Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon

Diễn Đàn của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Trung Học Nguyễn Trãi Saigon
 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  GalleryGallery  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Tìm kiếm
 
 

Display results as :
 
Rechercher Advanced Search
Keywords
linh Nhung quan nguyet Trung chẳng quốc thuoc ngắn ngam Nguyen phải sáng VNCH chuyen quynh Chung không chất truyện trong nhac hoang bich Saigon quang
Latest topics
» "Chinh Phụ Ngâm & Vườn hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng"
Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeThu Apr 04, 2024 12:38 am by Admin

» "Chinh Phụ Ngâm & Vườn hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng"
Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeThu Apr 04, 2024 12:09 am by Admin

» "Chinh Phụ Ngâm & Vườn hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng"
Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeThu Apr 04, 2024 12:09 am by Admin

» qua đi thôi bão nổi
Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeSat Mar 11, 2023 3:11 am by Admin

» Cụ Hoang Xuân Hãn
Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeSun May 08, 2022 10:37 pm by Admin

» Giáo dục VNCH - Giáo dục con đường khai phóng
Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeMon Jan 10, 2022 4:06 am by Admin

» Suy tư về kiếp người - Về Cùng Cát Bụi
Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeSun Jan 09, 2022 4:25 am by Admin

» AI ĐÃ HẠ GỤC CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN?
Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeSat Jan 08, 2022 2:41 am by Admin

» NHẠC THIỀN - Cõi Thiền trong Âm Nhạc
Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeThu Jan 06, 2022 4:11 am by Admin

April 2024
MonTueWedThuFriSatSun
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
2930     
CalendarCalendar
Affiliates
free forum

Affiliates
free forum


 

 Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU

Go down 
3 posters
Tác giảThông điệp
P-C
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeFri Apr 12, 2013 7:17 pm


Buồn Vui Tháng Tư


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 9k=

Như những người bị dị ứng với phấn hoa vào mùa xuân mỗi năm tại Vùng Hoa-thịnh-đốn, tôi nghe một nỗi buồn sâu thẳm thấm tận đáy lòng vào tháng tư mỗi năm. Cái cảm giác vào trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại Sài-gòn lại trở về với tôi. Nó giống như cảm giác khi cha tôi qua đời, một sự mất đi ghê gớm mà một đứa bé hơn mười tuổi lúc ấy không bao giờ nghĩ tới và không thể tin, nhưng nay với tầm vóc lớn lao khủng khiếp hơn.

Mình cảm thấy thế giới chung quanh như không còn nữa, hay tất cả đã rơi xuống địa ngục. Một thảm kịch còn bi thương hơn sự chết. Và cái cảm giác ấy cứ theo tháng tư mỗi năm mà trở lại với tôi cùng với câu hỏi: tại sao thảm kịch ấy có thể xảy ra?
Tôi không ngừng tìm hiểu sự thực và đào bới trong sách báo từ mọi phiá. Trong nhà tôi ở Virginia, vùng ngoại ô Washington D.C., có một thư viện nhỏ chiếm hết căn hầm bên dưới, trong đó có nhiều sách báo về cuộc chiến tranh Việt Nam, bằng Việt ngữ và ngoại ngữ. Những sách báo này, được cập nhật hàng năm, đã soi sáng nhiều sự thật vào thảm kịch Việt Nam, trong đó có mấy cuốn của Phạm Kim Vinh thường được tôi đọc đi đọc lại vì tác giả không phải chỉ viết sự thật mà còn thể hiện một lòng yêu nước nhiệt thành, rất nhân bản và một sĩ khí hiếm có trong thời hiện đại.

Học giả Phạm Kim Vinh đã có 37 cuốn sách viết về Việt Nam, thời chiến và hậu chiến, vừa bằng Việt ngữ và Anh ngữ. Ông qua đời năm 2000 khi đang viết cuốn thứ 38, America: From the Vietnam War to the 21st Century.
Trong tất cả những sách đã xuất bản, ông Phạm Kinh Vinh, không nhiều thì ít, đều nêu cao chính nghĩa của miền Nam Việt Nam, đặc biệt vinh danh những người lính VNCH trong cuộc chiến đấu gian khổ và luôn luôn chịu thiệt thòi trước mắt thế giới vì tuyên truyền bất lương của cộng sản và sự thiên lệch của giới báo chí thiên tả Âu Mỹ.
Đã có rất nhiều người viết về nguyên nhân đưa đến cái chết của Việt Nam Cộng Hoà, nhưng có lẽ đoạn dưới đây (trích từ cuốn Thiên Anh Hùng Ca Viết Cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Phạm Kim Vinh 1984) đã nói lên thực nhất về bi kịch Việt Nam:

(trích)
“Sử gia kiêm nhà báo Pháp Pierre Darcourt đã mang quân phục quân đội viễn chinh Pháp để đánh cộng sản tại VN năm 1946. Sau đó, khi giải ngũ, ông ta lại hùa theo một tác giả khác của Pháp là Bernard Fall để viết sách, báo ồn ào ca tụng cuộc chiến đấu của cộng sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Nhưng vào những ngày chót của miền Nam VN tự do, Pierre Darcourt đã cùng với Jean Lartéguy, một nhà báo Pháp khác trước kia cũng đã ồn ào ca tụng Hồ Chí Minh, lại trở thành những người hăng hái nhất để bênh vực cuộc chiến đấu của Nam VN. Cả hai đều đã nhiều lần đi tới tận mặt trận Xuân Lộc và tới một số trận địa khác ở quanh thủ đô Sài-gòn để được thấy tận mắt cuộc chiến đấu thật dũng cảm, và cũng thật tuyệt vọng của nhiều đơn vị Quân lực VNCH.

Cái thông điệp không cần lời nói ấy đã tỏa ra rõ rệt từ cử chỉ giác ngộ của hai người: từ đây, họ sẽ là nhân chứng để nói cho thế giới bên ngoài biết rằng họ đã được thấy tận mắt những người lính VNCH chiến đấu cho tới phút chót, và rằng muốn giải thích sự sụp đổ của Nam VN năm 1975 thì người nào tìm hiểu sự sụp đổ ấy sẽ phạm tội bất lương, nếu cứ nằng nặc đổ diệt cho quân lực Nam VN cái tội ‘không chịu chiến đấu’.

Pierre Darcourt tìm được thứ chất liệu rất sống cho thông điệp của ông ta bằng cách gửi cho thế giới bên ngoài lời trăn trối của một sĩ quan trẻ tuổi trong Quân lực VNCH. Sĩ quan ấy không chỉ huy một đơn vị lớn, nhưng hoàn cảnh chiến đấu tuyệt vọng của ông ta là hoàn cảnh của hàng trăm, hàng ngàn quân nhân VNCH khác ở những ngày cuối cùng của miền Nam tự do. Darcourt đã tìm gặp ông Trần Quốc Bửu, cựu chủ tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công VN. Ông Bửu có người con trai nhập ngũ từ nhiều năm trước. Đó là một đại đội trường, chỉ huy một đồn trong tỉnh Bà Rịa.
Ông Bửu tiếp Pierre Darcourt tại văn phòng của ông ta ở Sài-gòn. Trên một kệ sách, Darcourt trông thấy hình một sĩ quan VN trẻ tuổi. Một miếng vải đen cột chung quanh bức hình. Ông Bửu nói:
- Đó là hình con trai tôi, tử trận hồi tháng 10 năm ngoái (1974). Coi nó bảnh trai đó chứ, phải không ông? Nó can đảm, rất lanh lợi, và thẳng thắn. Nó có người vợ đẹp và hiền, và được đưá con trai ba tuổi. Nó là đại đội trưởng, chỉ huy một đồn tại Bà Rịa. Nó vừa được 27 tuổi lúc nó… Nó đã chọn quân đội không phải vì nó thích chiến tranh mà là vì chúng tôi đang có chiến tranh… Nó chiến đấu giỏi, và được thưởng nhiều huy chương. Chúng tôi rất thương nhau. Nó thường viết thư cho tôi. Vài tháng trước khi chết, nó lo âu và bồn chồn nữa… Hồi đầu tháng 10, nó gửi thư cho tôi. Để tôi đọc ông nghe (Darcourt sanh tại Sài-gòn, đọc, nói và viết tiếng Việt rất thông thạo):

Kính thưa cha,
Tình thế đang tồi tệ trong khu vực của con, không phải vì dân chúng đã trở mặt vì bị địch tuyên truyền mà là vì chúng con thiếu nhiều phương tiện để chiến đấu. Các nông dân thuộc lực lượng tự vệ không có đủ đạn để bắn… Quân chính quy không tránh né cuộc chiến đấu, nhưng mỗi khi đụng độ thì họ thường bị thiệt hại nặng vì địch quân trội hơn hẳn về vật liệu và về chiến cụ.

Để cha hiểu rõ về tình thế của chúng con, con thấy cần phải ghi vài lời giải thích về kỹ thuật. Cộng quân dùng xe tăng T-54 và đại bác 130 ly. T-54 là một loại chiến xa rất tốt, rất lưu động, vỏ thép dày, và được trang bị một đại bác 100 ly, hai đại liên 30, và một đại liên 50. Tầm hoạt động của nó là 400 cây số, và hầm đạn chứa được 34 quả đạn đại bác. Khi bị tấn công thì chúng con chỉ có thứ bazooka M-72 để tự vệ. Súng ấy chỉ có hiệu quả bắn mục tiêu trong vòng 100 thước. Vậy phải đến thật gần xe, và phải bắn thật trúng. Nhưng xe tăng của địch thường có bộ binh hộ tống nên M-72 không chắc gì đã bắn được xe tăng trong khi người bắn lại dễ chết…
Mặc dầu được chế tạo cách đây hai chục năm nhưng đại bác 130 ly là một khí giới rất đáng sợ. Nó nặng 8 tấn, có xe xích kéo, tầm bắn xa 27 cây số, nhịp bắn mỗi phút 6 viên. Chỉ cần có 3 khẩu 130 ly, ngụy trang trong rừng, rồi bắn trong một giờ là có thể phá nát một quận lỵ bằng một ngàn trái đạn. Vì đạn ấy có thể xuyên phá 27 ly thép dầy cho nên đạn ấy phá được mọi thứ kiến trúc hiện có cho tới nay. Dân chúng chỉ biết chạy trốn, còn binh sĩ thì chỉ có chờ chết vì chỉ được trang bị đại bác 105 ly, yếu hơn nhiều. Đạn của chúng con đếm từng viên, mỗi khẩu đại bác chỉ được bắn 3 viên mỗi ngày. Còn địch quân thì dư thừa đạn.
Trên lý thuyết thì chúng con có ưu thế không quân để diệt pháo binh địch. Nhưng trong thực tế, điều ấy sai. Từ khi có cuộc khủng hoảng dầu lửa, phi cơ trực thăng chỉ được bay mỗi ngày 3 giờ. Hơn nữa, địch quân lại được trang bị hoả tiễn SA-7 có đầu đạn tự tìm máy bay, bắn rớt dễ và rất trúng.

Thưa cha, con biết là cha quen biết người Mỹ rất nhiều. Địa vị chủ tịch TLĐLC của cha sẽ làm cho tiếng nói của cha thêm sức mạnh. Phải giải thích cho họ hiểu tính cách nghiêm trọng của tình thế. Họ phải cho chúng con những khí giới tối tân. Họ có những thứ đó, tại sao lại không cho chúng ta? Họ phải viện trợ quân sự và kỹ thuật cho chúng ta, như họ đã hứa. Chúng con không hèn, và không sợ chết. Miễn là cho chúng con cơ hội để thắng, hoặc là để chống cự hữu hiệu. Cha thứ lỗi cho con đã bắt cha phải đọc bản tường trình quân sự quá dài này. Trong khu vực của con, đụng độ và pháo kích diễn ra liên tiếp. Dầu sao, con cũng nhất quyết giữ đồn của con, và còn sống thì không khi nào rút bỏ.
Binh sĩ của con theo con, và dân chúng tin ở con.

Ông Bửu từ từ gấp lá thư lại, ho nhẹ để bớt xúc động, trước khi nói tiếp:
- Tất cả lịch sử bại trận của chúng tôi ở trong vài giòng đó. Tôi nhận được thư của con tôi khi tôi từ một chuyến đi Âu Châu và Á Châu trở về. Lúc tôi đọc thư của con tôi thì nó chết đã được ba ngày.
- Ông có nói cho người Mỹ biết không?
- Tất nhiên là có. Tôi đã gặp Đại sứ Martin, gặp các tùy viên quân sự, tôi đã viết thư cho nước Mỹ. Không ai nghi ngờ các tin tức tôi gửi họ. Đại sứ Mỹ và các tùy viên của ông ta đã ghi chép. Họ có vẻ băn khoăn thật lòng. Nhưng lại không ai có thể làm được điều gì. Tôi muốn nói rằng không có biện pháp cụ thể nào đã được thi hành.
- Vậy thì chuyện gì sẽ xảy ra?
- Bất cứ chuyện gì! Các nhân vật dân cử sẽ giao động, Tổng thống Ford sẽ đưa ra những lời tuyên bố cao cả, Quốc hội Mỹ sẽ thảo luận cù cưa để khỏi cấp ngân khoản, Thiệu sẽ phải ra đi, hoặc sẽ bị giết. Sĩ quan và binh sĩ trẻ như con tôi sẽ chết cho danh dự… hoặc chết để cho vài chánh khách rẻ tiền có thời giờ leo lên cầm quyền. Đủ thời gian để dựng một vở kịch ứng khẩu, nhưng thực ra đã được viết sẵn từ trước. Người Mỹ sẽ đóng cửa văn phòng chót của họ, Hạm đội số 7 sẽ lượn vòng vòng ở Nam Hải. Và cộng sản sẽ chiếm Sài-gòn. Và chúng tôi sẽ chịu lỗi về mọi điều…

Chủ tịch TLĐLC tiễn Pierre Darcourt ra cửa, nắm tay ông ta rất lâu, rồi nói thêm trước khi từ biệt:
- Nếu ông có tới mặt trận thăm anh em binh sĩ, xin đừng kể cho họ nghe những lời tôi nói. Tôi đã cho ông biết tâm sự thầm kín của tôi. Những người sắp chết cho một chính nghĩa mà họ tin là đúng và thiêng liêng thì không cần biết trước rằng chính nghĩa ấy sẽ thua. Nói trước với họ như thế là độc ác, và vô ích. Tôi đã không nói trước như thế với con tôi.”
(hết trích)

Thật đau lòng và cũng thật đáng tự hào cho những người đã đứng trong hàng ngũ “bên thua cuộc” vào ngày 30.4.1975.
Nhưng không bao lâu sau, “bên thắng cuộc” đã dần dần biến thành thua bại. Bắt đầu tuột giốc không thể kìm hãm. Từ tháng 4.1975, hàng triệu người đã tìm mọi cách ra đi, không chấp nhận đời sống nô lệ. Đến nay đã có khoảng ba triệu người sống ở hải ngoại. Hàng trăm ngàn người đã bỏ mình trên đường vượt thoát. Cái nhìn của thế giới đã xoay chiều đối với “giải phóng”, kể cả một số khuôn mặt phản chiến cỡ lớn trước kia. Nền kinh tế quốc doanh đã tới bên bờ vực thẳm để chôn vùi tất cả những giấc mơ điên rồ khiến cộng sản phải “đổi mới” kinh tế, trở lại làm ăn kiểu “kinh tế thị trường” của tư bản, nhưng lại theo “định hướng xã hội chủ nghĩa” (!), khai sinh ra giai cấp tư bản đỏ, tệ hại gấp ngàn lần lớp tư bản cũ mà Karl Marx lên án. Cuộc cách mạng nhân danh giai cấp vô sản đã biến thành con quái vật hung bạo dày đạp trên lưng đám dân nghèo.

Có lẽ Dương Thu Hương là người đầu tiên công khai lên tiếng tố cáo đã bị “đảng” lừa, mở đường cho những cán bộ viết khác nói lên sự thật, nhưng niềm tin vào “đảng” đã đổ vỡ rất sớm.
Chỉ ba năm sau ngày “thắng cuộc”, phi công Đinh Công Giểng, Thượng úy VC với 17 tuổi đảng, trong khi đang được Trung tá Lại Đắc Ngọc (thuộc Không lực VNCH, được đưa ra khỏi trại cải tạo) huấn luyện cho lái phi cơ C-47, nhân một chuyến bay tới Cà-Mau đã cùng nhau bay sang Thái-lan rồi Singapore tìm tự do. Cuộc vượt thoát táo bạo tuyệt vời này đã làm giới lãnh đạo đảng CSVN giật mình hoảng sợ, và phản ứng đầu tiên là nhắm vào Nguyễn Thành Trung, kẻ được VC gài vào Không Quân VNCH và đã được thổi lên tận mây xanh với “chiến công” thả vài quả bom xuống Tân Sơn Nhất trong mấy ngày hỗn loạn cuối tháng 4.1975. Sau vụ đi tìm tự do của Đinh Công Giểng, Trung đã bị cắt cánh, cấm bay, cho nằm dưới đất để gặm nhấm thân phận cỏ rác của một tên ngu thời đại.

Ảnh hưởng to lớn của vụ vượt thoát nói trên đã được xác nhận trong một bài trên báo Người Lao Động và một tài liệu của Không quân CSVN mang tên “Lịch sử Trung đoàn Không quân 918 (1975-2005)”, trong đó có đoạn nguyên văn như sau: “Trong lúc toàn trung đoàn tập trung cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và vận chuyển quân sự, tại sân bay Cà Mau đã xảy ra vụ việc nghiêm trọng. Ngày 22 tháng 3 năm 1978, trong chuyến bay nhiệm vụ đến sân bay Cà Mau, lợi dụng sơ hở trong khâu quản lý máy bay và quản lý vùng trời, một phi công thoái hoá về chính trị cùng một tên nguyên trung tá ngụy cướp chiếc máy bay C-47 chạy trốn ra nước ngoài. Đây là vụ việc hết sức nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới sức chiến đấu của đơn vị và tác động về tâm lý đối với đội ngũ phi công và ảnh hưởng tiêu cực đến tinh thần trung đoàn.”

Đinh Công Giểng đã làm lại cuộc đời trên đất Mỹ, cựu Trung tá Lại Đắc Ngọc hiện đang ở Virginia, thỉnh thoảng cùng bạn hữu ôn lại dĩ vãng một thời liệt oanh và những kinh nghiệm của cả một đời gắn liền với nửa thế kỷ biến động trên quê hương Việt Nam bất hạnh, nay không hiểu sao mình còn sống sót.
Đó là những niềm vui thoáng chốc trong nỗi buồn tháng tư. Nhưng, tháng 4 năm 1993 tôi đã có một niềm vui lớn như một giấc mơ, mà như tôi thường nói, “không thể thấy kể cả trong khi ngủ”. Tôi đã đặt chân lên Công trường Đỏ ở Mạc-tư-khoa mà chế độ cộng sản không còn!
Vâng. Tôi đã nhìn thấy Điện Kremlin trước mặt mà không có cờ đỏ với búa liềm, đã xem xác Lê-nin còn nằm trong lăng nhưng đế quốc tội ác mà hắn dựng lên với hàng chục triệu xác chết đã sụp đổ tan tành. Và thật kỳ diệu, tại thủ đô nước Nga vừa được tự do lại có một đài phát thanh do Nữ Ký giả Nga Irina Zisman thành lập, hướng về Việt Nam cổ vũ nhân quyền.

Khi ấy, lần đầu tiên tôi tin chắc rằng có ngày tôi cũng sẽ trở về Việt Nam, không phải với danh nghĩa “Việt kiều” xin-cho, nhưng với tư cách một người ở “bên thắng cuộc”.
Tháng tư năm nay tôi càng tin chắc như vậy, với những gì đang diễn ra tại Việt Nam đã chứng tỏ người dân trong nước không còn sợ bạo lực. Số người dõng dạc đứng lên ngày càng đông, những tiếng nói đòi Tự Do ngày càng lớn và dũng mãnh.
Ở hải ngoại, có những người vẫn tiếp tục chiến đấu, trên một mặt trận khác, tuy không có tiếng súng nhưng không phải là thiếu cam go, đòi hỏi ý chí, và hy sinh.
Tháng tư là mùa hoa anh đào nở tại thủ đô nước Mỹ, có đông du khách và cũng có nhiều sinh hoạt của cộng đồng người Việt trong vùng.

Trước đây vài hôm, tôi đã tới dự tiệc sinh nhật thứ hai của đài phát thanh NVR (Nationwide Việt Radio), tên mới của Việt DC Radio, được thành lập do một nhóm người, đứng đầu là Tổng giám-đốc Lưu Lệ Ngọc, đã bỏ cuộc sống bình an và tiện nghi để dấn thân vào con đường đầy bất trắc nhưng cũng lắm say mê vì muốn góp phần phục vụ cộng đồng và phát huy tự do. Sau hai năm hoạt động, đài đang trên đà phát triển, điều đã làm nhiều người ngạc nhiên vì đã phải vượt qua rất nhiều khó khăn – về kỹ thuật, tài chính, nhân sự… đã khiến lắm người không dám bước chân vào.

Ngày hôm sau, cũng tại Vùng Hoa-thịnh-đốn, Câu Lạc Bộ Văn Học Nghệ Thuật và Tủ Sách Tiếng Quê Hương đã tổ chức một buổi sinh hoạt văn học rất khác lạ. Có vẻ như một buổi ra mắt sách, nhưng lại không có những bài phát biểu đánh bóng tác phẩm và tâng bốc tác giả. Trái lại, các diễn giả đã nói ra nhiều sự thật màu đen khiến chính họ đôi khi đã phải nghẹn lời và người nghe chấm nước mắt. Người thì cho biết mình mắc bệnh ung thư vào thời kỳ kết thúc, người thì thú thật tuổi tác đã cao và đây là lần xuất hiện cuối cùng, hay nói về thực trạng buồn thảm của công việc xuất bản sách, về hiện tượng chỉ có những mái đầu bạc trong hội trường này. Có diễn giả đã viết xong bài nói thì được đưa vào bệnh viện cấp cứu, phải nhờ người khác đọc.

Người nói sau cùng là Nhà văn Uyên Thao, nhân danh Nhà Xuất Bản Tiếng Quê Hương. Ông cũng là người mang bệnh nan y từ hơn mười năm nay, vừa chiến đấu với căn bệnh ngặt nghèo vừa lo điều hành việc xuất bản sách mà ông nói rằng không thể không làm để chống lại cái ác thể hiện qua một bài thơ đã ám ảnh ông từ nhiều năm qua. Ông đã lấy trong túi ra bài thơ có tựa đề là “Nước”(*) và đọc cho cử tọa nghe:

Người ta gọi tôi là địa chủ
Đây một lũ người tự xưng là cùng đinh
Đem bắt trói tôi vào một cột đình
Đã hai ngày qua tôi vẫn làm thinh
Nhưng đến trưa nay tôi bỗng hoảng kinh
Số là tôi khát nước lắm rồi
Ôi chao, tôi ước ao tôi ao ước
Và không thể cầm lòng tự cao
Tôi kêu: “Hãy cho tôi nước, nước, nước!”
Tôi bỗng nghe một tiếng trả lời: “Được!”
Rồi một kẻ đi đến rất chậm bước
Lúc đứng gần sau lưng tôi, gã nói thỏ thẻ:
“Hãy hả họng cho tao đổ, tội nghiệp đồ chết khát!”
Tôi cảm động nhắm mắt run run hả họng khô rát
Nó hắt ngay vào một nắm cát.

Có thời đại nào và vì đâu đã khiến con người mất hết nhân tính để đối xử với đồng bào mình độc ác đầy hận thù như vậy? Có lẽ người Việt Nam nào còn lý trí cũng có thể trả lời.
Một buổi sinh hoạt văn học trong bầu không khí thật buồn, nhưng với tôi, nó là một điểm sáng trong bức tranh u ám của tháng tư năm nay. Và tôi nhớ tới câu nói đầy bi phẫn của ông Trần Quốc Bửu năm 1975: “Những ngưòi sắp chết cho một chính nghĩa mà họ tin là đúng và thiêng liêng thì không cần biết trước rằng chính nghĩa ấy sẽ thua.”

Sau 38 năm, những người lính già vẫn tiếp tục âm thầm chiến đấu trên một mặt trận khác cho chính nghĩa mà nay họ tin cuối cùng sẽ thắng.
Có thể họ không sống tới ngày nhìn thấy chiến thắng, nhưng họ đã trông thấy ánh sáng chói lòa ở cuối đường hầm (như lời một diễn giả).

Sơn Tùng
Tháng 4, 2013

(*) Tác giả Quách Thoại
“Tôi đã đặt chân lên Công trường Đỏ ở Mạc-tư-khoa mà chế độ cộng sản không còn.”


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 30_thang_tu
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Nỗi buồn tháng Tư   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeMon Apr 15, 2013 1:17 pm

.
Nỗi buồn tháng Tư

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU HQPD_1365260034

Mỗi năm có 12 tháng
Ta cứ nhớ hoài mỗi Tháng Tư!

Thêm một lần nữa tháng Tư lại về, tháng Tư xứ người chợt nhớ tháng Tư xứ mình, tháng Tư ấy đã đánh dấu một đoạn đường dài lưu lạc của tập thể người Việt tha hương. Tháng Tư với ngày cuối tháng nhạt nhòa nước mắt mà chúng ta muốn quên, nhưng không thể nào quên được. Tháng Tư đen ngày vong quốc hận, chiều 30 đất nước phủ màu tang!

Ngày 30-4-1975 của 38 năm về trước là ngày buồn thảm nhất trong dòng sử của dân tộc Việt Nam. Một chế độ Cộng Hòa sau hơn 20 năm gầy dựng cùng bao xương máu đã đổ ra, phút chốc đã tan thành mây khói. Cuộc tháo chạy của Đồng minh trước sự xâm lăng thô bạo của chủ nghĩa Cộng Sản toàn cầu, đã làm cả miền Nam bàng hoàng sửng sốt. Người dân không còn kềm nỗi sợ hãi nên đã bỏ của chạy lấy thân. Những xác người lênh đênh ngoài biển cả hoặc bỏ nắm xương tàn tận mãi rừng sâu. Cả đất nước trở thành biển máu từ khi cộng sản tràn vào. Nhiều chiến sĩ can trường của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu bảo vệ thủ đô đến giờ phút cuối cùng, với rất nhiều sự tuẫn tiết trong đó có các tướng lãnh anh hùng.

Tháng Tư gợi nhớ hình ảnh hơn 400 em Thiếu Sinh Quân mặc đồ vàng, nghiêm chỉnh xếp hàng đôi lặng lẽ chờ đợi dưới sân cờ tại trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, để rồi sau đó tử thủ đến sức cùng lực kiệt. Những người lính Nhẩy Dù oai hùng tại trại Hoàng Hoa Thám, những đơn vị TQLC tan hàng tại cầu xa lộ, ngã tư Hàng Xanh đã tung nổ lựu đạn để cùng chết bên nhau, khi vị Tổng Thống “Tạm quyền” Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, cùng vài chục tướng tá của chế độ Cộng hòa đã tự sát. Còn, còn nhiều lắm những Chiến sĩ Vô danh tự tìm cho mình một cái chết vinh hơn sống nhục. Những giọt nước mắt rồi sẽ được tiếp tục nhỏ xuống để tiếc thương, thương tiếc về những oan khúc cho những người lính anh hùng, cùng biết bao chiến sĩ đồng bào vô danh khác. Chính họ đã viết nên trang sử đen tối nhưng vô cùng hãnh diện cho Chính Nghĩa Quốc Gia, những người Việt Tự Do không bao giờ chấp nhận chế độ cộng sản phi nhân.

Tháng Tư năm 1975, hàng trăm ngàn Quân, dân, cán chính miền Nam đã bị đưa vào các trại tù “học tập cải tạo”, hàng chục ngàn người đã bỏ xác trong các trại giam, nạn nhân của chính sách trả thù thâm độc. Hàng vạn đồng bào đã chết tức tưởi nơi sương lam chướng khí vì chính sách đày đọa trả thù ở các vùng kinh tế mới. Hàng ngàn người đã mất trắng tay vì bị đảng Cộng Sản Việt Nam ăn cướp tài sản, bằng chính sách cải tạo Công thương nghiệp.

Tháng Tư 1975, đánh dấu giai đoạn cả nước Việt Nam trở thành nạn nhân của chủ nghĩa Cộng sản. Một chủ thuyết phi nhân man rợ đã gieo rắc tai ương thảm họa cho nhân loại nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng. Sau 38 năm áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản trên toàn đất nước, Viêt Nam hiện nay vẫn là quốc gia nghèo, chậm tiến, tham nhũng, độc tài toàn trị và liên tục vi phạm thô bạo các quyền làm người.

Tháng Tư, chúng ta nghiêng mình tưởng niệm những chiến sĩ anh dũng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh vì lý tưởng Tự Do, đã chiến đấu ngăn chận chủ nghĩa Cộng Sản và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ trước thảm họa ngoại xâm.

Tháng Tư, chúng ta ngậm ngùi và ghi ơn các chiến sĩ dân chủ Việt Nam, đã vì lý tưởng Tự Do, Dân Chủ, chủ quyền cho đất nước mà chịu cảnh đọa đày, tù tội. Họ những người Việt Nam yêu nước can đảm đứng lên tranh đấu trước hiểm họa mất nước vì kẻ thù phương Bắc.

Ba mươi tám năm về trước, không ai có thể nghĩ đến một ngày nào đó mình phải sống lưu lạc nơi xứ người, và cũng chẳng ai dám nghĩ rằng vì muốn có một cuộc sống Tự Do mà bao nhiêu người đã vùi thân xác mình tận rừng sâu hay ngoài biển cả.

Ba mươi tám năm mùa Quốc hận đã qua đi, dân tộc Việt Nam vẫn còn đắm chìm trong màn đêm tăm tối dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan, đất biển đảo do tiền nhân để lại lần lượt vào tay kẻ thù truyền kiếp Trung Quốc. Câu hỏi nào sẽ được đặt ra để Người Việt Nam tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại nầy có thể làm gì cho đất nước!

Nhiều chính trị gia đã từng nói, sự lừa dối là thứ thuốc phiện của chủ nghĩa cộng sản. Chúng lừa dối người lẫn mình, bưng bít thông tin để lừa người trí thức, nói láo với nông dân để nâng họ lên tận trời xanh, tâng bốc người ít học để họ làm điều ác, con lên án cha mẹ, vợ đấu tố chồng để rồi sau khi đạt được mục đích tất cả đều trở thành vật hy sinh, bị chính con người cộng sản thanh trừng giết hại chẳng gớm tay. Chế độ cộng sản cai trị người dân bằng vũ lực như lời khẳng định của Mao Trạch Đông “Súng đạn đẻ ra chính quyền, hay quyền lực đặt trên nòng súng”.

Nhân mùa Quốc hận lần thứ 38 năm nay, những tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa đã được tên Thứ Trưởng Ngoại giao Việt Cộng Nguyễn Thanh Sơn cùng phái đoàn cộng sản đến thăm vào ngày 1-3-2013. Hình ảnh thắp nhang tưởng niệm trong một y phục không trang nghiêm đã để lộ bản chất thiếu lịch sự của một nhà ngoại giao. Bên cạnh sự thăm viếng rất trang trọng và uy nghiêm của phái đoàn do ông Tổng lãnh sự Lê Thành Ân tòa Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Saigon vào ngày 7-3-2013. Một âm mưu tráo trở mới mà chúng ta cần phải đề cao cảnh gíác. Ngay chính nơi Nghĩa Trang phía Bắc những đồng đội của họ đã nằm xuống trong cuộc chiến chống quân xâm lược Trung Quốc vẫn còn bị hoang tàn bỏ phế, không cho phép một vòng hoa tưởng niệm vào ngày 17-02-2013 vừa qua thì làm gì họ có lòng tưởng niệm những tử sĩ QLVNCH! Đây cũng là trò chơi chính trị dơ bẩn của một chế độ đầy mưu mô chước quỷ, đánh lận con đen, vàng thau lẫn lộn khi chúng một lần nữa đã đổi tên, từ Nghĩa Trang dân sự nay trở thành Nghĩa Trang Nhân Dân huyện Dĩ An nhằm xóa tan di tích lịch sử, lợi dụng người chết để chạy tội bán nước. Một lần nữa chúng âm mưu biến những sự hy sinh cao cả của người lính miền Nam thành sự chiến công thần thánh của chúng. Một hành động gian manh mà chúng ta, những người còn sống hôm nay cần phải lên tiếng, minh oan cho hơn 16.000 tử sĩ Việt Nam Cộng hòa đã nằm xuống trong nghĩa trang nầy chỉ vì lý tưởng Tự Do.

Là người dân Việt Nam, chúng ta phải biết rằng bọn cộng sản Việt Nam đã lừa đảo quá nhiều rồi, chúng dối trá lường gạt để cùng nhau chia chác, làm giàu trên xương máu nhân dân mà không cần biết đến sự cùng cực đói nghèo cả một dân tộc. Tài nguyên quốc gia bị lần lượt tịch thu bán dần mòn vào túi tham của bọn tham ô lãnh đạo đảng. Bao nhiêu công trình đang xây dựng bị dở dang, hàng loạt các tập đoàn kinh doanh thất thoát hàng chục tỷ đôla cùng toàn thể hệ thống ngân hàng tín dụng bị sụp đổ. Chỉ tính riêng trong tháng 1 và 2 năm 2013 đã có hơn 8.600 công ty xí nghiệp ngưng hoạt động (theo lời ông Vũ Đức Đam, Bộ trưởng Chủ Nhiệm Văn Phòng Chính Phủ CSVN). Chúng đang lâm vào cảnh thiếu nợ ngập đầu nếu không có ngoại tệ để chi trả thì sẽ nguy cơ bị hủy diệt, cùng với chiến dịch đòi sửa đổi hiến pháp được khởi đầu bằng 72 cựu đảng viên trí thức trong nước.

Có nhiều người nước ngoài đã đặt thẳng vấn đề với người Việt chúng ta. Chúng ta thỉnh nguyện chính phủ Hoa Kỳ và các nước phương Tây không trợ cấp, không mua bán hoặc tiếp tay cho một chế độ độc tài gian ác phi nhân quyền. Trong khi đó, chính chúng ta trực tiếp hoặc gián tiếp chuyển về Việt Nam hàng tỉ đôla mỗi năm. Số tiền nầy chiếm hơn 1/3 ngân sách tài chánh của chế độ đương quyền, để nuôi dưỡng đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn tiếp tục đè đầu, đè cổ người dân.

Mỗi một người Việt Nam phải suy nghĩ và tìm ra hướng đi cho chính chúng ta. Tẩy chay hàng hóa độc hại Trung Quốc, không mua hàng hóa Việt Nam, không du lịch và không gởi tiền về Việt Nam dù bất cứ hình thức nào. Tuyệt đối không ủng hộ, không quyên góp cho bất cứ tổ chức nào để gây quỹ dưới danh nghĩa từ thiện, tôn giáo chùa chiền, trừ việc cần thiết để cứu giúp các thương phế binh, cô nhi quả phụ của các tử sĩ anh hùng.

Cộng đồng tị nạn Cuba đã thay đổi được xứ sở Cuba bằng cách không gởi tiền về thân nhân họ từ năm 2004-2009 và họ đã thành công. Cuba hiện là nước đang có chiều hướng phát triển hòa nhập theo sự tiến bộ của cộng đồng thế giới.

Ba mươi tám năm mùa Quốc hận đã đi qua, người dân trong nước đã quá ê chề dưới sự cai trị độc tài của đảng cộng sản. Việc bắt giam các nhà trí thức một cách rầm rộ trong nước gần đây đã nói lên sự sụp đổ không sớm thì muộn của đảng cầm quyền. Cho đến khi nào toàn dân không còn sợ hãi nữa và chúng ta ngưng nguồn tiếp tế cho họ thì lúc đó đảng cộng sản sẽ bị cáo chung.

Ba mươi tám năm qua, đã đến lúc Đảng Cộng Sản Việt Nam nhìn thấy cần sức mạnh khối tài lực của người Việt tại hải ngoại. Qua hình thức văn hoá vận bằng nghị quyết 36 để chiêu dụ những kẻ hám danh, trục lợi nhằm lũng đọan hàng ngũ quốc gia. Nhưng chúng đã hoàn toàn thất bại vì những thứ mà chúng kiếm được là những thành phần rác rưới nhẹ dạ, hám danh, một loại phế thải trong tập thể cộng đồng Người Việt Quốc Gia đang sống lưu vong tại hải ngoại. Ở đâu và bất cứ thời nào cũng có những tên Việt gian trở mặt theo kẻ thù để đâm sau lưng chiến hữu và đồng bào bất chấp hậu quả. Bọn tay sai nầy chỉ biết có tiền, nhắm mắt vâng theo để quậy phá làm tan rã khối đoàn kết chống cộng của chúng ta.

Tháng Tư xứ người nắng ấm tình nồng, tháng của đất trời vào Xuân chim hót líu lo, nhiều cụm hoa dại màu rực rỡ như khoe sắc khắp mọi nơi. Màu cỏ non xanh mướt cùng những cơn mưa nhẹ bất chợt buổi chiều đã gợi nhớ lại nổi buồn trong lòng người xa xứ. Qua rồi những ngày tháng Tư buồn thảm lê thê trong lòng người xa xứ. Tháng Tư năm nay, chúng ta đốt nén nhang, cầu nguyện những người quá cố hãy vì sự tồn vong và tương lai đất nước, giúp chúng ta nghị lưc và sáng suốt để tiếp nối đoạn đường. Xin cúi đầu, tưởng niệm anh linh, liệt sĩ đã vị quốc vong thân phù trợ chúng ta thêm dũng cảm để tiếp tục cuộc đấu tranh vì chính nghĩa. Với tất cả lòng thành và nhiệt tâm chúng ta sẽ cùng toàn dân trong nước đòi cho được “Dân chủ, Nhân Quyền và Chủ Quyền” cho đất nước và dân tộc Việt Nam.

Cộng Sản Việt Nam đang trên đà suy sụp trước sự bất mãn của toàn dân từ quốc nội đến khắp năm châu. Bản Kiến Nghị 72 của 72 nhà trí thức phản tỉnh cộng sản đã được Người Việt khắp mọi nơi hưởng ứng nhiệt thành, Thư của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và mới nhất là Bản Tuyên Bố Công Dân Tự Do đã được hàng vạn người trong và ngoài nước hưởng ứng: đòi hủy bỏ điều 4 hiến pháp, đa nguyên đa đảng trong một cuộc bầu cử tự do. Quân đội phải là lực lượng phục vụ dân chứ không phải phục vụ đảng, phi chính trị hóa quân đội.

Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry vừa vinh danh blogger Tạ Phong Tần, người đã bị cộng sản kêu án 10 năm tù là một trong 10 phụ nữ kiệt xuất của thế giới năm 2013, nhân Ngày Phụ Nữ Quốc Tế 8-3 năm nay. Bên cạnh danh dự lớn lao nầy, còn có Blogger Huỳnh Ngọc Chênh - người đã có những bài viết cổ súy quyền tự do báo chí và ngôn luận nhằm tố cáo nhà cầm quyền cộng sản vi phạm trầm trọng trên trang blog của mình, cũng đã được tổ chức phóng viên Không Biên Giới Quốc Tế tặng giải thưởng “Công dân mạng 2013”. Giải thưởng đã được tổ chức tại Paris vào ngày 12-3-2013.

Có mùa Quốc hận 30-4 nào mà chúng ta không ngóng trông một cơn bão chính trị đột biến để giật sập chế độ cộng sản hiện hành. Có mùa Quốc hận nào mà chúng ta không mơ ước cho đất nước và dân tộc Việt Nam sớm thóat khỏi chế độ độc tài toàn trị.

Đã đến lúc mỗi một người dân Việt Nam không còn sợ hãi cùng hòa nhập với “Lời tuyên bố Công Dân Tự do”, sẽ trở thành sợi dây bền vững kết nối hàng triệu triệu trái tim Việt Nam hầu xóa tan một thể chế độc tài toàn trị, bảo thủ và ngu xuẩn. Từ ngày hôm nay chúng tôi khẳng định rằng, chúng tôi sẽ sống và hành xử như những người tự do với trọn vẹn nhân phẩm thiêng liêng. Giờ của tự do đã điểm, tất cả mọi người hãy cùng nhau lên đường!!! (Lời tuyên bố mới đây của Blogger Trần Quốc Việt trên trang mạn Danlambao)


“Tôi chưa thấy một đêm nào dài thế.
Cũng chưa thấy có ngày mai nào không thể.
Vì người ta cần ánh mặt trời.
Tỉnh dậy đi lũ chúng ta ơi!”

Thơ nhà báo dũng cảm Nguyễn Đắc Kiên (Hà nội 25-2-2012).

Ngày tàn của đảng cộng sản Việt Nam sẽ không còn bao lâu nữa... Những kẻ bạo phát rồi sẽ bạo tàn. Lịch sử dân tộc đã chứng minh điều đó.


Arlington, mùa Quốc hận 30-4-2013
Mũ xanh Phạm Văn Tiền K20


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU NOI+BUON+THANG+TU
.
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Một Ngày Cuối Tháng Tư...   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeWed Apr 17, 2013 3:55 pm

.

Một Ngày Cuối Tháng Tư...

Hàng năm, cứ đến tháng Tư, lòng tôi lại nôn nao khó tả. Tôi đoán, không riêng gì tôi, mà có lẽ tất cả những người VN di tản của tháng Tư 75, đều có tâm trạng giống nhau. Tôi nhớ lại những ngày sôi động mấy tháng truớc đó. Mọi người nhốn nháo, lo âu, và những tiếng "phải ra đi" đã như một tiếng vang, cứ lan dần, lan dần, lan rộng mãi, sau khi gần như cả nước đã chạy đôn chạy đáo tìm đường đi Mỹ.

Tôi chỉ là cô giáo dạy học, không quen với một người Mỹ nào, cho nên khi nghe được tin, một người Mỹ, có thể đem được 5 người đi Mỹ, thì tôi vội vàng chạy đến cô bạn thân đã từng làm sở Mỹ, hơn nữa cô ta lại có người chị lấy chồng Mỹ, làm ở bộ ngoại giao Hoa Kỳ. Nhưng, đến nơi, tôi chỉ gặp người chồng cho biết, KB đi về Suối Lồ Ồ. Tôi nghĩ thầm trong bụng:
- Trong lúc đất nước đang sôi động, thế này, KB về Suối Lồ Ồ làm gì ?
Sau đó vài ngày, tôi lại được tin, một người Mỹ, có thể mang theo 10 người, tôi lại tìm đến KB lần nữa. Lần này, thì người chồng đành nói sự thật:
- KB đi rồi.

Tôi ra về trong thất vọng. Mỗi ngày qua đi, nỗi lo âu trong tôi càng mãnh liệt hơn. Lời của Mẹ tôi cứ vang vang trong đầu:
- Con phải tìm cách đi cho bằng được, vì ở lại, tụi VC bắt thì chết...
Chính vì câu nói ấy, mà trước đó cả mấy tháng, tôi cùng với mấy người bạn đã bàn tính đến việc đóng tàu, và đi Nouméa, theo lời chỉ dẫn cuả người thân quen, có chồng Tây. Chị nói, Nouméa, dễ sống lắm. Nó chỉ là một cái đảo nhỏ của Pháp... Ngày xưa, những người VN đi lính cho Pháp, sau khi theo Pháp về nước, chính phủ Pháp đã đưa họ sang sinh sống ở đảo Nouméa này. Và người nào cũng giàu vì đàn bà VN, chịu khó, đảm đang, và chắt chiu...
Thế nhưng, mọi dự định đã không thành. Ý nghĩ phải đi Mỹ càng ăn sâu vào tư tuởng của tôi.

Cho đến một ngày, tôi nhớ rõ lắm, đó là ngày 25 tháng Tư chị tôi, đến chào Mẹ và tôi để ra đi. Sự ra đi này là do một gia đình Mỹ đưa đi. Tôi đi tiễn chị vào Tân Sơn Nhất, nơi gọi là D.A.O. Chị tôi bảo:
- Ở lại để đi cùng cho rồi, về làm chi.
- Nhưng các đồ trang sức, và vàng Mẹ cho vào cái ruột tượng, em lại để ở nhà, không mang theo. Em đã biết lối vào đây, em sẽ đi chuyến sau.
- Có gì cần nhờ vả, em cứ đến anh Lương, người bạn hàng xóm, rất tốt bụng, sẽ giúp em những điều cần thiết. Nhớ nhé.
- Dạ.

Vào trong đó, tôi mới thấy thiên hạ đã sửa soạn ra đi từ lâu lắm rồi. Tôi thấy có gia đình anh chị BS Đào Đức Hoành, gia đình anh Đào Hữu Dương, và nhiều gia đình khác nữa... Các anh chị ấy hỏi tôi:
- Em cũng di chuyến này hả ?
- Dạ không.
- Còn chờ gì nữa, nguy lắm rồi đó.
Và tôi ra về trong âu sầu, lo lắng. May quá, bạn thân của tôi là Thanh Tước, có cô em gái làm ở Usaid, cho tờ giấy chứng nhận là đã học về Nursing ở Mỹ. Và cô em còn dặn:
- Các chị cứ cầm tờ giấy đó, là nguời Mỹ sẽ cho lên máy bay.
Cầm tờ giấy trong tay, tôi lại phải đi tìm người đưa chúng tôi vào trong phi truờng Tân Sơn Nhất. Sau khi dễ dàng vào tiễn gia đình chị tôi đi Mỹ, thì ngay sau đó lệnh ban ra, chỉ có những nguời có giấy tờ đi mới vào được phi truờng mà thôi. Tôi đã không còn cách nào vào D.A.O trong phi trường Tân Sơn Nhất.

Tôi nhớ đến anh Luơng, người hàng xóm của gia đình chị tôi ở Truơng Minh Giảng. Tôi đến tìm anh, được anh sốt sắng gọi điện thoại đến người anh ruột của anh làm ở Tân Sơn Nhất, nhưng khi gọi điện thoại, chị người làm cho biết ông bà chủ và các em đã đi rồi. Anh dẫn chúng tôi đến USOM, họ đang cho nhân viên lên xe... Nhưng, những người Việt lo cho chuyến đi ấy đã đòi chúng tôi phải có 1,000 dollars, mỗi người, mới lên xe được.
Chúng tôi lắc đầu, vì đào đâu ra tiền dollars nhiều như vậy. Cả gia tài của Mẹ cho chỉ có 300 dollars để nhét túi, phòng khi sang dất lạ quê người có chút tiền để sống bước đầu. Thấy chúng tôi đứng tần ngần, họ xuống giá, vậy 2 người 1,000 được không?
Chúng tôi vẫn lắc đầu, và chỉ biết đứng nhìn chiếc xe đang từ từ lăn bánh, mà tan nát cõi lòng vì nghèo...

Anh Lương lại bảo chúng tôi về nhà chờ, anh đi một thời gian khá lâu. Trong khi đó, tôi thấy nhiều người gồng gánh chạy về phía Tân Sơn Nhất, và nói to:
- Bà con ơi, chạy đi, VC đã về tới Thủ Đức rồi.
Lòng tôi rối bời, tôi gọi điện thoại cho mấy ông anh báo tin VC đã về tới Thủ Đức, nhưng chẳng anh nào có nhà. Chắc cũng đang tìm đường đi như tôi. May quá anh Lương trở về, với xe ngoại giao, có tài xế Tàu lái, đầu có đội mũ casquette. Và luôn miệng giục 2 đứa tôi lên đi nhanh nhanh.
Thế là người gác cổng Tân Sơn Nhất, sau khi thấy xe ngoại giao, đã vẫy cho đi liền, không cần trình giấy tờ. Qua được cổng Tân Sơn Nhất rồi, tôi chỉ đuờng cho ông ta lái thẳng đến D.A.O. Tuy vậy, còn phải qua một trạm của Mỹ khám xét giấy tờ. Chúng tôi đưa tờ giấy của USAID chứng nhận, và đuợc ra đi bình yên, dù lòng tôi lúc ấy như đánh lô tô, vì có hai nguời Mỹ đen, hai bên canh gác, mà súng ống lúc nào cũng lên đạn như sẵn sàng để bắn.
Tới nơi bằng yên rồi, có bao nhiêu tiền VN, chúng tôi vét đưa hết cho người Tàu dễ thương, như thầm cám ơn con người có lòng nhân. Thế mà cũng được cả 60 ngàn, tiền VN lúc bấy giờ.
Vào đến D.A.O.  thì trời đã chiều tối, tôi gặp mấy con bạn đang chờ để được gọi ra máy bay trong chừng 1 tiếng đồng hồ nữa thôi. Trong khi ngày mai tôi mới được làm thủ tục giấy tờ. Bụng đang đói, vì tiền VN thì cho hết rồi, không còn một đồng để mua thức ăn. Tôi cứ tưởng là vào đây sẽ được ăn thức ăn chùa.

Bụng thì đói, còn đang lo vụ giấy tờ ngày mai, thì mấy người lính Mỹ, vào phòng nói loa, yêu cầu mọi người ra ngoài, nằm sát xuống đất, vì có pháo kích. Thế là mọi nguời chạy ra ngoài, nhẩy xuống cái hố chung quanh nhà, mà ban ngày, thì dùng đổ rác rến, hoặc cho con nít phóng uế, tè tiểu ở đó, bây giờ, ai cũng muốn tránh làn tên mũi đạn, nên chẳng còn sợ gì dến hôi thối,bẩn thỉu nữa.
Cả một đêm bị pháo kích. Tôi tuy chưa ăn gì từ chiều qua đến giờ, cũng không cảm thấy đói bụng, vì lo âu. Bên cạnh tôi, có ông không quân, ông nằm ngửa nhìn trời, và cắt nghĩa cho bà con nghe rằng, nghe đường lằn đạn pháo kích bay qua, ông ta cho biết, nó sẽ đi qua đây, khi nào, không nghe tiếng đạn bay, ấy là nó đã tới chỗ chúng mình ẩn trú. Và tiếng đạn bay qua đầu chúng tôi, rối nổ ở chỗ rất xạ Thôi thì lúc này, tôi nghe đủ tiếng cầu kinh với Chúa, với Phật. Ai theo tôn giáo nào thì cầu xin đấng linh thiêng của tôn giáo đó. Sáng tinh sương hôm sau, tiếng đạn pháo kích im lìm, tất cả mọi người trong D.A.O bàn tán xôn xao, vì cửa văn phòng lo giấy tờ đóng im lìm. Cứ thấy ai đứng ở cửa sổ xếp hàng, là mọi người lại tụ nhau xếp thành hàng dài. Chờ cả mấy tiếng, không thấy động tĩnh gì, lại tản ra, và cứ thấy nhóm nào đông, là mọi người lại tụ lại.

Trời đã nắng to, rồi đã tới trưa, mà chẳng thấy động tĩnh gì, mọi người yêu cầu một người nào đó, trong đám đông, giỏi tiếng Anh, tìm người Mỹ, hỏi xem, có cứu những người ở trong D.A.O không. Nếu không, cho biết để mọi người ra về, kẻo tối nay sẽ bị pháo kích nữa. Ông Mỹ lại đi vào, và đến 2 giờ chiều, ông ta đã đi ra và tuyên bố, Mỹ sẽ cứu hết mọi người trong D.A.O.
Từ đó, tất cả mọi nguời đang chờ để sửa soạn ra đi, không ai bảo ai, cùng đứng tụ lại một chỗ. Nhất là, sau khi nguời lính Mỹ, ra mở kho lương thực, trong phía D.A.O, thì chẳng hiểu sao, bao nhiêu nguờì trong gia đình binh sĩ không quân đã biết để hò nhau vào lấy, chỉ một loáng, là cái kho lương thực đã trống trơn. Đúng 3 giờ chiều, một nhân viên người Mỹ, đưa ra danh sách của những người đã làm giấy tờ từ trước, cho một người đọc. Có nhiều ông đứng lên đọc vài tên, rồi ông đọc tên gia đình của ông, và sau đó là trao tờ giấy cho nguơì khác, để ông ra đi với gia đình. Cứ thế, rồi lại đến 1 ông khác đọc to:
- Gia đình Đại Tá (xin lỗi đã quên tên) 10 người. Không có ai, ông ta đọc lại lần nữa:
- Gia đình Đại Tá... 10 người.
Tôi là kẻ thuộc loại nhát hơn cáy, mà không hiểu vì sao, lúc đó lại thông minh, bạo gan thế. Ngó quanh, ngó quẩn, không thấy ai, tôi đứng lên, và gọi cô bạn là Thanh Tước, hãy cùng đứng lên. Cùng với hai đứa tôi, có một cụ già, và 1 cậu trai trẻ cùng đứng lên, đi theo với tôi. Và khi đi qua mặt nguời đọc, họ hỏi tôi:
- Chỉ có 4 người thôi hả ?
- Dạ vâng.
Qua khỏi cửa ải của hành chánh, hai bà cháu cụ già, cám ơn tôi rối rít, vì cụ tuởng tôi là gia đình của ông Đại Tá. Thực ra, tôi cũng chỉ là kẻ mượn oai hùm nhát khỉ mà thôi.
Tôi nói với' bà cụ như vậy.

Đường ra trực thăng cũng gian nan lắm. Lòng tôi lúc nào cũng hồi hộp, khi nhìn ánh mặt trời cứ thấp dần, nhạt dần trên bầu trời. Tôi chỉ thấy trời màu xám đen, và âm u buồn. Chẳng còn lòng dạ nào nghĩ đến ai khác, vì đoàn nguời chúng tôi cả trăm người, đã được 1 nguời lính Mỹ hướng dẫn lối đưa ra phía trực thăng đang chờ sẵn. Cứ đi một đoạn, lại được lênh dừng lại và coi chừng pháo kích...
Trên đường đi, tôi đã nhìn thấy không biết cơ man nào là Valises, Samsonites đủ màu, vất ngổn ngang, chất đống cao, bên lề đường. Tôi đoán là của những người đã bỏ lại trong đêm bị pháo kích, vì được lệnh cứu người. Những ai mang đi nhiều valises như đi du lịch, đều phải bỏ lại, vì trực thăng không có sức chứa nhiều. Nhìn đống valises và samsonites chất đống cao nghệu, mới biết dân Viêt Nam cũng nhiều người giàu có lắm. Nhất là khi có một bà, dắt trong tay hai đứa con Mỹ lai, một trắng, một đen. Bà ta đi tay không, nên đã bảo đứa con lấy đại 1 cái valise nào, mở ra được, tìm xem có áo quần nào vừa, thì lấy mặc... Và trong hàng ngàn cái valises đó, họ đã bắt được vài trăm tiền đô cất trong cái sắc nhỏ. Áo quần thì tha hồ chọn cái nào đẹp thì lấy. Nhiều người trên đường đi, thấy vậy, cũng khui mấy valise khác, nhưng của trời cho ai nấy được hưởng.

Tôi thì cứ lo lắng vì chỉ sợ có pháo kích là trực thăng không cất cánh nổi, và phải ở lại đây, chịu một đêm pháo kích như đêm qua thì chắc chỉ lo sợ mà chết thôi.
Đoàn người cứ rồng rắn di chuyển mãi thì cũng tới nơi. Người lính Mỹ, bắt mọi người cúi rạp xuống vì cánh quạt trực thăng quạt mạnh lắm, bay đất cát bụi mù. Tôi phải nhắm mắt lại, vì cát đang lả tả bay lên tóc, lên người tôi.
Khi mọi người đang leo lên trực thăng, tôi vẫn không ngớt đọc kinh cầu xin cho VC đừng pháo kích lúc này. Và khi tôi đã ngồi an toàn trên trực thăng, nhìn hai lính Mỹ cao to, vạm vỡ, chĩa súng ra ngoài cửa sổ, lòng tôi vẫn chưa hết âu lo. Và khi trực thăng cất cánh, tôi nhìn xuống ánh đèn vàng vọt của thành phố Saigon, tôi bỗng khóc rấm rức... Thế là tôi vĩnh biệt Saigon thật rồi. Cho đến lúc ấy, trí óc tôi mới quay về gia đình, không biết, Mẹ tôi, các anh chị tôi có thoát khỏi được như tôi không.

Trực thăng, đưa chúng tôi ra chiếc xà lan, để từ xà lan, sẽ đưa chúng tôi ra tàu lớn đang đâịu ở ngoài khơi chờ. Khi chúng tôi lên được tàu lớn, thì thân xác tôi đã thấm mệt, đã mỏi nhừ, vì thức dêm lại không được ăn uống gì. Tôi nhìn những người Mỹ, đã làm việc suốt đêm ngày, di chuyển những bà già, những em bé từ xà lan lên tàu lớn, tàu Pioneer (có sức chứa cả 7,000 người), duới ánh đèn pha rọi sáng chói cả một góc biển... Buổi sáng sớm hôm sau, vào sáng 30/4, khi ai đó, vặn to radio, để nghe tin tức, và khi nghe được tiếng cô gái cán bộ, nói the thé trên đài Phát Thanh, báo tin "quân ta đã chiếm được Dinh Độc Lập..." thì cả tàu không ai bảo ai, đã oà khóc.

Thôi thế là Vĩnh Biệt Saigon. Vĩnh Biệt Đất Nước Thân Yêu của tôi. Và tôi sẽ chẳng bao giờ quên được ngày cuối tháng Tư: 30/4/1975.

Hồng Vũ Lan Nhi
Tùy bút Tháng Tư Đen
.
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Tháng Tư ở Sài Gòn   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeSat Apr 20, 2013 5:48 pm

.
Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU TV%20th%C3%A1ng%204%20SG%202

Tháng Tư là đầu mùa Hè, thực ra SG quanh năm là mùa Hè, thản hoặc may mắn cuối năm nào được hưởng chút cái hơi lạnh của mùa Đông, khi không khí lạnh vượt qua được đèo Hải Vân xuống phía Nam là SG dìu dịu như Đà Lạt, người SG mừng lắm.

Tôi xuống xe ở đường Tự Do, lững thững qua Passage Eden, tháng Tư SG cây cối xanh mầu, có tiếng ve kêu và đâu đó lác đác những cánh phượng nở sớm báo hiệu Hè đã đến, “Trời hồng hồng, sáng trong trong, ngàn phượng rung nắng ngoài song”. Hè, mùa chia tay của học sinh, con gái nắn nót với những trang lưu bút, còn đám con trai? Ráng mà thi đậu nghe, còn không, có quân trường đợi sẵn đó, tôi không còn quan tâm đến sự chia tay thuở học trò này nữa vì tôi rời mái trường mấy năm nay rồi, giờ đã là một người lính dày dạn gió sương, tuổi học trò đi qua mà lòng không muốn như vậy.

Qua Passage Eden, tôi thấy Ngọc đứng chờ tôi ở trước Rex, nàng hôm nay đẹp rực rỡ, người con gái nào đang có tình yêu đều đẹp, chúng tôi nắm tay nhau, biểu lộ tình yêu thời đó chỉ là như vậy, rất lễ giáo, không có cái hôn, không ôm choàng lấy nhau ầm ĩ. Ngọc ríu rít hỏi tôi về phép được mấy ngày, sao không đến nhà thăm em…
Ngọc đang học Dược, chúng tôi quen nhau cũng cũng đã mấy năm, ngày Ngọc còn là cô nữ sinh Trưng Vương, tháng Tư hàng me đường Nguyễn Bỉnh Khiêm từng chiếc lá vàng nhỏ rơi rụng, lăn tròn trên vỉa hè, lấm tấm như những hạt gạo, tôi hay đợi Ngọc ở đấy, đường đi của đôi tình nhân có lá me vương trên mái tóc, Ngọc không cho tôi gỡ những chiếc là me xuống, nàng bảo : “ mấy chiếc lá đó thích em anh để kệ nó ”, lãng mạn thật, thực ra nàng sợ lũ bạn nhìn thấy thì đúng hơn, con gái học đệ nhị mà đã có người đón đưa là bạo đấy, ôm chiếc cặp nơi ngực mà vương vấn hình ảnh ai đó là hơi sớm đấy, trên đường tình có gió mơn man tà áo trắng, áo bay cuốn lấy chân tôi, Ngọc giữ áo lại, tôi nói : “cái áo nó thích anh, em để kệ nó ”, Ngọc cười, đôi má con gái ửng hồng.

Thời ấy, cuối những năm 60, SG trở lại yên bình sau cái Tết Mậu Thân, chiến tranh càng trở nên khốc liệt, nhưng ở đâu đó thôi, SG vẫn bình yên, tôi đã rời học đường trước đó, bình yên thế nào được, những người thanh niên nào ai cho yên bình, tôi rời Đại Học, nhập ngũ, thỉnh thoảng về phép, hẹn Ngọc đi chơi, như hôm nay chẳng hạn, tôi dẫn Ngọc loanh quanh Lê Thánh Tôn, Gia Long, Tự Do… những con đường đầy kỷ niệm mà mỗi lần về SG, tôi cứ thích lang thang ở đó. 
Tôi đưa nàng vào Brodard, một quán nước hồi còn là sinh viên, tôi và bạn bè hay ngồi ở đây, quán không có chanh đường để uống môi em ngọt, quán có chút Tây hơn, con đường Tự Do cũng có những hàng me cao, tôi gỡ vài cái lá vướng trên tóc nàng, Ngọc không tìm cách tránh như hồi còn ở Trưng Vương, hồi đó còn sợ bạn nhìn, giờ chỉ có người tình nhìn, càng thích chứ sao. Rót nước cho Ngọc rồi hỏi : nghe Nat King Cole nhé, nàng gật đầu, tôi mua jeton rồi bỏ vào cái jukebox cạnh đó, tiếng hát trầm ấm của người ca sĩ da đen cất lên :
Love is a many splendored thing, it’s the April rose…
Có đúng không, tình yêu là vật đẹp muôn mầu ? Ngọc hỏi tôi :
- Tình yêu chỉ có nghĩa vậy thôi sao?
Tôi trả lời nàng :
- Không, có nhiều chứ, tình yêu người ta định nghĩa nhiều lắm nhưng càng định nghĩa nó càng rối mù, theo anh tình yêu cần gì phải định nghĩa, nó chỉ giản dị trong 2 chữ anh + em vậy thôi, với anh thế là đủ.

Bài hát tôi và Ngọc đều thích và có cùng kỷ niệm, lúc mới quen nhau qua đứa cháu, bạn học cùng Ngọc, và cũng tại Brodard này trong một lần đi chơi, hình như lần đầu thì phải, tôi thấy Ngọc loay hoay chọn bài hát trong cái máy, tôi tiến tới bỏ jeton vào thì cả 2 ngón tay tôi và Ngọc cùng bấm Love is a many splendored thing, tôi và Ngọc nhìn nhau, hóa ra… lần đầu đấy, nhưng ánh mắt đã có chút xao xuyến, ai cũng có một thời để nhớ về một kỷ niệm nào, với tôi, mỗi lần nghe bài hát này, Brodard và Ngọc hiện ra trước mặt, it’s the April rose that only grows in the early spring.. vâng, bông hồng tháng Tư, chúng tôi yêu nhau và SG tháng Tư không có được hoa hồng, chỉ có mầu đỏ của phượng, cả tôi và Ngọc đã xem cuốn phim này, La colline de l’adieu với William Holden và Jennifer Jones, thuở học trò mang tình yêu vào sách vở nhưng kém đâu nồng thắm,…anh your fingers touched my silent heart and taught it how to sing…Trong phim cảnh thật đẹp khi W.Holden và Jenny đứng trên đỉnh đồi, phía dưới xa xa là thành phố cùng bãi biển, họ hôn nhau.

Tháng Tư SG nóng nung nấu người, hàng me ngoài đường im gió, có những tà áo dài của các cô làm việc ở ngân hàng về, tà áo đồng phục làm dịu bớt cái hừng hực của tháng Tư , thấy tôi ngắm nhìn mấy tà áo dài đó, Ngọc rời đôi môi xinh xắn khỏi ống hút hỏi tôi:
- Anh thích gì nhất nơi người đàn bà ?
- Theo anh cái nhất của người phụ nữ là sự duyên dáng và thông minh.
- Anh trả lời chung chung quá, thí dụ thích vẻ đẹp của mái tóc, đôi mắt, làn môi hay như bộ ngực chẳng hạn…
Tôi trả lời một câu lạc đề:
- Anh thấy đàn bà nào có bộ ngực to thường kém thông minh.
Hai tay đang chống dưới cằm, Ngọc vội khoanh tay như che ngực mình lại:
- Ý này anh lấy ở đâu mà lạ vậy, thế em to hay nhỏ?
-Vừa vừa thôi.
-Vậy là không thông minh và cũng không ngu?

Buổi tối, tôi và nàng đi nghe nhạc ở phòng trà Ritz đường Trần Hưng Đạo, phòng trà của Jo Marcel mới mở, nhìn chung quanh, ánh đèn mầu mờ mờ êm dịu, mọi người ăn mặc lịch sự, tôi thấy mình như xa lạ, có rừng rú lắm không, mà có lâu lắc gì đâu, trước đây mình cũng là những người như thế này, tôi nghĩ tới chỉ mai hay mốt trở lại cùng đơn vị, đâu còn được như thế này, rừng cây, bụi bậm, bom đạn, người chết…

Ta ngắt đi, một cụm hoa Thạch Thảo

Rồi Lệ Thu xuất hiện: ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo, em nhớ cho, mùa Thu đã chết rồi. bài hát này dạo đó mới có, được ngay mọi người đón nhận vì cái lãng mạn và đau thương của lời thơ thi sĩ người Pháp. Ngọc tựa đầu vào vai tôi, nàng hát nho nhỏ theo Lệ Thu: đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa, tôi vòng tay ôm nàn : bậy nào, ừ mùa thu chết rồi, thây kệ mùa thu, chúng ta vẫn có nhau, anh còn em đây thôi, cần gì hơn, mai có trở lại đơn vị cũng không sao. Tôi nắm tay nàng: chúng mình cưới nhau đi chứ!
- Gớm, mãi cóc mới chịu mở miệng.

Năm Ngọc gần ra trường, chúng tôi làm đám cưới, nàng có nhiều bạn bè, những người năm xưa gặp ở bal de famille còn là nhí nhảnh của thời con gái, giờ đã lớn và chững chạc, hồi đó đi nhẩy bal của Dược là sang lắm. Chú rể có vài người bạn, da đen sạm và tóc cháy nắng gió, họ ngồi riêng một góc, tì tì uống rượu, không cười, không nói, có thể họ đang nghĩ tới đồng đội, giờ này mình hạnh phúc ngồi đây, bạn bè thì căng mắt chờ quân thù. Cưới nhau xong là đi, tôi chỉ có 4 ngày bên Ngọc rồi trở lại chiến trường.

Tháng Tư 1972 có một mùa Hè mà nhà văn Phan Nhật Nam đặt tên là “Mùa Hè đỏ lửa”, SG cũng đang vào mùa Hè, chiến trận bùng lớn trên khắp mọi miền nhưng vẫn còn xa SG, tôi ít có dịp về đưa Ngọc đi trên con đường Tự Do có hàng me cao. Chiến tranh làm bao người đàn bà là chinh phụ nên khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên, bởi vậy vụt một cái chinh phụ trở thành góa phụ, chít khăn sô lên đầu vội vã. Còn đàn ông con trai gọi là gì? chinh nhân ư? chinh nhân ơi, xin anh chớ buồn… người yêu anh còn đó, người yêu anh bé nhỏ– hừ, không buồn sao được, vợ mới cưới, gần nhau được vài ngày rồi cứ thăm thẳm chiều trôi mà bảo chớ buồn.

Thế rồi cái tháng Tư đau thương đó xẩy đến, ngọn sóng Tsunami cuồn cuộn đem súng đạn vô SG, chiến tranh không còn ở đâu xa nữa, tội nghiệp, chúng tôi vẫn vùng vẫy, vẫn chiến đấu, vẫn hy vọng… người lính chỉ biết tuân lệnh dù tuân lệnh trong tuyệt vọng, không biết rằng mọi sự đã an bài, mọi sự đã được sắp xếp xong rồi, tôi không gặp Ngọc trong cái Tháng Tư khốn khổ đó, không thấy mặt đứa con đầu lòng mà biết rằng nó sẽ chào đời trong khoảng thời gian này.

Ở tù ngoài Bắc, cứ phải nghe những luận điệu điêu ngoa xảo trá, mà họ nói hay thật, đúng như nữ ký giả người Pháp Susan Labin có một câu nói không thua gì câu nói của ông Thiệu: “người Cộng Sản nói dối nhiều quá đến độ khi nói dối họ tưởng họ nói thật ”. Ngay ngày đầu tiên ở đây, tên cán binh AK nói với tụi tôi: giặc lái Mỹ bay ra ngoài này bị hạ hết vì tầu bay ta núp trong mây chờ chúng tới bất ngờ xông ra…

Ta ngắt đi một cụm hoa Thạch thảo, tôi không biết hoa Thạch thảo hình dáng ra sao, nhưng những lần đi lao động trong rừng núi, tôi ngắt cụm hoa dại để nhớ Ngọc và những con đường Sài Gòn, ở đây xa quá và khổ quá, cần có ước mơ để giữ mình được vững vàng. Tháng Tư đau thương đó, không có tôi, Ngọc xoay sở như thế nào khi bụng đã quá lớn, SG hấp hối. SG cuống cuồng, người SG không nghe thấy tiếng ve kêu, không kịp nhìn ngắm những cánh phượng mới nở, ôi tháng Tư đau thương. Tôi bị bắt ngay tại mặt trận, từ ngày đó, tôi và Ngọc không gặp nhau.

Mãi 1978, chúng mới cho viết thư, hôm nhận thư Ngọc, tôi run rẩy cả người: Anh yêu dấu, rất mừng khi biết tin anh, anh chưa biết anh có đứa con gái đâu nhỉ, mẹ con em vẫn mạnh khỏe, Ngọc Anh đã 3 tuổi, luôn hỏi về bố, em đặt tên con là Ngọc Anh, một bé gái dễ thương, đẹp như mẹ và nghiêm nghị như bố, Ngọc Anh có nghĩa là Ngọc luôn là của anh đấy, em vẫn theo nghề thuốc nhưng là thuốc vỉa hè, em buôn bán ở chợ Cũ, tiện tặn cũng tạm đủ, em theo bác Cả một thời gian nhưng nghĩ nên đi vùng kinh tế mới như chú Lộc mới đúng với chính sách của nhà nước, sẽ nói với anh sau.
Anh ráng học tập tốt, lao động tốt, nhà nước sẽ khoan hồng cho anh về sớm.
Ngọc Anh và em hôn bố.

Dĩ nhiên lá thư bị kiểm duyệt và tôi bị mắng: lần sau nói vợ không được viết ở đầu lá thư là anh yêu dấu nghe, các anh còn đầu óc lãng mạn tiểu tư sản, viết thư về, động viên vợ anh bỏ buôn bán linh tinh và nên đi vùng kinh tế mới theo đúng chính sách của đảng và nhà nước ta hiện nay.

Thư trả lời tôi khuyến khích nàng nên đi kinh tế với chú Lộc vì chú Lộc - em trai tôi - hiện nay ở Úc, ý cho Ngọc biết nếu có cơ hội là nàng cùng con nên vượt biên, tội nghiệp cô nữ sinh Trưng Vương, ra Dược Sĩ làm cho công ty Dược Trang Hai, một Cty Dược lớn nhất miền Nam thời đó, giờ Ngọc lê la nơi vỉa hè chợ cũ, bên nách đứa con nhỏ mà chồng thì biệt tăm biệt tích từ cái Tháng Tư khốn khổ đó, vẫn là liên quan tới ngành thuốc của nàng, nhưng kiếm từng đồng với những viên thuốc qua lại.

