnh. Cùng quẫn lắm thì ăn cơm thịt gà kho, dưa mắm thì không chừng lại được mạnh khỏe hơn, vệ sinh hơn. Mạch máu bớt nghẹt ứ chất mỡ. Cứ nhìn gương người Lào sống trên đất Mỹ, họ sống chung cả mười mấy người trong chung cư một phòng, cứ trải chiếu ra mà nằm ngủ trên thảm, rau thì trồng xanh tươi trong vùng đất trống của chung cư, nuôi gà làm thịt, đi câu cá chất đầy thùng lạnh. Chỉ tốn tiền mua nếp và muối mà thôi. Mỗi tháng họ chỉ tốn mấy chục đô la là phong lưu không thua ai. Nhưng họ có cái ham là đi xe hơi đắt tiền, xe hơi sang trọng. Và ông nghĩ rằng, ngày mới đến định cư, trên người chỉ có bộ áo quần sờn rách, nghề nghiệp chưa biết ra sao, ăn nói ấm ớ tiếng được tiếng mất, thế mà còn chưa ngán, nay thì đã ăn nói khá thông thạo, nghề nghiệp kinh nghiệm vững vàng, thì sao lại sợ. Người Mỹ có câu rằng "cửa này đóng, thì cửa khác sẽ mở".

6.
Nhiều người lầm tưởng nhàn nhã là sự biếng nhác, trây lười. Tưởng cứ ỳ xác ra, không làm chi cả là nhàn. Nhàn là một trạng thái tâm linh, cảm nhận được sự thanh thoát nhẹ nhàng trong ý nghĩ, trong hành động. Nhàn là cởi được sức căng, sức ép của đời sống tốc độ. Nhàn nhã muốn tìm là có, muốn có là được, nó tiềm tàng trong đời sống, sẵn đó, nhìn thì thấy, mà không để tâm nhìn, thì nó thành xa xôi. Như cụ Nguyễn Công Trứ viết, đại ý rằng, biết đủ thì thấy đủ, biết nhàn thì thấy nhàn.
Không cần phải về hưu mới tìm được nhàn, có nhiều người về hưu rồi mà vẫn thấy bận rộn vô cùng, không có thì giờ để gặp bạn bè, họp mặt anh em, không rảnh rang để viết thư cho ai. Thế thì về hưu làm chi cho bận rộn, cho khổ thân? Không cần vào núi xa vắng vẻ mới tìm được nhàn. Sống ngay tại phố thị, và còn phải mưu sinh, nuôi vợ, nuôi con, bị vợ cằn nhằn, bị con đòi hỏi, muốn nhàn thì vẫn tìm được nhàn. Không cần vào chùa tu, đọc kinh kệ, cứ ở ngay giữa thế gian. Cứ tạo cho mình cái thanh thoát trong ý nghĩ, trong cuộc sống, trong sinh hoạt hàng ngày, sao cho đừng bận rộn với những chuyện chưa tới, và quên đi những bất bình trong quá khứ, có được phút vui nào , có được thời gian ngưng nghỉ nào thì nắm chặt lấy mà khai thác, thì tự nhiên thấy được nhàn.
Ðối với công việc làm ăn, nhiều người ví von rằng, đi làm là "trả nợ áo cơm" hoặc là "đi cày", chỉ mới có cái ý nghĩ đó thôi, dù là nói cho văn vẻ hoặc pha chút khôi hài, thì cũng đã làm cho công việc trở nên nặng nhọc, khó chịu và mất vui. Phần ông Tư thì cảm thấy mỗi ngày còn có sức khỏe, còn có công việc làm thì đã là một nguồn vui lớn. Có khối người chạy vắt giò lên cổ để tìm cho ra một công việc làm mà không có.
Ngoại trừ những khi có hẹn, từ nhiều năm nay, ông Tư không đeo đồng hồ tay, để thấy mình thảnh thơi hơn, nhẹ nhàng hơn. Cứ thấy nắng lên, là trời sáng; thấy tối sập xuống, là hết ngày. Thong dong, khi buồn ngủ thì đi ngủ, ngủ không được thì nằm đọc sách cho đến khi rớt sách thì thôi.

7.
Nếu ý nghĩa của đời sống là đi tìm hạnh phúc chân thực trong kiếp người, và nếu hạnh phúc là những niềm vui nho nhỏ gom góp lại cộng với những sảng khoái của ngày tháng, thời gian, thì có thể nói ông Tư đã đạt được phần nào cái hạnh phúc chân thực mà không phải tốn nhiều công sức, nhiều tiền bạc.

Ai cũng có thể tìm được cái nhàn, cái hạnh phúc chân thực của kiếp sống như ông Tư, thế mà có khối người lãng phí thời gian, lãng phí cơ hội.

Tràm Cà Mau


Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeMon Mar 21, 2016 10:34 am

Hãy thong thả Sống  Cloud-09

Một Giải Mây Mới

Trần Mộng Tú -

Khứ tự triêu vân vô mịch xứ (Bạch Cư Dị)

Viết gửi chị Đào Thị Hợi, hiền thê anh Nguyễn Ngọc Bích.



Anh nhúc nhích người trên ghế, quay sang vợ, muốn nói một câu. Anh không nhớ rõ là mình đã nói xong câu đó chưa, thì một đám mây từ bên ngoài cuồn cuộn luồn qua khe cửa sổ máy bay, lẻn vào. Khi đến gần anh, đám mây tung ra như một tấm chăn rộng, cuốn lấy anh. Anh thấy mình ấm áp, nhẹ tênh và chẳng khác gì con tằm nằm trong kén. Anh xoay nhẹ người một cái, chiếc kén mây đã mang hẳn anh ra ngoài máy bay, thả anh giữa bầu trời bềnh bồng, mênh mông, xanh biếc.

Anh nghe tiếng vợ gọi rối rít: Anh ơi! Anh ơi! Và nhiều tiếng nữa theo sau, nhưng rồi tất cả chỉ còn lại những âm vang u u trong thinh không. Anh cứ thế bay, bay lâu lắm, cái kén mây vẫn ôm chặt thân thể anh. Đi đâu bây giờ nhỉ? Anh cũng không biết nữa. Thậm chí anh không nhớ thêm được điều gì trước đó nữa. Anh nhắm mắt lại hay mở mắt ra cũng thế thôi.

Trong chiếc kén mây này, tất cả như không màu, ngoại trừ bầu trời xanh biếc ngoài kia đang bao bọc chung quanh anh. Anh nhớ đến những phi vụ của các phi hành gia, anh có đi tới chỗ của họ không? Có trở về cùng với họ không? Hình như không thì phải. Anh chẳng nhìn thấy ai mặc những bộ quần áo cồng kềnh với những trang bị để thở cả.

Có một đám người ở đâu đi tới như đón anh, nhưng anh nhìn họ không rõ nét, chỉ thấy quần áo họ như mây tụ lại tan đi, nên họ lúc vắng, lúc đông.

Anh vươn vai một cái, chui đầu ra khỏi cái kén, bây giờ anh cũng giống họ. Nhẹ tênh và bồng bềnh.

Anh bất giác giơ tay đặt lên ngực mình. Ô hay, tại sao tim mình không đập? Anh đưa tay lên ngang mũi, không một hơi thở nào đi vào đi ra nữa. Anh cúi nhìn xuống thật sâu, và thật gần chung quanh mình. Anh không nhìn thấy gì ngoài hai bàn chân, hai bàn tay mình, trống không.

Anh đã bỏ lại tất cả: Vợ, anh em, bạn hữu, những việc làm chung, riêng. Có thật anh bỏ lại không? Hay anh trả lại. Có cái gì thuộc về anh đâu. Anh chẳng sở hữu một điều gì, một vật gì cả.

Anh có nhớ ngàn ngàn trang giấy, anh có nhớ ngàn ngàn dòng chữ. Nhưng anh không nhớ được những dòng chữ trên những trang giấy đó đã chứa đựng những gì.

Bây giờ anh là mây hay là giấy, là gió hay là đất, anh thực sự không biết nữa!

Có một giải mây rất mới bắt đầu uốn lượn trên bầu trời.

Chị đứng đó chơ vơ, chiếc áo quan màu trắng, vòng hoa mầu trắng, chị ngơ ngác trong căn buồng xa lạ, ở một thành phố xa lạ, đất nước xa lạ.

Tai chị nghe tiếng nói mơ hồ nào đó của anh, lúc thật gần, lúc thật xa. Có phải anh đang gọi chị, hay là chính chị đang gọi anh. Người ta bầy vội vã một cái bàn thờ, để bức ảnh của anh lên đó, bức ảnh có mái tóc trắng xóa, trắng như chiếc áo quan ở góc kia, nơi có người bạn trẻ đứng canh giấc ngủ cho anh.

Ngủ một giấc dài cho khỏe đi anh, rồi sáng mai thức dậy cùng ngày mới. Mọi người đang chờ anh, anh có rất nhiều việc để làm, nhớ không?                

Hãy thong thả Sống  Image00

Linh cữu GS Nguyễn Ngọc Bích và hiền thê. Đứng bên trái là Trịnh Hội.
(Hình chụp tại Philippines)                      

Chị vẫn đang nói một mình, chị nói một mình từ lúc anh theo đám mây trôi qua khung cửa máy bay.

Anh đã được trở về thành phố nơi anh chị cư ngụ. Ở đó người thân mang anh đặt vào một chiếc giường gỗ mới, đẹp hơn, và để ở một chỗ không phải là nhà mình, cho thân bằng quyến thuộc nhìn ngắm lần chót.

Anh bay lơ lửng chung quanh cái không gian chật hẹp này. Cái không gian mượn tạm của rất nhiều thân xác.

Thân xác anh nằm trong bốn bức vách chật hẹp nhìn ra, mọi người đang xếp hàng di chuyển chung quanh cái hình hài vô tri đó. Người ta tới ngắm nghía anh, nói thầm một điều gì đó với anh trong ngực họ, họ đi qua anh mà không biết anh đang đi qua họ.

Người ta tới khá đông, anh cúi xuống thấm những giọt nước mắt đang đầm đìa trên khuôn mặt chị, hít hà hương thơm của những cây nhang nghi ngút khói, chạm tay vào những bông hoa mọi người mang tới tặng cho mình lần cuối. Chao ôi! Sao nhiều hoa thế, trước kia anh chưa hề được tặng hoa nhiều như thế này. Hóa ra người ta thường tặng hoa thật nhiều cho nhau khi người được tặng không còn khả năng thưởng thức, lạ nhỉ!

Anh nghe tiếng tụng niệm, anh nghe lời phân ưu, tiếng mõ, tiếng kinh, tất cả những tiếng động nho nhỏ đó, đối với anh đều mang âm điệu của gió. Đến, ngưng lại, rồi bay đi.

Tình yêu, hương, hoa và nước mắt ơi! Hãy bay đi, bay đi, bay đi, cùng với giải mây này.

Chị hỏi đi hỏi lại, tại sao anh đi nhanh như thế?

Anh đi nhanh như thế vì mây cuốn anh đi và anh đã chập vào những đám mây bên ngoài kia, trong bầu trời kia, thành một giải mây mới.

Những giải mây bay bao giờ cũng đẹp. Vì nơi nó về là vô định.

(Khứ tự triêu vân vô mịch xứ)

Thôi, chị đừng hỏi nữa, mỗi khi nhớ tới anh, chị hãy chạy ra sân, kéo xuống, ôm vào lòng mình một giải mây mới nhất.

Trần Mộng Tú
3/17/2016
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeSat Jun 09, 2018 12:38 pm

 Hãy thong thả Sống  80


Viết Cho Ngày Lên Tám… Mươi
Tạp Ghi Huy Phương


“Cha mẹ già đã khuất núi,
Quê hương đã thất lạc,
Mộng ước đã tàn phai!”
(Bùi Bích Hà)

Sống đến bao nhiêu tuổi thì được gọi là thọ? Người xưa quy định 80 được coi như là thượng thọ, vì ít ai sống đến tuổi này, vì ngay tuổi 70 xưa nay cũng đã rất hiếm rồi.

Tháng Mười, 1924, sau chuyến công du sang Pháp dự hội chợ thuộc địa Marseille, vua Khải Định đã tổ chức lễ tứ tuần Đại Khánh rất long trọng và tốn kém, để mừng mình đến tuổi 40, nhưng chưa thêm được tuổi nào, thì chưa đầy một năm sau, nhà vua bị bệnh nặng mà băng hà, hưởng dương 40 tuổi. Trong sách vở đều ghi là hưởng thọ! Có lẽ là vua thì đặc cách được hưởng thọ thay vì hưởng dương chăng?

Người xưa, như ông Bạch Cư Dị cũng mới đến tuổi 40 cũng đã lấy làm mừng, khi thấy trong làng có người khóc chồng chết mới có 25 tuổi, có nhà khóc con chết chỉ mới 17, 18. “Dư kim quá tứ thập/ Niệm bỉ liêu tự duyệt!” (Ta nay đã tuổi bốn mươi/ Chuyện đời nghĩ lại cũng nguôi tấm lòng!) Văn Khốc Giả (Nghe Người Khóc).
Ở tuổi 50, ông Khổng Tử đã nói “Ngũ thập tri thiên mệnh!”
Ông Đỗ Phủ thì lại có thơ rằng: “Thấp thập cổ lai hy!” (Tuổi 70 xưa nay hiếm có!).

Khổng Tử có nói một câu về những người đến tuổi 70: “Thất thập nhi tùy tâm sở dục” (Người đến tuổi bảy mươi muốn làm gì làm!).
Cụ Khổng ơi! Đến tuổi này thì có người đã trở lại như con trẻ còn mặc tã, nằm một chỗ, không đi đứng được, ăn phải có người đút, áo quần phải có người thay, việc vệ sinh phải có người giúp đỡ, còn chi là “tùy tâm sở dục.”

Có lẽ cụ muốn nói đến một mặt khác, đến tuổi 70 muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm, muốn ăn uống gì thì tùy thích, không còn dành dụm (cho ai), cũng không còn kiêng khem gì cho nhọc xác! Cũng đừng chuyển chủ quyền nhà cho con, không khéo ra nằm đường lúc nào không hay!

Nhưng cũng đừng ỷ tuổi già mà làm điều thất thố, ít ai dùng lời nặng mà mắng trẻ con lầm lạc, mà thường hay xách mé gọi ông già sai quậy là “già dịch,” “già lựu đạn,” “già mất nết!” Cho nên về già mà giữ được phẩm giá mình còn khó khăn hơn lúc trẻ.

Trong quan niệm truyền thống của người Trung Hoa, “Thọ” đứng đầu trong năm thứ phúc, người đời ai cũng mong thọ, y phục thêu chữ “Thọ,” gối nằm thêu chữ “Thọ,” chăn đắp thêu chữ “Thọ,” cây đòn tay nhà cũng có khắc chữ “Thọ,” bức bình phong trước nhà cũng xây chữ “Thọ,” gặp nhau ai cũng chúc chữ “Thọ.”

Nhưng sao người xưa lại gọi “Đa thọ là đa nhục!” Nhục không phải vì bị ai xúc phạm tinh thần hay thân thể, mà nhục vì thân thể yếu đuối, không làm chủ được mình, có khi không tự lo chuyện vệ sinh được cho mình, phải nhờ cậy đến người khác, đôi khi lại bị khinh bỉ, thậm chí bị chửi rủa, coi thường như số phận những người già nhớ nhớ quên quên trong nhà dưỡng lão!
Càng già nỗi buồn càng tăng:
“Mối sầu như tóc bạc/ Càng cắt càng dài ra!”
(Phan Khôi).

Bởi vậy nên mong không bệnh hơn là mong sống lâu. Vậy mà gặp ai cũng chúc thọ, kiểu “Sống lâu trăm tuổi!” Sống lâu 100 tuổi mà quanh quẩn từ “nursing home” đến nhà “hospice care” thì ai mà muốn sống!

Nhà văn Bùi Bảo Trúc ra đi lúc 73 tuổi, thiên hạ cho rằng đây là một cái chết trẻ, quá vội vàng, nhưng sao bà Hạnh Nhơn, người đứng đầu một hội thiện nguyện giúp cho thương phế binh VNCH, mất năm 90 tuổi, mà người ta vẫn thương tiếc, nghĩ giá mà bà sống thêm được vài năm nữa!