Cuối 1978, các trại tù trên miền cao được di chuyển sâu xuống phía Nam, chúng tôi không biết rằng chiến tranh sắp xẩy ra giữa 2 nước CS anh em, với nước Tàu sau khi VC đánh tan Pon Pot, hành động này coi như một sự phản bội. Tôi được đưa từ Sơn La về trại Nam Hà ở phía Nam Hà Nội, thế rồi thấy tù bị chết vì đói khát, bệnh tật nhiều quá, CS cho gia đình tù được phép thăm nuôi, từ miền Nam phải đi xe lửa mấy ngày đêm mới ra được tới Bắc. Ngọc dành dụm tiền, đầu năm 80 ra thăm tôi tại Nam Hà, khi gặp nhau, tôi nhìn Ngọc sững sờ, Ngọc ốm và đen hẳn đi, sự kham khổ biến cô Dược Sĩ xinh đẹp ngày nào nom khác hẳn, chế độ ưu việt lột xác con người hay thật, tôi nhìn Ngọc Anh chằm chằm, con bé gặp tôi lần đầu nên có vẻ là lạ, được sinh ra trong cái hỗn mang của Sài Gòn nên gương mặt buồn buồn và bướng bỉnh, những giọt nước mắt lăn trên khóe mắt Ngọc, mụ nữ cán bộ dẫn thăm nuôi gắt với nàng:
-Không được khóc, hãy động viên chồng học tập cho tốt để nhà nước còn khoan hồng.
Khi ngồi nói chuyện, mụ ngồi ngay trước mặt theo dõi câu chuyện giữa tôi và Ngọc, tôi nói với Ngọc tưởng như bình thường nhưng thật ra dùng toàn những ý nghĩa chỉ tôi và nàng hiểu, Ngọc cho biết cái ngày mất Sài Gòn đó, nàng không có một tin tức nào về tôi, người anh họ trong Không Quân kêu nàng đi, Ngọc không đi, bụng quá lớn gần ngày sanh mà chẳng biết tôi như thế nào, không đành lòng bỏ đi. Tôi nói với nàng chúng ta có nhiều sai lầm quá, em có ở lại thì giờ cũng chỉ là thế này, bao nhiêu là sai lầm như thế,tôi nói hễ có cơ hội em cứ đi đi, ngày nào được về, anh sẽ tìm cách đi sau. Lúc chia tay, tôi hôn Ngọc Anh, nắm 2 tay nàng, như ngày nào Ngọc chờ tôi trước thềm rạp Rex. Lúc phải quay vào, Ngọc như muốn khụy xuống, tôi quay đi không muốn nàng nhìn thấy tôi cũng long lanh nước mắt, mùa Thu đã chết, em nhớ cho... được một đoạn, ngoái lại, Ngọc nắm tay con vẫn đứng đấy, dơ tay vẫy vẫy, tôi vẫy lại,cứ ít bước lại ngoái lại, dơ tay vẫy, bóng 2 mẹ con xa dần, nhỏ dần...

Như nghiệm vào câu Ngọc hát trên vai tôi buổi tối ở Ritz: đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa. Cuối 1980, Ngọc dẫn con xuống Rạch Giá vượt biên và ghe gặp cướp biển, từ đó tôi bặt tin nàng, chẳng bao giờ gặp lại Ngọc và con nữa, Ngọc Anh năm đó mới 5 tuổi.
Cái chế độ tự nhận là ưu việt đó đã nướng 1 triệu thanh niên miền Bắc cho mộng bá vương điên cuồng, miền Nam cũng thiệt hại hơn 200 ngàn người con ưu tú cho cuộc chiến, có điều họ tự xưng là ưu việt nhưng lại không chịu nhìn thấy là hễ họ đi tới đâu thì người dân chạy trốn tới đó, ngay cả khi cuộc chiến chấm dứt, người dân vẫn hốt hoảng liều chết vượt biển ra đi, nếu quả thực ưu việt thì người dân phải ở lại để hạnh phúc với cái ưu việt đó chứ.

Cuộc chiến chấm dứt, số người bỏ mình trên biển tìm Tự Do khoảng 2, 3 trăm ngàn người, ngang bằng số người miền Nam chết cho 20 năm cuộc chiến, trong số những người chết đó có Ngọc và đứa con gái bé nhỏ của tôi.

TRẦN NHƯ XUYÊN
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Tản mạn... về tháng tư buồn,…   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeMon Apr 22, 2013 4:32 pm

.
Tản mạn... về tháng tư buồn,…
tháng tư mong, tháng tư chờ, tháng tư đợi.


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Z

 
Cũng như hằng năm từ ngày về hưu năm 2003, tôi cố gắng giữ trai tịnh trong tháng tư. Bàn thờ tổ tiên được thắp sáng lên, hương nến nghi ngút. Bàn thờ tổ tiên nhà tôi, hằng năm chỉ thắp sáng hai dịp: từ ngày 15 tháng 12, là ngày hợp kỵ cha mẹ tôi đến mồng mười tháng giêng sau Tết Việt Nam và 1 tây tháng Tư đến 1 tây tháng Năm. Kỵ cha mẹ để nhớ cha mẹ, vui Noël, Tết tây và Tết Việt Nam. Và nguyên tháng Tư trai tịnh, để buồn, để nhớ đến thân phận những người Việt của mình.

Đối với tôi, quê hương miền Nam Việt Nam thực sự mất ngày 30 tháng 3 chớ không phải ngày 30 tháng tư. Gốc gác gia đình tôi ngoài Huế. Nên, sau ngày 30 tháng 3 năm 1975, nhà cha mẹ tôi sau lưng Trường Mù gần chợ An Đông đầy họ hàng chú thím ngoài Huế hay Đà Nẳng vào Nam tỵ nạn. Đối với dân gốc Huế chúng tôi, với cái kỷ niệm đau thương của Tết Mậu Thân, khi Huế đã mất vào tay Cộng sản, là thôi rồi, không còn chi nữa mô ! Nó sẽ giết hết dân Huế mình! Khôn thì trốn, sống tỵ nạn ở Sàigòn, chứ ở Huế, về Huế chỉ mang họa ! …Ngày nay đại gia đình bên nội họ Phan, bên ngoại họ Nguyễn tui, cả làng Mậu tài tui đều ở Santa Ana, Sacramento, Houston, Wichita, Denver (Mỹ) hay Sydney (Úc) Paris (Pháp)…thậm chí đến cả những cái xứ khỉ ho có gáy là Edmonton (Canada) hay Montmorillon (Pháp). Con cháu gặp nhau cứ tơi bời với quốc tế ngữ là tiếng Anh, với giọng Pháp, với giọng Úc, hay giọng Mỹ chứ giọng Huế không còn nữa. Tôi tò mò tự hỏi, nếu nói được tiếng Anh giọng Huế, ôi chao, chắc nó sẽ dễ thương lắm! Tôi nhớ mãi một anh bạn đồng môn Yersin lúc nhỏ lớp 5ème hay 4ème chi đó, trả récitation (trong lớp với ông thầy người Pháp), bài le Corbeau et le Renard của La Fontaine, bằng giọng Huế. (Nếu có dịp tôi sẽ đọc cho các bạn nghe, không phải chế ngạo đâu, tui mê thiệt !). Giọng Huế thứ thiệt cũng như giọng Hànội thứ thiệt, ngày nay chỉ còn được nghe ở Santa Ana thôi, nghe nói ở Việt Nam mất rồi ! Lưu luyền chi nữa, cả bao nhiêu cái mất, lưu luyến chi cái giọng Huế của mình !

Suốt cả tháng Tư năm 1975, cả Sài gòn nhốn nháo hổn loạn ! Tôi vốn là dân làm Hảng LaDe, nên với những tin tức do những bạn hàng đi buôn La De và Nước Ngọt cho biết, tôi nắm rõ từng đoạn đường “mất an ninh”, hơn cả với tin tức do báo chí hay chánh phủ cho biết. Thêm nữa, với bà vợ là Chantal, từ tháng bảy năm 1974, đang được Bộ Ngoại Giao Pháp cho Phái đoàn Ba tư của Cơ quan quốc tế Kiểm soát Đình chiến (ICCS gồm có Ba lan, Hungaria, Ba tư và Nam dương) mượn để làm Thư ký cho Ông Trưởng Phái đoàn, nên theo dõi tình hình chiến sự hằng ngày, đã cho tôi biết rằng Việt Nam Công Hòa của chúng ta đang bị “sacrifié”, (thí chốt) rồi, ..và những xâm phạm đình chiến của phe Việt Cộng xảy ra hằng ngày…. Và những lời phản đối của Việt Nam Công Hòa xem như vô hiệu quả… những tại sao ?... để làm gì ?...và vì ai ? thì…xin hạ hồi phân giải..…Nhưng tôi vẫn không tin, tôi vẫn cố giữ tý hy vọng. Tôi vẫn còn tin vào cái giải pháp “ba nước Việt Nam” với ba Cộ ng Hòa: hai Cộng Hòa miền Nam, một Cộng Hòa miền Bắc, tạm thời; rồi sau đó, sẽ có một cuộc bầu cử dưới con mắt “khách quan và công bằng” của giám sát quốc tế để đi đến một Việt Nam thống nhứt ( Giải pháp nầy do Ông Nghị sĩ Quốc Hội Pháp Michel d’Ornano, đại biểu các Pháp kiều trình bày cho chúng tôi khi ông viếng thăm Pháp kiều ở Nam Việt Nam vào Noël 1974, và ông mang huấn thị của Tổng Thống Valéry Giscard d’Estaing đến yêu cầu tất cả những Pháp kiều và cộng sự viên người bản xứ tiếp tục điều hành các cơ sở kinh doanh của người Pháp ở Việt Nam để chuẩn bị nền kinh tế hậu chiến cho ba quốc gia Việt Nam).

Sao chúng tôi dễ tin và khờ dại quá vậy ! Có lẽ vì quá khao khát hòa bình, vì quá khao khát được thấy một Việt Nam phát triển, phú cường, vì quá khao khát mong chờ một ngày hòa bình, để có dịp để dân tộc Việt nam ( và cá nhơn chúng tôi và bạn bè chuyên viên chúng tôi ở Sàigòn lúc bấy giờ) được thực sự thi thố tài năng, tung tiềm lực đang ấp ủ, nên tôi mù quáng trước một viễn ảnh đen tối do của một chế độ độc tài ( mà tôi biết – nhưng một cách trừu tượng qua sách vỡ - đang sắp sửa đổ xập đến Miền Nam. Tôi trách tôi tại sao thiếu thực tế đến như vậy ? Tôi vốn được đào luyện do hai Trường khoa học chánh trị Pháp, với Paris, tôi biết rõ cái cơ chế của Cộng sản, với Toulouse tôi học rõ những chánh sách áp dụng ở những nước chậm tiến. Thế nhưng, khi về đến Việt Nam tôi hoàn toàn mù quáng, có lẽ tôi chủ quan vì tôi giữ, với cái ghế của hảng BGI, vai trò Tổng thư ký Phòng Thương mãi Sàigòn và Phòng Thương mãi Pháp - Việt Sàigòn. Đúng vậy, tôi quá chủ quan, vì tôi trong vai trò TTký của hai Phòng Thương mại, tôi thấy rõ cái tiềm lực của Miền Nam ta, cái tiềm lực kinh tế của Việt Nam Cộng hòa. Chúng ta nghèo tiền “đánh giặc”, nhưng chúng ta rất giàu tiềm lực kinh tế. Dỉ nhiên, những bộ máy kinh tế lớn, những công ty công nghiệp đều do các người ngoại quốc điều hành. Nếu chiến tranh không làm họ “nãn”, cớ chi hậu chiến làm họ ”sờn”.

Và tôi quyết định không “chạy” ! Chẳng những tôi không chạy mà tôi còn giữ ba mẹ tôi lại. Để rồi, cùng Cha, ba anh em tụi tui tuần tự đi vào tù Công sản…

(Đoạn bài viết nầy vào đúng ngày Chúa Nhựt Lễ Lá : trong Phúc âm của Ma-thi-ơ, có đoạn kể Jêsus làm phép mở mắt lại cho hai người mù (Ma-thi-ơ 20: 33-34). Tôi được Jêsus mở mắt cho tôi sau những ngày ở lại và làm việc với Công sản. Bốn năm đại học khoa học chánh trị không bằng một năm thực hành làm việc với một chế độ và một guồng máy cà chớn…Thật đáng đời, bốn năm ở tù nầy đúng là cái giá phải trả cho sự mù quáng của tôi thôi ! Cám ơn Thiên Chúa đã mở mắt con. Cái lạ lùng là với cái lý thuyết và với một nền kinh tế “cà chớn” như vậy mà Liên Xô cần 70 năm mới xập ! Trung Quốc và Việt Nam ngày nay, sở dĩ không hay chưa xập tiệm là đã chuyển qua thành một hệ thống Maffia, nghĩa là mô hình tổ chức hành chánh chánh trị kinh tế của Cộng sản đã biến dạng thành mô hình một tổ chức của một Đảng ăn cướp. Nhưng nếu Maffia vì phải hoạt động ở ngoài vòng Pháp luật nên phải có những luật lệ “ngoài Pháp luật”, như các lãnh đạo nằm trong bóng tối, như luật “omerta” , khủng bố, bịt miệng cắt lưỡi, mua chuộc công chức chánh quyền, …để đấu tranh, tranh đầu sống còn với Công luật. Trái lại, ngày nay ở Á đông ta, chế độ Công sản Tàu và Cộng sản Việt Nam là những đảng Maffia cầm quyền, nên có một bộ mặt “Pháp luật” hay “Pháp quyền” ! Những nhân vật trong bộ máy Nhà nước, những nhơn vật trong Bộ Chánh trị Đảng chẳng qua cũng chỉ là những Capo del capi, những Capo…nhựng Trưởng Gia đình, tóm lại, những ông trùm… vân vân …).

Trở lại tháng tư năm 75, tôi ngu si nghĩ rằng, những lãnh đạo của Mặt Trận Giải Phóng, của Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, chủ nhơn tương lai của cái Cộng Hòa Miền Nam Viêt Nam, của khu vực gồm từ Bến Hải đến vĩ tuyến 13 tức là miền Trung Nam Việt Nam, gồm toàn trí thức miền Nam, Tây học, không thể không thấy tiềm lực kinh tế miền Nam đủ sức, nếu được thật sự xử dụng để làm việc xây dựng, thì chắc chắn, thông qua hệ thống và kinh ngiệm kinh tế của Việt Nam Cộng Hòa, với Sàigòn, với miền Tây, chẳng những có thể xây dựng, nuôi sống cả Việt Nam Cộng Hòa, mà cả Cộng Hòa Miền Nam và có thể hổ trợ cả Miền Bắc Cộng sản nữa ! Than ôi, chẳng những cái cá nhơn thằng tôi “cà chớn” bị Paris “ca bài con cá” đã đành, nhưng cả Paris và các tài phiệt Pháp và chánh phủ Pháp lúc bấy giờ cũng bị … “cái thằng Bàng Quyên - Việt Cộng, nó lừa thầy phản bạn, nó lường gạt…!”.

Hôm nay, sau ngày lễ phục sanh, tôi trở lại bàn viết. Ngồi hồi tưởng lại tháng tư năm 1975, chúng tôi, cả nước, cả quốc tế bị lường gạt. Chúng tôi người trong cuộc, ngu đã đành. Không lẽ quốc tế cũng ngu sao ? hay quốc tế muốn mình ngu ? Mỹ thì xong rồi, ký kết với Tàu xong, Nga sẽ bị cô lập và trên đà xuống dốc. Mỹ đã rút chơn khỏi vũng lầy Đông dương, Mỹ lo giúp đở làm giàu cho Trung Cộng để chống Liên Xô đang sa lầy ở A Phú Hản. Còn Pháp ? Pháp rất sợ lo nạn tỵ nạn. Năm 1962, khi Algérie độc lập, di dân Pháp trở về gieo bao nhiêu nghèo khó và những trường hợp khó xử. Có thể vì vậy, Pháp sợ phải đem kiều bào mình ở Việt nam trở về ? Vã lại, nếu giải pháp “ba Việt Nam” có thật, thì Pháp với vai trò MC giúp đở xây dựng nền kinh tế hậu chiến cho Việt Nam sẽ lời to.

Mấy năm sau, với các Boat people, cả Âu châu cũng phải tổ chức cho di dân Đông dương tỵ nạn Cộng sản. Âu châu mặc dù có Bức tường Bá linh, có chiến tranh lạnh, nhưng vẫn giữ nhiều cảm tình với Cộng sản Việt nam. Những năm 60, dân chúng Âu châu chống chánh quyền Franco của Tây Ba Nha, chống chánh quyền Salazar của Bồ đào Nha, những năm 70 chống chánh quyền Pinochet ở Chili một cách quyết liệt, nhưng lúc nào cũng xem Hànội và Cuba là những nước tiên tiến. Đó là cái nghịch lý khó hiểu của người dân Tây phương ! Những anh hùng của sanh viên học sanh Âu châu là Che Guévara, là Fidel Castro. Vì vậy khi Sàigòn thất thủ, Paris thở phào ăn mừng. Để rồi vỡ mộng sau đó. Tôi vẫn nhớ trên chuyến bay từ Sàigòn đến Paris ngày 5 tháng 6 năm 1980, khi tôi tình cờ tiếp xúc với một nhà báo lớn ở Pháp Emmanuel de la Taille, đang đi từ Tokyo về Pháp, người bạn đồng hành với ông mắng tôi, là “fantoche, anh ở tù đáng đời anh !”, sau khi biết tôi đã ở tù 4 năm của Cộng sản và đang trên đường tỵ nạn. Nói như vậy đê thấy rõ cái nhìn rất sai của những công luận và nhà báo quốc tế đối với Việt nam. Việt nam được nhiều cảm tình, và đặc biệt Việt nam Cộng sản. Nhưng trái lại không ai hiểu Việt nam Cộng hòa cả. Và Việt nam Cộng hòa cũng không làm một cái gì để lấy cảm tình quốc tế. Viết đến đây thì nhớ câu nói của người bạn cũ, anh Trầm Vi Đức, đồng môn Philo năm chót ở Yersin, vừa bắt được liên lạc được. Anh nói một câu kết luận xanh dờn, sau khi hai đứa hỏi thăm nhau và kể lễ những quảng ký ức vui buồn của nhau : “Phải nhìn nhận Việt Cộng nó giỏi thật, nó nói láo hay hơn mình, và nó lường gạt được tất cả mọi người!”

Đúng Đức ạ! Cả chế độ Cộng sản là một chế độ nói láo. Và Nói láo đã trở thành Chánh sách mà Lường Gạt (tôi cố tình viết hoa) là một phuơng thức chánh trị.
Lường gạt để cướp chánh quyền. Lường gạt để trị dân. Lường gạt để ngoại giao. Và ngày nay Lường gạt cả thế giới và cả dân tộc Việt Nam để bán nước cho Tàu.

Với phong trào nổi dây ở Bắc Phi, ở Trung đông, sau Tunisie, sau Ai Cập, tôi mong, tôi chờ, tôi đợi, tôi hy vọng một cái gì sẽ xảy ra ở Việt Nam ta… suốt th
áng ba, rồi qua tháng tư…

Tôi mong chờ những người dân Việt Nam hào hùng!
Tôi mong chờ những người chiến sĩ quân đội nhơn dân, anh hùng yêu nước, sốt ruột trước nạn Hán hóa!
Tôi mong chờ những người lính công an, còn tí lương tâm trước sự khổ cực của người dân đang bị hà hiếp !
Tôi mong chờ, với nền kinh tế mỗi ngày mỗi khó khăn, vật gía leo thang, cơn bão giá sẽ làm người dân xuống đường!

Nhưng ngày nay tôi tuyệt vọng, mặc dù thế giới tuy giúp đở dân kháng chiến Lybia chống Gađafi thật đấy, nhưng thế giới vẫn “chờ và xem” dân chúng Syria có thật sự dám chết, và dám chết đến đâu để can thiệp.
Và tôi đau buồn, và tôi chán nãn, vì chắc chắn người Việt Nam chúng ta không còn dám chết cho Độc lập, cho Tự Do, cho Công bằng, cho Dân chủ hay nói tóm lại, cho Quê hương nữa!

Ts Phan Văn Song


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 9k=
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeThu Apr 25, 2013 1:56 am

.

THÁNG 4: TRANG NHẬT KÝ VỚI NỖI BUỒN CÒN NGUYÊN VẸN

(Tình cờ đọc được sau một trang sách cũ)
Hoa Hoàng Lan chép lại.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Images?q=tbn:ANd9GcRNQDhn-XLEyBtqY9dBVVbgG9gmkFLuk-KGsayvQrNBgkePgaYm

“Trời Saigon, cuối tháng 4 năm 1975. Vẫn bầu trời xanh này. Vẫn không gian này, nhưng mọi thứ như có vẻ gì khác lạ. Thấy khác nhưng không biết vì sao. Chỉ biết rằng mọi người đều đăm chiêu, hối hả, vội vã như nhau. Cái gì đã tạo nên cơn sốt vội vã này? Có phải vì làn sóng người di tản từ các nơi trên đất nước đổ về Saigon không? Có phải vì tôi là một cư dân mới lạc lõng nhập cuộc vào nhịp sống hối hả của thị dân Saigon không? Có phải vì khi rời khỏi miền Trung trong một cơn hoảng hốt, tháo chạy tới Saigon, tôi đã thất vọng, vì cứ đinh ninh rằng Saigon sẽ là miền đất lành, đầy nắng ấm và đầy thanh bình, một vùng đất được coi là pháo đài kiên cố, để người dân chống Cộng gìn giữ mảnh đất quê hương thoát khỏi bàn tay đẫm máu của kẻ xâm lăng phương Bắc không? Tôi tự đặt ra một chuỗi câu hỏi, nhưng tôi đã không trả lời được, vì trong tôi, đang rối bời một nỗi hoang mang khó tả: tôi phải làm gì, và sẽ ra sao trước cơn binh biến này?

Nước mắt tôi nhạt nhòa, đổ dài trên đôi má trong nắng gió Saigon. Đôi chân tôi vẫn đặt hờ trên pê-đan xe đạp. Tôi cứ đạp, nhẩn nha đạp và vô cảm đạp, mặc cho những xe gắn máy đang ồn ào vút nhanh bên tôi. Ai cũng vội vã cả, nhưng tôi thì không. Vì tôi không có việc gì để vội vã. Thoát chạy khỏi mảnh đất đầy khói lửa – Đà-Nẵng – tôi và gia đình vào tới miền Nam, mặc dù đã bỏ tất cả gia tài của cải lại Đà-Nẵng. Được đặt chân đông đủ mọi người tới thủ đô Saigon là một mơ ước lớn nhất của gia đình tôi. Người ta chết trên đường di tản quá nhiều. Trong khi tôi chỉ mất vài lạng vàng, ít tư trang ngày cưới, tiền bạc và giấy tờ tùy thân, thì có sá gì so với những người đã mất vợ, mất chồng, mất con, mất cháu, mất người thân trên bước đường chạy loạn cuối tháng 3 tang thương đó. Chưa bao giờ tôi xem của cải, vật chất nhẹ nhàng như vậy. Còn cũng được, mà không cũng chẳng sao, miễn bốn đứa con tôi nguyên vẹn là được rồi. Trong khi chồng tôi đang theo học một khóa tu nghiệp tại Saigon, hằng ngày cứ ra phi trường Tân-Sơn-Nhất để tìm đón vợ con. Tôi bật cười cho sự ngây thơ của “đức ông chồng” tôi, vì làm sao mấy mẹ con chúng tôi có đủ điều kiện tiền bạc và thân thế để chen chân, có mặt trên những chuyến bay của Hàng Không Dân Sự Việt-Nam được? Vì thời điểm này, phương tiện di chuyển bằng hàng không đã được biến thành “Hàng Không Thân Thế… Sự”, vì không phải là ông to, bà lớn, tiền vàng đầy mình, thì làm sao mà leo lên phi cơ được? Người ta túa vào phi trường như một bầy ong vỡ tổ. Người ta túa ra các bến tàu Đà-Nẵng, leo lên tất cả những con tàu đang neo tại bến sông Hàn, không cần biết con tàu đó có sẵn sàng cho một chuyến ra khơi không?

Cũng do thế lực của một người thân trong Không Quân, chúng tôi thoát khỏi Đà-Nẵng một cách hy hữu trên chuyến vận tải cơ C-130. Phi trường Tân-Sơn-Nhất đã mở rộng vòng tay đón tiếp chúng tôi dừng chân nghỉ mệt trong cuộc chạy đua với Tử Thần. Cũng vào thời gian này, người dân Saigon đang sẵn sàng cho một cuộc di tản xa hơn: thoát ra nước ngoài. Tôi chưa có ý niệm gì trước cuộc di tản vĩ đại ấy, mặc dù người anh trong họ đã đón tiếp chúng tôi bằng một câu nói ngắn ngủi nhưng đầy ý nghĩa: “Thời sinh viên, mình chạy chọt chết xác cũng không kiếm được cái học bổng đi Mỹ du học. Bây giờ được cho không, tại sao mình không dắt vợ, bế con đi Mỹ nhỉ?”. Một người chú họ là bác sĩ đã phán một câu lạnh gáy: “Bằng mọi giá mình phải có mặt ở Mỹ trước khi cộng quân tràn vào. Nếu không đi được, chắc mình sẽ tự tử, nhất quyết không để rơi vào tay họ”. Rồi bố tôi: “Bố mẹ đã đưa các con di cư vào Nam năm 1954, chẳng lẽ các con lại để vợ con sống với cộng sản hay sao?” Chừng đó âm thanh, chừng đó thôi thúc, chừng đó gợi ý, đã kích thích trong tôi giấc mơ viễn du. Nhưng bằng cách nào đây? Tôi không quen ai, chân ướt chân ráo chạy về Saigon, chưa kịp dừng chân, nghỉ ngơi cho lại hồn, thì lại phải chạy tiếp hay sao? Cú chạy Marathon này sao mà khó khăn quá! Mà chạy đâu bây giờ? Mỹ? Úc? Nam-Dương? Mã-Lai? Phi-Luật-Tân? Xa quá! Thế giới tự do đâu rồi? Sao không thấy ai cho tàu bè cứu chúng tôi như năm 1954? Cầu không vận là cái gì? Sao nghe nói mà không thấy đâu cả? Hàng trăm câu hỏi chập chờn trong trí não mệt mỏi của tôi.

Tôi vẫn hững hờ đôi chân trên pê-đan xe đạp. Cứ quẹo phải mà đi, sẽ không gặp trở ngại gì trong giao thông. Nước mắt tôi vẫn nhạt nhòa. Bao nhiêu nước mắt đã rơi trên đôi má hóp vì trải qua bao ngày lo nghĩ của tôi? Bao nhiêu năm rồi tôi không hề khóc. Bây giờ, lượng nước mắt khổng lồ đó có dịp tuôn rơi ào ạt, tôi không quẹt nước mắt, cũng không nghĩ cách làm nước mắt ngưng chẩy. Nhưng ô kìa, giọng tôi bật nức nở thành tiếng: “Trời ơi, Phật ơi, Chúa ơi, ông Nguyễn-Văn-Thiệu ơi, ông Nguyễn-Văn-Hương ơi, ông Trần-Thiện-Khiêm ơi! Saigon như thế này mà phải bỏ hay sao? Tôi là đàn bà mà còn nước mắt ngắn, dài thế này, các ông có ai bắt chước Hoàng-Diệu, Phan-Thanh-Giản chết theo thành không? Hay sẽ bắt chước Lê-chiêu-Thống hèn nhát, tìm đường thoát thân?”

Đi ngang chợ Bến Thành với bốn cửa Đông, Tây, Nam, Bắc, tôi cho xe đạp vòng quanh bốn ngả cửa chợ. Tôi lại nghe chính tiếng tôi nức nở: “Trời ơi! Đất nước thế này mà bỏ hết hay sao?” Tôi đến Saigon vào những ngày Saigon đang hấp hối, nhưng tôi yêu Saigon biết bao! Tôi tiếc Saigon vô cùng, như ngày xưa người ta đã tiếc Hà-Nội! 1954 – 1975, chỉ một khoảng thời gian hơn hai mươi năm, tôi đã phải hai lần khóc cho vận nước nổi trôi hay sao? Hai mươi năm nữa? Chuyện gì sẽ xẩy ra? Những người ra đi hôm nay, hai mươi năm nữa sẽ trở về đòi lại nước chăng? Hai mươi năm quá dài cho một đời người. Khi ấy, ai còn, ai mất? Tôi còn không? Làm sao tồn tại để được chứng kiến ngày đất nước trở mình này? Những người ra đi sẽ trở về chăng?

Chỉ biết rằng trong khi mọi người khôn ngoan tìm đường thoát ra khỏi Saigon đang hực lửa, từ từ buông bức màn sắt phủ chụp trên đầu lương dân, thì tôi chỉ biết khóc, trong khi các con tôi đang nóng chờ lòng tôi ở nhà. Cả chồng tôi nữa. Một quân nhân chưa qua khỏi cơn hoảng hốt của sự thất trận ê chề. Anh chưa lại hồn, và cũng không đủ tỉnh táo để “tái phối trí” lại gia đình mình, để tìm một hướng thoát cho cả nhà. Tôi không muốn gặp lại chồng tôi, để khỏi đọc trên gương mặt anh một trời thất vọng, một rừng não nề. Anh lầm lì, giao phó hết quyết định việc nhà cho tôi. Tôi bực dọc trách rằng anh đã tỏ ra bất tài khi hữu sự. Tôi lại không muốn gặp những khuôn mặt ngây thơ của những đứa con khi các con thi nhau kể về những bạn bè đã “đi đâu mất” trong sáng qua, trong chiều nay, ở tầng lầu trên của ngôi biệt thự rộng lớn tại đường Ngô-Tùng-Châu, Gia-Định, mà Nghiệp Đoàn Lao Động đã dùng làm chỗ tiếp cư cho nhân viên của họ di tản từ các nơi về.

Buổi sáng, tôi sang nhà ông Đinh-Văn-Phát, Chủ Nhiệm nhật báo Độc Lập, gõ cửa mà thông báo cho ông biết rằng ngôi biệt thự đối diện nhà ông có hơn trăm người tỵ nạn ở các tỉnh, đang rất cần báo chí để theo dõi tin tức, xin ông cung cấp cho chúng tôi món ăn tinh thần này. Từ đó, mỗi sáng chúng tôi được ông cho người đem cho một xấp báo, tha hồ đọc, không còn phải đạp xe đi đến các sạp báo mua báo lẻ về đọc nữa.

Saigon đang có những buổi chiều thật buồn, vì có những cơn mưa bất chợt dai dẳng không ngớt, khiến cho mọi người cuồng chân, không đi đâu được. Những buổi tối thật kinh hoàng, vì tiếng đạn pháo của địch ở ven đô. Buổi sáng nghe tin chiến sự qua radio, tôi biết rằng đất nước tôi đã bị bỏ ngỏ, vì đạn pháo của địch đã trúng phi trường Tân-Sơn-Nhất, trúng khách sạn Majectic, trúng đầu ngõ Chi-Lăng – Ngô-Tùng-Châu chỗ tôi ở. Rồi tin nội các mới – ông Vũ Văn Mẫu – đã ra lệnh đuổi những cơ quan DAO về nước. Để làm gì? Tôi tự hỏi, nhưng cũng không trả lời được. Ông Tổng Thống Nguyễn-Văn-Thiệu bây giờ đang an vị ở đâu đó với vợ con và gia tài kếch sù của ông, để mặc đất nước này cho giặc dày xéo. Ông Nguyễn-Văn-Hương ơi! Ông Dương-Văn-Minh ơi! Có ông nào khóc như tôi không? Ông Nguyễn Cao Kỳ ở nhà thờ Tân-Sa-Châu, còn hăng hái hứa hẹn ở lại ăn dưa mắm cà với chúng tôi, bây giờ đâu rồi? Ông có giữ lời hứa không? Tôi co hai đầu gối, ôm mặt khóc, cả người tôi rung lên như bị động kinh. Tôi biết tôi hoàn toàn thúc thủ rồi. Tôi biết chẳng thể nào tôi có thể thoát ra khỏi Saigon với một gánh nặng: một chồng bất đắc chí và những đứa con thơ dại. Phi trường là nơi tôi chẳng thể nào với đến được, so với lượng người đông như kiến đang tìm đường thoát thân. Hình ảnh chiếc phi cơ trực thăng với thang người leo đu đưa như xiếc trên nóc tòa đại sứ Mỹ hiện ra rõ ràng trong trí tôi, đã khiến tôi nhụt chí ra đi. Bờ sông Bạch Đằng tôi cũng chẳng mơ đến được, vì các con tôi sẽ bị giẫm nát trước khi lên được tàu thủy. Sóng nước biển khơi gào thét những gì phẫn nộ ngoài xa kia?

Ra đi tìm sự sống, nhưng nếu biết rằng sẽ có người phải bỏ mạng, chắc không ai đủ can đảm dứt áo ra đi. Họa chăng, những cái chết bất ngờ, không báo trước, thì đành phải chấp nhận trong nước mắt vậy. Chung quanh tôi, người ta bỗng dưng vắng mặt một cách khó hiểu, như họ có phép độn thổ, tàng hình. Tôi quanh quẩn với ý nghĩ thế giới hỗn loạn chỉ còn riêng một mình tôi, cô đơn và tuyệt vọng. Các con tôi còn quá nhỏ, không chia sẻ được với tôi nỗi đau thương, cuồng loạn này. Chồng tôi, tôi ngỡ ngàng, không ngờ khi có việc hệ trọng, quyết định đến vận mạng của gia đình, thì người chủ gia đình ấy lại trở nên lầm lì, khó hiểu đến thế. Chỉ mỗi một câu “tùy em”, anh trả lời tôi không biết bao nhiêu lần, khi được tôi hỏi ý kiến về những chuyện này, chuyện kia. Người xưa nói “Nước loạn mới biết tôi trung, nhà nghèo mới biết con hiếu” quả thật đúng quá. Tôi lại muốn thêm một vế nữa rằng “gia biến mới thấy tài người phối ngẫu”. Muộn rồi, những chỗ có thể giúp tôi được, thì họ đã lên đường. Bỏ mặc tôi với cơn hoảng loạn, với nỗi kinh hoàng: “Trời ơi! Mình và các con phải ở với cộng sản thật à?”. Tôi không nghĩ đến chồng tôi nữa, vì tôi đã cáu kỉnh khi nghĩ rằng nếu anh khôn ngoan một tí, khôn lanh một tí, quyền biến một tí, anh có thể đưa vợ con thoát thân được. Đằng này, anh cứ ở trong nhà, không liên lạc với ai, rồi mơ mơ màng màng như một anh nghiền thiếu thuốc, rồi ôm radio nghe hết BBC đến VOA, làm như những tiếng nói ấy có thể đưa anh ra khỏi cơn khủng hoảng này. Giá tôi quen biết nhiều, giá tôi tìm đường đi được, chắc chắn anh sẽ ngoan ngoãn nghe theo tôi đi tìm tự do. Khốn nỗi, đã từ lâu tôi giao phó những công việc hệ trọng cho anh. Bây giờ…”

Cách một đoạn giấy trắng dài, trang nhật ký lại ghi tiếp:

“Tôi bán xâu chuỗi ngọc với giá rẻ như cho, để lấy tiền làm lộ phí cho chồng tôi đóng tiền ăn vào trại tập trung cải tạo. Trước khi đi, hai chúng tôi đã có cuộc đấu khẩu nhỏ, ghi lại đây, kẻo mai này, có thể sẽ quên mất: “Anh đừng đem cái chăn dù đi. Hình ảnh rằn ri sẽ tạo cho họ ác cảm với anh. Cả hộp xà-phòng Cadum nữa. Họ sẽ cho là anh… tiểu tư sản. Ví dụ như anh thấy một anh chàng hồi chánh mang dép râu, đội mũ cối, nhất định anh sẽ muốn chém họ ngay.”

Tôi cầm cái chăn dù và hộp xà phòng Cadum cất đi. Đổi vào là một cái chăn dạ mầu ô-liu, miếng xà-phòng Hải-Đường làm ở Hải-Phòng. Tôi còn nhét thêm cho anh cây kem đánh răng Hynos, thay vì anh sẽ dùng muối để đánh răng như anh đã nói. Vẻ mặt buồn thiu, anh cho rằng tôi cố ý “tước” cái chăn dù của anh để giữ lại nhà. Anh nặng nhẹ: “Em muốn làm gì thì làm. Muốn lấy gì thì lấy, muốm đem gì thì đem. Anh không có ý kiến nữa. Thời này là thời của các bà mà!”

Lập tức tôi rít lên cho hả cơn tức tối, u uất, vì phải kiêm nhiệm cả làm chồng lẫn làm vợ mấy tháng nay: “Ừ, anh cứ hằn học, cứ cay cú đi. Với kẻ thù thì im như thóc đổ bồ. Với vợ con thì nặng nhẹ, ăn tươi nuốt sống. Bao lâu nay, bây giờ mới biết anh chỉ là người… khôn nhà dại chợ. Có giỏi thì vào trại tập trung mà… tung hoành với kẻ thù! Mong rằng họ sẽ cải tạo giùm cho anh trở thành một con người tốt, biết sống cho ra sống. Đừng… ươn hèn như cả tháng nay. Chán thật!”

Những dòng chữ chi chít trên trang giấy nhỏ như muốn nứt tung ra, muốn trèo sang trang khác, muốn leo lên lề đến mặt trước của tờ giấy. Tôi lật qua lật lại, để mong đọc được thêm những u uẩn của một tâm tình trong tháng Tư đau thương ấy. Nhưng không có. Hết rồi. Người viết đã tự kết thúc những dòng tâm sự bằng một câu: “Ngày về xa lắm, người ơi!”

Không biết có phải đây là lời tiên tri cho cuộc chia tay não nề của người viết? Hay đấy chỉ là một ý tưởng chợt đến trong lúc tâm hồn của người viết mấy dòng chữ trên đang hoảng loạn?

Để bây giờ, ba mươi tám năm qua, ngồi đây chép lại những dòng chữ trên, vẫn thấy trong tôi một trời rừng uất hận đất nước đã rơi vào tay kẻ thù quá lâu, một trời thương tiếc cho những gì đã mất đi, không bao giờ có thể tìm lại, không phải chỉ của riêng người viết những dòng chữ trên, mà còn là nỗi lòng của tôi, của anh, của chị, của muôn người tỵ nạn chúng ta.

Hoa Hoàng Lan


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Images?q=tbn:ANd9GcToEr1nWDHgQfUbHWyTzI7T6OArfMXi2fDoLqmpEW80OSICRYnS
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Tưởng Niệm 30-04-75: Tháng Ba gãy súng; Tháng Tư tan hàng   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeMon Apr 29, 2013 3:52 pm



Tưởng Niệm 30-04-75:

Tháng Ba gãy súng; Tháng Tư tan hàng

Tạp ghi Huy Phương

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Images?q=tbn:ANd9GcQ1f8l4ctDxFEUvMj8lVYHjtatiVUeWvJgotLa7_x7bEY7PPd0B
 

Tháng Ba đã qua, Tháng Tư đã đến, liệu chúng ta có còn nhớ gì không? Những hàng dương tên bờ biển Thuận An và Tư Hiền đã xanh mướt qua mấy mùa mưa gió, rừng núi cao nguyên trên đường lộ 7B đã đâm lộc nẩy chồi bao bận.

Cuộc chiến cũng như người chết đã bị quên lãng. Những ai đã trải qua thời gian tù đày khắc nghiệt còn nhớ gì những ngày lội suối băng rừng, thân còm, bụng lép. Những ai đã đến được bến bờ qua những ngày lênh đênh trên biển cả, còn nhớ gì những nỗi hãi hùng, đau đớn tủi nhục mà tiếng kêu gào oan khiên không đến được trời xanh.

“Tháng Ba Gãy Súng” làm cho chúng ta có một chút gì nhớ đến Cao Xuân Huy, người lính Thủy Quân Lục Chiến đã vứt súng trên biển Thuận An, trong đoàn quân lui binh hỗn loạn, không được yểm trợ phi pháo, trước mặt là biển cả muôn trùng, sau lưng là giặc đuổi cận kề, mà không hề có tàu thuyền nào vào ghé bến. Những người lính dũng cảm mới hôm qua đây, phút chốc đã trở thành những mục tiêu cho những du kích bắn sẻ và những tên tiền sát viên địch điều chỉnh pháo binh, điều mà một người lính TQLC khác là Tô Văn Cấp đã đau đớn đặt tên cho chốn lui quân, nơi tuyệt lộ này là “pháp trường cát”, nơi chiến trường phơi thây bao chiến sĩ của chúng ta.

Tháng Ba gãy súng làm cho chúng ta nhớ lại đoạn đường xương máu kinh hoàng từ Phú Bổn về duyên hải trong những ngày bỏ cao nguyên, làm tan rã một quân đoàn. Một cuộc rút quân không kế hoạch, không có cấp chỉ huy, không có quân bạn yểm trợ, đem con bỏ chợ, hỗn loạn và chết chóc khốn cùng. Người lính lâu nay ở với xóm làng, rừng núi, khuya sớm đùm bọc nhau, ngày nay một người lính lên xe ra đi, năm người dân bồng bế dắt díu nhau chạy theo. Nỗi đau của người lính hôm nay là không bảo vệ được người dân, vì vận nước, ngay người lính có súng mà phải vứt súng, có đất mà phải bỏ đất.

Tháng Tư tan hàng, người lính bị trói tay, người lính bị phản bội, người lính ở lại sau cùng để cho những chuyến tàu chở người ra đi, để cho những chuyến phi cơ rời phi đạo đi về một chân trời hy vọng tự do, bỏ lại quê hương tù đày. Bao nhiêu thảm cảnh đã xảy ra cho miền Nam sau ngày “tan hàng” hay “mất nước”, danh từ sử dụng tùy theo sự suy nghĩ, nỗi mất mát và tâm trạng của mỗi người.

Cướp của tức khắc đi theo với hành động cướp quyền. Lấy danh nghĩa cải tạo xã hội, chiến dịch đánh tư sản mại bản thực chất là một vụ cướp bóc quy mô, đánh vào những gia đình giàu có mang tiếng tư bản, nhưng chính là do công lao mồ hôi, nước mắt, cần cù mà miền Nam có được. Chiến lợi phẩm này được chở về hang ổ miền Bắc, làm giàu cho những kẻ cầm quyền.

Ðánh tư sản, dồn dân đi kinh tế mới, lấy nhà, cướp đất, đổi tiền, tập trung những người có liên hệ với chính phủ miền Nam vào trại “cải tạo”, đốt sách, bỏ tù văn nghệ sĩ, đuổi 850,000 Hoa kiều về nước hay ra biển để gần lại với Liên Xô, xếp hạng dân theo lý lịch chính trị, kiểm soát đời sống và tư tưởng của quần chúng theo chế độ công an trị, với mô hình “công an khu vực”, “công an khu phố” là những gì chế độ Cộng Sản Việt Nam đem lại cho dân chúng miền Nam. Cả nước là phiên bản của miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa, vùng mệnh danh “giải phóng” là một nhà tù lớn, buổi sáng có tiếng loa phóng thanh thức giấc mọi người đầu xóm, tai mắt công an khắp nơi, dân chúng phải tham gia lao động xã hội chủ nghĩa, thắt chặt bao tử, nắm sinh tử của mỗi gia đình bằng chế độ tem phiếu.

“Chính đảng Cộng Sản đã tước đoạt của nhân dân các quyền tự do mà nhân dân đã từng trả giá quá đắt. Dân chủ tự do bị chà đạp, vũ khí tự vệ bị tước đoạt thì nhân dân giống như những người bị xiềng xích, bị bịt tai, bịt mắt, khép miệng và tất nhiên ngót 80 triệu đồng bào không thể không biến thành tù binh của đảng Cộng Sản Việt Nam” (bản điều trần của Nguyễn Hộ).

Nhân dân miền Nam, kể cả những nhân vật có ảo tưởng với Cộng Sản đã hoàn toàn thất vọng với chính sách chủ trương của nhà nước mới, thể hiện một chế độ độc tài toàn trị, băng đảng. Chế độ này đã đuổi hằng triệu người ra biển, suốt từ những ngày đầu tháng 5 năm 1975 cho đến thời gian các trại tiếp nhận ở Ðông Nam Á đóng cửa, kể cả tổ chức “bán chính thức” đưa người ra khơi để kinh tài. Không một gia đình miền Nam nào không có thân nhân, bà con ruột thịt bỏ xác trên biển Ðông, mà oan khiên dậy đất trời. Khi người dân chán chế độ không còn có thể ra đi bằng con đường “bất hợp pháp” thì người ta bỏ nước ra đi bằng những con đường hợp pháp được nhà nước chấp thuận và khuyến khích như phụ nữ thì đi lấy chồng Ðài Loan, Ðại Hàn, Trung Cộng; đi ở đợ ở Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ; đàn ông thì đi làm thuê ở Trung Ðông, Nam Dương, Singapore… Chúng ta giải thích thế nào về một mảnh đất quê hương không giữ được chân người.

Tháng Tư miền Nam tan hàng phải chăng để cho Cộng Sản thống nhất đất nước và làm một cuộc cách mạng? Cách mạng là một cuộc đập phá cái cũ để xây dựng cái mới, hoàn hảo, tốt đẹp hơn, cách mạng không phải là để phá cái tốt đi và làm cho xã hội tồi tệ hơn. Ðạo đức suy đồi, nhân tâm ly tán, nhân phẩm phụ nữ trong xã hội Việt Nam ngày nay xuống thấp chưa từng thấy. Chế độ công an trị, dùng công an như là một dụng cụ bạo lực để trấn áp nhân dân. Sự tàn ác của lực lượng này được thể hiện qua những chuyện xẩy ra hằng ngày ngay giữa thời đại văn minh tiến bộ này. Chỉ vì những lỗi nhỏ, không đáng nhận một món tiền phạt đáng giá một bữa cơm, công an côn đồ có thể đánh bể đầu, gãy cổ, giết chết người vi phạm, tàn nhẫn đạp vào mặt dân, tệ hại hơn hành động của thời Pháp thuộc, qua hình ảnh những người lính đánh thuê Phi Châu “rạch mặt” hay lính “partisan” ngày trước.

Nhiều người đã nhìn bức tranh xã hội Việt Nam dưới thời Cộng Sản ngày nay qua cái nhìn “tốt đẹp”, trong đó ai cũng thỏa mãn theo cách riêng của mình, giàu sang thì hưởng thụ theo cách giàu sang, nghèo hèn thì cũng ăn nhậu, tiêu xài theo cách riêng của mình. Sư, Cố thỏa mãn trong khuôn viên chùa hay nhà thờ của mình, tôn giáo thời nay quả là thuốc phiện không sai. Thanh niên, sinh viên lo chạy theo cái ăn cái mặc, vật chất xói mòn lý tưởng . Nỗi sợ hãi bao nhiêu năm qua đã nhiễm vào máu huyết, xin đừng đụng đến tôi, tôi cũng không muốn đụng đến ai. Ðừng nghe, đừng nói, đừng nhìn để sống còn, muốn sống phải biết sợ.

Tôi thật không đủ lạc quan để hy vọng, khi mà trước bất công, đàn áp, con người ta chỉ biết cúi đầu… cầu nguyện, không dám hợp đồng mà chỉ lâm râm cầu nguyện vừa đủ cho mình nghe.

Ðó là những gì tôi nghĩ về những di lụy của một Tháng Ba gãy súng, tiếp theo một Tháng Tư tan hàng và về đất nước hôm nay.


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Images?q=tbn:ANd9GcRbne8r22wfLI6PYoR6EaBjIs-pqBOL4MdeOmaKzfReRgfxpi4I
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeMon Apr 29, 2013 9:31 pm

.
Tháng Tư, chết và sống!

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Hình lăng mộ 132 tử sĩ cải táng hoàn tất. Hình của Giao Chỉ SJThuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 32

Hình lăng mộ 132 tử sĩ cải táng hoàn tất. Hình của Giao Chỉ SJ.
 
Chết không phải là đã tắt hơi thở
Sống đôi khi cũng có nghĩa chết mòn.

(Chúc Thư)
 
Trong một cuộc phỏng vấn với một sĩ quan VNCH đã trải qua những giờ phút kinh hoàng trên bãi biển An Dương vào ngày 26 tháng 3-1975, khi một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến bị kẹt lại trên bờ biển, trước mặt là biển cả chỉ có một chiếc tàu nhỏ hải quân vào đón thương binh, sau lưng là quân thù và đạn pháo, phần lớn những người lính thất trận đã bị “chết cạn” trên bờ biển tại đây hay bị bắt làm tù binh, tôi đã đặt câu hỏi với người lính còn sống sót đến hôm nay, là điều gì khiến cho ông suy nghĩ nhất, sau ba mươi tám năm dài trôi qua?
 
Điều ông nói có thể khi mới nghe qua, chúng ta ngạc nhiên, nhưng nghĩ lại nghe thật giản dị, nhưng không khỏi xót xa:
- “Điều ân hận của tôi là đã không được chết!”
Tôi nghĩ rằng câu nói của ông, người lính già, trong giờ phút nhắc lại chuyện cả một quân đội tan rã, bao nhiêu người đã nằm lại trên những con đường lui binh, trên những bờ biển tuyệt vọng của miền Nam, là một câu nói phát xuất từ đáy lòng, không khoa trương hay đại ngôn chút nào, bởi sự sống có trăm nghìn lần khó khăn hơn sự chết!
 
Bản năng sinh tồn của mọi loài là cố bám lấy sự sống. Chúng ta cũng không trách ai những ngày hỗn loạn, tìm được một chỗ trên trực thăng hay ra đi với toàn bộ gia đình an toàn trên một chiến hạm ra khơi trong khi xe tăng của địch quân đã vào đến Saigon. Khi những con tàu rời bến Khánh Hội, khi những chiếc trực thăng đã bốc lên cao giữa một thủ đô đang hứng chịu những quả đạn pháo kích cùng với cảnh hỗn loạn của một giờ thất thủ, ở những nơi nào đó, có những người lính đang tuân thủ lệnh chỉ huy giữ đất một phút không rời, hay thất vọng đành quàng vai ôm nhau, chia chung cái chết.
 
Ba mươi tám năm sau, những người còn sống sót, bằng cách này hay cách khác, lần lượt ra khỏi đất nước, đã thật sự còn sống không hay cũng như đã chết. Có những vị tướng đã chết lẫm liệt, cho những ông tướng khác sống cuộc đời tầm thường trên đất khách, ngày hai buổi sáng chiều và chết quạnh quẽ, hay thậm chí còn quay về bợ đỡ kẻ thù. Có những người lính đã chết trong những giờ cuối cùng để cho chiến hữu họ được sống, qua ngày đoạn tháng, trở về trên những con đường tắm máu ngày xưa, nhưng đầu óc trống rỗng, ngu ngơ như những người mất trí nhớ. Có những người còn thân thể còn lành lặn nhưng tâm thần tê liệt, trở lại rong chơi giữa số phận nghiệt ngã của đồng đội què cụt quanh mình.
 
Trở lại câu trả lời của người lính già, ông nói ngày xưa, nếu nằm lại với anh em trên bãi biển, cái chết đến một cách thật dễ dàng, nhưng cái sống bao nhiêu năm nay quả là khó, vì không biết sống thế nào cho đáng sống, cho khỏi hổ thẹn với chính mình, nhất là khi nghĩ đến những người đã chết ngay trước mặt mình, đã chết ngay sau lưng khi mình đã may mắn được ra đi.

Sống phải chăng không dễ, vì sự sống còn mang nặng nghĩa vụ với những người đã chết.

Chúng tôi xin nhắc lại một câu chuyện cũ. Ngày 21 tháng 6-1945, khi quân đội Nhật không giữ được Okinawa, tại bộ tư lệnh của đơn vị tại Mabumi, tướng Mitsuri Ushijima đã viết thư trình lên Thiên hoàng Hiro Hito báo cáo về tình hình chiến sự tại Okinawa và tạ tội không giữ được đảo, trước khi tiến hành việc mổ bụng tự sát, ông đã nói với đại tá Hiromichi Yahara:
- “Đại Tá Yahara, ông cũng như tôi lẽ ra phải tự sát. Nhưng tôi ra lệnh cho ông ở lại. Nếu ông chết, sau này còn ai có thẩm quyền để kể lại về trận chiến Okinawa này. Mặc dù sống sau khi thua trận là nhục nhã, nhưng đây là lệnh từ cấp chỉ huy của ông!”
Yahara do đó là sĩ quan cao cấp bên phía Nhật sống sót sau trận đánh và về sau ông đã cho xuất bản cuốn sách mang tựa đề “Trận Đánh Vì Okinawa.” Như vậy, sống còn phải chăng cũng là một nghĩa vụ?

Lòng dũng cảm không chỉ dành cho những vị anh hùng đã tự sát. Sống cũng cần lòng dũng cảm. Từ ba mươi tám năm nay có những người sống trong sợ hãi, tê cứng tứ chi và đầu óc. Họ sợ khi trở về Việt Nam bị công an làm khó dễ, họ sợ con cái của họ còn ở bên kia sẽ bị liên lụy, họ sợ sẽ không được trở về để thăm viếng người thân, nếu ở bên này họ có một cử chỉ hay lời nói nào chống lại hay gây bất lợi cho chế độ trong nước. Toàn là những cái sợ cho lợi lộc của bản thân. Chúng tôi cũng xin nói thêm đây không phải là một người dân bình thường, tình cờ một đêm nọ, có mặt trên bãi biển, là điểm hẹn của những người vượt biển, nên bị lùa xuống ghe, bất đắc dĩ phải bỏ nước ra đi, mà họ là những người quyết định chọn cái chết để tìm con đường sống, hay đã đánh đổi bằng những năm tháng tù đày khốn khổ nơi chốn rừng thiêng nước độc. Họ cũng không phải là những người lính vô danh, những người này có hoạt động trong các hội đoàn, có tên tuổi, có chức vị.
 
Một lần tôi có hẹn phỏng vấn với một cán bộ xây dựng nông thôn trên một chương trình truyền hình về quá trình hoạt động của đơn vị ông trước năm 1975. Trước giờ thu hình, tôi gọi điện thoại cho ông, ở đầu giây bên kia, vợ ông trả lời “ông không có nhà.” Tôi ngỡ rằng ông đang trên đường đến đài truyền hình, nhưng khi tôi xưng danh tánh, bà vợ cho tôi biết “ông đã đi xa - out of town!” Trời đất! Mới hôm qua đây, ông “ừ è” với tôi, mà chỉ trong thời gian, chưa đến 24 tiếng đồng hồ, ông đã trốn chạy một buổi phỏng vấn, cũng là trốn chạy cái dĩ vãng mà ông thường tự cho là hào hùng ngày xưa, chỉ vì một nỗi sợ hãi nào đó, mà bản thân ông không đủ can đảm nói thật với tôi là ông sợ.

Một người nữa đang sống, bề ngoài có vẻ hào hùng nhưng còn sợ hãi. Đây là một cựu sĩ quan có chức vụ trong một hội đoàn cựu quân nhân, và vào dịp tháng tư năm nay, tôi muốn mời ông lên một chương trình nói về những ngày “lui binh”. Đến giờ thu hình, không thấy ông đến, sốt ruột, tôi gọi cho ông. Ông trả lời vắn tắt, trong khi đèn đuốc, sân quay, chuyên viên và cả tôi đang chờ ông: “Tôi bận, không đến được!”

Ông biết truyền thông đi xa, có khi về tận bên kia, cẩn thận ẩn mình đi là tốt. Có điều tôi không hiểu sao ông lại dấn thân đi làm việc cộng đồng, trong khi lòng ông đầy sự sợ hãi. Ông muốn về Việt Nam chăng, hay là ông còn mẹ, còn em mà ông lấy cớ muốn bảo vệ họ, sự sợ hãi lớn lao đến dường ấy hay sao? Bây giờ mà cái bóng ma cộng sản còn lởn vỡn bao trùm lên đời sống của ông, một người đã cao bay xa chạy, trong khi tuổi trẻ ở trong nước, những người dân bị phản bội, sống giữa kìm kẹp tù đày, vẫn không hề biết sợ hãi là gì!
 
Tướng McArthur nói: “Old soldiers never die; they just fade away - Người lính già không chết; họ chỉ phai nhạt dần đi”. Chết đã đành, sống mà phai nhạt, mờ dần trong quên lãng như cỏ cây, thì còn gì buồn hơn nữa!

Chết và sống, điều gì khó hơn?
 
Huy Phương
 

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Images?q=tbn:ANd9GcSyd4YKpP0wWwEIrzd20WU-pkeT8Eae3XrZ4d8Jpx4mK7hPAYunYg

Về Đầu Trang Go down
thanhdo
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeFri Mar 14, 2014 10:30 pm


Kỷ Niệm 30 tháng 4, Nhớ Chuyện 75 Di Tản Buồn

Viên Linh 


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Images?q=tbn:ANd9GcRuxeuPVg2li-WV_yK8_2Pdkq8Z6zom9JNd1u-pokPENJxMQFm6


Xin mời quý bạn đọc về nhà văn Chu Tử...

Nhà văn Chu Tử ra đi năm 1975 vào những giờ cuối của VNCH, và những ngày Tháng Tư nghiệt ngã ấy, tàu tôi đi bị mắc cạn tại đoạn gần ngã ba sông Nhà Bè, mà một hướng nước chảy về Cát Lái, một ngã nước xuôi dòng ra sông Lòng Tảo, nhưng rồi được tàu bạn cứu bồ kéo ra để đi tiếp, mặc dù súng của địch quân bắn xa xa nghe vọng trên đường chúng tiến quân đánh chiếm Sài gòn. Cũng trên con sông Lòng Tảo ấy, nhà văn HQ Lê Bá Thông kể chuyện di tản xưa về Chuyến Hải Trình Định Mênh.

Trên đường di tản, nhà văn Chu Tử chẳng may lâm nạn và đã qua đời, xin quý ACE xem bài viết của hay nhà văn Hoàng Hải Thủy và Viên Linh kể chuyện về Chu Tử...

Nhà văn Chu Tử chết và sống, Hoàng Hải Thủy: http://hoanghaithuy.wordpress.com/2009/11/30/chu-tu-chet-va-song/

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 9k=
Nhà văn Chu Tử (trái), họa sĩ Vũ Hối (phải), 1967

Viên Linh ghi nhận:
Trong giới văn nghệ sĩ, 30 Tháng Tư mở đầu bằng một cái tang, cái tang đúng ngày 30 Tháng Tư: đó là cái chết của nhà văn Chu Tử. Ðúng 58 năm trước, anh ra đời cũng vào Tháng Tư, ngày 17.

Nhà văn Chu Tử (17.4.1917-30.4.1975).
Vào ngày 16 Tháng Tư 1966, nhà văn Chu Tử bị ám sát bằng 4 viên đạn xuyên qua cổ, răng, miệng, nhưng đã không chết, có thể vì đối với ông, đạn súng lục quá nhỏ. Chín năm sau, 30 Tháng Tư 1975, ông chết vì một viên đạn lớn hơn, một viên B40 từ bờ bắn lên tàu Việt Nam Thương Tín, khi con tàu này đang từ sông Lòng Tảo, Vũng Tàu, chạy ra khơi.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 2Q==
Tàu Việt Nam Thương Tín

Nhiều thế lực ở đằng sau mũi súng không thích những Sự Thật do Chu Tử viết ra trên báo Sống hay các báo do ông chủ trương. Ở lần ông bị bắn năm 1966, chúng tôi đã viết một bài ngắn đăng trên Tuần báo Nghệ Thuật mà sau này được ông trích đăng lại trong cuốn Không Hận Thù, như sau: "Ðối với bản thân tác giả Yêu, hẳn nhiên những sự đưa đến cái chết, và chính cái chết là một vấn đề Sống. Sống theo quan niệm của một người trí thức hành động. Người trí thức hành động Chu Tử đã đối đầu với những vấn đề nguy hiểm, nhưng đó là những vấn đề ông có thể kiểm soát nổi. Nếu ông tin rằng người ta không thể giết ông vì những điều ấy, thì niềm-tin-chu-tử không phải niềm tin của một tâm hồn thơ ngây, nhưng là của một tâm hồn tràn trề hy vọng ở một cuộc sống tốt đẹp, cuộc sống ao ước. Ao ước và hy vọng dĩ nhiên lại là những gì mà chúng ta không có cách kiểm soát được..." (1)

Nhà văn Chu Tử có tên khai sinh là Chu Văn Bình, ra đời ngày 17 Tháng Tư năm 1917 tại làng Mía, Sơn Tây, miền Bắc Việt Nam. Theo lời tự thuật của ông, vì bạn bè trong lớp sỉ nhục, sau khi đậu tiểu học, ông chỉ mất có ba năm thì thi đậu tú tài. Mất thêm mấy năm nữa, ông học Luật tới năm thứ ba, rồi nghỉ một thời gian, không rõ vì sao. Sau nghe ông đậu cử nhân Luật và trở thành một trong vài người đậu cử nhân hồi những năm cuối thập niên ba mươi, đầu thập niên bốn mươi tại tỉnh Sơn Tây. Tham gia sinh hoạt đấu tranh từ nhỏ, trong khi còn học lớp nhất trường Hưng Hóa, Chu Tử, vào đêm nổi dậy của Việt Nam Quốc Dân Ðảng năm 1930, đã theo đàn anh Nguyễn Khắc Nhu, biệt danh Xứ Nhu, phó đảng trưởng, đi hạ đồn Hưng Hóa. Thất bại, bơi qua sông trên đường rút lui, tới được bờ thì quá mệt, và quá vui, nhà cách mạng 13 tuổi ngủ một giấc, và từ đó mất liên lạc với Xứ Nhu. Ông bị tù thời Pháp, sau đó còn bị tù thời Nhật, thời Ngô Ðình Diệm, như ông viết. Tuy vậy thời Việt Minh, ông có lần ngồi xử án một vài phiên tòa địa phương.

Hồi thanh niên Chu Tử mở trường dạy học, học trò rất đông. Nhưng lòng ông không ở đó. Ông dừng lại ở văn chương, ở báo chí, văn, ông đã cho xuất bản một loạt các truyện dài mà nhan đề chỉ có một chữ: Yêu (Ðường Sáng, Saigon, 1963, tái bản 3 lần trong một năm), Sống, tức Loạn I (Ðường Sáng, 1963), Loạn (Ðông Bắc, 1964). Cuốn nào cũng là truyện dài, và truyện nào cũng đăng báo trước khi in thành sách. Thường là đăng báo của ông, như tờ Sống, hay báo do ông chủ trương, như Dân Việt, Ðời, Sóng Thần, vì với ngòi bút công phá tàn khốc, Chu Tử không còn được phép đứng tên làm chủ nhiệm một tờ báo nào nữa, sau tờ Sống.

Trong sinh hoạt báo chí, tôi ít có dịp làm việc với Chu Tử, trừ một thời gian ngắn phụ trách phần điện ảnh cho báo Sống của anh, và thời gian viết truyện dài Gió Thấp cho báo Sóng Thần do anh chủ trương. Tờ báo sau cũng gây nhiều sóng gió, và là mục tiêu của một cuộc xung đột nghề nghiệp, hay xung đột chủ trương, đến mức tàn khốc. Một trong những chuyện xảy ra, làm rung chuyển giới truyền thông lúc ấy, là vụ bắn bỏ Vân Sơn Phan Mỹ Trúc, chủ nhiệm tờ Ðông Phương. Lúc ấy tôi cũng đang viết một truyện dài cho Ðông Phương. Hai tờ báo ở cùng một con đường Võ Tánh, tờ bên số lẻ, tờ bên số chẵn, đi bộ chỉ vài phút. Hai tờ báo ấy lại đang bút chiến với nhau. Ðến Ðông Phương ngồi viết xong đoạn truyện đủ in cho báo ngày hôm sau, tôi đi qua Sóng Thần ngồi làm việc tương tự, ở cái bàn ngay cửa phòng sắp chữ. Bao giờ tôi cũng lại Sóng Thần sau, vì thích cà kê ở đây lâu hơn. Ở quãng giữa hai tờ báo là phở Hà Nội, nơi các ký giả gặp nhau, cũng là nơi tôi ghé vào bảo họ lát nữa mang lên Sóng Thần cho tôi một chai bia Larue có hình trái dứa và một ly đá. Lùi về phía sau là nhà thờ Huyện Sĩ, nơi có một quán cà phê bí tất, chéo góc với quán xôi lạp xưởng của mấy mẹ con một bà người Bắc.

Một hôm đang ngồi ăn nhậu trong quán cà phê bí tất với bạn bè, Vân Sơn Phan Mỹ Trúc bị dí súng vào đầu. Một tiếng nổ. Kẻ lạ mặt, do đồng bọn chở bằng Honda hai bánh từ ngoài bước vào, giữa ban ngày, rút súng xử tử chủ nhiệm Ðông Phương, rồi rảo cẳng đi ra, leo lên sau xe Honda, mất dạng. Cái tin gây lặng ngắt trong chỗ tôi ngồi uống bia. Tôi không đi đưa đám Vân Sơn, nhìn vành khăn trắng trên đầu một phụ nữ não nùng, tôi thù ghét tên mặt tái. Theo mô tả, đó là kẻ sát nhân. Tôi nghĩ tôi đã gặp y nhiều lần. (2)

Trong không khí đó, những cuộc xung đột trong làng báo không còn là những bài báo xuông nữa. Ngay trong nội bộ cũng gay cấn. Anh Chu Tử, tuy là người đứng chủ trương nhật báo Sóng Thần, nhưng lại không thoải mái khi tới tòa soạn. Rồi chẳng bao giờ anh tới nữa, nằm nhà lãnh lương, rút xì phé. Có khi chỉ có ba người, chúng tôi cũng vẫn rút, cho anh đỡ buồn. Nhất là khi trong ba người lại có một anh Việt Cộng hồi chánh như Kim Nhật - tác giả cuốn Cục R - cò gỗ mổ cò thật như hôm đó, thì chán biết nhường nào? Anh nhắc tôi kể chuyện phim ráng viết cho dài, như một cái truyện ngắn, vì tôi thường viết ngắn, chủ trương đủ ăn thì thôi, hôm nay đong gạo hôm nay, chuyện mai mai tính. Một hôm anh bảo tôi, khi tôi đã leo lên cái xe Lambretta định đi. "Này cái chuyện phim hôm rồi cậu viết dài hơn nửa trang như thế là được, tuy nhiên cậu lại không viết nhan đề. Tôi thấy tên phim là La Chevauchée, tôi đặt là Ðoàn Kỵ Mã đấy. Ðược không?" Dĩ nhiên là được. Chị Gilberte Nguyễn Văn Lợi, chủ hãng phim Columbia tại Sài Gòn đưa cho tôi tờ Ciné-Revue, trong có thuật chuyện phim này, sắp chiếu ở Eden hay Ðại Nam gì đó, tôi phải chuyển ra Việt ngữ, tôi đã xem phim đó đâu mà nói được hay không được. Tôi cũng chẳng nhớ nội dung câu chuyện như thế nào, vì tài tử cưỡi ngựa bắn súng cỡ Randolphe Scott là tài tử tôi chỉ xem qua một lần rồi bỏ.

Nhà văn Chu Tử lìa đời trên sông Lòng Tảo, trên thuyền Việt Nam Thương Tín. Hôm đó là ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Khi chiếc thương thuyền đang hướng ra hải phận quốc tế thì bị trúng một trái đạn pháo từ trong bờ bắn ra. Trong mấy ngàn người, Chỉ có Chu Tử thiệt mạng. Cháu Chu Sơn, con trai anh, mà cũng là phóng viên trang 3 của chúng tôi trong tờ nhật báo Tiền Tuyến, đứng bên bố nhưng không nguy hại gì. Theo Trung Tá Phạm Hậu kể lại: "Có tiếng pháo kích từ bên bờ sông mé phải bắn qua. Ðạn đại bác của xe tăng hay đạn B40, B41 quái quỉ gì đó... rơi lõm bõm trên sông. Một viên đạn bay qua đầu chúng tôi, rơi trúng vào chiếc tầu to lớn - tầu Việt Nam Thương Tín chở hàng hóa và hành khách dân sự - đang vùn vụt chạy rất nhanh ở phía trái chúng tôi. Khói bốc lên nghi ngút trong chốc lát. Sau mới biết chính quả đạn này đã sát hại nhà văn Chu Tử..." (3)

Theo cháu Chu Sơn kể lại với tôi, thi hài Chu Tử được bó vải, thả xuống Thái Bình Dương ngày hôm sau. Anh là thuyền nhân đầu tiên được thủy táng. Anh là nhà văn lưu vong đầu tiên vẫn trong hải phận quê hương. Và như thế, có bao giờ anh rời xa Ðất Nước? Từ lúc viết văn đến khi từ trần, anh hoàn tất ý niệm ban đầu của một người cầm bút, mấy ai có thể làm được như anh?

(Trong Chiêu Niệm Văn Chương)

------------------
Chú thích:

1. Viên Linh, nhà văn Chu Tử, vấn đề sống, Tuần báo Nghệ Thuật, số 28, tháng 4, 1966, trang 5.
2. Duyên Anh viết rất rõ về vụ ám hại này trong hồi ký của ông, đã xuất bản.
3. Phạm Hậu, 30.4.75, Từ sông Lòng Tảo tới Subic Bay, (theo Khởi Hành số 42, 4.2000, trang 9).



Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Ban%2BBe%2BXua

.
Về Đầu Trang Go down
thanhdo
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeMon Mar 17, 2014 9:51 am

Chuyến Hải Trình Định Mệnh


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Sunset1

Lê bá Thông

Ðịch ngưng pháo kích khi tia sáng đầu ngày bắt đầu le lói trên hàng cây dừa nước hai bên bờ sông. Tôi liên lạc máy với toán kích đang nằm tại hướng hạ giòng và được biết địch cũng vừa ngưng pháo vào Căn cứ Yểm trợ Tiếp vận Nhà Bè và vẫn chưa thấy địch tấn công bằng đường bộ. Tôi gọi máy cho vị Sĩ quan Chỉ huy Giang đoàn bạn và thông báo cho biết là tôi sẽ trở về Căn cứ để thám sát tình hình và tái phối trí đơn vị. Trời đã bắt đầu sáng hẳn khi đoàn chiến đỉnh cặp bến tàu Căn cứ vào lúc gần 0700 giờ ngày 30 tháng 4. Nhân viên lần lượt đổ bộ lên bờ và được lệnh ra các vọng gác.

Nhìn cảnh điêu tàn của đơn vị, lửa vẫn còn cháy tại những nhà kho, nhà máy đèn tan tành, đổ nát vì bị địch pháo hỏa tiển 122 ly suốt đêm qua, tôi cảm thấy bâng khuâng nhưng vẫn giữ vững niềm tin là đơn vị còn đứng vững để tiếp tục chiến đấu. Tôi lệnh cho Sĩ quan Truyền tin phá hủy những tài liệu không cần thiết và cố gắng gọi máy liên lạc với Bộ Tư lệnh Hải quân. Tôi hy vọng Bộ Tư lệnh Hải quân vẫn còn đứng vững và mong có thể liên lạc được với những Sĩ quan thâm niên hiện diện, đang ở lại tử thủ như cá nhân tôi, để nhận chỉ thị cần thiết.

Sau khi đi duyệt qua tình hình Căn cứ, tôi trở về phòng hành quân và nhận được báo cáo là Sài Gòn đang rối loạn, Bộ Tư lệnh Hải quân không trả lời máy. Tôi phân vân rồi ra lệnh mở kho thực phẩm để phân phối cho các đơn vị bạn và các Giang đoàn đang triệt thối về đây. Những chiến đỉnh thuộc nhiều đơn vị khác nhau như là Liên đoàn Tuần Thám, Phóng Thủy Hỏa, Thủy Bộ, Xung Phong, Trục Lôi... tất cả hơn 100 giang đỉnh không có Ðơn vị trưởng đang xin tạm trú tại nơi này.

Khoảng 10 giờ sáng lúc vừa quay về Bộ chỉ huy, bỗng nhiên tôi nghe tiếng chân người chạy rộn rịp, tiếng máy xe Honda và xe Vespa nổ ồn ào. Nhân viên của tôi đang đùng đùng bỏ hàng ngũ, vất lại súng đạn và chạy ra phía cổng chánh. Tôi ra lệnh chận lại để tìm hiểu lý do và được báo cáo là nhân viên mở radio, nghe nói Sài Gòn rối loạn, họ sợ gia đình vợ con thất lạc nên mọi người xin phép được trở về lo cho gia đình.

Thế là hết, không ai còn tinh thần để ở lại chiến đấu nữa, mà họ chiến đấu cho ai ở giờ phút này, trong khi những cấp chỉ huy khác đã đưa vợ con ra ngoại quốc rồi chạy theo ra biển thoát nạn. Tôi thở dài chán nản và cảm thấy niềm uất ức dâng tràn lên trong tim. Chỉ trong khoảng khắc đơn vị đã trở nên một bãi vắng bóng người, chỉ còn lại súng ống bỏ lại đầy trên nền đất lạnh. Tôi ngước mặt nhìn trời, nước mắt tuyệt vọng chảy dài xuống má.

*****

Trời đổ mưa ào xuống khi chiếc tàu đánh cá chạy ngang qua ngã ba sông Nhà Bè, một hướng chảy về Cát Lái, một ngã xuôi ra sông Lòng Tào, Soài Rạp. Người tỵ nạn đứng ngồi trên sàn tàu, chen chúc nhau dưới các tấm ny lông, thân hình co ro với chiếc áo mưa, trong khi gió sông thổi mạnh phía sau lái, làm tăng tốc lực thêm cho con tàu đi biển loại nhỏ. Các quân nhân Lôi hổ, hờm sẵn súng tiểu liên, phóng lựu M79, hướng về mặt sông, nơi thuyền bè của dân di tản đang xuôi ra biển Vũng Tàu.

Trận mưa đám mây không kéo dài lâu lắm, gió mạnh đã bắt đầu dịu xuống và bầu trời trở nên quang đảng, ánh nắng buổi xế trưa lại le lói xuyên qua các vầng mây xám đen, đang bay về phương trời xa. Từ hướng kho xăng Nhà Bè, hàng chục chiến đỉnh Hải quân thuộc các Giang đoàn Xung Phong, Thủy Bộ, Trục Lôi... đang chậm rãi giang hành về hướng Sài gòn. Mọi người trên chiếc tàu đánh cá thắc mắc, không lẽ cấp Chỉ huy của toán chiến đỉnh này không biết gì về việc Tướng Dương văn Minh đầu hàng, Sài Gòn đã thất thủ và Bộ Tư lệnh Hải quân đã bị Việt Cộng vào chiếm rồi hay sao? Lúc bấy giờ đã hơn 12 giờ rưởi trưa, một vài người khoác tay về phía các giang đỉnh đang dẫn đầu, ra hiệu cho các thủy thủ mặc quân phục tác chiến, áo giáp, nón sắt. Dân di tản muốn liên lạc và bảo những chiến hữu này hãy quay tàu chạy ra biển, thay vì tiếp tục về hướng Sài Gòn.

Phía trước mặt bên tả hạm, có vài chiếc tàu cũng lớn xấp xỉ bằng tàu đánh cá này. Các nhân viên trên vài chiến đỉnh loại nhỏ của Liên đoàn Thủy Bộ và Tuần Thám có lẽ như đã nhận hiểu thủ hiệu. Họ quay chiến đỉnh trở lại, và lái tàu chạy theo sau những tàu đánh cá, rồi một vài người trong thủy thủ đoàn cổi áo giáp, đeo các sợi dây thừng, leo lên tàu lớn và bỏ lại chiến đỉnh trôi bập bềnh trên sông. Cũng như nhiều quân nhân Hải quân không có gia đình ở Sài Gòn, những thủy thủ này đã quyết định theo các tàu thuyền di tản, vì thấy mọi người đều bỏ quê hương ra đi.

Tôi ở trên soái đỉnh của Giang đoàn Thủy Bộ và đang cùng đoàn chiến đỉnh gần 50 chiếc, hải hành về trình diện Bộ Tư lệnh Hải quân tại bến Bạch đằng. Cô Y tá thuộc Bệnh viện của Căn cứ báo cáo cho tôi, về việc Tướng Minh đã đầu hàng quân Cộng sản miền Bắc cũng như ông vừa ra lệnh tất cả các đơn vị thuộc Quân lực Việt Nam Cọng Hòa buông súng và ngưng chiến đấu. Tôi sững sờ, không tin những gì đang nghe, rồi nghẹn ngào uất ức và đau buồn dâng tràn trong tim.

Khi chiếc tàu đánh cá chạy ngược chiều với chiếc chiến đỉnh trang bị hải pháo và pháo tháp nặng nề này, Ðại tá Ch. là một Sĩ quan Hải quân ngành Cơ khí, người chỉ huy tàu đánh cá, ra lệnh chuẩn bị ngừng tàu lại. Ông ấy vừa nhận ra người bạn Hải quân, một Sĩ quan cấp bậc Trung tá ngành chỉ huy, thuộc Căn cứ Yểm trợ Tiếp vận Nhà Bè, đang đứng trên boong soái đỉnh.

Ông dùng loa nói chuyện và thông báo tình hình cho tôi, Ðại tá Ch. cho tôi biết về tình trạng rối ren tại Sài Gòn và chấp thuận cho gia đình tôi quá giang, đồng thời yêu cầu tôi giúp ông ta đưa tàu này ra biển. Vì người tài công có nhiệm vụ lái tàu, phút cuối đã không đến được và cho đến bây giờ trên tàu không có dụng cụ hải hành, bản đồ... và chỉ có một la bàn từ dùng cho việc định hướng lái tàu. Sài Gòn đã mất vào tay Cộng sản và không còn gì để tiếp tục chiến đấu nữa cả. Sau một hồi đắn đo suy nghĩ, như người mất hồn, tôi gọi máy hỏi ý kiến thuyền trưởng các chiến đỉnh và tất cả đều khuyến khích tôi nên cùng gia đình theo tàu đánh cá ra khỏi vùng lửa đạn. Họ đồng ý và hứa với tôi, sẽ tìm phương tiện để đưa gia đình của họ, đang còn kẹt ở Sài Gòn, di tản ra biển tìm Tự do. Tôi ngậm ngùi chào từ giã các chiến hữu thân mến đã cùng tôi tử thủ và chiến đấu suốt đêm qua, chúc mọi người gặp nhiều may mắn. Sau đó tôi đưa vợ tôi, Minh và bốn đứa con đang còn nhỏ, lên chiếc tàu đánh cá rồi phụ giúp Ðại tá Ch. vận chuyển tàu giang hành ngang qua kho xăng Nhà Bè.

Từ xa một cột khói đen bay lên cao từ hướng Căn cứ Yểm trợ Tiếp vận, suốt đêm bị địch pháo kích phá hủy tan tành và gây nên những đám cháy dữ dội. Tàu ngưng máy một lúc để chúng tôi đón vài nhân viên Hải quân thuộc Căn cứ Yểm trợ này lên. Sau đó mọi người trên tàu đánh cá quyên góp tiền Việt Nam mà họ còn mang theo, nay đã trở thành vô giá trị đối với người di tản, chuyền xuống các chiến đỉnh cho các thủy thủ, hoặc vì lý do này hay lý do khác, quyết định ở lại với gia đình và quê hương. Các người Tàu đưa hết những xấp giấy 1000 đồng cho quân nhân Hải quân với tất cả tấm lòng. Nhân viên giang đỉnh cũng cảm động cám ơn, rồi họ mang ra ba bốn bao gạo, vài thùng mì gói tặng cho người di tản. Họ ngậm ngùi chúc nhau nhiều may mắn và biết đây là lần đầu tiên họ gặp nhau và cũng là lần cuối. Các thuyền trưởng chiến đỉnh đưa cho vị Chỉ huy cũ của mình vài bản đồ khu vực sông Lòng Tào, từ Soài Rạp ra đến Vũng Tàu, loại bản đồ hành quân của đơn vị Bộ binh. Họ còn cho tôi biết là chiếc thương thuyền Việt Nam Thương Tín bị Việt Cộng chận bắn trên sông Lòng Tào khoảng nửa giờ trước đây, vào lúc 1 giờ 30 chiều, một số người bị tử thương, trong số đó có nhà văn Chu Tử. Khi nghe được tin này, Ðại tá Ch. và tôi quyết định thay đổi giang trình, thay vì dùng sông Lòng Tào chật hẹp dễ bị tấn công bởi quân Cộng sản, tôi sẽ vận chuyển tàu theo lộ trình sông Soài Rạp, mặc dù khó hải hành nhưng vì sông rất rộng nên có thể tránh được nguy hiểm và an toàn hơn.

Trên sông tàu thuyền tấp nập với những tàu chở hàng LCU của Quân vận, ghe đánh cá dân sự, Giang tốc đỉnh PBR thuộc các Liên đoàn Tuần Thám, phăng phăng rẽ dòng nước đục ngầu, đầy bùn phù sa và rong bèo lẫn lục bình, cuồn cuộn trôi ra phía vịnh Vũng Tàu. Gió mát thổi từng cơn từ phía hàng dừa nước hai bên bờ, mặt nước sông như sáng hẳn lên dưới ánh nắng chiều, lóng lánh ngàn vì sao nhỏ phản chiếu từ giòng sông uốn khúc. Vài con chim cò, chim vạc với đôi cánh dài nhẹ lướt qua những lùm cây thấp bên gành, cạnh rừng lau sậy mọc lưa thưa. Thiên nhiên vẫn bình thản như không có gì thay đổi trước mắt dân di tản. Tuy nhiên mọi người đã nhận thức rằng kể từ giờ phút này, họ bắt đầu một cuộc đổi đời mà định mệnh đã làm cho dân miền Nam phải xa lìa quê cha đất tổ và bỏ lại tất cả những gì quý giá nhất của mình vì không muốn sống dưới chế độ độc tài Cộng sản. Những việc gì sẽ đến trong giờ phút sắp tới đều có ảnh hưởng đến cả cuộc đời của người đi tìm ánh sáng Tự do và an toàn cho cá nhân cũng như gia đình họ.

Tàu tiếp tục giang hành với vận tốc chậm vì lòng sông Soài Rạp thay đổi, sâu cạn bất thường, nếu không có kinh nghiệm, tàu sẽ bị mắc cạn, do đó tôi cẩn thận theo sát các chiến đỉnh chạy trước để tránh vùng nước cạn. Thỉnh thoảng tôi ngừng tàu lại, và đón vớt quân nhân đủ mọi cấp thuộc các Quân binh chủng di tản trên các tàu nhỏ, chật hẹp, sắp bị chìm, lên tàu đánh cá này. Từ xa vịnh Vũng Tàu đã thấy xuất hiện về phía tả hạm với ngọn núi nhô lên cao và ngọn hải đăng trắng xóa nằm trên đỉnh.

Trên không thỉnh thoảng vài chiếc trực thăng thuộc Không quân Việt Nam Cọng hòa trực chỉ về hướng đông, có lẽ bay ra Ðệ thất Hạm đội Hoa Kỳ. Từ trong Căn Cứ Yểm trợ Tiếp vận Cát Lỡ, các chiến đỉnh Hải quân và Quân vận, chở đầy người tỵ nạn, chen chúc chạy ngang Bãi trước Vũng Tàu, xuôi ra biển. Về phía nam, các chiến đỉnh thuộc đơn vị Hải quân từ Vùng 4 Sông Ngòi nối đuôi nhau đổ ra cửa sông. Một vài chiếc cặp lại bên cạnh các thuyền đánh cá lớn, hay chạy theo các chiến hạm Hải quân để yêu cầu được quá giang, vì chiến đỉnh của họ quá nhỏ, không thể đi xa ra biển khơi. Tàu đánh cá của Ðại tá Ch. cũng lại vớt nhiều gia đình Hải quân trong đám chiến đỉnh này.

Vào khoảng 7 giờ tối, tàu tiếp tục chạy về phía đông nam, sau khi tôi dùng chiếc la bàn từ để định hướng và lấy ngọn hải đăng trên đỉnh núi Vũng Tàu làm chuẩn. Dân di tản ngồi chen chúc ngổn ngang trên sàn tàu nhỏ xíu, phía trước và trên boong thượng phía sau lái, mọi người ngồi yên tại chỗ, không thể di chuyển đi đâu được cả. Tổng số người đi tìm Tự do, kể cả người Tàu Chợ Lớn và gia đình, đã lên đến trên dưới 300 người, so với khoảng gần 200 người lúc tàu chạy ngang qua Căn cứ Yểm trợ Tiếp vận Nhà Bè vào lúc hơn 2 giờ chiều ngày hôm nay.

Mặt trời từ từ lặn xuống sau rừng cây đang đổi qua màu đen thẫm về phía tây bắc. Chiếc tàu chở đoàn người tỵ nạn, dật dờ, lắc lư trên những đợt sóng dài giữa biển cả mênh mông, trong một buổi hoàng hôn màu tím nhạt, bắt đầu buông phủ và bao trùm vũ trụ. Từng tia sáng chớp lên rồi tắt ngúm từ ngọn hải đăng Vũng Tàu như cây đèn trời giữa đêm tối, gieo trong lòng người di tản nỗi buồn cô đơn trống vắng. Họ cảm thấy tủi thân cho số phận mình, những người đi đày như dân Do Thái, lênh đênh trên chiếc tàu Exodus đi tìm đất thánh ngày xa xưa. Tương lai và thân phận của người Việt tỵ nạn tựa màn đêm bao quanh họ. Hy vọng được cứu vớt thật là mong manh như tìm nước uống trên sa mạc, tùy thuộc vào sự may mắn và định mệnh đẩy đưa.

Khoảng 10 giờ tối khi tàu cách xa bờ biển Vũng Tàu khoảng chừng 20 hải lý, mọi người đang chập chờn tìm quên qua giấc ngủ sau một ngày tinh thần căng thẳng và mệt mõi, bỗng họ chợt tỉnh dậy vì nghe tiếng xôn xao từ phòng lái. Hình như Ðại tá Ch. cho biết có một thương thuyền lớn thắp đèn sáng trưng phía bên tả hạm cách chừng một hải lý. Ông ra lệnh tàu tăng máy và hướng về chiếc thương thuyền đó. Khi đến gần, ông dùng ống loa và kêu gọi vị thuyền trưởng xin được phép tiếp cứu và cho dân tỵ nạn Cộng sản lên tàu.

Ðây là một thương thuyền Ðại Hàn trên đường về bến tại Hán Thành. Ông thuyền trưởng thương thuyền đặt loa cho biết là ông không thể cho người tỵ nạn Việt Nam lên tàu của ông được vì không có phép của công ty và của chính phủ Ðại Hàn. Họ đang trong tình trạng phân vân chưa biết phải đối phó thế nào trước tình hình sụp đổ quá nhanh của miền Nam Việt Nam. Ông thuyền trưởng rất thông cảm và thương hại muốn giúp người Việt Nam đang gặp hoạn nạn. Nhưng vì vấn đề chính trị mà Quốc gia ông phải đối phó, chính phủ Ðại Hàn cần thời gian cân nhắc, tìm đường lối chính trị hợp với họ, trước khi đi đến quyết định trợ giúp công dân của Việt Nam, một nước trước đây là đồng minh của Ðại Hàn trong cuộc chiến vừa tàn. Sau khi dứt lời, ông ta cầu chúc Thượng đế ban phước lành cho mọi người, và hy vọng những thương thuyền của các nước khác, đã có chỉ thị cho phép nhận người tỵ nạn Việt Nam, sẽ đón những người di tản lên tàu. Thế rồi chiếc thương thuyền mang quốc tịch Ðại Hàn đổi hướng đông bắc, trực chỉ về phía đảo Hải Nam, để lại sau lưng, trên biển một con tàu nhỏ chở đầy những người di tản thất vọng, đang ngậm ngùi nhận thức được cái giá tủi nhục đầu tiên phải trả khi bị nhân loại ngoảnh mặt từ chối giúp đỡ.

Bầu trời đầu tháng 5 dương lịch, đầy sao lấp lánh dán trên vòm đen vĩ đại. Vầng trăng nửa vành tỏa tia sáng nhạt xuống vùng biển Ðông, không đủ soi đường cho các chiến hạm, tàu đánh cá, ghe Kiên giang, xà lan, thuyền buồm... đang bập bềnh hướng về phía mặt trời mọc và hy vọng được cứu giúp bởi người bạn đồng minh Hoa Kỳ.

*****

Trên bầu trời đầy sao lấp lánh, vầng trăng nửa vành treo lơ lửng về phía tây nam, phía hữu hạm chiếc tàu di tản, đang nhấp nhô đi tìm những Duyên vận hạm (LCU) hoặc tàu đánh cá lớn chạy bằng dầu cặn bỏ lại trên biển, để tiếp tế thêm dầu.

Sau một thời gian khá lâu, tiếng gọi từ phòng lái chuyền xuống cho mọi người biết rằng có thể tàu đã tìm ra LCU của Quân vận hoặc tàu có nhiên liệu. Sau đó tôi từ từ vận chuyển tàu đánh cá cặp vào một chiếc LCU, đang trôi bập bềnh trên sóng. Trên tàu này không một bóng người, không có đèn, tối thui, sàn tàu đầy rẫy va li áo quần, xách tay, dụng cụ, giày dép vương vãi khắp boong chính. Ðại tá Ch. chỉ thị tổ chức những thanh niên, nối đuôi thành hàng dài chuyền tay các xô dầu múc từ hầm chiếc Duyên vận hạm đổ xuống hầm chứa dầu của tàu đánh cá. Công tác tiếp tế tập thể diễn tiến tốt đẹp dưới ánh sáng của ngọn đèn rọi từ phòng lái, và tiếng máy rì rầm vang dội trong đêm khuya tỉnh mịch, tại một vùng biển trời mênh mông.

Công tác lấy dầu từ chiếc Duyên vận hạm lại tiếp tục dưới ánh sáng mờ ảo của vầng bán nguyệt đang ngã về phương tây, hướng đất Mẹ Việt Nam. Những ánh đèn bin lập lòe, trên tay các bóng đen như ma trơi, thấp thoáng im lặng di chuyển, âm thầm với ý nghĩ riêng tư của mỗi người, đang còn bị ám ảnh bởi sự kiện vừa xảy ra trong chuyến di tản. Tình người, tình mẫu tử, tình cha con bắt đầu thay biến trong cuộc đổi đời. Và trong tương lai họ biết sẽ gặp nhiều ngạc nhiên hơn nữa, khi hội nhập vào đời sống người tỵ nạn tại các quốc gia Tự do với nhiều nhu cầu vật chất hơn giá trị tinh thần.

Các người Tàu Chợ Lớn lấy vải vóc, tơ lụa, đồ ngủ may sẵn, những áo quần mà họ dự trù mang theo qua Tân Gia Ba để xử dụng và mua bán, đem ra phân phát cho thiếụ nữ và các bà vợ dân di tản trên tàu. Những bộ áo quần thêu tay thật đẹp và đắt tiền này là món quà chia nhau giữa những người không quen biết, nay cùng chung cảnh ngộ, dù ngôn từ khác biệt nhưng ánh mắt và cử chỉ đã nói lên lòng ưu ái, nhân hậu của tình người.

Con tàu di tản cô đơn trên biển cả mênh mông, tách rời chiếc Duyên vận hạm đang trôi dạt xa dần về phía vô định, tiếp tục hải trình về hướng đông sau khi lấy thêm những phi nước ngọt chất đầy trên boong thượng. Ðã gần năm giờ sáng, từ phía chân trời, ánh sáng bình minh đã bắt đầu nhuộm đám mây hồng, đang lờ lững vắt ngang vũ trụ. Mặt trời hình tròn, đỏ chói hiện lên dần từ dưới vùng nước xanh, ánh sáng tựa dòng sông, lóng lánh như vàng, tỏa rực trên đại dương. Từ xa về phía hữu hạm, bóng dáng con thoi dài một chiến hạm Hoa Kỳ nổi bật lên trên mặt biển êm như hồ. Mọi người la lên mừng rỡ vì tưởng sắp được tàu Mỹ cứu vớt. Dân di tản đứng dậy, tay cầm áo quần, khăn tắm, lấy mũ đang đội trên đầu, ngoắc lia lịa về phía chiến hạm Hoa Kỳ để gây sự chú ý của thủy thủ đoàn trên chiếc tàu này.

Họ thấy từ xa, vây quanh chiếc Khu trục hạm, cũng có nhiều tàu thuyền chở đầy dân tỵ nạn, đang cố gắng xin tàu Mỹ cho lên. Khi tiến về phía Khu trục hạm, mọi người đều ngạc nhiên khi thấy thủy thủ trên tàu dùng súng trường M16 bắn chỉ thiên lên trời như xua đuổi không cho ghe thuyền dân tỵ nạn đến gần. Tất cả đều thất vọng và thắc mắc. Như vậy là thế nào? Họ tự hỏi, có phải người Mỹ từ chối giúp người di tản không? Tương lai và số phận của họ sẽ ra sao? Những tin tức về chiến hạm Ðệ thất Hạm đội chờ sẵn để tiếp đón dân miền Nam Việt Nam là tin thất thiệt, không đúng sự thật hay sao? Và niềm lo âu trở thành bất mãn, họ la ó dữ dội để thỏa lòng uất hận. Người Mỹ đểu cáng bỏ rơi nước Việt Nam, tự động gửi quân qua Việt Nam tham chiến, rồi kéo quân về nước, và cắt đứt viện trợ năm 1973 làm cho Quân đội mất hết tiềm năng chiến đấu. Thế rồi Mỹ lại giúp phương tiện cho các cấp chỉ huy hèn nhát bỏ lại chiến hữu thuộc cấp, cao chạy xa bay ra ngoại quốc làm suy sụp tinh thần quyết tử của quân dân nhiều lòng yêu nước. Bây giờ Mỹ lại dùng súng đạn xua đuổi, trở mặt không cứu vớt và giúp đở người di tản Việt Nam, đang bập bềnh trên sóng nước biển đông.

Trời sáng dần, ghe thuyền dân tỵ nạn không biết từ phương nào tới, xuất hiện càng ngày càng nhiều, lũ lượt chạy quanh chiếc Khu trục hạm. Sau một thời gian ngừng máy, có lẽ để báo cáo cho giới chức có thẩm quyền Hải quân Hoa Kỳ, chiếc Destroyer này vận chuyển, tăng hết tốc lực, đổi hướng về phía nam. Và bỏ lại sau lưng hàng chục chiếc tàu chở dân Việt Nam di tản, đang thất vọng, uất ức nhìn theo cột khói đen mờ dần, rồi khuất hẳn cuối chân mây. Chỉ trong phút chốc chỉ còn những ghe thuyền đang chơi vơi trên biển. Dân di tản lần lượt lái ghe thuyền, trực chỉ phía mặt trời mọc, tiếp tục hải trình và nuôi hy vọng sẽ gặp may mắn hơn.

Mặt trời lên cao, làn gió nhẹ từ hướng đông nam không đủ xoa dịu cơn nóng oi bức của buổi trưa đầu hè trên biển. Từ xa về hướng đất liền, mọi người chợt thấy một chiến đỉnh nhỏ của Hải quân, treo cờ vàng ba sọc đỏ đang phăng phăng tiếng về hướng chiếc tàu đánh cá. Tôi nhận ra đây là loại Duyên tốc đỉnh (PCF), có lẽ thuộc Hải đội 3 Duyên phòng tại Vũng Tàu. Quả đúng như vậy, vị Thuyền trưởng, một Trung úy trẻ tuổi và ba nhân viên cặp vào tàu đánh cá và xin Ðại tá Ch. cho phép quá giang vì chiến đỉnh nhỏ không thể đi xa ra khơi được. Trung úy Thuyền trưởng cho biết chiến đỉnh còn dầy dầu, trên dưới 3000 gallons, vì thế Ðại tá Ch. quyết định cho dòng chiếc tàu này theo, để có đầy đủ dầu xữ dụng, đề phòng trường hợp phải hải hành qua Phi Luật Tân.

Vào khoảng ba giờ chiều, tàu đang chạy ngon trớn bỗng nhiên vận tốc giảm dần, rồi tiếng máy tàu nổ vài tiếng nhỏ và ngưng hẳn, mọi người tiên đoán hình như máy tàu bị trục trặc. Các Sĩ quan cơ khí quá giang báo cáo cho Ðại tá Ch. là có nước hòa lẫn trong dầu. Có lẽ tối hôm qua, khi lấy dầu của chiếc LCU Quân vận, vì đêm tối nên không ai biết dầu Diesel này có nước trong đó.

Không gian chung quanh chiếc tàu quá im lặng vì không có tiếng máy tàu. Thỉnh thoảng vài cơn gió mạnh thổi ngang qua, gây nên tiếng kêu phần phật từ các tấm vải giăng tạm, làm lều che nắng cho người đi tìm Tự do. Chiếc tàu đánh cá đầy ắp dân di tản, dật dờ, bồng bềnh trôi với thủy triều trên mặt biển êm ả. Tiếng người thì thầm nhỏ to, bàn tán với nhau về việc máy tàu bị hư, và lo âu vì đêm qua thương thuyền Ðại Hàn từ chối cứu vớt và sáng hôm nay, Khu trục hạm Mỹ dùng súng bắn đuổi đi. Cho đến bây giờ vẫn không thấy bóng dáng chiến hạm Mỹ khác, như lời đồn đãi của dân chúng Sài Gòn trước ngày 30 tháng 4.

Khoảng hơn hai giờ sau, các Sĩ quan Cơ khí đã sửa chữa xong hai máy chánh và mọi người thở ra nhẹ nhõm khi nghe tiếng nổ của máy tàu. Sau khi xác định vị trí trên hải đồ, chiếc tàu đánh cá với chiến đỉnh của Hải đội Duyên phòng, được kéo phía sau lái, chạy trở lại hướng đông bắc, vào thủy lộ của đoàn tàu đi tìm kiếm các chiến hạm thuộc Ðệ thất Hạm đội Hoa Kỳ.

Tôi lấy ống nhòm và quan sát bốn phía với hy vọng tìm thấy một đối vật gì trên mặt biển đang ngả sang màu xanh đậm, khi mặt trời bắt đầu thấp xuống dần về hướng tây. Tôi nhìn phía tả hạm, không thấy gì khác ngoài những đợt sóng dài và trời biển như dính liền thành một bức họa màu xanh. Tôi quay về phía hữu hạm, hơi chếch trước mũi tàu và chợt ngừng lại, điều khiển ống nhòm để nhìn thấy rõ hơn. Xa xa, bay lên từ chân trời xanh đậm, một đợt khói đen mờ ảo, thấp thoáng như làn mây mỏng. Quan sát viên ngoài phòng lái đã báo cáo cho Ðại tá Ch. về cuộn khói này và ông ta cũng đang chăm chú đặt ống nhòm quan sát về hướng đó. Có lẽ đây là khói bay lên từ một chiến hạm lớn của Hoa Kỳ, đang chạy cùng chiều với chiếc tàu đánh cá.

Với vận tốc quá chậm so với chiến hạm Mỹ, tàu sẽ không bao giờ bắt kịp và cơ hội được cứu vớt sẽ không thực hiện được. Vì thế Ðại tá Ch. quyết định yêu cầu Thuyền trưởng Duyên tốc đỉnh và ba nhân viên tháp tùng một Thiếu tá Hải quân thông thạo tiếng Anh, dùng chiến đỉnh chạy nhanh để bắt kịp chiến hạm Hoa Kỳ, và xin giúp đở dân di tản trên tàu đánh cá này. Sau khi dùng lốp xe hơi bọc kín các súng đại liên, cũng như bao kín khẩu súng 81 ly, để tàu Mỹ khỏi nghi ngờ và hiểu lầm bị tàu Việt Cộng tấn công, chiến đỉnh tăng tốc độ tối đa tiến về hướng chiến hạm Hoa Kỳ.

Tất cả mọi người nín thở nhìn theo chiến đỉnh và cũng là niềm hy vọng của họ, đang nhỏ dần trên sóng nước mênh mông. Tàu tăng thêm tốc độ để cố gắng đuổi theo chiến hạm Mỹ, thân tàu rung chuyển thật mạnh dưới sức đẩy của hai máy chánh, khói đen nhả lên bầu trời như dấu hiệu cầu cứu của người thất lạc trên biển khơi. Vào khoảng một giờ sau, chiếc tàu đánh cá đã bắt kịp chiến hạm Hoa Kỳ, đang ngừng lại trên biển chờ đợi. Cặp bên cạnh hông chiến hạm Mỹ là chiếc Duyên tốc đỉnh, vừa làm xong nhiệm vụ cứu mạng sống của hơn 300 người tỵ nạn. Ðây là loại tàu chở dầu (Oiler) cở lớn dùng để tiếp tế ngoài khơi cho các chiến hạm Hoa Kỳ, Hạm trưởng là một Sĩ quan Hải quân cấp bậc Ðại tá.

Tôi thông báo cho Trung tá Hạm phó chiến hạm biết là hầu hết trong số gần 300 người di tản trên chiếc tàu đánh cá này, là quân nhân Hải quân và gia đình, rồi tôi xin phép Hạm trưởng chấp thuận giúp đở và cho phép mọi người lên tàu dầu. Lời thỉnh cầu thiết tha của tôi không được chấp thuận vì lý do an toàn của chiến hạm, chiếc Nhiên liệu hạm này không thể chở người trên tàu. Tuy nhiên vị Hạm trưởng đã yêu cầu Bộ Tư lệnh Ðệ thất Hạm đội và được chấp thuận dòng chiếc tàu của dân tỵ nạn ra địa điểm tập trung ngoài khơi của Hạm đội.

Toàn thể dân di tản đang lo âu vì không được giúp đở, reo hò mừng rỡ khi nghe Ðại tá Ch. loan báo tin vui. Thế là thoát nạn và sống sót rồi. Mọi người sung sướng, họ ôm nhau, nước mắt chảy dài trên những gò má sạm nắng của các bà mẹ già, thiếu nữ, đàn ông lớn bé nhảy nhót vui mừng, vì biết rằng chuyến hải trình tìm Tự do sắp sửa đến bờ. Thượng đế đã che chở và giúp người dân Việt tìm về đất mới vì họ không muốn sống dưới chế độ độc tài Cộng sản.

Màn đêm bắt đầu buông phủ vùng biển đông, gió mát thổi từng cơn làm mọi người cảm thấy phơi phới. Tiếng nói cười ròn rã như mừng hội lớn khi họ đón nhận những dĩa cơm trắng còn nóng hổi, rau giá xào trứng và thịt nạc heo ngon lành do các đầu bếp Mỹ nấu, được chuyền xuống bởi các người thủy thủ trẻ tuổi, từ sau lái chiếc Nhiên liệu hạm. Sau đó dân di tản còn được cung cấp sữa tươi, chuối, cam và táo... Thôi thì đủ thứ thực phẩm, mọi người cảm thấy thích thú, nhai ngấu nghiến, ngon lành vì họ chỉ ăn mì gói gần hai ngày nay.

Một ý nghĩ làm cho tôi thắc mắc về sự chuẩn bị quá chu đáo của người Mỹ. Không hiểu đây có phải là một kế hoạch đã được dàn xếp và chuẩn bị từ lâu chăng. Làm sao mà Hải quân Hoa Kỳ có thể biết người Việt sẽ di tản ra khỏi miền Nam Việt Nam, để có thể có một chương trình tiếp cứu quá quy mô như thế này. Ðó là chưa kể thức ăn thuần túy của người Việt Nam như cơm trắng, giá xào trứng và thịt heo, sẵn sàng nuôi người tỵ nạn trên biển? Nhưng rồi tôi gạt ý tưởng này qua một bên và tiếp tục ăn dĩa cơm trắng với giá xào, bên cạnh gia đình, vợ con mà tôi không gặp mặt nhiều trong chuyến hải trình tìm Tự do này, vì mãi lo phụ trách việc lái và đưa chiếc tàu đánh cá đến bến an toàn.

Chiếc tàu chở dân di tản được dòng suốt đêm với tốc độ thật chậm đến vùng tập trung của chiến hạm thuộc Ðệ thất Hạm đội. Và rồi vào khoảng ba giờ sáng, mọi người nhìn thấy từ xa một vùng trời rực sáng, hào quang tràn ngập một góc trời như ánh đèn của một thành phố nổi. Khi tàu tiến đến gần, mọi người ngạc nhiên và bàng hoàng khi nhìn thấy hàng chục chiến hạm Mỹ đủ loại đang bềnh bồng trong một vùng biển thật rộng lớn, đèn pha rọi sáng trưng, tiếng loa phóng thanh vang dội hòa lẫn với tiếng máy tàu. Không khí thật tưng bừng náo nhiệt như chợ phiên, gồm hàng trăm tàu bè, ghe thuyền lớn nhỏ, xà lan chở đầy dân di tản Việt Nam, đang chuyển người qua các tàu loại đổ bộ như Dương vận hạm hoặc Tiếp tế hạm hay Tuần dương hạm...

Công cuộc cứu vớt dân chúng miền nam Việt Nam thật vĩ đại và quy mô chưa từng thấy xảy ra trong lịch sử nhân loại với hàng trăm chiến hạm Hoa kỳ trợ giúp hàng trăm ngàn dân di tản trong ba ngày đầu kể từ lúc Sài Gòn thất thủ.

Sáng sớm ngày mồng 2 tháng 5 năm 1975, tôi cùng gia đình theo sau đoàn người trên dưới 300 đã quá giang trên chiếc tàu đánh cá nhỏ, lần lượt leo qua boong tàu, bước lên chiếc cửa "ramp" phía sau lái của chiếc tàu Dương vận hạm mang tên USS Barbour County (LST 1195). Mọi người phải để tất cả hành trang tại chỗ được ấn định, để nhân viên an ninh và thủy thủ đoàn kiểm soát. Tôi để chiếc va li nhỏ đựng áo quần của các con mà vợ tôi mang theo được khi rời Căn cứ Yểm trợ, xuống sàn tàu được giăng dây chung quanh, rồi đưa gia đình đi vòng qua phía người lính gác, đứng lại đưa hai tay lên trời, để những thủy thủ này dùng chiếc máy dò tìm kim loại khám xét. Trước khi lên tàu Mỹ, những quân nhân Lôi hổ, được thuê để bảo vệ tàu đánh cá, đều phải liệng các vũ khí cá nhân của họ xuống biển. Thuốc lá, aspirin, dầu xanh, dầu cù là, thuốc chữa bệnh cũng bị thủy thủ đoàn vất xuống biển.

Sau hơn ba ngày lênh đênh, hải hành trên biển, vào buổi sáng sớm ngày 6 tháng 5, chiếc Barbour County đã vào hải phận của Phi Luật Tân. Từ xa rặng núi xanh tại thành phố Baguio City nổi tiếng, đã hiện dần trong sương mù trên mặt biển màu xanh dương. Tàu đổi hướng vào vịnh Subic Bay và thả neo khoảng xế trưa. Ðại tá Hạm trưởng Dương vận hạm Barbour County (LST 1195) thông báo trên máy phóng thanh là các chiến đỉnh nhỏ sẽ lần lượt chuyên chở người tỵ nạn vào bờ. Ðồng thời ông cầu nguyện ơn trên ban phước lành và chúc mọi người gặp được nhiều may mắn trong hành trình còn lại đến đời sống mới.

Tôi yên lặng đứng trên sàn tàu nóng bỏng của chiếc tiểu đỉnh, nhìn lá cờ Mỹ đang bay phất phới trên kỳ đài của Căn cứ Hoa Kỳ tại Subic Bay, mà lòng cảm thấy thổn thức, ngậm ngùi. Tôi bâng khuâng nghĩ đến một Ðại cường quốc, vì lý do chính trị nội bộ, vì quyền lợi đất nước của họ, đã bỏ rơi cuộc chiến đấu của một Quốc gia nhược tiểu. Trong hơn hai thập niên qua, miền Nam Việt Nam đã hy sinh tính mạng hàng trăm ngàn thanh niên vô tội cho Thế giới Tự do, trong cuộc chiến tranh ý thức hệ; ngăn chặn mưu đồ và hiểm họa nhuộm đỏ Ðông Nam Á của đảng Cộng sản Quốc tế Việt Nga Tàu.

Gió mát đại dương không làm giảm bớt cơn nóng miền nhiệt đới và thoa dịu nỗi lòng buồn tủi của dân Việt Nam tỵ nạn Cộng sản. Một cuộc đổi đời phiêu lưu vô định sắp sửa bắt đầu và tiếp tục nối dài chuyến hải trình định mệnh, đang chờ đón người di tản, mất quê hương, nơi phương trời xa lạ.

Tiểu bang Virginia, 30 năm sau ngày di tản đau thương.


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 2Q==

.
Về Đầu Trang Go down
NHViet
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeWed Mar 19, 2014 8:15 am


THÁNG 3 BUỒN THIU, THÁNG 4 GÃY SÚNG


MX Tiểu Cần

Ngày 4 tháng 4 năm 1975, về đến VũngTàu SĐ/TQLC ( Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ) chúng tôi đóng quân ở một căn cứ Quân Sự của Quân Đội Đồng Minh để lại sau khi họ rút về nước ngay tại bãi sau thị xả VũngTàu ( tôi không quan tâm là của U.S.A hay của Úc ) đối với tôi nơi đến rồi đi chẳng có gì là quan trọng cả, có quá nhiều nơi chốn mà suốt hơn 7 năm làm lính Mũ Xanh từ Bến Hải đến tận Mũi Cà Mau tôi đều đặt chân đến ( Tháng Giêng xuôi quân ra Huế...) quên rồi bài thơ 12 tháng anh đi của Đại úy Bình phòng tâm lý chiến. SĐ/TQLC trong tình trạng tái bổ sung quân số, quân dụng sau cuộc lui binh từ QĐ1 về đây. Lạng Sơn TL ( Tư Lệnh SĐ/TQLC ) kiêm nhiệm thêm chức Quân Trấn Trưởng thị xã Vũng Tàu nên ông rất bận rộn chấn chỉnh trật tự an ninh toàn Thị Xã, vì dân số tăng gấp bốn hay năm lần dân số của Thị Xã. Dân từ miền Trung chạy vào lánh nạn CSBV, dân ở thành phố Sàigòn ( nhà giàu có, họ hàng của các ông to, mặt trợn hèn nhát có) ra đây chờ cơ hội để di tản... khi TL bận bịu một thì chúng tôi ( Tiểu đội làm việc cận kề bên TL ) phải tất bật gấp đôi, Đại Dương (Đại Úy Nguyển Quang Đan K21/VB) chánh văn phòng TL là người bận bịu làm việc không có thời gian nghỉ ngơi ( xin được nói thật nghe Đại Dương anh em chúng tôi biết nên thương anh lắm ) đôi giày trận chỉ cởi ra vào lúc quá nửa đêm để an vị trên chiếc võng nylon ( vật bất ly thân của người lính ) ngày và đêm cá nhân tôi phải theo bước chân của TL. Dù có muốn thăm lại cái thành phố mà 6 năm về trước tôi được đơn vị gửi ra đây học khoá chuyên môn về ngành Truyền Tin, cũng chẳng thực hiện được đến nổi chuyện gửi một lá thư về nhà báo tin cho mẹ già rằng "con của mẹ vẫn bình an" phải nhờ ban văn thư của đơn vị gửi giúp. Lính Mũ xanh là thế đó ( sống hùng sống mạnh hãy gia nhập lính Mũ Xanh ) kể cả chuyện vừa nhận được văn thư lên chức Thượng sĩ, chức thường niên chứ không phải Đặc Cách vì TL rất khó khăn chuyện ấy ...( xin lỗi TL tôi chỉ nói lên sự thật ) mà chưa được một lần đeo lon mới.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Tieu%20can%20va%20tu%20lenh
Tiểu Cần bên cạnh TL và quý Niên Trưởng

Ngày 7 tháng 4 năm 1975, tin tức hành lang... trước nhứt là:  tình hình đất nước ( miền Nam Việt Nam Cọng Hòa) rất xấu sẽ có biến chuyển không sáng sủa, thật sự tận cùng trong khối óc nhỏ bé của tôi không thể hình dung được có cái ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhưng tin truyền miệng thêm mắm, thêm muối nên rồi củng mặn chát trong sự lo toan của tôi, cộng thêm trên trời cao có quá nhiều máy bay đủ loại ra vào từ cửa biển như đi chợ, nên chuyện lo lắng không an lành là lẽ tất nhiên thôi. Tin có giá trị là SĐ/TQLC sẽ rút về Cần Thơ "Tử Thủ" với Thiếu Tướng Nguyển Khoa Nam. Về Cần Thơ? Ôi quê hương! Niềm vui rộn ràng khởi động trong tôi đã bắt đầu rạo rực mong chờ, dù không biết tương lai của đất nước sẽ ra sao? Vì đó là chuyện của Thượng Cấp, nghe qua rất ư là Vô Tình nhưng sự thật là thế đó... tôi chỉ kể rõ cái thật dù có thể bị cho là vô trách nhiệm. Tôi sẽ tận hưởng niềm vui đoàn tụ với mẹ tôi, với gia đình bé nhỏ mà hơn 4 năm không hề có ngày nghỉ phép để về gặp mặt và dù có phải đền xong nợ nước tại quê nhà ( cái nợ vốn lẩn lời trả hoài không hết ) cũng mãn nguyện và bảnh hơn nhiều chiến hữu lắm rồi. Cần Thơ là nơi tôi được sinh ra và lớn lên, từ một đứa bé chào đời đến lúc thi rớt Tú Tài rồi gia nhập vào lính Mũ Xanh cho nên Cần Thơ đối với tôi là thế đó. Nhớ đến Bến Ninh Kiều nằm bên giòng sông Hậu gió thổi nhè nhẹ mang theo hơi mát của giòng nước ngọt quanh năm chảy xuôi đến tận Cà Mau ra biển cả. Nhớ đến ngôi trường Phan Thanh Giản của con trai chỉ cách nhau cái dậu mồng tơi hàng rào là ngôi trường con gái Đoàn Thị Điểm, mà có rất nhiều lần tôi muốn sang chơi thăm nàng, không phải tại cái dậu mồng tơi, nhưng ngại ông già gác gian tóm cổ là toi mạng. Nào là vườn ổi, vườn trái cây ở cầu Cái Khế mà tôi đã từng có rất nhiều lần lặn hụp theo con kinh vào vườn để bẻ trộm Xoài, Ổi, Mận, Chôm Chôm v..v... chợ nổi Cái Răng, Phong Điền, với cách buôn bán rất đặc biệt trên những chiếc ghe hay xuồng mà khách đi mua bắt buộc phải đến bằng xuồng hoặc tàu máy... trước mũi ghe treo lủng lẳng loại trái cây gì thì cửa tiệm bán trái cây đó... ôi Cần Thơ!

Ngày N+ của tháng 4 năm 75, thêm một cái tin rất là hấp dẫn ( đối với tôi ) cho rằng " Đảo Chánh " TL sẽ đem SĐ/TQLC về Sàigòn hạ bệ vị Tổng Thống đương nhiệm Nguyển Văn Thiệu, hầu cứu nguy nước mất nhà tan. Thú thật tôi rất thích và vui mừng với cái tin này vì hai lần Đảo Chánh trước kia tôi còn bé, nên chỉ nghe kể lại hay đọc qua sách vở của lịch sử, còn bây giờ thì tôi sẽ là một trong những người lính TQLC trực tiếp hay gián tiếp làm nên lịch sử (?). Hai Tiểu Đoàn TQLC sẽ làm lực lượng chính, một Tiểu Đoàn sẽ làm đơn vị trừ bị cho cuộc Đảo Chánh, còn lại tất cả SĐ/TQLC sẽ ở trong tình trạng báo động 24/24 vừa chống đỡ quân CSBV vừa yểm trợ cho 3 đơn vị Đảo Chánh. Tôi nôn nóng mong đến ngày G để theo TL và SĐ/TQLC tiến về Sài Gòn.

Ngày 12 tháng 4 năm 75, ( nếu trí nhớ tôi không lầm ) hai Lữ Đoàn TQLC di chuyển về căn cứ Long Thành dưới sự chỉ huy của ĐB Tango ( Đại Tá Nguyển Thành Trí. Tư Lệnh Phó Sư Đoàn ) để tăng phái cho Quân Đoàn III, TL ở lại Vũng Tàu với một Lữ Đoàn TQLC. Chuyện TL ở lại Vũng Tàu lúc đó là việc không bình thường, đến bây giờ thì hầu như chúng ta đã biết lý do... như vậy chuyện Đảo Chánh bị kẹt ông bạn Đồng Minh Hoa Kỳ cản trở nên đành không thực hiện được.

7 giờ sáng ngày 28 tháng 4 năm 75, Đại Dương tập họp anh em chúng tôi lại nói sơ qua tình hình rất bi đát hiện tại và anh có nói nếu CSBV chiếm được miền nam thì TL nhứt quyết không đầu hàng, có hai trường hợp xử trí:

1. Là tử thủ ( nếu có thể )
2. Là ra khơi ( vì cửa biển trước mặt )

Chưa biết phải đi đâu? Tất cả anh em chúng tôi đứng im lặng, mỗi người có nghĩ suy riêng trong đầu, riêng tôi thì vẩn còn ám ảnh chuyện Đảo Chánh hay về vùng IV chiến đấu với Tướng Nam đã tiêu tan rồi, đường về quê hương có hàng dừa xanh xa vời quá.

Đại Dương tiếp theo
- Nếu TL ra đi ( ra khơi ) ai muốn đi theo TL thì đứng sang một bên, còn những ai chọn ở lại về với gia đình thì TL sẽ cho trực thăng chở về Căn Cứ Sóng Thần. Trong số đi theo TL có tôi, cho đến bây giờ sau 35 năm tôi vẩn chưa có câu trả lời là tại sao đi theo TL? Có phải do lòng trung kiên (?) mà bỏ mẹ già đơn chiếc ở quê nhà... Cuộc họp bỏ túi xong tôi được lệnh mang máy PRC25 theo trực thăng đưa những anh em chọn ở lại, trên đường bay về căn cứ Sóng Thần nhìn những gương mặt thân thương với nhiều năm tháng chiến đấu bên nhau lòng dạ tôi cảm thấy nao nao buồn... Tr/sĩ Nam, phụ trách ẩm thực cho TL Hạ sĩ Guông người gốc Miên Sóc Trăng, các cận vệ huyền đai đệ tứ đẳng như Tr/sĩ Trương cao 1m90, Tr/sĩ Hoài tây lai đẹp trai, Tr/sĩ Mến gốc người Hoa chợ lớn, hiền như cục đất. Lần chia tay mãi đến bây giờ không một lần gặp lại.

Sáng ngày 29 tháng 4 năm 75, Đại Dương lệnh cho tôi mang máy PRC 25 theo anh bay đến căn cứ Long Thành vì anh sẽ có cuộc gặp mặt với Đại Bàng Tango, trực thăng bay dọc theo quốc lộ để tránh súng phòng không của CSBV, nhìn xuống con đường nhựa trải dài tiếp nối một đoàn người lẫn xe cộ nối đuôi nhau trực chỉ hướng Vũng Tàu giống như cuộc diễn hành đón mừng lễ hội. Rõ ràng là thiên hạ tranh nhau rời bỏ quê hương đất nước rồi. Chỉ có chúng tôi những người lính bình thường, rất bình thường là dửng dưng không nôn nao, tính toán, hay lo sợ mà cả một đời binh nghiệp vỏn vẹn là nhận lệnh và thi hành lệnh để rồi kết cục của cuộc chiến chúng tôi là những người thua thiệt đau đớn, tủi nhục, mất mát nhứt là các anh em thương phế binh, các chị em cô nhi quả phụ còn ở lại quê nhà... Trực thăng đáp xong ĐD có xe đón đến TOC ( trung tâm hành quân ) còn tôi lợi dụng cơ hội này chạy sang vùng đóng quân của TĐTT để thăm bạn bè cùng đơn vị " Gốc " chuyện " Bà Tám " chuyện thời sự rồi cũng phải ngưng vì đã đến giờ chúng tôi phải bay ra VT sau khi ĐD xong buổi họp chớp nhoáng với ĐB Tango. Trên đường bay trở về tôi nhìn sang ĐD thấy gương mặt của anh vẻ đâm chiêu nghĩ suy, thường thì khi bắt gặp nhìn nhau trên chuyến bay, vui hay buồn, khó khăn hay bình thường anh đều cho tôi một nụ cười, cười nhẹ, cười lấy lệ, hay cười để gọi là cười, nhưng chuyến này đã ba lần anh bắt gặp tôi lén nhìn anh mà vẩn với gương mặt lạnh lùng đang suy nghĩ điều gì đó? Chắc là phải có vấn đề? Tôi thầm nghĩ... trong hoàn cảnh này tất cả tin tức đều quan trọng và hấp dẩn đối với tôi! Tôi đã làm nhiệm vụ của một ATV ( âm thoại viên ) hơn 7 năm dài chuyên nghiệp, kỷ cương nghiệp vụ luôn luôn giữ đúng từ khi bước chân khỏi cổng trường truyền tin, mà nhứt là ATV cho vị chỉ huy cao cấp bắt buộc phải:

Thứ 1 Tôi không nghe
Thứ 2 Tôi không thấy
Thứ 3 Tôi không nói

Còn bây giờ giữa cảnh trăng sáng, trăng tối này tôi rất muốn biết để có thể lo lấy thân nếu phải. Nghĩ như vậy cho nên khi trực thăng đáp xuống bản doanh của TL trên đường vào phòng TL tôi đã kéo anh sang một bên và hỏi:
- Xin ĐD cho em biết tình hình thế nào hay có gì xảy ra nên trông anh khác thường?
- Chú hứa giữ kín thì anh nói
- Em xin hứa
ĐD nhìn tôi:
- Anh chuyển lời đề nghị đến ĐB Tango là nếu CSBV vào (chiếm miền Nam) xin ĐB cùng gia đình ra Vũng Tàu di tản với TL.
Tôi tò mò:
- Rồi ông trả lời thế nào ?
ĐD nhìn vào khoảng trời xanh:
- Không. Tôi không đi đâu cả, tôi sẽ về quê vợ ở Long Xuyên.

Sau đó ĐD đi vào trình lên TL. Còn tôi thẩn thờ đến nơi đóng quân của mình mà đầu óc không ngừng nghĩ đến câu trả lời của ĐB Tango: "Tôi sẽ trở về quê vợ ở Long Xuyên". Vâng ĐB Tango đã trở về " mái nhà xưa " sau khi CSBV chiếm trọn miền nam và kèm theo hơn 13 năm tù đày vô cùng khổ cực trong lao tù của cộng sản .

Kính thưa TLP. Là một quân nhân MX nói chung, một ATV nói riêng tôi đã được cái duyên và may mắn làm việc cận kề với các vị chỉ huy cao cấp trong đơn vị: ĐB Khánh Ly ( Tr/Tướng Lê Nguyên Khang TL/SĐ/TQLC) trong thành nội Huế, ĐB. Sông Hương ( Th/tá Sắc TĐT/TĐ3 TQLC ) hành quân vùng Chương Thiện, ĐB Long Mỹ ( Đ/Tá Nguyển thế Lương CĐP/CĐ.B) hành quân vùng Mỷ Tho. ĐB. Sài Gòn ( Đ/Tá Tôn Thất Soạn CĐT/CĐB ) hành quân Năm Căn, U Minh thượng. ĐB Tango ( Đ/Tá Hoàng Tích Thông LĐT/LĐ147) hành quân Lam Sơn 719. Sau cùng là ĐB Lang Sơn ( T/Tướng Bùi Thế Lân TL/SĐ/TQLC ) đối với TLP tôi chỉ có duyên mang máy theo ông vỏn vẹn chỉ hơn 2 giờ trong một lần TLP thay TL đi thăm LĐ 258 trong trận tái chiếm Quảng Trị. Nhưng đối với tôi hình ảnh một TLP/SĐ ngày lẫn đêm ngồi trước phóng đồ hành quân trong TOC không mệt mỏi. Sáng sớm bước vào TOC gặp ngài, trưa vào TOC cũng gặp ngài, chiều vào TOC chắc chắn gặp ngài, tối vào TOC ngài vẫn ngồi đó trên tay điếu thuốc Camel không nói, không nhìn, không cười, chỉ nhìn thẳng vào cái bản đồ hành quân to tướng trước mặt. ( ĐB ơi sao ông không đi nghỉ cho khoẻ cái thân? ) những hình ảnh đó mãi mãi trong ký ức của tôi mỗi khi nghỉ đến người anh Hai của SĐ/TQLC.

Thẩm quyền Cần Thơ ( T/Tá Tô Văn Cấp ) đã viết: "...có những vị bỏ nước ra đi không phải họ hèn nhát, có những vị ở lại không phải họ anh hùng ( họ không đi vì họ không có phương tiện mà đi ) đàng này đối với TLP thì hoàn toàn khác hẳn..."

Sau 35 năm dài có quá nhiều đổi thay. Ba mươi lăm năm cũng đủ để chúng tôi ( Tiểu Cần ) xin được viết ra đây những gì tôi biết, chứng kiến, mà ít ai hân hạnh biết được cho nên câu hỏi cứ đè nặng trong tôi là: Tại sao không nói khi còn cơ hội nói được? Hầu mong rằng cái gì của lịch sử nên trả lại với lịch sử. Còn câu trả lời KHÔNG của ĐB vào một ngày sắp tàn của cuộc chiến tôi xin được Trân Trọng giữ gìn và mãi mãi gọi là "lời từ chối của một vị Chỉ Huy Cao Cấp".

IDIANAPOLIS 9/25/2010

.
Về Đầu Trang Go down
NHViet
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeSun Mar 23, 2014 8:24 am


Tháng Tư Lại Về


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 8a99d-ngvlongp

Mỗi năm tháng tư về, đúng ngày 30/4 là tôi mua nhang đèn, hoa quả cúng Trời Phật, cúng bàn thờ ông bà, và cúng một mâm cơm để hai má con cùng khấn nguyện tất cả những người lính Việt Nam Cộng Hòa, những người dân đã chết trong những ngày rút quân, di tản của những ngày cuối tháng 4/1975.

Những người lính đã tự sát để không rơi vào tay giặc và những người lính đã không bao giờ trở về với gia đình khi bị bắt đi tù cải tạo, những thuyền nhân trên con thuyền mong manh ra đi để đến được một đất nước tự do nhưng lại không may mắn, mãi mãi họ không đến được bến bờ tự do.

Và ngày 30/4 năm nay, được nghỉ đến 4 ngày vì 30/4 và 1/5 rơi vô thứ bảy và chủ nhật do vậy được nghỉ bù lại thứ hai, thứ ba, những ai đi làm việc đều được thưởng tiền lễ. Sau khi ký tên để nhận tiền là tôi thấy xót xa nước mắt muốn trào ra nhưng phải cố ngăn lại, nhưng tiền thì vẫn phải nhận, đúng vậy vì không có một lý do gì để từ chối nhận tiền cả, vì tôi đang ở Việt Nam mà thôi. Rồi sau đó về nhà ngồi khóc ngon khóc lành, khóc tức tưởi, đầu óc thì như cuốn phim quay chầm chậm trở về quá khứ của ba mươi mấy năm về trước không bao giờ quên, tương lai thì sụp đổ.

Cuộc sống gia đình nghèo ơi là nghèo, đồ đạc trong nhà từ cái nhỏ đến cái lớn đều phải bán từ từ để có tiền mà sống mà người đi mua là những ông bộ đội đến tận nhà để mua, lúc đó đến nhà bạn bè chung lớp nhà nào cũng vậy đi từ trước ra sau trống trơn. Trong gia đình Má tôi khóc, chị em tôi khóc, cả nhà đều khóc, tôi thấy sau 1975, mọi người ai cũng nói chuyện một hồi thì khóc mà người này mà khóc thì người kia cũng xúc động khóc theo và nhà nhà đều đi buôn… lậu rất nhiều thứ. Má tôi thắng tép mỡ, em trai tôi cầm keo mỡ bị rớt bể thế là bị la và đánh, em bị đánh đau khóc. Má đánh con xong cũng khóc và xin lỗi em tôi, lúc đó mà ăn cơm với tép mỡ chan nước mắm hay nước tương thì ngon ơi là ngon, khoai mì, khoai lang là bạn của chúng tôi.

Thương nhất là em trai út còn quá nhỏ chưa hưởng được sung sướng, thì bây giờ đã quá khổ rồi, bị ghẻ ngứa nhưng không đi được bệnh viện vì giấy giới thiệu của trạm y tế đưa lên phường bị ách lại vì là con của sĩ quan Ngụy dù đã mất vì bệnh, nên má tôi phải lấy muối pha với nước rửa cho em tôi mỗi ngày rồi dùng cây thuốc cá xức thời gian sau cũng hết. Thực tình mà nói thì tôi dở lắm, dù là chị lớn trong gia đình, Má tôi đi buôn cùng với hai trai kế, còn tôi ở nhà nấu cơm giữ hai em nhỏ, làm công việc nhà và có bổn phận đi mua gạo và nhu yếu phẩm theo sổ mua hàng. Tội nghiệp hai em trai 11, 12 đi học một buổi, một buổi đi mua bán với Má, đúng là cuộc sống từ trên trời rơi xuống vực thẳm với tương lai là một màu đen.

Khi học xong ra trường, đến phòng tổ chức cán bộ để nộp hồ sơ, sau khi ông trưởng phòng coi qua hồ sơ lý lịch hỏi tôi: có tính tìm đường vượt biên không? Đi học ra trường làm việc với lý lịch bây giờ vẫn vậy nằm trong một cái tủ đựng hồ sơ trên phòng tổ chức cán bộ là con của sĩ quan ngụy đã mất vì bệnh đã cùng với tôi đến hôm nay và mãi về sau, nhưng tôi cũng chẳng cần địa vị, hay một cái học bổng du học vì bắt buộc phải là đảng viên (không nói tới những người đi du học tự túc, nói thẳng ra cũng chính là con em cán bộ đã có những đồng tiền không do mồ hôi công sức của cha mẹ họ đổ ra là mà vơ vét tham nhũng, hối lộ).

Nhưng bù lại hôm nay, tôi còn có các em sinh viên mà tôi hướng dẫn làm luận văn tốt nghiệp đại học, đã cùng tôi đi thu mẫu ngoài ruộng, ngoài đồng để đem về làm thí nghiệm, rồi các thí nghiệm nhà lưới, phòng thí nghiệm, rồi sửa từng trang luận văn của các em cho kịp ngày báo cáo tốt nghiệp, trong khi các em báo cáo trước hội đồng, các em lo một thì chính tôi lại lo tới mười, sợ các em báo cáo không thành công, trả lời những câu hỏi của hội đồng không được, đến nỗi tôi ngủ cũng không được cứ thao thức rồi lại ra bàn ngồi ghi lại những gì trong luận văn còn thiếu để sáng ngày mai vô đưa cho các em, đúng là khổ sở thật đó. Tôi không bao giờ cho các em sửa số liệu thí nghiệm, bằng lòng số liệu xấu, thì khi báo cáo lý do tại sao số liệu không đạt, có những thí nghiệm khi các em không làm được thì chính tôi phải làm, phải coi lại tài liệu tại sao như vậy, phải hỏi lại thầy cô, rồi tôi chỉ dẫn các em làm lại. Rồi các em ra trường, vui là các em vẫn luôn nhớ đến tôi, nhớ đến thầy cô. Email, điện thoại di động, nhắn tin chúc mừng các ngày lễ, tết nhiều câu chúc đọc lên phải cười thôi.

Công việc nguyên một ngày, về đến nhà phải bỏ nó lại ở phòng làm việc, để làm công việc ở nhà, nhưng đến khi ngủ thì ôi thôi công vịêc trong ngày lại hiện ra thế là trằn trọc không ngủ được, chị bạn kêu tôi phải niệm Phật cho dễ ngủ. Tôi nhớ thời đi học sau dễ ngủ ghê, thi học kỳ phải thức khuya để học bài mới kịp vậy là tôi cũng uống cà phê như mọi người để thức học bài thi, nhưng bạn tôi thì thức học bài còn tôi thì vẫn cứ ngủ ngon lành không thức nổi. Bây giờ thì ngược lại 180 độ, chắc càng già càng ngủ ít lại chứ gì.

Tôi hướng dẫn các em không bao giờ cho sửa số liệu thí nghiệm, số liệu xấu, thì khi báo cáo lý do tại sao số liệu không đạt, có những thí nghiệm khi các em không làm được thì chính tôi phải làm, phải coi lại tài liệu tại sao như vậy, phải hỏi lại thầy cô, rồi tôi chỉ dẫn các em làm lại.

Bao năm tháng trôi qua, ngày ngày cứ hai buổi đi làm việc, hối hả, lo toan… tài liệu, sách vỡ, bài viết, luận văn, nghiên cứu… dần dần không thể thiếu được trong tôi, nhiều hôm đánh máy bài, nhìn đồng hồ đã 8 giờ tối, lo chạy về nhà cho nhanh, nên phải cảm ơn Má đã lo việc nhà dùm cho tôi để tôi có thời gian trong công việc. nhưng nếu nói vậy thì cũng không đúng lắm, vẫn có những lúc bạn bè trong bộ môn cùng nhau đi chơi, đi hát karaoke nữa chớ bộ, hát toàn những bài hát cũ, nhiều bạn hát hay lắm, còn tôi chỉ là người thưởng thức thôi.

Đã ba mươi mấy năm nay từ đi học đến đi làm việc không bao giờ tôi chào cờ cả, tôi không thích thì tôi không làm, không tham gia văn nghệ, khoảng đóng tiền cho bà mẹ VN anh hùng thì tôi đã nói với chị công đoàn là tôi không đóng vì lương tôi còn không đủ nuôi Má tôi thì tại sao tôi phải đóng góp để nuôi mấy bà mẹ này. Cái khoảng này nên cho nó qua phần tự nguyện ai muốn đóng thì cứ đóng đi. Tôi thấy khoảng đóng góp này phải là của mấy ông ngày xưa nằm hầm, ăn ở nhà mấy bà mẹ này mới đúng chớ tại sao lại bắt buộc mọi người phải đóng góp, vô lý thật. Nhưng bên cạnh đó tôi lại hoàn toàn đồng ý đóng quỹ khuyến học cho học sinh nghèo cái này thì thiết thực đây, nhưng đến tay các em học sinh thì còn được bao nhiêu, cái này thì phải hỏi lại, mà biết hỏi ai bây giờ.

Nhưng khi nói về xã hội, mặt đạo đức thì thật sự đạo đức không còn nữa, tôi nhớ những năm sau 1975, những gì xấu xa thì họ nói đó là tàn dư của Mỹ Ngụy, giờ đây đã ba mươi mấy năm rồi cái xã hội này còn tệ gấp trăm lần thế nữa thì đó là tàn dư của ai đây hả? Bây giờ mà nói ra thì không biết bao nhiêu cho đủ, thôi đành phải để dịp khác nhé. Theo như có câu nói của một người nào đó: xã hội bây giờ đầy rẩy cái xấu, đi đâu cũng gặp, nhan nhản trước mặt, do vậy theo thời gian trôi qua đã trở thành bình thường với tất cả mọi người đang ở trong nước.

Và tôi cũng đang sống trong một xã hội như vậy tại quê hương Việt Nam tôi. Sống trong hôm nay, nhưng luôn nhớ về quá khứ êm đẹp, còn tương lai thì…

Kim Diệu

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 2Q==
Về Đầu Trang Go down
NHViet
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeMon Mar 24, 2014 1:48 pm

.
Tháng Tư Viết Về Ngừơi Lính Việt Nam Cộng Hòa
Tôn Nữ Hoàng Hoa


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Images?q=tbn:ANd9GcQeXtC2vw40cIQ2L1z6_nA--bTxTyMdQ84VDWH3gq63CmkEXqWn

Tôi hơi bỡ ngỡ khi nghe tiếng một người đàn bà hỏi có phải là chị Hoa không trong một tiệm tạp hóa Việt Nam. Tôi cừơi chào lại bà ta trong trạng thái ngại ngùng. Như đoán ra cái tuổi đang đi vào "con đường đời sắp lãng" của tôi, bà ta nhỏ nhẹ giới thiệu: "Chị Hoa, tui là vợ của anh Duy chị quên rồi hả?". Anh Duy tôi tự hỏi không biết anh Duy nào nhưng vẫn làm như ta đây còn ngờ ngợ. Có ai ở vào hoàn cảnh này thì sẽ cảm thông cho tôi: tội vô cùng. Bà ta lại nhắc nhở chị không nhớ anh Duy hả. Trời! chị có nhớ anh lính đi trong đêm để đem lá Cờ Vàng Về Dựng Lại Trên Quê Hương VN trong cái show của chị năm nào đã diễn tại Orlando, Florida.
Tới đây thì tôi nhớ ra anh Duy ngay. Trời! tôi ôm lấy chị Duy nghẹn ngào vì hình như tóc chị đã trắng cả mái đầu. Tôi hỏi: “Anh Duy đâu sao không đi với chị?“. Gịong chị Duy bỗng chùng xuống như tiếng kèn đồng thê lương của một bài nhạc jazz vừa chấm dứt "Anh Duy mất rồi chị ạ".

Năm 1994 tôi được hảng IBM Global tuyển chọn vào chức vụ Chuyên viên điện toán tại Florida. Trong khoảng thời gian này chúng tôi có hình thành một Tổ Chức Ủy Ban Quốc Gia Cựu Chiến Binh Sự Vụ trên mục tiêu vinh danh Ngừơi Lính VNCH vừa mới đến Vùng Đất Tự Do sau bao nhiêu năm bị tù đày khắc nghiệt với bọn Việt cộng và đồng thời cũng vinh danh Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ đã chiến đấu tại VN
Trong buổi Vinh Danh Ngừơi Lính VNCH tại Orlando trong năm 1995 chúng tôi có trình diễn một hoạt cảnh những Người Lính VNCH Về Dựng Lại Cờ Vàng Trên Quê Hương VN.

Mở đầu tất cả đèn trong hội trường tắt lịm, và tiếng trực thăng ầm ầm lên cao. Kỷ thuật này do ông Bud Kowalewsky, một cựu chiến binh Hoa Kỳ ở Philadelphia bay đến Orlando phụ trách.
Tiếng trực thăng vang động khắp hội trường trong khi đó bóng dáng của 5 anh Lính VNCH trong thế tiến lên đi trong bóng tối nhá nhem của hội trường. Tôi nhớ đi đầu là anh Tuấn sau đó có anh Duy và ông Dựt. Trên tư thế chen vai với bóng tối trong đêm để tìm lá cờ Vàng hơn một lần bị bỏ lại quê hương khi cộng quân từ miền Bắc tràn vào. Những anh Lính VNCH đã gan dạ tìm lại lá cờ Vàng để về dựng lại trên quê hương VN. Anh Tuấn trong khi tung lá cờ lên cao, thì đèn bật sáng cả hội trường như chan hòa giòng nứơc mắt trong xúc cảm của người tham dự.

Trong buổi tổ chức này có Cố Tướng Homes Smith tham dự và khi Tướng Homes Smith thấy lá Cờ Vàng tung lên cao tôi đã thấy mắt ông Tướng cũng rưng rưng ngấn lệ.
Tướng Homes Smith là người chỉ huy cơ quan DAO compound(Defense Attaché Office compound) và là người Mỹ cuối cùng ra khỏi Việt Nam. Ông đã từng nói về sự sụp đổ của chính phủ Sài gòn đã mãi mãi là một giấc ngủ không yên của ông trong suốt cuộc đời còn lại. Tứơng Homes Smith là Cố Vấn của Ủy Ban Quốc Gia Cựu Chiến Binh Sự Vụ và ông đã tận tình yễm trợ mọi sinh hoạt của chúng tôi từ Tổ Chức Cựu Chiến Binh cho tới sinh hoạt của Cộng Đồng VN tại Hoa Kỳ.
Ông mất ngày 6 tháng 3 năm 2011 tại San Antonio Texas, hưởng thọ 89 tuổi.
Anh Duy cũng qua đời cùng năm với Tướng Homes Smith và đang an nghỉ tại Nghĩa Trang Mission Hills tại Florida. Những người thân đã lần lượt ra đi. Khoảng cách không gian và thời gian chỉ còn lại là ngọn đồi thoai thoải dưới những chùm mây trắng lơ lững đuổi nhau về.

Tôi mời chị Duy vào tiệm Phở An Hòa gần đó. Chị Duy nghẹn ngào kể lại những ngày tháng cuối cùng của anh Duy. Anh vẫn ôm những khắc khoải trong đêm về một quê hương mà anh đã từng đổ máu, đổ nước mắt khóc đồng đội ra đi vào lòng đất trên sự lừa bịp dối trá của cả bạn lẫn thù.
Chị Duy bảo rằng anh thường nói nếu ngừơi Lính VNCH hiểu được họ bị đồng minh bỏ rơi, bị những tên gian manh chính trị bức tử hào khí của anh em quân Đội VNCH thì họ đã không chấp nhận lịnh buông súng và nhất quyết tử sinh với bọn cộng quân Bắc Việt.

Mười ba năm tù trong chốn đèo heo hút gió anh vẫn ngậm cừơi trước sự độc ác dã man của bọn quỷ VC đội lốt ngừơi.
Khi anh đến định cư tại Florida anh vẫn mang trong tâm hồn nỗi khắc khoải của người Lính VNCH. Cuộc chiến sang trang nhưng hào khí của một quân nhân VNCH vẫn bừng bừng trong anh.
Anh tham gia những buổi duyệt binh cùng anh em cựu chiến binh Hoa Kỳ tại Cocoa Beach. Tay anh vẫn rắn chắc mang lá Quốc Kỳ VNCH đi giữa các chiến binh Hoa Kỳ. Anh ít nói, ít khi tham dự vào những chuyện tranh chấp ruồi bu. Nhưng khi anh lên tiếng, tiếng nói của anh rất có trọng lượng. Tuy không còn là của năm tháng trên chiến trận đạn bom nhưng hào khí hiên ngang của anh trên vầng trán cao và thẳng đã làm ngừơi ta có sự kính nể.
Chị Duy trong lời tâm sự về những ngày tháng sau cùng của anh Duy như rưng rưng miềm uất nghẹn. 18 năm chung sống sau ngày anh trở về từ ngục tù cộng sản. Bây giờ chị không còn chi nữa hết ngoài tiếng nói vang vọng yêu thương của chồng trên từng ý nghĩ. Không còn không có nghĩa là mất. Sự biến chuyển ngoại giới không quan trọng bằng chuyển biến tâm cảm của mình. Từ thủa nào chị hiểu ra niềm đau hào hùng và bi tráng của chồng.

Chị không còn ý niệm không còn ấy nữa để buông xuôi sầu thảm. Bởi chị vẫn còn đây trên cái nguyên vẹn của hữu thể đầy lưu niệm về cái không còn nữa kia. Vì thế, trên cõi đời còn lại, trên bước chuyển tiếp sau cùng của kiếp người chị, chị tiếp tục hoàn tất nguyện vọng của chồng. Tiếp tục dạy cho con chị hiểu vì sao chúng ta có mặt nơi quê người, nói cho con nghe về những thảm họa đang tiếp tục xảy ra cho đồng bào VN tại nơi quê nhà do csVN gây ra.
Chị không muốn vì sự ra đi vĩnh viễn của chồng mà chán bỏ sự sống còn lại. Chị phải thay chồng chuyễn đạt đến con, cái thanh danh của Ngừơi Lính VNCH từ bản thể của từng định mệnh trong cuộc chiến xâm lăng của giặc Cộng miền Bắc tràn vào.

Người Lính VNCH đi vào cuộc chiến đấu trong cuộc chiến VN do VC gây ra, không nhân danh một chủ nghĩa nào mà họ chỉ chiến đấu vì bảo vệ dân tộc VN không sa vào hiễm họa cs. Họ bước ra từ lòng dân tộc và chiến đấu vì dân tộc. Họ không vì một điều kiện nào mà phải đầu hàng, họ bị bắt buột buông súng. Vì thế, cho dù mang kiếp lưu vong họ không thể mang cái định danh đó mà xóa bỏ hết sự hiện hữu của cuộc đời, tên tuổi và tư thế cùng những hệ lụy oai hùng chống chủ nghĩa cs xâm lăng. Có lẽ nào vì sự xảo trá lừa bịp của cả bạn lẫn thù mà họ phải đổ vỡ cả một trang sử đấu tranh có hàng triệu hơi thở đã tan trong lòng đất Việt để nhập mình vào hồn thiêng sông núi thiên thu.
Những Ngừơi Lính VNCH vẫn còn đây. Bao nhiêu phẫn hận của họ đã qua rồi. Bao nhiêu mất mát cũng tan trôi nhưng tiếng gọi Ngừơi Lính VNCH vẫn còn đó và cho dù những ngừơi Lính năm xưa đang đi vào tuổi đời bóng xế nhưng họ không bao giờ chết trên dòng lịch sử VN.

Tôi giã từ chị Duy và hứa sẽ đến thăm chị thường xuyên. Tôi nghĩ đến mộ phần của anh Duy dưới mái trời của xứ lạ. Nhưng ở đây mộ phần của anh sẽ không bị bọn cs lưu manh đang dã man xóa bỏ. Cho dù ai nghĩ gì thì hành động Xóa Bỏ Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa là một hành động sợ hãi của bọn ngừơi bá đạo. Bởi sự chiến đấu oai hùng của Quân Lực VNCH đã được thế giới công nhận là một cuộc chiến đấu của chính nghĩa với hàng triệu hùng binh can trừơng đảm lược. Những địa danh Khe Sanh, Hạ Lào, An Lộc, Cổ Thành, Đông Hà Người Lính VNCH đã hơn nhiều lần làm bạt vía quân thù.
Bởi vì, Quân Lực VNCH đã chiến đấu có chính nghĩa tức là bọn VC và Bộ Đội Nhân Dân của chúng toàn là phường bá đạo. Do đó chúng phải xóa bỏ nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa và đó cũng chính là âm mưu của bọn VC muốn xóa bỏ trang sử oai hùng của Ngừơi Lính VNCH trên dòng lịch sử Việt Nam.
Tôi thường nghe nhiều anh Lính VNCH ôm hoài trăn trở trong đêm như bọt biển lao xao dưới vòm trời mênh mông biển cả. Họ thường hỏi họ đi tìm gì trên chuyến đổi đời hôm nay trên một trạm nghỉ của một cuộc hành trình cuối. Phần đông họ mang tâm trạng buông xuôi bởi những tốc độ mãi mê hào hùng đầu đời đã theo cuộc hành trình hiện tại này như đang tuột thẳng xuống đáy vực tương lai.