Vấn đề là sống như thế nào, hay sống mà người đời coi như đã chết! Mà cái chết không có định kỳ, không có giới hạn. Bao nhiêu tuổi là thọ, mà bao nhiêu tuổi là chết yểu?

Được chết như nhà báo Vũ Ánh, vừa gửi bài viết đi xong là ngã xuống; chết như nhà văn Bùi Bảo Trúc, đang giờ phát thanh mà nghẹn lời; chết như Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích đang trên đường đi họp chuyện Biển Đông mà tim ngừng đập, không khác gì cái chết như người lính xông xáo giữa trận tiền, chưa bắn hết băng đạn, nòng súng đang bốc khói trên tay. Người ta gọi đó là chết vì công vụ, hay chết lúc còn sống, chứ không phải chết khi đã chết, là “chết lâm sàng!”

Tuần lễ này người viết lên tuổi tám… mươi.
Sướng chưa! “Một sợi râu là một xâu bánh!”

Tuổi 80 đã được xếp vào loại “thượng thọ.” Rồi đây trên cáo phó, chia buồn trước cái tên mình có thêm hai chữ “Cụ Ông” trang trọng. Vậy mà cứ tưởng mình còn trẻ như ngày xưa, “đừng gọi Anh bằng Chú,” không lẽ giờ lại nói: “Đừng gọi Anh bằng Cụ Ông, tội nghiệp nghe em!”

Qua chiến tranh, tù đày, chiến hữu, bạn bè, con cái nằm lại trên rừng dưới biển, phần mình lưu lạc quê người, may mắn còn sống đến tuổi 80 có gì đâu mà vinh dự. Được sống càng lâu, càng thấm buồn.

“Ngoảnh lại trước, người xưa vắng vẻ
Trông về sau, quạnh quẽ người sau
Ngẫm hay trời đất dài lâu
Mình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan.”
(Bài Ca Lên Đài U Châu của Trần Tử Ngang
- Trần Trọng San dịch)

Huy Phương

Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeSun Jul 15, 2018 11:00 am

Hãy thong thả Sống  Bi%25CC%2580nh

Xin Một Chút Bình Yên
- Tạp Ghi Huy Phương


Trong cuộc đời này chúng ta ai cũng muốn được sống hạnh phúc và chết bình yên. Sống hạnh phúc thì ai cũng đã biết, và đôi khi hạnh phúc chỉ có nghĩa tương đối của nó. Cơm rau cũng là hạnh phúc. Ðói rách cũng có thể thấy hạnh phúc. Trong tuổi già, chúng ta còn được sống trong tiện nghi, no đủ nhưng cùng tuổi chúng ta có những ông bà cụ già còn còng lưng mò ốc trên bến sông hay mưu sinh bằng mớ rau, nải chuối giữa buổi chợ chiều, còn phút giây nào nghĩ đến sự ốm đau, mỏi mệt và cũng không còn biết đến hạnh phúc là gì, ý nghĩa của nó ra sao?

Chết bình yên thì ai cũng mong muốn nhưng mấy người được toại nguyện.

Chúng tôi, những ông bạn già, ít có cơ hội lui tới gặp nhau, nhưng lại thường hay gặp nhau trong nhà quàn để tiễn đưa bằng hữu, nhất là vào những ngày cuối năm. Qua câu chuyện vãn, ai cũng có một điều mong muốn, là nếu khi ra đi, ước chi được ra đi trong bình yên, thanh thản, không phải nằm lâu trên giường bệnh, khổ cho người thân mà cũng đau đớn cho thân mình.

Tôi có một người bạn gốc thầy giáo nhưng rất thích chơi thể thao. Buổi trưa, từ sân banh về, anh đến nhà học trò dạy kèm tại gia. Thấy thầy đầu gục trên bàn, người trong nhà tưởng thầy mệt mỏi ngủ gục, thương thầy, bảo nhau im lặng kẻo sợ phá giấc của thầy. Ðến chiều không thấy thầy dậy, học trò lay thức thầy, mới biết anh đã hôn mê. Chở vào bệnh viện thì đã quá trễ, từ đó anh bị liệt toàn thân, không nói năng được. Anh đã nằm trên giường bệnh, vệ sinh tại chỗ, ăn uống phải có người chăm sóc như thế trong vòng hai mươi năm tròn. Bạn bè xuất ngoại năm, mười năm trở về vẫn thấy anh nằm liệt trên giường, da bọc xương, lở loét, giữa mùa nóng Saigon, trong căn nhà nhỏ sức nóng từ mái tôn xuống hừng hực. Khổ nỗi con cái anh lại không được may mắn học hành, phải làm những nghề tay chân vất vả, nên cuộc sống của người bệnh lại càng bi đát hơn. Người vợ, cũng là một cô giáo bỏ hết thời xuân sắc bên giường bệnh của chồng, chỉ còn là một xác ve khốn khổ. Năm ngoái, nghe tin anh qua đời, lòng thoáng buồn đôi chút nhưng quả thực mừng cho anh giải thoát ra đi, còn sống, không chỉ khổ cho thân anh, mà còn khổ cho gia đình vốn đã nghèo đói vất vả.

Ở trên đất Mỹ, trong một đất nước mà người cao niên được chăm sóc và thuốc men cũng đã có những người bệnh nằm trên giường hai ba năm với những dây nhợ, dụng cụ trợ sinh trên người mà không được chết. Và trong nursing home, đã có những ông bà cụ già chọn nơi này là ngôi nhà cuối cùng, đã ở đây trong một thời gian quá dài, có người đến mười năm mà Trời chưa gọi cho ra đi. Gần đây báo chí lại đưa tin, tại một nhà dưỡng lão ở Laguna Woods, California, ông cụ William McDougall, 81 tuổi, vì giận dữ với người bạn cùng phòng, đã dùng gậy sắt đánh chết một ông cụ người Việt, 94 tuổi. Cũng mới đây thôi, cũng tại một nursing home, một cụ ông đã kết liễu đời vợ mình bằng một phát súng ân huệ “để cho nàng khỏi khổ”. Ở Mỹ, có nhiều trăm ngàn người cao niên trong nhà dưỡng lão, rất dễ thiệt mạng vì sự chăm sóc bất cẩn, cũng như theo một bản báo cáo của University of Kentucky cho biết là chỉ trong thời gian một năm thôi, dịch vụ bảo vệ người già đã điều tra trên toàn quốc, có 461,135 vụ tố cáo về vấn đề ngược đãi và hành hạ người cao niên, bao gồm những vụ gây tổn thương về thể lý và tinh thần, lẫn xâm phạm tình dục.

Tôi vừa đi thăm một vị sư già mới vào nursing home được hai hôm. Ông than thở với tôi, lần đầu tiên, cảm thấy thế nào là nhà dưỡng lão: Sáng nay mới sáu giờ sáng hai cô y tá đã đem ông vào phòng tắm “dội nước lạnh ngắt, kỳ cọ và nhồi ông như trái banh”. Ðó chỉ mới là ngày đầu, ông chưa nếm mùi bị đánh đập, chọc ghẹo hay hắt hủi thường xảy ra ở những nơi như thế này. Nhà dưỡng lão cũng không phải là nơi làm việc lương cao, thoải mái khi nhân viên phải tiếp cận với những bệnh nhân lú lẫn, bẳn tính, khó chịu. Chúng ta, con cái ruột thịt, có khi không còn kiên nhẫn, chịu khó đối với cha mẹ, trách chi những “người dưng, nước lã”.

Ngày nay những chốn này không phải là địa ngục dành riêng cho tuổi già. Một lớp tuổi trẻ hơn từ 30 đến 65 tuổi cũng đang sống trong nhà dưỡng lão vì những chứng bệnh không tự săn sóc được như bệnh thận, tiểu đường, tâm thần và cũng vì lý do ngân sách y tế không còn đủ cho những dịch vụ săn sóc tại gia tốn kém hơn là ở trong những nhà dưỡng lão. Như vậy những ngày cuối cuộc đời của nhiều người sẽ kéo dài thời gian hơn, không phải chỉ vài ba năm mà có thể mười, hai mươi năm như hoàn cảnh người bạn cũ của tôi ở đầu bài hôm nay.

Thông thường, khi nghe một người bạn vừa qua đời đột ngột, chúng ta thường thở dài, tỏ lòng thương tiếc: “Mới gặp hôm qua đây!”, “Mới cười cười, nói nói đây!” hay “Sao chết đột ngột như thế!” Nên mừng cho bạn bè đã ra đi bình yên, thanh thản, hơn là xót xa thấy cha mẹ, thân thuộc hay bạn bè lặng lẽ, u sầu kéo dài những ngày vô vị, chán chường trên giường bệnh, sống cũng như đã chết.

Bây giờ là thời gian của những ngày lễ cuối năm, nhiều ngôi nhà đã bắt đầu giăng đèn kết hoa, thương xá rộn ràng tấp nập đông người mua bán. Những cánh cửa chờ được mở ra để đón người thân về sum họp, những đứa trẻ chờ đợi niềm vui với món quà đầy màu sắc nặng trên tay, nhưng những bậc cha mẹ già trong nhà dưỡng lão sẽ không có cơ hội trở về. Mấy hôm nay, giữa đêm trời lạnh người ta chịu xếp hàng để mua một vài món hàng sale, cần thiết hay chẳng hề cần thiết gì cho đời sống này, thì những người khác không còn gì để mong đợi, mà cũng chẳng còn gì để thiết tha.

Sắp đến năm mới, theo thông lệ, người ta thường chúc người “sống lâu trăm tuổi, đầu bạc răng long”, sống lâu đến trăm tuổi thọ, mà năm, mười năm nằm trên giường bệnh thì đó đâu gọi là sống. Cứ nghĩ đến một này kia mình không còn lái được chiếc xe để tự đi đây đi đó, phải nhờ đến con cháu, đã là một sự kinh hoàng rồi, nói gì đến chuyện phải n
m trên giường bệnh, hay ngồi trên xe lăn, không còn lo được cả việc vệ sinh cá nhân cho chính mình, thật là một chuyện đau khổ.

Dù đời sống có là hạnh phúc hay không, xin cho người được một cái chết bình yên, cuộc sống ngắn hay dài không có điều chi đáng kể.

Huy Phương
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeSat Sep 08, 2018 12:28 pm

Hãy thong thả Sống  Hien-tai-chinh-la-uoc-mo-ma-ban-tung-huong-toi-hay-de-trai-tim-tro-ve-luc-ban-dau-hinh-anh

Hãy sống trọn vẹn từng phút giây 


Trong một buổi diễn thuyết vào đầu năm học, Brian Dison - tổng giám đốc của tập đoàn Coca Cola đã nói chuyện với sinh viên về mối tương quan giữa nghề nghiệp với những trách nhiệm khác của con người.

Cuộc đời như một trò chơi tung hứng. Trong tay bạn có năm quả bóng mang tên: công việc, gia đình, sức khỏe, bạn bè và tinh thần.
Công việc là một quả bóng cao su, khi bạn làm rơi xuống đất nó sẽ nẩy lên lại.
Nhưng còn bốn quả bóng kia đều là những quả bóng thủy tinh.
Nếu bạn lỡ tay đánh rơi, chúng sẽ bị trầy xước, có tỳ vết, bị nứt, hư hỏng hoặc thậm chí bị vỡ mà không thể sửa chữa được. Chúng không bao giờ trở lại như cũ. Bạn hãy hiểu điều đó để cố gắng phấn đấu giữ sự quân bình trong cuộc sống của bạn.

Phải làm thế nào đây?

- Bạn đừng tự hạ thấp giá trị của mình bằng cách so sánh mình với người khác vì mỗi chúng ta là
một con người hoàn toàn khác nhau. Mỗi chúng ta là một cá nhân đặc biệt.
- Bạn chớ đặt mục tiêu của bạn vào những gì mà người khác cho là quan trọng. Chỉ có bạn mới biết rõ điều gì tốt nhất cho chính mình.
- Chớ nên thờ ơ với những gì gần gũi với trái tim bạn. Bởi vì nếu không có chúng, cuộc sống của bạn phần nào sẽ mất đi ý nghĩa.
- Bạn chớ khóa kín lòng mình với tình yêu bằng cách nói bạn không có thời gian yêu ai. Cách nhanh nhất để nhận được tình yêu là hãy cho đi. Cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là níu giữ thật chặt. Còn phương cách tốt nhất để giữ được tình yêu là bạn hãy chắp cho nó đôi cánh.
- Bạn chớ để cuộc sống trôi qua kẽ tay vì bạn cứ đắm mình trong quá khứ hoặc ảo tưởng về tương lai. Chỉ bằng cách sống cuộc đời mình trong từng khoảng khắc của nó, bạn sẽ sống trọn vẹn từng ngày của đời mình.

- Bạn chớ ngại mạo hiểm. Nhờ mạo hiểm với những cơ hội của đời mình mà bạn biết cách sống dũng cảm.
- Chớ bỏ cuộc khi bạn vẫn còn điều gì đó để cho đi. Không có gì là hoàn toàn bế tắc, mà nó chỉ thật sự trở nên bế tắc khi ta thôi không cố gắng nữa.
- Bạn chớ băng qua cuộc đời nhanh đến nỗi không những bạn quên mất nơi mình đang sống mà còn có khi quên cả nơi mình định tới.
- Bạn chớ quên nhu cầu tình cảm lớn nhất của con người là cảm thấy mình được đánh giá đúng.
- Bạn chớ ngại học. Kiến thức không có trọng lượng, nó là kho báu mà bạn luôn mang theo bên mình một cách dễ dàng.
- Bạn chớ phí phạm thời giờ hoặc lời nói một cách vô trách nhiệm.
Cả hai điều đó một khi mất đi sẽ không bao giờ lấy lại được.

Cuộc đời không phải là đường chạy.
Nó là một lộ trình bạn phải thưởng thức từng chặng đường đi qua.

(Sưu Tầm)

https://www.youtube.com/watch?v=4oY_gynyAvk
Hoài Cảm - Cung Tiến - Thái Thanh
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeWed Sep 12, 2018 10:55 pm

Hãy thong thả Sống  27a036e97d914d4093638d279d9002e4

Sống cũng vui mà chết cũng vui


Ông Tư bị ung thư và biết chắc không thể sống lâu hơn sáu tháng. Ông bình tĩnh chờ cái chết, và vui vẻ sống những ngày ngắn ngủi còn lại, mà không bi ai, không sợ hãi. Ông muốn sau khi chết, gia đình làm đám tang theo ý riêng của ông.

Nếu có ai biết ông Tư đang cận kề cái chết mà ái ngại cho ông, thì ông cười vui mà an ủi họ - chứ không phải là họ an ủi ông - rằng, nếu tin theo đạo Chúa, thì khi chết được về thiên đàng, ngồi dưới chân Chúa, sung sướng thế sao mà ai cũng sợ chết?
Nếu theo đạo Phật, thì khi chết cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, vĩnh cửu an bình, thì mừng vui chứ sao lại bi ai? Và nếu nói theo Đức Đạt Lai Lạt Ma, thì cái xác thân ở trần gian, có thể ví như bộ áo quần ta mang, khi nó đã sờn cũ, xấu xí, rách rưới mục nát rồi, thì nên bỏ đi, mà mang bộ áo quần khác, đại ý nói đi đầu thai kiếp khác, mang thân xác mới hơn.
Ông Tư nói với bạn rằng, thân xác ông bây giờ như cái quần đã mục mông, rách đáy, không còn che được cái muốn che, thì phải bỏ đi, không xài nữa là hơn.

Bởi vậy, ông bình tĩnh đón chờ cái chết cận kề. Khi biết ông bị ung thư sắp chết, thì phút đầu tiên, ông lặng người đi. Nhưng rất mau sau đó, ông nghĩ ra rằng bây giờ chỉ còn hai con đường để lựa chọn.
Một là rầu rĩ bi ai, than thân trách phận, oán thán trời đất, làm cho những ngày ngắn ngủi còn lại trở thành u ám, khổ sở, muộn phiền. Hai là bình tĩnh chấp nhận điều không thể tránh được với thái độ tích cực, lạc quan, vui vẻ. Làm cho những ngày còn lại thành tươi vui, tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Khi ra đi sẽ không có chút tiếc thương vướng bận.
Ông chọn con đường sau, nên không buồn bã, không hoang mang, không bi ai. Ông thấy cuộc đời bỗng đáng yêu hơn, đẹp hơn. Ông mở lòng vui vẻ đón nhận từng thời khắc, từng ngày còn lại.