Tôi không dám phê bình trên những lời tâm sự đó nhưng tôi chắc chắn rằng sự hiện diện của Ngừơi Lính VNCH tại khắp nơi trên dặm dài của thế giới sẽ mãi mãi làm trang sử của Quân Lực VNCH đời đời sống dậy và Người Lính VNCH sẽ không bao giờ chết trên dòng lịch sử Việt Nam.

Tôn Nữ Hoàng Hoa

.
Về Đầu Trang Go down
MHMai
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeTue Mar 25, 2014 10:52 pm


Hồn Tử Sĩ


Trần Mộng Tú

Gửi đến vong linh cố Thiếu Tá BĐQ Trần Đình Tự cùng 12 chiến sĩ BĐQ của TĐ 38 bị VC giết tập thể ngày 30/4/75 tại Củ Chi.


Mấy hôm nay, ngày nào người đàn ông cũng thức dậy rất sớm, ông rón rén ra khỏi gian buồng bé nhỏ của mình, băng qua cái sân, lén mình lách qua cánh cổng chùa khi cả nhà sư và mái chùa còn yên ngủ trong sương sớm. Ông lặng lẽ như một chiếc bóng đi bộ ra bến xe đò. Bến xe còn vắng người, ông tìm một cái xe có nhiều chỗ, rồi tự mở cửa vào kiếm cho mình một chỗ ở chiếc ghế cuối cùng, ông hy vọng ông chẳng lấy chỗ của ai. Ông sẽ đứng nép vào một góc nào đó nếu có ai cần ghế.

Từ chỗ ông ở tới nơi ông muốn đến có 30 cây số, đường không xa lắm, sau đó nếu kiếm được một anh xe ôm không có khách cùng đi về hướng đó, ông sẽ nhẩy lên yên sau lưng anh, ông nhẹ lắm, anh ta sẽ không cảm thấy gì đâu, sẽ cho ông quá giang đoạn đường còn lại. Để đến địa điểm đó cũng phải đi thêm khoảng 20 cây số nữa. Con đường này ông quen thuộc lắm rồi. Hàng năm cứ đến ngày 30 tháng 4 ông và mười hai (12) người chiến sĩ đồng đội rủ nhau tìm về đây.

Ba bốn hôm nay rồi, thằng bé nhà ông nó cũng vật vờ hồn xác theo đám người đi về cái hướng này. Cái thằng lúc ông đi xa nó mới 16 tháng tuổi mà sao bây giờ nó lớn thế. Ông thở dài, thời gian nhanh quá, ông không nhận nổi ngay chính con mình, làm sao nó nhận ra ông được, vì nó chỉ biết ông qua mấy tấm hình ngày cũ.
Ông không nỡ để con đi một mình, nên ngày nào ông cũng đi theo nó. Hôm nay họ bắt tay vào việc bốc mộ mười hai chiến sĩ Biệt Động Quân của Tiểu Đoàn 38, nên ông phải ra khỏi chùa thật sớm, đi cho kịp.
Ông đứng khá xa đám người đang xúm lại chung quanh mô đất. Chẳng ai chú ý đến ông, họ còn bận công việc của họ. Buổi trưa đã đứng bóng, nắng chiếu xuống cánh đồng cỏ, tiếng cuốc bổ xuống đất thong thả như tiếng cầu kinh, mấy cây nhang đã tàn nhưng trong không gian còn vương vấn một chút hương thơm thoang thoảng.

Người đàn ông tiến gần thêm chút nữa, ông đứng chen cả vào với đám người, vừa phu đào đất vừa thân nhân của người đi bốc mộ, nhưng họ vẫn chẳng để ý đến ông, ông khom người xuống nhìn mấy người đào huyệt đang mang lên từng thứ một. Lóng xương này ư? Ông chịu không đoán ra được của ai, mặc dù trước đây ông vào sống ra chết với họ. Xương da họ đã mục nát vào với đất bùn, thế mà nhìn kìa, tấm thẻ bài, nhìn kìa, mấy tờ Chứng Minh Thư quân đội bọc ni-lông thì hãy còn nguyên. Cái căn cước của người lính VNCH không hề mục nát với thời gian. Sợi giây trói oan nghiệt làm chứng tích cho tất cả sự dã man, tàn bạo, vô nhân đạo của chiến tranh là có thật, sợi giây vẫn còn cả cái mầu xanh của nó. Ông chợt nghĩ cái mầu xanh đó, khi được chôn xuống đất cùng với những chiến sĩ thì ước gì nó trở thành một giải mây xanh vắt ngang thân họ cho họ được an ủi phần nào.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Anhhngtsvnch4

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi. Câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm Khúc bỗng như bật lên từlòng huyệt. Ông thấy đau nhói trong lồng ngực. Ông nhớ là ông đã đến đây, đã chứng kiến những người lính cùng đơn vị của ông bị xử tử nơi này. Họ đã ngã xuống như những thân cây bị đốn trong rừng, thân xác họ chồng lên nhau. Đất bên mương chôn hờ một nắm. Ông đã giang tay ôm họ vào lòng. Ông đã khóc, nước mắt ông đã nhỏ xuống huyệt này trong ngày đó. Hôm nay, ông cũng giang tay ra ôm đứa con ông vào lòng khi thấy nó cùng tham dự vào việc bốc mộ cho 12 người chiến sĩ vị quốc vong thân này. Ôi cũng chính cái hố này, vợ ông cũng đến tìm ông mà không gặp. Nước mắt ông lại đầm đìa.

Ông còn nhớ như in trong đầu mình cuộc rút quân từ Tây Ninh về. Bốn mươi chiến sĩ mang hết hồn xác ra vừa đánh vừa rút quân cho đến viên đạn cuối cùng và chỉ còn lại 13 người kể cả ông. Con số 13 vô cùng nghiệt ngã. Tiếng súng nổ, tiếng đạn bay xoáy trong không gian vẫn như còn đang rung lên trong óc ông. Ôi ông còn óc không nhỉ? Ông nhớ, chao ôi là nhớ! Những khuôn mặt phờ phạc căng thẳng nhưng đầy dũng cảm của đồng đội. Là cấp chỉ huy ông đã chọn một lối ứng xử đầy phẩm giá của một sĩ quan Biệt Động Quân và chúng đã lôi ông đi thật xa đồng đội và xử ông cách riêng. Ông đã được xử không bằng chỉ một viên đạn, vì hình như một viên đạn chưa đủ uy lực để “Giải Phóng” một sĩ quan Biệt Động Quân của quân lực VNCH.

Ông nhớ, chao ôi là nhớ! Một ngày sau ông đã quay lại nơi này, đã chứng kiến những người chiến sĩ bị đốn như cây đổ trong rừng. Những chiến sĩ, đồng đội của ông, máu của họ đã chan hòa thấm vào lòng đất mẹ. Ông giang tay ra, ôm tất cả vào lòng. Họ và ông lúc đó đã thành những khối tinh thể không tan biến.
Mấy hôm nay những vong linh của các chiến sĩ này đã tìm đến chùa gặp ông, họ đang xúc động mạnh vì biết là những mảnh xương chưa tan biến hết của họ sắp được đào lên và chuyển đi nơi khác.
Ông đứng im lặng nhìn đám người đang vây quanh công việc bốc mộ: Những người dân tò mò đứng nhìn, những người phu đào huyệt, thân nhân của một gia đình, con trai ông, vị ni cô nữa. Tất cả mỗi người mang một cảm xúc khác nhau, nhưng cùng giống nhau ở một điểm là họ mong mỏi cho những lóng xương oan khốc này, được vào một chốn êm ấm hơn nhưtrong thánh đường hay một ngôi chùa nào đó nếu không có thân nhân nhận mang về nhà.

A, họ đã đến kia rồi. Cả 12 chiến sĩ đều có mặt, cộng thêm ông nữa là đủ con số 13 oan khốc. Họ đứng sát vào ông, cùng cúi xuống lòng huyệt, nhìn những người làm công việc bốc mộ, xong họ lại nhìn nhau. Ông hiểu lắm, họ cảm động vì lòng xót thương, tình gia đình, tình đồng loại, của người cùng chung một chí hướng một đời sống trước đây. Nhưng hình như họ không muốn bị tách ra khỏi nhau và mang ra khỏi đất. Máu họ đã thấm chung vào nhau, xương họ đã chồng lên nhau, không còn phân biệt được lóng xương này, mẩu xương kia của ai nữa, cả những sợi giây trói họ vào với nhau, họ cũng không muốn được tháo ra. Họ muốn tất cả hãy cứ như thế, như thế mãi, như từ ngày 30 tháng tư, 1975, như cái phút giây oan nghiệt bắn đi nốt viên đạn cuối cùng về phía địch cũng là kết thúc đời mình. Thân xác họ đã chôn chung một huyệt, hồn thiêng họ đã quyện thành một khối, họ không muốn tách rời ra nữa.
Trên mảnh đất này họ đã hy sinh đời sống cá nhân họ, gia đình họ. Họ sống cho đất và chết về với đất. Họ không muốn nắm xương khô bị mang đi, rời xa quê mình. Dù là nấm mồ vô chủ bên đường, nhưng vẫn là đất mẹ.
Ông giang tay ôm những chiến hữu của mình vào lòng, trong không gian rất mong manh và linh thiêng này cả mười ba linh hồn đã thành một. Họ hiểu hơn ai hết là xương thịt sau khi chết đi chỉ là những vật vô tri, cái còn lại là những mảnh hồn kết tinh tìm đến với nhau.

Những người bốc mộ đã hoàn tất công việc, họ hỏa thiêu những lóng xương cùng với những di vật họ gom lại được dưới bùn đất. Phần tro than này sẽ được đem vào gửi nhờ trong một ngôi giáo đường, chờ thân nhân đến mang về. Cái hố oan khiên đó lại được lấp xuống như nó chưa từng được đào lên.
Ông biết chắc, dù nấm mộ bây giờ đã được san bằng, mai kia mốt nọ chẳng còn vết tích gì để lại nhưng ông và những chiến sĩ này, sẽ vẫn mỗi năm vào ngày 30 tháng 4, sẽ lại rủ nhau đến đây, đến ngôi trường tiểu học trong cái xã Trung Lập này để nhìn lại nơi họ đã tử thủ đến viên đạn cuối cùng và sẽ cùng nhau ra nhìn nắm mộ đã san bằng bên bờ mương, nơi họ đã nằm chồng lên nhau hòa chung xương thịt.

Mọi người đã lên xe ra về đem theo tàn tro của xương cốt. Chỉ còn mười ba mảnh hồn kết thành một khối bay bay trong vùng không gian huyễn hoặc, la đà trên huyệt mộ vừa lấp, đất chưa khô.

Trần Mộng Tú

Viết sau khi đọc bài của cháu Trần Đình Thế về cái chết của Bố và việc bốc nấm mộ tập thể (Tháng 9/2011) của 12 chiến sĩ BĐQ bị hạ sát trong ngày 30 tháng 4/1975.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Images?q=tbn:ANd9GcQ2qGxqauNB5PADsHbo-GErpe5G_Tti7UbbyZRHJ6pV6FuyJPciiA
.
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeFri Mar 28, 2014 8:38 am


Hồi Ký: Ngày tàn của cuộc chiến


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Image0003trailongbien

(Trích Ðặc san Nguyễn Khoa Nam. Tiểu đề do tòa soạn đặt)

LTS: Tác giả bài dưới đây, Ðại tá Lê Nguyên Bình, là một chiến hữu nguyên là sĩ quan trong Bộ Tham Mưu của cố Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Ở phương vị này, Ðại tá Bình đã có dịp được chứng kiến nhiều sự kiện đã xảy ra trong và ngoài khuôn viên của Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV trong ngày cuối cùng của cuộc chiến đấu cho tự do.

Ðọc những lời tường thuật của một nhân chứng trong cuộc, và đặc biệt những lời tường thuật chưa hề được tiết lộ trên báo chí, người đọc, nhất là những cựu quân nhân chúng ta, không khỏi bồi hồi, xúc động nghĩ rằng chúng ta đã có những vị tướng, tá như thế mà đành phải thất trận, không cứu vãn nổi tự do thì âu cũng là tại lòng Trời còn muốn đày đọa dân Việt vậy.

Những tràng đại liên chính xác từ bốn chiếc trực thăng võ trang thuộc Sư đoàn 4 Không quân đổ trên đầu toán tuần thám thuộc Trung đoàn Cộng Sản D1 miền Tây Nam Bộ, đang vượt kinh Thác Lác với ý đồ mở đường cho Trung đoàn này xâm nhập vòng đai Alpha bao quanh thị trấn Cần Thơ và phi trường Trà Nóc. Tiếng gào thét rợn trời, từng xác người tung lên khỏi mặt nước như xé tan bầu trời, sau đó trả lại cho màn đêm dần dần phủ kín lớp sông dài.
Ðội hình hàng dọc các đơn vị thuộc Trung đoàn D1 được lệnh phân tán tại chỗ, chờ động tĩnh. Những bóng đen xì với những chiếc nón tre bọc lưới, ẩn hiện nhấp nhô như những bóng ma sau đám cây, những bụi chun bàu. Dưới sông, đám bèo tây vẫn lững lờ vô tình trôi, cuốn theo vài xác chết.

Thời gian trôi qua khoảng chừng tàn một nén nhang, Thủ trưởng Trung đoàn ra lệnh toàn bộ vượt sông với hàng trăm ghe xuồng lớn nhỏ đã được bố trí từ buổi sáng. Tiếng đập của mái chèo khua nước dồn dập như cố thúc đẩy những con thuyền gia tăng tốc độ chóng qua bờ. Tiếng người xì xào nho nhỏ pha trộn hai giọng Bắc và Nam tạo nên nhưng âm thanh kỳ lạ, bí ẩn. Cuộc vượt sông tưởng như diễn tiến tốt đẹp.

Ðột nhiên, những "coup départ" khai pháo từ phi trường Bình Thủy, từ Tiểu đoàn 21 Bộ binh ở Vị Thanh, từ các pháo đội địa phương Rạch Gỏi, Cầu Nhím, Phong Ðiền như xé bầu không khí nổ tới tấp theo tuyến vượt sông, dọc theo hai bờ kinh, mưa trên đầu các đơn vị từ tiền phong tới hậu tập.
Tiếng người xô đẩy chạy ngược xuôi, khi hàng ngũ rối loạn. Cuộc tiến quân bất thành vì bị bại lộ. Trung đoàn D1 bị cắt làm hai, phải phân tán vào các thôn xóm lân cận hai bên bờ sông.
Yên lặng lại trở về trong màn đêm cho miền Tây hiền hòa. Bấy giờ là vào khoảng thượng tuần tháng Tư năm 1975.

Tôi ngồi trước bản đồ Quân khu IV. Màu đỏ chỉ những vị trí của Việt Cộng, tạo thành một vòng đai bao quanh các thị trấn Quân khu 4. Ðúng theo nghị quyết số 14 của Trung Ương Cục Miền Nam, Cộng Sản bỏ nông thôn tiến về thành thị theo kế hoạch thanh toán toàn miền Nam theo chỉ thị của Trung Ương Ðảng Cộng Sản. Màu xanh trên bản đồ chỉ những vị trí của các đơn vị bạn được tái phối trí chặt chẽ hơn. Sư đoàn 21 phụ trách việc bảo vệ vòng đai Alpha, từ phi trường Bình Thủy tiếp nối liên tỉnh lộ Cần Thơ Chương Thiện. Sư đoàn 9 trải quân trấn giữ con lộ huyết mạch của Quân đoàn 4, từ phà Mỹ Thuận đến ngã ba Trung Lương. Sư đoàn 7 Bộ binh, đơn vị lừng danh của QLVNCH đã từng xóa bỏ Sư đoàn 5 và 9 của cộng sản giữ ải địa đầu của Quân khu 4, đoạn vòng cung từ Chợ Thày Yên, Bến Tranh đến ranh tỉnh Long An.

Lập căn cứ ở Quân khu 4?

Trong thời gian này, tại Cần Thơ, Bộ Tư Lệnh Quân khu 4 và Quân đoàn 4 đã đặt nỗ lực vào việc xây cất nhiều địa ốc thật kiên cố, chuẩn bị cho Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Lực và các đơn vị bạn, khi cần, có thể rút về giữ tuyến cuối cùng bảo vệ đất nước. Tình hình chung lúc ấy là, sau cuộc rút lui của Quân khu 2, kế tiếp là Quân khu 1, vòng đai của Quân khu 3 bảo vệ Thủ đô Sài Gòn dần dần bị thu hẹp. Vì những rối loạn chính trị đương thời tại thủ đô, vì Quân khu 3 thiếu yếu tố địa thế hiểm trở, chắc chắn việc tử thủ tại thủ đô sẽ gây ra nhiều tổn thất cho quân lực và dân chúng. Tôi liên tưởng tới sự thành công của cuộc phòng thủ Quân khu 4, mảnh đất cuối cùng của đất nước.

Với vị trí thiên nhiên của sông Tiền Giang cắt ngang miền Nam, với địa thế sình lầy của vùng Ðồng Tháp có thể làm giảm thiểu tốc độ chuyển quân của địch, sự di chuyển của chiến xa và trọng pháo sẽ bị trở ngại. Với sự tồn tại của toàn bộ các thị trấn, chưa nơi nào lọt vào tay địch; với các căn cứ Không quân và Hải quân vẫn còn nguyên vẹn dùng làm căn cứ cho các lực lượng liên hệ từ các quân khu khác rút về. Với ba Sư đoàn Bộ binh, cộng thêm gần nửa triệu Ðịa phương và Nghĩa quân, tôi nghĩ rằng chúng ta có thể chống cự một thời gian chờ cơn sốt chánh trị gây rối loạn và hoang mang trong hàng ngũ qua đi, chúng ta sẽ tìm thế phản công trong tương lai, chiếm lại phần đất nước đã bị mất. Tôi nghĩ đến gương của nước người, nước Trung Hoa vĩ đại của Tưởng Giới Thạch với hàng triệu binh sĩ, đã không đánh mà tan, phải bỏ chạy trước đạo quân của Mao Trạch Ðông. Ðến khi tàn quân chạy ra Ðài Loan, một mảnh đất nhỏ bé, họ Tưởng đã tổ chức lại hàng ngũ, đẩy lui bao nhiêu cuộc tiến công của cộng sản, rồi tổ chức được một xã hội bền vững đến bây giờ.

Tôi nghĩ lại nước Việt Nam thân yêu rồi sẽ đi về đâu. Tưởng Giới Thạch còn có Ðài Loan, mình thì có gì? Phú Quốc? Hòn đảo này quá nhỏ và quá gần đất liền, không bảo toàn được. Tôi nghĩ đến giải đất vùng biên giới Việt Miên, bao gồm các khu vực có giáo dân Hòa Hảo sinh sống, có dẫy Thất Sơn, có căn cứ an toàn, có ba, bốn ngàn hang động hiểm trở thành những phòng tuyến kiên cố chống giữ các cuộc tiến công từ biên giới sang thì việc phòng thủ Quân khu 4 sẽ lâu bền hơn. Tôi mang ý kiến ra bàn với vị Tư lệnh Quân đoàn, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam thì được sự tán thành của ông ngay. Nhưng rủi thay, việc hợp tác với giáo dân Hòa Hảo đã gặp trở ngại ngay từ bước đầu vì trước đó Thiếu tướng Nam đã có lần nhận chỉ thị của Tổng thống Thiệu để giải giới lực lượng Hòa Hảo Huỳnh Trung Hiếu và bắt giữ ông Hai Tập nên đã gây ra sự nghi kỵ và hiềm thù trong lòng những người bạn Hòa Hảo.

Khoảng trung tuần tháng Tư năm 1975, Thiếu tướng Nam cùng tôi qua Mỹ Tho họp với các Tư lệnh Sư đoàn các Tỉnh trưởng miền Hậu Giang để thảo luận về kế hoạch ngăn chặn hoạt động của Cộng sản gây ảnh hưởng với tình hình an ninh Quân khu 4, Tướng Ngô Quang Trưởng từ Bộ Tổng Tham Mưu xuống tham dự buổi họp. Trong buổi họp, tôi có trình bầy tường tận về nghị quyết "Tổng tấn công, Tổng khởi nghĩa" để đi đến dứt điểm chiến trường của Cộng Sản. Một số sĩ quan tham dự buổi họp tỏ vẻ hoài nghi về khả năng của Cộng sản để thực hiện nghị quyết ấy ở miền Tây. Vào cuối tháng Tư, tại các vùng khác quân ta phải triệt thoái liên miên; riêng Vùng 4, cho đến ngày cuối cùng vẫn giữ được sự toàn vẹn lãnh thổ. Cuộc phòng thủ Bộ Chỉ Huy cuối cùng của quân đội vẫn được ráo riết thực hiện. Các đà sắt làm cầu được xuất kho để hoàn thành những nhà hầm kiên cố, có thiết trí hệ thống truyền tin, chuẩn bị đoán tiếp Bộ Tổng Tham Mưu nếu Sài Gòn thất thủ.

Chiều 26 tháng Tư, Thiếu tướng Nam cho lệnh họp các sĩ quan của Bộ Tổng Tham Mưu và các đơn vị trưởng thuộc Quân đoàn 4 tại Trung tâm Hành quân. Họp xong, ông yêu cầu tôi lấy cuốn phim tài liệu tịch thâu được của Việt Cộng chiếu cho mọi người xem. Ðó là cuốn phim "Chiến thắng Hạ Lào" liên quan đến cuộc hành quân Lam Sơn 719 của quân đội ta. Tôi còn nhớ khi phim chiếu cảnh bọn Việt Cộng dẫn giải những chiến sĩ QLVNCH bị chúng bắt, những khuôn mặt quen thuộc hiện ra trên màn ảnh làm rung động sự cảm xúc của mọi người. Ðại tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ đoàn trưởng 3 Nhảy dù hiện thoáng qua; anh bị thương phải chống gậy. Anh vẫn mặc bộ quân phục Dù, ốm hẳn đi nhưng khuôn mặt vẫn còn nét rắn rỏi. Theo sát anh là một tên Việt Cộng bé con, mặt còn non, hờm khẩu AK như chực nhả đạn. Hình ảnh này làm máu tôi sôi lên trong huyết quản. Tôi liếc nhìn Thiếu tướng Nam, ngồi bên cạnh, ông cũng nhìn lại tôi với cặp mắt buồn. Tôi biết rằng ông còn xúc động hơn tôi vì ông nguyên là Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Dù trước khi nhận lãnh chức Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh. Ông khẽ bảo tôi: "Nếu đời mình như thế là hết!"

Ngày hôm sau, để nhận định thêm tình hình, tôi qua thăm Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 12 thuộc Sư đoàn 7, đóng tại Tân Lý Tây, quận Bến Tranh. Tôi gặp Ðại tá Ðặng Phương Thanh, Trung đoàn trưởng, cho biết tình hình trận chiến. Anh nhận định trung đoàn của anh đủ khả năng đối đầu với Sư đoàn Công trường 5 Cộng Sản đang dàn quân trước trận tuyến của anh. Anh đưa tôi đi xem chiến địa, nơi vừa xảy ra giao tranh ngày hôm qua. Xác địch còn nằm ngổn ngang trên các bờ bụi. Nhìn anh Thanh với dáng đi lầm lũi, chắc nịch, tôi cảm thấy anh là sĩ quan sẽ không hề lùi bước trước địch. Tốt nghiệp Khóa 16 Võ Bị Ðà Lạt, suốt thời gian trong quân ngũ, anh luôn có mặt tại đơn vị chiến đấu và mới được thăng cấp Ðại tá vào hôm trước. Sau này, tôi được biết anh đã lựa chọn thà tự sát còn hơn đầu hàng địch.

Chúng ta là quân nhân...

Thời gian lặng lẽ trôi, bi thảm dần dần tới. Lúc đó vào khoảng tối 28 tháng Tư 1975, tiếng nói của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu vang lên từ Ðài phát thanh Sài Gòn yêu cầu toàn bộ Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ và Cơ Quan D.A.O. rút ra khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Lời yêu cầu trên được lập lại nhiều lần như xoáy vào tim óc, như nổ trong lồng ngực. Thế là hết! Họ đã âm mưu bỏ chúng ta thực sự rồi. Thành tích bao nhiêu năm chiến đấu đã tan thành mây khói. Ðêm đó và sáng hôm sau, quang cảnh thị xã Cần Thơ nhộn nhịp hẳn. Các loại xe ba bánh chở đồ từ các cơ sở Mỹ chạy ngược xuôi. Những trực thăng Air America không ngừng lên xuống các tàu nhỏ nhưng nhiều mã lực của Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ rời bến trực chỉ hướng Ðại Ngãi, đem theo toàn bộ người Hoa Kỳ và nhiều người Việt làm việc với họ.
Cảm nghĩ của tôi lúc đó là tôi không nuối tiếc sự ra đi của người Mỹ; vì dù họ có ở lại cũng không đóng góp được gì cho công cuộc chống Cộng của chúng ta. Nhưng sự ra đi của họ, trong bối cảnh bấy giờ đã trở thành một đòn cân não trí mạng, đánh mạnh vào tâm trạng hoang mang của toàn thể nhân dân Việt Nam và làm suy yếu hẳn sự kháng cự cộng sản của QLVNCH.

Trọn ngày 29, tôi có dịp gặp Thiếu tướng Nam nhiều lần nhưng chỉ bàn qua về tình hình có ảnh hưởng trực tiếp đến Quân khu 4 mà thôi. Nhìn ông trầm tư, tôi không nhắc tới chuyện thiết lập mật khu vì tôi biết ông cũng cảm thông với những gì tôi muốn nói.
Chiều hôm đó, khi đi qua sân Bộ Tư Lệnh trở về phòng làm việc, tôi có gặp Chuẩn tướng Tham mưu trưởng Quân khu 4. Ðây là lần cuối tôi gặp ông vì nửa đêm hôm đó, tôi bắt được nghị quyết số 15 của cộng sản đề cập đến việc chuẩn bị tiếp thu các thành phố, đến kế hoạch thâm độc nhắm tiêu diệt những quân nhân và cán bộ quốc gia một khi chúng nắm được quyền hành.

Sáng sớm ngày 30 tháng Tư, không khí Bộ tư lệnh Quân khu 4 có vẻ khẩn trương vì sự ra đi của Chuẩn tướng TMT và một số sĩ quan trong đêm trước. Tiếp theo đó, qua đài phát thanh Sài Gòn, Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh toàn bộ QLVNCH buông súng đầu hàng địch và chuẩn bị bàn giao căn cứ cho chúng. Mọi người đều rúng động; không khí căng thẳng đến cực độ. Sự thật quá phũ phàng. Trước đó, có người còn hy vọng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống để sửa soạn một giải pháp trung lập, hòa giải chứ đâu có ngờ ông ta lên làm Tổng thống để đầu hàng địch.

Ðại tá Nguyễn Ðình Vinh được chỉ định thay thế Chuẩn tướng TMT để triệu tập tất cả sĩ quan có mặt tại Bộ tư lệnh và các đơn vị trực thuộc và vị Tỉnh trưởng Cần Thơ tại Trung tâm Hành Quân để Thiếu tướng Nam nói chuyện.
10 giờ 30 sáng, Thiếu tướng bước vào Hội trường, mọi người nghiêm chỉnh đứng lên chào. Ông từ từ tiến lên bục cao, xoay mình đối diện với các sĩ quan trực thuộc, khuôn mặt vẫn đầy cương nghị nhưng ánh mắt thật buồn.
"Các sĩ quan thân mến," ông nói, "Như anh em đều biết, đất nước chúng ta đang rẽ vào khúc quanh quan trọng nhất của lịch sử. Chúng ta là quân nhân thì phải tuyệt đối tuân lệnh chánh phủ. Vậy tôi để các anh lát nữa trở về đơn vị, tùy tiện sắp xếp công việc để bàn giao cho họ. Về phần tôi, mặc dù có sẵn trực thăng, tôi sẽ không đi đâu hết."
Nói xong, ông rời phòng hội để về văn phòng ông. Tôi đẩy cửa bước theo để được nói chuyện với ông lần cuối: "Ông Tướng ơi, ông đành chịu vậy sao?" Tôi vẫn xưng hô kiểu đó khi chuyện vãn chỉ có ông và tôi. Ông cười buồn: "Biết làm sao được bây giờ hả anh." Rồi ông im lặng hút thuốc, thở khói nhè nhẹ, vẻ mặt đăm chiêu. Trước mặt ông là cái gạt tàn thuốc lá khổng lồ đầy ắp, chắc đêm qua ông đã thức trắng đêm. Trong thâm tâm, tôi muốn đề nghị với ông cùng tìm cách thoát hiểm nhưng tôi không mở lời được vì biết ông sẽ từ chối.
Một lúc sau, tôi đứng thẳng người, kính cẩn chào cấp chỉ huy lần cuối rồi quay trở về phòng.
Bấy giờ, tôi còn nhớ rõ, Trung uý Danh, Sĩ quan Tùy viên của Thiếu tướng Nam chạy theo, gọi tôi nhờ chỉ dẫn cách sử dụng khẩu súng lục màu xanh biếc mà Thiếu tướng vừa cho anh vào buổi sáng. Tôi không hiểu ông đã cho sĩ quan tùy viên khẩu súng xinh xắn để làm gì?

Tôi âm thầm đếm bước chân trên lối đi dẫn về phòng tôi ở. Tôi liên tưởng ngày mai đây, cũng trên những bục đi này, bàn chân kẻ thù cũng sẽ bước chồng lên dấu chân tôi. Cuộc chiến này đã kéo dài trong bao năm trường, không ngờ lại tàn nhanh đến thế. Lòng tôi đầy bi phẫn. Mặc dù tôi không có cách gì để kháng cự địch nữa nhưng tôi không cam lòng đầu hàng chúng. Suy nghĩ mãi, tôi thấy mình phải tìm cách thoát hiểm, dù bỏ mạng trên đường thoát hiểm cũng đành. Ý nghĩ này làm tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Tôi nhảy lên xe jeep, lái ngang qua Tiểu khu Cần Thơ gặp Ðại tá Huỳnh Ngọc Diệp, một sĩ quan trừ bị bạn đồng khóa với Thiếu tướng Nam, để tìm phương thoát hiểm. Tôi trình bầy với anh về nghị quyết 15 của cộng sản và những tủi nhục và chúng sẽ dành cho mình khi chúng chiếm được phần đất này. Tôi đề nghị anh cùng tìm cách thoát hiểm. Ban đầu anh từ chối lời đề nghị, nhất quyết tử thủ. Nhưng sau tôi thành công trong sự thuyết phục anh và chúng tôi tìm phương tiện di chuyển.

Chúng tôi rời bến Cần Thơ vào chiều ngày 30 tháng Tư 1975 trên một con đò máy chật hẹp, hướng ra cửa biển. Cuộc hành trình đầy cam go, tổn thất đã đánh dấu sự chấm dứt binh nghiệp của chúng tôi, trong sự tủi nhục, ê chề. Trên đường vượt thoát, được tin Thiếu tướng Nam, Chuẩn tướng Hưng và một số bạn hữu đã tự sát hoặc bị cầm tù, tôi đã nhắm nghiền cặp mắt để nén lệ trào ra, lòng ngậm ngùi nhớ đến những khuôn mặt thân yêu đó mà trọn đời tôi sẽ không bao giờ quên...

Lê Nguyên Bình

http://vnchtoday.blogspot.com

.
Về Đầu Trang Go down
MHMai
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeTue Apr 01, 2014 11:22 pm


Tháng Tư Mùa Xuân và Những Tấm Màn


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 4296DBDC-73F3-444A-9241-485AAEF7C54E_w268_r1

Tháng Tư, tôi đi dưới bầu trời mây trắng, nắng ấm và mềm như chiếc khăn quàng trên vai, hai chân thong thả bước, mặt ngước nhìn hàng cây bên đường, hàng cây xanh ngọt màu cốm non, những chùm lá nho nhỏ, cong cong he hé mở ra như những cánh môi thiếu nữ mới lớn. Những vạt cỏ xanh non mịn như nhung thỉnh thoảng điểm một đóa hoa bồ-công-anh nhỏ xíu như chiếc khuy màu vàng từ áo khoác ai rơi xuống. Hoa đỗ quyên cũng bắt đầu khe khẽ nở dịu dàng bên một góc hàng rào nhà ai. Mùa xuân ở Seattle đẹp lắm, những giọt nước mưa trong veo và những giọt nắng vàng như mật ong. Ngửa mặt lên là uống vào lồng ngực cả lượng xuân của đất trời.
 
Ước gì, ừ nhỉ, ước gì đừng có Tháng Tư oan khiên của nước mình ngày đó. Tháng Tư hàng năm vẫn đến. Ban ngày, những hình ảnh, bài viết tràn ngập trên máy điện toán, những nhắc nhở trong những lần gặp gỡ hàn huyên với bè bạn; ban đêm mang theo cả vào giường, vào giấc mơ, giật mình cho số năm tháng đã đi qua trên xứ người.
Tôi đi trong ân sủng của đất trời, nhưng sao lòng không thanh thản, những hình ảnh không đẹp cứ theo nhau về trong tâm trí. Chiến tranh quê mình, chiến tranh quê người. Những cái xấu và cái ác như mực đổ loang vào lòng giấy.
 
Những vòm lá trên cao nghiêng xuống như cái tán làm râm một khoảng đất dưới chân đi, tôi bỗng rùng mình liên tưởng đến những tấm hình trong một bài báo được một chị bạn thân mới chuyển cho đọc tối hôm qua: “The Veils of Aleppo: Photographs by Franco Pagetti” của Rania Abouzeid. Bài viết đề cập đến những tấm ảnh của nhiếp ảnh gia Franco Pagetti chụp những tấm màn cửa chăng từ bức tường đổ bên này sang mái nhà vỡ bên kia ở thành phố Aleppo. Trải qua hai năm của cuộc nội chiến ở đất nước Syria làm hơn 70 ngàn người chết, Aleppo là chiến trường đẫm máu nhất, nơi cả hai phe đều tìm cách chiếm đi chiếm lại nhiều lần, không lúc nào ngưng tiếng súng. Những tấm màn trước đây để che khung cửa sổ tránh cặp mắt tò mò của hàng xóm, hay che ánh nắng mặt trời thì bây giờ nó làm một nhiệm vụ của một lá chắn cho sinh mạng con người.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU E7cc38c27fce4e60f25b9339c8b77735

Franco Pagetti là người đã bắt chụp những hình ảnh trong những cuộc chiến ở Syria, Afghanistan và Iraq đã nhìn ra được cái đẹp đau thương của những tấm màn cửa chăng trong những thành phố đổ nát vì bom đạn. Các tấm màn được chăng lên giữa lối đi của hai tòa nhà đổ nát (những gì còn lại của người dân), chúng  làm nhiệm vụ che chở cho người dân đi đến một tiệm bánh hay đi thăm một người thân. Cái tấm màn mang mầu xám của vôi vữa, gạch vụn, của bụi than của nhà cháy và thỉnh thoảng pha một vệt đỏ bầm của máu đó đã lãnh cái nhiệm vụ che chở rất mong manh.Trong những bức hình ông chụp, không có người, chỉ có những tấm màn cửa. Màn cửa như một nhân chứng, một rào cản cho cuộc nội chiến bất tận của hai bên. (Khác gì cuộc chiến Nam-Bắc của Việt Nam). Giống như rất nhiều khía cạnh của xung đột, những tấm màn cửa mất đi cái việc che cửa giản dị chính thực của nó. Hôm nay nó phải làm một nhiệm vụ hoàn toàn khác hẳn. Những màn cửa này làm ông Pagetti nhớ đến những bức tường bê tông dặm này sang dặm kia, chằng chéo khắp thành phố Baghdad trong cuộc thánh chiến tồi tệ nhất vào những năm 2006-2007.
 
Bất cứ người dân nào, nếu di chuyển bên dưới tấm bạt đó, đều phải biết thật rõ phía phản chiếu của ánh sáng mặt trời và hướng gió thổi tới, để tránh cho cái bóng của mình không hiện lên tấm màn đong đưa đó. Nếu sơ ý mà một tay bắn tỉa đang rình rập đâu đấy nhìn thấy bóng người trên tấm bạt thì ngay lập tức sẽ vang lên đoành… đoành… đoành… Một thân người gục xuống. Hoặc một cơn gió vô tình thổi qua, tấm màn lật lên, một họng súng hướng ngay mặt và lại đoành… đoành… đoành… Thêm một thân người gục xuống.
Chiến tranh ở nơi nào trên mặt đất cũng thế, nhất là những cuộc nội chiến. Hai miền Bắc Nam hay hai bên Tả Hữu xung đột, người dân hiền lành ở giữa, luôn luôn là những nạn nhân hứng tất cả tang thương.
 
Đất nước tôi cũng có tấm màn tre (bamboo curtain) buông xuống giữa hai miền Nam Bắc từ năm 1954. Tấm màn tre đó đã che kín mắt người dân miền Bắc, họ hoàn toàn không biết gì về đời sống của dân miền Nam, cho đến khi họ vào “Giải Phóng”. Trong cuộc chiến nào, cũng chỉ có người dân là đáng thương hơn hết.

Bức màn tre ở nước tôi đã tháo xuống gần bốn mươi năm rồi. Súng đạn, hỏa tiễn không nổ nữa, nhưng người dân Việt vẫn đi dưới những tấm màn vô hình, để tránh cái chết. Điều bất hạnh là những tấm màn này không che được phía phản chiếu của ánh sáng mặt trời, không giúp tránh được luồng gió. Người dân không chết vì những tay súng bắn sẻ nữa mà chết bằng nhiều cách khác nhau, không cần súng đạn.
 
Nếu ông Franco Pagetti có đến Việt Nam bây giờ, thì chẳng còn điểm “hot” nào của chiến tranh để cho ông thâu vào ống kính nữa.  Mấy cái đề tài như Địa đạo Củ Chi hay mấy cái “Xe tăng tiền phong” trưng ở trong dinh Độc Lập cũ hay ngoài “Lăng Bác” thì người ta đã chụp mòn cả rồi. Tôi chắc ông sẽ chẳng đến Việt Nam đâu vì cái ống kính chuyên thâu hình ảnh chiến tranh của máy ông khi đem ra chụp những đề tài về đời sống xã hội của một Việt Nam bây giờ e rằng nó sẽ không thâu được những tấm hình trung thực.
 
Tôi đi trong mùa xuân Seattle, đi dưới những đám mây trắng nõn và bầu trời xanh như biển, đi giữa nắng vàng óng ánh và ngang qua những gốc hoa đào. Tôi đi như thế đã mấy chục mùa xuân và tôi còn được đi bao lâu nữa, làm sao tôi biết được. Nhưng có một điều tôi biết rõ ràng là lòng tôi không hề vui mỗi lần mùa xuân đến đánh dấu một năm mới. Tôi hay tự hỏi mình hai câu: “Mình xa quê bao lâu rồi nhỉ?” (mặc dù biết rất rõ) và “Mình còn quê hương không nhỉ?” Nói là mình mất quê hương thì không đúng, vì quê hương bây giờ Bắc Nam thống nhất, mình muốn về thăm lúc nào mà chẳng được. Nhưng nói là còn quê hương thì tôi thấy cũng không còn. Vì khi tôi về thăm, thành phố thay đổi, nhà cửa thay đổi và người sống ở đó hoàn toàn lạ lẫm. Lạ không phải vì người ta không phải là họ hàng thân thuộc, nhưng cách ăn ở, cư xử, nói năng của ai cũng làm mình ngạc nhiên. Mà ngay cả những người đang sống ở trong nước với nhau bây giờ,  họ cũng không còn cho nhau cái tình người ấm áp nữa. Họ khác xưa nhiều quá! Họ lại không nhìn mình như một người đồng hương mà chỉ nhìn mình như một du khách, làm mình tự thấy mình bị gạt ra khỏi cái phần đất thân yêu đó. Nói về thăm quê hương mà như đi du lịch sang một nước lạ thì lòng ai vui được.
 
Tháng Tư nào cũng buồn và Tháng Tư nào tôi cũng đi dưới mùa xuân với một trái tim nặng trĩu.
 
Tôi viết những câu thơ trên trái tim mình
Trái tim tôi là một ngôi làng bên ngoài tổ quốc (Thơ-tmt)
 
Trần Mộng Tú
4/2013


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU HoadaoSeattle2
.
Về Đầu Trang Go down
P-C
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeTue Apr 29, 2014 7:31 pm

.
Người Sài Gòn - Làm sao mà quên được!


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Thatched_cottage_anh_ground_wall_of_the_central_highlands_in_daklak_Vietnam

Thứ Ba, ngày 29 tháng 4 năm 2014

Nơi tôi không quên được đây chính là miền đất bazan đỏ quạch nơi một nửa gia đình tôi đã chuyển đến ở, được gọi với mỹ danh “Vùng kinh tế mới” ở Long Giao, Xuân lộc vào năm 1975. Thường thì vùng đất này đã nhạt nhòa trong ký ức của tôi vì khi ở đó, tôi còn bé lắm, nhưng mỗi năm, vào ngày giỗ Chị Oanh tôi hoặc khi truyền thông ăn mừng ngày 30/4 thì cái màu đỏ của vùng đất ấy và những câu chuyện liên quan lại cựa quậy trỗi dậy, như chưa hề ngủ quên trong ký ức tôi.

Tôi còn nhớ, những ngày tháng Tư năm 1975 đó trong căn nhà nhỏ ở Quận 3, Sài gòn, Má may cho Anh Giang, Anh Tám và tôi ba cái túi, bảo nhét quần áo vào và đeo bên mình, khi nào có chuyện gì thì chui xuống dưới gầm đi văng mà nằm. Chúng tôi cũng thử chui xuống gầm đi văng bụi bặm cùng chiếc túi với niềm thích thú vì các anh chị lớn và thằng Út không có túi như chúng tôi. Có hôm, tự nhiên tôi thấy cay mắt, cổ họng rát bỏng, chị Năm tôi cũng ho sặc sụa, nước mắt ràn rụa, nhúng nước vội vào tấm khăn rồi úp lên mặt tôi. Đó là lần đầu tiên tôi “nếm” mùi lựu đạn cay do các bên đánh nhau chạy lạc vào xóm nhỏ của tôi.
Thỉnh thoảng tôi nghe đâu đó một tiếng súng nổ đơn lẻ, chỉ vậy thôi. Rồi một trưa nắng, tôi thấy Chú Nguyên, chồng Dì Út tôi chạy xe đạp đến nhà. Chú vừa từ Bộ Tổng Tham mưu chạy thẳng đến nhà tôi, mình chỉ mặc áo may ô và chiếc quần lính rằn ri. Quăng xe đạp ở cửa, Chú lao vào ôm mặt khóc với Ba Má tôi, miệng lập đi lập lại: “Mất rồi, mất tất cả rồi anh chị ơi!” Rồi chú mượn một bồ đồ của Ba tôi mặc vào để về nhà Chú Dì bên khu Nghĩa Hòa, Ông Tạ.

Hôm sau, khu Bùi Phát trên đường Trương Minh Giảng chỗ gia đình tôi ở có đám ma. Người chết là Cậu Ngãi, nhà cậu ở ngay cổng sau Nhà Thờ Bùi Phát. Nghe nói Cộng sản đã chiếm Tòa Khâm sứ  (đối diện Tòa Tổng Giám Mục, trên đường Trương Minh Giảng, nay là Trần Quốc Thảo) và đuổi Đức Khâm đi, Cậu liền lấy xe honda, chở Cha Andre Vũ Bình Định lên xem hư thực thế nào. Chẳng biết chuyện gì đã xảy ra, chỉ biết Cậu bị bắn chết ngay tại chỗ, còn Cha Định thì bị bắn gãy chân và bị bắt đi Cải tạo ngay.
Mới 5 tuổi, nhưng tôi đã cảm nhận được có điều gì đó đang biến đổi xung quanh mình. Mọi người trong nhà tôi nói chuyện nhỏ giọng hơn. Ông Bà Mười ở ngay con dốc dẫn vào chợ hóa ra là cán bộ nằm vùng. Ông Bà Mô người Nghệ an mới dọn về ở trong nhà Cậu Ngân cũng là cán bộ, họ hay đứng ngó xem các gia đình trong xóm ăn gì, có ai ra vào. Cậu Ngân là Phi công VNCH, Cậu đã may mắn thoát được cùng gia đình và căn nhà đẹp nhất xóm của Cậu đã được Nhà nước “cấp” như thế đó.

Vài tháng sau thì Nhà nước đổi tiền. Việc này gắn liền với cái chết của cả gia đình Ông Bà Na cách nhà Cậu Ngân mấy căn. Tôi cùng các anh chị leo lên lầu nhà Bác Trị, ngó người ta khiêng 11 xác chết nhà Ông Na ra. Mấy anh tôi bảo cẩn thận chứ tử khí bay ra từ xác chết độc lắm. Tôi la lên bài hãi khi thấy cùi chỏ tay dính mấy vệt vôi mà tôi tưởng là tử khi đã bám vào mình. Ông Na là công chức, mình ông đi làm nuôi cả nhà gồm vợ và chín người con. Giải phóng, Ông thất nghiệp thế là cả nhà đói khát. Nghe nói Ông đã phải muối mặt ăn trộm cám heo của Bà cụ cạnh nhà, nhưng làm sao đủ cho cả nhà ăn.
Khi đổi tiền, Nhà nước cũng gom cả mục tiêu đánh tư sản vào đó, vì thế chỉ cho phép mỗi gia đình được đổi một số tiền nhất định, tương ứng với số nhân khẩu trong nhà. Những nhà giàu phải nhờ nhà nghèo như nhà Ông Na đổi tiền giúp. Không may, lúc Ông và anh con trai lớn vừa rời khỏi chỗ đổi tiền thì bị cướp giật sạch số tiền. Ông không làm sao giải thích được cho người đã nhờ Ông hiểu và cũng chẳng còn cách nào để lo cho gia đình. Thế là Ông và anh con trai lớn nấu cháo rồi bỏ thuốc độc vào cho cả nhà ăn, còn Ông và người con này treo cổ, còn đứa bé đang bú mẹ thì bị lấy búa đập vào đầu vì nó chưa biết ăn cháo!

Căn nhà nhỏ xíu của gia đình chín đứa con của Ba Má tôi trở thành chỗ tá túc cho không biết bao nhiêu gia đình người thân bỏ chạy từ các Tỉnh khác vào. Họ không thể ở lại được vì sự hà khắc của chính quyền mới ở các tỉnh lẻ áp đặt lên các gia đình Ngụy còn kinh khủng hơn ở Sài gòn. Gia đình tôi cũng kiệt quệ vì phải lo ăn uống cho họ nữa. Có khi Chị Hai tôi phải lo cho mấy đứa em ăn ở ngoài còn để khách tự lo vì gia đình tôi không còn đủ lực nữa.

Giờ thì quay trở lại với Vùng Kinh tế mới (“KTM”). Bà con tôi là người gốc làng quê vùng Nam Định, di cư vào Nam từ năm 1954, sống quây quần quanh Khu hẻm 491 trên đường Trương Minh Giảng. Sau 30/4, dần dần, hết nhà này đến nhà khác bắt đầu đi KTM. Chẳng biết Nhà nước đã làm cách gì mà những người quen sống ở thành thị hai chục năm trời lại chịu bỏ nhà cửa ra đi tới những vùng quê hoang sơ như Tân Uyên, Phương Lâm, Suối Nghệ và Long Giao, v.v… Có nhà may mắn, chỉ đi một nửa như nhà tôi thì còn có ngày để quay về, có những gia đình đứt rễ khỏi Sài gòn thì coi như xong! Dù có về được lại Sài gòn hay không thì ký ức về KTM cũng thật sự cay đắng với người đã nếm trải.

Khi đi KTM, bà con họ hàng tôi lại rủ nhau cùng đến chung một vùng đất nào đó. Phần lớn chúng tôi là gia đình những người có thân nhân đi lính "Ngụy". Gia đình tôi đến Long Giao, nơi gần căn cứ Xuân Lộc, nhà tôi là nhà Số 1. Cách một rẫy lớn của một gia đình người Hoa là đến Căn cứ Xuân Lộc cũng là nơi tạm giam tù binh Học tập Cải tạo trước chuyển họ đến nơi giam giữ cuối cùng.
Công bằng mà nói thì đây là vùng đất đẹp, màu mỡ vì là đất núi lửa bazan thích hợp trồng cây công nghiệp. Ba tôi và một số Chú Bác lại khéo tay, họ vần công, dựng lên những ngôi nhà tranh vách nứa rất đẹp và thoáng đãng. Mỗi nhà có một giếng nước có trục quay gàu, có nhà vệ sinh trên hầm tự hoại. Chúng tôi đã mang văn minh Sài gòn về KTM. Vốn liếng bán đồ đạc ở Sài gòn, họ dồn vào căn nhà và mảnh đất nằm đâu đó trên những ngọn đồi phía trước nhà, phần còn lại, mua hạt giống để trồng. Khí hậu nơi đây mát mẻ, sáng sáng thức dậy, ra trước nhà, nhìn lên những ngọn đồi trước mặt xanh ngắt, nhưng lại bị mất ngọn vì sương mù che khuất. Cảnh tượngg y như bức tranh vẽ núi Phú sỹ.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU D1477dd6

Rất nhanh tâm trạng háo hức làm quen với cuộc sống mới chuyển sang thất vọng. Người thành thị chưa quen với vùng đất mới, chỉ biết trồng đậu và bắp trên thứ đất đúng ra phải trồng tiêu, điều và cafe như những người Hoa đang làm. Thế là đói, người nhà phải tiếp tế gạo và mắm muối lên KTM. Có những hôm người nhà lên tới nơi với khuôn mặt thất thần vì bị du kích tịch thu hết số gạo mang lên tiếp tế vì họ cho đó là buôn lậu! Nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ của cái ăn, có những chuyện khác lớn hơn, đó là chuyện tinh thần. Đi KTM đồng nghĩa với con cái thất học. Chị Năm tôi học rất giỏi, sau một năm ở KTM, chị nằng nặc đòi về để được đi học tiếp. Chỉ còn lại Ba tôi, Bà Nội và Chị Sáu ở lại. Sau này, Ba và Bà tôi có quay về Sài gòn, còn Chị Sáu tôi thì vĩnh viễn ở lại vùng đất ấy.

Ở vùng đất này, vào thời buổi hỗn quân, hỗn quan, mạng người mỏng manh như ngọn cỏ. Hôm đó, Má tôi mang gạo lên tiếp tế, Chị đi bán cà chua chưa về. Trời miền quê, mới 6h của một đêm không trăng, trời đã tối đen như mực. Những người tan lễ chiều ra đi ở phía sau Chị, họ chỉ thấy Chị ngã vật ra nên tưởng Chị trúng gió. Lúc Má chạy ra tới nơi thì Chị nấc lên rồi đi.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 73+6

Thực ra, lúc ấy có một nhóm mấy chú bộ đội nghênh ngang đi dàn hàng ngang trên đường theo hướng ngược chiều với Chị, chiếc xe chặt cây, đi ngang qua, phải lách mấy chú vừa từ rừng ra, chưa biết gì về Luật giao thông, con dao trên thùng xe được buộc không chặt, đã rớt trúng đầu Chị tôi.  Chị tôi đi lúc mới 14 tuổi. Khi lên Thiên đàng, nếu có ai hỏi sao lại lên đây, chắc Chị sẽ ngắc ngứ không biết trả lời thế nào, nhất định không phải là vì tai nạn giao thông rồi vì chiếc xe nào có tông trúng chị!

Cái chết của Chị tôi thuộc vào loại lãng xẹt, nhưng cái chết của Cô họ tôi thì dứt khoát phải gọi là oan khuất. Cô Oanh đẹp lắm. Sống ở KTM nhưng Cô không đi làm rẫy mà đi buôn mủ cao su. Ngày ấy, ngoài trừ Nhà nước ra, còn lại ai buôn bán bất cứ thứ gì cũng đều là buôn lậu tất. Bình thường thì Công an cùng Du kích Ấp và Xã đều là chỗ quen biết với Cô. Ấy thế mà hôm đó, Cô bị bắt lúc gần trưa, rồi chiều tối họ kêu Ông lên nhận xác Cô về vì Cô đã tự tử chết ở trong đồn Công an. Thế ra, cái mốt vào đồn tự tử không phải bây giờ mới có. Có điều viên thuốc Cô uống (hay bị uống) vẫn còn nằm ở cuống họng, còn khi tắm rửa, khâm liệm thì dấu hiệu Cô bị cưỡng hiếp là không thể chối cãi.

Tôi rất sợ vùng đất này mỗi lúc chiều buông vì khi đó không khí sặc mùi ảm đạm, chết chóc. Trời sụp tối cũng là lúc hàng đoàn xe quân sự GMC phủ bạt kín mít chở tù cải tạo chạy rầm rập qua nhà tôi. Giai đoạn đó, xe chở tù chạy suốt đêm, chúng tôi gọi đó là xe bịt bùng và lúc nào cũng nghĩ rằng có một người thân, không bạn bè thì cũng là bà con của mình trong những chiếc xe đó. Ban ngày, có một số người được đưa ra ngoài lao động, có khi Ba tôi gặp được người quen, mừng lắm. Mừng nhưng chỉ dám đưa mắt nhìn rồi khẽ gật đầu chứ không dám chào. Sau đó mới báo về Sài gòn cho vợ con người đó biết họ đang ở Trại Long Giao. Đó cũng chính là điều mà ánh mắt người tù đã ngầm muốn Ba tôi báo lại vì không phải gia đình ai cũng biết chồng mình bị nhốt ở đâu.

Ở đây, khi di làm rẫy trên đồi, gia đình tôi quen với Chú Tuân, một phi công VNCH, người Huế trốn cải tạo. Tôi chẳng biết hoàn cảnh Chú ra sao, chỉ thấy Chú sống với Mẹ già và ba cậu con trai ngay tại căn lều lớn trên đồi. Quần áo bốn cha con lúc nào cũng đỏ quạch vì bụi đất bazan. Lâu lâu, Chú cho lũ con xuống đồi, vào chợ cách đó 20km. Đứng trên đồi, nhìn hình ảnh bốn cha con xếp hàng, cao trước thấp sau, đi trên lối mòn lẫn trong đám cỏ tranh cao gần lút đầu thằng Út, thấy cuộc sống của họ không có lối thoát.
Chú là người cực giỏi, nhưng đám con thì hoàn toàn thất học, tôi chẳng hiểu sao Chú lại không dạy bọn nó học. Tôi vẫn nhớ câu chuyện tiếu lâm Chú kể cho Ba tôi nghe lúc đụt mưa trong căn lều. Chú dạy Anh văn cho một nhóm các nhà Sư, tới động từ “to sleep” nghĩa là đi ngủ, chẳng hiểu sao, không ai học đựơc cả. Tức quá, Chú quát ầm lên: “Tất cả đọc theo tôi: tuột xì líp là ngủ”, ấy thế mà tới đây thì mọi người học được. Chú chỉ có Ba tôi là bạn, nên rất quý “Anh Hoan”. Từ ngày Ba tôi về Sài gòn thì mất liên lạc với Chú. Tôi mong lắm Chú ở đâu đó, đọc được những dòng này thì nhớ đến ngày xưa ấy. Điều đó cũng có nghĩa là các con Chú đã được đi học lại và Chú không còn phải sống cách ly với xã hội nữa.

Chuyện Long Giao còn dài lắm, nhưng rồi cũng tới lúc Ba và Bà tôi cũng quay về lại Sài gòn để gia đình không còn phải sống cảnh “một chốn đôi quê” nữa. Về lại Sài gòn, Ba tôi còng lưng trên chiếc xích lô mướn cho tới ngày Ông bị tai nạn, phải bỏ nghề. Thế đó nên trong lý lịch của tôi, phần nghề nghiệp của Cha được ghi: – trước 1975: lính Ngụy, – sau 1975: làm rẫy, đạp xích lô và mất sức lao động.
Thế là vẫn còn may so với những gia đình khác không còn lối về lại Sài gòn. Tôi có người Dì họ, tên Loan, Chú Long chồng Dì đi KTM ở Tân Uyên, giẫm phải mìn, Chú chết không toàn thây. Dì được chồng cưng chiều, khi Chú mất, nỗi bất hạnh của Dì dường như lớn hơn những người vợ khác gấp bội phần. Dì như ngây dại, gặp ai cũng đấm ngực than: “Chồng em chết đi, để lại cho em một nách mười đứa con! Hột xoàn, vàng bạc để trong nhà băng mất hết rồi” Ừ thì mười đứa ấy, đứa thì bán vé số, đứa làm thầy bói, đứa làm thợ hồ, có vài đứa làm công nhân may. Ừ, thì bao nhiêu người cũng như gia đình Chú Dì cũng mất sạch tiền trong nhà băng dù chủ nhà băng không hề giựt tiền của họ. Tôi chẳng biết Chú làm sao nhắm mắt được. Nhưng dẫu vậy, gia đình Chú vẫn còn hơn gia đình Ông bà Na.

Tôi viết ra những dòng này khi trên mạng ảo đang sôi sục kêu gọi hòa giải. Và đương nhiên lời kêu gọi phần lớn là từ “Bên Thắng cuộc”, thế nên lời kêu gọi này có chút gì đó có vẻ kẻ cả, ban ơn. Với tôi, tôi chẳng để tâm lắm tới lời kêu gọi này vì tôi chẳng có gì bất hòa với những người thuộc bên thắng cuộc dù xuất phát điểm vào đời, các bạn đó có nhiều lợi thế hơn tôi.
Tôi chỉ lấy làm phiền khi có một số lời kêu gọi có hàm ý nhắn nhủ “hãy quên đi, cái gì qua rồi thì cho nó qua”. Tôi đã mượn lời của ai đó để trả lời: “Forgive but not forget”. Không quên những bất công trong quá khứ đó chính là quyền mà không ai có thể tước được của tôi và những người đồng cảnh ngộ. Hãy bắt đầu hòa giải bằng cách nhìn nhận những sai lầm đã phạm trong quá khứ. Khi nhận thấy thành ý từ bạn, tự khắc phía đối diện sẽ bày tỏ thiện ý để đáp lại.

Xin gửi lại đây bài thơ của một cựu tù trại Trại Cải tạo Long giao để đánh dấu một vùng đất một số người và gia đìnhtôi đã đặt chân đến ngoài ý muốn của mình.

MƯA BUỒN LONG GIAO


Tác giả: Hà Thượng Nhân
kỷ niệm những ngày ở trại tù Long Giao 1975

Trời có điều chi buồn
Mà trời mưa mãi thế
Cây cỏ có chi buồn
Mà cỏ cây đẫm lệ
Mà cỏ cây lệ tuôn?Anh nhớ em từng phút
Anh thương con từng giây
Chim nào không có cánh
Cánh nào không thèm bay
Người nào không có lòng
Lòng nào không ngất ngâyGủi làm sao nỗi nhớ
Trao làm sao niềm thương
Nhớ thương như trời đất
Trời đất cũng vô thường
Ngày xưa chim hồng hộc
Vượt chín tầng mây cao
Ngày xưa khắp năm châu
Bước chân coi nhỏ hẹp
Bây giờ giữa Long Giao
Ngồi nghe mưa sùi sụt
Cuộc đời như chiêm bao
Có hay không nẻo cụt?
Anh châm điếu thuốc lào
Mình say, mình say sao?
.
Về Đầu Trang Go down
cdvinh
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeMon Mar 09, 2015 9:55 am

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Images?q=tbn:ANd9GcT2_w4meNDZodTtzLZYZf6rRPo1tiF7gINVFbUDPI4gkWOexJKffw


Thằng dân

Tiểu Tử

(phiếm luận)

Trong chuyện phiếm này, tôi gọi “thời chú Sam” để chỉ miền Nam trước tháng 4 năm 1975 và “thời bác Hồ” để chỉ miền Nam dài dài sau đó. Cho thấy miền Nam trước có chú, rồi sau có bác thay thế nhau chăm sóc tận tình. Thật là…đại phước!

Ở xứ nào không biết, chớ ở Việt Nam xưa nay người dân vẫn được coi như không có… kí lô nào hết, mặc dù họ đông như kiến!

Hồi thời Pháp thuộc (Phải lấy thời này để làm cái mốc cho thời chú Sam và thời bác Hồ. Bởi vì không có Pháp thuộc thì làm gì có bác Hồ, làm gì có chú Sam?), có “ông Tây bà Đầm” ăn trên ngồi trốc. Người dân sanh ra vốn… thấp cổ bé miệng, không ngóc đầu lên được. Văn chương hồi đó hay viết “dân ngu khu đen” nghe thật miệt thị nhưng lại diễn tả rất rõ nét vị-trí… sát đất của người dân (chỉ có ngồi lê dưới đất nên khu mới đen như vậy!) và xác nhận với chính sách ngu dân thời ấy, người dân ngu là cái chắc.

Câu “dân ngu khu đen” cũng từ từ biến thể cho hợp thời trang ngôn ngữ, và trở thành “dân đen” cộc lốc. Không… sáng sủa hơn bao nhiêu, nhưng bớt được tiếng “ngu” cũng đã là một… tiến bộ. Không phải nhờ vậy mà người dân khôn ra, lẽ dĩ nhiên. Nhưng hai tiếng “dân đen” nói lên rõ rệt sự khác biệt giữa dân bản xứ da vàng và nhà cầm quyền hồi đó, toàn là dân da trắng!

Người dân hồi đó được thực dân gọi một cách miệt thị: cu-li, nhà quê. Dù anh có ăn học, dù anh có nghề nghiệp, người da trắng vẫn coi anh là cu-li là nhà quê tuốt.

Nhớ lại một hôm, anh tôi và tôi đạp xe đi dạo bến tàu Sạc-ne (sau này gọi là bến Chương Dương và sau này nữa tên là… Tôn Đức Thắng!). Thấy hai tên lính lê-dương (légionnaire) Pháp, to như cái tủ đứng, ngồi chồng lên nhau trên một chiếc xích-lô đạp, làm chổng bánh sau lên. Anh phu xích-lô, ốm tong ốm teo, không biết làm sao để giải thích rằng ảnh không thể nào chở được hai người, vì ảnh nhẹ quá. Ảnh bèn cầu cứu chúng tôi. Có lẽ ảnh thấy chúng tôi có vẻ học sinh sinh viên chắc biết ít nhiều tiếng Pháp nên nhờ thông-ngôn. Anh tôi “ra tay nghĩa hiệp” can thiệp. Một tên lê-dương túm ngực anh tôi, sừng sộ bằng tiếng Pháp: “Đi chỗ khác! Đồ cu li khốn nạn!”. Dĩ nhiên chúng tôi không đợi nói thêm một tiếng, vội vã phóng lên xe, đạp đi. Một đỗi xa nhìn lại thấy một thằng lê-dương đạp xích-lô chở một thằng lê-dương, chạy vù vù, cười hắc hắc! Còn anh phu xích-lô thì hổn hển chạy bộ phía sau, chẳng nói chẳng rằng… Những hình ảnh đó bây giờ nhớ lại, đã sáu chục năm qua mà sao lòng vẫn còn nghe căm phẫn!

Sau hiệp định Genève, Pháp… phú-lơ-căng (Âm tiếng Pháp “Foutre le camp” = dông mất – rất thông dụng thời đó) Việt Nam bị chia làm đôi, lấy sông Bến Hải làm ranh giới. Người dân miền Bắc sống với cái-gọi-là tự do của miền Bắc. Người dân miền Nam cũng có cái tự do riêng của miền Nam. Cũng là “tự do” cả nhưng trong hình thức có rất nhiều dị-biệt. Bắc Nam bỗng trở thành hai xứ như là lạ hoắc! Tuy nhiên, dù đất nước bị chia hai, cái “khối” người dân không có gì thay đổi, nghĩa là vẫn còn nguyên là những con cờ…

Rồi miền Nam có ông vua Bảo Đại – chuyên sống ở Pháp – vì thương dân nên gởi ông Diệm về Việt Nam tham chánh. (Ông vua này thì người dân biết từ lâu. Ít ra cũng biết… tên!). Rồi có ông Diệm, vì thương dân nên… lật ông Bảo Đại rồi lên làm tổng thống. (Ông này thì người dân chỉ mới biết khi ổng trèo lên ghế tổng thống. Cứ nghe ra rả hằng ngày “Toàn dân nhớ ơn Ngô tổng thống ”, không biết rồi cũng phải biết!) Rồi có chú Sam, vì thương dân Việt Nam, ra tay giúp đỡ ông Diệm hết mình. Người dân bắt đầu biết đến chú Sam với lá cờ nhiều sao và hình vẽ hai bàn tay nắm lấy nhau được dán lên nhiều món hàng ngoại quốc nhập cảng. Nhìn cái nhãn, người ta hiểu đơn giản là bàn tay chú Sam nắm bàn tay người bạn mà chú giúp đỡ. Chẳng nghe ai thắc mắc: “Chú Sam muốn nói chú giúp mình hay chú muốn nói tao bắt mày phải đi theo tao?” Người dân miền Nam vốn… thiệt thà!

Bây giờ, người dân hết là dân đen. Không phải được… đổi màu như người dân miền Bắc, mà là được tẩy sạch trong từ ngữ miền Nam. Tuy nhiên tùy hoàn cảnh, tùy trường hợp, tùy tâm trạng mà người ta cũng có gọi người dân bằng “thằng dân”, nghe hơi nặng một chút. Nhưng riết rồi “người dân” hay “thằng dân” đều nghe cũng… xêm xêm (Âm tiếng Mỹ “Same same” = như nhau). Bởi vì, nặng nhẹ gì thì người dân cũng đã quen được coi như không có kí lô nào hết xưa nay!

Lâu lâu người dân cũng nghe các chánh trị gia gọi mình là “khối quảng đại quần chúng” nghe thật… rổn-rảng khó hiểu nhưng lại khoái lỗ tai, hoặc gọi là “toàn thể nhân dân” rất nho-nhã nhẹ nhàng, và lắm khi gọi “đồng bào thân mến” nghe thật là… âu yếm!

Thật tình, người dân vào thời này bắt đầu thấy rằng mình coi vậy mà cũng “có giá” . Hết còn nghe gọi người “dân” cộc lốc, mà lại được ghép vào với tiếng “công” oai vệ để trở thành “công dân”. Không có gì, nhưng mang thêm chữ “công” vẫn thấy quan trọng như “công chức”, “công sở”, “công khố “, “công an” … những thứ “công” làm toát ra sự “chẳng có thằng nào dám đụng tới”. Sướng chớ! Mà thật vậy, có ai dám gọi “thằng công dân” đâu? Thường thì gọi “người công dân” hay ít lắm cũng gọi “anh công dân“. ( Chưa nghe ai gọi “ông công dân”. Có lẽ tại vì gọi như vậy, người ta sẽ nghĩ là có “ẩn ý nhạo báng”!)

Từ ngày mang “chức” công dân, người dân được nhà nước chiếu cố… “đậm”. Ngày nào cũng kêu gọi “Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng…”. Rồi gần đến ngày bầu cử tổng thống, dân biểu v.v… luôn luôn được nhắc nhở “đi làm bổn phận công dân”.

Nhân nói đến vụ bầu cử, phải thấy lúc đó người dân được… trọng vọng đến mức nào. Các ứng cử viên hay các liên danh ứng cử, trong thời gian vận động bầu cử, đều hết lời “o bế” người dân. Hằng ngày, trên truyền thanh truyền hình, trên báo chí bích chương… họ cúi xuống nâng người dân lên như nâng trứng mỏng, nói ngon nói ngọt để người dân bầu cho họ. Còn khuyên “nên chọn mặt gởi vàng”, làm cho người dân thấy tự nhiên mình… giàu ngang xương! Cái lá phiếu trong tay người dân – bằng giấy – coi vậy… mà nặng kí!

Sau bầu cử, người dân được trả về cương vị bình thường của người dân, cộng thêm những người bị thất cử. Những người này, không cần hỏi ý kiến ai, cứ “đánh trống thổi kèn” tuyên bố rân lên rằng “Chúng tôi đứng về phe người dân để đối lập với chánh quyền!” Làm như hễ là dân thì phải đối lập với chánh quyền vậy! Cũng chẳng thấy có người dân nào đứng lên phản đối. Đã nói: người dân miền Nam vốn… thiệt thà!

Bỗng một hôm, “người ta” đảo chánh ông Diệm. Người dân ngơ ngác bởi vì, trái với những lần bầu bán, lần này người dân không được ai “hỏi thăm” hết, thậm chí chẳng nghe ai tuyên bố theo… truyền thống rằng “đảo chánh vì dân”! Thì ra, “người ta” toàn là tướng tá, binh chủng này binh chủng nọ. Họ không phải…dân!

“Họ” đảo rồi, lại đảo nữa. Cuối cùng cũng lật được ông Diệm. Lần này, người dân thấy có vẻ an toàn nên cũng xuống đường hoan hô. Thật ra, trong thời đệ nhứt cộng hoà, người dân đâu có bị chèn ép đè đầu cỡi cổ bốc lột tơi bời như thời Pháp thuộc. Người dân chỉ “ngứa con mắt” ở cái lối trịch thượng ăn trên ngồi trốc quá lố lăng của gia đình ông Diệm, cộng thêm hành động kỳ thị tôn giáo quá lộ liễu. Vì vậy, khi ông Diệm và gia đình bị lật xuống, người dân thấy như được… nhổ cái gai trong con mắt, cho nên họ cũng vỗ tay hoan hỉ!

Tiếp theo là mấy ông tướng, ông tá đảo chánh nhau, đảo qua đảo lại. Người dân vẫn bị cho ra rìa, nên đứng ở bên ngoài xem như xem tuồng hài hước trên sân khấu. Vở tuồng đang diễn bỗng bị chú Sam núp ở đâu đó giựt giây hạ màn! Người dân ngẩn ngơ, rồi cũng… xách đít “đi chỗ khác chơi” để “người ta” làm chánh trị.

Thật ra, vào thời điểm đó, miền Nam còn được cái may là có một người trong giới lãnh đạo “biết” nghĩ đến dân: đó là ông tướng tầu bay Nguyễn Cao Kỳ. Khi nắm chánh quyền, ông tuyên bố và cho kẻ khẩu hiệu đầy đường: “Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ là chính phủ của dân nghèo”. Thật là ngạc nhiên đến… ngỡ ngàng! Người dân nào đã lỡ giàu bỗng thấy mình thuộc vào loại… vô chánh phủ nên cứ phập phồng lo sợ, còn người dân nghèo thì lại bâng khuâng không dám hoan hô vì không biết mình có thuộc vào cái… “típ” nghèo mà ông tướng đã tuyên bố? Bởi vì có hạng nghèo xơ nghèo xác, có hạng nghèo rớt mồng tơi, có hạng nghèo mạc rệp, có hạng nghèo kiết v.v… Thành ra, lời tuyên bố rất “nổ” của ông tướng giống như cục đá nhỏ rơi xuống mặt nước hồ, nghe cái chũm rồi… hết! Tuy nhiên, lần đầu tiên người dân thấy mình được đứng chung với chánh quyền – dù chỉ là trên khẩu hiệu – cũng thấy có chút gì an ủi!

Rồi chú Sam ồ ạt đổ quân và đồ “PX” lên miền Nam mà chẳng thấy có “trưng cầu dân ý”.

Người xưa nói “ý dân là ý trời”. Người nay cầm quyền, đã không cần đến ý dân thì đâu có ông nào nói với chú Sam: “Thưa chú, ông bà tôi nói như vầy…như vầy…”. Cho dù có ai nói cho chú Sam thì cũng chỉ làm cho chú cười văng… sơ-quynh-gum, bởi vì chú đâu có tin. Chú đã từng bay lên trời, bay lên cung trăng, bay lên bay xuống như ăn hamburger hằng bữa… chú đã gặp ông trời đâu mà tin! Vã lại xưa nay chú Sam chỉ thấy ý của chú là “năm bờ oan” thì chú đâu cần hỏi ý kiến của ai khác. Vì vậy, chú cứ… nhắm mắt đưa quân vào miền Nam như đi… vào chỗ không người. Chẳng có một người dân nào đứng lên phản đối. “Họ” – người dân – nói:” Mấy ổng (ám chỉ nhà cầm quyền) đã ô-kê Salem với chú Sam rồi, mình có la nô-gút nô-gút (no good! no good!) chỉ có… chó nó nghe!”

Trong “thời chú Sam”, mặc dù đang đánh giặc với Bắc Việt, người dân vẫn đi lại thong thả, miễn là đừng… lội sông Bến Hải để ra ngoài Bắc. Năm khi mười hoạ mới bị hỏi căn cước. Trong trường hợp vào ra ở các “lãnh địa” của chú Sam thì lúc nào người dân cũng bị chú lính của chú Sam hỏi giấy bằng tiếng Việt bỏ sai dấu: “Cán cuốc! Cán cuốc!” (căn cước). Chẳng thấy người dân nào… cười!

Ngoài ra thì đời sống của người dân rất tự do thoải mái. Tự do buôn bán. Đồ PX (dân gọi là pi-éc – là các mặt hàng nhập vào Việt Nam bán riêng cho quân đội chú Sam, không có thuế nên giá rẻ – lính chú Sam mua ra bán lại cho dân) tràn ngập các chợ trời. Còn hàng hoá sản xuất trong xứ cũng bán đầy các chợ các phố. Tự do ngôn luận, in sách, ra báo. Thật tình, ở đây có… lạm phát: báo đủ loại – báo ngày, báo tuần, báo tháng… khoảng chừng trên 30 tờ! Người dân đọc… mờ con mắt luôn!

Cuộc sống tương đối dễ chịu, dễ…thở. Đùng một cái,Việt Cộng tổng tấn công ngay trong ngày tết Mậu Thân. Chúng tin tưởng rằng “toàn dân miền Nam sẽ nổi dậy lật đổ chánh quyền!”. Té ra, người dân, vì sợ, nên chỉ lo bồng bế nhau chạy! Lần đó, Việt Cộng thất bại nặng. Lần đó, người dân thật sự thấy tận mắt Việt Cộng là ai, để sau đó biến sợ hãi thành căm thù. Chỉ cần một ngòi nổ là nó bùng lên để “quạt” cho Việt Cộng một đòn “chí tử”. Vậy mà không thấy chú Sam… nhúc nhích một ngón tay! Chú không đánh trả, đã đành. Chú còn ngăn không cho quân đội quốc gia đánh trả. Chú đi một nước cờ mà không ai hiểu gì hết! Và lần đó người dân nhìn chú Sam bằng một con mắt khác. Họ nói: “Không biết cái thằng cha chú Sam này muốn cái gì? Thiệt là ngược đời! Kẻ thù thì mình biết rõ, còn thằng bạn đồng minh nhai sơ-huynh-gum này thì mình…mù tịt!”.

Từ chỗ nhận định nói trên, người dân bắt đầu nghi ngờ cái ý nghĩa của hai bàn tay nắm lấy nhau dưới lá cờ nhiều sao làm nền cho loại nhãn dán trên các đồ viện trợ. Ai cũng nghĩ rằng cái nhãn đó có…hai mặt. Giống như chú Sam, chú cứ phải nhai sơ-huynh-gum liền tù tì để không ai “bắt gân mặt” mà đoán chú đang nghĩ gì, bởi vì chú muốn giấu “cái mặt bên kia” của chú, không phải giấu với địch mà giấu với thằng bạn đồng minh! Thế mới đau!

Rồi vì không còn tin tưởng nữa, người dân lo… thủ. Ai cũng dự trữ đồ ăn! Có tiền thì trữ nhiều, không tiền thì chạy nợ để trữ chút chút. Cho nó “ăn chắc”, bởi vì thằng cha chú Sam này coi vậy mà không phải vậy!

Tình trạng nhập nhằng này kéo dài tới hiệp định gì gì đó ở Paris. Tiếp theo là lính chú Sam “gô hôm” từ từ, trước sự dửng dưng của người dân, bởi vì họ đã lật tẩy “cái mặt bên kia” của chú. Cái nhãn “hai bàn tay nắm lấy nhau” không bị mưa mà nó cũng tróc, giống như đồ thợ mã!

Rồi thì “cơm không lành canh không ngọt” giữa chú Sam và ông Thiệu (tổng thống đệ nhị cộng hoà – xin nhắc lại cho những ai không… muốn nhớ!) Đùng một cái, ông Thiệu ra lịnh bỏ Pleiku/Kontum rút hết quân về vùng Duyên Hải. Quân đội và dân chúng ngạc nhiên đến bàng hoàng, bởi vì đã bị Việt cộng tấn công đâu mà phải rút? Còn phía Việt cộng thì… giật mình vội vã “nâng cao cảnh giác”, nín thở bất động , bởi vì không biết “thằng ngụy ác ôn này định dở trò gì đây?”. Người ta đồn (Hồi này, tin đồn đi nhanh hơn hỏa tiễn và người dân miền Nam chỉ sống bằng… tin đồn!) rằng ông Thiệu giận lẫy thằng bạn đồng minh “xỏ lá” nên chơi một cú cho nó xanh mặt! Không biết chú Sam có xanh mặt hay không chớ thằng dân thì xanh mặt dài dài… Bởi vì không biết không hiểu gì hết. Cứ thấy quân đội tự nhiên rút chạy là cắm đầu chạy! Mà có hỏi quân đội thì – than ôi! – quân đội cũng bù trất! Vậy là kinh hoàng, là hỗn loạn! Vậy là cứ… nhắm mắt chạy. Càng chạy càng sợ! Càng sợ càng chạy! Người dân giống như những con cờ bị người chơi cờ hất trọn bàn cờ xuống đất, văng tung toé khắp nơi, rơi vào hốc vào kẹt, rơi vào lỗ cống đường mương… Ai biết? Ai thèm biết? Nghĩ mà thương cho người dân miền Nam “sanh chẳng gặp thời”…

Từ miền Trung dài vô Sàigòn, chỗ nào cũng thấy chạy. Dân chạy trước. Phía sau dân là quân đội. Phía sau quân đội, xa thật xa, là Việt cộng. Họ đã mất thời gian “điều nghiên tình hình” để nhận thấy hiện tượng “ngụy quân” rút đi là có thật. Thế là “ta” xua quân chạy theo “toé phở” nhưng vẫn láo phét rằng “quân ta đuổi chúng nó chạy… toé khói”!

Tình trạng hỗn loạn này được tiếp nối bằng sự ồ ạt di tản ra… biển Đông. Cũng là chạy nhưng chạy ra khỏi xứ!

“Thời chú Sam” được hạ màn vào cuối tháng tư năm 1975. Màn không được hạ từ từ theo đúng “điệu nghệ sân khấu” với giàn kèn đồng thổi bản “ò e rô be đánh đu”! Màn bị hạ… cái rẹt như bị đứt giây, bởi vì anh hạ màn… bỏ mẹ nó xuống cho rồi để còn vắt giò lên cổ chạy cho kịp nhảy lên chiếc trực thăng di tản cuối cùng!

Chú Sam “gô hom” để lại miền Nam vô số sơ-huynh-gum đã… nhai rồi và một lô con lai, có trắng có đen… gọi là kỷ niệm!

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Images?q=tbn:ANd9GcTRrVyqjZ6HSLs4dzEGJmq4yNEXRglpc4Mr5IYYjh3sjs3y1T0K

Đây nói về người dân vào “thời bác Hồ”…


“Thời bác Hồ” được… kéo màn khai diễn bằng một hình ảnh lẽ ra phải hào hùng, nhưng mấy anh Bắc Việt đã dàn cảnh vụng về cho nên đã trở thành ra lố bịch.

Số là…

Ngày 30 tháng tư năm 1975, cổng vào dinh Độc Lập đã được mở rộng để “đón tiếp các anh em Giải Phóng”, sau lời tuyên bố đầu hàng của ông Dương văn Minh. Thay vì cứ đường hoàng oai vệ tiến thẳng vào dinh – vì là người thắng trận – mấy ông Bắc Việt đã dàn cảnh bằng cách đóng cổng lại để cho một xe tăng mang cờ Giải Phóng ủi sập rồi ngất ngưỡng… bò vào bên trong như một thằng say. Báo chí, truyền hình chụp ảnh quay phim liền tù tì, cho thế giới thấy rằng “chính quân đội và nhân dân ta đã tiến công ủi sập chính quyền miền Nam”. Trong màn diễn xuất đó, họ quên mất người dân nên chỉ thấy có lèo tèo mấy anh Giải Phóng! Trong lúc đó, dân chúng – khá đông – đứng xa xa nhìn một cách bàng quan, không hiểu “tại sao không chạy thẳng cha nó vô cho rồi, chớ đóng cổng làm chi để rồi phải ủi sập mới vô được, thiệt... làm chuyện ruồi bu!”

Tiếp theo là lá cờ Giải Phóng Miền Nam lớn bằng tấm chiếu phe phẩy trên nóc dinh giống như người chạy việt dã vừa về tới đích. Và tiếp theo là hai câu đối thoại đáng “đi vào lịch sử”: Khi được ông Dương Văn Minh – vị tổng thống… phù du nhứt lịch sử – nói: “Mời các ông ngồi vào bàn để chúng tôi bàn giao”, một ông… nón cối Bắc Việt “phang” cho một câu “Bàn giao cái gì? Các anh thua trận, đầu hàng vô điều kiện mà còn cái gì để bàn giao?”. Không biết những người miền Nam có mặt lúc đó – tổng thống, tổng bộ trưởng v.v…– có nghe “đau như hoạn”?

Vậy là…giải phóng! Người dân cũng có vỗ tay. Hết chạy loạn là… vui rồi. Hết giặc, con cái hết đi lính… là vui rồi. Một phóng viên miền Bắc phỏng vấn một bà già miền Nam: “Thế… bà má có vui không nào?”. Trả lời: “Ờ… vui chớ! Nhờ có mấy ông giải phóng về kịp nên mới yên! Chớ không, tụi Việt Cộng nó pháo kích riết chắc chết quá!”. Ở một nơi khác, phỏng vấn một anh xích lô, anh ta trả lời: “Vui chớ sao không vui! Đạp xích lô lúc nào cũng bị tụi nó nghi là Việt Cộng”. Rồi anh chỉ vào mặt mình: “Anh coi! Mặt tui vầy mà là Việt cộng à?”

Mà vui thật! Ở Sàigòn đông lắm. Thiên hạ đi đầy đường. Xe hơi, xe gắn máy, xe đạp… nối đuôi nhau nhích nhích. Vậy mà chẳng thấy ai gây gổ với ai, cũng chẳng nghe ai nóng nảy tin tin một tiếng kèn! Đó là lần đầu tiên người dân tự động “xuống đường”, không phải để đấu tranh mà là để đi coi… bộ đội! Cũng giống như đi coi chợ phiên sở thú. Vui lắm!

Gánh hát mới khai diễn chưa kịp đánh trống thổi kèn quảng cáo mời mọc mà đã được khán giả bốn phương kéo tới xem thật đông như vậy thì thật là… “thành công, thành công, đại thành công!” Người dân cũng thấy khoái bởi vì toàn là đào kép mới – cái gì lạ cũng hấp dẫn – và bởi vì được đi coi…thả giàn.

Sau mấy lớp hài hước mở màn như chuyện mấy anh bộ đội nói dóc nói phét “Hà Nội cái gì cũng có”, chuyện “nhà ỉa nhà đái… trong xô” v.v… sân khấu bỗng chuyển sang bi hài kịch mà trong đó người dân được kịch tác gia cách mạng đẩy lên đóng vai chánh! Người dân ngạc nhiên dở khóc dở cười… Vai chánh đó có cái tên nghe lạ hoắc: “nhân dân làm chủ”!

Từ một tay ngang bước lên sân khấu, dĩ nhiên là cần được các đạo diễn chăm sóc dạy dỗ tận tình để người dân được… lột xác biến thành kịch sĩ.

Đầu tiên, người dân được mang một cái tên khác cho đúng với điệu nghệ kịch trường: tên “Nhân Dân” (Xưa nay, trong giới cải lương kịch nghệ có… truyền thống là khi đã “đi hát” thì người ta thường lấy một cái tên khác đẹp hơn kêu hơn là cái tên cúng cơm. Vậy mới là nghệ sĩ!) Rồi “cái” nhân dân đó được dạy hô khẩu hiệu – đó là những bài bản… gốc của cách mạng mà ai ai cũng phải biết hát, cũng như trong giới cải lương kép độc hay hề gì cũng phải rành “sáu câu”… Đại khái, chỉ có mấy khẩu hiệu như “vĩ đại, vĩ đại, vĩ đại”, như “muôn năm, muôn năm, muôn năm”, như “sống mãi, sống mãi, sống mãi”. Vậy mà không phải dễ! Phải hô cùng một lúc và hô cho đúng nhịp. Hô lỏn chỏn là “có vấn đề đấy nhá!”. Tiếp theo là tập vỗ tay. “À… vỗ tay cũng phải tập chứ! Có phải như thời Mỹ Ngụy đâu mà các anh các chị muốn vỗ thế nào là vỗ. Muốn làm chủ, nhân dân phải tập cả vỗ tay nữa cơ!” Thế là học vỗ tay: mọi người trong hội trường cùng vỗ một lúc, không cần khoái tỷ hay thích thú gì ráo, chỉ cần thấy anh cán bộ đang nói bỗng ngừng lại vỗ tay là ta vỗ tay thôi!

Tiếp theo là đi học tập ba hôm về đường lối chủ trương của cách mạng. Thượng vàng hạ cám gì cũng phải học tập ráo. Cùng ngồi chung với nhau – thường thì ngồi dưới đất vì không có đủ băng đủ ghế, và vì không đủ chỗ nên ngồi cả ra hàng ba, ra sân – cùng nghe chung những gì mấy cán bộ nói. Và vì mấy cha cán bộ nói dài quá, lại thay nhau nói cùng một đề tài bằng những lời lẽ y chang như nhau nên người “nhân dân”, kẻ trước người sau, cùng chung nhau… ngáp! Suy cho cùng, ngáp cũng là một cách… phát biểu. Nó nói lên sự mệt mỏi chán chường. Về sau, khi đã… “quen nước quen cái” với những buổi hội họp học tập, với cái gọi là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý”… cách “phát biểu” độc đáo đó đã được người dân “khai triển” rất thoải mái, không phải giơ tay xin phép ai hết và cũng không sợ bị quy tội “bôi bác không khí nghiêm túc của hội trường”. Để thấy “Trong chế độ ta, nhân dân vẫn làm chủ… cái ngáp của mình đấy chứ!”.

Tiếp theo (trong “thời bác Hồ”, lúc nào cũng có một sự “tiếp theo” nghĩa là chẳng bao giờ thấy một sự ngưng nghỉ, cứ “học tập tiếp theo học tập”, cứ “đấu tranh tiếp theo đấu tranh”, cứ “khai báo tiếp theo khai báo”…) nhân dân học tập khai lý lịch, học tập báo công báo tội, học tập làm sổ hộ khẩu sổ gạo… Hết học tập ở tổ dân phố thì kéo nhau ra học tập ở phường – cũng như vậy thôi nhưng đông hơn nên… vui hơn – rồi học tập ở quận… Rồi đi mết-tinh, đi đón tiếp phái đoàn này, đi chào mừng phái đoàn nọ, đi làm lễ đón nhận lẵng hoa của bác Tôn (ông già này thay thế bác Hồ, nhân dân đoán như vậy). Ôi thôi! Rộn rịp, vui lắm!

Khác hẳn với “thời chú Sam”, người nhân dân bây giờ đi đến đâu cũng thấy cái sự làm chủ của mình nó… lòi ra cả đống. Bằng cớ là cái gì cũng thuộc về nhân dân ráo, cái gì cũng thấy dán nhãn “nhân dân” mà chẳng cần phải “cầu chứng tại toà”. Sướng như vậy! Này nhá: Ủy Ban Nhân Dân này, Toà Án Nhân Dân này, Quân Đội Nhân Dân này, Công An Nhân Dân này… đến tờ báo to nhất nước – của Đảng – cũng phải mang tên “Nhân Dân” đấy! Làm chủ, sướng nhá!

Thế nhưng, có hai cơ quan mà nhân dân không được làm chủ: đó là tổng cục kế hoạch và ngân hàng. Chỉ có hai cơ quan này là đặc biệt mang nhãn “Nhà Nước” nên được gọi là “Tổng cục kế hoạch Nhà Nước” và “Ngân Hàng Nhà Nước”. Nhà Nước nắm cái tổng cục để độc quyền lên kế hoạch… hốt bạc đổ vào ngân hàng của Nhà Nước, vậy là an toàn nhứt rồi! Người ta nói: “Đồng tiền là huyết mạch, Nhà Nước nắm cái huyết mạch đó là nhân dân… nhăn răng!” Nói như vậy là có ý bôi bác chế độ. “Hãy nhớ rằng, trong chế độ ta có sự phân công rõ rệt: Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý, Nhân Dân làm chủ. Muốn quản lý, Nhà Nước phải nắm cái… hầu bao chứ. Không có cái đó thì quản lý cái đếch gì được. Rõ như thế đấy!”. Lý luận chắc nịch như đinh đóng cột, nhân dân chỉ còn nước đi chỗ khác chơi.

Dù sao đi nữa, được lên đóng vai chủ trong vở trường kịch của “thời bác Hồ” vẫn thấy khoái hơn ở “thời chú Sam”. Thời đó, người dân chỉ là người dân quèn với bộ mặt thật của nó, chưa từng biết thế nào là “vẽ lọ bôi hề”. Còn bây giờ, trên sân khấu cách mạng, người dân được tô son trét phấn để có bộ mặt khác – một bộ mặt không giống ai – vui chớ!

Qua “thời bác Hồ”, cái gì cũng thay đổi hết. Đặc biệt là người dân. Ngoài chuyện “nhân dân làm chủ”, người dân bây giờ nhìn lại mình cũng thấy không còn là mình nữa! Cả cái thân hình trước đây, chỉ còn lại có… cái miệng. Mỗi một người dân được xem như là một “nhân khẩu” – một cái “miệng người” – Tờ khai gia đình thời trước bây giờ được thay bằng “sổ hộ khẩu” trong đó kê khai có bao nhiêu…cái cửa miệng! Nghĩ cho cùng, Nhà Nước cách mạng có lý, bởi vì trong công tác “quản lý”, chuyện đầu tiên phải lo là “nuôi ăn”. Vậy, phải biết rõ “ta” có bao nhiêu cái miệng. Thế… Ngoài ra, nếu thấy cái miệng nào đã có ăn mà còn đòi cả quyền “nói” thì “ta” chận ngay không cho nó ăn. Có nói, đến chừng đói rã ruột ra thì cũng phải câm lại thôi. Đỉnh cao trí tuệ là ở chỗ này đấy!

Sau khi đã học tập tốt, nghĩa là người nhân dân đã rành bài bản để đóng vai “nhân dân làm chủ”, người nhân dân phải biết “đi thưa về trình”. Nói cho văn vẻ chớ thật ra là đi đâu phải xin giấy di chuyển của chánh quyền nơi cư ngụ và về phải trình lại giấy di chuyển có đóng dấu nơi mình đã đến. Nhân dân làm chủ khi dọn nhà qua ở chỗ khác phải làm thủ tục giấy tờ dời địa chỉ – gọi là chuyển hộ – có sự chấp thuận của chánh quyền hai nơi – nơi ở củ và nơi ở mới – Nhân dân làm chủ phải đi lao động xã hội chủ nghĩa (Thời trước gọi là “đi làm…chùa”). Nhân dân làm chủ “phải” triệt để thực thi quyền làm chủ của mình nghĩa là “phải” làm thế này, “phải” làm thế nọ… toàn là những thứ “phải” mà ở “thời chú Sam” tìm đỏ con mắt không có, ví dụ như phải đổi tiền, phải bị đánh tư sản, phải đi kinh tế mới, phải đi tập trung cải tạo… Chánh quyền mới gọi là “một cuộc đổi đời”. Họ nói đúng! Có điều là cuộc đổi đời đó xoay đến 180 độ, làm cho người dân thấy… ngất ngư!

Sau khi miền Nam được giải phóng, mấy cha Giải Phóng Miền Nam còn đang “cờ phất trống khua” trên sân khấu cách mạng bỗng bị… cúp điện hạ màn, đuổi vào hậu trường lảnh “lương cà phê” (Tiếng nhà nghề nói gánh hát không trình diễn, nghệ sĩ chỉ lảnh chút tiền để uống cà phê thôi) Họ bị giải tán một cách êm ru và dễ ợt như người ta liệng một miếng giẻ rách vào đống rác, trước sự ngạc nhiên của người nhân dân làm chủ. Bởi vì chuyện “đại sự quốc gia” như vậy mà chẳng thấy “lũ đầy tớ” nó hỏi qua ý kiến một lần! Rồi đến vụ thống nhất đất nước, những “công bộc của nhân dân“ cũng cứ quyết định một mình ên!

Thật ra, lấy công tâm mà nói, nếu có được hỏi thì cái “nhân dân làm chủ” cũng chỉ gật đầu nhất trí. Cứ xem nhân dân miền Bắc, tính đến năm 1975, họ “làm chủ” đã hai mươi năm, có thấy họ không nhất trí bao giờ? Người dân chắc nghĩ rằng mình làm chủ nhưng còn thằng khác nó làm chủ cái bao tử và sinh mạng của mình nữa, vậy, cứ luôn mồm nhất trí là…chắc ăn nhứt! (Một nhà văn lớn thời tiền chiến vào Nam thăm bạn bè sau 1975 đã nói nhỏ: “Tôi còn sống đây là nhờ tôi biết sợ“. Một câu để đời!) Cái ưu việt của chế độ là ở chỗ này đấy!

Tiếp theo là người dân học tập – lại học tập! – đi bầu. Hồi thời trước, người dân cầm lá phiếu thấy mình… oai ghê lắm. Họ tự do chọn lựa ứng cử viên, họ nhìn ảnh của từng người và còn phê bình “líp ba ga”: ông này dễ thương, giống kép Hùng Cường , ông này…cha! coi bậm trợn quá, à! còn bà này giống Túy Hoa ghê, coi đặng à v.v… Bây giờ thì khác: Đảng chọn, dân bầu. Sợ nhân dân mất thời giờ và mất công nên Đảng chọn dùm cho dân. Nhân dân chỉ còn có… nhắm mắt bầu. Sướng gần chết còn muốn gì nữa? Có điều là bầu bán bây giờ không còn rầm rộ trống kèn như thời trước nên chẳng thấy có gì hấp dẫn hết.

Sau giải phóng, người dân miền Bắc đua nhau vào Nam để “cứu trợ đồng bào ruột thịt miền Nam sống trong sự kềm kẹp của bè lũ ác ôn Mỹ Ngụy, đói khổ thiếu thốn vô cùng“. Còn người dân miền Nam, ít lâu sau, cũng lục tục kéo nhau ra miền Bắc, không phải để “tham quan” mà để… thăm nuôi thân nhân bị đưa đi tập trung cải tạo ngoài đó. Kẻ vô người ra như vậy thật là một sự… giao lưu đáng đồng tiền bát gạo, bởi vì nó “mở mắt” người dân của cả hai miền. Để thấy rằng dù “ở” với bác Hồ hay “ở” với chú Sam, người dân vẫn là những con cờ, không hơn không kém!

Bây giờ, gần bốn chục năm sau giải phóng, cuộc sống miền Nam cũng đã ổn định, nghĩa là người dân vẫn… sống nhăn, không phải nhờ khẩu hiệu “dân giàu nước mạnh…” mà nhờ biết xoay sở để sinh tồn. Cũng có hàng hoá đầy chợ. Cũng có quán xá đầy đường. Cũng có vài tờ báo của đảng / đoàn / cơ quan để đọc – vài tờ cũng đủ… chán, đâu cần phải ba mươi tờ như “thời chú Sam” – Cũng có tiểu thuyết lai rai của Hội Nhà Văn – cái hội mà chế độ đẻ ra để “gò” các nhà văn đi cho ngay cho đúng “đường lối chủ trương” – Cũng có nhạc vàng lả lướt đã thông qua sự kiểm tra của Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn, một loại “cục” lúc nào cũng thấy… nằm chình ình trên các DVD và băng nhạc dưới dạng con tem, trên đó có ghi rõ tên chương trình, hãng sản xuất, số giấy phép, mã số và hàng chữ đỏ “Nghiêm cấm in sao dưới mọi hình thức“.

Đảng vẫn lãnh đạo, Nhà Nước vẫn quản lý và Nhân Dân vẫn… làm chủ, lẽ dĩ nhiên!

Tính ra, “thời chú Sam” chỉ dài có hai mươi năm. Cái “số” như vậy thầy bói gọi là… yểu tử! Trong lúc “thời bác Hồ” vẫn còn tiếp diễn dài dài, gần bốn mươi năm mà chưa thấy hạ màn! Đó là cái “lô-gích” của thời đại bởi vì bác Hồ lúc nào mà chẳng “sống mãi! sống mãi! sống mãi!”?

Chỉ tội cho người dân, với bộ mặt “không giống ai” vì bị tô son trét phấn, có nhăn nhó vì đau quặn ruột người ta cũng vẫn thấy như đang…cười! Và người ta kết luận: “Tốt đấy chứ!”. Ở đây, phải hiểu “người ta” là Đảng và Nhà Nước.

Tiểu Tử
Về Đầu Trang Go down
HMMai
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeTue Mar 24, 2015 10:02 am

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Images?q=tbn:ANd9GcTso5Nw3YMFuZHG9z47IDzEYnW3nsgLqVjVlxHOTVwiRac7Pv12

30 Tháng Tư, niềm đau khôn nguôi

                                                    
Vũ Ngọc Bích
(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 tháng Tư và Đời Tị Nạn)

Sáng thứ sáu 25 tháng 4 năm 1975, khoảng 10 giờ, tôi đang  ngồi làm việc thì chị giúp việc thân tín và con gái  tôi lúc đó 11 tuổi, bước vào văn phòng tôi. Chị tới sát chỗ tôi ngồi, ghé tai tôi nói nhỏ:
- Thầy về nhà gấp, cô có chuyện muốn nói với thầy.

Tôi chỉ gật đầu và không muốn cho chị giúp việc nói thêm  nữa, vì tôi đã biết vợ tôi muốn nói gì rồi.  Trước đây, vợ tôi có làm việc ở phòng Điện toán của Hoa Kỳ tại phi trường Tân Sơn Nhứt.  Để tránh việc Việt cộng sẽ trả thù những người đã cộng tác với Mỹ, chính phủ Hoa Kỳ đã cho lập danh sách ưu tiên cho nhân viên làm sở Mỹ di tản bằng cầu không vận.

Hàng ngày, những tin tức chiến sự không mấy khả quan từ miền chiến tuyến gửi về làm nản lòng  người lính ở hậu phương. Tại đơn vị tôi, lúc đó Đại tá Nguyễn Hữu Đ. tới nhậm chức Cục Trưởng Cục Mãi Dịch Quân Đội đúng vào lúc xế chiều của miền Nam. Tôi cũng nhận được nghị định thăng cấp thiếu tá,  sau 5 năm mang cấp bậc đại úy vào giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến.

Tới văn phòng, từ sĩ quan cho tới anh em binh sĩ, ai cũng cầm tờ báo coi những tin tức nóng bỏng nơi trang nhất, bàn tán xì xào. Trong lòng  mọi người, hầu như ai ai cũng bị dao động, không nhiều thì ít.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 2Q==
Dòng người di tản trước khi Sài Gòn thất thủ. (Hình: Getty Images)

Tôi vẫn làm công tác đi thanh tra và thâu nhận hàng  tại các nhà kho của quân đội.  Tôi đã thấy có một vài nhà thầu  và giám đốc các công ty lớn lặng lẽ ôm tiền trốn ra ngoại quốc.  Họ bỏ đi, và không thi hành khế ước.  Mặc dầu đơn vị tôi đã gửi văn thư cảnh cáo sẽ áp dụng biện pháp chế tài, họ vẫn bất chấp và cứ tiếp tục bỏ nước ra đi.

Việc ra đi hay ở lại cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi sôi nổi giữa vợ chồng tôi trong suốt mấy tuần qua.  Vợ tôi đã ghi tên gia đình vào danh sách di tản, và chúng tôi đã nhận được “manifest” xác nhận chờ ngày đi.

Là một quân nhân, tôi cảm thấy hổ thẹn khi chưa chiến đấu gì mà đã bỏ đồng đội, bỏ bạn bè, lén lút ra đi. 

Tôi đã gay gắt nói với vợ tôi :
Mình cứ dẫn con đi trước.  Tôi ở lại, một thân  một mình, lúc nào đi chẳng được!

Vợ tôi vừa năn nỉ, vừa giận dỗi, dùng  đủ mọi cách để thuyết phục tôi cùng với nàng và bốn đứa con đi một lượt :
-  Anh nói dở hơi lắm !  Bao nhiêu người chạy chọt đủ mọi cách, để xin cho được một chỗ trong “manifest”.  Họ sẵn sàng bỏ ra cả ngàn đô la để đổi lấy một chỗ di tản bằng máy bay !  Anh không biết anh may mắn hơn hàng  trăm ngàn người sao ?

Tôi tần ngần :
-  Nhưng em không thấy vợ chồng mình vất vả dành dụm mười mấy năm nay, mới mua được căn nhà nhỏ nầy.  Sang đến Mỹ, anh không có nghề nghiệp gì chuyên môn, rồi mình lấy gì mà sống. Vợ tôi đau khổ ngắt lời tôi :
-  Một cái nhà này, chứ cả chục cái nhà nữa cũng bỏ hết!  Sang đến đó, còn cả ngàn người như mình nữa chứ.  Cớ chi phải lo không có việc làm? Không làm việc này, thì làm việc nọ !

Tôi cố vớt vát :
-  Em  không thấy hôm rồi, tổng thống Thiệu vừa lên TV nói gì sao ?  Chính ông ấy cũng ở lại, sát cánh với quân đội, cùng chiến đấu bảo vệ miền Nam mà !

Vợ tôi cười nhạt :

-  Anh nói vậy, là anh không biết gì hết rồi.  Con bạn đồng nghiệp của em lấy một sĩ quan Mỹ ở cơ quan DAO.  Nó vừa ghé nhà mình  thăm em. Nó nói chồng nó bảo sau bài diễn văn ấy, tổng thống Thiệu và gia đình được Mỹ đưa đi Đài Loan rồi !

Tôi cứ bán tín bán nghi. Tân thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn vừa ra nghị đinh dọa trừng phạt bất cứ công chức quân nhân nào rời nhiệm sở.  Đồng thời. Thủ tướng Cẩn ra lệnh đặt các nút chặn gồm quân cảnh lẫn cảnh sát được dàn ra trên cửa ngõ vào phi trường Tân Sơn Nhất,
biên giới và dọc bờ  duyên hải.

Suốt mười mấy năm chung sống, chưa lần nào chúng tôi bất đồng ý kiến trầm trọng như lần nầy.  Vợ tôi bực mình phát khóc.  Nàng tha thiết nói với tôi qua hàng  nước mắt :

-  Anh ở lại, lỡ tụi nó vào, tụi nó sẽ không tha anh đâu.  Anh vừa có tội di cư năm 54, vừa là sĩ quan đã từng chống lại chúng!  Anh đi với em và các con nhé.  Một mình em ra đi, với một bầy con như thế, làm sao em xoay sở cho được! Cứ như thế, mấy đêm rồi, tôi không ngủ được tròn giấc bao giờ, vì những lời nói, tiếng khóc của vợ tôi cứ lẩn quẩn trong đầu óc tôi.

Trong khi đó, mấy nhân viên trong phòng tôi xúm lại chỗ con gái tôi.  Họ đang thì thầm hỏi chuyện con bé.  Thấy tôi đưa mắt nhìn, họ lảng đi chỗ khác.  Tôi bảo chị giúp việc và con gái tôi đón xe xích lô máy về trước, và nói với vợ tôi cứ chờ ở nhà.

Tôi lặng người đi phía sau bàn giấy.  Trong lòng đầy bâng khuâng, bối rối, tôi nhìn những nhân viên đã từng cộng tác với tôi trong vòng tám năm qua tại đơn vị nầy.

Phóng tầm mắt xa hơn, tôi nhìn về phía cây tùng bách tán.  Không hiểu sao, tôi thấy cây tùng bỗng trở nên thân  thiết như một người bạn!

Tôi lẩm bẩm một cách vô thức ;
-  Tùng Bách Tán ơi! Ta sắp xa mi rồi !

Một nhân viên dân chính, bác T., được biệt phái tới làm việc ở phòng tôi từ ngày thành lập đơn vị.  Bác với tôi thân  thiết như người nhà.  Bác T. thường tâm sự với tôi những chuyện riêng tư, và tôi cũng, đôi khi, chia sẻ với bác những ưu tư thời cuộc.

Đến sát bàn tôi, bác T. ngồi xuống, nhìn tôi.  Chưa bao giờ tôi thấy khuôn mặt bác buồn rầu như vậy.

Bác T. chớp chớp mắt :
-  Chắc bà xã của Thiếu tá cho người làm đến kêu Thiếu tá về đi Mỹ, có phải không ?

Hôm nay, ngay cả với bác T., người bạn già thân  thiết nhất của tôi trong sở, tôi cũng không dám nói thật.  Tôi trả lời vắn tắt, trong bụng tôi biết là bác cũng biết tôi nói dối :

-  Tôi có chút việc nhà phải về gấp, xong việc có thể tôi trở lại sớm.
Rất may, trong giờ đó đa số nhân viên trong phòng tôi đã rủ nhau xuống Câu Lạc Bộ để giải khát. Chỉ còn tôi và người công chức già ngồi tâm sự.  Một niềm xúc động mãnh liệt dâng tràn trong lòng  tôi.
Trước khi ra về, tôi lấy chiếc chìa khóa ngăn kéo nơi bàn giấy, trong có để các hồ sơ và một số vật dụng cá nhân, đưa cho bác T.

Tôi nói :
-  Bác cứ tự nhiên, dùng  được cái gì thì dùng .

Tôi cũng móc ví, lấy hết các giấy bạc loại lớn trong đó, dúi vào tay người công chức già một nắm tiền.

Tôi vỗ nhẹ vai bác :
-  Bác giữ lấy để tiêu đi .
Người nhân viên của tôi ngạc nhiên, đưa cả số tiền trả lại :
-  Thiếu tá đừng làm vậy !

Tôi  nói, thật khẽ :
-  Xin bác cứ yên tâm. Lúc nầy, tôi không cần tiền nữa. Nghe lời nói quả quyết của tôi, bác cám ơn rối rít, nhét tiền vào túi quần phía sau và tiễn tôi ra tận xe.  Tới lúc đó, tôi mới cho bác biết là rất có thể tôi sẽ rời Sài Gòn vào chiều nay, nếu có chuyến bay đi Mỹ. Vừa nghe tới đó, bác cảm động ôm mặt khóc. Tôi nắm lấy hai vai bác T., an ủi bác; rồi mở máy, chiếc xe từ từ lăn bánh ra khỏi cổng.  Người lính gác đưa tay chào tôi, và tôi giơ tay chào lại.  Tôi quay nhìn lại cổng doanh trại một lần chót.  Tôi thầm nghĩ, chắc hẳn  bữa nay là ngày tôi giã từ đời binh nghiệp!  Trước mắt tôi, bầu trời như sụp tối, thời gian như ngừng trôi.

Chiến tranh “Ý Thức Hệ” đã gây tang tóc và đổ vỡ cho biết bao gia đình.  Một sự mất mát quá lớn lao.  Cuộc đời tôi, từ nay, đã rẽ vào một khúc quanh mới, không biết sẽ dẫn đến đâu, mà tôi phải chấp nhận, một chấp nhận quá phũ phàng !

Tôi đã biết rõ chính sách tàn bạo, thâm độc của người Cộng Sản khi họ chiếm làng tôi.  Họ đấu tố, đầy ải hàng chục gia đình trung nông đã từng đóng góp tiền của, xương máu trong cuộc kháng chiến chống Pháp.  Suốt hơn hai mươi năm thống trị miền Bắc, họ đã bần cùng hóa nhân dân, áp đặt lối cai trị hà khắc làm cho hàng  triệu người khốn khổ !

Tôi sẽ phải bỏ nước ra đi, tìm TỰ DO bằng bất cứ giá nào, vì tôi biết tôi không thể nào sống nổi dưới chế độ Cộng Sản được, dù chỉ là một ngày, một giờ.

Vừa về đến nhà, tôi thấy vợ tôi đang chuẩn bị một số áo quần, và vài thứ vật dụng, thuốc men lặt vặt.  Ngoài ra, những thứ gì nặng và cồng kềnh, tôi bảo nhà tôi bỏ lại hết.  Đến chiều tối, tôi chất hai cái valise và vài túi xách nhỏ lên chiếc xe Austin Minivan.  Vợ chồng tôi và các cháu sang chào cha mẹ tôi ở sát bên nhà tôi.  Cha mẹ tôi rưng rưng nước mắt, nắm tay tôi cầu nguyện Chúa che chở chúng tôi đi được bình an.  Tôi yên tâm ra đi, vì biết anh chị cả tôi có ba người con lập nghiệp tại Hoa Kỳ.  Các cháu, và người em ruột của chị dâu tôi đã vui lòng  bảo lãnh cho anh chị và cả ông bà nội nữa.

Vợ tôi ngồi bên cạnh, và bốn đứa con tôi ngồi băng dưới.  Tôi lái xe ra đi đến chỗ hẹn.

Tối hôm đó, gia đình tôi, gồm vợ chồng tôi và bốn đứa con, nghỉ tạm tại nhà ông anh vợ.   Chúng tôi thấp thỏm chờ đợi xe bus tới đón ra phi trường.

Các con tôi mệt, nên ngủ say sau khi tới.  Chúng tôi chờ đợi suốt cả đêm, mà chẳng thấy xe bus nào tới đón.  Đối với tôi, đêm hôm ấy dài vô cùng.  Chúng tôi đứng bật dậy, rộn ràng , hồi hộp khi nghe thấy tiếng còi xe hơi ngoài  ngõ, và thở dài não nuột khi bước ra cổng, thấy đó chỉ là một chiếc taxi nào đó.

Cứ xôn xao hy vọng, rồi lại ngỡ ngàng chán nản suốt từ chập tối hôm trước đến sáng  sớm hôm sau.  Thế mới biết cổ nhân nói câu “ Có thức đêm mới biết đêm dài “ cũng không phải là sáo ngữ!  Sáng hôm sau, vẫn chưa có xe tới đón.  Ông anh vợ tôi là Đại úy Nguyễn Văn An tòng  sự tại Bộ Quốc Phòng bảo chúng tôi cứ về nhà, chờ ở đó, và ông sẽ đích thân dùng  xe Jeep đưa chúng tôi tới thẳng  cơ quan DAO, tức là văn phòng Tùy Viên Quân Lực Hoa Kỳ.  Vừa về đến nhà, tôi dẹp quần áo và vật dụng linh tinh ở phòng khách sang một bên, rồi dựa vào chiếc ghế bành, ngủ ngon lành cho đến lúc nghe tiếng nói oang oang của bầy con nít con hàng  xóm làm tôi chợt thức giấc :

-  Nhà nầy họ đi Mỹ, bà con ơi !
-  Lại đây tụi bay, coi mấy người sắp đi Mỹ !

Tiếng ồn ào của bon trẻ con tinh nghịch làm tôi hơi bực mình.  Một đứa khác nói chen vào, đầy vẻ khoái trá trước sự đi hụt của chúng tôi :

-  Nhà nầy không đi Mỹ đâu, tụi bay ơi !  Họ đi Mỹ Tho đó.

Và cả bọn cùng cất tiếng cười ranh mãnh .  Nếu là những ngày thường, có lẽ tôi cũng ra phía trước, yêu cầu bọn chúng đi ra chỗ khác chơi.  Nhưng lần này, với mặc cảm của một người toan tính trốn chạy, tôi chỉ dịu giọng nói với mấy đứa trẻ trạc tuổi con mình :

-  Các em đi chơi chỗ khác, cho chú nghỉ ngơi một chút nhé !

Nói đoạn, tôi đưa chúng một túi kẹo chanh :
-  Các cháu chia nhau ăn đi !

Tụi trẻ đi rồi, tôi đảo mắt nhìn các vật dụng trong nhà, từ bộ bàn ghế tiếp khách mầu gụ chúng tôi mới sắm, chiếc đàn piano hiệu YAMAHA chúng tôi mới mua cho đứa con gái lớn cách đó sáu tháng, khi cháu bắt đầu học tại tư gia của nhạc sĩ  Nghiêm Phú Phi ở khu Tân Định.  Căn nhà vợ chồng tôi dành dụm bao nhiêu năm mới mua được này, tôi vừa thuê thợ sửa sang cho rộng.  Chiếc xe Austin sáu chỗ, tháng trước, tôi đưa làm máy và sơn một lớp sơn mới, chạy thật tốt.

Tôi nghĩ tới sự khó nhọc của hai vợ chồng tôi trong  mười hai năm trường mới tạo dựng được chút sản nghiệp khiêm tốn như ngày hôm nay.  Bỗng dưng một sớm một chiều, chúng tôi sắp mất hết.

Nghĩ tới đó, tôi bỗng đổi ý, và nói với vợ tôi :
-  Em nầy, mới hôm qua, ở tạm nhà anh của em một đêm, không phải nhà mình, mà  anh thấm thía câu nói “ Sẩy nhà ra thất nghiệp “ rồi !  Thôi, anh không muốn đi đâu hết.  Nhà mình, mình ở.  Ra đi, với tương lai vô định, không nhà không cửa.  Anh không muốn đi một chút nào nữa !

Vợ tôi ngạc nhiên :
-  Anh ơi, anh nghĩ quẩn rồi !  Chiều hôm qua, anh nói với em là anh nhất quyết ra đi vì không sống nổi với Việt Cộng.  Bây giờ, chỉ vì xe bus chưa tới đón, anh đã nản lòng , không chịu đi nữa !

Tôi nói :
-  Nhưng mà còn nhà cửa, bao nhiêu thứ mà anh và em vất vả xây dựng bấy lâu nay ?

Vợ tôi gào lên :
-  Những thứ đó, bỏ lại hết !  Mai mốt mình sẽ xây dựng lại. Còn người, còn của, mà anh?

Tôi cù nhầy  :
-  Anh Nghiêm, anh Chỉnh, anh An, chú Cảnh, chú Hiền, cũng đều là quân nhân, có ai đi đâu ?  Anh ở lại với các anh em của anh.  Em có đi, thì dẫn các con đi đi !

Đến lúc nầy, vợ tôi đã mất hết bình tĩnh.  Nàng khóc nấc lên, vừa khóc vừa kể lể :
-  Anh đã có thời sống gần tụi nó ở ngoài Bắc.  Các bác của anh ở lại đã bị tụi nó cắt cổ, đấu tố, đầy đi tù rồi, anh không nhớ sao ?  Rồi vụ tết Mậu Thân, chỉ là trung sĩ, cũng bị chúng nó bắt đi, đập đầu hoặc sỏ giây kẽm gai chôn  sống tập thể, anh không biết sao ?  Huống chi anh là thiếu tá.  Tụi nó gặp anh là bắn liền !  Thử hỏi lúc đó, nhà cửa này, của cải dành dụm này, anh có  chắc hưởng được không ?

Rồi nàng tiếp, dùng  tình cảm thuyết phục tôi :
-  Anh cũng phải nghĩ đến tương lai bốn đứa con anh nữa chứ ?  Đi ra khỏi nước, dù anh và em không làm nên trò trống gì, con cái mình sẽ có cơ hội tiến thân .  Em cũng chẳng biết chúng nó sẽ làm gì, nhưng chắc chắn sẽ có nhiều cơ hội hơn là ở nhà rồi!

Trong lúc tôi ngồi thừ người ra, đầu óc hoang mang, không biết phải  nói gì, nghĩ gì, vợ tôi vừa khóc vừa chạy sang nhà cha mẹ tôi ở kế sát bên.  Nàng tin rằng chỉ có mẹ tôi khuyên giải tôi mới nghe ra.  Đúng như nàng nghĩ, mẹ tôi qua ngay tức khắc.  Bà nắm tay tôi, nhẹ nhàng khuyên bảo :
-  Con ơi, con nên nghĩ lại.  Sáng nay, anh chi Chang sẽ đến đón cha mẹ ra đi.  Cha mẹ đã từng ở với bọn chúng rồi.  Cha con đã từng bị chúng nó bắt đi, chỉ vì cha con là công chức.  Suýt nữa chúng nó đã thủ tiêu cha rồi đó.  Giữa  năm 54, ông bà ngoại con đã hơn 70 tuổi, mà còn liều chết trốn đi.  Vì ở lại là chúng nó sẽ đấu tố, làm nhục cho đến chết !

Bà nhìn vợ tôi, rồi tiếp :
-  Con may mắn lắm mới có vợ con đảm đang, xông xáo, lo cho con và các cháu ra đi.  Hai anh Nghiêm và anh Chỉnh của con muốn đi lắm, mà không có cơ hội như con.  Hai anh đang lo, mà không biết cách nào đi được. Con có cơ hội tốt. Đừng bỏ lỡ cơ hội hiếm có nầy!

Tôi nghe lời mẹ, hứa sẽ đưa gia đình đi.  Quyết định của tôi đã làm thay đổi hẳn cuộc đời của chúng tôi và tương lai các con  tôi!

Sáng Chủ Nhật 27 tháng Tư năm 1975, gia đình tôi sửa soạn để đi nhà thờ.  Tôi cũng đang ăn dở dang tô phở do chị giúp việc vừa mua về thì anh cả của vợ tôi, Đại úy Nguyễn Văn An, cũng vừa lái xe Jeep tới đậu ngay trước cửa nhà tôi.  Anh cho biết chúng tôi chỉ có đúng 10 phút chuẩn bị hành lý.  Tôi bỏ đũa, giúp vợ tôi sắp xếp hành lý lần chót.  Anh An giúp tôi chất hai chiếc valise lên xe Jeep.  Vợ tôi đưa trả tiền công cho chị giúp việc, và tặng thêm  cho chị một tháng lương nữa.  Tôi đã gọn gàng  trong bộ đồ dân sự, vợ tôi và bốn cháu ăn mặc thật giản dị.  Cả gia đình tôi ngồi gọn trên chiếc xe Jeep, trực chỉ hướng Tân Sơn Nhất.  Anh An nói, anh sẽ đưa chúng tôi tới thẳng cơ quan DAO.

Gần đến nơi, tôi chứng kiến cảnh người di tản chen chúc, giành giật nhau một chỗ đứng sát cổng vào bên trong.  Những chiếc xe Mercedes, Peugeot, Ford, Toyota còn mới toanh, không người lái, nằm ngổn ngang dọc theo bờ rào sát phi trường.  Anh vợ tôi dừng xe trước một trạm gác.  Một trung sĩ quân cảnh Việt Nam và một quân cảnh Mỹ đang làm công việc xét giấy.  Người quân cảnh Việt Nam xem sự vụ lệnh công tác và tờ “manifest” do tòa Đại sứ Mỹ cấp, rồi trao cho người quân cảnh Mỹ soát lại lần chót.  Sau khi xem xét giấy tờ và nhìn vào trong xe kiểm soát, hai quân cảnh Mỹ Việt giơ tay chào, và ra hiệu cho xe đi.

Thế là chúng tôi đã vào trong cơ quan DAO và trình giấy tờ trong khi các chuyến xe bus của tòa Đại Sứ Hoa Kỳ lần lượt chở các nhân viên và thân  nhân tới.  Khung cảnh thật là  náo nhiệt, tiếng người nói chuyện, bàn tán thật ồn ào.  Trên bầu trời, từng đoàn trực thăng bay tới bay lui như những con chuồn chuồn khổng lồ, hết chiếc nầy vừa đáp xuống thì chiếc kia lại bốc lên, có lẽ để đi  đón người di tản ở một địa điểm khác.  Chúng tôi  được chia ra làm từng toán, mỗi toán hai mươi người.  Bây giờ chỉ còn việc đợi xe bus tới chở ra máy bay.   Trong lúc chờ đợi, tôi đảo mắt nhìn xung quanh, qua hai lớp hàng  rào giây kẽm gai bao bọc cơ sở này.  Những người di tản tới cơ quan DAO bằng xe taxi đều bị chặn lại ngay tại cổng để kiểm soát giấy tờ.

Một chiếc taxi vừa dừng lại phía ngoài cổng. Trên xe một thanh niên trạc hăm ba tuổi, một phụ nữ trẻ bế đứa bé khoảng hai tuổi, và một cặp vợ chồng lớn tuổi lần lượt bước xuống. Tôi đoán chừng ông bà nầy là cha  mẹ của người phụ nữ, và chàng thanh niên là con rể.  Chàng thanh niên đưa xấp giấy tờ  cho người cảnh sát gác cổng; người này xem qua rồi đưa cho viên trung sĩ quân cảnh đứng cạnh.  Người quân cảnh nói gì với chàng thanh niên, và ra hiệu cho anh đứng  sang một bên. Người phụ nữ bế con tiến lại phân trần với người quân cảnh, rồi người đàn ông lớn tuổi cũng đến, dường như vừa thuyết phục vừa năn nỉ, nhưng chỉ nhận được cái lắc đầu từ chối.

Một lát sau, xe quân cảnh đi ngang. Chàng thanh niên bị mời lên xe.  Người phụ nữ gào khóc, nắm chặt cánh tay người thanh niên, không cho lên xe.  Đứa bé cũng khóc thất thanh, ôm lấy chân anh ta. Thế là một cảnh giằng co xẩy ra, làm huyên náo một góc cổng gác. Người phụ nữ trẻ cố năn nỉ hai quân cảnh Việt Nam tha cho chàng thanh niên.  Tiếng gào khóc của chị nghe thật thương tâm!

Tôi để ý nhìn hai quân cảnh Mỹ đứng gần đó.  Họ không can thiệp gì cả.  Hai trung sĩ quân cảnh trên xe nói gì với người thanh niên.  Anh ta thì thầm điều gì đó với người phụ nữ.  Chị và đứa bé không gào khóc, níu kéo nữa.  Người thanh niên lên xe.  Chiếc xe Jeep quân cảnh đi đâu, không ai biết.  Tôi chỉ thấy cặp vợ chồng lớn tuổi và người phụ nữ trẻ, cùng đứa bé leo lên một chiếc taxi khác vừa đổ người xuống.  Chiếc xe đi ngược về phía cửa ngõ vào thành phố.  Tôi chắc gia đình họ trở về nhà.

Tổng thống Trần Văn Hương nhậm chức chỉ có mấy ngày, nhưng ông đã phải đương đầu với cảnh “dầu sôi lửa bỏng “ của đất nước.   Trên mặt báo, tôi đọc thấy tân thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn đã ra lệnh cho các viên chức có trách nhiệm phải ngăn chặn mọi thành phần quân cán chính trong hạn tuổi của quân đội, không cho những người nầy xuất ngoại bằng bất cứ phương tiện gì, đường hàng  không, đường bộ và kể cả đường biển nữa.  Lệnh này được áp dụng triệt để.  Báo chí thời đó tường thuật rõ ràng  những trường hợp cơ quan công lực bắt giữ một số viên chức trong chính quyền, kể cả quân đội, đang trên đường vượt biên.

Riêng trường hợp người thanh niên bị bắt giữ lại, tôi nghĩ cả người vợ và gia đình bên vợ cũng kẹt ở lại luôn.  Tôi không thể quên được tiếng khóc nức nở của người phụ nữ trẻ, khi người chồng bị bắt lại, và xe quân cảnh đưa đi.  Tôi nghĩ, các viên chức Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, khi chứng kiến cảnh bắt giữ thương tâm đó, có lẽ cũng bị “mất mặt” phần nào, vì chính phủ Hoa Kỳ đã đồng ý cấp giấy tờ cho cả gia đình người ta đi Mỹ, mà quân cảnh Việt Nam lại có quyền bắt giữ lại?  Tôi thấy hai viên chức Hoa Kỳ ở bãi đậu xe, đứng gần chỗ chúng tôi đang chờ đợi, dùng  máy liên  lạc vô tuyến, gọi đi một chỗ nào đó; có lẽ với giới chức cao cấp Việt Nam và tòa Đại Sứ Hoa Kỳ chăng ?

Bởi vì, khoảng 15 phút sau, tôi không còn thấy quân cảnh và cảnh sát ở ngoài cổng cơ quan DAO nữa.

Tôi nhớ lại những ngày tới Quân Vụ Thị Trấn Sài Gòn, chỉ huy toán tuần tiễu hỗn hợp gồm cảnh sát, quân cảnh, để bắt đào binh và những người trốn quân dịch.  Tới giờ cơm trưa, tôi dẫn toán tuần tiễu của tôi vào tiệm phở Tầu Bay đãi mỗi người một tô phở xe lửa và ly cà phê sữa đá.  Chúng tôi ngồi ăn uống và nói chuyện vui vẻ trong tình đồng ngũ, coi nhau như những người thân  thiết trong đại gia đình quân đội.

Bây giờ, gặp lại mấy người quân cảnh và cảnh sát, cũng trong sắc phục đó, nhưng ở trong hoàn cảnh thật éo le nầy, tôi mặc y phục dân sự, vì đã từ bỏ nhiệm sở để ra đi, còn những anh em đó vẫn còn ở lại, tiếp tục nhiệm vụ của mình, lòng  tôi đâm ra e dè, sợ sệt, đầy mặc cảm; nên không còn cái cảm giác thân  thiết với những người đã từng cùng ở trong đại gia đình với tôi nữa !

Tôi thực sự cảm thấy không được thoải mái cho lắm khi phải đối diện với họ; mặc dù sau việc xẩy ra hồi sáng  và sự can thiệp của nhân viên tòa Đại sứ Mỹ, cảnh sát và quân cảnh Việt Nam chỉ còn nhiệm vụ giữ an ninh trật tự thôi, chứ không bắt giữ hay làm khó dễ những người di tản nữa.  Nhìn sang toán kế bên, tôi gặp Trung tá P.  

Tôi quen biết ông mỗi lần tôi đi họp ở Tổng Cục Tiếp Vận, Bộ Tổng Tham Mưu.  Thấy ông trong y phục dân sự, tôi quen miệng chào ông theo cấp bậc quân đội.  Ông ghé sát tai tôi nói nhỏ :

-  Thôi “toa” miễn cho “moa” đi.

Tới lúc đó, tôi biết mình lỡ lời, vội vàng nắm tay ông cười giả lả.  Có lẽ lúc này, ông cũng mang chung một tâm trạng xấu hổ vì đã trốn chạy khỏi nhiệm sở như tôi, nên không muốn ai nhắc đến cấp bậc của mình.

Khoảng 3 giờ chiều Chủ Nhật 27 tháng 4, một toán xe bus gồm năm chiếc tới đậu ở ngay trước lối vào văn phòng cơ quan DAO.  Chúng tôi lần lượt xếp hàng  lên xe.  Khoảng mười phút sau, đoàn xe hướng về khu vực nơi máy bay C.130 đậu, gần phía cuối phi đạo.

Khi còn  cách chỗ máy bay khoảng  40 thước, các xe bus ngừng lại.  Người hướng dẫn trên xe yêu cầu chúng tôi xuống, sắp hàng  một để đi về phía máy bay.

Tôi nhìn ra phía trước.  Bên chiếc máy bay phản lực C.130, đã có sẵn hai người lính quân cảnh Việt Nam đứng chờ, ngay cửa phía sau đuôi máy bay.

Chúng tôi lần lượt bước xuống xe bus, theo đoàn người di tản.  Vợ và các con tôi đi trước.  Còn tôi, một tay bồng cháu gái út Hồng Bảo, lúc đó mới hơn hai tuổi.

Đi sát phía sau tôi là một đôi vợ chồng trẻ và đứa con nhỏ, cùng trong toán tôi.  Người chồng là một kỹ sư điện làm việc cho một cơ quan tiếp liệu Hoa Kỳ.  Có lẽ hồi sáng, anh chị nầy đã chứng kiến cảnh người thanh niên bị bắt giữ lại, nên người vợ tỏ ra hết sức lo lắng khi nhìn thấy hai viên quân cảnh Việt Nam to lớn đứng nơi chân máy bay.

Chị quay về phía tôi hỏi nhỏ :
-  Anh có biết tại sao quân cảnh Việt Nam vẫn còn ở đó không ?  Liệu chồng tôi đang trong lứa tuổi quân dịch có bị bắt lại không, thưa anh?

Tôi đưa mắt nhìn chị đang bồng đứa con gái trạc tuổi đứa con gái út tôi, còn anh thì xách một valise, và trên vai đeo một cái cặp nữa.

Làm ra vẻ thông  thạo, tôi trấn an cặp vợ chồng trẻ:
-  Theo tôi, nhiệm vụ của hai người quân cảnh này chỉ là canh gác máy bay, đề phòng phá hoại thôi.  Giờ phút nầy, họ không còn bắt giữ ai như hồi sáng  nữa đâu.

Tôi nói tiếp :
-  Chị nên trao cháu nhỏ cho anh bế !  Mình cứ tự nhiên mà đi, đừng để ý gì đến họ.  Không sao đâu !

Người vợ trao đứa bé cho chồng, và đỡ hộ anh ta chiếc cặp trên vai.  Chúng tôi đi trong toán di tản cuối cùng, và chẳng bao lâu đã tới cửa phía sau của chiếc máy bay C.130.  Tôi cố giữ nét mặt bình thản, nhìn về phía trước.  Nhưng lúc đi ngang qua hai người quân cảnh, tôi biết chắc chắn họ đang chăm chú nhìn tôi.  Chúng tôi vừa bước vào thân  tàu, thì anh chồng đi phía sau tôi đặt đứa bé xuống sàn máy bay cho người vợ giữ.  Anh lách mình, vượt qua tôi; vội vàng đi thẳng vào phòng vệ sinh, đóng sập cửa lại.

Khi người di tản cuối cùng đã vào hẳn trong máy bay, nhân viên phi hành kiểm soát một lần chót; rồi bấm nút; chiếc cánh cửa vĩ đại phía sau đuôi máy bay từ từ đóng lại.

Chúng tôi ngồi vào chỗ, được hướng dẫn cài dây an toàn, và những gì phải làm khi gặp trường hợp khẩn cấp.  Mùi nhiên liệu phi cơ, mùi mồ hôi, mùi kim loại tỏa ra dưới nắng chiều gay gắt làm không khí chờ đợi thật ngột ngạt và căng thẳng.  Động cơ chạy mạnh hơn, và chiếc máy bay lăn bánh, tiến dần ra phi đạo.  Rồi tiếng máy rú lên, vận tốc tăng nhanh; chiếc C. 130 nhẹ nhàng cất cánh.  Vừa lúc đó, người kỹ sư trẻ tuổi cũng từ phòng vệ sinh vội vàng bước ra; mặt anh xanh mét, như không còn hồn vía gì.

Tôi đã đoán biết vì sao anh vào trong đó, nhưng cũng giả vờ hỏi :
-  Bộ anh đau bụng lắm hay sao mà ngồi trong nhà vệ sinh lâu quá vậy ?

Anh thật thà trả lời :
-  Dạ, em có đau bụng gì đâu!  Sáng nay chứng kiến cảnh bắt giữ người thanh niên, đến giờ này em còn sợ; nên phải trốn vào phòng vệ sinh, chờ máy bay cất cánh mới dám đi ra.

Tôi cười nhẹ, thông  cảm với nỗi lo sợ của cặp vợ chồng này.

Trạm đầu tiên cho người tỵ nạn xuống là đảo Guam.  Chúng tôi được phân phối tạm trú trong những căn lều thật lớn do công binh Mỹ vừa dựng lên, mỗi căn lều có sức chứa cả ngàn người.  Buổi sáng hôm sau, tôi lên văn phòng trại ghi danh và điền vài mẫu giấy tờ hành chánh cho việc chuyển trại.  Khi đang ngồi chờ ở trước văn phòng, cha mẹ tôi và cháu trai con ông anh cả tôi bước vào.  Gặp lại tôi, mẹ mừng lắm, hỏi han ríu rít.  Thế là gia đình anh chị cả đã mang được cha mẹ tôi đi cùng, và chỉ đi sau tôi khoảng 4 tiếng đồng hồ, trên một chuyến máy bay khác.

Những ngày sống nơi trại tạm cư ở Guam, ngoài những bữa ăn, gồm toàn món Mỹ, chúng tôi thường đi bộ ra bờ biển Guam hóng mát, nhất là lúc xế trưa.

Buổi tối, ban chỉ huy trại cho chiếu phim giải trí.  Một số nghệ sĩ Việt Nam cũng họp nhau lại  mỗi buổi chiều, trình diễn giúp vui cho đồng bào tị nạn.

Điều đau buồn nhất đối với chúng tôi, là chiều 30 tháng 4 năm 1975, khi hai đài phát thanh BBC và VOA loan tin Sài Gòn bị thất thủ, và cả miền Nam đã rơi vào tay giặc Cộng.  Chúng tôi ai nấy đều ngậm ngùi, xót xa chia sẻ niềm đau đớn của đồng bào ruột thịt, từ nay sẽ sống dưới ách cai trị của bọn Cộng Sản độc tài và bạo tàn.

Tất cả mọi người chúng tôi đều mang chung một tâm trạng đau buồn. Tôi đã chứng kiến những người thiếu phụ trẻ bên nách một đàn con thơ nheo nhóc, họ ngồi bên góc lều trại, hộc lên khóc, tiếng khóc đau đớn, não nề, ai oán kéo dài từng hồi.  Những lúc như thế, vợ tôi lại chạy tới, dỗ dành, an ủi họ.  Rồi tiếp đến căn lều bên cạnh, như bị xúc động giây chuyền, có người đã bật ra tiếng khóc, nhất là các bà các cô, vốn rất nhạy cảm.

Chung quanh căn lều tạm trú, tôi nghe những tiếng khóc nức nở đầy vẻ căm phẫn.  Những người đàn ông biểu lộ nỗi đau thương một cách lặng lẽ hơn.  Tôi thấy những khuôn mặt trầm lắng, đanh lai, những đôi mắt đỏ hoe, những giọt nước mắt tủi hờn vừa mới lau khô.

Ai ai đều ngậm ngùi trước cảnh gia đình tan tác, vợ xa chồng; cha mẹ xa con; anh chị em lưu lạc khắp bốn phương trời…Tuy không nói ra, nhưng trong thâm tâm, tôi biết chắc chắn  kể từ giờ phút nầy, tôi sẽ phải chấp nhận Hoa Kỳ là quê hương thứ hai.  

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=203999&zoneid=434#.VRF527HfQVS

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU BlackApril30
Về Đầu Trang Go down
thanhdo
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeWed Apr 08, 2015 8:57 am


Tháng Tư mãi là nỗi buồn!
Cao Huy Huân
08.04.2015

http://www.voatiengviet.com/content/thang-tu-mai-la-noi-buon/2710021.html

Bước sang tháng Tư, không khí của những ngày định mệnh lịch sử bắt đầu rộ khắp các tuyến đường, con phố, bờ sông. Năm nay đặc biệt hơn vì đây là cột mốc lần thứ 40. Bởi lẽ, những cột mốc ý nghĩa luôn nhắc người ta nhìn lại quảng đường chúng ta đã đi suốt mấy chục năm ròng.

Sài Gòn những năm 1975, vốn mệnh danh là “hòn ngọc Viễn đông”, từng là giấc mơ của Lý Quang Diệu những ngày đầu thành lập Singapore. Bốn mươi năm sau, các khẩu hiệu treo đầy đường phố nêu cao thông điệp về một Sài Gòn đầy thành tích. Kẻ đứng trên những con số tăng trưởng kinh tế “đầy tranh cãi” sau 40 năm cười “ngặt nghẽo”. Tôi chưa bao giờ phủ nhận một Sài Gòn mở rộng sau 40 năm - nay trở thành trung tâm kinh tế của cả nước, thu hút đầu tư mạnh từ trong và ngoài nước với chỉ số đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hay các dự án viện trợ chính thức (ODA) khiến nhiều nước khác phải ganh tỵ. Tốc độ phát triển chóng mặt của những con số phát triển GDP Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung luôn khiến giới quan sát, ngay như các vị lãnh đạo cấp bộ trưởng, cũng phải giật mình. Nhưng xin thưa! nếu “gói ghém” thành tích của Sài Gòn, có lẽ cũng chỉ dừng ở chữ “tiềm năng”. Trong khi hàng tá vấn đề cho đến nay, Sài Gòn vẫn loay hoay, bế tắc, và sẽ còn tiếp tục loay hoay, bế tắc, nếu chính quyền vẫn cứ hoạt động một cách luộm thuộm như nhiều năm qua họ vẫn làm.

Trước hết hãy bàn về kết cấu hạ tầng, đô thị - điều khiến mấy chục triệu dân cứ mãi phàn nàn, rồi lại phàn nàn một cách vô vọng. Bốn mươi năm các vị mở rộng Sài Gòn cả về chiều rộng địa lý lẫn về chiều sâu kinh tế - xã hội. Các áp lực dân số, chênh lệch giàu nghèo, môi trường, tệ nạn xã hội, sức ép hạ tầng cơ sở, văn hóa đô thị… là không thể tránh khỏi. Để rồi người dân Sài Gòn – vốn đã “già trước khi giàu” – nay phải quẩn quanh bên một “thành phố ao làng” với hàng loạt các hệ lụy nhức nhối: ngập nước ngày càng nặng; ô nhiễm (khói, bụi, tiếng ồn, nguồn nước) ngày càng trầm trọng hơn; văn hóa tiểu nông, lúa nước lũ lượt kéo nhau vào Sài Gòn, trong khi cái mà các vị lãnh đạo gọi là “văn minh thành phố” lại chính là việc bê-tông hóa các tuyến đường vốn được cây xanh bao phủ, là hầm vượt sông tốn kém nghìn tỷ đồng vốn có thể được thay thế bằng nhiều cây cầu khang trang hơn, là các đề xuất dự án “ăn trước - chặn sau” theo kiểu nhóm lợi ích, ví như học sinh tiểu học phải trang bị máy tính bảng khi đến trường. Để rồi bọn trẻ, dù nhiều gia đình khó khăn cũng phải vét tiền của lo cho con “sang nước ngoài tỵ nạn giáo dục”. Nhà ổ chuột cho dân ở, trong khi nhà cao ốc thì chỉ biết để chuột “định cư” do hệ quả bong bóng bất động sản vỡ…

Mỗi thế hệ lãnh đạo Mỹ, EU, Nhật Bản hay Singapore đều để lại dấu ấn bằng những công trình tầm cỡ phục vụ lợi ích của dân. Tổng thống Mỹ Barack Obama với hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn dân (dù bị phe nhà giàu tranh cãi), Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe với cải cách kinh tế Abenomics vực dậy Nhật Bản, đặc biệt sau thảm họa kép 2011. Hay như Lý Quang Diệu với gần 50 năm xây dựng một đảo quốc Singapore bị Malaysia “bỏ rơi” trở thành con rồng châu Á. Trong khi Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung, các vị nhận không biết bao nhiêu vốn ODA đổ vào đầu tư hạ tầng, ưu tiên phát triển cơ sở vật chất phục vụ đời sống hiện đại hóa, để rồi số công trình hạ tầng phục vụ lợi ích cho dân đạt chuẩn quốc tế chỉ nằm trên đầu ngón tay bởi sự đục khoét bằng đủ các kiểu tham nhũng: lót tay, hối lộ, bôi trơn, lại quả. Các nhóm lợi ích thì xem vốn ODA vẫn là thứ tiền phải “giải ngân cho kịp” để “ăn”, trong khi dân phải mang tiếng “xin”, chấp nhận những “cảnh cáo” từ phía đối tác mà mới nhất là Nhật Bản, rằng “còn tham nhũng sẽ cắt tiền ODA”.

Thứ hai, không khỏi xót xa khi nhìn vào các ngành công nghiệp mũi nhọn và các ngành công nghiệp ưu tiên. Trong tầm nhìn chiến lược phát triển công nghiệp từ nay đến năm 2020, Sài Gòn đã xác định ba ngành mũi nhọn của công nghiệp bao gồm: i) Cơ khí chế tạo (ô tô, đóng tàu, thiết bị toàn bộ, máy công nghiệp, cơ điện tử); ii) Thiết bị điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin; iii) Sản phẩm từ công nghệ mới (năng lượng mới, năng lượng tái tạo, công nghiệp phần mềm, nội dung số).

Phải khẳng định đây đúng là “ba mũi nhọn” quan trọng, không chỉ Việt Nam, mà nhiều quốc gia khác như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản cũng từng trải qua. Nhưng sau 40 năm giải phóng thì nay là lúc ai cũng hốt hoảng khi chúng ta chỉ còn 5 năm để đạt ba mục tiêu mũi nhọn trên. Nhưng xin thưa, 5 năm là một con số “viển vông và không tưởng” khi hiện tại Sài Gòn đang đứng sau vạch số 0. Nghĩ làm gì đến công nghệ cao siêu khi ngay cả con ốc vít, hay các phụ kiện nhỏ nhất phục vụ ngành công nghiệp lắp ráp, cho đến nay gần như Việt Nam đều phải nhập khẩu. Khái niệm “công nghiệp phụ trợ” – ngành công nghiệp cơ bản của mọi ngành công nghiệp đã được đưa ra thảo luận và đầu tư – ra đời từ hơn chục năm trước ở Việt Nam, nhưng các vị lãnh đạo vẫn để nó dậm chân tại chỗ, mệt mỏi, thoi thóp và rồi chết đứng, nhường chỗ cho hàng hóa tiểu ngạch, chính ngạch của Bắc Kinh.

Xin phép được hỏi các vị “bao nhiêu doanh nghiệp phụ trợ mới có thể làm ra một chiếc xe hơi?” Xin thưa! Trên dưới 200 doanh nghiệp con “trợ sức” từng chi tiết máy mới có một chiếc ô tô mà các vị lãnh đạo ngồi mỗi ngày đến công sở. Cho nên có vị nào dám cam đoan sau 5 năm nữa, khi rào cản thuế quan phải hạ xuống dưới bước chân của gã khổng lồ WTO hay các thể chế mậu dịch tự do tương tự, một chiếc ô tô “lắp ráp in Vietnam” có thể sống trước ô tô ngoại nhập? Báo chí mấy hôm nay đưa tin “ô tô Việt Nam vẫn loay hoay lắp ráp để… chờ chết”, chứ Sài Gòn đừng bàn đến công nghiệp công nghệ cao – chỉ tổ khiến dân chờ, đợi, mỏi mòn và thất vọng.     

Trong khi đó, bảy ngành công nghiệp được ưu tiên phát triển của Sài Gòn là: dệt may, da dày, nhựa, chế biến nông lâm thuỷ sản, khai thác chế biến nhôm, thép, hoá chất cũng đã và đang hấp hối. Xưa nay, không ít các vị lãnh đạo vẫn cứ sống trong mớ bong bóng “rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu”, cho rằng Sài Gòn có nhân công giá rẻ, gần các khu tài nguyên. Để rồi khi công nghệ cao ngoại nhập khỏa lấp đi sức lực của đôi bàn tay không chỏng chơ, chai sượn của những người dân nghèo khốn khổ, thì các doanh nghiệp nội địa bắt đầu xếp hàng phá sản, đá bể toàn bộ chén cơm của hàng trăm nghìn người thất nghiệp. Hãy nhìn các doanh nghiệp nội địa ngành dệt may, mía đường, sữa,… liên tục “than trời trách đất” trong những năm qua trước áp lực của các doanh nghiệp ngoại đến từ Lào, Campuchia sẽ thấy chúng ta đang yếu đến cỡ nào.