Mỗi sáng dậy, ông ca hát nhạc vui, và nói chuyện khôi hài cùng vợ con. Ông cố làm đẹp lòng mọi người, vì ông nghĩ rằng, sau khi nhắm mắt nằm xuống, thì dù có muốn tử tế với những người thân thương, cũng không còn làm được nữa.
Ông Tư dặn thêm vợ rằng đừng đăng báo, không đăng cáo phó gì cả. Đừng làm rộn, bận trí bà con gần xa, buộc họ phải thăm viếng. Không nên để phiền ai phúng điếu chia buồn. Ông đưa tờ báo cho bà, và nói:

Em nhìn vào mấy cái cáo phó nầy đây, đọc thấy buồn cười: Chúng tôi đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc: Ông Nguyễn Văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày, tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi... Được Chúa gọi thì phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin? Về với Chúa là khổ lắm sao? Có đi tù cải tạo đâu mà đau buồn?
Đáng ra phải cáo phó bằng câu: "Chúng tôi hoan hỉ báo tin cùng thân bằng quyến thuộc rằng, Ông Nguyễn văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày, tháng, năm.".
Và đây, một cáo phó khác, cũng "khóc báo" với thân bằng quyến thuộc là thân nhân chúng tôi đã về cõi Phật. Về cõi ma vương quỷ sứ mới khóc báo, chứ về cõi Phật, sướng quá, mà khóc cái nỗi gì?
Mất cái gì mới ngại, chứ mất cái khổ đau hành hạ, thì cầu cho mất sớm, mất đi càng nhiều càng mau, càng tốt. Anh nghe nói người Lào có quan niệm rất hay về lẽ sống sự chết. Khi trong gia đình có người chết, họ không bao giờ khóc lóc rầu rĩ, mà bình tỉnh an nhiên, chắc rằng họ đã thấm nhuần cái lẽ thâm sâu của Phật giáo, biết chết là giải thoát, rũ sạch nợ đời.

Cuộc đời, có thể ví như một đêm, không đi ngủ lúc chín mười giờ, thì mười hai giờ, một giờ sáng cũng phải đi ngủ. Nếu đêm không vui, thì tội gì không đi ngủ sớm cho khỏe, mà phải thức để nỗi buồn gặm nhấm.
Nếu đêm nay đau răng thì cố thức làm gì, ngủ sớm đi mà quên đau. Nhiều người sống với thái độ như sẽ không bao giờ chết, cho nên tích tụ của cải, bao nhiêu cũng không vừa, làm nhiều điều không đúng, không phải. Bỡi vậy, khi biết mình sắp chết, thì hốt hoảng khóc lóc, bi ai, mà vẫn không tránh được. Nhiều vị vua chúa đời xưa cũng muốn sống đời, nên u
ng thuốc trường sinh, mà ngộ độc chết sớm.

Thấy ông tươi vui, người biết ông có bệnh sắp chết, cũng quên mất là ông đang bệnh, người không biết bệnh trạng của ông, thì ông cũng không muốn nói ra làm gì. Ông đưa bà và hai con đi chơi một chuyến trên du thuyền. Ông tham gia các cuộc chơi tập thể trên du thuyền như hát hò, nhảy múa ca hát, tham gia các buổi hòa nhạc, uống rượu, cho đến khi mãn cuộc. Ông vui vẻ, bình tĩnh đến nỗi nhiều khi bà quên mất là vợ chồng không còn bên nhau bao lâu nữa.
Ông Tư chuẩn bị tinh thần cho vợ, cho con, để chấp nhận một sự thực không tránh được. Chấp nhận với sự bình tĩnh, sáng suốt, không vui vẻ nhưng không bi ai. Có người nói cho ông Tư nghe về kinh nghiệm của những kẻ đã chết thật rồi, mà sống lại nhờ sự mầu nhiệm nào đó. Rằng khi chết, thì thấy mình đi vào một vùng ánh sáng lạ, rất hân hoan sung sướng, khoái cảm tràn trề. Bởi vậy, nên người đã trải qua cận tử, thì không còn sợ chết nữa, mà đón nhận như là một ân huệ của trời đất.

(Về việc đóng tiền cho người khác để mua hòm và mai táng)
Kêu gọi thì tôi đóng tiền, chứ thực tình trong lòng tôi nghĩ khác. Chết thì hỏa thiêu là đẹp nhất, tốt nhất và lại vệ sinh. Chôn xuống đất cho dòi bọ nó rúc rỉa, cho sình thối chứ có được gì. Một vạn cái xác, mới có được một cái không thối rữa, mà cũng khô đét nằm nhăn răng ra, hôi hám xấu xí. Nằm chật chội trong tối tăm âm u, dưới đất lạnh lẽo, chứ có sung sướng gì đâu.
Rồi lâu ngày, thịt da cũng rữa, xương cũng mục. Được bao nhiêu năm? Mà cứ nghĩ kỹ xem, nếu mỗi người chết phải có một nấm mồ chừng hai thước vuông, thì trên thế giới nầy từ triệu năm trước đến nay, và nhiều triệu năm sau nữa, tỉ tỉ người đã chết và sẽ chết, lấy đâu ra đất mà chôn. Không lẽ cả thế giới nầy chẵng còn một tấc đất mà trồng trọt, nhịn đói chết hết sao?
Nhiều xứ văn minh hiện nay, người ta thiêu xác. Bên Nhật, bên Tàu, Ấn Độ và nhiều xứ khác nữa, người chết được hỏa thiêu. Đạo Phật chính tông, thì các tăng ni đều được hỏa táng, nhưng những người theo đạo Phật nửa vời, thì lại chôn cất. Bày đặt ma chay linh đình cho thêm tốn kém.

Bạn ông Tư hỏi: - Có phải người theo đạo Chúa không dám hỏa táng? Nghe đâu họ tin có ngày phán xét cuối cùng, và được sống lại. Bởi vậy nên phải giữ thân thể, không muốn thiêu tan thành tro bụi.
Ông Tư cười lớn nói:
- Chờ đến ngày phán xét cuối cùng, thì sắt đá cũng đã mủn ra tro bụi, nói chi đến cái thân xác mong manh? Có lẽ những kẽ mê tín, kém hiểu biết, diễn dịch sai ý nghĩa của Kinh Thánh chăng? Mà dù cho xương cốt có còn, thì cũng chỉ là bộ xương cũ mục, làm sao mà sống lại trên bộ xương đó được? Bởi thế, nên tôi cho hỏa thiêu là sạch sẽ và tiện lợi nhất.

Câu chuyện bàn rộng đến phong trào Việt Kiều về quê xây lăng mộ cho thân nhân, cho tổ tiên, đến nỗi có nhiều làng thi đua xây cất cho nguy nga, cho to lớn. Thấy lăng mộ người khác lớn hơn, thì đập cái cũ ra, xây lại cho lớn, cho đồ sộ hơn. Có nơi người ta đặt tên là Làng Ma, vì toàn cả lăng mộ.
Ông Tư cho rằng, xây lại mồ mả cho tổ tiên để báo hiếu, cũng là một hành động tốt, không có chi sai trái. Nhưng thi đua nhau xây và xây cất có tính cách phô trương thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Liệu những phần mộ kia đứng vững được bao nhiêu năm, và còn được con cháu chăm sóc đến bao giờ?
Rồi cũng có ngày trở thành hoang phế, chẳng ai đoái hoài đến, mà mục rữa với thời gian. May ra, những nơi thiêng liêng như đền quốc tỗ Hùng Vương, lăng mộ các bậc anh hùng giữ nước, dựng nước, mới được con cháu tiếp tục tu sửa chăm nom. Thế mà cũng có còn tả tơi, tàn tạ, không ai chăm nom.
Huống chi mình, là thứ thường dân, vô danh tiểu tốt, chưa làm được gì. Chưa kể những kẻ là tội đồ của dân tộc, bày đặt xây lăng ướp xác, như các ông lãnh tụ cộng sản từ Âu sang Á, từ từ rồi mồ mả cũng bị phá bỏ , san bằng. Bởi thế, ông Tư dặn vợ con đừng xây mộ, tạc bia cho ông làm chi.
Ông Tư mượn bài thơ của ông bạn về đánh máy và sắp xếp lại cho đẹp, in ra nhiều bản, phóng ra một bản lớn, để dành khi ông chết sẽ sử dụng.
 
Chỉ bốn tháng, sau khi được báo tin ung thư, ông Tư qua đời mà không đau đớn nhiều, không dùng hóa học trị liệu trước khi chết. Có người mách cho ông nhiều loại thuốc ngoại khoa, ông cũng dùng thử.
Trong giới bạn bè thân tình, có người nói là ông Tư đã tự chọn lấy con đường ra đi nhẹ nhàng, không để bệnh hoạn hành hạ trước khi chết. Ông Tư thường đùa rằng, còn nước thì còn tát, biết là dù có tát thì thuyền cũng chìm, thì quẳng gàu đi cho đở mệt trước khi thuyền chìm.

Bà con bạn bè đến viếng tang ông Tư tại nhà, khi bước vào cỗng, họ cố sửa soạn lại bộ mặt cho có vẻ buồn rầu, nghiêm nghị, để hợp với cảnh tang ma, dù trong lòng họ không có chút bi ai nào. Nhưng họ nghe có tiếng nhạc vui đang rộn rã vẳng ra từ bên trong, hòa với tiếng nhạc là tiếng cười vui vang vang, tiếng ồn ào. Người nào cũng giật mình, vội vã xem kỹ lại số nhà, sợ đi lầm.
Vào nhà, mỗi khách viếng tang được phát một tờ giấy màu hồng, bên trên ghi bài thơ Khi Tôi Chết. Bài thơ cũng được chụp phóng lớn, dán trên tấm bảng che kín cả một bức tường. Khách và chủ đang vui vẻ chuyện trò, cười đùa.
Không thấy quan tài ông Tư đâu cả. Trên bệ thờ có cái ảnh ông Tư phóng lớn, miệng cười toe toét, tóc bù gió lộng. Trước tấm ảnh có cái hộp vuông chứa tro xương của ông Tư. Tiếng nhạc vui vang vang từ máy hát.
 
Bài thơ in đậm nét:

Khi Tôi Chết
Nếu làm biếng, cứ nằm nhà thoải mái
Viếng thăm chi, vài phút có thêm gì?
Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái.
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì.
Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó,
Ai thay da mãi mãi sống trăm đời.
Kẻ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi.
Nếu có khóc, khóc cho người còn lại,
Bởi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi.
Cũng mất mát, dáng hình, lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời.
Đừng đăng báo, phân ưu lời cáo phó
Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,
Trỗi nhạc vui cho người người ý thức,
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Thì đau buồn hạnh phúc cũng hư không.
Đừng xây mộ, khắc bia ghi tên tuổi
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài.
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đã chết tự sơ khai.
Khi tôi chết đừng ma chay đình đám,
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi còn tha thiết chút tình mê.
Thì cũng C, H, O, N kết lại,
Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì,
Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái,
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri.

Khi đọc xong bài thơ, có người thì mỉm cười, có người vui hẳn, và nói chuyện oang oang. Họ cho rằng bài thơ đã nói hết ý nguyện của người chết. Người chết không muốn bạn bè buồn rầu, thương tiếc, thì việc chi mà lại làm bộ, gượng gạo tạo ra nét buồn khổ trên mặt.
Vợ con người chết cũng không tỏ vẻ buồn rầu, mà cũng không hớn hở. Không một tiếng khóc lóc, thở than. Nhạc vui vẫn dồn dập phát ra từ máy vang dội. Khi khách đã đến chật nhà, và đúng giờ cử hành tang lễ, bà vợ ông Tư và đứa con trai mang áo quần trắng đứng chắp tay bên bàn thờ, cô con gái đứng bên tấm ảnh ông, cầm máy vi âm nhoẻn miệng cười và nói:

- Thưa các cụ, cô bác chú dì, bà con bạn bè thân thiết xa gần, chúng tôi xin cám ơn quý vị đã có lòng đến viếng tang Ba chúng tôi. Tang lễ nầy làm theo ý nguyện của người quá cố. Không làm tang lễ theo tục lệ bình thường, vì sợ trái với ước vọng cuối cùng của Ba chúng tôi. Chúng tôi xin nhận lấy mọi lời trách móc nếu có từ bà con bạn bè.
Ba chúng tôi đã bình tĩnh và vui vẻ đón cái chết như một sự trở về không tránh được. Trong những ngày cuối của cuộc đời, Ba chúng tôi rất vui, chuẩn bị kỹ cho gia đình và cho chính ông. Ông đã dặn dò chúng tôi, không nên khóc lóc, không nên buồn rầu, vì sự thực không có chi đáng buồn cả. Ông dặn chúng tôi vặn cuốn băng sau đây cho bà con cô bác nghe.

(Ông Tư đọc bài thơ trên)
Giọng Huế của ông Tư đọc chậm và ngân dài những đoạn ông đắc ý: Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó. Ai thay da mãi mãi sống muôn đời, Kẻ trước người sau xếp hàng xuống mộ, biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi. Cuối cùng, có một tràng cười ha ha của ông Tư để chấm dứt bài thơ.
Sau bài thơ, có ba ông người Mỹ, hai ông da đen, một ông da trắng, cầm đàn và kèn trỗi lên mấy khúc nhạc vui, các ông nhún nhẫy uốn éo, nhiều lúc dậm chân xuống sàn. Ba ông cùng lúc lắc, làm hàng một, đi quanh phòng khách, như múa lượn trước bàn thờ ông Tư. Những ông nầy, là bạn chơi nhạc với ông Tư tại các quán ca nhạc ban đêm.
Một bạn thân của ông Tư, quen nhau từ thuở trung học, đại diện bà con, đến trước bàn thờ, vỗ vào hộp tro xương, cười ha hả và nói:
- Tư ơi, ông là số một rồi đó, chả có ai bằng ông. Ông hiểu tận tường lẽ huyền vi của tạo hóa. Sống cũng vui, mà chết cũng vui. Sống cũng dám làm, mà chết rồi cũng dám làm, và làm được. Tôi cũng ước mong rằng, sau khi chết, vợ con làm cho tôi một đám tang như thế nầy, thì vô cùng sung sướng. Tưởng ông nói đùa chơi, ai ngờ làm thật.

Một vị mục sư là bạn thân của gia đình, cũng đến trước bàn thờ, và đoan chắc rằng bây giờ ông Tư đã được về với Thiên Chúa. Ông cho rằng thái độ của ông Tư trước cái chết rất sáng suốt, đáng khâm phục, và đáng được mọi người noi theo.
Một vị sư già, có bà con họ hàng với ông Tư, đã từng viết nhiều sách Phật và rao giảng đạo từ bi, nói trước linh vị:
- Bần đạo không cần đọc kinh cầu siêu cho thí chủ. Bởi linh hồn thí chủ đã thực sự siêu thoát trước khi chết. Thí chủ không vướng bận cõi trần, không hệ lụy vào cái thân xác tạm bợ. Thanh thản ra đi như kẻ đi chơi, thong dong, dễ dàng. Thí chủ đã hiểu thấu đáo cái lẽ vô thường trong đạo pháp.

Mọi người ra về, lòng nhẹ nhàng, tưởng như đi trong mơ. Từ phía nhà ông Tư, còn vang vọng nhạc vui đưa tiễn đám tang khách.

Khi tôi chết, viếng tang đừng buồn bã
Cười cho to, kể chuyện tếu vui đùa,
Trong sáu tấm biết chắc tôi hả dạ,
Lên tinh thần, ấm áp buổi tiễn đưa.

Cuộc đời này chỉ là một giấc mơ. Có nhiều người đang sống, nhưng vẫn còn mơ...
Đến khi bịnh hoạn lên giường nằm rồi, mới nhìn lại được quãng đời mình.
Như một cuốn phim, quay chậm...
Cuộc vui nào rồi cũng tàn, họp mặt nào rồi cũng chia xa, hạnh phúc nào rồi cũng ly tan.
Và con người nào rồi cũng trở thành cát bụi. Đây là luật Vô Thường - không ai thoát được.