Cuối cùng, xin hãy thẳng thắn nói về môi trường đầu tư. Chỉ chưa đầy một tháng, Việt Nam nhận liên tiếp ba sự kiện “choáng váng”. Một là, Nhật Bản tuyên bố “cắt viện trợ ODA nếu có thêm bất kỳ một dự án tham nhũng nào tại Việt Nam. Hai là, tập đoàn POSCO (Hàn Quốc) bị điều tra tham nhũng, hối lộ nhà thầu Việt Nam trong các dự án cao tốc giai đoạn 2009-2012. Ba là, Ngân hàng Thế giới (World Bank) tuyên bố cấm hoạt động trong vòng một năm đối với Tập đoàn Louis Berger Group (LBG, Mỹ) vì dính líu đến các hành vi hối lộ trong hai dự án do Ngân hàng Thế giới tài trợ tại Việt Nam. Công ty mẹ của LBG cũng bị hạn chế quyền đấu thầu đối với các dự án của Ngân hàng Thế giới vì không quản lí được các hoạt động “chung chi, hối lộ quan chức” mà LBG đã thực hiện trong hai dự án: Giao thông Nông thôn 3, và Đầu tư Ưu tiên Cơ sợ Hạ tầng Đà Nẵng do Ngân hàng Thế giới tài trợ. Tất nhiên, không ai điểm mặt chỉ tên Sài Gòn, nhưng những vấn nạn tương tự: thủ tục kinh doanh, đầu tư rườm rà, phức tạp mở đường cho các nghi thức “lót tay”, hay “lại quả”. Đó là chưa kể đến các vụ bê bối về tham nhũng, lừa đảo trong hệ thống ngân hàng; hối lộ trong hệ thống cảnh sát giao thông… Tất cả làm giảm đáng kể tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Sài Gòn.

Một Sài Gòn mà hàng triệu dân mơ ước bất kể phải nếm mật nằm gai trong suốt 40 năm qua phải theo đuổi tám mục tiêu: i) Hệ thống cung cấp nước và vệ sinh môi trường (Water supply and sanitation); ii) Giao thông vận tải (Traffic and transport); iii) Năng lượng (Energy); iv) Chức năng đô thị (Urban functions); v) Kiến trúc (Architecture); vi) Quản lý chất thải (Waste Management); vii) Quy hoạch cảnh quan (Landscape Planning); viii) Hợp tác giữa khối nhà nước và khối tư nhân (Public and private stakeholders).

Nhưng rồi trước mắt họ, con đường từ nhà đến nơi làm việc đang đối diện quá nhiều rủi ro từ hệ lụy tích tụ suốt 40 năm: Đó là một con đường đầy khói bụi, lô cốt dựng khắp nơi, dây điện chằng chịt, nước ngập úng với lượng rác thải khổng lồ. Thỉnh thoảng lại gặp vài ba anh cảnh sát giao thông “nghiêm khắc” rất thích bắt lỗi đèn xi-nhan, lấn tuyến dù con đường nhỏ hẹp và biển báo đánh đố người dân – những kẻ ngoài việc đóng thuế nuôi quan chức phải tự nguyện trả thêm ít tiền “lót tay” nếu không muốn bị “vạch ví” giữa đường. Và cũng trên con đường ấy, những chiếc xe hơi sang trọng, vẫn âm thầm và lạnh lùng lướt qua những mảnh đời cơ cực phải lam lũ đội nắng trên đầu, lội mưa tới bụng và trong hai hốc mắt sâu hoắm vẫn mong chờ bữa ăn chiều có đủ cháo, rau.

Vậy đấy, chẳng biết sau những ngày tiệc tùng mừng 40 năm chiến thắng, có vị quan chức nào giật mình thốt lên “đã 40 năm rồi cơ đấy” khi thấy tại quảng trường độc lập vẫn còn không ít kẻ lang thang nhặt lấy từng chiếc lọ, cái lon để bán kiếm tiền mà quên mất “ngày độc lập phải vui lên”.

* Blog của Cao Huy Huân là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Về Đầu Trang Go down
bhtran
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeMon Apr 13, 2015 10:37 am


Mây mù Tháng Tư


Tác giả: Phan Thanh Tân
(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 Tháng Tư và Đời Tị Nạn)

Như một thông lệ vào những ngày gần cuối Tháng Tư trong năm, ông Hòa thường lấy ra tập nhật ký viết về biến cố Tháng Tư 1975 ra đọc. Tập nhật ký này không phải của ông. Ông không viết một chữ nào, cũng không ghi chú một lời nào trong tập nhật ký với khổ giấy 8x10, mà những trang giấy trắng đã phai màu theo thời gian.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 205601-CAMP-4
Trại tiếp cư Camp Pendleton, Tháng Tư, 1975. (Hình: Tác giả cung cấp)

Ông Hòa nhớ lại cách đây gần 25 năm, lúc dọn vào căn apartment ở thành phố Westminster, ông đã nhặt được tập nhật ký này trong đống rác ở phía sau nhà.

Thời gian lướt qua với biết bao công việc lo toan cho cuộc sống mới, ông Hòa gần như quên tập nhật ký vẫn còn nằm trong tủ sách. Ðể từ đó ông trở thành chủ nhân bất đắc dĩ tập nhật ký, kể lại những sự kiện liên quan đến biến cố trọng đại của người Việt tỵ nạn trên khắp năm châu.

Nhân vật ghi chép tập nhật ký này là chàng sinh viên năm thứ ba ở đại học Luật Khoa Sài Gòn và đối tượng của chàng là một cô sinh viên năm dự bị, tên Mỹ Linh, ở đại học Văn Khoa Sài Gòn.

Ðọc nhiều lần tập nhật ký ông Hòa gần như thuộc lòng truyện tình hai người, trai Luật khoa, gái Văn khoa và do đó sau này ông chỉ đọc những đoạn có liên hệ đến biến cố Tháng Tư 1975 mà thôi.

Cũng giống như những năm trước, năm nay sau đúng 40 năm ngày Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, ông Hòa lôi ra tập nhật ký, đọc chậm rãi như muốn nuốt từng lời, từng chữ, thả hồn về quá khứ xa xưa, để ghi nhớ và tưởng niệm đến các anh hùng nghĩa sĩ đã anh dũng bỏ mình vì dân vì nước.

***

Ngày Thứ Tư, 2 tháng 4 năm 1975: Khoảng gần 10 giờ sáng tôi có mặt trong lớp học hai giờ Dân Luật với Giáo Sư Vũ Quốc Thông. Tin Cộng quân đã chiếm Nha Trang được lan truyền nhanh trong lớp. Vừa nghe xong tôi bay ra khỏi lớp, chạy nhanh qua đại học Văn Khoa tìm Mỹ Linh. Bước nhanh lên lầu ba, tôi ngó quanh khắp giảng đường, không thấy bóng dáng Mỹ Linh ngồi trong đó. Trông thấy tôi đứng dáo dác nhìn quanh tìm Mỹ Linh, cô bạn của Mỹ Linh bước ra cho biết Mỹ Linh không đến lớp vào sáng nay. Tôi nói cám ơn cô ta và vội vàng phóng xe nhanh đến nhà dì của Mỹ Linh, nơi hai chị em nàng đang ở trọ nằm trên đường Ðinh Tiên Hoàng. Khuôn mặt Mỹ Linh đỏ hoe, bước ra mở cổng. Trông nàng thảm não và buồn đau vì mất tin tức mẹ cha, tôi cảm thấy thương yêu nàng quá đỗi và tự nhủ sẽ không lìa xa nàng trong bất kỳ tình huống tồi tệ nào xảy ra.

Ngày Thứ Tư, 9 tháng 4 năm 1975: Tất cả nhật báo đều loan tin Sư Ðoàn 18 đóng ở tỉnh Long Khánh, đã oanh liệt đẩy lui sự tấn công của Quân Ðoàn 4 Bắc Việt muốn thôn tính thị xã Xuân Lộc.

Sau giờ học buổi chiều ở Luật khoa, tôi ngồi đấu láo với đám bạn ở quán cà phê Thu Hương. Trước chiến thắng của sư đoàn 18 do Chuẩn Tướng Lê Minh Ðảo chỉ huy, tôi nhận thấy đám bạn tôi đều lạc quan và tin tưởng miền Nam không thể rơi vào tay Cộng quân. Chỉ riêng tôi lo lắng và bi quan trước tình hình nguy kịch của đất nước và nêu thắc mắc tại sao chính phủ không đóng cửa tất cả các trường trung và đại học và ban lệnh Tổng Ðộng Viên trên toàn quốc?

Ngày Thứ Hai, 14 tháng 4 năm 1975: Mỹ Linh tan lớp học lúc 10 giờ và theo tôi vào ngồi uống nước trong câu lạc bộ trường Văn Khoa. Tại đây tôi nói với nàng do bởi tình hình chiến tranh căng thẳng, trường đại học Văn Khoa vừa ra thông cáo kỳ thi cuối năm được tổ chức sớm hơn thông lệ và sẽ tổ chức vào đầu Tháng Sáu.

Nói xong tôi bảo nàng đưa thẻ sinh viên để tôi ghi danh dự thi cuối khóa giùm nàng, bởi tôi có người bạn là thành viên trong ban đại diện của niên khóa này và đang phụ giúp việc ghi danh.

Ðưa tấm thẻ sinh viên cho tôi, nàng rầu rĩ kể tôi nghe vừa được thư của người anh ruột đang làm việc ở thành phố Washington DC, nói rằng ở bên Mỹ đang chuẩn bị giăng lều, căng trại đón người thua trận, bởi miền Nam sắp sửa kết thúc như Campuchia vậy. Do đó anh nàng sẽ gởi giấy tờ để bảo trợ nàng đi qua Mỹ du học.

Tôi ngồi lặng im, tiếp tục lắng nghe nàng cho biết ông giáo sư người Mỹ đã nói riêng với nàng rằng tình hình miền Nam càng ngày càng thê thảm và có thể hạ màn vào cuối Tháng Tư này. Sau đó ông ta trân trọng hỏi nàng chịu đi Mỹ với ông ta hay chăng? Tôi chưa kịp hỏi nàng trả lời ra sao, thì Mỹ Linh còn cho tôi biết thêm người chị của nàng là Mỹ Lan hiện làm việc cho cơ quan DAO ( Defend Association Organization), có thể dẫn nàng đi nếu tình thế đến hồi kết cuộc.

Lòng tôi tê tái và se thắt lại khi nghe nàng nói như thế, nàng có nhiều cơ hội sang Mỹ và tôi sẽ phải xa nàng. Tình tôi đối với nàng càng ngày càng đậm sâu và tự nghĩ sau này không gặp được nàng, cuộc đời chắc vô vị lắm! Nhìn thấy khuôn mặt tôi đượm nét không vui, Mỹ Linh nắm tay tôi, mếu máo nói tiếp, ngày nào chưa biết tin tức của song thân nàng vẫn chưa muốn đi đâu hết.

Nghe nàng nói như vậy tôi cảm thấy an tâm và nhẹ nhõm, bởi vì tôi không muốn xa nàng, mất nàng. Lúc đưa Mỹ Linh về nhà, chiếc xe chạy ngang qua Tòa Ðại Sứ Mỹ, tôi đã thấy có một số người đứng xếp hàng một ở bên ngoài, chờ đợi vào bên trong lập thủ tục chuẩn bị rời nước ra đi. Lòng tôi cảm thấy xốn xang và buồn đau quá!

Chiến tranh còn đang tiếp diễn, Sư Ðoàn 18 ở Xuân Lộc đang anh dũng chống trả Cộng quân, thế mà các nhân viên làm việc cho các cơ quan Mỹ đang lặng lẽ chuồn khỏi nước. Hơn hai tuần sau ở Subic Bay tôi tình cờ gặp ông thầy dạy ở Luật khoa, đã tiết lộ rằng vào ngày 15 tháng 4 Tòa Ðại Sứ Mỹ đã gởi mật điện đến trường, yêu cầu cấp tốc lập danh sách những ai muốn rời Sài Gòn.

Sau này khi định cư ở Mỹ, tôi được nghe một anh bạn là sinh viên Y Khoa Sài Gòn năm cuối cùng, cũng tiết lộ Tòa Ðại Sứ Mỹ đã bốc đi gần hết các sinh viên Y Khoa từ năm thứ năm trở lên qua Mỹ. Ðiều đó cho tôi hiểu rằng ông bạn đồng minh của VNCH đã sẵn có kế sách bỏ rơi miền Nam từ lâu, nên tìm cách bốc đi các nhân viên làm việc chung với họ, cùng các chất xám trong nước.

Ngày Thứ Hai, 21 tháng 4 năm 1975: Sau khi đưa Mỹ Linh về nhà, tôi hấp tấp lái xe nhanh về nhà để đón xem bài nói chuyện của Tổng Thống Thiệu với quốc dân đồng bào. Toàn thân tôi đã nổi gai ốc khi nghe Tổng Thống Thiệu tuyên bố từ chức và giao quyền lãnh đạo quốc gia cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Tôi có linh cảm chiến tranh hai miền Nam Bắc sắp kết thúc, với mây đen sắp sửa ập xuống dải đất miền Nam Cộng Hòa. Ðêm đó ngồi trước quyển Hình luật vừa mới mua, tâm trí tôi nhảy múa lung tung trước hiện tình đất nước, không thể nhét một chữ nào vào trong đầu.

Ngày Thứ Ba, 22 tháng 4 năm 1975: Mấy ngày qua tôi không thấy thằng bạn thân xuất hiện trong giảng đường, nên chiều nay sau khi tan học, tôi tạt qua nhà hắn ở cư xá Chi Lăng, tỉnh Gia Ðịnh. Bấm chuông nhiều lần vẫn không thấy ai ra mở cửa, khiến tôi nghi ngờ gia đình hắn đã chuồn ra khỏi nước. Quả đúng như ý nghĩ, sau này hai đứa trùng phùng nhau trên xứ người, hắn cho biết toàn thể gia đình được mục sư Cơ Ðốc Giáo âm thầm dẫn đi di tản từ ngày đó.  

Ngày Thứ Năm, 24 tháng 4 năm 1975: Bởi người anh rể tôi là một kiến trúc sư, làm việc cho cơ quan Mỹ, nên khoảng 10 giờ sáng nay gia đình anh chị tôi cùng với năm cháu được xe ở cơ quan đến tận nhà chở vào phi trường Tân Sơn Nhất. Lòng tôi buồn rười rượi cho nỗi chia ly với anh chị và các cháu, biết bao giờ gặp lại nhau! Vì vậy tôi càng thương cảm cho hoàn cảnh của Mỹ Linh nhiều hơn, đã bặt tin tức song thân từ ngày Nha Trang lọt vào tay Cộng quân. Khoảng 4 giờ chiều tôi đến trường Văn Khoa đón Mỹ Linh. Hai đứa chui vào một quán kem quen thuộc nằm trên đường Nguyễn Huệ. Sau khi một ly kem dâu, một ly kem chocolate và một dĩa bánh su-kem được đặt lên bàn, tôi mới kể nàng nghe anh chị hai cùng năm đứa cháu nhỏ của tôi đã vào phi trường Tân Sơn Nhất hồi sáng hôm nay. Nàng nhìn thẳng vào mắt tôi và hỏi tôi sao không đi theo gia đình anh chị? Mỹ Linh thực sự cảm động khi nghe tôi trả lời cho dù có cơ hội di tản, tôi vẫn nhất quyết không đi, chỉ muốn được gần bên nàng mà thôi. Bằng tấm lòng chân thật nàng bày tỏ cũng muốn ở lại đây với tôi và gặp lại mẹ cha. Hai đứa không muốn lìa xa nhau dẫu cho tình thế có rối rắm tới đâu đi nữa.

Ngày Thứ Sáu, 25 tháng 4 năm 1975: Vào khoảng 8 giờ sáng bọn sinh viên năm thứ ba ban Kinh Tế ngồi trong giảng đường chờ thầy Vũ Văn Mẫu đến dạy hai giờ Công Pháp Quốc Tế. Thầy Mẫu không xuất hiện, thay vào đó là thầy Phó Khoa Trưởng Phan Tấn Chức đến cho biết thầy Mẫu bận công vụ không đến dạy vào sáng nay. Vào dịp này trước tình thế hiện tại thầy Chức cho biết ngày thi sẽ được tổ chức sớm hơn và nhấn mạnh ai có thi sẽ được cho đỗ tất cả. Cả lớp học từ từ giải tán, riêng tôi chạy qua Văn Khoa tìm Mỹ Linh. Hai đứa đến rạp Vĩnh Lợi xem phim “Tình Thù Rực Nắng” (Summertime Killer) do nữ tài tử Olivia Hussey thủ diễn, rất sexy trong phim này trái với hình ảnh xinh xắn và dễ thương trong vai nàng Juliet ở phim Romeo & Juliet.

Ðứng trước rạp Vĩnh Lợi tôi không thể tưởng tượng được cảnh tranh giành nhau, chen lấn nhau trước phòng bán vé. Không làm sao tôi quên được quang cảnh bỉ ổi và kinh tởm trước rạp Vĩnh Lợi vào buổi sáng nay. Trời ơi! Ðám đông la hét, chen lấn, chèn ép, xô đẩy nhau chỉ mong đạt được mục đích nhỏ nhoi là mua được tấm vé xi nê. Rồi khi giành mua được tấm vé, khuôn mặt họ đẫm ướt mồ hôi cùng nụ cười rạng rỡ trên môi, trông trơ trẽn và nham nhở vô cùng. Vì những tấm vé hát, đám đông không hề lo lắng và quan tâm đến tình hình chiến cuộc, mà Ban Mê Thuột, Huế, Ðà Nẵng, Nha Trang đã từ từ lọt vào tay Cộng quân. Vì những tấm vé hát, đám đông không mảy may sợ sệt và lo âu một Sài Gòn sẽ mất như thành phố Nam Vang đã lọt vào tay Khmer Ðỏ? Vì những tấm vé hát, đám đông đã nhẫn tâm phản bội và vô ơn đối với những anh chiến sĩ đang ngày đêm trực diện với Cộng quân, để bảo vệ cho họ an lành ở thành thị vui chơi và hưởng thụ. Tủi hổ, chán chường và tức giận, tôi và Mỹ Linh ra về. Buổi tối tôi ngồi xem tin tức, được biết cựu Tổng Thống Thiệu và Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm đã rời Việt Nam. Quả thật tình hình đất nước biến chuyển đen tối hơn và niềm âu lo nơi tôi thành phố Sài Gòn rồi sẽ thất thủ như thành phố Nam Vang càng tăng hơn gấp bội.

Ngày Thứ Bảy, 26 tháng 4 năm 1975: Buổi sáng tôi đến trường Văn Khoa lo việc ghi danh thi cử cho Mỹ Linh. Nàng đã cho tôi biết hôm nay hai chị em nàng đi vào các trại tạm cư để dọ hỏi tin tức song thân, nên tôi không cần tìm kiếm nàng trên Văn Khoa. Vào khoảng 2 giờ trưa người bạn thân tên Bổng đến rủ tôi đi uống cà phê. Trong quán cà phê Hân, Bổng hỏi tôi có ý định rời bỏ Sài Gòn không? Tôi đáp nhanh cho Bổng hiểu tôi không có ý định đi đâu hết, bởi tôi không muốn xa Mỹ Linh. Nhà Bổng gần bên Khánh Hội, nên hắn cho biết hắn sẽ tìm cách ra đi nếu nhìn thấy bóng dáng Cộng quân xuất hiện trong thành phố. Nghe như thế, tôi cười và khuyên Bổng dẹp bỏ ý nghĩ rời nước ra đi, bởi “cùng tắc biến, biến tắc thông,” chiến tranh rồi sẽ kết thúc bằng một thỏa ước hòa bình. Nhưng Bổng cãi lại, nói “biến tắc thông, thông rồi tắc tịch” luôn và khuyên tôi nên tìm đường chạy thoát khỏi Sài Gòn, đừng vì con gái mà lụy thân.

Ngày Chủ Nhật, 27 tháng 4 năm 1975: Bởi tình hình chiến sự đang đến hồi khốc liệt, Cộng quân đang tiến dần vào thủ đô Sài Gòn, chính phủ phải ban hành lệnh giới nghiêm vào 7 giờ tối. Vì vậy khoảng gần ba giờ chiều tôi chạy đến tìm gặp nàng. Xa nhau mới chỉ vỏn vẹn một ngày, cả hai tưởng như xa nhau suốt một năm! Tôi gặp cô chị của Mỹ Linh cũng có mặt trong nhà. Mỹ Linh nói ngày hôm qua hai chị em nàng đã đi khắp nơi chứa người lánh nạn để tìm song thân. Tuy không gặp mặt nhưng được tin ba mẹ nàng vô sự và bình an. Mỹ Linh nói thêm rằng song thân nàng nhắn tin bảo hai chị em nàng nếu có cơ hội thì hãy ra đi trước. Nhìn tôi bằng ánh mắt u buồn, Mỹ Linh nghẹn ngào nói hai chị em nàng đã quyết định nghe lời song thân và dự định ra đi. Sau đó chị Mỹ Lan tiếp lời Mỹ Linh cho tôi biết, bởi tình hình biến chuyển ngoài dự liệu, vào sáng mai sẽ có vài vị cao cấp ở cơ quan DAO túc trực ngoài cửa phi trường để rước các nhân viên của DAO vào bên trong phi trường. Nhưng cơ quan DAO chỉ cho phép người phối ngẫu và cha mẹ con cái của nhân viên đi cùng mà thôi. Nước mắt rưng rưng Mỹ Linh nghẹn ngào nói nếu tôi muốn thì sáng ngày mai tôi và chị Mỹ Lan, giả như một cặp vợ chồng, đón xe vào phi trường Tân sơn Nhất, còn nàng ở lại nhà chờ ông giáo sư Mỹ đến rước vào tòa Ðại Sứ Mỹ. Sau đó hai đứa ra ngồi ngoài hành lang tâm sự và bàn tính việc ra đi. Bàn tính chưa xong thì sắp đến giờ giới nghiêm. Tiễn tôi ra tận cửa, hai đứa bịn rịn chẳng muốn lìa xa nhau. Ngoài đường mọi người vội vã chạy về nhà trước giờ giới nghiêm, gây cảnh ồn ào náo động như ngày lễ hội, nhưng bên tôi không nghe gì hết ngoài hơi thở của người yêu mà thôi! Suýt nữa tôi quên trả lại nàng tấm thẻ sinh viên, nên vừa vội vàng móc bóp lấy ra thẻ sinh viên trao nàng, vừa cho nàng biết sự ghi danh thi cử giùm nàng đã xong. Mỹ Linh cười buồn nói rằng tấm thẻ sinh viên này trong nay mai rồi sẽ trở nên vô dụng.

Ngày Thứ Hai, 28 tháng 4 năm 1975: Ðồng hồ trên tường chỉ đúng 9 giờ sáng, chiếc xe taxi chở Mỹ Lan đậu trước nhà tôi. Từ giã những người thân yêu, tôi bước vào trong xe và chiếc xe taxi đưa Mỹ Lan và tôi hướng về phi trường Tân Sơn Nhất. Quang cảnh đường phố sáng nay mang bộ mặt khác thường, bởi con đường nào cũng đông nghịt xe hết. Bóng dáng các cảnh sát gìn giữ trật tự lưu thông lặn mất, khiến lưu thông xe cộ kẹt cứng khắp nơi, một hiện tượng rất lạ thường đối với thành đô. Quả thật sáng nay người dân Sài Gòn đang trực diện với không khí chiến tranh, nỗi lo âu và sợ sệt đang bao trùm khắp thành phố. Xe cộ lưu thông loạn xạ, vô trật tự, tiếng còi xe kêu vang inh ỏi, trộn lẫn với tiếng người kêu la thất thanh, tạo ra bầu không khí hoang mang, sợ hãi tột cùng một sự tắm máu sắp sửa xảy ra do tin đồn loan ra từ cả tuần qua. Chắc vì thế mà mọi người túa ra đường tìm lối ra đi, nên đường phố càng lúc càng đông, mạnh ai hối hả chạy không còn tuân theo luật lệ gì nữa!

Ông tài xế taxi nói tình hình chiến sự kể như vô vọng, Cộng quân tiến gần Biên Hòa rồi. Tin tức Cộng quân đang tiến dần vào ngoại ô thành phố Sài Gòn được lan truyền nhanh chóng, bắt đầu tạo ra bầu không khí hỗn loạn khắp mọi nơi. Chiếc xe taxi nhích từng chút khiến Mỹ Lan ngồi trong xe tỏ vẻ nóng ruột, lo lắng không gặp viên chức DAO, thì làm sao vào bên trong phi trường được. Nhưng rồi đến gần 12 giờ trưa xe taxi mới tới được phi trường, Mỹ Lan thở phào nhẹ nhõm trong khi lòng tôi bồn chồn nhớ đến Mỹ Linh. Chung quanh phi trường được canh phòng bởi nhiều vòng kẽm gai, cùng các Quân Cảnh và vài viên chức người Mỹ đứng canh gác. Lúc ấy tôi mới để ý rất đông người tụ tập bên ngoài phi trường, với ước mong vào bên trong phi trường thì mới có cơ hội đào thoát khỏi thành phố Sài Gòn có nguy cơ bị nhuộm đỏ bởi Cộng quân. Trong thấy bóng dáng Mỹ Lan, một viên chức ở cơ quan DAO đứng tuổi bước đến gần Mỹ Lan, phàn nàn rằng tại sao Mỹ Lan tới đây quá trễ, nếu mà trễ thêm chút nữa hẳn không gặp được ông ta, vì ông ta vừa được lệnh phải quay vào Tòa Ðại Sứ Mỹ. Sau đó ông ta ra lệnh cho lính Quân Cảnh gỡ vòng kẽm gai để tôi và Mỹ Lan bước vào trong phi trường, rồi đính thân ông ta lái xe chở hai đứa đến một căn phòng to rộng, nơi đang có vài ngàn nhân viên Mỹ chờ đợi ra đi. Bước vào trong căn phòng, tôi nhìn thấy mọi người đang nằm, ngồi la liệt, bàn tán tình hình đen tối trước mắt. Vì vậy tôi mới biết trong phi trường vừa có lệnh giới nghiêm 24/24, với lệnh “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, mọi cổng gác chung quanh phi trường đều đã đóng kín và được canh phòng nghiêm ngặt bởi lính hỗn hợp Quân Cảnh Việt và Thủy Quân Lục Chiến Mỹ.

Vừa ngồi xuống một khoảng trống trong căn phòng, toàn thân tôi như bị đông lạnh và tức nghẹn khi được nghe rằng do bởi tình hình đột biến quá nhanh, cơ quan DAO không thể kiểm tra danh sách nhân viên ghi tên ra đi. Do đó bất cứ thân nhân nào đi cùng với nhân viên của DAO, cũng được DAO vớt hết. Còn Mỹ Lan buông tiếng thở dài, than thầm phải mà biết được như thế thì đã kéo Mỹ Linh đi theo luôn vào phi trường. Bỗng nhiên tôi có linh cảm ông giáo sư Mỹ không thể đến bốc nàng đi như đã hứa hẹn và Mỹ Linh sẽ bị kẹt lại. Trong lòng tôi nổi lên sự linh cảm mạnh mẽ hơn khi trời đang nắng gay gắt, bỗng mây đen trên cao đột ngột kéo đến, báo hiệu cơn mưa sắp sửa đổ xuống.

Ngước mắt nhìn trời cao, tôi chỉ thấy toàn đám mây đen, mù mịt che phủ kín mặt trời. Phải chăng hiện tượng mây mù là dấu hiệu đen đúa sắp phủ xuống cuộc đời Mỹ Linh? Mây mù ngự trị trên bầu trời khá lâu, đến buổi chiều trời bắt đầu đổ mưa, tuy không nặng hột nhưng tạo ra hoàn cảnh thê lương hơn, kinh sợ hơn và u ám hơn cho thành phố Sài Gòn. Lòng tôi nóng như lửa đốt, muốn chạy ra gặp Mỹ Linh, nhưng phải đành ngồi bó chân chờ đợi lệnh giới nghiêm được tháo gỡ. Như đọc được ý nghĩ tôi muốn trở ra ngoài, bằng giọng trách móc Mỹ Lan nói rằng trong khi ai ai cũng muốn chạy vào trong đây để được chính phủ Mỹ bốc ra khỏi nước, tránh một cảnh tắm máu có thể xảy ra ngay trong lòng thành phố, thì tôi lại muốn chạy ra ngoài đặng hứng bom rơi đạn nổ. Lời Mỹ Lan nói hoàn toàn không sai! Khoảng 7 giờ tối để “chào mừng” bài diễn văn của Tổng Thống Trần Văn Hương bàn giao chức vụ Tổng Thống cho Ðại Tướng Dương Văn Minh, Cộng quân bắt đầu pháo kích vào trong phi trường. Lúc này tôi nghe nhiều tiếng la thét, tiếng kêu réo, tiếng than khóc vang lên trong đêm tối và mọi người bò lê bò lết nằm xuống tránh đạn, nhưng rất may đạn đã không rơi vào nơi căn phòng tôi và Mỹ Lan đang trú ẩn. Hình như tôi không thể ngủ được một phút giây nào, mắt mở trao tráo nghĩ đến tình thế đen tối miền Nam rơi vào tay Cộng quân, cùng nhớ ray rứt về Mỹ Linh.

Ngày Thứ Ba, 29 tháng 4 năm 1975: Nơi phi trường Tân Sơn Nhất lệnh “nội bất xuất, ngoại bất nhập” vẫn tiếp tục thi hành một cách triệt để và gắt gao hơn nữa. Bằng cách nào tôi chạy thoát ra ngoài trước lính canh phòng với khí giới trên tay và các vòng kẽm gai? Lòng tôi uất nghẹn và điếng đau ghê gớm đã không thể trở ra phi trường tìm gặp người yêu dấu. Ðến khoảng gần một giờ trưa mọi người chứng kiến quang cảnh đoàn lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ giựt sập cột đèn, cắt đứt dây điện, lượm lặt rác, thu dọn các chướng ngại vật dưới đất. Nhiều tiếng la hét và tiếng khóc than nổi lên, bởi lúc ấy ai cũng đều nghĩ chắc chắn đã bị Mỹ bỏ rơi, nên ùn ùn xách hành lý chạy ra khỏi các dãy nhà trú ẩn. Như bừng sống dậy, tôi vội vã chào từ biệt Mỹ Lan, nhập vào đoàn người ùn ùn chạy ra phi trường. Thấy tôi bỏ chạy, Mỹ Lan cũng chạy theo tôi. Chạy được một khoảng ngắn, đoàn người bỗng nghe loa phát thanh vang lên: “Tất cả hãy dừng lại và ngồi xuống đất có trật tự. Ai bất tuân sẽ bị trừng trị. Trong chốc lát sẽ có hàng trăm chiếc trực thăng đáp xuống, bốc quí vị rời khỏi đây.” Ðến giờ mọi người mới hiểu hành động của lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ là chuẩn bị bãi đáp cho chiến dịch Trực Thăng Vận vào giờ chót bốc người đi di tản của tổng thống Mỹ.

Khoảng hơn 3 giờ trưa từng đoàn trực thăng ào ào đáp xuống bãi đất trống, nơi có vài ngàn người đã mỏi mệt chờ đợi mấy ngày qua. Trái với nỗi lo âu nơi tôi có sự hỗn loạn và chen lấn đến chết người như đã xảy ra ở phi trường Ðà Nẵng, mọi người trên tay xách một hành lý nhỏ, trật tự xếp hàng một, từ từ bước vào từng chiếc trực thăng.

Buổi chiều hôm đó mây đen che kín bầu trời, từ một radio cầm tay trong đoàn người, tôi nghe giọng nói của Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, hiện là bộ trưởng Bộ Ngoại Giao, kêu gọi người Mỹ hãy rút khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ. Ðể đáp ứng lời kêu gọi đó, Cộng quân pháo kích như mưa vào phi trường Tân Sơn Nhất, nơi đang có vài ngàn người đang xếp hàng một, tuần tự leo vào từng chiếc trực thăng rời khỏi thành phố Sài Gòn thân yêu. Tiếng đạn pháo kích, tiếng cánh quạt của chiếc trực thăng hòa lẫn với tiếng mưa rơi, tạo ra âm thanh thê lương đứt từng khúc ruột trong lòng người bỏ nước ra đi. Ðôi chân nặng nề bước vào chiếc trực thăng, cõi lòng tôi nát tan cho hoàn cảnh đẩy đưa phải đành xa Mỹ Linh từ đây. Từng hạt mưa rơi đầy trên mặt trên môi tôi. Hay nước mắt đang đẫm ướt trên mặt tôi đây?

Tôi nhớ như in, đúng 7.30 tối chiếc trực thăng, có tôi và Mỹ Lan trong đó, từ từ cất cao lên mặt đất, rồi bay cao lên không trung và bay khuất thành phố Sài Gòn dấu yêu. Lúc này tôi biết rõ nước mắt đang nhạt nhòa trên đôi mi tôi. Khoảng chừng thời gian ngắn từng chiếc trực thăng hạ cánh trên Hạm Ðội Thứ Bảy ở ngoài khơi Vũng Tàu.

Ngày Thứ Tư, 30 tháng 4 năm 1975: Vào 10 giờ sáng tôi cùng với số đông đồng bào trên boong tàu của chiến hạm Okinawa, gục đầu buồn bã nghe Ðại Tướng Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng trên đài phát thanh. Mọi người bàng hoàng và kinh ngạc sao Sài Gòn thất thủ nhanh quá! Không ai nói được một lời nào! Một sự im lặng đến rợn người trên boong tàu, cúi đầu rơi lệ đón nhận tin Cộng quân đã chiếm được thành phố dấu yêu Sài Gòn. Sự im lặng đến không thể bày tỏ bằng lời nói của từng khuôn mặt thất thần trên chiến hạm Okinawa, khác nào mọi người đang mặc niệm cho thành phố Sài Gòn đang giẫy chết bởi Cộng quân.

Chiến hạm Okinawa tiếp tục lướt sóng ra đại dương mênh mông, mang chở nỗi cảm xúc kinh hoàng trên từng khuôn mặt của mọi người vừa hay tin thành phố Sài Gòn đã thất thủ. Cho tới hơn hai giờ trưa cùng ngày tất cả người tỵ nạn từ trên chiến hạm được chuyển xuống từng chiếc xuồng nhỏ. Rồi từ chiếc xuồng nhỏ, tôi và Mỹ Lan cùng đoàn người bỏ nước ra đi được chuyển sang một chiếc tàu thương mại to lớn, đậu cách chiến hạm Okinawa không xa mấy. Sau gần hai đêm ba ngày lênh đênh trên biển rộng bao la, con tàu thương mại chứa đầy người tỵ nạn cập bến tại đảo Subic Bay, Phi Luật Tân. Và sau vài đêm tá túc ở đảo Subic Bay, bằng những chuyến bay dân sự những người tỵ nạn được chở đến đảo Guam hay đảo Wake trước khi chính thức nhập cảnh vào đất Mỹ. Riêng tôi và Mỹ Lan được đưa đến đảo Wake, một căn cứ quân sự của Mỹ ở Honolulu. Rồi sau đúng ba tuần lễ tá túc trên đảo Wake, hai đứa được tạm trú trong trại tỵ nạn Camp Pendleton ở tiểu bang California.

***

Uống vài hớp tách trà đã nguội lạnh từ lâu, ông Hòa ngả dài lưng trên ghế sofa, lòng bồi hồi nhớ về các bạn đồng ngũ đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam. Chính ông đã bị thương tích đầy mình và bị giam cầm gần 8 năm ròng rã trong trại cải tạo, để suốt cuộc đời còn lại phải sống với đôi chân tật nguyền. Lòng ông cũng ngậm ngùi giùm cho các nhân vật trong tập nhật ký, bởi vì biến cố Tháng Tư 1975 đã tạo ra mối tình oan trái “tình em duyên chị” đến dở khóc dở cười, ra ngoài ý muốn cả ba.

Ông Hòa cũng ý thức được rằng biến cố Tháng Tư 1975 đã để lại biết bao chuyện oan khiên khác, mà mỗi khi hồi tưởng lại thời gian đó, lòng người bỏ nước ra đi gặm nhấm nỗi buồn đau khó thể quên được.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Tl-tuo1
Về Đầu Trang Go down
bhtran
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeFri Apr 24, 2015 11:20 am


Ký ức vụn 30 Tháng Tư

Thursday, April 23, 2015

Ẩn Danh
(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 Tháng Tư và Ðời Tị Nạn)

Thấm thoát đã gần 40 năm kể từ ngày 30 Tháng Tư 1975. Ngày ấy tôi mới 17 tuổi, tuổi đầy ước mơ và hoài bão, nhưng cũng ngổn ngang những mối lo âu. Ước mơ được vào đại học hoặc đi du học và lo biết đâu mình sẽ bị động viên vào quân đội như bố tôi. Chắc chắn ông không muốn tôi theo binh nghiệp như ông.

Vào những ngày giữa Tháng Ba, những tin không hay từ chiến trường đã dồn dập xuất hiện trên báo chí, đài truyền hình, và đài phát thanh. Ban Mê Thuột mất, rồi đến Huế, Ðà Nẵng cũng mất, sau đó Qui Nhơn, Tuy Hòa.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 206248-ToaDaiSu-4
Bên ngoài Tòa Ðại Sứ Mỹ ở Sài Gòn vào ngày 28 Tháng Tư, 1975,
hai ngày trước khi Sài Gòn thất thủ. (Hình: Getty Images)

Mẹ tôi đã thoát khỏi Tuy Hòa về Sài Gòn trên một chuyến bay dân sự trước khi thành phố này thất thủ. Bố tôi vẫn còn kẹt lại cho đến cuối Tháng Ba mới có mặt ở Sài Gòn. Khi Tuy Hòa mất, ông đã phải di tản bằng đường bộ vào Nha Trang, nhưng lúc đó Nha Trang đã rơi vào tay đối phương. Nhờ người quen giúp, ông lên được chiếc ghe liều lĩnh ra khơi không biết đi về đâu, nhưng may mắn nhóm người trên chiếc ghe đã được chiến hạm Mỹ vớt đưa về Phú Quốc rồi từ đó ông về Sài Gòn.

Sang đầu Tháng Tư, các tỉnh chung quanh Sài Gòn dần dần cũng mất, Dinh Ðộc Lập bị ném bom bởi một trung úy phi công nằm vùng. Tôi và chúng bạn vẫn đi học bình thường nhưng ai nấy đều lo lắng về số phận chính mình vì linh cảm rằng ngày mất Sài Gòn không xa.

Những ngã Sáu, ngã Bảy dựng đầy những kios tuyển quân với số tiền thưởng đầu quân hậu hĩnh. Rõ ràng tình hình chiến sự ngày càng căng thẳng, người ta rất đang cần lính. Một người bạn trong lớp tôi đã đầu quân. Lớp làm bữa tiệc nhỏ tiễn bạn mình mà cứ giống như tiễn Kinh Kha qua Dịch Thủy. Tiễn “anh” đi, chưa bao giờ buồn thế... (1)

Gia đình tôi đang phân vân việc đi hay ở lại. Bố mẹ tôi đều là dân Bắc di cư vào Nam năm 1954. Mẹ tôi khăng khăng nhất định rời Việt Nam bằng mọi cách. Bà có lẽ đã chứng kiến cảnh ông ngoại tôi bị đấu tố và hành hạ đến khi đưa về nhà thì chết nên rất sợ Cộng Sản. Bác Cả, chị lớn nhất góa chồng và hơn mẹ tôi gần 20 tuổi, đã dắt con trai duy nhất của mình và đưa cả đàn em hơn chục người với gia đình con cái họ chạy khỏi quê Phủ Lý, Hà Nam để xuống chiếc tàu há mồm di cư vào Sài Gòn.

Bố tôi cũng một lần di cư cùng với ông bà nội tôi và các em từ Phúc Yên ra Gia Lâm, Hà Nội để vào Nam. Nhưng bây giờ ông bà nội tôi đã già, bố tôi không nỡ bỏ đi, hơn nữa ông còn khoác áo lính, không muốn mang tiếng đào ngũ. Tâm niệm “Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm” của người lính đã làm ông băn khoăn.

Giữa Tháng Tư tình hình trở nên nguy kịch. Ngày 21 Tháng Tư, Tổng Thống Thiệu từ chức, cụ Trần Văn Hương chấp chánh. Chính quyền Sài Gòn đã có dấu hiệu suy sụp.

Bố tôi điện thoại cho cô Út tôi đang ở Mỹ tìm cách lo giấy tờ cho gia đình để di tản. Cả nhà hy vọng chồng cô là luật sư Mỹ có thể lo liệu giấy tờ được, nhưng tất cả cần thời gian.

Ngày 28 Tháng Tư, Cụ Trần Văn Hương từ nhiệm giao quyền lại cho ông Dương Văn Minh. Ngày 29 Tháng Tư, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích, vòng vây Sài Gòn đang khép chặt, trường ốc đóng cửa, mà có đi học cũng chẳng thể học. Phương án cuối cùng là chạy vào tòa Ðại Sứ Mỹ.

Em chồng của dì tôi là nhân viên tòa Ðại Sứ Mỹ. Gia đình cô ấy thuộc diện được bốc đi. Thế là những người thân khác có thể hy vọng đi theo với sự giúp đỡ của cô.

Qua đám người đông nghịt, tôi được đẩy vào cổng sau tòa đại sứ trên đường Phan Ðình Phùng. Lúc đó khoảng 10 giờ sáng ngày 29 Tháng Tư. Hành trang chỉ là chiếc valise nhỏ Samsonite màu xanh lá cây mà tôi vẫn giữ làm kỷ niệm. Trong túi giấu hai lạng vàng làm vật tùy thân. Vào đến sân sau tòa đại sứ tôi đã thấy một hàng người san sát nối đuôi nhau uốn lượn như rắn bò vào ra một hai căn nhà nhỏ rồi quanh co bên hồ bơi để đến gần nơi trực thăng đáp xuống.

Tôi gặp lại gia đình bác Cả, dì Út tôi, mẹ tôi, và sau đó là cô kế út của tôi. Bố tôi không vào. Mọi người lo lắng, ai cũng từng di cư, ai cũng từng nếm mùi Cộng Sản, ai cũng mong đến phiên mình được bước lên trực thăng càng sớm càng tốt.

Mẹ tôi nhất quyết ra đi dù không có bố tôi và giận tôi vì tôi có vẻ thờ ơ với mọi việc có lẽ vì tôi chưa nếm mùi Cộng Sản mà mãi sau tôi tôi mới hiểu thêm “chuyên chính vô sản” là gì. Tôi vẫn chậm chạp tiến lên trong khi mọi người cố đi nhanh. Tôi và người anh họ tên C, con trai duy nhất của bác Cả tôi dắt theo từ Bắc vào Nam, đã từ từ tách xa những người thân phía trước. Hết đứng rồi lại ngồi nghỉ, mệt mỏi, không ăn trưa, không ăn chiều, chỉ uống nước và chờ đợi. Trời đã tắt lịm, đèn trong sân sau đã thắp sáng. Ðoàn người vẫn đi quanh bờ hồ, đường rất ngắn mà xem chừng thật xa, cả tiếng đồng hồ mới có một chiếc trực thăng đáp xuống và bay lên.

Gần 10 giờ tối, nhóm người thân đi trước đã được bốc đi. Trong đó có mẹ tôi, cô tôi, bác Cả tôi và người con dâu với hai đứa cháu nội, một đứa mới sinh và một lẫng cẫng biết đi, và gia đình dì tôi gồm 7 người với cậu em họ bị polio liệt hai chân phải cõng.

Ðến nửa đêm trực thăng không đáp xuống sân sau nữa. Chúng tôi được đưa vào bên trong tòa đại sứ để lên sân thượng nơi cuối cùng mà trực thăng có thể đáp xuống, hàng người vẫn nối dài đi qua từng bậc cầu thang của 6 tầng lầu, rất chậm và rất chậm. Qua từng tầng lầu, tôi lén nhìn vào khung cửa kính nhỏ thấy nhân viên Mỹ đang hủy giấy tờ và thấy một người cao ốm đi đi lại lại trong phòng mà tôi đoán đó là ông Ðại Sứ Martin vì tôi đã thấy đâu đó trên TV hay báo chí.

Cuối cùng tôi và người anh họ cũng lên đến tầng cuối. Lúc đó khoảng 2 giờ khuya. Trước mặt tôi là cầu thang chót dẫn lên sân thượng. Chỉ mươi bước nữa thôi tôi sẽ xa Sài Gòn để sống một nơi xa lạ, xa người thân, xa bạn bè. Trong lúc suy nghĩ vu vơ thì một người lính Mỹ bắt đầu đếm chúng tôi, họ cho mười người bước sang bên kia chân cầu thang. Tôi là người thứ mười một và kế tiếp là anh họ tôi. Tôi hiểu rằng nhóm bên kia sẽ được lên sân thượng trước, tôi liều nói dối họ bằng tiếng Anh bập bẹ của mình “our relatives are on other side, please let us join them.” Thế là họ cho chúng tôi qua cùng dăm ba người khác.

Ðộ hơn ba giờ sáng họ bắt đầu lại đếm người và cho lên sân thượng. Nhưng khốn thay, họ cho mười người bên nhóm này rồi mười người bên nhóm kia lên sân thượng. Tôi và anh tôi bị chặn lại và tất cả lại chờ đợi. Ðến bốn giờ sáng vẫn không thấy nhúc nhích, nỗi lo lắng và mệt mỏi mỗi lúc mỗi tăng, suốt đêm không ai ngủ, chỉ chờ đợi và chờ đợi. Thế rồi những người lính Mỹ ra dấu và nói với chúng tôi trực thăng bây giờ đáp ở dưới sân và yêu cầu chúng tôi đi xuống. Có lẽ mọi người khác cũng như tôi cảm thấy một điều gì bất thường nhưng không thể cưỡng lại yêu cầu của họ.

Tất cả lục đục đi xuống. Vừa ra khỏi tòa nhà, tôi ngoái đầu nhìn lại thấy độ hai chục lính Mỹ đang chĩa súng về phía đám đông. Khi người Việt cuối cùng vừa ra khỏi tòa nhà thì những người lính Mỹ rút dần vào trong theo hình chữ V và cánh cửa sắt hạ xuống. Tôi biết thế là hết và chợt cảm thấy mắt mũi cay xè. Họ đã tung hơi cay và lựu đạn khói để giải tán đám đông. Mọi người chạy dạt khỏi tấm cửa sắt. Tôi vừa chạy vừa bịt mũi miệng để tránh hít hơi cay. Chỉ mươi phút sau khói và hơi cay cũng tan biến đi.

Cuối Tháng Tư, mới năm giờ, trời le lói sáng, ánh đèn điện vẫn chưa tắt. Trên mặt đất và hồ bơi ngổn ngang giấy rác. Cổng đã bị phá, người bên ngoài ùa vào để hôi của, lấy tất cả những gì mà họ có thể lấy, tủ lạnh, TV, nồi niêu xoong chảo, v.v... Bất chợt tôi thấy một người Mỹ chạy vội vã, tay cầm điện thoại vô tuyến cố gắng liên lạc với bên trong tòa đại sứ. Lẽo đẽo theo ông ta là một phụ nữ người Việt, có lẽ là vợ hay bạn gái. Ông ta cũng bị bỏ rơi như tôi. Ông ta thỉnh thoảng quay lại lớn tiếng với người phụ nữ dường như trách móc vì bà mà ông bị bỏ lại. Tôi cũng không hơn gì, anh họ tôi khóc và trách vì tôi mà anh ấy lạc mẹ và vợ con. Tôi chẳng có gì để phân trần với anh ấy. Thôi thì “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, tất cả tại tôi mọi đàng” (2) và tôi lẳng lặng ra cổng sau nơi tôi đã chen vào sáng hôm qua để về nhà.

Trời sáng hơn dẫu chưa 6 giờ, đường sá vắng tanh và yên lặng một cách kỳ lạ, giống như một thành phố bỏ hoang. Tôi đi vội vã trên con đường Phan Ðình Phùng quen thuộc mà tôi vẫn đạp xe đến Hội Việt Mỹ học Anh văn hàng tuần. Tôi chỉ muốn về nhà thật chóng, thỉnh thoảng bắt gặp một vài người đạp xích lô hỏi tôi muốn đi không, nhưng tôi từ chối khéo rằng tôi sắp đến nhà vì tôi không chắc họ thật lòng đưa mình về nhà hay đi đâu và rất có thể bị cướp. Tôi đang lo đến sự an nguy của ông bà nội và bố tôi. Trong đầu tôi hiện lên lời ông nội tôi nhắn nhủ “ông bà đã già, chỉ cần cho cháu đi thoát được, nếu ‘họ’ vào thì ông bà quyết không để cho ‘họ’ làm nhục ông bà.”

Tôi hiểu ông nói gì. Trong tủ thuốc có sẵn hàng chục viên thuốc ngủ và sẽ được dùng khi cần. Ông tôi, từ một thầy giáo tiểu học thời Pháp thuộc đã đến với Việt Minh qua phong trào “Truyền bá chữ quốc ngữ” do cụ Nguyễn Văn Tố khởi xướng. Nhưng ông tôi cũng sớm rời bỏ kháng chiến để dinh tê (re-entré) về vùng của Pháp. Cụ đã nhận thấy cái ác, cực ác của chủ nghĩa cộng sản, sẵn sàng thanh toán, thủ tiêu bất cứ ai khác chính kiến (3). Họ có thể trả thù, đấu tố, trừng phạt những người đã bỏ hàng ngũ kháng chiến như ông nội tôi. Không ai biết được những gì sẽ xảy ra (4).

Ði ngang chợ Vườn Chuối, rồi chợ Bàn Cờ. Hàng quán thưa thớt lạ lùng mà lẽ ra giờ này phải đông đúc tấp nập. Thoáng trong đầu tôi một sự tưởng tượng ghê sợ: mình sẽ là đứa trẻ mồ côi khi về nhà không còn thấy ai sống. Tôi cố gắng đi càng nhanh càng tốt, dù rất mệt hầu như không còn sức. Ðến nhà, nhìn vào không thấy đèn sáng, tôi gõ mạnh liên tục vào tấm cửa kéo rồi nghe tiếng chân bước ra hỏi “ai đấy.” Nỗi lo sợ tan biến đi, tôi vội nói rõ to “cháu đây bà ơi.” Bà tôi vội mở cửa và nói vọng vào trong nhà “cháu nó về, ông à.” Cả nhà vội ra cửa nhìn tôi ngạc nhiên.

Câu nói đầu tiên của tôi là “cháu cần đi ngủ.” Thức trắng cả đêm và không có gì trong bụng suốt ngày hôm qua. Tôi rất mệt và cần ngủ.

Nhưng tôi không ngủ được nhiều. Ðầu óc vẫn bàng hoàng. Lúc tôi thức dậy bà đã nấu cho tôi tô cháo đậu xanh như mỗi lần tôi ốm. Vừa ăn tôi kể lại những gì xảy ra trong đêm qua. Không ai nói gì, một yên lặng bi thương.

Chiếc radio vẫn để mở liên lục để theo dõi tin tức. Rồi tin đúng trưa hôm đó là lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Cuộc chiến Nam Bắc đã chính thức chấm dứt. “Hòa bình” đã đến. Quá trưa tôi đạp xe đến nhà cô P, em kế bố tôi, ở gần cổng xe lửa số 6 đường Trương Minh Giảng mới hay cả nhà đi hết với người em chồng mà sau này mới biết họ đi từ cơ quan DAO (Defense Attaché Office). Và tôi cũng ghé đến gia đình bác T, một người chị khác của mẹ tôi, ở ngã ba Ông Tạ. Cả nhà cũng đi hết. Họ đã xuống Vũng Tàu từ vài ngày trước. Tôi lủi thủi đạp xe về, lòng dạ trống trải kỳ lạ.

Tôi trở lại trường tiếp tục học. Vài thầy cô và bạn bè vắng mặt, trong đó có người bạn gần nhà mà tôi đã đến giã từ trước khi vào tòa đại sứ, nhưng bây giờ chính anh là người đi thoát còn tôi thì kẹt lại. (Sau này tôi biết anh đã cố gắng giúp mẹ tôi tìm tôi bên đảo Guam mà không được. Tôi vẫn tri ân điều đó.)

Mươi ngày sau bố tôi được gọi lên trình diện với chính quyền mới. Ban đầu được sáng đi học “cải tạo,” chiều về. Rồi sau đó được lệnh mang theo lương thực đủ cho bốn năm ngày vì học lâu hơn. Ai cũng ngỡ chỉ một tuần thì “học” xong. Nhưng không, ngày về không có. Ðó là bài học đầu tiên cho tôi và người dân miền Nam về sự dối trá của chính quyền mới. Và rồi đây chính tôi sẽ phải biết nói dối, phải biết cảm ơn Bác và Ðảng đã giải phóng tôi. Tôi sẽ không còn là tôi nữa. Bằng không, tôi sẽ không tồn tại. Làm sao có thể suy tư là tồn tại theo kiểu của René Descartes, “Je pense, donc je suis”?

Mấy ngày sau sinh hoạt hàng ngày có vẻ bình thường lại, chính quyền mới tổ chức ăn mừng chiến thắng. Học sinh, sinh viên được quy tụ lại mít tinh mừng chiến thắng, mừng lễ Lao Ðộng, mừng sinh nhật “bác Hồ.”

Trong lúc đó người đưa thư quen thuộc đến giao gia đình tôi bức điện tín từ Mỹ. Tin ngắn gọn yêu cầu tòa đại sứ cho gia đình tôi vào. Nhưng tất cả đã muộn. Không còn tòa đại sứ Mỹ nữa.

Rồi ít lâu sau ông bà tôi nhận được thư từ miền Bắc gửi vào, đó là thư của bác ruột, anh cả của bố tôi. Sở dĩ bác biết được địa chỉ gia đình tôi là nhờ cụ HT ở Hà Nội vẫn đôi khi thư từ với người con gái cụ ở Sài Gòn trước năm 75 qua trung gian bên Pháp.

Bác tôi đã mất liên lạc với gia đình khi ông bà tôi di cư vào Nam năm 54, tôi không biết hoàn cảnh của bác có giống tôi ngày nay không? Nhưng qua thư tôi biết thêm anh chị họ tôi và những người thân khác bên kia vĩ tuyến 17. Cũng qua thư bác, tôi mới thấy một nghịch cảnh trong gia đình: hai anh em hai chiến tuyến. Bố tôi 'lính của cụ Ngô,' còn bác tôi 'bộ đội cụ Hồ.' Chỉ có một điều may mắn là hai anh em đã không chĩa súng vào nhau mà bắn. Cả hai đã sống sót qua cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn.

Bác tôi cũng ngạc nhiên khi biết tôi không phải như những gì mà báo chí miền Bắc tuyên truyền: thanh niên miền Nam hư đốn, sa đọa, đồi trụy bị Mỹ đầu độc, v.v...

Ngày bác tôi và tôi đi thăm bố tôi trong trại “cải tạo” Long Giao, bác tôi và bố tôi đã không nói được nhiều dẫu có thể muốn nói rất nhiều, đã không ôm nhau, tay bắt mặt mừng sau hơn 20 năm xa cách.

Phải chăng chiến tranh và các chủ nghĩa ngoại lai đã làm cho hai anh em khác chiến tuyến lãnh đạm, thờ ơ với nhau. Nhưng tôi vẫn tin rằng dẫu có thể khác nhau nhiều về chính kiến nhưng cả hai vẫn có tình anh em, máu mủ ruột thịt, cùng bố cùng mẹ.

Ðiều mà tôi quí bác là sự thành thật ban đầu. Bác quan tâm việc học của tôi, lo lắng vấn đề lý lịch của tôi sẽ bị ảnh hưởng việc thi vào đại học. Tôi đoán chừng bác tôi cũng bị xem xét lý lịch khi có bố mẹ và các em di cư vào Nam. (Phải chăng bác tôi đã phải trung thành với chế độ để con cái đỡ cơ cực về lý lịch? Phải chăng đó là cách hy sinh đời bố, củng cố đời con?)

Mà đúng như vậy, tôi đã rớt kỳ thi vào Y Khoa sau khi tốt nghiệp trung học năm 76. Chị họ tôi cũng từng nói qua kinh nghiệm của chị: họ chỉ ưu tiên cho những thành phần “cơ bản” vào đại học. “Thành phần cơ bản là gì?” Tôi hỏi. Chị trả lời: Là thành phần ba đời ăn củ chuối. Tôi chẳng biết củ chuối ra sao và có lẽ tổ tiên ông bà tôi cũng chưa bao giờ phải ăn củ chuối.

Bố tôi đã đi “cải tạo”. Cô tôi đã di tản và tiệm cho thuê sách của cô đã đóng. Hơn mười một ngàn cuốn sách bị tịch thu vì bị xem là “văn hóa phẩm phản động và đồi trụy,” kể cả những sách “Học Làm Người” của Nguyễn Hiến Lê. Nhà chỉ còn tôi và ông bà nội. Cuộc sống vẫn bình thường mặc dù thiếu thốn hơn xưa. Không thể nào dễ dàng mua miếng thịt bó rau như trước. Lương thực, thực phẩm, vải vóc được phân phối theo đầu người. Ði lại cũng khó khăn hơn, phải xin phép mới được. Thẻ căn cước được thay bằng chứng minh nhân dân. Sổ gia đình được được thay bằng sổ hộ khẩu để dựa vào đó chính quyền mới sẽ kiểm soát chặt chẽ từng người, thậm chí cả cái dạ dày mỗi người. Ðúng là “bắt phanh trần phải phanh trần, cho may ô mới được phần may ô.” (5).

Chuyện đói no tôi không quan tâm lắm, gia đình vẫn còn đủ dự trữ để sinh sống dù kém hơn xưa. Ðiều tôi lo là mẹ tôi. Tờ báo mới, Sài Gòn Giải Phóng, đưa tin những người Việt ở Guam “đấu tranh đòi trở về nước.” Tôi lo nếu mẹ tôi về thì bà phải đi “kinh tế mới,” nghĩa là phải về vùng quê cày sâu cuốc bẫm. Rất may mẹ tôi rất sợ Cộng Sản và không về, không bao giờ về dẫu cho đến ngày bà qua đời trên đất Mỹ. Tôi không hình dung được cái sợ Cộng Sản của mẹ tôi như thế nào nhưng tôi chắc bà bị ám ảnh ghê gớm bởi ký ức các cuộc đấu tố khủng khiếp, long trời lở đất trên quê hương của bà.

Sau khi rớt đại học tôi hiểu thêm số phận của mình trong chế độ mới. Việc tiếp tục học trở nên diệu vợi.

Một người bạn hàng xóm rủ tôi đi xin việc ở một công ty chất đốt, thực chất là công ty bán than, than bùn được vo lại thành cục mà người ta gọi là than quả bàng.

Ðơn xin việc chẳng qua là tờ khai sơ yếu lý lịch với yêu cầu phải thành thực. Ngày tôi đi xin việc cũng là ngày tôi không bao giờ quên. Trong phòng thu đơn xin việc của tôi là một người đàn ông trung niên môi thâm, da sạm như sốt rét ngã nước trong chiếc áo xanh lá mạ của bộ đội. Mặt lạnh như tiền, ông ta xem đơn của tôi rồi gạt sang bên và bảo tôi đi về. Không biết vô tình hay cố ý, ông gạt khá mạnh và tờ đơn rơi xuống đất. Tôi cúi xuống nhặt và nhìn thẳng vào mắt ông ta không nói nhưng ngầm cho ông biết tôi có khả năng làm hơn cái công việc xúc than đem bán.

Bài học thứ hai trong đời tôi là sự phân biệt đối xử, con người đã được xem xét qua chủ nghĩa lý lịch chứ không phải năng lực. Ai đó đã nói: Loài người làm nên lịch sử, thì tôi cũng phải thêm vào: Con người cũng là nạn nhân của lịch sử. Không ai có thể chọn một gia đình hay một xã hội để sinh ra, thì cũng đừng dựa vào đó để đánh giá và phán xét.

Tôi không thể ăn không ngồi rỗi mãi. Con đường còn lại dành cho tôi là “thanh niên xung phong” mà vài người bạn cùng trường cũng chịu số phận như tôi. Ngày ra quân tại sân vận động Cộng Hòa với hơn chục ngàn thanh niên, ông Võ Văn Kiệt phát biểu: “Thanh niên xung phong (TNXP) là trường đại học lớn cho các em.” Tôi không biết đó có phải là đại học hay không, nhưng tôi biết nơi đó không có thầy cô và sách vở, không có bảng đen và phấn trắng, mà chỉ có cuốc xẻng, với hai bộ quần áo, đôi dép râu, và chiếc nón tai bèo. Tôi thầm nghĩ chẳng lẽ đời mình phải ăn củ chuối sao?

Ai đó đã làm hai câu thơ tả Thanh Niên Xung Phong “Ðôi dép râu giẫm nát đời son trẻ/ Nón tai bèo che khuất ánh Thái Dương.” Nhưng tôi vẫn lạc quan tin rằng bĩ vận sẽ qua đi. Còn trời, còn đất, còn non nước/ Có lẽ ta đâu mãi thế này (6).

Năm 78, chiến tranh biên giới Tây Nam bùng nổ giữa Việt Nam và Khmer đỏ. Nhiều đơn vị TNXP được chuyển đến chiến trường để hỗ trợ cho bộ đội. Ðơn vị tôi cũng rục rịch di chuyển. Trong lao động có nhiều thanh niên xung phong đã chết hay bị thương vì cuốc phải bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Huống hồ nay chúng tôi sắp sửa bị ném vào nơi bom rơi đạn nổ, khó mà tránh khỏi nguy cơ thương tật hay chết một cách lãng nhách.

Tôi không muốn làm “dân đen bị nướng trên ngọn lửa hung tàn” hay “con đỏ bị vùi dưới hầm tai vạ” (7) nên đã tìm cách xuất ngũ. Ông bà tôi đã xin cho tôi về vì lý do già cả neo đơn. Tôi trở về Sài Gòn làm phụ kế toán của hợp tác xã tiêu thụ phường và tự ôn bài để thi lại Y khoa năm sau. Lần này tôi may mắn được vào đại học, có lẽ do sự nới rộng chính sách tuyển sinh. Ðúng ngày nhập học đầu tiên thì anh họ tôi, người bị kẹt lại với tôi trong tòa Ðại Sứ Mỹ, tới nhà rủ đi vượt biên với bác Th., anh rể của mẹ tôi, và hai người con trai của bác. Tôi không có ở nhà để theo họ. Tất cả đều mất tích ngoài biển. Bố tôi sau đó được thả. Ông quyết định vượt biên. Ông và tôi đi một lần thất bại. Lần thứ hai tôi không đi, còn bố tôi đi thì bị bắt, lại vào tù. Phải chăng số tôi có lẽ không chết, không bị tù, chỉ khó nhọc thôi? Bây giờ thì chỉ chờ mẹ tôi bảo lãnh đoàn tụ gia đình. Cuối cùng bố tôi và tôi đặt chân đến Mỹ cuối năm 1984 sau gần mười năm sống với chủ nghĩa xã hội và hiểu thực chất nó là gì.

***

Bốn mươi năm trôi qua như chớp mắt, từ cậu thiếu niên 17 tuổi ngày nào nay sắp sửa 60. Da đã đốm mồi, tóc đã nhuốm bạc và thưa. Vật đổi sao dời, số phận tôi thăng trầm theo vận nước nổi trôi. Nhìn lại quãng đời đi qua, tôi cảm thấy mình còn may mắn hơn nhiều người. Không tật nguyền hay chết vì bom đạn, không bỏ xác ngoài biển khơi, không bị tù đày như nhiều người khác. Tôi cũng may mắn tiếp tục học xong đại học, có nghề có nghiệp, không phải tha phương cầu thực ở xứ người. Tôi cũng may mắn được người bạn đời đảm đang, quán xuyến giúp tôi có cuộc sống tươm tất như ngày hôm nay.

Nhưng điều mà tôi mãn nguyện nhất là thế hệ sau của tôi được sinh ra và lớn lên trong môi trường lành mạnh, trong một xã hội nhân bản và tử tế để có cơ hội làm người tử tế, sống ngay thẳng và thành thực với chính mình. Nó được đối xử công bằng, bình đẳng, và không phải đương đầu với những kẻ quyền thế vô lại, không phải xin xỏ sự ban ơn của chế độ toàn trị.

Nước Mỹ đã trở thành quê hương thứ hai của gia đình tôi. Ðất nước Việt Nam nơi tôi sinh ra và lớn lên vẫn còn đó, nhưng xã hội Việt Nam đã tha hóa rồi, nó đi đâu về đâu thì tôi không thể nào biết được.

Chú thích:

(1) Mượn và đổi lời nhạc “Tiễn Em” của Phạm Duy thành “tiễn anh.”
(2) Lời xưng tội “mea culpa, mea culpa, mea maxima culpa.”
(3) Chuyện ông nội tôi kể lại: Sau khi Việt Minh bắt giết Phạm Quỳnh, họ còn muốn thủ tiêu một trí thức khác và giao cho ông nội tôi đi chặn bắt vị này. Nhưng ông nội tôi đã cố ý bê trễ để vị này đi thoát vì biết đó không những là nhà trí thức có nhân cách muốn khai phóng dân trí mà còn là bạn học đồng môn của bố mình. Ðó không ai khác hơn là cụ Tuần Phủ Hoàng Huân Trung, hội trưởng Hội Khai Trí Tiến Ðức, đồng sáng lập với Phạm Quỳnh. Có lẽ sau vụ đó ông nội tôi quyết định từ bỏ Việt Minh. Kháng chiến giành độc lập là điều tốt, nhưng sát hại các trí thức có tâm huyết là một việc ác nhân bất nghĩa. Hội Khai Trí Tiến Ðức đã bị xóa bỏ sau khi Việt Minh cướp chính quyền.
(4) Khoảng đầu năm 76 có một người trung niên tự nhận là người đồng hương đến thăm ông nội tôi mà ông tôi không biết được gốc gác người này như thế nào. Thực ra người này đến chỉ để hỏi dò ông tôi có tham gia gì cho chính quyền Sài Gòn trước đây hay không. Ông nội tôi từ khi rời bỏ kháng chiến đã không màng đến chính trị nữa và trở lại nghề dạy học rồi làm công chức cho Nha Học Chính đến ngày về hưu năm 1967.
(5) Lời thơ Kim Vân Kiều của Nguyễn Du “Bắt phong trần phải phong trần/ Cho thanh cao mới được phần thanh cao” đã được ai đó sửa lại.
(6) Mượn lời thơ “Than Nghèo” của Nguyễn Công Trứ.
(7) Mượn lời từ “Bình Ngô Ðại Cáo” của Nguyễn Trãi.

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticles30thang4.aspx?articleid=206248&zoneid=492#.VTpq77HwqHe
Về Đầu Trang Go down
bhtran
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeSun Apr 26, 2015 9:08 am


Tự Do Ôi Tự Do




Hạt Sương Khuya (Danlambao) - Có những nỗi buồn không chờ cũng đến… có những niềm đau không gọi cũng về. Nỗi buồn ấy đã làm bưng mủ trái tim, làm trơ hốc mắt khi nhìn vào tận sâu đáy huyệt mộ quá khứ, nghe nỗi đau chạy dài nơi miền ký ức làm tim thổn thức. Văng vẳng đâu đây tiếng người gọi nhau trong cơn biến loạn, lửa, máu, nước mắt, tiếng gào thét, tiếng chân người bồng bế nhau chạy, thây người ngã xuống… một mảnh bom cắt đứt con đường hy vọng, Mẹ gục ngã, Cha hy sinh ngoài chiến trận, con mồ côi. Có giọt nước mắt nào lăn khẽ trên vết hằn năm tháng của một phận đời. Bức tranh tháng Tư lại về…

30 tháng 4… ngày con sông Bến Hải không còn ngăn cách, ngày có triệu người vui, triệu người buồn. Một sự 'thống nhất' bằng máu của hơn ba triệu nhân mạng, của cả hai miền cho một cuộc chiến xâm lược được khởi đi từ Cộng sản Bắc Việt. Ngày dân Miền Nam khắc sâu bằng máu trong tim với hai chữ QUỐC HẬN, khởi đầu cho những oan khiên qua nhiều chính sách tàn bạo, tạo thêm một hố sâu chia rẽ, hận thù trong lòng dân tộc, mặc dù đã bốn mươi năm trôi qua, cái hệ lụy ấy đã không thể nào hàn gắn lại những vết thương chiến tranh, quá khứ. Bốn mươi năm trôi qua, dù người dân Miền Nam có muốn đặt Tổ Quốc trên mọi nỗi đau mất mát, tạm gác lại trong lòng hai chữ Quốc Hận, thì cả dân tộc Việt Nam này cũng không thể nào chấp nhận cúi đầu làm nô lệ cho bọn mãi quốc cầu vinh, đem gấm vóc sơn hà dâng bán cho Tàu cộng.

Chân Dung Tị Nạn.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Image04

Chân Dung Tỵ Nạn ( 3mx1m) Tranh sơn dầu

Trước mặt tôi là bức 'Chân Dung Tỵ Nạn' của họa sĩ Trần Thúc Lân. Một bức tranh nói lên cuộc hành trình đi tìm Tự Do của người Việt, một cuộc bỏ phiếu bằng chân lớn nhất trong lịch sử, đã làm rung động trái tim nhân loại trước viễn cảnh của những thân phận tỵ nạn thà chết trên biển đông chứ không chấp nhận sống chung với chế độ cộng sản.



Người thợ vẽ Chiến sĩ tự do.

Tôi có chút duyên hạnh ngộ cùng bác Trần Thúc Lân. Một người rất nổi tiếng với những bức chân dung về Tù Nhân Chính Trị mà chúng ta thường gặp trên các Video Clip hay trong những bài viết... từ Điếu Cầy, Tạ Phong Tần, Vi Đức Hồi, đến Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, Bùi Thị Minh Hằng, Phạm Thanh Nghiên, hay người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu, Trương Văn Sương v...v...

Mỗi một chân dung là một nỗi đau trên nét vẽ của người họa sĩ.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU QCl_tEnUIcDILKxzGvawQCYokdmJM6PZtx-pfSnLAaEYv77kNjcbL3TY98wNuqdpo_2PsocBQSP5nObxb0Uz68ZzZBYW4lHUtYgSTswwDfHmIay7df794eK38YqzRGgZcnbXLhrLhy9ISGTi

Vượt Biển (38cmx55cm)

Khi nói đến Thuyền nhân Việt Nam… là nói đến nỗi kinh hoàng của một giai đoạn lịch sử khốc liệt; nói đến những gương mặt lo lắng trong đêm tối, hồi hộp sợ hãi không biết cuộc ra đi lần này sẽ đưa đến nhà tù hay lối thoát; hay nói đến những con thuyền mong manh nặng trĩu với những phận người không còn gì để mất.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU KfwBIbQAmG4EHkPL_YD2XPZeY_Z-og3RsqUJqXMXivpTG_IdktyTaukijoFCM4JV0bSGrAWgaowfEd-pUrBj8cEQU56r5M5olZyrZKYoLMfJdA2VuG32itQ3mBnsbjsaHF6A8Y0OFIP9GvVW

Lênh Đênh (60x60)

Rồi những ngày lênh đênh trên biển cả. Những thân người rũ rượi nằm trong khoan tàu bé nhỏ, chật hẹp đói khát, cùng với cái nóng thiêu đốt khiến môi khô khốc, trí giác tê liệt. Có những người đã không chịu nổi và nhảy xuống biển vì điên loạn. Ôi... những con thuyền mong manh trôi dạt không bến bờ, kẻ khóc, người kêu gào xen lẫn trong tiếng cầu kinh. Lạy Chúa, lạy Mẹ xin cứu chúng con. Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn… những âm thanh ấy đang chìm dần trong bóng đêm vô vọng.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 0cRyzKiYSFAvi290C9Siui5NdneeBQ5-9OkvGPxcculcSvGVaUl7VJ4aXRmumUMUlQaOvZqq4Wls99srNd3_IIp9jyTooLHTjCD9i8-cvVmGIE1EXhtuOFrD7FK8mL-9yzk0TIiYz-nJsVlo

Cứu Vớt (1mx50cm)

Thượng đế đã xót thương. Ôi những con tàu định mệnh, những trái tim vĩ đại của nhân loại còn biết đau nỗi đau đồng loại. Thoát rồi một địa ngục trần gian… cánh cửa thiên đàng đang rộng mở, có đôi tay nào đang cứu rỗi những linh hồn trong cơn hấp hối… Tự Do ôi Tự Do… tôi đổi bằng nước mắt, anh đổi bằng máu xương, em đổi bằng thân xác, vì hai chữ Tự Do, ta mang đời lưu vong. (Nam Lộc)

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU AOcZxDPY-_nWxf-S2BaZUGC8IhyVPeRBM0-xJEWDkQd4JJfbrTUaMaZclpIzqe37uZm2Co3PS-telIsMkuy8H8czOfRro3JxvvazQV6jr-IIjKQP4cqt0wo1jRub0K-GsO7zw5TRZaTa93Pl
Trại Tỵ Nạn (73cmx50cm)

Mã Lai, Thái Lan, Indonesia, Singapor, Philippin, HongKong. Những vùng đất cưu mang những bước chân tỵ nạn. Dù đã đến được bến bờ bình an, nhưng tâm trạng của thuyền nhân vẫn còn hoang mang, lo lắng trong chuỗi ngày dài chờ đợi. Kẻ vô vọng chờ đợi tin tức người thân, người chờ đợi thủ tục định cư. Ánh mắt trẻ thơ in hằn nỗi đau quá khứ, chất chứa một khát vọng tương lai, dù không tuyệt vọng nhưng tương lai vẫn còn là một vũng tối… nơi cuối đường ấy có hay không một tia sáng hy vọng?

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU IRVvYu457sTYhbPVx4ELUu8e_jVrAxr3zlH-4zzCvcZfAKaWzP3k9PGOFFlcrUl4wrSY9g0X8nFJB3bwzJ4_CD4AorwTDrvPI5sfgcz5h1Q5V2-tOjjALdU5bi0GR-sxSpmC2U_Q-UkUlxqN

Định Cư (60x60)

Và rồi cái khát vọng Tự Do… như hình bóng của những cánh chim Hải Âu đã trở thành hình bóng chiếc phi cơ đưa người tỵ nạn đến bến bờ Tự Do. Hạnh phúc vỡ òa khi nhìn thấy màu Cờ Vàng phất phới trên đôi tay của những đồng bào ruột thịt, những cái ôm siết chặt, nghẹn ngào trong tiếng nấc của yêu thương. Nỗi nhớ chia lìa nay đã được lấp đầy trong ngày đoàn tụ. Niềm vui và hạnh phúc rạng ngời trên khuôn mặt trẻ thơ, trước một tấm vở mở ra ngàn cơ hội ăn học để thành người. Xin cảm ơn đất nước đã cưu mang những người dân Việt khốn cùng, mở ra cánh cửa tương lai cho thế hệ mai sau. Hình ảnh người Cha chỉ vẽ nửa người như đã để lại nửa đời cho quê hương, cho những người còn ở lại. Nửa còn lại dành cho các con với niềm tin yêu, che chở. Giấc mơ cố hương là niềm hy vọng mà đôi tay người Cha đã đặt trách nhiệm tương lai của đất nước trên đôi vai người con gái nhỏ bé. Trong manh áo ấm giá lạnh quê người, đôi chân trần chạm đất như không tách xa cội nguồn. Nhìn cậu bé ôm lá Cờ vàng trong lòng, tôi nghe hồn nước trào dâng trong từng huyết quản.

Những bức tranh khác biệt về khuôn khổ và rời rạc đã nói lên năm chặng đường cuộc Hành Trình Tự Do của người Việt: 1/Vượt Biển 2/Lênh Đênh 3/Cứu Vớt 4/Trại Tỵ Nạn 5/Định Cư. Ý nghĩa của sự rời rạc nhắc lại những mảnh đời, những gia đình tan nát trong cuộc hành trình đi tìm tự do này. Và bộ tranh khi được ráp lại như biểu tượng cho sự hàn gắn, đoàn tụ của những số phận lưu vong trên khắp năm châu được nối liền bởi một lý tưởng chung, đó là Tự Do mà cánh Hải Âu là tượng hình.

Số phận của bộ tranh Chân Dung Tỵ Nạn này có lẽ cũng 'lận đận' như những bước chân Tự Do. Tôi được Bác cho biết, khởi đầu là do anh Lê Minh bên Úc đặt tranh. Bác Lân là họa sĩ ngụ tại Paris. Nay bộ tranh đã hoàn tất, và tôi rất hân hạnh sẽ là người đại diện Bác đem bộ tranh sang Washington DC để tham dự chương trình Vinh Danh và Tri Ân ở Kennedy Center. Điểm cuối cùng dừng chân của bộ tranh Chân Dung Tỵ Nạn sẽ là Việt Museum tại San Jose, nơi lưu lại những mảnh đời khốn cùng trên hành trình đi tìm tự do. Mời quý vị vào Link dưới đây để biết thêm về Bảo Tàng Người Việt (Viet Museum). (*)

Là một nhân chứng trong cuộc chiến hai mươi năm. Bác Lân hiểu khá rõ về nỗi đau chung của dân tộc, cũng như nỗi đau riêng của những người như Bác đã trải qua hai cuộc di cư, hai lần bỏ xứ ra đi không một lần trở lại. Còn ai hiểu Bác hơn cô con gái của Bác. Chị Lan, người bạn mà tôi đã tình cờ làm quen trong một lần biểu tình ở Paris, kể từ đó đã trở thành thân thiết. Khi người Cha trăn trở trên một bức tranh, người con gái chăm chút đặt bút xuống viết lời cho một bài hát, hai cách thể hiện khác nhau nhưng cùng chung một mục đích, một lý tưởng. Và như thế bài 'Tự Do Ôi Tự Do' đã ra đời như một điệu ru cho những người đã yên nghỉ trong lòng biển cả, và cũng là tiếng gọi đánh thức lương tâm nhân loại. Xin đừng quên những thân xác đã nằm xuống vì hai chữ Tự Do.

Tôi được Lan cho biết anh Phùng Mai từ Quỹ Tù Nhân Lương Tâm bên Úc đã yêu cầu làm một bài thơ tiếng Anh cho một bài hát, và theo những đề nghị sau đó đã làm thêm lời Việt, và sau cùng là lời Pháp cho cùng một điệu nhạc. Tôi rất hân hạnh khi nhận lãnh trình bày tác phẩm này. Là một người luôn đặt mình trong trách nhiệm khi trình bày một ca khúc đấu tranh, tôi không cho phép mình làm việc theo cách 'làm cho có'. Mặc dù đã thâu bài hát này ngay sau khi nhận lời, tôi vẫn không vừa lòng với chính tôi. Dù thời gian và phương tiện eo hẹp, tôi đã cố hết sức mình để có thể hoàn tất cho kịp phổ biến vào dịp tháng Tư này như đã hứa với Bác và Lan. Cảm nhận được sự miệt mài của Bác qua nét cọ, sự chăm chút của Lan qua lời thơ… và tôi đã thả hồn mình theo tiếng hát… !

Tôi từng kính trọng tinh thần phụng sự cho chính nghĩa Quốc gia của Bác Lân qua những bức chân dung của các Tù nhân lương tâm mà Bác đã vẽ bằng nỗi đau của chính mình dành cho những ai đang sống cảnh tù đày trên quê Mẹ. Mỗi một nét vẽ là một lời nguyện cầu cho những thân phận nhỏ bé, đang chịu hàm oan bởi một lũ bạo quyền. Nhiều người đã ra đi trong niềm uất hận, như tù nhân bất khuất Trương Văn Sương, hay tù nhân chính trị Nguyễn Văn Trại, thầy giáo Đinh Đăng Định, v...v... người dù đã đi vào cõi thiên thu, nhưng những bức chân dung Bác vẽ sẽ trở thành những di chúc cho đời sau, nói lên gương hy sinh của những Chiến Sĩ Tự Do này, trước tội ác của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam.

Cảm ơn Bác Lân. Nhìn bộ tranh Chân Dung Tị Nạn, tôi thấy chất chứa trong đó có một phần đời tôi đã đi qua, nhớ lại những tháng ngày xưa ấy, nét kinh hoàng như vẫn còn ẩn hiện đâu đây. Xa xa…tiếng vọng về của lời kinh nguyện quyện cùng tiếng sóng biển. Có tiếng oan hồn đang bật khóc giữa canh khuya…

Tháng Tư ra biển, buồn tưởng nhớ
Nhặt lại niềm đau, một thuở xưa
Hồn ai lãng đãng nơi đầu sóng
Có phải người từ, cõi hư vô.

Tháng Tư ra biển, sóng bạc đầu
Tiếng người gào thét, dưới mộ sâu
Đôi tay chới với, theo bọt sóng
Níu lấy phận người, bám vào đâu.

Tháng Tư ngồi khóc, nhớ biển xưa
Chốn ấy bạn tôi, đã bao mùa
Không người sưởi ấm hồn cô quạnh
Chỉ sóng ru buồn, kiếp bơ vơ.

Tháng Tư khăn trắng chít ngang đầu
Hướng về biển cả, nỗi lòng đau
Chắp tay gửi gió, lời kinh khấn
Chốn ấy bình an, cõi vĩnh hằng.

Sau bốn mươi năm, những bước chân tỵ nạn bơ vơ thuở nào nay đã trải qua thời kỳ khó khăn về ngôn ngữ, văn hóa và đã hội nhập cùng đời sống mới. Có những người đã nằm xuống chưa một lần trở lại quê xưa. Những đứa trẻ nay đã thành tài và đã yên bề gia thất. Thế hệ sau cũng đã trưởng thành và có những thành tích nổi bật trong đời sống xã hội nơi xứ người. Những thành quả này là do tấm lòng bao dung của đất nước đã dang tay đón nhận những cánh chim Hải âu lạc loài, lìa bỏ nơi chôn nhau cắt rốn vì khát vọng tự do, dân chủ.

Xin cảm ơn đất nước đã cưu mang những người dân Việt trong suốt 40 năm qua.

Cứ mỗi độ tháng Tư về lòng tôi lại quặn thắt. Nỗi ám ảnh về những ngày cuối cùng của cuộc chiến như những vết dao cứa trên da thịt. Hình ảnh người lính Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu trong những giờ phút cuối cùng, dù sức tàn, lực kiệt… các Anh vẫn cố bám lấy mảnh đất quê hương trong nỗi đau tận cùng… tuyệt vọng. Nước mắt lại rơi khi nghĩ đến những người đã nằm xuống vì bảo vệ tự do cho Miền Nam. Xin thắp nén hương lòng tưởng nhớ đến các anh hùng Vị Quốc Vong Thân.

Paris 40 năm Quốc Hận.

Hạt Sương Khuya
danlambaovn.blogspot.com
____________________________________________

(Bài viết dựa theo tâm tình của họa sĩ Trần Thúc Lân)
Về Đầu Trang Go down
bhtran
Khách viếng thăm




Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeMon Apr 27, 2015 7:12 pm

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Z

Điệp Khúc Tháng Tư

Tác giả: Mimosa Phương Vinh

Tác giả định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. đầu thập niên 90, cư dân Berryhill, Tennessee, làm việc trong Artist room của một công ty Mỹ. Giải thưởng VVNM 2013, cô đã nhận giải Vinh Danh Tác Giả với hai bài viết tiêu biểu: "Thiên Thần Đen" và "Cũng Một Đời Người", kể về những di dân tị nạn tại Mỹ làm việc tới mức quên mình để gửi tiền tiếp viện cho người thân còn ở quê nhà. Bài viết mới của tác giả là chuyện về vùng đất sau cùng của miền Nam thất thủ cuối Tháng Tư 1975.

* * *

Vậy là bốn mươi năm trôi qua. Bao nhiêu nước chảy qua cầu. Bao nhiêu người đã nằm xuống. Bao nhiêu đứa trẻ được sinh ra. Cuộc sống vẫn tiếp diễn với bốn mùa xuân hạ thu đông. Hạnh phúc hay bất hạnh của những cuộc đời cũng chẳng ai biết đến ngoài chính người trong cuộc mới cảm nhận tường tận được sự mất mát hay những ân huệ mà đời sống đã trao tặng cho họ. Và bốn mươi năm trôi qua vẫn có nhiều người, rất nhiều người vẫn còn đứng phân vân giữa ngã ba đường. Không biết đi về đâu!

Bốn mươi năm trước, vào những ngày cuối cùng của tháng Tư tôi là một người đàn bà rất trẻ đang sống ở một nơi tận cùng đất nước. Thành phố nhỏ buồn có những cánh đồng bao la, hoang vắng sau mùa gặt. Thành phố có khu chợ búa khá sầm uất và một con sông chảy ngang qua.Tôi thỉnh thoảng đi đò để vào chợ, hồi đó có ông lái đò già bị bệnh chân voi, hai chân to lớn dị kỳ sống bằng nghề đưa đón khách qua sông. Lâu lắm rồi chắc ông ta đã chết.
Tôi đã có nhiều buổi chiều cuối tháng Tư bồng con đi qua nhà người quen để hỏi thăm tin tức gia đình. Khi đi ngang nhà Vĩnh Biệt của thành phố mùi hôi thối của những xác chết chưa kịp chôn bốc lên nồng nặc. Sự biến động không ngừng của thời thế làm người ta quên đi những người lính nằm trong nhà xác. Họ là những người lính cuối cùng ngã xuống cho cuộc chiến tranh dai dẳng trên đất nước khổ đau này.

Bốn mươi năm sau có còn ai nhớ đến họ và biết rằng họ đã chiến đấu cho ai! Chiến đấu cho ai? Câu hỏi đó biết đâu đã từng là nỗi ray rức, ám ảnh của những người đã chết và bị bỏ quên trong ngôi nhà Vĩnh Biệt kia.
Chiếu đấu cho ai! Câu hỏi đã được trả lời ngay sau tháng Tư Bảy Lăm khi những người lính của miền Nam Việt Nam ngỡ ngàng buông súng. Tai họa lớn đã đến với dân tộc và quê hương ngay sau đó.

Tôi đã có những giây phút sống thoi thóp giữa biên giới sinh tử của con người. Trong căn hầm đơn sơ nhỏ hẹp nghe tiếng đạn bay veo véo trên đầu, trong tiếng loa kêu gọi của hai bên thù địch giữa đêm đen đầy đe dọa và bất trắc vì lưỡi hái tử thần có thể cướp tính mạng con người bất cứ lúc nào. Bốn mươi năm qua, cứ mỗi lần tháng Tư trở về điệp khúc cũ lại mồn một réo rắc bên tai tôi như một nỗi ám ánh kinh hoàng không thể nào gột bỏ được. Tôi hiểu dù muốn dù không cũng phải chấp nhận nó như một phần đời sống mình, như chứng tích cho một giai đoạn đau thương nhất của quê hương. Tôi gọi nó là Điệp Khúc Tháng Tư.

Từ những ngày tháng Ba, binh sĩ bắt đầu kéo về thật đông trong thị xã. Họ đến từ những thành phố phía trên mang theo vợ con, nồi niêu, xoong chảo và cả gà vịt nữa. Họ tập trung trong ngôi trường trung học sau tiểu khu, vui vẻ cười đùa và lũ trẻ chạy chơi trước sân trường một cách vô tự. Sắp có đánh nhau lớn và mọi người đang chờ đợi. Đài phát thanh và đài truyền hình loan tin về những thành phố miền Trung và Cao Nguyên đã lọt vào tay cộng sản.
Tôi ở trong một tâm trạng lo âu, sợ hãi khi nghe tin thành phố Dalat đã mất. Hàng ngày tôi bồng con đi hỏi thăm tin tức của gia đình nhưng không nhận được một nguồn tin nào chính xác cả. Tôi lo lắng cũng đúng thôi vì cha là công chức trong một nha sở trực thuộc bộ Quốc Phòng và các anh em đều ở trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Những điều khủng khiếp đã xảy ra ở Huế hồi tết Mậu Thân làm tôi rùng mình khi nghĩ đến gia đình.

Chồng tôi cho biết về tình hình rất nghiêm trọng. Lệnh cấm trại đã được ban hành, anh chỉ về thăm nhà trong những bữa ăn trưa và chiều rồi vội vã vào doanh trại. Chồng tôi làm ở phía sau nhà bếp một căn hầm trú ẩn nhỏ bằng bao cát và dặn tôi nếu nghe tiếng súng thì phải bồng con chạy vào đó trốn. Anh nói:
- Anh không thể lo cho em được gì đâu vì lệnh cấm trại một trăm phần trăm trong Tiểu Khu. Em phải tự lo lấy và hành động theo sự khôn ngoan của mình nếu có gì xảy ra ngoài này.

Một buổi chiều bỗng nhiên súng nổ ầm ầm, tiếng đạn pháo kích bay reo réo trên khu gia binh, tôi hoảng hốt chạy ra sân nghe ngóng. Đứa con gái khóc thét lên trong tay, chợt có tiếng la to:
- Chết thật, chị vào nhà ngay đi, chúng nó pháo kích mà chị ra ngoài sân làm gì kia chứ?
Đó là ông Đại úy Trung, người hàng xóm của tôi, ông ta ghé thăm nhà một chốc rồi lại phải vào tiểu khu. Một lát sau chồng tôi về mặt mày nặng trình trịch vừa bước vào nhà đã la lối om sòm:
- Tụi nó pháo kích rầm rầm mà em bồng con chạy ra sân làm chi, có chuyện gì cứ chui vào hầm trốn. Anh không thể lo được cho em trong lúc này, nếu em khờ khạo như vậy làm sao anh yên trí được.
- Tại em sợ quá, nên quên mất cái hầm ở phía sau bếp.
Anh thở dài:
- Anh nghĩ tối nay sẽ có chuyện lớn. Mấy tỉnh phía trên đã mất hết rồi nhưng Đại tá Chỉ huy Trưởng đã ra lệnh tử thủ ở đây.
- Tối nay anh cũng vào tiểu khu à?
- Dĩ nhiên rồi, anh ghé nhà một chút thôi. Nghe ông Trung nói em bồng con chạy ra sân nhìn tụi nó pháo kích làm anh giận run. Không phải chuyện đùa đâu, đây là chuyện chết người em hiểu không?
Tôi vùng vằng:
 Hiểu rồi! Ông Trung nhiều chuyện, có vậy mà cũng học đi, học lại!
Chồng tôi nghiêm mặt:
- Không phải là nhiều chuyện, đó là vấn đề sanh tử em phải cảm ơn ông ta mới đúng. Em nghe rõ chưa?
- Nghe rõ, nghe rồi khổ lắm nói mãi!
Anh dặn dò thêm nhiều lần nữa, ăn uống qua loa rồi vội vã trở vào Tiểu Khu.

Trời vừa sập tối thì tiếng loa phóng thanh từ tiểu khu bắt đầu cho phát lời tuyên bố của Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Tiểu Khu kiêm Tỉnh Trưởng An Xuyên ra lệnh cho tất cả sĩ quan và binh sĩ phải ở trong tình trạng sẳn sàng chiến đấu và tử thủ. Giọng ông Đại Tá sang sảng và hùng hồn như truyền được cái hào khí vào tâm hồn người nghe. Càng vào đêm, giọng nói của ông càng dõng dạc, rõ ràng dù rằng đó chỉ là một lệnh truyền được thâu băng và phát thanh lại nhiều lần.
Đạn pháo kích không biết từ nơi đâu, từ phe bên nào bỗng nổi lên chát chúa trong đêm. Âm thanh trái pháo bay ầm ầm trên mái nhà, xi măng, ngói vữa đổ xuống ào ào. Đứa con gái nhỏ đang ngủ bỗng giật mình khóc ré lên, tôi bồng con chặt vào lòng trong nỗi kinh hoàng tột độ. Bên nhà chị Hải lũ nhỏ cũng bắt đầu khóc la om sòm. Tôi chạy sân sau gọi chị:
- Chị Hải ơi, em sợ quá! Có gì vậy?
Chị Hải thì thầm:
- Việt cộng pháo kích đó, cô đem cháu vào hầm trốn đi! Ông xã có nhà không?
- Trong Tiểu Khu, còn anh Hải có tin gì không?
- Chưa, ổng đi vô quận cả tuần nay rồi chẳng biết ra sao, Đại Tá ra lệnh tử thủ từ hồì chiều giờ, cô nghe chứ?
- Dạ có, hồi chiều ông xã em ghé nhà nói tình hình căng lắm chị ạ.
Chị Hải thở dài:
- Tôi lo cho ông Hải nhà tôi quá cô ơi!
Tôi an ủi chị và chính mình:
- Sống chết có số chị ạ.

Hai chị em đang nói chuyện thì bỗng trong tiếng pháo nổ đạn rơi loa phóng thanh từ đâu đó vang lên giọng nói của Mặt Trận Giải phóng Miền Nam(!). Họ lập đi lập lại nhiều lần:
- Yêu cầu phía Việt Nam Cộng Hoà cử người vào mật khu để thương thảo với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Chị Hải la lên:
- Chết rồi, họ đã tràn ra thành phố!
Tôi chui vào hầm, đạn nổ vang rền khắp nơi. Chưa bao giờ tôi thấy cô đơn và sợ hãi như đêm nay, vừa khóc rấm rức vừa bắt đầu cầu nguyện các đấng thiêng liêng giúp cho qua cơn hoạn nạn này. Khi tiếng súng đạn nguôi dần thì tiếng loa phóng thanh của hai bên lại bắt đầu vang lên lồng lộng trong đêm. Một bên truyền lệnh tử thủ một bên kêu gọi thương thảo.
Rồi pháo kích lại nổi lên rầm rầm, con của tôi và đám con chị Hải lại khóc như gi vỡ tổ. Ôm con ngồi trong hầm nghẹt thở quá phải chui ra ngoài, được một lúc súng đạn lại ì ầm nổi lên càng lúc càng dữ dội khiến tôi phải vào lại trong hầm. Mạng sống con người mong manh như chỉ mành treo chuông. Đến gần sáng tôi mới thiếp đi một chút vì quá mỏi mệt, mặc cho súng đạn thét gào, mặc cho tiếng loa hai phe kêu gọi không ngừng.

Sáng ra chồng tôi về nhà một lát rồi phải đi ngay, anh cho hay phải theo Trung Tá Chỉ Huy Phó và phái đoàn vào mật khu để thương thảo với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.Tôi đứng ngồi không yên vì tình huống vô cùng nguy hiểm này.
Rồi Đại Tướng Dương Văn Minh đã kêu gọi đầu hàng. Thành phố cuối cùng không thể tử thủ được nữa. Binh Sĩ buông súng. Giặc tràn vào Tiểu Khu treo cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Đài phát thanh Sàigòn mời Trịnh Công Sơn lên hát Nối Vòng Tay Lớn.
Qua khung cửa sổ, tôi thấy Đại Úy Dũng và những nguời lính của ông ta ôm chầm lấy nhau trước sân, họ vừa khóc vừa chửi thề:
- Tại sao hàng, có đánh thua đâu mà hàng. Chúng tôi tức lắm Đại Úy à!

Nước mắt không phải là biểu hiệu của sự ủy mị chỉ dành riêng cho đàn bà. Nước mắt của những người có nghĩa khí đã rơi xuống cho đất nước. Họ khóc vì thấy mình bất lực không bảo vệ được chính nghĩa mà từ bao lâu nay mình từng theo đuổi, ôm ấp.
Tôi hoảng hốt nhìn ra con đường xuyên qua khu gia binh thì thấy cộng quân đã tràn ra như kiến. Không biết từ đâu ra mà đông như thế. Họ mặc quần áo bằng vải dầu mầu rêu hay màu nâu. Đầu đội mũ tai bèo, trang bị lựu đạn và súng ống khắp người. Đa số còn rất là trẻ với màu da xám xịt và gương mặt hầm hầm sát khí. Lũ con nít trong khu gia binh la lên inh ỏi:
- Việt cộng! Việt cộng!
Binh lính Việt Nam Cộng Hòa đóng trong trường trung học gần đó cũng chạy ra ngơ ngác nhìn. Mọi người không hiểu gì cả, cuộc diện thay đổi một cách lạ lùng và mau chóng quá vì đêm hôm qua Đại Tá Chỉ Huy Trưởng còn ra lệnh tử thủ một cách cương quyết dù các tỉnh phía trên đã mất. Còn phái đoàn theo Trung Tá vào mật khu số phận ra sao. Còn Đại Tá đâu rồi.

Tôi bỗng thấy ông chồng xuất hiện trên con đường về khu gia binh. Tôi mừng rỡ chạy ra đón nhưng vội khựng lại vì thấy gương mặt anh rất khác lạ, màu da tái nhợt như một xác chết, áo quần xốc xếch, lon lá trên cổ áo đã biến mất. Chị Hải chạy a tới hỏi dồn dập:
- Sao rồi?
Nhưng chị cũng khựng lại khi nhìn sự thay đổi lạ lùng trên khuôn mặt anh ta. Chồng tôi bước vào nhà im lặng ngồi xuống ghế, ánh mắt nhìn vào một thế giới nào đó, đầu rủ xuống già nua, mệt mỏi. Tôi chưa bao giờ trông thấy chồng trong tình trạng suy sụp kinh khủng này, tôi sợ sệt không dám nói gì cả. Chồng tôi rút trong người ra một khẩu súng đen nhỏ xíu như một món đồ chơi của trẻ con. Tôi hoảng hốt la lên:
- Anh làm gì vậy?
Anh nhìn tôi bằng cái nhìn đau đớn, xót xa mà chưa bao giờ tôi nhìn thấy trên gương mặt của một người đàn ông. Rồi bất ngờ chồng tôi khóc nấc lên, tiếng khóc khô khốc, khó khăn nghe rờn rợn lạ lùng làm sao, tuy nhiên như thế vẫn dễ chịu hơn là sự im lặng nặng nề từ nãy đến giờ. Anh nói lập bập:
- Mất hết rồi, không còn gì nữa cả. Tức lắm! Tức lắm!
Rồi chồng tôi lại gục xuống. Tôi thở dài:
- Anh kể cho em nghe câu chuyện đã xảy ra như thế nào đi. Trung Tá ra sao, còn Đại Tá đâu rồi khi họ tràn vào Tiểu khu.
- Đại Tá Chỉ Huy Trưởng bỏ đi rồi. Trung Tá Chỉ Huy Phó đã bị giặc bắt sống. Ông trao lại cho anh khẩu súng này.

Câu chuyện khá dài dòng, bi đát và qua lời kể của chồng, tôi thấy lòng cay đắng khi hiểu rằng những người chân chính, ngay thẳng luôn luôn bị thiệt thòi. Tôi càng thấm thía về ý nghĩa của câu: “Nước loạn mới biết tôi trung”. Mà thôi, khi một biến cố xảy ra mỗi người sẽ có mỗi phản ứng khác nhau, xấu hay tốt đôi khi cũng khó mà phê bình. Qua nhiều năm sống trong nỗi đau thương cùng tận tôi bắt đầu học được nhiều điều mà trước kia tôi chưa hề biết. Tôi cố gắng giữ cho mình một chút bằng lòng chứ không phải tự hào: tôi cũng chịu đau khổ, đọa đầy như những đồng bào miền Nam của tôi. Tôi chia sẻ với họ nỗi đau thương bởi tôi đã từng là một người vợ lính với nhiều hệ luỵ khi nước mất, nhà tan.

Buổi tối anh em lính chiến tụ họp trước cửa nhà. Họ vừa đàn hát vừa nói chuyện tương lai, chuyện trở về nhà. Họ hát bài Một Mai Giã Từ Vũ Khí của Nhật Ngân, bài Nối Vòng Tay Lớn của Trịnh Công Sơn rất nhiều lần, vì ban ngày Đài Phát Thanh Saigon đã mời người nhạc sĩ họTrịnh lên hát bài này. Những người lính trò chuyện suốt đêm và trong nhà vợ chồng tôi cũng không thể ngủ được vì cuộc diện thay đổi quá nhanh chóng trong thành phố. Với đầu óc giản dị của một người đàn bà tôi nghĩ hai vợ chồng sẽ trở về Đalat tìm một miếng đất nào đó trồng trọt, chăn nuôi và bắt đầu cho một cuộc sống khác như ước mơ của những người lính đang bàn soạn ngoài kia. Chồng tôi thì có vẻ lo lắng không nguôi với những ngày trước mặt.

Tôi rời thành phố trong chuyến xe đò sớm, khi đi qua nhà Vĩnh Biệt mùi hôi thối của những xác chết chưa kịp chôn vẫn bốc lên nồng nặc. Người ta quên đi những người lính nằm trong nhà xác. Ôi! những người lính cuối cùng của cuộc chiến.
Tôi ngậm ngùi muốn khóc khi giã từ thành phố bé nhỏ, xa xôi mà mình đã trú ngụ trong cuộc đời làm vợ một người lính. Căn nhà trong khu gia binh mà tôi có nhiều ngày tháng phải sống một mình vì chồng đi công tác liên miên. Khi đi qua cây cầu lớn với giòng nước chảy cuồn cuộn dưới kia tôi tự hỏi có bao giờ mình sẽ trở lại đây không. Cái thành phố hiu hắt cho tôi bắt đầu cuộc đời làm vợ, làm mẹ trong bầu không khí sôi sục, căng thẳng vì chiến tranh và chết chóc diễn ra từng ngày, từng giờ. Người vợ lính nào cũng sẵn sàng để trở thành một người góa phụ. Bây giờ cuộc chiến đã tàn mà sao lòng mình nặng trĩu âu lo. Trái tim tan tác, xót xa không sao kể xiết.

Về đến Saigòn, nhìn thành phố tan tác, hoang mang vì kẻ ở người đi. Biến cố to tác đổ ập xuống đất nước làm cho mọi người ngơ ngác như đang sống trong cơn mộng dữ giữ ban ngày. Chồng tôi đi trình diện vì nghe họ nói chỉ học tập cải tạo một tháng thôi, đâu ai ngờ mình bị họ lừa dối. Tôi đem con trở về gia đình trên Dalat sống một cuộc đời với muôn ngàn khổ ải đau thương của vợ người tù cải tạo. Nỗi khốn khổ của những kẻ ở lại có viết hàng ngàn trang giấy cũng không diễn tả được hết đâu. Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.

Những năm tháng sống trong địa ngục trần gian lòng tôi vẫn nhớ về An Xuyên những ngày cuối tháng Tư. Tôi hay nghĩ về vị Trung Tá Chỉ Huy Phó của tiểu khu, vị chỉ huy cao nhất còn ở lại với thuộc cấp trong giờ phút hấp hối của An Xuyên và bị bắt sống. Lòng kính phục của tôi đối với ông đã khiến tôi nhiều lần viết về ông, hội kiến cùng ông trong những mẫu chuyện hư cấu cùng nhiều tâm sự xót xa, bẽ bàng của những người bị ở lại trong cuộc dâu bể của quê hương thuở nọ. Không biết bây giờ ông ở nơi đâu.
Tôi cũng không thể quên chuyện Thiếu Tá Phan Thành Hứa, Tiểu Đoàn Trưởng tiểu đoàn 446, người anh hùng cô đơn thuở nọ. Ông vẫn chiến đấu can trường cho đến khi bị bắt và bị họ xử bắn tại Cà Mau cùng với một số Sĩ Quan và Viên Chức Việt Nam Cộng Hòa một cách công khai. Trước khi chết ông vẫn hô to đả đảo cộng sản nhiều lần. Đó là cuộc chiến đấu lâu nhất trong lịch sử chiếu đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. An Xuyên là thành phố sau cùng đã mất về tay cộng sản sau khi Đại Tướng Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng.

Người ta nói có những câu chuyện xưa quá rồi, nhắc lại có ích lợi gì đâu ngoài việc khơi thêm những thù hận, oán hờn. Theo tôi có những câu chuyện không bao giờ xưa cũ đó là câu chuyện thuộc về lịch sử. Lịch sử như một dòng sông chảy mãi không ngừng.
Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 quê hương miền Nam rơi vào thảm nạn quá lớn lao và dấu vết nhem nhuốc trong lịch sử dân tộc biết bao giờ xóa mờ được. Đau thương, oán hờn, đói nghèo, chết chóc bao trùm trên số phận những người dân Việt Nam. Triệu người buồn đã đành, còn triệu người vui cũng chẳng vui được bao lâu khi biết mình bị lừa dối. Chỉ có những con ma cà rồng no đủ, thỏa thuê vì hút máu dân tộc mới thực sự hạnh phúc trong men chiến thắng.
Chiến thắng hay chiến bại đôi khi cũng khó mà luận bàn vì kẻ chiến thắng bây giờ trở thành tên xin xỏ và kẻ chiến bại trở nên người ban phát. Có khi kẻ chiến thắng muốn nhập vai làm người thua trận để hưởng chút lợi lộc thế gian. Lại cũng có kẻ dựa hơi người ra đi để củng cố quyền lợi của cha ông mình. Âu đó cũng là định luật bù trừ của đời sống muôn mặt.
Bây giờ có lẽ mọi người đã hiểu những người lính Việt Nam Cộng Hòa chiếu đấu cho ai, vì ai. Dù họ hiểu trong muộn màng vẫn còn hơn là chưa từng hiểu. Chỉ trách cho những kẻ đã từng biết thế nào là tủi nhục, đau thương mà đã vội vàng quên hay vô tư thỏa hiệp với cái ác để mưu cầu hạnh phúc hay lợi lộc riêng tư.
Bốn mươi năm qua, điệp khúc réo gọi của hai phe thù nghịch trong một đêm đen cuối tháng Tư vẫn mồn một trở về cùng tiếng súng nổ, đạn rơi. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa dù sao vẫn còn tồn tại trong lòng người dân, vẫn còn tiếng nói trên khắp thế giới nơi có người Việt Nam Tị Nạn Cộng Sản. Còn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thì đã bị chôn sống và khai tử từ lâu lắm rồi! Họ đã chết non. Họ thật sự không hiện hữu trong Điệp Khúc Tháng Tư ngày nọ. Vì thật ra Miền Nam không cần ai giải phóng.
Còn những người đang đứng giữa ngả ba đường. Sau bốn mươi năm với bao nỗi uất nghẹn, trăn trở của cả dân tộc mà cũng chẳng biết mình phải về đâu hay sao?

Tôi hài lòng vì đang sống và viết trên nước Mỹ, một xứ sở tự do, dân chủ và giàu mạnh nhất thế giới. Tôi thuộc về gia đình của những người thua trận và tôi chưa bao giờ cảm thấy xấu hổ vì điều đó nếu không muốn nói là còn cảm thấy hãnh diện và tự hào. Tôi xin cảm ơn cuộc đời đã cho tôi một đời sống khá ấm no, hạnh phúc trên nước Mỹ sau quá nhiều trắc trở gian nan. Nói như thế không có nghĩa là tôi đã cảm ơn những kẻ đã xô đẩy chúng tôi ra khỏi quê hương mình.
Tôi không bao giờ cảm ơn kẻ đã đập đầu tôi lên đá, dù sau cú đập đó tôi bắt gặp một viên kim cương. Hành động tàn ác và luật bù trừ của cuộc đời là hai việc hoàn toàn khác nhau. Con dao phẫu thuật của một vị bác sĩ trên thân thể bệnh nhân hoàn toàn khác xa với con dao đâm vào bụng người của kẻ ăn cướp.

Và tôi đã có những đêm không ngủ khi ký ức tháng Tư hiện về như một ám ảnh khôn nguôi. Tôi gói trọn tâm sự mình vào bài thơ sau:

Trắng Đêm

Nằm im trong tiếng đời cười
Ta nghe máu chảy biếng lười trong thân
Nằm nghe tàn cuộc trăm năm
Nằm nghe da xếp vết nhăn mặt người
Nằm thương nhớ tuổi đôi mươi
Gõ tay vào mộng réo người buổi xưa
Ngậm ngùi bao cuộc tiễn đưa
Hai bàn tay đếm chẳng vừa năm đi
Nằm khơi oan trái vô nghì
Sục sôi hận buổi phân kỳ đã qua
Nộ cuồng gió hú đỉnh xa
Đau muôn mạch nhựa khóc òa trong cây
Sầu đêm bạc sợi tóc gầy
Con ong xứ lạ gọi bầy bơ vơ
Nằm đây mắt trắng bơ phờ
Thèm sao giấc ngủ bên bờ an nhiên!

Mimosa Phương Vinh

http://vietbao.com/p231953a236515/diep-khuc-thang-tu
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeSat Apr 02, 2016 12:05 am

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU QuocHan_Vivi

Tháng Tư Đen Đầy Uất Hận Thứ 42

  
Phan Văn Song
 
Ghi chú: Thân phụ của tác giả là Trung Tá Phan Văn Sương, xuất thân khóa 5 VBQG Hoàng Diệu, bạn đồng khóa với các vị Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Nguyễn Văn Toàn, Phan Trọng Chinh, Phạm Quốc Thuần, Dư Quốc Đống, Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai v.v...
 
Tuy bị khiếm thị, nhưng vẫn tiếp tục phục vụ đắc lực trong chức vụ Giám Đốc Trường Mù; cũng như Trung Tá Đặng Ngọc Lân, khóa 4 VBQG Ly' Thường Kiệt, một sĩ quan tình báo xuất sắc, tuy bị VC giật mìn gây trọng thương phải cưa một chân, nhưng vẫn làm Hiệp sĩ Tôn Tẩn thời đại, phục vụ tại phân khu Saigon thuộc quyền bạn đồng khóa là Chuẩn Tướng Đỗ Kiến Nhiểu. Đại tá Đào Quang Hiển, khóa 1 Trường Võ Bị Liên Quân Thủ Đức; tuy bị mù hai mắt vì mảnh đạn và mìn của VC phục kích trên đường công tác, nhưng vẫn tiếp tục phục vụ đắc lực trong phạm vi chuyên môn tại Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo.
 
Họ là những chiến sĩ bất tử (như câu nói của danh tướng Douglas Mac Arthur).
 
Trong thời chiến, một số thanh niên trốn quân dịch, du học và tốt nghiệp trở thành trí thức khoa bảng làm giàu tại hải ngoại và sau ngày uất hận tháng tư Đen, quay lại khinh khi xem thường sự hy sinh của người lính chiến. Họ là ai?

Tháng Tư Đen Đầy Uất Hận Thứ 42!


Đầu tuần, Xuân đến, sáng thức sớm, ra vườn trời tuy còn se lạnh, nhìn giàn hortensia đầy nụ, ngắm bụi forsythia hoa vàng đầy góc tường, nhưng sao lòng vẫn không vui! Sao vẫn có cái buồn vớ vẫn! Năm nào cũng vậy, đến cuối tháng ba, lòng tôi lại nao nao thế nào. Năm thứ 42 mất nước! 35 năm chưa thấy lại Sài gòn! Cuối tháng ba năm nào cũng tạo nỗi nhớ của khoảng khắc của  tháng ba năm mất nước. Nhà Ba mẹ đầy người, bà con tỵ nạn từ Huế, từ Đà nẳng chạy về Sài gòn tỵ nạn. Khoảng thời gian trên một tháng ấy của những ngày cuối cùng của quê hương tràn ngập ký ức tôi. Việt Nam yêu dấu của tôi ngừng hẳn thời gian ấy. Từ sau những ngày ấy tôi không còn hình ảnh kỷ niệm nữa. Tóm lại, không phải mình kỳ thị mà sao những kỷ niệm dễ thương đều thuộc về những năm trước ngày 30 tháng Tư, kể cả những kỷ niệm kinh hoàng, chiến tranh, lựu đạn nổ, pháo kích… Còn sau ngày mất nước, thanh bình chớ, đi lại bình yên, nhưng làm sao đâu? Hổng gì là dễ thương cả, chẳng có cái gì đáng nhớ cả? Sài gòn tràn ngập người lạ, nói một giọng nói kỳ lạ, với những từ ngữ kỳ lạ chói tai, mất cảm tình! Lạ thật! E tui bất thường chăng? Tôi vì ghét chế độ Cộng Sản nên ghét cả “đường đi lối về tông chi họ hàng Cộng Sản, ghét cả giọng ăn giọng nói”? Xin lỗi bà con vậy! Tôi cảm thấy họ không phải người mình, người Việt mình!

Năm nay, cũng như mọi năm, cứ khoảng thời gian nầy là tôi mất ngủ. Nỗi nhớ nhà da diết dằn vặt tôi! Vẫn biết quê hương mình nay đã mất, có thể vình viễn, mấy năm tháng gần đây, một lô bạn bè cùng tuổi cùng lứa, cùng thế hệ đua nhau “ra đi” và đều yên ổn nằm nghỉ nơi quê hương thứ hai, thoạt đầu xem như tạm nhưng chẳng chốc đã trở thành vĩnh viễn. Năm nay Lễ Phục Sanh đến sớm hơn mọi năm, nên vừa xong Mùa Chay của Tôn Giáo gia đình, tôi bước vào Tháng Chay cá nhơn của Tháng Tư Uất Hận Đất Nước.

Thời sự quốc tế tuần nầy (đối với tôi) chẳng có gì đặc biệt, mặc dầu có nhiều biến cố đáng ghi nhận: Obama đi thăm Cuba, bằng chứng rõ ràng là Mỹ, lại một lần nữa, nuốt lời hứa với dân Cuba Tự Do, phản bội lý tưởng Tự Do-Dân Chủ, bắt tay lại với chế độ độc tài Cộng Sản CuBa, xem thường quan niệm Nhơn Quyền! Pháp cũng lần nữa phản bội đạo đức Tự Do Dân Chủ, qua Tổng Thống Pháp, miệng nói Bảo Vệ Nhơn Quyền, Dân Chủ Tự Do, gắn huy chương Légion d’Honneur cao quý nhứt của Pháp cho tên đồ tể Thái tử xứ độc tài thủ cựu Ả Rập Xê Út. Tất cả vì lợi nhuận, vi quyền lợi buôn bán, tất cả chỉ vì tiền. Thị trường Cuba béo bở, canh tác, xây dựng, công nhơn rẻ. Thị Trường Ả Rập béo bở, dầu hỏa Ả Rập tràn ngập. Những quan niệm phổ thông bao quát Dân Chủ, Tự Do, Nhơn Quyền, Nữ Quyền… rẻ hơn dầu hỏa, rẻ hơn máy bay Rafales, Airbus…Làm sao trách được nếu ngày mai các nhà lãnh đạo thế giới sẽ là Trump, Poutine, Tập Cận Bình, Le Pen… hay bất cứ một tay quá khích nào, biến thành những nhà cầm quyền độc tài quá khích hay tư bản độc quyền vô đạo đức? 

Việt Nam nổi tiếng thế giới trong vai trò «tiên phuông chết thay thiên hạ, nghèo thay thiên hạ: - (Chia đôi Cái Ngu của thiên hạ với Cu Ba)! Tiên phuông làm “điển hình” làm cách mạng mướn, đi đánh giặc mướn, nướng cả triệu đồng bào theo  mình, giết cả vạn đồng bào mình không theo mình, dùm cho Nga Cộng cho Tàu Cộng để chỉ được cầm quyền. Lịch sử người kể chuyện các đại lãnh đạo đi chinh phục thế giới, chiếm đất giành dân, mở mang bờ cỏi, nới rộng non sông. Lịch sử người ghê tởm ghi chép những tội phạm nhơn loại, giết hại người, như chế độ Đức Quốc Xã Nazi giết “người Do Thái”, như chế độ Thổ Nhĩ Kỳ giết người Arméniens, hay giết người Kurdes, kể cả Saddam Hussein tên độc tài Irak dùng bom hơi độc giết người Kurdes…Nhưng tất cả những đồ tể các chế độ độc tài ấy không bao giờ tàn sát đồng bào họ. Trái lại lịch sự cận đại mới ghi nhận rõ ràng các chế độ Cộng sản, bắt đầu bằng tên đàn anh Liên Sô giết hại, khủng bố đầy đọa đồng bào ruột thịt mình. Staline, Mao Trạch Đông, Hồ chí Minh, Pôn Pốt… nỗi tiếng vì đày đọa giết hại đồng bào mình!

Nhưng lịch sử người viết những thiên sử ca tụng những lãnh đạo tài ba mở mang chinh phục cả ngàn, cả vạn dặm biên cương, đất nước, Thành Cát Tư Hãn, Tamerlan, Attila, Napoléon…

Nhưng trái lại, lịch sử cận đại Việt Nam ta kể chuyện ta ngu dại làm dâng đất, dâng biển, dâng đảo cho người láng giềng, chỉ để được cầm quyền. Ngày nay, Đồng Bằng Cửu Long, Vựa Lúa Miền Nam Việt Nam nỗi tiếng phì nhiêu nuôi dân Nam Việt từ thời xa xưa, đã khô cạn, hạn hán! Đất mầu phì nhiêu nay đà nhiểm mặn vì Giòng Sông Mẹ Cửu Long cưu mang, nuôi sống dân Miền Nam Việt Nam đang bị Tàu Cộng cướp hết nguồn nước. Từ nay, thật là “Đồng khô Hồ cạn, đất Nam Việt tan tành!”

Mất Biển, Mất Đất, Mất Nước chừng nào Việt Nam Mất Dân, Mất cả Tên Việt Nam?

Biến cố đáng ghi nhận hơn nữa: Sáng thứ ba, lại nghe tin Bruxelles, thủ đô Vương Quốc Bỉ bị khủng bố đánh bom chết người. Buồn đau, lo lắng cho gia đình bạn bè sống ở Bỉ, một lần nữa hình ảnh khủng bố ngày nào ở New York, London, Madrid, Paris, và nay ở Bruxelles lại gợi nhớ đến sự ghê tởm Việt Cộng đánh bom dân mình năm xưa. Nhớ ngày xưa, giận dữ khi thất dân Tây Mỹ phản chiến vỗ tay hoan hô Hồ Chí Minh giết hại đồng bào Việt Nam. Ngày nay, khi nghe khủng bố Hồi Giáo đánh Huê Kỳ ngày 11 tháng 9 2001, đánhTây phương, từ London, Madrid hay Paris năm ngoái, hay Bruxelles năm nay, tự hỏi người dân Tây Phương có hiểu thế nào là khủng bố không? Đã đến lúc Tây Mỹ phải biết thế nào là khủng bố. Không nên vì quyến lợi kinh tế, đi phản người ngay, đi phò thằng gian. Đã biết vỗ tay ủng hộ, đã biết đi xúi dại dân xứ người nổi dậy, nhơn danh Dân Chủ, nhơn danh Nhơn Quyền, thì phải ủng hộ đến cùng! Phải tạo điều kiện và phương tiện cho những quốc gia mới lấy lại chủ quyền giữ vững nền Dân Chủ, trọng Nhơn quyền, phải biết bảo vệ tất cả những quyền Tự Do. Chớ vội sớn sát giao trứng cho ác, chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt, thì có ngày lãnh cái búa trả nghiệp đó thôi! Những bài học Huê kỳ và Âu Tây đang phải trả đây. Giúp kháng chiến A Phú Hản chống Liên Sô năm nào, giao súng đạn cho Ben Laden để Ben Laden đánh Mỹ sao nầy. Võ khí và quân cụ của Daesh do chính các quốc gia Tây Âu và Mỹ tiép viện, ủng hộ quân kháng chiến chống độc tài Bachar Al Assad!...Người dân Âu Châu, nhứt là Pháp, Bỉ… tứ nay, sống trong cảnh giác, trong tình trạng quân luật như dân chúng Sài gòn chúng ta thời Việt Cộng khủng bố vậy! Rồi cũng qua thôi, vì vậy tôi hầu như không để ý gì đến những chuyện thời sự ấy.

Còn thời sự Việt Nam? Xong rồi! Mất Biển Đảo, Mất Biên Cương, Người Tàu tràn ngập đất Việt, đây là một đạo quân thứ năm sẳn sàng tiếp thu đất Việt khi có lệnh. Lãnh đạo Việt Nam, là những người tuy mang quốc tịch Việt nhưng thật tình đã là người Tàu rồi. Không còn gì để mong để nói nữa! 

Tuần nầy, nhận được lá thư của Chú Bảy. Lâu lắm không được tin chú. Chú Bảy là một người bạn chí thân với Ba Mẹ chúng tôi. Khi Ba tôi rời Huế vô Sài gòn lập nghiệp hồi những năm 40, ba đi cùng một người bạn cùng xứ. Hai anh em gặp chú Bảy, dân Đất Hộ, xứ Nam Kỳ rộng lượng, chịu chơi, từ đó họp thành bộ tam sên. Bức thư nầy, đã xin phép – và được chú cho phép – xin phép quý bà con, đăng lên để chia sẻ cùng quý thân hữu để cùng cảm nhận một thoáng không khí cuộc sống hằng ngày của người dân Đất Hộ mình, dưới trào Cộng Sản Phương Bắc!

Phan Văn Song

***

Đất  Hộ, Sài thành, tháng Ba, 2016, Bính Thân.

Hai à,

Cuối tháng Ba rồi! Mỗi năm cứ vào khoảng nầy là tao nhớ Ba Mẹ mầy! Vì, chắc mầy còn nhớ, cách đây 41 năm, khoảng nầy, tao dắt thím mầy và bầy em mầy bỏ Huế vào Đà Nẳng, rồi cả nhà tao lánh nạn vào tá túc nhà Ba Mẹ mầy ở sau Trường Mù, Chợ An Đông*. Nhớ hoài! Thấm thoát đã 41 năm rồi! Với ai hổng biết, chứ với tao, nuớc Việt Nam mình thực tình đã mất vào cuối tháng Ba khi Huế mất đó, mầy à! Cố đô mất, kinh đô Xứ Đàng Trong, là xứ mình mất, là mình hoàn toàn mất nước. Dù phe ta có ráng cầm cự thêm một tháng nữa, dù có súng, có máy bay, xe tăng, mà không có đạn, không có xăng… cũng như cùi. Lòng quyết tử, chí quật cường của quân dân cán chánh Việt Nam Tự Do cũng chỉ có thế thôi! Mỹ đã phản bội ta, nuốt lời hứa, đi đêm quyết tâm bán rẻ Việt Nam Tự Do cho Nga Cộng, Tàu Cộng, thì dẩu cả toàn dân Việt Nam Tự Do có bán hết tất cả mạng sống đến người Việt Tự Do cuối cùng đi nữa, thì cũng thua. Chỉ còn, chạy, dzọt, vượt biển, đau thương, hy sanh, chết chóc, trả cái giá nặng nề, mình đi đày, vợ con mình bị hảm hiếp, gia đình mình nhục nhã …chỉ mong được đến bờ Tự Do thôi! Hai à! Thiên hạ ca tụng tinh thần chiến đấu gan dạ của toàn dân quân cán chính anh hùng Việt Nam Cộng Hòa giữ nước giữ nền Tự Do hai mươi năm bền vững! Đúng! Nhưng chúng ta cũng phải trân quý, trân trọng, ca tụng và nhớ ơn người phụ nữ Việt Nam. Những người mẹ, người vợ, sát cánh bên chồng, bên con để giữ vững riềng mối gia đình, giữ vững hậu phương, cho chồng cho con vững tâm giết giặc giữ nước. Đó là thời chiến! Lúc thua trận, tiếp tục phải cán đáng bảo bọc gia đình khi chồng, cha, con, hoạn nạn tù đày nơi rừng sâu nước độc, hay cơ cực khổ sai ngoài đất Bắc rừng rú mọi rợ. Lúc sanh tử có nhau, lúc hoạn nạn có nhau, cả cùng lúc chia sẻ hiểm nguy vượt biển, người phụ nữ Việt Nam, người đàn bà Việt Nam cũng bị hoạn nạn hơn người nam, bị hảm bị hiếp, bị cướp biển đem về áp trại. Nỗi khổ kể sao cho siết! Và ngày nay? Cũng vậy, hoà bình rồi, mà thân phận đàn bà phụ nữ Việt Nam vẫn bị làm món hàng thương mại. Phải bỏ nhà, bỏ quê hương, xuất khẩu lao động! Lúc ở đợ, lao động xứ người, xa chồng xa con. Khi điếm, bán trôn nuôi miệng, nuôi gia đình. Nhục nhã sắp hàng, trưng bày thân thể trần truồng, làm món hàng, để chồng ngoại quốc lựa chọn mua về, làm nô lệ  tình dục! Tất cả “ra đi”, chỉ mong gởi tiền về nuôi gia đình cha mẹ trả chữ hiếu!

Xứ Đất Hộ mình biết bao nhiêu chuyện, nào gả con gái cho người nước ngoài, nào bán con trẻ làm con nuôi, tháng nào cũng có! Còn chuyện “ra đi”, ngày nay 41 năm qua rồi, hoà bình rồi,  mỗi ngày cũng đều có chuyện “vượt biên”. Nhờ vậy mà cái nghề của thím mầy giáo sư Anh Văn hốt bạc, nuôi cả gia đình, xây thêm nhà, sửa thêm cửa, khá giả mấy năm nay.

Ròng rã, năm nào cũng vậy, cứ đến tháng ba, tháng tư, hai tháng nầy, là tao nhịn ăn, đốt nhang bàn Thờ Tổ quốc, tụng niệm hằng ngày…chỉ để Nhớ, để Thương. Đặc biệt, tháng tư năm ngoái, tao rầu thúi ruột muốn bệnh luôn: nhớ nhung đủ thứ chuyện hết, nhưng tao lại làm biếng viết thơ cho mầy, đến cả thím mầy mà tao cũng hổng thèm nói chuyện. Bả cứ “Ông thiệt! Nhắc chi cái thứ đó hoài ông ơi, đổi đời mà, mình ráng sao cho cái đám con cháu nó qua truông là được rồi. Bây giờ nó dzậy đó, miễn sao con cái nhà mình nó giữ cái gì mình dạy cho tụi nó là đủ rồi. Ông rầu là gì cho thêm bịnh”.

Tao nghe bả nói, tao cũng thấy bả có lý, nhưng tao vẫn rầu... Tao rầu bân khuơ, tao nhớ bạn, tao nhớ bè, nhớ anh Ba, ông già mầy, nhớ chị Ba, má mầy, nhớ mấy.

Tao nhờ Trời Phật sống đầy đủ, đổi đời, cũng xuống chó, cũng lên voi, thất nghiệp, bảy nghề biết đủ, cũng như người ta, cũng biết đó biết đây. Ngày nay, tao ngán ngẩm cho cái vận, cái hạn đất nước mình sao nó vẫn còn khổ triền miên như vầy! Nói hoà bình, nói phát triển, tiến lên, tiến mạnh,  mà sao vẫn còn con nít bán mía găm, bán vé số, bán thuốc lá điếu…. Hồi trẻ, tụi tao kháng chiến, chống Tây, hy vọng lấy lại Độc lập, dân mình nó sẽ sống đàng hoàng, hy vọng không còn có cảnh phu xe kéo, chị gánh hàng rong, chị thợ hồ đội gạch, thằng nhỏ bán cà-lem cây. Sau Thế chiến, Việt Nam ta tuy lấy lại Độc lập, nhưng “người ta” vẫn tiếp tục gây ra chiến tranh, chết chóc triền miên. Năm 1954, đình chiến, đất nước tuy bị cắt chia,  nhưng yên tiếng súng, hòa bình. Nhờ đó dân Nam mình cũng sống một thời gian đàng hoàng tử tế, ngon lành, xây dựng! Thế nhưng chẳng được bao lâu thì lại chiến tranh, dân Cộng Sản ở ngoải lại pháo kích, lại khủng bố! Lại chết chóc … mà dân Nam mình có phá hoại xâm chiếm lấy của cải của ai đâu? Hiền hòa, biết bà biết con, biết đoàn, biết kết, biết đùm biết bọc. Năm 54, dân xứ Ngoải chạy lánh nạn Cộng sản, di cư, tỵ nạn vô cả triệu người, dân mình cán đán, lo hết. Thế mà Đảng Cộng sản ở ngoải cũng vẫn muốn giải phóng mình. Mà giải phóng gì? Giải phóng bằng pháo kích, giải phóng bằng giựt mìn xe đò, giải phóng bằng đắp mô, giải phóng bằng chặt đầu, mổ bụng, dồn trấu…giải phóng bằng đấu, giải phóng bằng tố khổ. Thằng đế quốc thằng Tây thằng Mỹ có chết đó, nhưng chết bao nhiêu, chỉ có dân ta chết bộn thôi. Thế mà vẫn có cả ngàn người nghe, cả vạn người theo. Sợ? Mê? Ngu?

Dân chúng ở ngoải họ nói họ bị bắt buộc. Nếu bắt buộc, sao không thấy họ “ra đi”, vượt biển, hay vượt tuyến? Người dân Đông Đức, Cộng Sản, năm nào cũng có người trốn qua Tây Đức, xứ Tự Do. Tường Ô Nhục Bá Linh có cao đó, nhưng cũng có kẻ dám vượt tường. Giàn rào kẻm gai có rào bãi mìn đó, vẫn có người đào hầm chui qua rào kẻm mìn, tìm Tự Do,… Bằng chứng khi đến phiên cả xứ Việt Nam ta bị nhuộm đỏ, chẳng bao nhiêu lâu…một năm, hai năm chịu đựng là dân miền Nam bắt đầu bỏ trốn! Thật vậy, dân miền Nam mình, chỉ cần ba năm sống dưới tay Công sản Bắc Phương, là bắt đầu bỏ xứ ra đi. Ngày nay hòa bình, thống nhứt, phát triển, tiến lên, tiến mạnh, tiến cái gì hổng thấy, mà ai ai, nếu có dịp, đều vượt biên hết. Bây giờ hết nói vượt biên rồi: nói du học (rồi không về - thường thường là con ông cháu cha không à!) nói lấy chồng người nước ngoài, nói xuất khẩu lao động, nói “hạ cánh an toàn”, nói đi du lịch - và “trốn ở lại”… Giấc mơ đi khỏi Việt Nam hầu như ở khắp mọi người. Nhờ vậy mà gia đình tụi tao sung túc,  khá lên, là nhờ cái phong trào học tiếng Anh không lúc nào ngơi?

Về vấn đề trường học, trường tao từ đầu năm nay, cũng ế ẩm! Vật giá đắt đỏ. Kinh tế hổn loạn. Thêm  cái vụ Đại Hội Đảng vừa qua dân Bắc kỳ chiếm ghế nhiều quá, dân Nam e rằng dân Nam nổi loạn chăng?  Thôi chờ xem bầu cử Quốc hội, có gì thay đổi không? Hay vẫn như cũ, chia ghế, chia của, xí phần. Lúc nầy còn thêm cái cha truyền con nối. Đời cha hết Thủ Tướng, nhưng đời con vẫn đại gia, vẫn Trung Ương Chánh Ủy, vẫn ăn trên ngồi trước có chết thằng ma nào đâu? Chỉ có thằng dân ruộng thì mất đất, thằng dân biển thì mất thuyền do tàu lạ đụng, đâm… la ó than khóc thì Nhà Nước Việt Nam ta, Quân Đội Nhơn Dân Anh hùng ta cũng xử… chìm xuồng luôn.

Còn chương trình học, lúc nào các học sanh và sanh viên trong phần học tập chánh tri có thêm cảnh giác …  “diễn biến hòa bình”. Nghe các học trò về kể lại rằng nước Việt Nam ta đang bị địch bao vậy, và bọn thế lực phản động hải ngoại đang dùng diễn biến hòa bình đánh vào thành trì “xã hội chủ nghĩa” để giựt đất nước khỏi tay lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hóa ra, mình vẫn còn bị nhóm thù địch bao vây, do đó mình nghèo hoài! Nhưng Hai à, nội cái từ ngữ “diễn biến hòa bình”, tao cũng không hiểu nỗi. Diễn bìến là “hiện tượng đi tới  …», là “tương lai sẽ … có hòa bình”, mà có ... “hòa bình” thì có gì mà nguy hiểm, mà phải sợ! Ai cũng sợ chiến tranh chớ… và sợ những diễn biến chiến tranh, nhưng ai lại đi sợ hòa bình. Các học trò cũng kể cho tao nghe là các em học tập rằng những phong trào Dân chủ và Nhơn quyền của thế giới là do bọn thù nghịch phản động ở bển gây ra để phá hoại đất nước Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, bọn phản động muốn đưa Việt Nam tương lai vào thế giới tư bản của Đế quốc Mỹ đó mầy!

Ủa nước mình hổng phải tư bản sao? Các ông lớn đều đứng tên các công ty, mở cổ đông cho người hùn hập làm ăn (thường thường là bà con hay bạn đồng chí ở trong Đảng Cộng sản) hổng phải là công ty tư bản sao? Có thể Công ty tư bản là những người hùn hập mua cổ đông đều là người lạ -  cái chữ  lạ  bây giờ  nó  lạ  lắm!  Từ  “lạ” ở đây không phải là nghĩa mới bây giờ, nghĩa mới là để nói “đó là người Tàu”, thí dụ “tàu lạ đâm chìm tàu ta”, phụ đề việt ngữ là “tàu Tàu, tàu Trung Cộng đâm chìm tàu người Việt ta” đó thôi! … -  (“lạ” là ai ngoài phe Đảng ta), có tiền là mua cổ đông hùn vốn). Đằng nầy ở Việt Nam các công ty các ông lớn là do bà con và người trong Đảng hùn vốn vì vậy hổng phải là tư bản mà là xã hôi chủ nghĩa (là người cộng sản với nhau, trong Đảng cả) và theo định hướng tư bản thị trường tư do (nghĩa là hùn vốn). Nhưng vậy mấy chả sợ Tư bản Chủ nghĩa cũng phải. Tư bản Chủ nghĩa ai cũng có thể bỏ tiền ra được hết, riết thì ai làm chủ đây? Xã hội Chủ nghĩa là Xã hội chủ Nghĩa là Đảng cộng sản phải làm chủ và cầm quyền và là lãnh đạo. Tao thử cắt nghĩa vậy mầy xem được không?

Lay hoay cũng sắp Lễ Phật đản nữa rồi. Tao thì thường nhớ ngày mồng Tám tháng Tư, chứ đâu có dời qua ngày Rằm như bây giờ. Tao cứ nhớ bài ca “… mồng Tám tháng Tư là ngày Thích Ca thành Phật”. Kệ ai cúng ngày Rằm, còn tao, tao cứ hương đèn nhang khói, tao cúng Phật đản ngày mồng Tám tháng Tư. Thím mầy cũng lại cằn nhằn: “ông thiệt hổng giống ai! Thiên hạ bậy giờ cúng Lễ Phật Đản ngày Rằm tháng Tư chứ không ai cúng ngày mồng Tám tháng Tư hết!”

- Kệ tui, Bà ơi! Tui già tui cúng theo người già! Nói nhỏ - tao cúng theo người Quốc gia!

Mầy xem bây giờ là vậy đó. Cúng kiến lễ lạc phải đúng thủ tục, có luật có lệ, có ngày có tháng. Còn lễ nghĩa, luật lệ đi đường thì tùm lum, buôn bán thì lươn lẹo, chụp giựt, mánh mun, còn hàng hóa, thì dỏm, thì giả, không cần luật lệ gì cả, còn con nít chẳng biết thưa gởi, xin lỗi xin phải hay cám ơn cám iếc gì cả…

Tao ráng giữ cái bầy con, bầy cháu cho tụi nó đàng hoàng một tý. Mầy gặp lại tụi nó mầy sẽ thấy tao ngon lành giữ tụi nó đàng hoàng lắm đó.

Thôi ít hàng nói chuyện xứ Đất hộ mình cho mầy nghe. Thăm gia đình mầy.

Hẹn thơ sau

Chú Bảy

* Trước 30/04/1975. Bộ Tam Sên (kết nghĩa năm 1940) của Ông già chúng tôi gồm có, Ba tui, năm 1975 làm Hiệu Trường Trường Mù ở Chợ Lớn, Bác Hai Hạp, mở tiệm bán cát, gạch ở Ngã Tư Phú Nhuận. Và chú Bảy, cựu công chức Bộ Giáo Dục. Thời ông Diệm, chú công tác ở Huế, gặp cô gái Huế, giáo sư Anh Văn (ra đi không đành!) là thím Bảy, ở lại sanh sống lập nghiệp nhập dân Huế luôn!  Lạ chưa, gia đình Chú Bảy gốc Đất Hộ Nam Kỳ lại sống ở Huế cả chục năm, trong lúc hai ông kia, gốc Huế trọ trẹ, lại sống ở Sài gòn. Mất Huế, vào Sài gòn lánh nạn ban đầu tá túc ở nhà ông già, trước ngày 30 tháng tư ông chạy về lại Đất Hộ (Dakao), nhập vào nhà tổ phụ, vì gia đình người anh quân nhơn Hải quân đã kịp đưa vợ con di tản đi Mỹ, chỉ còn ông cụ bà cụ ở lại. Gia đình chú Bảy, 6 người  về kịp để giữ nhà. Chú Bảy giáo chức có lon có lá, cũng phải đi tù vài tháng. Thím Bảy, vì không phải thuộc dân giáo chức Sài Gòn nên chỉ được “mất dạy”. Lúc ấy tôi còn ở Sài gòn, có giúp gia đình Chú thím mở một đề-bô bán Ladze, Nước Ngọt, Nước Đá tại nhà sanh sống qua ngày. Năm 1980, khi ra tù, có đến thăm chú thím, tiệm “bán nước” vẫn còn, tuy buôn bán có khó khăn hơn! Bộ ba Tam sên, ở lại Sài thành, vẫn tụ tập. Hai ông già gân, kẻ Phú Nhuận, người Đất Hộ, đạp xe, lên chợ An Đông thăm ông già mù, để đấu láo và UTQ, uống trà quạu, hút thuốc lào, với nhau, ít lắm là một tuần một lần.

Đầu Xuân 2016
Nhớ những ngày loạn lạc tháng ba, tháng tư năm 1975.

Phan Văn Song

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Images?q=tbn:ANd9GcQ8djdYunt5zJ6KTxm7sLXra2Hu7lx_cc1L3rpD4bWHHp1hKce9eA

"Dân oan" XHCN VN bị bọn cs ăn cướp mất đất, mất nhà...

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 5_gai1429-1
Bar "Tiệm cà phê Việt Nam" tại giao lộ Jalan Ramlee - Jalan Perak giữa trung tâm Kuala Lumpur.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 2Q==
“Gái hư” Việt Nam nổi tiếng
Kuala Lumpur....
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeWed Apr 06, 2016 9:52 am


C
ho ngày Ba mươi tháng Tư: Nỗi đau và Tình yêu
Nguyễn Thị Từ Huy, viết từ Paris

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU E4ab23ee-4e40-4880-b295-a7fce88aa595
Một phụ nữ đi ngang những áp phích tuyên truyền cho ngày 30 tháng 4 được trưng bày tại Saigon hôm 11/4/2015.
AFP photo

Nếu một cộng đồng có một ngày mà trong ngày đó một nửa số người cảm thấy hạnh phúc và một nửa số người cảm thấy đau khổ thì ta nên đứng về nửa nào?
Những người có hiểu biết và lương tri sẽ chọn đứng về phía nỗi đau.
Tôi chưa bao giờ dám nói gì về ngày ba mươi tháng tư. Bởi vì thực tế quá phức tạp và những gì tôi biết là quá ít ỏi và rất có thể là không chính xác so với sự thật của cuộc chiến, một cuộc chiến mà chỉ tên gọi của nó thôi cũng đã có thể gây ra cả một cuộc chiến khác.

Nhưng hôm nay, tình cờ tôi đọc một tập sách của Václav Havel có tựa đề: «Tình yêu và sự thật cần phải chiến thắng hận thù và dối trá». Cuốn sách tập hợp một số diễn từ của Havel trong hai năm 1989-1990, trong thời gian ông đứng ra tranh cử và được bầu làm tổng thống của nước Tiệp Khắc, một nước Tiệp Khắc dân chủ ở thời điểm vừa thoát khỏi đêm trường cộng sản chủ nghĩa.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 500_thumb

Câu nói trên đây của Havel và tư tưởng của ông khiến tôi có đủ can đảm để muốn viết một vài lời vào dịp này, vào dịp bốn mươi năm kết thúc cuộc nội chiến hay cuộc chiến tranh chống Mỹ giành độc lập hay cuộc chiến tranh giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Phân định bản chất của cuộc chiến là công việc khó khăn của những người có chuyên môn về khoa học lịch sử, nó đòi hỏi sử gia phải có cả bản lĩnh khoa học lẫn sự can đảm của người trí thức. Việc phân định ấy không thuộc chuyên môn của tôi và tôi cũng không định làm ở đây. Tôi chỉ muốn nói rằng tôi ý thức được tính chất phức tạp của cuộc chiến.

Độc giả đừng quan tâm tôi sinh ra lớn lên ở đâu hay được dạy dỗ như thế nào. Dù tôi sinh ra và lớn lên ở đâu, dù tôi nhìn lịch sử ra sao, dù tôi đánh giá cuộc chiến như thế nào, thì tôi cũng lựa chọn đứng về phía những người mang nỗi đau đã bốn mươi năm nay chưa được hóa giải. Những nỗi đau cũ vẫn còn nguyên và những nỗi đau mới. Những người mang nỗi đau có thể là người miền Nam, có thể là người miền Trung, cũng có thể là người miền Bắc.

Nhiều người cho rằng, người Mỹ rút khỏi Việt Nam đã bốn mươi năm, nhưng từ đó đến nay cuộc chiến giữa những người Việt với nhau vẫn chưa kết thúc. Những người này không phải là không có lý của họ. Cái lý đó không chỉ được chứng minh bởi hiện tượng di tản vẫn tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay, mà còn được chứng minh bởi các vụ bắt bớ những người bất đồng với chính quyền không ngừng tăng lên trong những năm vừa qua.

Vì thế hòa hợp hòa giải được đặt ra như một vấn đề quan trọng đối với dân tộc.
Có những người nghĩ rằng chỉ khi nào chủ nghĩa cộng sản sụp đổ ở Việt Nam lúc đó mới có hòa hợp hòa giải dân tộc. Những người ấy chắc chắn có lý riêng của mình.
Tuy nhiên, liệu ta có thể nghĩ theo một cách khác : chỉ khi nào những người dân hòa hợp hòa giải với nhau, kết hợp lại với nhau để tạo nên sức mạnh chung, thì lúc đó chủ nghĩa cộng sản mới có thể bị sụp đổ ở Việt Nam ?
Tôi là một trong những người nghĩ theo hướng này, và cho rằng tình trạng nghi kỵ, chia rẽ, ly tán hiện nay của người Việt dẫn tới sự suy yếu nội lực của dân tộc, và trở thành điều kiện tốt cho chủ nghĩa cộng sản tiếp tục duy trì và phát triển.

Có những người nghĩ rằng chỉ khi nào chính quyền tiến hành các động thái cần thiết thì mới có thể tiến hành hòa hợp hòa giải dân tộc, và dĩ nhiên họ có lý của họ, đồng thời những gợi ý, những đề xuất mà họ đưa ra đều thuyết phục.
Tuy nhiên, người ta không thể nào tiến hành hòa hợp hòa giải dân tộc một khi còn lấy nỗi đau của người khác làm niềm vui của mình, nhất là khi họ lấy nỗi đau của anh em trong nhà làm niềm tự hào của họ.
Trước niềm vui mà chính quyền đang lộ liễu phô trương (như đã không ngừng phô trương suốt từ bốn mươi năm nay với một sự kiêu ngạo thái quá), chúng ta không thể hy vọng rằng bộ máy chính quyền đương nhiệm có thể thực hiện việc hòa giải hòa hợp dân tộc.

Vì vậy, tôi nghĩ rằng chỉ còn hy vọng vào chính chúng ta, những người dân bình thường, những thường dân trong xã hội, của cả hai miền. Cần hy vọng rằng những thường dân chúng ta có thể vượt lên trên (chứ không phải là xóa đi hay quên đi) vết thương lòng của chính mình, để có thể hiểu nhau và từ đó mà tìm lại niềm tin đối với nhau, để có thể kết hợp lại với nhau mà tạo thành sức mạnh chung.
Làm thế nào để có thể vượt lên vết thương lòng của mỗi chúng ta ? Tôi sẽ nói hai ý, đó chính là hai ý tưởng mà Havel đã đề cập đến : tình yêu và sự thật. Tôi đảo ngược trật tự hai cụm từ này của Havel để nói về vấn đề sự thật trước.

Sự thật

Có lẽ chúng ta đều đồng ý với Havel rằng chỉ có sự thật mới có thể chiến thắng sự dối trá. Chúng ta cũng biết rằng bộ máy tuyên truyền khổng lồ của chính quyền độc tài, độc đảng chỉ tuyên truyền những gì có lợi cho chính chính quyền và cho đảng, và như thế tất yếu họ phải tạo ra những dối trá, hoặc tránh không đề cập đến những sự thật bất lợi cho họ.

Các sử gia là những người lẽ ra phải giúp dân chúng nhận thức sự thật lịch sử. Nhưng chúng ta đều biết, trong chế độ toàn trị, sử gia (và không riêng gì sử gia) bị sử dụng như một công cụ phục vụ cho bộ máy tuyên truyền. Vì thế chính họ, chứ không phải ai khác, đã biến lịch sử thành những chuyện kể có lợi cho chính quyền và cho đảng.
Vậy thì, câu hỏi đặt ra là: những ai có thể và phải làm gì để có thể trả lại sự thật cho lịch sử ?

Tôi không có câu trả lời cụ thể. Có lẽ nhìn một cách khái quát thì đó là công việc của những người có trách nhiệm và lương tri, nghĩa là những ai cảm thấy bị thôi thúc bởi trách nhiệm và lương tâm thì cần phải lên tiếng.
Ở đây, tôi muốn nói tới một điểm, một khó khăn thì đúng hơn: thế nào là sự thật?