Có quán niệm được điều này (không qua nói miệng) trong mỗi ngày, trong hành động, và từng hơi thở...
Thì sẽ tìm được hạnh phúc không xa...

(bài do bạn Mậu Trần giới thiệu)
Nguồn: Tin Tức Cao Niên Thế Kỷ XXI

Hãy thong thả Sống  Images?q=tbn:ANd9GcR-XGhY9X15_dM0yMduV4jdhB3QsgXtreKuNqNQttuZmLWJ7uIFLg
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeSat Sep 29, 2018 2:00 pm

Hãy thong thả Sống  Anh4-1472198864506

Nửa đời về sau…

Nửa đời về sau, hãy trầm tĩnh.
Đôi khi bị người khác hiểu lầm, đừng tranh luận. Trong cuộc sống, có nhiều chuyện khó có thể nói rõ ràng đúng sai, nhiều điều  không hoàn toàn đúng hoặc hoàn toàn sai…

*
Nửa đời về sau, hãy bình thản.

Người ta đến độ tuổi nào đó, tự nhiên không còn thích ồn ào. Tâm thái bình thản giúp con người khỏe mạnh, sống lâu. Cho dù đời sống vật chất dư dả hay túng thiếu, nội tâm bình thản là sống hạnh phúc.

*
Nửa đời về sau, hãy biết nhún mình.

Bất đồng ý kiến với với con cái, mâu thuẫn với bạn bè, không sao cả. Khi đó bạn hãy về làm chút việc nhà … Trong lúc làm lụng, bạn sẽ thấy tâm trạng và suy nghĩ của mình dịu lại.

*
Nửa đời về sau, đừng ân hận.
Cuộc đời là con đường dài với vô số ngã rẽ, và ta luôn luôn phải lựa chọn. Không có cơ hội nào lặp lại nữa, lựa chọn rồi thì đừng  ân hận, cũng đừng nghĩ rằng muốn làm lại từ đầu.

*
Nửa đời về sau, hãy tiếp tục tìm tòi, học tập.
Đọc sách xem báo, vẽ tranh, ca hát, nghe nhạc… tất cả những thứ đó đều có thể đem lại niềm vui, làm cho mình thư thái, dễ chịu.

*
Nửa đời về sau, hãy đơn giản.
Suy nghĩ quá nhiều, chỉ làm cho đời mình thêm phức tạp. “Đơn giản” là một ân huệ mà trời ban cho chúng ta, sao lại bỏ nó đi. Cảm nhận món ngon, chơi vui đây đó, tán chuyện trên trời dưới biển với bạn bè…

*
Nửa đời về sau, đôi lúc nên dễ dãi với mình.
Ăn trái cây, rau quả, thực phẩm lành mạnh là tốt rồi nhưng có lúc thèm thịt cá? Vậy thì cứ ăn đi!

*
Nửa đời về sau, hãy ăn mặc đẹp.

Yêu cái đẹp là điều ta theo đuổi cả đời, đừng nghĩ mình có tuổi rồi không nên chưng diện nữa. Lúc lưng còn thẳng, chân còn khỏe, hãy mặc cho đẹp cho sang…

*
Nửa đời về sau, đôi lúc ngờ nghệch một chút cũng chẳng sao.

Có những chuyện cần thờ ơ thì thờ ơ. Cái gì không làm rõ được thì thôi, kệ nó. Mình có thể quên đi ai đó thì quên đi. Nếu chỉ biết nhớ không biết quên, chỉ biết tính toán chi li, mà không biết phiên phiến cho qua, chỉ biết khôn khéo mà lại không biết vụng về… thì cuộc đời nặng nề, còn lúc nào được thanh thản.

*
Nửa đời về sau, hãy mong điều may cho người khác.
Ta đối với đời thế nào, đời cũng sẽ đối với ta như thế. Hãy khen bạn bè, khen con cháu, thậm chí cả người xa lạ cũng đừng tiếc một lời đẹp! Khi mình làm cho người khác vui, mình sẽ nhận ra rằng mình cũng vui…

(Sưu Tầm)

https://www.youtube.com/watch?v=DDfnirltmQg
Để Gió Cuốn Đi - Trịnh công Sơn
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeMon Oct 22, 2018 10:00 am

Hãy thong thả Sống  Giphy

Cuộc Đời Tựa Chuyến Tàu Về Đích
Kẻ Ở Người Đi Đều Tại Chữ Duyên.
     

Cuộc đời mỗi người đều tựa như một đoàn tàu đang trên hành trình về đích. Trên cuộc hành trình đó luôn có những điểm dừng, có người sẽ tiếp tục đồng hành với ta, có người rời xa ta mãi mãi… 
Không ai có thể đi cùng bạn từ đầu đến cuối của cuộc hành trình, kể cả người thân, bạn bè, người yêu. Bạn sẽ chứng kiến rất nhiều người lên lên xuống xuống và nếu như may mắn bạn sẽ gặp được người cùng đi với mình một chặng dài.
   
Khi người này đến lúc phải xuống xe… Dù cho không nỡ cũng nên cảm kích và nói lời từ biệt. Bởi vì, đến một trạm khác sẽ có người lên và tiếp tục cuộc hành trình cùng bạn.
 
1. Cà phê đắng hay ngọt không phải ở cách pha chế, mà là ở việc bỏ đường hay không.
Một cơn đau không phải phụ thuộc vào bạn quên như thế nào. Mà là ở việc bạn có can đảm để bắt đầu lại hay không?  

2. Người đồng thời truy đuổi hai con thỏ, sẽ không thể bắt được con nào.
        Đừng thèm muốn những thứ không có.
        Đừng tính toán những thứ không biết.
        Đừng mong đợi những thứ không thể.
        Hãy làm công việc mà bạn am hiểu nhất!

3. Mỗi người đều là một quả táo mà Thượng đế đã cắn một miếng, đều là có chỗ thiếu hụt. Có người chỗ thiếu hụt khá lớn, là vì Thượng đế đặc biệt yêu thích “hương thơm” của họ!  

4. Lúc yêu cuồng nhiệt, đôi tình nhân thường thốt lên rằng kiếp trước mình tích được nhiều đức. Khi đã kết hôn các cặp vợ chồng lại hay than rằng kiếp trước mình đã tạo nghiệp gì?  

5. Cùng là một chai nước, ở ngoài cửa hàng có giá 5.000. Nhưng cũng chai nước ấy ở trong khách sạn có giá 20.000. Đôi khi, giá cả của một người, một vật được quyết định bởi vị trí, nhưng giá trị thì vẫn là như vậy.   

6. Tình cảm giữa hai người giống như đan chiếc áo len. Lúc đan phải cẩn thận từng mũi từng đường, trong thời gian dài. Nhưng khi dỡ bỏ chỉ cần nhẹ nhàng kéo một đường.   

7. Hôn nhân không phải là 1+1 = 2, mà là 0,5 +0,5 = 1   
Tức là hai người bỏ đi một nửa cá tính và khuyết điểm của mình, sau đó gộp lại với nhau thành một thứ trọn vẹn. 

8. Đề thi của cả đời gồm có 4 nội dung: Học tập, sự nghiệp, hôn nhân và gia đình.   
Muốn đạt được điểm cao bạn có thể cố gắng ở cả 4 nội dung mà không cần phải tập trung thời gian và tinh lực vào một nội dung duy nhất. 

9. Cuộc đời nói dài thì rất dài, mà nói ngắn cũng rất ngắn.
    Hãy quý trọng tất cả những người ở xung quanh mình!   

10. Cảm ơn trời đất, cảm ơn cha mẹ, cảm ơn anh chị em!
    Hãy quý trọng tất cả những người thân bên mình, bởi vì đời này gặp mặt đời sau có thể vĩnh viễn không gặp lại…!

(Sưu Tầm)
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeTue May 19, 2020 8:44 am

.
Hãy thong thả Sống  Images?q=tbn:ANd9GcR-XGhY9X15_dM0yMduV4jdhB3QsgXtreKuNqNQttuZmLWJ7uIFLg

https://www.youtube.com/watch?v=GCLsyEekI2M
Đường Chiều Lá Rụng - Phạm Duy - Quỳnh Giao - BP


Hãy thong thả Sống  Images?q=tbn%3AANd9GcQ5JuL9GTkQGO7JXpzfD6ohh0PErRk29rBOUiA1V4eh62kjrB1w&usqp=CAU


Bản Hòa Âm Sinh Tử
- Trần Mộng Tú


Gửi Trần Viết Minh Thanh, đã mất.

Cô bạn gái của tôi mới qua đời, cô còn khá trẻ, trên cáo phó ở cạnh tuổi cô, có viết hai chữ “hưởng dương,” có nghĩa cô chưa bước vào tuổi sáu mươi. Gia đình mới hỏa táng cô sáng nay. Tôi ở xa cô mấy chục ngàn dậm bay, không đến dự, tôi ngồi ở nhà nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn cây cỏ co ro đang từ từ chết trong mùa đông, nghĩ đến cô, nhớ nụ cười, tiếng nói, liên tưởng đến tro than. Đầu óc tôi trôi bềnh bồng giữa đôi bờ sinh tử, bỗng tôi nhớ đến những lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma:
“Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống. Hoặc là ta tảng lờ nó, hoặc là ta chạm trán với viễn ảnh cái chết của chính mình, và bằng cách tư duy sáng suốt về nó, ta cố giảm thiểu những khổ đau mà cái chết có thể mang lại. Tuy nhiên, trong cả hai cách, không cách nào chúng ta có thể thực thụ chinh phục được sự chết.” (1)
“Tảng lờ với cái chết,” nghe thật lạ lùng. Một người đang khỏe mạnh, yêu đời, gia đình êm ấm, công danh thành đạt, bỗng một ngày đi khám sức khỏe tổng quát, bác sĩ phát hiện ra một căn bệnh hiểm nghèo. Thế là đất trời bỗng mù sương; mặt trời hình như không sáng nữa, ngày tháng không còn phân biệt thu, đông. Những âu yếm nghe như gượng gạo, nụ hôn cho người thân nhuốm chút ngậm ngùi. Đi chụp hình, siêu âm, thử máu, trị liệu, thậm chí nghỉ hẳn công việc đang làm, các giao tế từ từ thưa thớt rồi ngưng hẳn; các chuyến du lịch, đi trong hồi hộp với một va-li đầy thuốc rồi cũng phải chấm dứt. Bây giờ ra khỏi nhà chỉ còn có nghĩa là đi đến phòng mạch hoặc vào bệnh viện. Liệu ta có “tảng lờ với cái chết” được không?

Cái chết của con sóc nhỏ. Tôi đi lang thang trên một con đường mòn, đi tản mạn trong buổi sáng, để hít thở trời đất thơm tho vào lồng ngực, hai mắt ngước nhìn những bụi dâu dại bên đường mòn, chân tôi xém chút nữa dẫm phải một con sóc nhỏ nằm giữa lối đi. Tôi cúi xuống nhìn nó, nó chưa chết, hai con mắt nhỏ trong veo nhìn lại tôi. Tôi thấy nó có mấy vết thương nhỏ trên lưng, nhưng một vết thương to trước bụng, và cái chân sau của nó hình như đang muốn rời hẳn ra khỏi cái thân bé bỏng. Nó đang hấp hối. Chắc nó bị một con raccoon (mèo rừng) nào đó tấn công, chạy thoát được ra đến đây thì kiệt sức. Con đường mòn buổi sáng chưa đông người “bộ hành” lắm. Tôi ngồi hẳn xuống với nó, tôi muốn cứu nó mà biết không làm gì được. Tôi cứ nhìn vào hai mắt nó, và nó nhìn tôi.
Chắc nó biết là mình đang chết, chắc nó hi vọng tôi sẽ cứu nó. Tôi hoàn toàn bất lực. Tôi ngồi với nó không lâu lắm và chứng kiến nó thở hơi cuối. Tôi đặt tay lên đôi mắt đã nhắm của nó, giống như ai đó vừa vuốt mắt một người thân, nó có cảm thấy cái chạm tay của một người đang thở không nhỉ? Tôi tìm được một cái lá to nhất tôi có thể tìm thấy trong những bụi cây, rồi thu hết can đảm kéo được một phần nào cái thân bé bỏng của nó vào chiếc lá, đầu và chân nó vẫn thò ra. Tôi kéo nó thật sát vào gốc một bụi hoa hồng dại, tìm một cành cây, xới một lũm đất nhỏ, đặt nó xuống, lấy lá khô đắp lên cho nó thành một nấm mồ. Bây giờ đang cuối đông, mưa lạnh, tôi hy vọng thân xác tí teo này sẽ mau chóng tan vào đất. Kiếp sau (nếu nó có kiếp sau) nó còn muốn được làm con sóc bé bỏng nữa hay không? Trong lúc đang thoi thóp chết nó nghĩ gì? (Tôi tin các con vật đều biết nghĩ.)

Cái chết của một dòng sông. Tôi nhớ lại trong một lần về Việt Nam, tôi có qua bên kia sông Bạch Đằng (Sài Gòn), Thủ Thiêm. Tôi về để tìm lại những kỷ niệm thân yêu thời còn trung học, những lần qua phà sang nhà người bạn gái. Bạn tôi không biết thất tung phương nào. Những hàng quán, dấu vết cỏ cây để tìm vào con ngõ nhà bạn ngày trước đã bị xóa sạch, như có ai kéo xuống cả một ngôi làng cũ thân yêu, rồi dựng lên đó một con phố mới, không cây, không cỏ, chỉ với những bức tường gạch, vữa, nhô ra thụt vào, mầu vàng, mầu đỏ. Tôi đi lang thang nguyên một ngày, hỏi han tung tích của bạn mình, hỏi tên con hẻm cũ. Tôi nhận được những cái lắc đầu lạnh nhạt, hoặc có ai đó nói vu vơ rằng cô đó cũng bỏ đi rồi, cô đó hình như chết rồi. Tôi thẫn thờ tìm đường ra lại bờ sông. Con sông sao nước bỗng đổi mầu, đen đến thế! Nó chở trên cái thân mềm yếu, những chuyến tầu máy thả khói nặng nề, những đám rác bốn phương chụm lại, thỉnh thoảng xác xơ, lạc lõng, ngơ ngác một vài cọng lục bình, trôi theo những vật phế thải.
Chao ôi, cô bạn của tôi, cô còn sống hay cô đã chết! Tôi hy vọng được gặp lại cô, ở đâu đó dù cả hai chúng tôi còn sống hay đã chết.
Chao ôi, con sông Bạch Đằng thân yêu của tôi! Nó đang sống hay đang đi dần vào cõi chết. Tôi tin con sông của tôi có linh hồn; nó sống ở đó bao nhiêu năm rồi. Nó chứng kiến sự sống, sự chết của lịch sử, của cả một quốc gia hưng vong, nó chở qua sông biết bao nhiêu kỷ niệm thanh xuân, bao mảnh đời cơ cực, bao nhiêu lần một chiếc áo quan có phủ quốc kỳ; và con người thay nhau thả xuống lòng nó bao điều dị biệt. Con sông sống lâu quá! Thượng đế cho nó một đời sống dài quá! Kiếp sau nó còn muốn làm con sông Bạch Đằng nữa, hay không?

Cái chết của một cây thông. Tôi ngắt một bông hoa dại bên đường, đặt lên nấm mộ mới. Ngồi xuống chiếc băng gỗ nghỉ chân, xoa hai bàn tay lạnh vào nhau, một lúc sau, hai bàn tay ấm lại, tôi nhìn xuống gan lòng bàn tay, thấy có mầu hồng hồng, à thì ra máu đã luân lưu vào đó nhiều hơn khi được chà xát. Tôi đang sống! Tôi đang ngồi trên một cái băng gỗ, những thanh gỗ tôi đang ngồi với nó được lấy ra từ một thân cây thông tràn đầy nhựa sống. Nó đang véo von ca hát trong rừng mỗi bình minh, hay ngâm bài thơ ngũ ngôn mỗi khi chiều xuống. Một hôm người ta muốn nó chết, nó chết ngay từ phát rìu đầu tiên chém xuống, nó không tự định đoạt đời sống mình. Loài người là thượng đế của nó. Tôi đang ngồi với một đời cây. Giữa tôi và nó là một bản hòa âm sinh tử.
Tôi đang sống hay tôi đang chết? Chắc phải nói tôi đang chết thì chính xác hơn. Mỗi ngày tôi thức dậy, đặt chân xuống đất chào đón một ngày, tức là tôi đã từ giã ngày hôm qua. Tôi cộng thêm một ngày vào tuổi, tôi đi dần về phía bên kia sợi dây đời sống. Khi tôi sinh ra, tôi bắt đầu hao đi ngày thứ nhất của sợi dây đời sống, khúc dây đó mỗi ngày tôi lấn một khúc nhỏ. Tôi không biết sợi dây trời cho dài ngắn bao nhiêu, nhưng biết chắc chắn tôi làm nó ngắn đi từng ngày, vì tôi không đi ngược lại ngày đã qua. Tôi đi về phía trước như thế, có nghĩa là tôi đi gần đến một chỗ tôi chưa hề biết (ai đó gọi là thiên đàng hay niết bàn) Tôi không biết tôi sẽ gặp điều gì, gặp ai, ở thành phố nào, quốc gia nào hay chỉ là một cõi mù sương phía trước, nếu tôi không có một tín ngưỡng để vin vào. Nhưng tôi, giả dụ có là một người vô thần thì tôi cũng biết rất rõ những gì tôi bỏ lại. Tôi bỏ lại những người ruột thịt của tôi: Chồng, con, cha mẹ, anh em, bạn thân, người quen biết, cái nhà đang ở, cái xe đang đi, mảnh vườn nhỏ tôi chăm bón bốn mùa, con chim thỉnh thoảng đậu ở trước hiên nhà, những hàng cây hai bên đường, thay lá từng mùa; người hàng xóm khó tính bên tay phải, người hàng xóm dễ thương bên tay trái. Tôi bỏ lại những cuốn truyện trên kệ sách, những tác giả tôi thích nhất, những cuốn sách cần thiết như những vị thầy, bỏ lại bài thơ vừa mới viết xong, bài văn đang viết nửa chừng, bỏ dòng nước lững lờ trôi trước cửa, dẫy núi trải dài trên cao, bầu trời nhiều mưa hơn nắng. Tôi bỏ lại tất cả, bỏ dần, bỏ dần từng ngày, thế mà tôi đâu có lúc nào để ý đên việc mình đang từ bỏ. Cho đến một hôm “Cái chết đến như kẻ trộm.” Chắc lúc đó tôi mới nhận thấy và hoảng hốt hay điềm tĩnh đối diện.
Bây giờ, người bạn trẻ của tôi, hôm nay đã hóa thành một nắm tro, nằm thinh lặng trong một chiếc bình. Chị đã đi đến cuối sợi dây đời sống trời trao cho chị từ lúc mới sinh ra, sợi dây không dài lắm. Chị đi như thế nào nhỉ? Và tôi nữa, tôi tự hỏi: “Chúng ta đi trên sợi dây đời sống như thế nào nhỉ?” Từ lúc sinh ra được cha mẹ thương yêu, nuôi lớn khôn, ăn học, đi làm việc, lập gia đình cho tới khi từ bỏ cuộc đời, chúng ta quay đều như một hạt cát bám vào bánh xe. Bánh xe đời sống quay đến đâu, chúng ta quay theo đến đó, hình như không có lúc nào nghĩ ra rằng, ta có nên bảo nó ngưng lại cho ta nghỉ trong chốc lát hay không? Take a break. Tôi rất thích chữ break này. Bẻ thời gian ra thành nhiều mảnh, nhặt lấy một mảnh nhỏ, ngồi xuống thở, chơi.
Tôi chỉ sống có một đời. Dài hay ngắn đều do cách tôi suy nghĩ, nhưng tôi sống với những điều tôi tin là tốt đẹp, dù đôi khi tôi phải trả cái giá tốt đẹp này bằng những giọt lệ. Một đời như thế, chắc cũng sống đủ lắm rồi.
Có người đã nói: “Nhìn cái chết là đoạn cuối của cuộc đời, chẳng khác nào bạn nhìn đường chân trời bảo đấy là điểm cuối của đại dương” (2)

Hôm nay, tôi thở, tôi sống, tôi làm thơ, cùng với người bạn, con sóc, dòng sông, cây thông đã qua đời. Một bản hòa âm sinh tử.
Ngày mai thuộc về ngày mai.
 
tmt
Jan. 2009
(1)- Lời tựa của Dalai Lama cho “The Tibetan Book of Living and Dying- Sogyal Rinpoche.” Thích Nữ Trí Hải dịch.
(2)- David Searls- Seeing death as the end of life is like seeing the horizon as the end of the ocean.
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeThu Aug 20, 2020 12:18 pm

.
Hãy thong thả Sống  Z

Lá Thư Từ Bên Kia Thế Giới
Nguyên Phong dịch


Bác sĩ Elizabeth Kübler-Ross, người tiền phong trong lãnh vực nghiên cứu về hiện tượng hồi sinh cho biết:

“Con người sợ chết như con nít sợ ma, họ đã nhìn cái chết một cách sợ hãi, ghê tởm và cố gắng phủ nhận nó vì nó làm gián đoạn sự liên tục của đời sống. Nhưng nếu họ biết chấp nhận sự chết một cách bình thản, giản dị thì họ sẽ thấy chết là một sự kiện tự nhiên cũng như lúc sinh ra vậy. Bất kỳ lúc nào chung quanh chúng ta, sống và chết cũng luôn luôn tiếp diễn. Lá cây rụng để nhường chỗ cho những mầm non xuất hiện, hết mùa đông lại có mùa xuân. Một hiện tượng tự nhiên và cần thiết như thế không lẽ lại chẳng bao hàm một ý nghĩa thâm sâu nào đó? Phải chăng chính vì có sự chết mà sự sống hiện hữu, có sự xây dựng thì cũng phải có sự hủy diệt, đâu có gì tồn tại vĩnh viễn. Người ta không thể hiểu được ý nghĩa đích thực của sự sống nếu họ không chịu chấp nhận sự chết, và đã đến lúc người ta phải nghiên cứu cặn kẽ các sự kiện này chứ không thể chấp nhận những lý thuyết mơ hồ nào đó được.”

Sau đây là tài liệu được trích lại từ cuốn La Revue Spirite:

Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được. Ông không tin rằng có một linh hồn tồn tại sau khi chết vì thể xác chỉ là sự kết hợp của các vật chất hữu cơ và trí thông minh chẳng qua chỉ là sản phẩm của các tế bào thần kinh. Khi thể xác đã hư hoại thì trí thông minh cũng không thể tồn tại. Một hôm khi bàn chuyện với các con về đề tài đời sống sau khi chết, ông hứa sẽ liên lạc với các con nếu quả thật có một đời sống bên kia cửa tử.

Cậu con trai Piere Desrives, cũng là một y sĩ, đã nói: “Nếu đã chết, làm sao cha có thể liên lạc với con được?”
Bác sĩ Henri suy nghĩ một lúc rồi trả lời: “Cha không tin có một đời sống hay cõi giới nào ngoài đời sống này nhưng nếu sau khi chết mà cha thấy được điều gì thì cha sẽ tìm đủ mọi cách để liên lạc với các con.”
Vài năm sau, bác sĩ Desrives từ trần, các con ông vì bận việc nên cũng không để ý gì đến buổi bàn luận đó nữa.
Khoảng hai năm sau, một nhóm nhân viên làm việc trong bệnh viện lập bàn cầu cơ chơi, bất ngờ cơ bút đã viết: “Xin cho gọi bác sĩ Piere Desrives đến vì tôi là cha cậu đó và tôi có mấy lời muốn nhắn nhủ với các con tôi.”
Được thông báo, bác sĩ Piere không tin tưởng mấy nhưng nhớ lại lời dặn của cha, ông bèn gọi các em đến tham dự buổi cầu cơ này. Một người cầm giữ đầu một sợi dây, đầu kia cột vào một cây bút chì và chỉ một lát sau cây bút đã tự động chạy trên các trang giấy thành bức thư như sau:

Các con thân mến,

Cha rất hài lòng đã gặp đủ mặt các con nơi đây. Gần một năm nay, cha có ý trông đợi để kể cho các con về những điều ở cõi bên này mà cha đã chứng kiến nhưng không có cơ hội nói lại cho các con biết.

Như các con đã biết, hôm đó sau khi ở bệnh viện về, cha thấy trong người mệt mỏi lạ thường, cha bèn lên giường nằm và dần dần lịm đi luôn, không hay biết gì nữa. Một lúc sau cha thấy mình đang lơ lửng trong một bầu ánh sáng trong suốt như thủy tinh. Thật khó có thể tả rõ cảm tưởng của cha khi đó, nhưng không hiểu sao cha thấy trong mình dễ chịu, linh hoạt, thoải mái chứ không bị gò bó, ràng buộc như trước. Các con biết cha bị phong thấp nên đi đứng khó khăn, vậy mà lúc đó cha thấy mình có thể đi đứng, bay nhảy như hồi trai tráng. Cha có thể giơ tay giơ chân một cách thoải mái, không đau đớn gì. Đang vẫy vùng trong biển ánh sáng đó thì bất chợt cha nhìn thấy cái thân thể của cha đang nằm bất động trên giường. Cha thấy rõ mẹ và các con đang quây quần chung quanh đó và phía trên thân thể của cha có một hình thể lờ mờ trông như một lùm mây màu xám đang lơ lửng. Cả gia đình đều đang xúc động và không hiểu sao cha cứ thấy trong mình buồn bực, khó chịu. Cha lên tiếng gọi nhưng không ai trả lời, cha bước đến nắm lấy tay mẹ con nhưng mẹ con không hề hay biết và tự nhiên cha ý thức rằng mình đã chết. Cha bị xúc động mạnh, nhưng may thay lúc đó mẹ con và các con đều lên tiếng cầu nguyện, tự nhiên cha thấy mình bình tĩnh hẳn lại như được an ủi. Cái cảm giác được đắm chìm trong những lời cầu nguyện này thật vô cùng thoải mái dễ chịu không thể tả xiết. Lớp ánh sáng bao quanh cha tự nhiên trở nên sáng chói và cả một cuộc đời của cha từ lúc thơ ấu đến khi trưởng thành bỗng hiện ra rõ rệt như trên màn ảnh. Từ việc gần đến việc xa, ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đều hiện ra rõ rệt trong tâm trí của cha. Hơn bao giờ hết, cha ý thức tường tận các hành vi của mình, các điều tốt lành, hữu ích mà cha đã làm cũng như các điều xấu xa, vô ích mà cha không tránh được. Tự nhiên cha thấy sung sướng về những điều thiện đã làm và hối tiếc về những điều mà đáng lẽ ra cha không nên làm. Cả một cuốn phim đời hiện ra một cách rõ rệt cho đến khi cha thấy mệt mỏi và thiếp đi như người buồn ngủ.

Cha ở trong tình trạng vật vờ, nửa ngủ nửa thức này một lúc khá lâu cho đến khi tỉnh dậy thì thấy mình vẫn lơ lửng trong một bầu ánh sáng có màu sắc rất lạ không giống như màu ánh sáng lần trước. Cha thấy mình có thể di chuyển một cách nhanh chóng, có lẽ vì không còn xác thân nữa. Cha thấy cũng có những người đang di chuyển gần đó nhưng mỗi lần muốn đến gần họ thì cha lại có cảm giác khó chịu làm sao. Một lúc sau cha đi đến một nơi có đông người tụ họp. Những người này có rung động dễ chịu nên cha có thể bước lại hỏi thăm họ một cách dễ dàng. Một người cho biết tùy theo các rung động thích hợp mà cha có thể tiếp xúc được với những người ở cõi bên này. Sở dĩ cha không thể tiếp xúc với một số người vì họ có sự rung động khác với “tần số rung động” (frequency) của cha. Sự giải thích có tính cách khoa học này làm cha tạm hài lòng. Người nọ cho biết thêm rằng ở cõi bên này tần số rung động rất quan trọng, và tùy theo nó mà người ta sẽ lựa chọn nơi chốn mà họ sống. Cũng như loài cá ở ngoài biển, có loài sống gần mặt nước, có loài sống ở lưng chừng và có loài sống dưới đáy sâu tùy theo sức ép của nước thì ở cõi bên này, tùy theo tần số rung động mà người ta có thể tìm đến được các cảnh giới khác nhau. Sự kiện này làm cha cảm thấy vô cùng thích thú vì như vậy quả có một cõi giới bên kia cửa tử và cõi này lại có nhiều cảnh giới khác nhau nữa.

Khi xưa cha không tin những quan niệm như thiên đàng hay địa ngục nhưng hiện nay cha thấy quan niệm này có thể được giải thích một cách khoa học qua việc các tần số rung động. Những tần số rung động này như thế nào? Tại sao cha lại có những tần số rung động hợp với một số người? Người nọ giải thích rằng tùy theo tình cảm của con người mà họ có những sự rung động khác nhau; người có tình thương cao cả khác với những người tính tình nhỏ mọn, ích kỷ hay những người hung ác, không hề biết thương yêu. Đây là một điều lạ lùng mà trước nay cha không hề nghĩ đến. Cha bèn đặt câu hỏi về khả năng trí thức, phải chăng những khoa học gia như cha có những tần số rung động đặc biệt nào đó, thì người nọ trả lời rằng, khả năng trí thức hoàn toàn không có một giá trị nào ở cõi bên này cả. Điều này làm cho cha ít nhiều thất vọng. Người nọ cho biết rằng cái kiến thức chuyên môn mà cha tưởng là to tát chẳng qua chỉ là những mảnh vụn của một kho tàng kiến thức rất lớn mà bên này ai cũng có thể học hỏi được.

Người nọ nhấn mạnh rằng, điều quan trọng là con người biết làm gì với những kiến thức đó. Sử dụng nó để phục vụ hay tiêu diệt nhân loại? Sử dụng nó vào mục đích vị tha hay ích kỷ? Sử dụng nó để đem lại niềm vui hay để gây đau khổ cho người khác? Thấy cha có vẻ thất vọng, người này bèn đưa cha đến một thư viện lớn, tại đây có lưu trữ hàng triệu cuốn sách mà cha có thể tham cứu, học hỏi. Chưa bao giờ cha lại xúc động như vậy. Có những cuốn sách rất cổ viết từ những thời đại xưa và có những cuốn sách ghi nhận những điều mà từ trước tới nay cha chưa hề nghe nói đến. Sau một thời gian nghiên cứu, cha thấy cái kiến thức mà mình vẫn hãnh diện thật ra chẳng đáng kể gì so với kho tàng kiến thức nơi đây. Đến khi đó cha mới thấm thía điều người kia nói về khả năng trí thức của con người và bắt đầu ý thức về tần số rung động của mình.

Nơi cha đang sống có rất đông người, đa số vẫn giữ nguyên tính nết cũ như khi còn sống ở thế gian. Có người hiền từ vui vẻ, có người tinh nghịch ưa chọc phá người khác, có người điềm đạm, có kẻ lại nóng nảy. Quang cảnh nơi đây không khác cõi trần bao nhiêu; cũng có những dinh thự đồ sộ, to lớn; có những vườn hoa mỹ lệ với đủ các loại hoa nhiều màu sắc; có những ngọn núi rất cao hay sông hồ rất rộng. Lúc đầu cha ngạc nhiên khi thấy những cảnh vật này dường như luôn luôn thay đổi, nhưng về sau cha mới biết cảnh đó hiện hữu là do sức mạnh tư tưởng của những người sống tại đây. Điều này có thể giải thích giống như sự tưởng tượng ở cõi trần. Các con có thể tưởng tượng ra nhà cửa dinh thự trong đầu óc mình, nhưng ở cõi trần sức mạnh này rất yếu, chỉ hiện lên trong trí óc một lúc mà thôi. Bên này vì có những rung động đặc biệt nào đó phù hợp với sự rung động của tư tưởng làm gia tăng thêm sức mạnh khiến cho những hình ảnh này có thể được thực hiện một cách rõ ràng, chính xác và lâu bền hơn.

Các con đừng nghĩ rằng những người bên này chỉ suốt ngày rong chơi, tạo ra các hình ảnh theo ý muốn của họ; mà thật ra tất cả đều bận rộn theo đuổi các công việc riêng để chuẩn bị cho sự tái sinh. Vì mọi tư tưởng bên này đều tạo ra các hình ảnh nên đây là môi trường rất thích hợp để người ta có thể kiểm soát, ý thức rõ rệt hơn về tư tưởng của mình. Vì đời sống bên này không cần ăn uống, làm lụng nên người ta có nhiều thời giờ theo đuổi những công việc hay sở thích riêng. Có người mở trường dạy học, có kẻ theo đuổi các nghành chuyên môn như hội họa, âm nhạc, kiến trúc, văn chương thơ phú, v.v...

Tóm lại, đây là môi trường để họ học hỏi, trau dồi các khả năng để chuẩn bị cho một đời sống mai sau. Phần cha đang học hỏi trong một phòng thí nghiệm khoa học để sau này có thể giúp ích cho nhân loại. Càng học hỏi, cha càng thấy cái kiến thức khi xưa của cha không có gì đáng kể và nền y khoa mà hiện nay các con đang theo đuổi thật ra không lấy gì làm tân tiến lắm nếu không nói rằng rất ấu trĩ so với điều cha được biết nơi đây. Hiển nhiên khoa học phát triển tùy theo khả năng trí thức của con người, mỗi thời đại lại có những sự phát triển hay tiến bộ khác nhau nên những giá trị cũng vì thế mà thay đổi. Có những giá trị mà thời trước là khuôn vàng thước ngọc thì đời sau lại bị coi là cổ hủ, lỗi thời; và như cha được biết thì những điều mà ngày nay đang được người đời coi trọng, ít lâu nữa cũng sẽ bị đào thải. Tuy nhiên cái tình thương, cái ý tưởng phụng sự mọi người, mọi sinh vật thì bất kỳ thời đại nào cũng không hề thay đổi, và đó mới là căn bản quan trọng mà con người cần phải biết. Càng học hỏi cha càng thấy chỉ có những gì có thể tồn tại được với thời gian mà không thay đổi thì mới đáng được gọi là chân lý. Cha mong các con hãy suy ngẫm về vấn đề này, xem đâu là những giá trị có tính cách trường tồn, bất biến để sống theo đó, thay vì theo đuổi những giá trị chỉ có tính cách tạm bợ, hời hợt.

Cha biết rằng mọi ý nghĩ, tư tưởng, hành động đều có những rung động riêng và được lưu trữ lại trong ta như một cuốn sổ. Dĩ nhiên khi sống ở cõi trần, con người quá bận rộn với sinh kế, những ưu phiền của kiếp nhân sinh, không ý thức gì đến nó nên nó khép kín lại; nhưng khi bước qua cõi bên này thì nó từ từ mở ra như những trang giấy phô bày rõ rệt trước mắt. Nhờ vậy mà cha biết rõ rằng hạnh phúc hay khổ đau cũng đều do chính ta tạo ra và lưu trữ trong mình. Cuốn sổ lưu trữ này là bằng chứng cụ thể của những đời sống đã qua và chính nó kiểm soát tần số rung động của mỗi cá nhân. Tùy theo sự rung động mà mỗi cá nhân thích hợp với những cảnh giới riêng và sẽ sống tại đó khi bước qua cõi giới bên này. Do đó, muốn được thoải mái ở cõi bên này, các con phải biết chuẩn bị. Cha mong các con hãy bắt tay vào việc này ngay. Các con hãy rán làm những việc lành, từ bỏ những hành vi bất thiện. Khi làm bất cứ việc gì, các con hãy suy gẫm xem hậu quả việc đó như thế nào, liệu nó có gây đau khổ hay tổn thương cho ai không? Đừng quá bận rộn suy tính những điều hơn lẽ thiệt mà hãy tập quên mình. Đời người rất ngắn, các con không có nhiều thời giờ đâu.

Khi còn sống, đã có lúc cha dạy các con phải biết đầu tư thương mại để dành tiền bạc vào những trương mục tiết kiệm, những bất động sản, những chứng khoán... nhưng bây giờ cha biết rằng mình đã lầm. Một khi qua đến bên đây, các con không thể mang những thứ đó theo được. Danh vọng, địa vị, tài sản vật chất chỉ là những thứ có tính cách tạm bợ, bèo bọt, đến hay đi như mây trôi, gió thổi, trước có sau không. Chỉ có tình thương mới là hành trang duy nhất mà các con có thể mang theo mình qua cõi giới bên này một cách thoải mái, không sợ hư hao mất mát. Tình thương giống như đá nam châm, nó thu hút những người thương nhau thực sự, để họ tiến lại gần nhau, kết hợp với nhau. Nó là một mãnh lực bất diệt, mạnh mẽ, trường tồn và chính nhờ lòng thương này mà người ta có thể tìm gặp lại nhau trải qua không gian hay thời gian. Chắc hẳn các con nghĩ rằng người cha nghiêm nghị đầy uy quyền khi trước đã trở nên mềm yếu chăng? Này các con, chỉ khi nào buông xuôi tay bước qua thế giới bên này, các con mới thực sự trải nghiệm được trạng huống của mình, tốt hay xấu, hạnh phúc hay đau khổ, thích hợp với cảnh giới thanh cao tốt lành hay những nơi chốn thấp thỏi xấu xa. Hơn bao giờ hết, cha xác định rằng điều cha học hỏi nơi đây là một định luật khoa học thật đơn giản mà cũng thật huyền diệu. Nó chính là cái nguyên lý trật tự và điều hòa hằng hiện hữu trong vũ trụ. Sự lựa chọn để sống trong cảnh giới mỹ lệ đẹp đẽ hay tăm tối u minh đều do những tần số rung động của mình mà ra cả và chính mình phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình hay lựa chọn những nơi mà mình sẽ đến.

Khi còn sống cha tin rằng chết là hết, con người chỉ là sự cấu tạo của các chất hữu cơ hợp lại, nhưng hiện nay cha biết mình đã lầm. Cha không biết phân biệt phần xác thân và phần tâm linh. Sự chết chỉ đến với phần thân xác trong khi phần tâm linh vẫn hoạt động không ngừng. Nó đã hoạt động như thế từ thuở nào rồi và sẽ còn tiếp tục mãi mãi. Hiển nhiên cá nhân của cha không phải là cái thể xác đã bị hủy hoại kia mà là phần tâm linh vẫn tiếp tục hoạt động này, do đó cha mới cố gắng liên lạc với các con để hoàn tất điều mà cha đã hứa với các con khi xưa. Cha nghiệm được rằng sự sống giống như một dòng nước tuôn chảy không ngừng từ nơi này qua nơi khác, từ hình thức này qua hình thức khác. Khi trôi chảy qua những môi trường khác nhau nó sẽ bị ảnh hưởng những điều kiện khác nhau; và tùy theo sự học hỏi, kinh nghiệm mà nó ý thức được bản chất thiêng liêng thực sự của nó. Cũng như sóng biển có đợt cao, đợt thấp thì đời người cũng có những lúc thăng trầm, khi vinh quang tột đỉnh, lúc khốn cùng tủi nhục, nhưng nếu biết nhìn lại toàn vẹn tiến trình của sự sống thì kiếp người có khác chi những làn sóng nhấp nhô, lăng xăng trên mặt biển đâu. Chỉ khi nào biết nhận thức về bản chất thật sự của mình vốn là nước chứ không phải là sóng thì các con sẽ ý thức được tính cách trường cửu của sự sống. Từ đó các con sẽ có một quan niệm rõ rệt rằng chết chỉ là một diễn tiến tất nhiên, một sự kiện cần thiết có tính cách giai đoạn chứ không phải một cái gì ghê gớm như người ta thường sợ hãi. Điều cần thiết không phải là trốn tránh sự chết hay ghê tởm nó, nhưng là sự chuẩn bị cho một sự kiện tất nhiên phải đến một cách thoải mái, ung dung vì nếu khi còn sống các con đã đem hết khả năng và phương tiện của mình để giúp đời, để yêu thương mọi loài thì lúc lâm chung, các con chẳng có gì phải luyến tiếc hay hổ thẹn với lương tâm cả. Trước khi từ biệt các con, cha muốn nói thêm rằng hiện nay cha đang sống một cách thoải mái, vui vẻ và an lạc chứ không hề khổ sở.

Nguyên Phong dịch

https://www.youtube.com/watch?v=vsxUdQ8QUWk
Lá thư từ bên kia thế giới - Nhân Nguyễn đọc

.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeMon Sep 14, 2020 10:32 pm

.

https://www.youtube.com/watch?v=-EFNlgFz-Mk&list=PLQKq4PCgMLsFq8JQKryr17lC6FhOID6V2&index=3
Rong chơi cuối trời quên lãng - Hoàng Thi Thơ - Hoàng Phương Mai


Hãy thong thả Sống  Images?q=tbn:ANd9GcT1Lh50Cc_KcHN_w1A_2c3iIBRGtsqcre1ka_Oz41_TvvRVcT31Mg&s

Cõi Tạm

- Song Thao


Nghỉ hè, nghỉ phép, ta thường đi chơi xa, trú ngụ tạm tại khách sạn. Dăm ba bữa nửa tháng, lại trở về nhà. Thường khi về nhà, lọt vào khung cảnh cũ, ngả mình trên chiếc giường quen thuộc, ta luôn luôn cảm thấy thoải mái, thú vị. Khách sạn là cõi tạm, nhà là cõi thực . Cuộc đời này là một cõi tạm. Hầu như mọi người đều nghĩ như vậy. Nhưng cái cõi tạm này, chúng ta tạm trú hơi lâu, quen hơi quen tiếng, nên khó rời. Biết là tạm mà vẫn cứ thích ở... khách sạn!

Ông bạn da đen của tôi, người thuần thành đạo Cơ Đốc, rất tha thiết được chầu Chúa. Chủ Nhật nào cũng đi nhà thờ, trong túi không bao giờ quên tờ giấy hai chục đô cúng dường, cuốn Thánh Kinh luôn luôn đeo theo người, nói câu nào cũng mời Chúa về góp tiếng cho chắc ăn. Một bữa, thấy ông vất vả với công việc, tôi giỡn.
-Này, Gabriel, cuộc sống coi bộ nhiều mồ hôi quá nhỉ?
Bạn tôi cười nhe hàm răng trắng lạnh.
-Đời mà! Chúa đã phán “Con phải đổ mồ hôi trán lấy bát cơm ăn”. Mình cứ phải theo ý Chúa vậy chứ sao.
Tôi làm bộ tỉnh phán theo.
-Tôi thấy cậu là con cưng của Chúa, sao không xin Chúa cất về ngồi bên chân Chúa cho nhàn hạ cái thân!”
Gabriel lắc đầu quầy quậy.
-Còn sớm quá! Tôi còn mấy đứa con nhỏ phải nuôi, chắc Chúa cũng hoãn cho một thời gian nữa chứ!
Bạn tôi không nói rõ một thời gian là bao lâu, nhưng bằng vào cái lắc đầu hung hãn như vậy, tôi dè chừng chắc là phải lâu lắm!
Một ông bạn khác, ung thư thời kỳ cuối, con cái đã có chồng vợ đâu vào đấy, đời chẳng còn gì phải lo lắng, cuộc sống rất thoải mái về vật chất, nhưng cái đau đớn của tật bệnh thật khôn lường, chép miệng than thở khi tôi tới chơi.
- Mình cũng tới tuổi rồi. Nhưng nếu Trời cho ít năm nữa thì quý hóa quá!

Sống có vất vả, đau đớn đến thế nào chăng nữa, vẫn cứ thích bám vào cõi tạm. Sao vậy? Bởi vì cái cõi mà người ta gọi là vĩnh hằng, miên viễn, vô ưu... ta chưa hề biết tới chăng? Hay là bởi vì từ cõi tạm bước qua cõi thật đó, người ta phải xuôi tay nằm dưới ba tấc đất hoặc uốn người trong ngọn lửa thiêu? Toàn những trò khó chơi cả.

Nhà sinh học Susanne Wiigh-Maesak, người Thụy Điển, vừa phát minh ra một trò mới. Trò này coi bộ dễ chịu hơn. Thi hài người chết sẽ được làm lạnh cực nhanh đến -18 độ C và sau đó nhúng vào nitơ lỏng có nhiệt độ -196 độ C. Thi hài, sau khi được lấy ra khỏi dung dịch siêu lạnh, trở nên giòn tan như kính và vỡ vụn thành một hợp chất dạng bột. Tất cả số nước còn lại được hút vào một khoang chân không, trước khi cho chạy qua một màn kim loại để lọc bỏ tất cả những vật thể còn sót lại (những thứ cấy ghép trong thân thể) chưa phân hủy. Bột thi hài, sau đó, có thể được thiêu đốt, hoặc được chôn trong một quách làm bằng tinh bột bắp, đặt trong hố nông khoảng 30 phân. Sau khoảng một năm, oxy và vi khuẩn sẽ phá hủy chúng hoàn toàn, biến thi hài trở thành cát bụi. Bà Wiigh-Maesak cho biết bà đã đệ đơn bản quyền phương pháp này ở 35 quốc gia. Phương pháp này giúp tránh làm vẩn đục môi trường như hai phương pháp thông dụng hiện nay là hỏa thiêu và chôn dưới đất quá sâu làm trì trệ quá trình phân hủy.

Không phải là các nhà sinh học, mấy ông bạn tôi cũng bầy ra nhiều cách... vượt biên từ cõi sống qua cõi chết.
Vui lắm.

Như ông Du Tử Lê chẳng hạn.
Khi tôi chết hãy đưa tôi ra biển
Đời lưu vong không cả một ngôi mồ
Vùi đất lạ thịt xương e khó rã
Hồn không đi sao trở lại quê nhà

Ông Luân Hoán còn cãi cọ với... thinh không.
Không từ đất sao phải về với đất
Thịt xương này không thể mất khơi khơi
Khi tôi chết xin đem giùm thi thể
Chia cho thù lẫn bạn nhậu chơi

Ông Lưu Nguyễn cứ thiên thai lơ lửng.
Mai này ta sẽ ra đi
Người ơi có nhớ có gì nhắn không
Trăm năm mây trắng bềnh bồng
Về nơi đã đến mà lòng thảnh thơi

Dặn dò rối rít xong các ông ấy đi... uống cà phê. Bởi vì cái chết vẫn chưa trong tầm mắt. Cõi tạm này mới đích thực trong tầm tay. Tạm lâu ngày dễ có ảo tưởng đây mới là cõi thật.

Đời người được bao lâu? Trăm năm trong cõi người ta. Trăm năm? Mấy người được trăm năm? Bà cụ 114 tuổi của kỷ lục Guinness vừa qui tiên, còn Việt Nam đang vận động cho một cụ bà Việt nam, cũng 114 tuổi, được ghi vào thay thế. Lóng rày, coi bộ Việt Nam ham giữ kỷ lục thế giới dữ. Kỷ lục là thứ xịn. Thường thường bực trung khó với tới. Ông anh tôi bảo cứ sáu chục cái xuân già là gỡ đủ sở hụi rồi. Thêm được năm nào là bonus của trời đất!
Trong cái thời gian sống chỉ là tích tắc so với đời sống của vũ trụ, con người quậy như điên. Đủ món ăn chơi. Kèn cựa, khích bác, tranh dành, lừa đảo, xô đẩy, chém giết... nhau. Mỗi người cố thu vén cho riêng mình. Nhà sang, xe xịn, lợi danh, tiền bạc... Mặc sức mà vung tay vung chân. Mặc sức mà lèn cho đầy túi tham. Nhiều người sống trong cái sân si tối tăm trong suốt cuộc sống. Trẻ, tiết vịt còn chảy rần rần trong người, hung hăng con bọ xít đã đành. Già, máu tưởng đã phải nhiễm lạnh mà vẫn cứ sân sân si si phát khiếp.

Như Bà Margaret Ann Thomas-Irving, 58 tuổi, cư dân ở Hartford, Connecticut chẳng hạn. Từ tháng 10/2002 đến tháng 7/2003, trong vòng chưa đầy một năm, đã một mình cướp nhà băng tới 12 lần. Tổng cộng số tiền cướp được là 19 ngàn đô. Vũ khí của bà chỉ là khẩu súng đồ chơi con nít, hoặc ngon hơn, chẳng súng siếc gì cả chỉ dọa nhân viên ngân hàng là trong ví có súng là họ nộp tiền ngon ơ!
Cướp có nghệ thuật hơn là hai vợ chồng James Roland Clark, 71 tuổi, và Deloris Jane Clark, 66 tuổi, dân Florida. Ông chồng xách một bao cát vào ngân hàng dọa là chất nổ, bà vợ rồ sẵn máy xe chờ ở ngoài cửa.
Cướp xong ông chạy ra phóng lên xe vù mất. Nhờ một gói thuốc nhuộm cho phát nổ sau đó cảnh sát mới tóm được hai ông bà già chịu chơi này.

Bà già Connie Parker, 74 tuổi, cư ngụ ở Nassau, tiểu bang Nữu Ước vừa trúng số độc đắc 25 triệu. Khi đi lãnh thì, sau khi trừ thuế má, bà cầm tay được 7,3 triệu. Bà ôm chặt lấy tiền, nhất định không chia cho ông chồng Kenneth Parker, 77 tuổi, đang bị ung thư phổi thời kỳ cuối. Ông chồng cho biết là ông đã đưa cho bà 20 đô để bà đi mua số nhưng bà cãi lại bà đã mua số bằng tiền riêng của bà. Ông chồng tức giận đâm hai đơn một lúc.
Một đơn đòi chia tiền, một đơn xin ly dị sau 16 năm rưỡi chung sống. Rút cục, cụ đi đường cụ tôi đường tôi, và bà Connie phải thỏa thuận chia cho ông chồng một số tiền không rõ là bao nhiêu nhưng theo tiết lộ không chính thức, là một phần ba số tiền bà lãnh.
Thất thập cổ lai hy. Hiếm có thiệt! Sống đã từng ấy tuổi tưởng tay chân đã làm biếng nhấc lên nhấc xuống, ai ngờ vẫn cứ chụp giật như máy. Để làm chi? Ôm về cõi viên mãn chăng? Cõi bình an đó có cần những thứ
phù phiếm của cõi tạm này không?

Một cặp vợ chồng già đã trên 80 tuổi mà vẫn khỏe mạnh. Họ ăn uống kiêng khem và tập thể dục hàng ngày.
Không may hai cụ qua đời do một tai nạn xe buýt, họ lên thiên đàng và được thánh Phêrô đón tiếp nồng hậu.
Thánh Phêrô đưa hai người đi coi nhà bếp khổng lồ, hồ bơi, phòng tắm hơi, sân chơi golf... Lóa mắt vì sự sang trọng của ngôi nhà, cụ ông hỏi thánh Phêrô.
- Chúng tôi có phải trả tiền cho những thứ này không?
- Tất cả đều miễn phí, đây là thiên đàng mà!
Đến giờ ăn, thánh Phêrô đưa hai cụ đến môt phòng ăn sang trọng, thức ăn ê hề. Cụ ông hỏi.
- Thưa Ngài, tất cả các món ăn này cũng miễn phí cả sao?
- Tất nhiên!
Cụ ông lại rụt rè hỏi tiếp.
- Chúng tôi có thể ăn tùy thích, không phải lo ngại dư mỡ, đường, cholesterol chứ ạ?”
- Không, tôi đã bảo là cụ đang ở trên thiên đường cơ mà! Cụ có thể ăn uống no say tùy thích mà không sợ bị mập phì, đái đường hay nhồi máu cơ tim gì cả.
Bỗng nhiên mặt cụ ông trở nên đỏ gay, quay sang cụ bà quát to.
- Tất cả do lỗi của bà! Nếu bà không ép tôi phải ăn uống kiêng cử và tập thể dục hàng ngày thì tôi đã lên đây sớm hơn mười năm rồi!
Cái cõi mông lung đó đâu phải chỉ có thiên đường. Những nơi khác có vui như vậy không?

Hai bợm nhậu ngồi bên chai rượu đã cạn quá nửa. Một ông hỏi.
- Ông bạn nghĩ là có thế giới bên kia hay không?
Ông bạn kia gục gặc đầu.
- Có chứ! Mà chắc ở bển cũng vui vẻ lắm, nhậu nhẹt lu bù.
- Sao ông biết?
- Thì ông thấy đấy. Mấy chả đi có cha nào thèm quay về đâu!

Dương sao âm vậy. Dân gian vẫn cứ tin như thế. Cái cõi đầy bí ẩn đó được hiểu như là một nối dài của cõi tạm này, cũng có cuộc sống và những cung cách sống cụ thể như nhau. Vậy nên mới có dịch vụ gửi UPS không thiếu thứ gì qua cõi mờ ảo đó. Nhà cửa, xe cộ, quần áo, nồi niêu soong chảo, vàng bạc, tiền đô giấy lớn 100.000, và cả... điện thoại di động nữa! Mấy bà thương chồng cũng không quên gửi những nàng hầu trắng trẻo xinh đẹp xuống cho các ông chồng bớt cô đơn. Dĩ nhiên, trước khi hóa vàng, mấy bà không quên rạch mặt, chọc mù mắt hình nhân để thỏa cơn ghen kéo dài qua hai cõi!
Tin như thế bị coi là tin nhảm. Mê tín! Nhưng mâm cơm cúng ngày giỗ ngày tết chắc có ý nghĩa khác. Không ai nghĩ là người từ cõi kia về ăn như chúng ta ăn (cơm canh còn nguyên đó chứ có hụt đi chút nào đâu!) nhưng làn khói nhang ấm áp mời người quá cố về thụ lộc được hiểu như là một cách tưởng nhớ tới người thân đã bước sang cõi khác trước chúng ta. Tấm lòng thương tưởng của chúng ta thể hiện qua cách cúng những món ăn mà người thân quá cố ưa thích khi còn sinh tiền.
Trong nghĩa trang, một ông dọn cơm canh cúng trên mộ vợ. Một ông người bản xứ thành kính đặt bó hoa trên ngôi mộ bên cạnh. Lễ bái, cầu kinh xong, ông bản xứ hỏi ông Việt nam:
- Bộ ông tin rằng vợ ông có thể về ăn được những thức ăn ông cúng như vậy chăng?
Ông Việt nam bình thản hỏi lại:
- Bộ ông cũng tin rằng vợ ông có thể về ngửi được bó hoa ông đặt trên mộ kia chăng?

Chỉ một bước ngắn, chúng ta chuyển từ cõi này qua cõi khác. Ai cũng ngại ngần trước nhịp bước vô định này.
Cõi tạm, cõi... khách sạn, chúng ta đã quen nếp sống.
Cõi thực, cõi... nhà, chúng ta u u minh minh. 

Cái bước dùng dằng từ một chỗ đứng cân bằng trên mặt đất sang chỗ chênh vênh mây trời là cái bước mỗi con người phải trải qua. Cái điều chắc chắn sẽ xảy ra này chúng ta không muốn nghĩ tới. Càng thêm tuổi, chúng ta càng làm lơ không muốn nghĩ tới. Không nghĩ thì làm sao mà hiểu được.

Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.
(Mai Thảo)
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeThu Dec 17, 2020 9:15 am

.
Hãy thong thả Sống  Calm-001

TÂM AN
- Trần Mộng Tú


Gửi những người bạn thân yêu của tôi.

Chữ này nghe sao giản dị thế, cả hai chữ đều vần bằng, nên khi đọc lên giọng ta trầm xuống, ta có thể nói thầm vào tai nhau rất khẽ nghe cũng vẫn rõ ràng.

Chữ Tâm và chữ An để đặt tên cho con cũng rất đẹp. Người ta hay dùng hai chữ này đi đôi với nhau hay dùng riêng lẻ, hay ghép vào một chữ khác, đều hay. Các nhà lãnh đạo tinh thần, thầy giáo dậy văn chương hay dùng trong những bài giảng: Tâm Hương, Tâm Linh, Tâm Tịnh, Tâm Phúc, Tâm Thanh,v.v… Hoặc: An Bình, An Lạc, An Hòa, An Khang…
Nhưng thật sự trong đời sống hàng ngày chúng ta có với được tới hai chữ “Tâm An” không? Tại sao các linh mục, các nhà sư khi tới thăm người sắp qua đời cũng nói câu đầu tiên là: “Anh hay chị hãy sửa soạn cho mình được tâm an vào những giờ sau cùng của đời người.” Và người sắp ra đi đó cũng nhờ những vị hỗ trợ tinh thần “Giúp cho con đi được tâm an”.
Như vậy có phải là chúng ta hàng ngày sống với cái “tâm động” hay không?  Chúng ta có cả ngàn lý do để động tâm. Động tâm gồm cả: yêu quá mức, giận hờn, nghi kỵ, oán hận, ghen tuông, tự ái, kiêu hãnh, mặc cảm… Làm sao con người sống một đời không va chạm với ngần ấy thứ. Tránh cách nào cũng va vào một vài thứ. Ngay cả những bậc tu hành cũng phải mỗi ngày cầu nguyện, tĩnh tâm để mang mình ra khỏi những con lốc đó.

Có bao nhiêu vị chân tu đích thực với được hai chữ “Tâm An”.

Tâm không “An”, phải chăng do mỗi người đều đặt cái tôi của mình là điểm chính, rồi từ đó mang tới sự “hỗn loạn” trong tâm vì cái tôi không được hài lòng.
Các lớp Thiền Học được mở ra, các khóa Tĩnh Tâm được tổ chức cũng không ngoài mục đích giúp cho con người có được “Tâm An”.

Lời khuyên của Trang Tử từ hơn ngàn năm trước, trong Nam Hoa kinh, đã khuyên mọi người muốn có tâm an cần phải: “Ngủ không nằm mộng, thức chẳng lo lắng, ăn không cầu kỳ, thở thật thâm sâu” (Kỳ tẩm bất mộng, kỳ giác vô ưu, kỳ thực bất cam, kỳ tức cam cam).
Ai ngủ mà không nằm mộng, nhưng có giấc mộng hiền lành, khi thức giấc, quên ngay. Có cơn mộng dữ, dậy toát mồ hôi, tim đập dồn dập và làm người ta cứ quay quắt với cơn mộng đó cả hai, ba ngày.

Nhiếp chính vương Gyalwa Dokhampa đản sinh năm 1981, còn được biết đến với hồng danh Khamtrul Rinpoche, tác giả cuốn sách Tâm An Lạc, viết: "Chính tâm ta tạo nên thế giới chúng ta đang sống", từ đó tác giả gửi tới thông điệp rằng thái độ, quan điểm của tâm chính là chìa khóa quyết định hạnh phúc hay khổ đau của mỗi người.
Trong Thiên Chúa Giáo cũng có Kinh Hòa Bình của thánh Francis hướng dẫn chúng ta muốn có tâm an thì điều cần thiết là: “Đem yêu thương vào nơi oán thù. Đem thứ tha vào nơi lăng nhục… vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ.” Đó cũng chính là tự tâm mình tạo cho mình một thế giới hòa bình.

Khi chúng ta còn trong tuổi thanh xuân hay ngay cả ở tuổi trung niên, chúng ta sống cuồng nhiệt với danh vọng, với những mục đích phải tiến tới:
Đã mang tiếng đứng trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông – Nguyễn Công Trứ

Chúng ta mang hết cả tài hoa, thể lực ra để đạt được mục đích lý tưởng đó.
Chắc chắn chẳng thế nào có được “Tâm An” vì những tiếng động danh vọng đó dội từ trong dội ra, từ ngoài dội vào.

Nhưng khi đã bước đi đến gần hết con đường đời (cả danh vọng và tuổi tác), nếu chưa hiểu thấu đáo câu:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao  
của Nguyễn Bỉnh Khiêm thì quả là ta “Dại” thật.

Ai trong chúng ta cũng có một cái bình chứa đầy lẫn lộn những cái cần thiết và những cái không không cần thiết. Chúng ta phải trút cả ra để nhặt giữ lại cái cần và cái không cần, vứt đi. Có khi chúng ta làm đi làm lại mãi mà sao khi cầm lên vẫn thấy bình đầy. Có phải, khi đổ ra để lựa lại, chúng ta thật ra chẳng vứt được bao nhiêu. Cái tủ áo quần cũng vậy, dọn tủ cho bớt đi, cầm lên bỏ xuống vẫn tiếc. Cuối cùng cái tủ vẫn đầy. Vậy cái tâm của mình đâu có khác gì cái bình hỗn tạp, cái tủ quần áo lâu năm.

Những nhà tu hành luôn nhắc nhở chúng ta: “Muốn có tâm an, phải biết dốc hồn cho trống rỗng”. Hồn không trống rỗng, chúng ta chẳng bao giờ tìm được cái tâm an.
Có một bài thơ tôi yêu thích lắm, nhất là khi đã bước qua tuổi sáu mươi. Đó là bài thơ “Điểu Minh Giản” của Vương Duy, nói về cái rỗng không của tâm với (thân nhàn) tiếng rơi của cánh hoa quế (hoa quế lạc), trăng mọc (nguyệt xuất) và tiếng chim núi kêu (kinh sơn điểu).

Nhà thơ Vương Duy, đời Đường của Trung Hoa (701-761) đã để cái tâm mình rỗng, rỗng tới nỗi nghe được cả tiếng rơi của cánh hoa quế. Hoa quế là loại hoa rất nhỏ, cánh mỏng, rơi trên núi trong một đêm xuân tĩnh mịch làm sao gây được tiếng động trong tâm thi sĩ. Vậy thì có phải cái hương của hoa bay ra chính là tiếng dội vào cái tâm trống không?
Con chim ở núi khi nhìn ánh trăng lên nó cũng giật mình cất tiếng kêu. Thật sự có tiếng chim kêu hay tiếng kêu đó chỉ bật ra từ cái tâm trống rỗng của thi nhân vì ánh trăng xuất hiện.

Hãy thong thả Sống  Image001
Hoa Quế-Hình minh họa

Điểu Minh Giản
Nhân nhàn hoa quế lạc,                    
Dạ tĩnh xuân sơn không.                      
Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
Thời minh tại giản trung. (Vương Duy)

Dịch nghĩa:     
                                       
Người nhàn, hoa quế rụng,
Đêm yên tĩnh, non xuân vắng không.
Trăng lên làm chim núi giật mình
Thỉnh thoảng cất tiếng kêu trong khe núi.


Hãy thong thả Sống  Image002


Dịch thơ:       
Người nhàn hoa quế nhẹ rơi,
Đêm xuân lặng ngắt trái đồi vắng tanh.
Trăng lên, chim núi giật mình,
Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đồi. (Ngô Tất Tố dịch)

Hoa quế khẽ rơi trong tâm an
Đêm xuân tĩnh lặng trên đồi vắng
Quanh đồi chim núi thẳng thốt kêu
Mỗi khi chạm vào ánh trăng sáng (tmt dịch)

Hãy để cái tâm an của mình chỉ động khi chạm vào một bài thơ.

tmt
Cuối năm 2016.



Hãy thong thả Sống  Th?id=OIP

https://www.youtube.com/watch?v=J6tzrnaxzdc

Joan Baez - Forever Young

May God bless and keep you always
May your wishes all come true
May you always do for others
And let others do for you
... ...

May you grow up to be righteous
May you grow up to be true
May you always know the truth
And see the light surrounding you
May you always be courageous
Stand upright and be strong
May you stay forever young
Forever young, forever young
May you stay forever young
... ...



Hãy thong thả Sống  Img_0012

.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeWed Dec 30, 2020 12:05 am

.
Hãy thong thả Sống  4866921259_14d97bb2af_z_525411673


Chuông Gọi Hồn Ai

Chủ Nhật, ngày 06 tháng 12 năm 2015

Cuối năm nghe hồn rất mỏi
Bụi nào trong mắt cay cay (tmt)

Buổi sáng mùa đông tôi lái xe đi về phía nhà thờ, tôi đi giữa hai hàng cây đã rụng đến chiếc lá cuối cùng, những nhánh cây khô vươn lên bầu trời xám, trông như những bộ xương cá voi khô, trông như ai vừa tung ra những nắm bút chì dài ngoằng, trông như những sợi giây thép cong queo vứt lên không gian. Trông không còn là cây của ngày tháng hôm qua nữa.

Ở một ngã tư, khi vừa ngưng lại chờ đèn xanh, tôi được ngắm một bầy hải âu rất đông, không biết từ đâu kéo đến, chúng bay vần vũ trên những nóc nhà, mầu trắng của cánh pha vào màu xám của bầu trời mơ hồ như không có thật, khi chúng bay lao xuống, chúng thả theo những tiếng kêu thật thấp, thấp đến nỗi mình có cảm tưởng sẽ nhặt được những tiếng kêu đó, nhưng chưa kịp làm gì cả thì chúng lại bay vụt lên.
Hai bên đường những bóng đèn màu đã gần như được treo trên hầu hết những cửa hàng, và quấn chung quanh những thân cây. Cây thật sự không cần lá nữa. Những ngọn đèn xanh đỏ đã cho chúng một hình hài mới.

Ở một ngã tư kế, những bóng đèn màu đang chớp chới trên vai hai người đàn ông vô gia cư ngồi dưới gốc cây. Gió thổi đến từ bốn góc đường.
Mùa đông thật sự hiện hữu. Tôi đi qua những hàng cây khô, những ngọn đèn màu, qua vai người homeless. Tôi nhặt lên được gì trong mùa đông?
Hai tuần trước một người bạn bỏ đi, đi thật xa “Người đi, ừ nhỉ người đi thật”. Người bạn đó là nhà văn Phùng Nguyễn. Sự ra đi của anh như một cơn gió mạnh đến bất ngờ làm gẫy ngang một thân cây, không chống đỡ kịp. Những thớ gỗ tươi rói, rách tươm còn ứa nhựa.

“Anh Phùng để lại một dấu ấn không thể nào phai mờ. Cũng không ai thay thế được. Bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu kỷ niệm, chồng chất như “Tháp Ký Ức” của anh.” (Điếu Văn-Da Màu)
Phùng Nguyễn cũng để lại bao nhiêu dự định văn học anh đã phác thảo, những câu phỏng vấn anh gửi cho tôi (trong mục phỏng vấn đang lên khuôn của anh) tôi chưa viết xong, còn bàn qua, nói lại với anh. Anh muốn trả lời dài, mà tôi thì chỉ biết trả lời ngắn. Bây giờ thì chữ nghĩa đều theo thân xác anh bay như tàn tro rồi, anh có nhặt lên được xem dài ngắn thế nào không? Nghĩ mà thương anh.

Tôi táp xe vào một bãi đậu, rồi bước xuống đi vào mùa đông. Những chiếc lá nằm chết thản nhiên hai bên cạnh đường, tôi cúi xuống nhặt lên một chiếc, như nhặt một bài thơ.
Bài thơ của thi sĩ Khánh Hà viết cho chồng, nhà văn Tâm Thanh trong khi anh đang cố chống trả với ung thư. Khánh Hà cũng hình dung ra đời người như lá:

Đời người như lá mong manh
Hôm nao lá sẽ lìa cành lá rơi
Nghiêng nghiêng vẫn một dáng ngồi
Mái đầu bạc trắng đâu rồi tóc xưa
Tình yêu lòng vẫn còn thừa
Trái tim rạng rỡ vẫn chưa nhạt màu…. (Chiếc Lá Mong Manh-KH)

Chiếc lá đó đã rơi vào tháng Tư năm 2014, trước Nguyễn Xuân Hoàng năm tháng.
Tâm Thanh với những tác phẩm đáng ghi nhớ trong lòng độc giả: Thiên Nga Giữa Cõi Người, Gỗ Thức Trên Rừng, Thiên Hương Về Trời…
Hai người bạn văn ở hai bên trời cách biệt cùng đi về một phía trong một thời gian rất ngắn.

Tôi dong chơi tự do một thời
Ngoảnh lại đằng sau giật mình sợ hãi
Những dại khờ những lầm những lỡ
Những suối sâu xanh những đèo cao cong những truông dài mờ
Trời thì đang mông mênh
Ôi ngựa phi nước đại một thời bỗng quị chân
Ôi chim bay mù khơi bỗng gẫy cánh
Ôi tôi người xa lạ bỗng quen em… (Làm Quen-NXH)

Đó là thơ tình của tác giả đã viết: Bụi và Rác, Căn Nhà Ngói Đỏ, Người Đi Trên Mây.
Anh cũng bỏ chúng ta đi tháng 9 năm ngoái, sau hơn một năm anh bỏ viết. Nguyễn Xuân Hoàng viết văn nhiều hơn làm thơ, thơ của anh cũng buồn buồn như văn của anh vậy.
Nguyễn Xuân Hoàng để cả một đời cho văn chương chữ nghĩa. Anh dậy học, làm báo, viết văn, làm thơ. Tất cả sở thích, nghề nghiệp đều chạy quanh con chữ.
Anh mất, nơi thành phố anh cư ngụ mất đi hình ảnh một người làm văn chương có phong cách trước 1975, một nhà văn của thời VNCH. Đáng tiếc lắm!

Cũng trong năm ngoái, trong băng giá tháng 12 của Na Uy, chúng ta mất Nguyễn Hữu Nhật. Nguyễn Hữu Nhật là phu quân của nhà văn Nguyễn Thị Vinh, ông có bài thơ - Người Tù Già Kể Chuyện Mình, rất hay, đây là một đoạn trong bài thơ đó.
Anh chị em ơi
Làm sao chúng ta có thể trả lời cho con cháu
Ngày mai
Về một câu hỏi rất giản dị
Sống để làm gì?
Nếu chính chúng ta hôm nay
Không biết làm gì để sống.

Nhà tù Cộng Sản đã là nơi hun đúc tù nhân thành thi sĩ.

Nhưng không cần nhà tù, ngay giữa đời sống bên ngoài, xã hội khắc nghiệt đó cũng vô tình tạo ra bao nhân tài chữ nghĩa. Một trong những nhân tài đó là nhà văn Bùi Ngọc Tấn và ông cũng bị gió cuốn bay đi cùng năm, cùng tháng với Nguyễn Hữu Nhật, cách nhau có mấy ngày.
Nhà văn Bùi Ngọc Tấn phần đông bạn văn ở hải ngoại chỉ biết anh qua văn chương, nhưng đọc sách của anh, nhất là qua cuốn Chuyện Kể Năm Hai Ngàn (được dịch sang tiếng Anh, Pháp và Đức) ta thấy tư tưởng, ý nghĩ, cách diễn tả của anh rất gần gũi với mình. Văn chương thật sự đã giúp tình cảm của người viết và người đọc cảm thông nhau, nên khi anh mất, những người bạn văn phía bên này cũng thấy tiếc thương. Cái lằn ranh bên kia bên này, đối với những người viết hình như không có nữa, khi họ khám phá ra trong văn chương của nhau đều chuyên chở một ý nghĩa, một cảm xúc.
Nhà văn Nguyên Ngọc đã nhận xét về Bùi Ngọc Tấn như sau: “Sự bình tĩnh, nhân hậu của ngòi bút anh cho thấy đức dũng cảm ở con người của anh cao cả biết dường nào."

Tôi dừng lại ở một gốc sồi, gỡ ra một trong những chiếc bóng đèn màu quấn quanh thân cây, một khúc thơ khác:
Khúc Thơ của một thi sĩ cũng ở Na Uy tặng vợ, thi sĩ Dương Kiền.

Trà Mi

Tặng em một đóa trà mi
Đầu xuân tưởng chút tình quê thơm nồng
Tặng em một vệt nắng hồng
Cám ơn trời đất lạnh lùng nơi đây
Tặng em một cánh chim bay
Có bay về cuối trời đầy nhớ thương
Tặng em một chút trầm hương
Trong tâm ngộ chữ vô thường ngát thơm.

Không biết ông viết bài thơ này năm nào, nhưng ông đã để lại đóa hoa trà trên bàn và ông bay theo gió.
Dương Kiền bỏ đi năm nay cùng tháng cùng ngày với Phùng Nguyễn. Chắc một già một trẻ đã gặp nhau rồi.

Mùa đông đang rơi trên vai những người homeless, họ phủi mùa đông xuống rồi lầm lũi đi, tôi đi sau họ, nhặt những chiếc lá nhàu, úng nước.
Một chiếc lá khá to nhưng trông cũ kỹ nhất, một chiếc lá chắc rơi xuống từ một cây cổ thụ.

Ta đến từ đâu, đâu biết được
Đến đây được biết có Mình thôi
Gặp nhau từ thuở ban sơ ấy
Quấn quít nhau không một phút rời.
Tiền thân dù có dù không có
Ta có Mình khi ta có đời
Có Mình, ta có luôn trời đất
Đã tuyệt vời chưa Thân Xác ơi  (Một đoạn trong Tạ Từ-Võ Phiến)

Tháng 9 của năm nay, làng văn chương Việt hải ngoại mất đi một người đàn anh, đàn anh của sự nghiệp văn chương và tuổi tác. Dù đám tang có trịnh trọng, có đông người tới đâu thì “cái mất” cũng không thay đổi được. Người ta lo in cuốn sách cuối cùng cho anh, lo đọc to lên những dòng cuối anh viết. Tất cả rồi cũng gấp lại, gấp như những cuốn sách trên giá sách thư viện. Con người của anh không còn hiện diện, ai muốn tìm anh thì không thể đến gõ lên cánh cửa, chờ anh ra mở với một nụ cười nữa.
Ngôi nhà ở thành phố Santa Ana chị vẫn ở, bạn bè ở xa tới vẫn ghé thắp tạ anh nén nhang trầm.

Gấp tất cả quyển dầy quyển mỏng lại, như ngày xưa vua gấp khăn áo quý phi. Tìm anh trên những trang mạng, mà những trang mạng thì không hề có mùi thơm của giấy. Buồn thật!
Nhưng khác với tất cả những văn thi sĩ tài hoa trong nước trước 1975, sống cuộc đời tương đối mực thước để giữ cho mình một phong cách nào đó, một thi sĩ làm thơ vừa ngông nghênh vừa bi tráng, có lúc bị gọi là ”phản chiến” cũng đã vừa nằm xuống ở quê nhà, trước Võ Phiến một tháng.
Nếu đời rơi như lá rơi thì chiếc lá Nguyễn Bắc Sơn cũng tự mình cuốn bay vào một góc khuất lấp nào đó, cho dù không nhặt lên được, tôi biết nó cũng tìm được một nơi rơi xuống thích hợp nhất, và ở đó một mình.
Thơ của Nguyễn Bắc Sơn một mình một cõi, nhưng vẫn “Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào”

Khi các con khôn lớn thế nào cũng nghe kể chuyện đời ba
Chuyện một nhà thơ yêu hòa bình nên bị đời cho đi khiêng đạn
Khi chiều xuống, bụi mù trời trên ngọn đồi ba đóng
Ba bắt đầu thương nhớ các con ba
Dù ở tiểu khu này ba là tên tiểu tốt
Nhưng các con nên tự hào ở tấm lòng ba
Ôi câu chuyện người anh hùng lỡ vận
Nên bụi đời cùng những kẻ ngu phu
Ðó là câu chuyện đời ba các con cần phải nhớ
Ôi một quãng đời dài lê bước ưu du… (Trong tập thơ Chiến Tranh Việt Nam và Tôi)

Đoạn thơ buồn như một tiếng thở dài.

Tôi vẫn đi trong mùa đông. Tháng Mười Hai mọi người trong thành phố đang chăng đèn trên nóc giáo đường, trên các khung cửa kính của các gian hàng, trước các cánh cửa của khu gia cư. Những bài hát mừng Giáng Sinh cổ điển vẫn được mang ra phát thanh khắp nơi. Trong tiếng nhạc lồng vào những tiếng chuông nhà thờ.
Tôi nhớ lắm! Nhớ những nóc giáo đường ở quê nhà luôn luôn có gác chuông. Chuông kéo báo sắp tới giờ lễ mỗi buổi sáng, hay lễ buổi chiều.
Nếu buổi trưa không phải là thời khóa biểu của lễ mà chuông nhà thờ kéo, thì đó là tin báo một người trong họ đạo vừa qua đời. Mọi người dù đang bận làm công việc gì cũng ngưng tay, cúi đầu, đọc một lời kinh ngắn cầu cho linh hồn vừa được gọi về. Đó là ý nghĩa của tiếng “Chuông Gọi Hồn”.
Những người bạn văn, bạn thơ của chúng ta bỏ đi trong vòng hai năm nay hình như dồn dập quá, làm cho chúng ta hụt hẫng, chao đảo và thương tiếc.
Chao ôi, là mùa đông!

Tôi tìm lối trở lại xe, tôi nhớ là mình đang trên đường đi tới nhà thờ. Tôi đi xin một lễ cầu hồn cho Phùng Nguyễn, như trước đây tôi đã xin cầu cho Mai Thảo, Đỗ Ngọc Yến, Lê Đình Điểu, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Tâm Thanh và Võ Phiến.

Trần Mộng Tú
Tháng 12/2015
(Chuông Gọi Hồn Ai- For Whom the bell tolls - Ernest Hemingway.)

(*) Phùng Nguyễn (1950 - tháng 11-2015/  Dương Kiền (1939 - tháng 11-2015)/ Võ Phiến (1925 - tháng 9-2015)/  Nguyễn Bắc Sơn (1944- tháng 8-2015)/ Tâm Thanh (1940- tháng 4-2014)/ Nguyễn Xuân Hoàng (1940- tháng 9-2014)/ Nguyễn Hữu Nhật (1942- tháng 12-2014)/ Bùi Ngọc Tấn (1934- tháng 12-2014).

.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitimeWed Jan 20, 2021 3:55 pm

.
Hãy thong thả Sống  Th?id=OIP.WkYaSDCyrN3JmaKhKqDnswAAAA&pid=15

Trầm Tĩnh Sống


Cuộc sống không nhất thiết chuyện gì cũng phải phân rõ trắng đen.
Có câu “nước quá trong thì không có cá, người xét nét quá thì không có bạn.”

Tranh chấp với người nhà, giành được rồi thì tình thân cũng mất đi.
Tính toán với người yêu, rõ ràng rồi thì tình cảm cũng phai nhạt.
Hơn thua với bạn bè, chiến thắng rồi thì tình nghĩa cũng không còn.

Khi tranh luận, người ta chỉ hướng đến lý lẽ mà quên rằng cái mất đi là tình cảm, còn lại sự tổn thương là chính mình.
Cái gì đã đen thì sẽ đen, trắng là trắng, tốt nhất hãy để thời gian chứng minh.

Rũ bỏ sự cố chấp của bản thân, dùng lòng khoan dung để nhìn người xét việc; thêm một chút nhiệt tình, một chút điềm tĩnh và ấm áp thì cuộc sống sẽ luôn có ánh mặt trời và suốt đời mình sẽ là người thắng cuộc.

Ở đời, sống là để bản thân mình xem, đừng tham vọng mọi người đều hiểu bạn; cũng đừng mong cầu mọi việc đều theo ý mình.

Khi đau buồn hay mỏi mệt, nên biết tự an ủi lấy bản thân
Không có người lo lắng thì càng phải mạnh mẽ
Không có ai cổ vũ cũng phải biết tự bay lên
Không có người chiêm ngưỡng cũng cần thơm tho và tươm tất.

Cuộc sống, không có khuôn mẫu cố định, chỉ cần một trái tim trong sáng và nhiệt huyết

Gặp phiền não thì tự tìm lấy niềm vui riêng, đừng quên đi hạnh phúc
Dù bận rộn cũng nhớ giữ lại chút thanh nhàn, đừng để mất sức khỏe
Mệt mỏi rồi thì tạm dừng lại nghĩ ngơi, đừng đánh mất niềm vui cuộc sống. Chỉ cần trong lòng luôn nhớ đến mục tiêu của kiếp sống, và biết hiện giờ mình đang làm gì ở đâu thì yên tâm, sẽ không bị lạc đường!

Nửa đời người khi tỏ ngộ
Phân trần đen, trắng mà chi!
Thế gian mỉm cười đối diện
Sống với cõi lòng vô vi.

(Sưu Tầm)



https://www.youtube.com/watch?v=-b4BjxrIp8o
Beautiful Piano Music, Vol. 3

.
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





Hãy thong thả Sống  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hãy thong thả Sống    Hãy thong thả Sống  Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Hãy thong thả Sống
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Tập Truyện Ngắn Tình Cảm - Hai đường thẳng song song
» Đừng lấy dối trá làm lẽ sống - Aleksandr Solzhenitsyn
» Dân trí… không từ trên trời rơi xuống
» Hệ thống tiền tệ Hoa Kỳ
» Hảo tự ố tăng thời bang vô đạo

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon  :: ĐỀ TÀI :: Tản Mạn-
Chuyển đến