Có lẽ chúng ta ai cũng muốn mình nói lên tiếng nói của sự thật, ai cũng muốn mình là đại diện cho sự thật. Nhưng khó khăn là ở chỗ : chúng ta chỉ có thể xuất phát từ điểm nhìn của riêng mình, trong khi thực tế là : nếu ta xuất phát từ điểm nhìn riêng mình thì người khác cũng sẽ xuất phát từ điểm nhìn riêng của họ. Nghĩa là 90 triệu người sẽ có 90 triệu điểm nhìn khác nhau, tùy thuộc vào nghiệm sinh và hiểu biết của mỗi người. Nghĩa là sự thật của mỗi người chúng ta chỉ là một trong muôn vàn sự thật của muôn người. Điều này cũng có nghĩa : để có thể tiếp cận với sự thật, chúng ta cần phải đặt sự thật của mình trong quy chiếu với sự thật của muôn người. Nếu ta khăng khăng rằng chỉ có sự thật của ta mới là sự thật, thì lúc đó có thể ta sẽ ở rất xa sự thật.

Toàn bộ đoạn văn trên của tôi (mà độc giả có thể cảm thấy nó rất lằng nhằng) nhằm nói lên điều này : chúng ta rất có thể tự đẩy mình vào tình trạng bị giam cầm trong chính cái điều mà ta tin là sự thật. Lúc đó, dù rằng đúng là ta nắm giữ sự thật ta vẫn sẽ đánh mất sự sáng suốt, cùng với việc đánh mất sự sáng suốt, ta đánh mất khả năng kết hợp với người khác, và như thế đánh mất luôn sức mạnh của mình.
Bao giờ ta thừa nhận rằng trên đời này không chỉ có một sự thật duy nhất của một mình ta, trái lại, có rất nhiều sự thật khác nhau, lúc đó ta mới có thể tìm cách để nhìn sự thật như nó vốn tồn tại, trong toàn bộ tính chất phức tạp và khó nắm bắt của nó.
Bao giờ trong đầu óc của mình, ta chừa chỗ cho những suy nghĩ, cảm xúc, nhận thức của người khác, lúc đó ta mới mong có thể thoát ra khỏi vị thế hạn hẹp của mình để nhìn thực tế từ những góc độ khác, lúc đó ta mới mong có thể giải thoát được chính mình, để ra khỏi không gian riêng của mình và đi đến với người khác, mở rộng trái tim và chìa bàn tay của ta cho họ.

Tình yêu và nỗi đau

Có lẽ chúng ta sẽ đồng ý với Havel rằng chỉ có tình yêu mới chiến thắng được thù hận.
Bao giờ chúng ta suy nghĩ và hành động theo hướng tích cực, không còn bị giam cầm trong thù hận, trong ghét bỏ, nghĩa là không còn bị ràng buộc trong những xúc cảm tiêu cực nữa, thì lúc đó hành động của chúng ta mới có thể có hiệu quả như chúng ta mong muốn.

Bằng thù hận, chúng ta không thể thắng được những kẻ đang nhân danh chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội để « làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân » (cảm ơn nghệ sĩ Kim Chi về cụm từ này). Chúng ta chỉ có thể thắng họ bằng « tình yêu và sự thật » (chữ của Havel), và bằng trí tuệ của chúng ta. Đất nước của chúng ta đang bị tàn phá bởi lòng tham và sự mù quáng của lãnh đạo.
Chúng ta chỉ có thể chống lại lòng tham và sự mù quáng của họ bằng chính tình yêu và sự sáng suốt của chúng ta. Như một nhóm người Hà Nội ít ỏi đang chống lại lòng tham và sự mù quáng của những kẻ tàn phá cây bằng chính tình yêu cây và tình yêu môi trường sống của họ.
Hận thù không giúp chúng ta trở nên sáng suốt, trái lại, hận thù sẽ đẩy chúng ta vào tình trạng mù quáng. Chúng ta có thể nào lấy sự mù quáng để chống lại sự mù quáng ?

Chúng ta chỉ có thể thuyết phục cùng với bằng chứng và lý lẽ, lý lẽ của trí tuệ và lý lẽ của tình yêu.  Hơn nữa, chúng ta cũng không thể giải thoát khỏi nỗi đau của mình, nếu chỉ bằng cách dùng những lời lẽ thô bạo và cay nghiệt. Những lời lẽ ấy có thể giúp giải tỏa cho tâm lý của ta trong chốc lát, trong một giây phút ngắn ngủi khi ta nói ra hoặc viết ra những lời đó. Nhưng khi giây phút đó qua đi, ta sẽ phải tiếp tục đối diện với một thực tế vẫn còn y nguyên trước mắt, thậm chí thực tế ấy ngày càng tồi tệ hơn, ngày càng tuyệt vọng hơn, bởi thực tế ấy được tạo ra từ lòng tham và sự mù quáng của những người đang nắm các vị trí lãnh đạo.
Chúng ta lựa chọn điều gì giữa hai mong muốn : mong muốn giải thoát khỏi nỗi đau đớn của cá nhân mình, và mong muốn toàn bộ đất nước được giải thoát khỏi sự kìm kẹp của chế độ cộng sản, để có thể phát triển một cách lành mạnh, đảm bảo công bằng và nhân quyền cho tất cả mọi người ?

Liệu chúng ta có thể để cho các dân tộc khác nhận thấy vẻ đẹp nhân văn của tình yêu và sự hy sinh trong những nỗ lực bền bỉ, không mệt mỏi của chúng ta nhằm chống lại hệ thống toàn trị ? Liệu chúng ta có thể để lại cho nhân loại những kinh nghiệm quý giá riêng của dân tộc chúng ta, những kinh nghiệm nhân bản dù chúng ta phải trả giá đắt, trong nỗ lực bảo vệ quyền con người và bảo vệ các giá trị người phổ quát ?
Liệu sẽ có một ngày chúng ta có thể nói về chính chúng ta như Václav Havel từng nói về dân tộc Tiệp Khắc: « Khắp nơi trên thế giới, người ta ngạc nhiên tự hỏi ở đâu ra cái sức mạnh to lớn của các công dân Tiệp Khắc, những người vốn cho tới lúc này vẫn phục tùng, chịu tủi nhục, hoài nghi và tưởng chừng như chẳng còn tin gì nữa, nhưng trong vài tuần lễ, một cách chính trực và hòa bình họ đã thành công trong việc tự giải thoát khỏi hệ thống toàn trị. » (L'amour et la vérité doivent triompher de la haine et du mensonge, Václav Havel, Editions de l'Aube, tr.28)

Nếu ngày 30/4 còn có thể cho chúng ta một hy vọng, thì tôi sẽ nói : chúng ta có thể làm được điều đó nếu mỗi người chúng ta có thể vượt lên trên nỗi đau riêng của mình.
Tôi nói điều này trong khi hoàn toàn ý thức được rằng nỗi đau của mỗi người cần được tôn trọng, cần được hiểu và cần được chia sẻ. Và tôi cũng hiểu rằng khi chúng ta vượt khỏi nỗi đau của mình để nhìn thấy nỗi đau của người khác thì lúc đó nỗi đau của chúng ta sẽ mang một chiều kích khác.
Chúng ta có nên thử gộp nỗi đau của cả hai miền lại với nhau, biết đâu chúng ta sẽ đỡ đau hơn, và biết đâu chừng ta có thể tin nhau ?

Có thể chính là trong ánh sáng của nỗi đau, chính là trong khi người này nhìn thấy nỗi đau của người kia, mà chúng ta có thể xóa bỏ thù hận, xóa bỏ bức tường dựng lên giữa hai chiến tuyến; cái bức tường vô hình vẫn tồn tại trong lòng mỗi người từ bốn mươi năm nay; cái bức tường khiến chúng ta người này không thể tin ở người kia, khiến chúng ta nghi kỵ và chia rẽ; cái bức tường khiến cho cờ đỏ và cờ vàng thành ra những vật trở ngại, ngăn cản chúng ta xích lại gần nhau, ngăn cản chúng ta cùng nhìn về tương lai và cùng tạo dựng một tương lai chung.

Những nỗi đau cộng hưởng với nhau có thể tạo thành sức mạnh, và đến lượt nó, sức mạnh này có thể hóa giải nỗi đau, và có thể biến nỗi đau thành tình yêu…

Paris, 29/4/2015

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Tdlbao

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Tdlbao
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeWed Apr 13, 2016 2:36 pm

 Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 9k=

Tháng Tư... thù hận

Tạp Ghi Huy Phương   
Sunday, April 10, 2016

Mới đọc qua nhan đề bài tạp ghi hôm nay, xin quý vị bình tĩnh, chớ có la lên: “Bây giờ mà nói chuyện thù hận, hãy xóa bỏ hận thù, quên đi quá khứ và cùng nhau hướng về tương lai, bắt tay cùng nhau xây dựng đất nước!” Câu nói này do bên thắng trận, nói đi nói lại đã nhiều lần, trở thành một câu nói sáo mòn, nghe như vô nghĩa. Ngày 30 tháng 4 lại đến, những người thua trận đã chịu bao nhiêu cảnh nghiệt ngã, đau xót, tha thứ mà không quên, khó quên thì dễ gì một sớm một chiều mà tha thứ.

Loài sói lang trên rừng mà biết nói chuyện nhân nghĩa, tay còn dính máu mà nói chuyện hãy bỏ qua hận thù. Mỗi năm, đến ngày 30 tháng 4, những kẻ thắng trận lại khua chiêng, đánh trống, duyệt binh, bắn pháo bông ăn mừng, và nói những điều nhân nghĩa khó nghe. “Lòng nhân ái làm nên 30 tháng 4, 1975!” Đó là câu nói của Tướng Lê Đức Anh, người đã từng là bộ trưởng Quốc Phòng và chủ tịch nước CSVN. Tuyên bố với báo chí, y đã giải thích thêm:
 
“Không hề có cuộc trả thù ‘tắm máu’ nào, đội quân và bộ máy chính quyền Sài Gòn tan rã tại chỗ nên các đô thị của miền Nam hầu như nguyên vẹn, không bị tàn phá. Kết thúc chiến tranh có người thắng kẻ thua nhưng không hề có sự trả thù và phục thù gay gắt.” Và:“ Việt Nam (Cộng Sản) là một dân tộc hiền hậu và vị tha...”

Tôi có một người anh họ là Đại Tá Lê Khắc Duyệt, nguyên giám đốc Công An Trung Nguyên và Cao Nguyên Trung Phần dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Sau năm 1963, ông được thuyên chuyền về Tổng Nha Cảnh Sát, và những ngày cuối cùng ông đặc trách công việc của cơ quan Interpol tại Việt Nam. Trước ngày 30 tháng 4, ông cũng như bao người khác nghe lời đường mật qua thông cáo của Chính Phủ Cộng Hòa Lâm thời miền Nam Việt Nam: “Quân đội bỏ súng về quê!” có xe đến nhà rước lên phi trường, nhưng ông không đi. Sau đó, ông đi trình diện “học tập” đúng ngày như bao nhiêu công chức cao cấp khác của miền Nam.

Trong thời gian ông đang ở trong trại cải tạo, một người bà con đi tập kết từ năm 1954 trở về, tốt bụng đã nói chuyện với gia đình ông Duyệt:
- Những công chức cao cấp miền Nam giữ những chức vụ như anh, trước sau gì bọn chúng cũng giết. Nghe nói chúng sẽ đưa một số sĩ quan và viên chức cao cấp, nhất là giới tình báo ra Bắc. Vậy gia đình nên tìm cách vận động, chạy chọt để anh khỏi phải ra Bắc. Đằng nào cũng chết, nhưng nếu anh ở lại trong Nam, chị và các cháu còn có thể đem xác về chôn cất hương khói, còn như ra Bắc, thì chết xong, bọn nó vùi dập đâu đó, không biết đâu mà tìm.

Gia đình ông Duyệt nghe lời chỉ dẫn của người bà con, đã tìm đủ mọi cách “trải vàng” cho ông khỏi có tên trong danh sách những người được chở ra Bắc bằng máy bay C.130 vào một đêm cuối năm 1976. Nhưng ba tháng sau, ở trại Long Thành, ông bị một cơn cảm nhẹ, trại có nhã ý chích cho ông một mũi thuốc. Sau mũi thuốc này, ông bất tỉnh, không thở được, trại “khoan hồng” chuyển cho ông về bệnh viện Hồng Bàng, và ông qua đời một hôm sau đó. Gia đình đời đời nhớ ơn ông “cách mạng” này, đúng như lời chỉ dẫn thân nhân “có xác” của ông để mang về chôn cất. Thật ra mấy ai hiểu biết gì về Cộng Sản, ngay cả những người ở trong ngành tình báo, phản gián!

Những viên chức tình báo cao cấp sau đây đưa ra Bắc đã bị Việt Cộng giết trong tù:

1.Chuẩn Tướng Bùi Văn Nhu, phó tư lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, người thay thế Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình làm tư lệnh.

2.Đại Tá Dương Quang Tiếp, thuộc BTL Cảnh Sát Quốc Gia, phụ tá An Ninh Tình Báo Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên và 2 Bên.

3.Đại Tá Nguyễn Xuân Học, trưởng Khối Phản Tình Báo đặc trách An Ninh Tình Báo - Phản Gián Nha An Ninh Quân Đội.

4.Đốc Sự Nguyễn Phát Lộc, giám đốc Nha Nghiên Cứu, người thay thế Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình làm đặc ủy trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo.

5.Ông Nguyễn Kim Thúy, giám đốc Nha Nghiên Cứu Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo.

Những viên chức tình báo cao cấp này khi đưa ra Bắc, đã bị đưa đi nhiều trại tù khác nhau, nhưng cái chết của họ giống nhau: được gọi đi “làm việc,” khai báo tội lỗi, và sau đó được trại “bồi dưỡng” một tô phở, ăn xong tô phở về đến trại, bị hộc máu chết ngay trong đêm đó.

Cộng Sản ở đâu cũng vậy, chữa bệnh thì không giỏi, nhưng đầu độc là “nghề chuyên môn của chàng.”

Ở trong Nam, Việt Cộng “không đánh người chạy đi, nhưng giết người chạy lại!” Họ xử bắn những người lính đã buông súng đầu hàng, xử tử ngay cả những viên chức Xã, Ấp, trung đội trưởng Nghĩa Quân, trong đó Hậu Nghĩa (Nam) và Quảng Ngãi (Trung) là hai tỉnh chịu sự trả thù tàn khốc nhất. Ở Quảng Ngãi, Thiếu Tá Hai, một tiểu đoàn trưởng địa phương Quân, bị treo ngược lên ở chợ Tịnh Châu, quận Sơn Tịnh, Quảng Ngãi, và mọi người dân đi qua đều bị Việt Công bắt cầm dao đâm vào người ông cho đến khi chết, chết rồi còn bị đâm tiếp. Nhiều nhân viên đảng phái, như Quốc Dân Đảng được gọi riêng đi “học tập” trong đêm cuối cùng tất cả đều bị chôn sống.

Toàn bộ nhân viên cảnh sát xã Trung Lập, Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa đều bị xử tử. Nhiều viên chức cấp thấp ở tỉnh này như Trung Sĩ CS Tạ Văn Phúc, Cuộc Tân An Hội bị chặt đầu tại Phú Hòa Đông, Trung Sĩ CS Đặc Biệt Củ Chi Nguyễn Văn Chấp, bị tra tấn bằng cách dội nước sôi cho đến chết.

Ở Kiến Hòa, Đại Úy Nguyễn Xuân Thìn, phó trưởng Ty An Ninh Quân Đội ngày 30 tháng 4 cũng đã bị bắn và thả trôi sông.

Hầu hết những sĩ quan đặc trách tình báo, hay “Trưởng F đặc biệt” đều bị trả thù triệt để. Trung Tá Trương Văn Tỷ, Thiếu Tá Hồ Văn Còn, Thiếu Tá Phan Tấn Ngưu (Tây Ninh) Đại Uy Lữ Kim Ba (Ba Xuyên) chuyên viên Tình Báo Phạm Gia Đại (Tòa Đại Sứ Mỹ)... đều nhận bản án thù hận 17 năm trời ròng rã.

Đây chỉ là những tin tức hạn chế trong trăm nghìn trường hợp “hiền hậu, vị tha” mà những người Cộng Sản Việt Nam đã dành cho “anh em” miền Nam thất trận, còn bao nhiêu tội ác có nhân chứng trong nước, nhưng dưới chế độ này, họ đành câm nín mang theo cho đến khi chết.

Trong một cuộc chiến, khi hai bên coi nhau như kẻ thù, đều muốn tìm hết khả năng và dùng mọi phương tiện để tiêu diệt nhau, nhưng khi đã ngưng tiếng súng, có bên thắng bên thua, trong tinh thần mã thượng, không thể dùng sức mạnh để truy lùng, tiêu diệt những kẻ yếu thế như trường hợp đảng Cộng Sản Việt Nam đã làm. Như vậy, có thể dùng những danh từ hoa mỹ như “nhân ái,” “ hiền hậu,” “ vị tha” để mô tả những hành động ghê tởm này không?

“Không hề có sự trả thù và phục thù gay gắt” thì làm sao trong một trại tù như Ba Sao, Nam Hà, từ 1975 cho đến 1988 lại có 626 người tù từ miền Nam ra, đã chết vì đói, bệnh và làm việc kiệt lực.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Z

Một chế độ không dạy con người thù hận, làm sao có thể có những sự trả thù ghê gớm đến mức như vậy? Một cuộc chiến đã ngưng tiếng súng rồi, sao còn gọi nhau “máu kêu trả máu - đầu kêu trả đầu!”(Tố Hữu)

Những người sống bằng nhân nghĩa lại có “đức tính” mau quên, và những bài học hận thù viết bằng chữ máu, thì chẳng bao giờ thuộc.

(*)Theo lời vị trụ trì thuật lại với cô Phạm Thanh Nghiên, cách đây vài năm có một Phật tử đưa một cựu giám thị trại tù Ba Sao đến chùa. Người giám thị này trao cho sư một danh sách gồm 626 người tù từ miền Nam chết trong trại, ngỏ ý muốn làm một tấm bia đặt trong chùa để 626 vong linh này được hương khói tử tế. Danh sách này sau đó đã bị ông thầy thiêu hủy!

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Thantutuht
.
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeMon Apr 18, 2016 5:28 pm

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 30-4-ditan-danlambao 


Tản mạn 30/4: Mưng mủ một vết đau

Hồn Nhiên (Danlambao) - Cứ mỗi khi tháng 4 đến, trong tôi lại ùa về trùng trùng những ký ức. Tôi không có thói quen sống hoài niệm, nhưng có những khoảnh khắc làm cho tôi không thể nào quên.

Ba Mẹ tôi rất đông con, ngày mất nước mẹ tôi còn ôm cái bụng bầu em bé út thứ 10 sắp khai hoa nở nhụy. Thường thì gia đình đông con người ta gọi là Phúc, nhưng phúc đâu không thấy, chỉ thấy tai họa ập xuống đầu gia đình tôi khi cộng quân tràn về chiếm đóng. Ngày đó, với trí óc non trẻ, tôi nghĩ chắc không bao lâu đâu, rồi việt cộng sẽ rút, giống như xem phim những căn cứ địa bị vc chiếm đóng rồi sau đó có một quân đoàn dù hay thiết giáp gì đó sẽ tới giải vây. Nhưng không phải vậy. Tôi thấy trên gương mặt Ba tôi vẻ đăm chiêu thường xuyên xuất hiện. Mẹ tôi thì cáu gắt hơn mọi ngày. Anh chị tôi thì ngơ ngác, duy chỉ có các em tôi là vô tư nô đùa. Còn tôi thì đắm mình trong sách báo, hay nghe ngóng radio (hồi đó tôi mê nghe đài Mẹ Việt Nam lắm).

Cái ngày thảm họa đó cũng đến, Mẹ tôi đưa hết anh chị em tôi về quê lánh nạn theo lệnh di tản ban hành. Chỉ còn tôi, bà chị cả và cô giúp việc ở lại quyết giữ lấy căn nhà. Ngày đó hay có nạn hôi của, và tôi đã chứng kiến nạn hôi của ấy khi có một kho hàng của cơ quan từ thiện bị người ta cạy cửa vào lấy sạch, thủ quản kho hàng này đã di tản từ lâu. Ai nghe đến danh từ “cộng sản” là le lưỡi khiếp đảm. Có một câu chuyện vui vui được kể lại như thế này: Một đoàn bộ đội cs từ rừng về đi ngang qua nhà một người dân. Thình lình đoàn người dừng lại, vừa nhác thấy một người đàn bà trạc tuổi 57, 60 đang ngồi nhai cơm mớm cho con ăn, người bộ đội ra dáng chỉ huy quay hỏi người đàn bà:
- Chị chỉ cho chúng tôi quán nước gần đây, chúng tôi vừa từ bưng về khát nước lắm.
- Vâng, các đồng chí cứ đi thẳng tới cuối đường thì rẽ trái, quán nước ở ngay đầu đường.

Rồi chừng như muốn làm đậm đà thêm câu chuyện, ắt hẳn muốn lấy cảm tình của người chiến thắng chăng, bà huyên thuyên nhanh nhẩu:
- Cám ơn các đồng chí cách mạng. Nhờ có các đồng chí mà người dân thành phố chúng tôi không còn sợ bị cộng sản pháo kích nữa. Cám ơn các đồng chí nhiều lắm(!)

Cả đoàn bộ đội nín khe, mặt mày tái mét, không biết trạng thái này là vì sốt rét rừng hay vì tác động bởi câu nói vô tình của người đàn bà kia. Riêng người bộ đội chỉ huy thì khuôn mặt đanh lại, lạnh lùng bước đi, chả buồn nói một lời cám ơn, hay chí ít một nụ cười.

Rồi thì những “hồ hởi, phấn khởi” gượng tạo ban đầu cũng qua, gia đình tôi bắt đầu phải đối mặt với những trận cuồng phong không thể tránh được. Đầu tiên Ba tôi bị ném vào trại “tập trung cải tạo”, nhưng thực chất là trại nhục hình dành cho quân nhân cán chính VNCH. Suốt một tháng ròng rã cs nhốt Ba tôi ở một nơi bí mật không ai hay biết. Mẹ tôi, người yếu như con sên sau khi sinh nở. Vì lo lắng cho Ba tôi mà Mẹ tôi gầy rộc đi, mắt Mẹ tôi lúc nào cũng mờ lệ. Tuy nhiên, khi có ai tò mò hỏi về Ba tôi, bà giữ im lặng bằng một nụ cười buồn không trả lời.

Thời điểm đó, không ai dám tin ai. Không ai dám nói thật những suy nghĩ của mình về chế độ mới, sợ người ta báo cáo lên phường để dâng công với chế độ. Hàng xóm láng giềng trước kia thân là thế, tối lửa tắt đèn có nhau, thế mà giờ trở nên e dè nhau, quan sát nhau. Ngày đó, các em tôi còn nhỏ dại, con nít chơi đùa với nhau, thằng em trai áp út của tôi lỡ tay ném viên gạch vào cửa sổ làm bằng kính của nhà hàng xóm, thế là họ làm lớn chuyện, đòi thưa em tôi vào tù. Mẹ tôi sợ lắm, vì gia đình có Ba làm cho chế độ cũ thì đã là cái gai trong mắt của chế độ mới rồi, cho nên mất bao nhiêu tiền Mẹ tôi cũng không tiếc, chỉ mong sao họ im lặng và bỏ qua cho. Thế là họ treo giá, một cái giá cắt cổ, Mẹ tôi bấm bụng bồi thường. Con dại cái mang, Mẹ tôi bảo vậy. Hàng xóm được nước càng lấn tới, ăn hiếp anh chị em tôi. Em gái tôi phẫn uất chịu không nổi, xin Mẹ đi học võ. Ban đầu Mẹ tôi ngần ngừ không cho, nhưng em tôi thuyết phục mãi, nào là “con học võ không phải đánh lộn với ai đâu, chỉ là giúp cho cường thân kiện thể thôi”, nào là “con gái phải biết võ, lỡ bị kẻ xấu tấn công thì cũng biết đường tự vệ” v.v… cuối cùng Mẹ tôi bằng lòng. Cũng nhờ có cô em gái biết võ, chúng tôi sống tự tin hơn.

Một ngày kia có người từ chỗ tạm giam Ba tôi trở về, lúc đi ngang nhà tôi, người đó ngó dáo dác xem chừng không có ai mới ném vào nhà tôi một mẩu giấy được xé từ hộp thuốc lá Captain, loại thuốc thường ngày Ba tôi vẫn hay hút. Mẹ tôi nhận ngay ra tuồng chữ của Ba tôi, và bà như ngất đi vì quá đỗi vui mừng. Ba tôi bị nhốt vào một phòng giam mà trước kia Ba tôi thường làm việc, để hỏi cung những người cộng sản nằm vùng chuyên đặt mìn trên xe đò, đặt plastic ở rạp hát làm chết dân hàng loạt. Người giúp chuyển lá thư của Ba tôi về cho Mẹ tôi là một cô gái ăn sương tốt bụng, cô nhìn thấy hoàn cảnh của Ba tôi đáng thương nên bất chấp sự hiểm nguy, nhận đưa thư về để mong Ba tôi được có người thân thăm viếng. Nếu không, vc sẽ nhốt Ba tôi dài hạn mà không cần kết án. (Đã có nhiều người lâm vào trường hợp giống Ba tôi mà đến nay vẫn còn ngồi tù, vẫn chưa có người thân đi thăm nuôi). Sau đó không bao lâu, Ba tôi chính thức đi trại nhục hình với lời hứa hẹn của vc là “chỉ đi 10 ngày rồi sẽ trở về nguyên quán”. Thật là một lời nói láo trơ trẽn nhất mà vc đã dùng để dối gạt người dân miền Nam, đặc biệt là đối với quân nhân cán chính VNCH và thân nhân của họ!

Giai đoạn năm 1978, 1980, phong trào vượt biên nở rộ. Đi đâu cũng nghe thiên hạ xầm xì chuyện vượt biên. Làm sao không vượt biên cho được khi quyền làm người đã bị tước đoạt? Chính sách bao tử trị của vc xem ra khá hiệu nghiệm, Người dân bị khuất phục và trở nên thụ động chỉ vì… Đói! Thật vậy, đói làm cho con người mất đi khả năng đối kháng, trở nên hèn yếu và nhu nhược. VC cố tình triệt hạ miền Nam bằng ba lần đổi tiền, đồng thời “Đánh tư sản mại bản”, dùng chữ cho hay thế thôi chứ thật ra là ăn cướp. Cướp sạch, cướp tới tận cùng của người dân miền Nam. Nhiều gia đình làm ăn tích lũy từ thời cha ông của họ, trở thành trắng tay qua một ngày “đánh tư sản mại bản”, có người treo cổ tự tử, có người bị sốc nặng trở thành điên loạn. Và ý tưởng vượt biên bắt đầu nhén nhúm trong lòng họ. Thế rồi những chuyến tàu vượt biển đầu tiên ra khơi. Có người đến được bến bờ tự do đã gởi thư về, càng thôi thúc những những chuyến tàu sau tiếp nối. Có người còn nói: “thà chết ngoài biển làm mồi cho cá mập còn hơn làm nô lệ cho chế độ khốn nạn này”. Và thế là họ đi. Già có, trẻ có, gái có, trai có, họ đi mà không nhận thức được nguy hiểm đang chờ họ phía trước. Họ phó thác cho số mạng, đi cái đã, rồi ra sao thì ra.

Tôi có một cô bạn, nhỏ hơn tôi vài tuổi. Khuôn mặt đẹp thánh thiện, và tâm hồn cô cũng thánh thiện. Cô đang học lớp 9 thì bỏ học ngang xương. Tôi hỏi: “sao em lại nghỉ học?”. Cô buồn buồn trả lời: “Học làm gì chị ơi. Học cho lắm lên ĐH cũng bị đánh rớt à”. Tôi biết cô nói đúng, “học tài thi lý lịch” là câu châm ngôn mà bọn trẻ thời đó thường hay nói. Nhưng tôi cũng cố tìm lời an ủi: "Thì kệ đi, mình học để tích lũy kiến thức cho mình, chứ bỏ học là mình chịu dốt sao?”. Cô nháy nháy mắt: “mà chắc gì em ở lại VN đâu mà học chị?”. Tôi chột dạ: “Cái gì? Em tính đi đâu mà không ở VN?”. Cô đưa ngón tay trỏ lên môi: “suỵt!” Tôi hiểu ý, không nói nữa.

Một tháng sau, tôi nhận được tin báo: “H.T đi vượt biên vì hết nước uống và lương thực, nên bị ăn thịt chết rồi!”. Bàng hoàng, sửng sốt, tôi không tin vào tai mình. Cách một tháng trước tôi còn nói chuyện với cô ấy mà. Không, tôi không tin có chuyện đó. Người dân xứ tôi hay đồn thổi lắm. Nên chuyện này chắc chắn chỉ là lời đồn thôi. Nhưng không, khi tôi tìm tới nhà cô bạn tôi để xác minh, thì trời ơi, ngay giữa nhà là một chiếc bàn thờ với tấm di ảnh của người bạn nhỏ. Tôi òa khóc nức nở. Lòng tôi tê điếng. Trở về nhà với tâm trạng nặng trĩu như mang một tảng đá trong lòng, tôi nhủ thầm: “Mình sẽ viết lại những gì mình chứng kiến, hầu để cho lớp trẻ sau này hiểu rõ hơn cái gọi là “giải phóng” của csVN. Tất cả người dân, Bắc cũng như Nam, đều bị vc dối gạt hết rồi”.

Và đến bây giờ, sau hơn 40 năm, dân mình vẫn còn bị gạt…

Tháng tư đen thứ 41

4/15/2016

Hồn Nhiên
danlambaovn.blogspot.com
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeWed Apr 27, 2016 5:18 pm

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Suytu-0938-danlambao
 
Tháng Tư và nỗi nhớ...

Nguyên Thạch (Danlambao) - Tháng Tư Đen, tháng của tang thương và uất hận, tháng của khổ đau, của nước mắt dạt dào. Tháng của chia lìa, ly tán, hư hao, bẻ súng gãy gánh trong niềm đau bức tử. Những người tù lương tâm, những người tù thế hệ, Nguyễn Văn Lý, Trần Huỳnh Duy Thức, Bùi Thị Minh Hằng, Trương Văn Sương, Nguyễn Tuấn Nam, Nguyễn Văn Trại, Đỗ Văn Thái...

Những gương hùng bất tử Ngụy Văn Thà, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú, Hồ Ngọc Cẩn… và nhiều hơn nữa, nhiều lắm.

Các anh là những đứa con yêu của Tổ Quốc, của Tự Do và Nhân Bản. Cho dẫu hôm nay các anh còn sống trong sự tàn tạ như một phế nhân hay đã chết trong niềm đau tức tưởi căm hờn thì các anh vẫn luôn là những chàng trai kiêu hùng của nước Việt.

Những đứa em thuộc thế hệ đi sau, nguyện noi bước đàn anh để tiếp tục trên con đường chiến đấu cho một Việt Nam Độc lập Dân Chủ Tự Do Nhân Bản và Hưng Thịnh hầu an ủi cho vong hồn các anh nơi chín suối cũng như ân cần chia sẻ cho những người lính bất hạnh còn lại trong hoang phế nhọc nhằn.

Sau đây là những vần thơ chân thành của một đứa em, mong tặng các anh nhũng người còn sống trong nỗi lo nhọc nhằn thay lời ru cho những chiến sĩ hy sinh cho nền Tự Do Nhân Bản và tri ân cho những gương hùng vị quốc vong thân nhân mùa tháng Tư đau thương oan nghiệt.

Cầu chúc các Anh Chị Em chân cứng đá mềm cũng như nguyện cầu hương hồn hiển linh của các anh phò hộ cho những lớp đàn em luôn vững tin trên con đường đấu tranh cứu quốc khỏi tai ách cộng sản hung tàn toàn trị và lạc hậu.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Nt


Bão Tháng Tư

Tháng Tư đen bụi mù giăng khắp nẻo
Cơn giao mùa gió lộng bão tháng Tư
Đời biệt ly vội vã tiếng giã từ
Vạt áo trắng thiên thư em ở lại.

Cơn bão táp cuộn trôi đời con gái
Nhập dòng đời ngang trái lắm nhiễu nhương
Ngày xa nhau đành mất dấu thiên đường
Triệu đau xót... vạn lời thương ái ngại.

Bốn mươi năm, Tự Do xa vắng mãi
Ôi còn đâu những dấu ái ngày xưa
Chất ngất nhớ nhung lời mấy cho vừa
Đường cờ rũ ngập đời mưa oan nghiệt.

Em yêu ơi bao năm dài biền biệt
Có hiểu chăng niềm tha thiết còn đây
Tình nghĩa xưa vẫn thắm đượm đong đầy
Dẫu luống tuổi đường mây vương cánh vạc.

Chiều trông sóng Thái Bình nghe biển hát
Vọng bên kia tan tác nỗi thương đau
Nhớ em yêu gối kỷ niệm nghẹn ngào
Chùng phím nhạc, ngất nỗi đau thế kỷ.

*

Các anh là Quê Hương

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Nt2
- Xin vinh danh các chiến sĩ VNCH đã hy sinh vì miền Nam Tự Do Nhân Bản.

Xin được viết tên anh
Trên hoa lá ngàn xanh
Từng góc đường đất mẹ
Trang sử ghi ngọn ngành.

Các anh là quê hương
Các anh là tình thương
Đứng thẳng lưng tranh đấu
Rực sáng tựa ánh dương.

Khi quê hương tơi tả
Dẫu cho thân gục ngã
Không cúi đầu hàng giặc
Làm gương hùng cao cả.

Tôi viết tên anh
Trên lá thư xanh
Tôi hát tên anh
Vang tiếng ca quân hành.

Các anh là niềm vinh dân tôi
Chí kiêu hùng vươn vai không thôi
Giữ vững Tổ Quốc núi sông biển đồi .

Các anh là niềm tin tương lai
Trọng trách này, anh mang trên vai
Đưa toàn dân qua tăm tối canh dài.

Ngày tự do
Muôn dân vui ca
Việt Nam tôi
Đất tổ quê cha
Lớp con yêu
Giữ yên sơn hà.

*

Các em là Quê Hương

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Nt3
- Vinh danh các chiến sĩ đã đứng lên đấu tranh cho Dân Chủ Nhân Quyền với một Việt Nam không cộng sản.

Nắn nót tên anh, tôi viết trên tranh
Luôn ngắm tên anh, mắt biếc long lanh
Người chiến sĩ, tôi muốn vinh danh
Tự do tranh đấu... giúp cho dân lành.

Ghi khắc tên em như những anh thư
Lớp người hy sinh ngay tuổi đôi mươi
Gương sáng anh minh như đóa sen tươi
Gan dạ đứng lên... đấu tranh cho đời.

Các anh là vầng sáng ánh dương
Các em là tình yêu quê hương
Xin trao trọn lớp người tôi thương
Đây con tim, gởi ai kiên cường.


Chúng ta cùng siết tay đứng lên
Vì Quê Hương, ngại chi đạn tên
Còi Tổ Quốc cất xa vang rền
Gìn giữ non sông ngàn năm vững bền.

Các em là tình tình thương
Các anh là Quê hương.

*

Tôi Viết Tên Anh

Tôi viết tên anh
Trên lá ngàn xanh
Trong lời mẹ gọi
Trong tiếng quân hành

Anh là niềm tin
Đi trong quang vinh
Anh là ngọc quí
Quê hương đượm tình

Các anh là
Những trai hùng đất Việt
Vì Quê Hương
Nào tiếc máu xương
Các anh là hình dáng yêu thương
Dựng Tổ Quốc trên con đường tươi rạng.

Tôi viết tên anh
Trên trang sử xanh
Đáp lời sông núi
Hy sinh thân mình

Anh là trai Việt
Sả thân nào tiếc
Anh là hoa biếc
Rực rỡ hướng dương

Nhịp hùng ca, bước quân hành vững tiến
Vì Tự Do quyết nguyện chung lòng
Các anh là niềm kiêu hãnh non sông
Là ánh đuốc soi rực hồng vạn nẻo

Anh là chí khí
Trên vạn nẻo đường
Rãi khắp quê hương

Các anh là tình thương
Các anh là quê hương...

*

Bao Giờ Trở Lại


Tháng Tư trăng trĩu trên rừng vắng
Giá buốt tôi đi dưới ánh vàng
Trường Sơn mờ hiện hồn dũng sĩ
Nguồn xa nghe Quốc vọng tiếng than.

Tân Rai giặc chiếm trơ đất mẹ
Đau luống chè xanh mất quê hương
Bao giờ nước cũ về Sông Lũy
Cho cánh đồng xanh lúa trổ cờ.

Có lẽ em thương tôi nhiều lắm
Ươm cả vườn mơ ước hẹn chờ
Tôi kẻ tha phương trời biền biệt
Niềm riêng... xin gởi ánh trăng mơ.

Hôm nay đất mẹ nghìn thống khổ
Vai còn trĩu nặng gánh chinh nhân
Dấn thân góp sức đường tranh đấu
Tình riêng em hãy nén đợi chờ.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Nt4

Nguyên Thạch
danlambaovn.blogspot.com

.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeSun May 01, 2016 6:52 pm


Tháng Tư và tờ nhật ký trên biển


Posted on April 29, 2016   
by Bùi Văn Phú

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Buivanphu_20160428_thangtu_h01
Trang nhật ký trên biển ghi lại những khoảnh khắc trong hành trình rời bỏ quê hương của tác giả

Mới đây, trong thùng tư liệu tôi tìm lại được một trang giấy với bút tích ghi chép những sự kiện trong những ngày trôi nổi trên biển sau khi rời quê hương vào cuối tháng Tư 1975.

Nhìn những con số, những nét chữ, một vùng ký ức không hề phai nhòa lại hiện về. Tờ giấy pơ-luya trên đó tự tay mình ghi ngày tháng, viết vội vài ba chữ, đôi ba dòng về những gì đã xảy ra trong hành trình trên biển khi rời bỏ quê hương, bắt đầu từ bến Kho 5 Sài Gòn, khi thành phố trong cơn hoảng loạn cho đến khi đến được căn cứ Hải quân Mỹ ở Subic Bay, Philippines.

“29-04 16g30 Depart Thứ 3”


Đây là hàng chữ đầu tiên trên trang giấy mỏng. Sáng nay tôi theo ông anh họ chạy từ nhà anh ở khu Chí Hòa, Ngã ba Ông Tạ vào thành phố bằng xe máy, lòng vòng qua nhiều nơi trước khi đến bến tàu rồi lạc mất nhau. Trong hoảng loạn, chen chúc, tôi theo một phụ nữ với con nhỏ lên tàu mà không biết rồi sẽ đi đâu.

Chiều hôm đó con tàu không máy mầu xanh dương có tên Saigon II được một tàu Đại Hàn kéo ra khỏi bến Kho 5 để đi về miền Tây tránh chiến tranh. Tôi nghe người lớn nói thế.

“30 9g30’ đầu hàng 11g30 CS vô Thứ 4”

Đó là ngày thứ Tư 30/4/1975. Tin đầu hàng tôi nghe được trên boong tàu, từ radio trên tay một người có dáng cao lớn, đầu hói đang ngồi ở phía đầu tầu cùng vài người khác, tất cả ngó về phía trước. Còn tôi ngồi dựa lưng vào thành tàu để có gió làm cho bớt mệt sau cơn ói vì say sóng và vì đêm qua ở dưới hầm tàu rất ngột ngạt. 9 giờ 30 phút đầu hàng. 11 giờ 30 cộng sản vô.

Lúc sau từ radio phát ra những lời ca quen thuộc: “Rừng núi giang tay nối lại biển xa…”

“Chúa Nhật 04 tháng 05, 1975 tới Singapore hồi 7g30 Sg (7g địa phương). Tới 12g được tin chính phủ Singapore thừa nhận CPCMLT [tức Chính phủ Cánh mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam], lo sốt vó không biết làm sao, tính đi về Đài Loan nhưng xa quá, đi Úc, Guam cũng vậy. Số mạng chúng tôi thật như chỉ mành treo chuông.”


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Buivanphu_20160428_thangtu_h02

Chúa Nhật 04/5 tàu được kéo đến Singapore. Sự kiện và cảm nhận lo âu của tác giả lúc bấy giờ

Như thế con tàu được kéo đi lòng vòng 5 ngày mới đến Singapore. Những ngày qua tôi chỉ thấy chung quanh là biển bao la. Xa xa phía trước là sợi dây thừng to chìm dưới nước được nối vào đuôi con tầu Đại Hàn đang kéo Saigon II theo sau.

Đêm về dưới hầm tàu tôi cố tìm giấc ngủ nhưng không thể được vì cứ nghĩ đến gia đình bỏ lại, nhớ bạn bè, nghĩ về tương lai vô định.

Có sáng trên boong tàu nghe người lớn kể trên đường đi muốn vào Mã Lai nhưng bị hải quân Mã nổ súng đuổi đi mấy lần.

Cơm trên tàu có chú Thành là hoả đầu quân, nấu cơm bằng thùng phuy cho 300 người ăn nên có hột khê, hột sống. Nước ngày được chừng một ly.

Đến được Singapore nhưng quốc gia này không nhận cho người tị nạn tạm trú. Ông chủ tàu Nguyễn Văn Ngọc và chú Tư bàn với thuyền trưởng Đại Hàn về dự định sẽ đi đâu. Tôi cũng như mọi người đều lo không biết tương lai sẽ trôi dạt đến nơi nào, vì tàu không có máy làm sao đi xa được nữa trong khi Singapore có thể trả người tị nạn về lại Việt Nam.

Ngoài khơi hải phận Singapore, chung quanh thấy cũng có nhiều thuyền bè khác với người Việt trên đó.

“9-5 22g chuyển tầu Thứ 6”

Hôm nay là thứ Sáu ngày 9/5. Năm ngày qua tàu neo trong vùng biển Singapore, chúng tôi được cung cấp thức ăn có bánh mì, jăm-bông, cá hộp, patê hộp (Made in China) và cam táo. Những lát bánh mì kẹp hình vuông đầu tiên tôi được ăn trong đời và cảm thấy ngon nhất là lúc này.

Nhìn vào thành phố rực sáng ánh đèn. Những đêm qua trên tàu có lính Singapore lên canh gác. Dù tiếng Anh kiểu “cá nấu chè” tôi cũng cố gắng mở miệng nói ít câu và làm quen được với một anh lính hay đem kèn hạc-mo-ni-ca lên tàu giúp vui. Chúng tôi tặng nhau những đồng tiền Singapore và Việt Nam Cộng hòa để làm kỷ niệm.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Buivanphu_20160428_thangtu_h03
Đồng tiền người lính Singapore ký tặng tác giả để làm kỷ niệm

Đêm thứ Sáu 9-5 lính Singapore ra lệnh cho chúng tôi chuyển sang một tàu khác để ra đi.

Qua một du thuyền nhỏ rồi được đưa lên một con tàu trên đó đã đông nghẹt người Việt, chen chúc nhau trên boong không còn một chỗ trống, ngoài lối đi nhỏ quanh tầu. Tôi xuống hầm tìm một chỗ nằm vì lúc này lại cảm thấy say sóng, muốn ói.

Sáng ra, không chịu nổi không khí ngột ngạt dưới hầm, tôi leo lên boong và thấy toàn người là người. Saigon II cũng lớn bằng tàu này, nhưng chỉ có khoảng 300 người. Nay trên tàu Đông Hải có đến 2 nghìn người.

“11-5 ra đi 5g30’ CN”

Sáng sớm Chủ Nhật ngày 11/5 mấy chiến thuyền của hải quân Singapore hướng dẫn đưa Đông Hải ra hải phận quốc tế và chỉ hướng đi Philippines.

Không thể ở dưới hầm, vì quá ngột ngạt và lúc đó lại đang có dịch đỏ mắt. Tôi tìm được một chỗ ngồi lơ lửng trên tấm phên trên một cột sắt cao cách sàn tàu chừng hai mét, dù phải chịu nắng mưa nhưng luôn gió mát vẫn dễ thở hơn.

“16 6 tới vịnh 13g20 17g lên subic bay (Philip)”

Năm ngày sau Đông Hải đến Philippines. Có cuộc bốc thăm cho một số người xuống tàu vào Subic Bay. Tôi theo gia đình ông anh họ xuống một tàu của Hải quân Mỹ và được lên bờ lúc 5 giờ chiều ngày thứ Sáu 16/5/1975. Nghe nói con tàu Đông Hải sau đó tiếp tục hải trình đi Guam.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Buivanphu_20160428_thangtu_h04
Tác giả, bên phải, cùng với gia đình người anh họ trên đảo Grande Island ở Subic Bay, Philippines tháng 5/1975

Đặt chân lên đất liền người tôi nghiêng ngả bước đi vì say đất. Tối hôm đó, nơi vòi nước công cộng trên đảo Grande Island tôi đã tắm gội thật lâu cho sạch muối biển trên người và gột rửa đi những mệt nhọc sau 17 ngày lênh đênh trên biển.

Giữa thập niên 1980 tôi trở lại Đông nam Á làm việc, trong một chuyến công tác ở trại tị nạn Bataan, Philippines tôi đã ghé về thăm Subic Bay.

Lúc công tác ở trại Galang, Indonesia tôi cũng đã trở lại Singapore và có dịp gặp lại anh lính mà tôi quen trên tàu Saigon II. Đến nay chúng tôi vẫn còn liên lạc với nhau.

(ảnh trong bài của tác giả)

2016 Buivanphu

Tháng Tư và tờ nhật ký trên biển * Chiều hôm đó con tàu không máy mầu xanh dương có tên Saigon II được một tàu Đại Hàn kéo ra khỏi bến Kho 5 để đi về miền Tây tránh chiến tranh. Tôi nghe người lớn nói thế.


https://buivanphu.wordpress.com/2016/04/29/thang-tu-va-to-nhat-ky-tren-bien/
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeSat Apr 01, 2017 1:52 pm

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU April30-2 

Lại một năm nữa tháng 4 đen

Cành dù lộng gió (Danlambao) - Chỉ còn vỏn vẹn 1 tháng nữa là tới ngày Quốc Hận 30/4/1975. 42 năm đã trôi qua dưới sự thống trị của đảng CSVN với những mỹ từ Chống Mỹ cứu nước, thống nhất đất nước.

Miền Nam chúng ta đã kiên cường chống lại bọn giặc xâm lăng cho đến khi có lời kêu gọi của tướng Dương Văn Minh sau đó QLVNCH vì tuân lệnh cấp trên đã buông súng để tránh cho phần đất còn lại khỏi đổ máu. Để sau năm 1975 CSVN đã rêu rao là QLVNCH đã cởi quần áo bỏ chạy, sự sỉ nhục này những người lính bảo vệ miền Nam VN đã cắn răng chịu nhục 42 năm tròn.

Ngay sau khi chiếm được miền Nam CSVN đã 3 lần đổi tiền cướp sách túi người Dân. Đau đớn thay, sau "đại thắng mùa xuân" cộng sản đã thi hành triệt để câu nói "Nhà Ngụy ta chiếm, vợ Ngụy ta xài, con Ngụy ta sai" của Nguyễn Hộ (Chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam thành Hồ lúc bấy giờ), chúng chiếm hết những cao ốc nhà cửa của các đơn vị hành chánh và quân sự của VNCH, những người bỏ nước ra đi, những gia đình có cha, hoặc chồng là Sĩ Quan QLVNCH cũ, sau khi đã kêu gọi họ đi trình diện học tập cải tạo, thực tế là đem đi đày đọa cho đến chết, nếu không có chương trình HO do chính phủ Mỹ can thiệp để họ và gia đình họ được xuất cảnh đi đoàn tụ tại Hoa Kỳ.

Chính Đỗ Mười là người đứng ra tổ chức đánh Tư Sản Mại Bản, triệt thu tài sản của các công xưởng tư nhân để đem vào Quốc Doanh hóa, Hợp Tác Xã và đánh đổ những người giàu có ở khắp miền Nam nhất là tại Sài Gòn. Sau khi tịch thu toàn bộ tài sản của họ khiến họ sống dở, chết dở, nhiều người uất ức đã tự tử, tìm đường xuống tàu vượt biên, lớp chết dưới biển làm mồi cho cá, lớp bị bắt, bị tù đày vì tội phản quốc. Nhà cửa bị chiếm sạch phải cuốn gói bồng bế nhau lôi lai lên vùng kính tế mới, nơi nước mặn, đồng chua, rừng núi hoang vu để khai đất trồng trọt sống qua ngày với những cơn sốt rét rừng ập đến không thuốc men, không lương thực, không quần áo lành lặn, mỗi năm 2m vải thô, lấy đâu ra áo quần lành lặn, vì phải đi nương đi rẫy, làm thủy lợi không công cả tháng, vì đảng tuyên truyền "lao động là vinh quang, lang thang là chết đói", Cắm đầu cắm cổ cuốc đất chai cả tay, đổ mồ hôi, sôi nước mắt, để tìm cái cục vinh quang mà chẳng thấy nó đâu. Lớp chết vì bệnh tật không thuốc thang, không đầy đủ lương thực vì suy dinh dưỡng, chính tôi cũng đã được cái hân hạnh đảng ban cho ăn cơm tứ quý, gia đình 5 người, mỗi bữa một lon gạo, một ít củ mì, một ít củ khoai, một ít bo bo, thức ăn dành riêng cho bao tử con ngựa ở các nước Liên Sô cũ viện trợ cứu đói cho XHCNVN anh em, 2 năm tròn khi mới lên vùng KTM.

Sau 42 năm ròng rã khai phá đất bỏ roang, rừng núi có cơ sở, có nhà cửa khang trang đâu vào đó, nhiều người đã bị đảng quay lại tịch thu cái vinh quang hết sạch không còn miếng đất cắm dùi, phải lang thang đầu đường, xó chợ xách đơn đi khiếu kiện từ Nam chí Bắc.

Các bà mẹ VN Anh Hùng giờ cũng không còn đất sống với đảng khi đã đề ra mỹ từ Mẹ VN Anh Hùng. Nói chung đảng thích chỗ nào, nhắm chỗ nào là đảng trưng dụng ngay, vì đất đai là của Dân nhưng mà nhà nước quản lý. Các Mẹ nuôi dưỡng cán bộ hoặc có con đi theo đảng giờ đã sáng mắt sáng lòng hầu hết.

Năm nay 2017 đảng đang chuẩn bị ăn mừng năm thứ 42 ngày thống nhất đất nước, phỏng hết miền Nam như đảng hẳng tuyên truyền.

Sẽ có vạn người vui và triệu người buồn như cựu TTg Võ Văn Kiệt đã từng tuyên bố trước khi đoàn tụ với Boác Hù Vĩ Đại.

Ngày đó mọi người dân miền Nam bùi ngùi thương tiếc một chế độ nhân bản VNCH đã bị chôn vùi, nhưng chưa chết trong lòng mỗi người Dân miền Nam. Chúng ta hãy cùng nhau tưởng nhớ ngày Quốc Hận 30/4 để lưu truyền cho những thế hệ sau này cái nhục mất nước để chúng khỏi bị CS bóp méo sự thật và bị nhồi sọ. Hãy cho chúng biết thế nào là CS thế nào là Quốc Gia Tự Do, Dân Chủ để chúng có thể nhận thức được đâu là chánh đâu là tà. Đó là bổn phận của chúng ta đối với thế hệ con cháu sau này./.

Ngày 27/03/2017
Cánh dù lộng gió
danlambaovn.blogspot.com

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Danoan-30-4-2014-danlambao

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU CAdanap1
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeMon Apr 17, 2017 1:40 pm

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Clip_image018

Xã hội sau 1975: lương thiện là xa xỉ

Nguyễn Duy Chính (Hồi ký)
Chủ Nhật, 16 tháng 4, 2017

Khi tôi về, số người được ra trại còn hiếm lắm. Những năm làm quen với cuộc sống mới khiến cho nhiều người miền Nam có cái nhìn khác hẳn về chế độ Cộng Sản, nói theo sách vở thì là có dịp đối chiếu thực tế và lý thuyết. Phải nói rằng phần lớn chúng ta khá ngây thơ vì được đào tạo trong một nền giáo dục trắng đen rõ rệt, xấu tốt rạch ròi trong khi kẻ địch lại nói và làm khác nhau, suy nghĩ một đằng, hành động một nẻo.

Gần nhà tôi có “bác Tư cơm tấm”, một người mà tôi rất mến. Bác mở tiệm bán cà phê và các món điểm tâm ở khu vực này từ khi tôi còn học trung học. Khi còn bé bác gọi tôi bằng cậu, bằng em, xưng qua, đến khi ra trường đi làm bác gọi bằng thầy, thầy hai.
Tôi không tiếp xúc với bác nhiều nhưng biết bác nghiêng về phía bên kia như một số người có học, luôn luôn cho rằng mình xấu, địch tốt, cũng như con bò nào chẳng nghĩ rằng cái đồng cỏ ở phía bên kia đồi ắt mơn mởn xanh tươi hơn cái phía mình đang gặm. Cũng nên nói thêm bác Tư có trình độ, hồi trước theo học Chasseloup Laubat chứ không phải tầm thường, tiếng Pháp bác nói như gió, quần áo luôn luôn mặc đồ bộ màu mỡ gà theo kiểu một trưởng giả miền nam. Chữ trưởng giả tôi dùng đây là một người đáng kính chứ không phải nghĩa một trọc phú mà người ta thường hiểu lầm. Dường như gia đình bác ở dưới tỉnh cũng khá, vì loạn lạc mà chạy lên Saigon.

Tâm lý của bác tôi cũng thấy ở không ít số viên chức hành chánh khá cao cấp của miền Nam tôi gặp trong trại cải tạo và phải mất một thời gian sau mới nhận thức được rằng kẻ đối đầu với chúng ta quỉ quyệt, dưới nụ cười luôn luôn có dấu một lưỡi dao sắc.
Những ngày đầu tiên, tôi thấy bác vai đeo sắc cốt, khuôn mặt nghiêm trang của một người dấn thân khi bác tình nguyện lên phường làm việc. Tôi chào bác, bác đứng lại hỏi thăm, khuyến khích an ủi tôi và xác quyết về một nước Việt Nam mới mà hoà giải giữa hai miền là xương sống của chính sách, cùng nắm tay nhau tiến lên, đưa đất nước đến phú cường thịnh vượng.
Khi tôi trở về thì chính quyền “cách mạng” không còn cần những người như bác nữa, bác đã trở lại nghề bán quán, có điều bây giờ khách không còn tấp nập như xưa, chỉ lèo tèo dăm người thợ lấm láp, uống vội một ly “xây chừng”, khuôn mặt đăm chiêu như lo âu về một tương lai u ám. Gặp lại tôi bác mừng lắm, có lẽ đã lâu không có ai để tâm sự. Bác nói nhỏ lại, những đoạn cần che giấu bác nói tiếng Pháp cho kín đáo, phần lớn là những tin đồn mà tôi sau này biết chỉ là tin vịt.
Khi nhà nước đánh tư sản và thi hành chính sách cải tạo công thương nghiệp, không biết bác bị đuổi đi đâu, về vùng kinh tế mới hay quê cũ tôi không rõ. Tội nghiệp bác Tư hiền lành, thật thà của tôi.

Tôi cũng gặp anh Lộc, nguyên phó tỉnh Quảng Trị hồi ở Ðà Nẵng. Chính quyền mới dùng anh trong uỷ ban đánh tư sản mại bản như anh tiết lộ vì trước đây anh có hoạt động cho phía bên kia. Nghe đâu khi anh làm Phó Quận ở Chương Thiện bị địch bắt trong một lần tấn công rồi không biết cải tạo, móc nối hay cưỡng bách anh làm việc cho họ. Ðời sống anh cơ cực, bà vợ đi buôn chui từ dưới tỉnh lên bị bắt luôn, mấy cha con nheo nhóc, tình cảnh thật đáng thương. Ðến thăm anh, nhà trống lốc, đúng là “nhà sạch nhà, phố sạch phố”, mấy đứa trẻ còm cõi mắt thao láo như nhà mẹ Lê của Nhất Linh. Nhìn anh cởi trần, ngực hóp lại nhô những rẻ xương sườn như một người nghiện thiếu thuốc, không còn đâu cái phong thái cửa quyền như trong những buổi nhậu hồi mồ ma phe quốc gia.

Tôi còn gặp một vài người khác trong nhóm sinh viên tranh đấu cũ mà trước đây vẫn thường tranh luận với tôi về chính nghĩa của hai bên. Những anh em đó ai ai cũng não nề, cái não nề của người bị hụt hẫng, không biết mình thuộc về phe nào, người thắng hay kẻ bại. Có người sau này vượt thoát lại trở thành những nhân sĩ đấu tranh ở bên ngoài, lập trường rất cực đoan, không biết vì phản tỉnh hay vì muốn che dấu một quá khứ bất minh.
Trần Chánh Nghĩa được về sau tôi một thời gian ngắn, hai đứa tôi trở thành cặp bài trùng vì cùng ... thất nghiệp, tuy ai cũng kiếm một cái giấy công nhân vớ vẩn để hộ thân. Chúng tôi trở thành những bình luận gia thời cuộc kiêm phát ngôn viên tin thất thiệt. Trong thế giới bưng bít, tin tức truyền tai rồi bị bóp méo đi lúc nào không biết khiến cả một xã hội biến thành những con ếch nằm trong giỏ, tự mình nhảy lanh quanh cho đến khi đuối sức. Rất có thể những tin tức đó do chính nhà cầm quyền tung ra để dò xét phản ứng đồng thời tạo ảo tưởng cho con người bám vào mà đừng vọng động. Không hiếm những tổ chức phục quốc giả mạo được họ lập ra để vét nốt những người còn lọt lưới.

Năm đầu tiên tôi bị gọi đi “nghĩa vụ lao động” hai lần. Lần đầu 15 ngày đào thuỷ lợi Lê Minh Xuân, lần sau hơn một tháng làm nhà cho đồng bào kinh tế mới ở Kà Tum, biên giới Việt Miên, phía tây bắc tỉnh lỵ Tây Ninh. Trong thân phận kẻ thua, chúng tôi đành cam chịu nhưng những người chỉ huy trong tập thể là cán bộ miền Bắc bị điều vào Nam lại to mồm chửi rủa cái chế độ người bóc lột người.
Nhìn một rừng người đông nghẹt giữa những lá cờ đỏ luân lưu tôi nhớ lại các chính sách của Mao Trạch Ðông trong các kế hoạch Bước Tiến Nhảy Vọt và Cách Mạng Văn Hoá, lấy sức người để chiến thắng khoa học kỹ thuật Tây phương mà hậu quả ê chề khiến hàng triệu người chết đói. Những chương trình sặc mùi Mao-ít ấy được lập lại ở miền Nam, chẳng hiểu do cái ngu dốt thiếu nhận thức của người cầm quyền hay một tâm lý căm tức, ghen tị ngấm ngầm khi họ nhìn thấy sự thịnh vượng của đối phương. Có thể cả hai.

Tôi đồ là thế vì một lần chở mẹ tôi lên thăm một bà bác – chị họ của mẹ tôi từ ngoài Bắc vào đang ở trong một dinh thự đẹp đẽ tịch thu của tư sản. Bác tôi xinh đẹp và quí phái, vợ của một viên chức cao cấp, giọng Hà Nội rất dễ nghe và cũng có vẻ có trình độ. Thế nhưng trong câu chuyện, tôi vẫn “đánh hơi” thấy sặc mùi căm thù và mặc cảm của chính quyền mới. Những người như thế khi chỉ huy các chiến dịch “đánh” vào thành trì kinh tế và văn hoá của miền Nam ắt hẳn không nương tay. Họ được đào tạo trong cái môi trường gọi là chuyên chính và nhân danh dân tộc, tổ quốc để làm công tác phá hoại.
Trong khi chờ đợi, tôi ngồi nói chuyện với những người cận vệ đang hút thuốc lào, uống trà bằng những cái chén lật đáy lên có in hai chữ nho “nội phủ”, là đồ của cung vua, có lẽ lấy ra từ bộ sưu tầm cổ ngoạn của chủ nhân để lại. Lòng tôi quặn thắt, hiện ra một kỷ niệm mấy năm trước.

Ðối diện với Nha Hàng Không Dân Sự Ðà Nẵng, bên kia đường Ðộc Lập có một cái quán cà phê. Hồi làm ở Quảng Tín, mỗi lần ra tôi hay ghé lại đây ngồi trầm ngâm ngó bồn cá tai tượng, hút thuốc suy tư. Miền Trung thời nào cũng có những hàng quán rất nghệ thuật, lắm khi đi trước cả miền Nam, ảnh hưởng của đế kinh một thuở. Thế nhưng đây lại là một cái vườn không mấy màu mè, có vẻ như là một kinh doanh phụ cho vui hơn là để sinh nhai, kiếm sống. Cũng nơi đây, tôi tìm thấy một cây đào, loại cây rất hiếm ở nơi khác ngoài Ðà Lạt, mặc dù chỉ sản sinh ra những bông hoa nhỏ xíu và cằn cỗi nhưng cũng đủ để cho tôi tưởng tượng thành một cội mai già trong những bài thơ Ðường cho thêm thi vị.
Chủ quán là một thiếu phụ trung niên trông đáng kính. Một hôm không hiểu vì cớ gì bà hỏi tôi có thích chơi đồ cổ hay không? Tôi mỉm cười thú thật là mình quá nghèo, không dám nghĩ tới thú vui cao quí đó. Bà đưa tôi sang gian hàng ở bên cạnh, một gian hàng đồ cổ nhưng dưới mắt tôi thì trông như một tiệm lạc xon với đủ mọi thứ đồ cũ. Cái kiến thức của tôi chỉ là vụn vặt học lóm trong vài cuốn sách của cụ Vương Hồng Sển, thật không đủ sức đánh giá bất cứ món hàng nào, ngoài vài chữ nho đọc lõm bõm. Vậy mà không hiểu sao bà chủ đó lại có vẻ coi trọng, không biết đối đáp “chó ngáp phải ruồi” thế nào mà bà mời về nhà cho tôi coi một bộ sưu tập rất quí giá. Dường như người nào đam mê thưởng ngoạn cũng giấu kín một nỗi cô đơn cần người để chia xẻ và tán thưởng công trình của mình. Nhìn những chiếc chén cổ được dùng để uống nước trà, để gạt tàn thuốc tôi chạnh nghĩ đến bà chủ quán năm xưa, không biết bây giờ ra sao, vượt thoát được ra nước ngoài hay đang tần tảo kiếm ăn nơi vỉa hè, góc phố? Cũng như những món đồ vô giá kia, biết bao người chứa đựng cả một kho tàng văn hoá, nay bơ vơ sống lây lất giữa chợ đời.
Người đọc sách như tôi lại có nỗi xót xa riêng. Nhìn những xe ba gác chất đầy sách vở trong những lần đánh văn hoá “đồi truỵ”, những “núi” sách “phản động” chất trong sân Thư Viện Quốc Gia chờ chở đi tái chế để thành những tờ giấy đen sì và những lần chính tay mình phải đốt bỏ những công trình thu góp hay trước tác, thật không khác gì một mũi dao tự đâm vào tim. Qua đến Mỹ rồi, nhiều năm trời tôi không dám tái lập một tủ sách cũng chỉ vì nỗi day dứt khi nghĩ đến những gì đã mất không bao giờ kiếm lại được. Trong những tội lỗi mà bọn người thắng trận kia đã phạm, phá huỷ văn hoá phải kể là đứng đầu.

Ðiều duy nhất tôi học hỏi được trong kỳ đào thuỷ lợi là một chứng nghiệm bản thân. Một trong những công việc nặng nhọc nhất đối với dân thành thị là làm sao đem được đống đất đào dưới lòng rạch lên trên bờ. Tôi chỉ tìm ra khi chứng kiến một nông dân leng đất. Cái leng giống như một lưỡi mai nhưng hẹp và dài hơn dùng để xắn đất thành từng cục, mỗi bề chừng một gang, nặng chừng 2 ký.
Người thanh niên đó làm việc đẹp như một nghệ sĩ. Anh đạp chân, xoay người thành một hình bán nguyệt, ném cục đất lên bờ, những tảng đều và chắc, khác hẳn cái lối đào lam nham của chúng tôi. Xem anh ta làm một hồi, tôi chợt tìm ra lối xoay người của anh giống như một thế roi trong võ Bình Ðịnh và chủ yếu của sức ném là lối xoay hông chứ không dùng lực cánh tay. Tôi cũng thấy lối làm việc phù hợp với bí quyết mà Nguyễn Hữu Thọ chỉ cho tôi về cách làm vườn, đều đặn nhưng không bao giờ dùng quá sức, nghỉ và làm xen kẽ như trời sinh trái tim điều hoà giữa hai nhịp đập. Thọ đã sống cả tuổi thơ trên Ðà Lạt nên hiểu được cái phương pháp canh tác ở ruộng đồng. Quả nhiên khi tôi bắt chước anh chàng kia, tôi cũng đạt được hiệu năng tương tự. Có điều khi đào luyện lại cho người khác thì hơi khó vì hầu như chỉ những ai đã từng tập côn, roi mới hiểu được cách xoay hông và cách nhả sức, nếu không đúng cách cục đất sẽ không lên bờ mà lại rơi trúng đầu người khác, hoặc hất ra không đủ xa. Thật khó mà mường tượng được rằng một động tác trông đơn giản nhưng lại không dễ chút nào.

Lần thứ hai tôi bị bắt phải tham gia trong một đoàn dân công, “tình nguyện” đi làm nhà cho đồng bào kinh tế mới. Ðoàn chúng tôi khoảng mươi người, phần lớn là lính cũ cấp bậc thấp nên không bị đi cải tạo. Chỉ tiêu của chúng tôi là làm mỗi người một cái nhà cho đồng bào bao gồm phát quang, đắp nền, dựng khung rồi lợp tranh. Bấy nhiêu công việc làm hoàn toàn sức người với vài món dụng cụ đơn giản quả là vất vả. Nhiều hôm chúng tôi phải vào rất xa mới kiếm được vật liệu.
Hơn một tháng ở một nơi xa xăm, làm quen với sinh hoạt của rừng xanh cũng cho tôi một số kiến thức cơ bản, không còn là một cậu bé mơ tưởng đến đời sống của Tarzan hay chuyện tình liêu trai với một nàng sơn nữ. Núi rừng tàn nhẫn hơn nhiều, muỗi mòng, rắn rết, thú dữ... và nhất là nước độc. Muốn tồn tại ở những vùng hoang vu như thế chúng ta phải là dân bản xứ, sinh ra và lớn lên tại đây. Có lẽ kinh nghiệm của 40 ngày tự mưu sinh ở Kà Tum, khiến khi qua đây tôi đâm nghi ngờ những lời tường thuật hoang tưởng của một vài đoàn thể miêu tả sinh hoạt chiến khu như phó bản của một buổi camping hay picnic.
Tôi cũng có dịp tìm hiểu về đặc tính, tập quán của những loài thú hoang, dược tính của một số cây cỏ qua kinh nghiệm của người địa phương. Không gì thú vị hơn ngồi nghe một người thợ săn kể chuyện đường rừng một cách từng trải, những chi tiết anh kể tôi có ghi lại nhưng tiếc thay không còn giữ được. Xa xa ở bên kia cánh rừng là đất Cam Bốt, một quốc gia mà chế độ còn khắc nghiệt gấp bội chế độ Cộng Sản Việt Nam nên chúng tôi có muốn trốn đi cũng không xong.
Ở Kà Tum hơn một tháng, ăn hết số gạo dự trữ mà không thấy ai lên thay, chúng tôi đành bỏ về, phải lếch thếch cuốc bộ từ biên giới xuống tỉnh lỵ dễ chừng đến vài chục cây số. Gom nốt chỗ gạo còn lại, chúng tôi nấu cơm ăn một bữa cho no rồi tấp tểnh ra khỏi rừng khi trời còn tối. Cũng có lúc đi nhờ được một quãng bằng xe trâu, nghe người đánh xe than thở mà không dám bắt chuyện. Ðến trưa chúng tôi đã nhìn thấy núi Bà Ðen và nhiều dân địa phương lại tưởng chúng tôi là dân học tập trốn trại, thành thử cũng không dám vào quán để ăn uống, mặc dầu có giấy tờ đầy đủ. May sao có một chiếc xe lam chạy về tỉnh nên chúng tôi đỡ được một quãng, đến bến xe thì vừa kịp chuyến sau cùng về Sài Gòn. Kể cũng còn may.

Sau mấy năm sống bằng hi vọng, tình thế mỗi lúc một thêm bi đát. Ðến khoảng 1978 thì chính trị cũng như quân sự đều sôi động. Những tin đồn về những vụ tấn công tràn qua biên giới của chính quyền Khmer Ðỏ, và ngay chính vùng chúng tôi đi dân công ở Kà Tum một số đông đồng bào Việt cũng bị tàn sát, người còn lại phải trốn về thành phố. Chiến thắng của quân đội Việt Nam tại Campuchia và trận đánh Lạng Sơn mà Trung Quốc gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học” cho thấy tình hình không hoàn toàn như người ta nghĩ.
Cũng thời gian đó, phong trào vượt biên “bán chính thức” nở rộ. Phong trào vượt biên trở thành câu chuyện đầu môi chót lưỡi và dường như ai ai ở Saigon cũng mơ đến một ngày xuất ngoại, dù biết rằng vượt biển bằng những chiếc thuyền mong manh ọp ẹp là đánh bạc với tử thần, chết nhiều hơn sống.
Những người có tiền thì việc tìm đường không mấy khó, nhiều gia đình đi cả chục lần mà vẫn phây phây trong khi những người như tôi đến một chỉ vàng cũng không có thì thật không thể nào tính toán gì được. Tuy vậy tôi cũng có nhiều cơ hội, mặc dù toàn những chuyến đi không thành công, thật cũng có mà ấm ớ hội tề cũng có. Tôi không nói là giả bởi vì tôi không mất tiền thì việc đánh lừa hoàn toàn không đặt ra, có điều những chuyến đi đó tổ chức không chu đáo, hay chính người bạn giúp tôi cũng không phải là chủ chốt.

Một lần tôi được rủ đi theo đường Phan Rang là quê của người bạn tôi. Tôi chỉ có nhiệm vụ đưa hai cô gái từ Saigon ra. Công tác đó quả thật dễ. Hai thiếu nữ dù mặc áo bà ba nhưng vẫn không dấu được vẻ tỉnh thành. Chúng tôi đi xe đò lên Long Khánh rồi chờ một chiếc xe chở hàng đưa ra Phan Rang. Phải nói là thật sốt ruột khi ngồi bên vệ đường mà trời đã nhá nhem tối, kẻ qua lại nhìn ba người chúng tôi bằng cặp mắt dò hỏi, không biết họ có nghi ngờ gì không?
Ðến khoảng 9 giờ đêm thì xe đón chúng tôi đi. Ðó là xe chở chuối từ Long Khánh ra ngoài Trung, chúng tôi ba người nằm giữa những buồng chuối xanh, lắc lư như đưa võng. Ra đến nơi, tôi được đưa về một gia đình nhà nông ở khá xa trong rẫy, mấy cô gái kia đi đâu tôi không biết. Vùng này có nhiều người Chàm, mặc đồ trắng như có tang, nước da đen đủi, không như những người Chàm ở vùng Tây Ninh.
Chủ nhà là một quân nhân của VNCH cũ, cũng khoảng tuổi tôi, sống với mẹ già. Tuy ít học nhưng anh ta khá hiểu biết và có biệt tài kể chuyện, tường thuật lại những phim đã xem. Những người như tôi xem ciné xong chỉ nhớ mang máng, trái lại anh bạn này kể lại với đầy đủ chi tiết như đọc một cuốn sách, lắm lúc thêm thắt rất ý nhị khiến người nghe có cảm tưởng như đang chứng kiến hoạt cảnh trong phim.
Những đêm ngồi bên bếp lửa, nghe kể chuyện và kinh nghiệm của đời sống vùng biển khiến tôi không còn nghĩ rằng mình đang tạm trú chờ ngày vượt thoát. Mẹ anh ta đối với tôi cũng tử tế.
Mấy hôm sau, tôi được lệnh ra ngoài tỉnh lỵ để xuống bãi. Chúng tôi đi lang thang trong thị xã chờ bắt liên lạc. Tôi gặp được đứa em người bạn cùng đi trong chuyến đó, hai anh em nên cũng đỡ cô đơn. Thằng nhỏ kia đã ra ngoài này nhiều lần nên rành rẽ, có nó tôi chẳng phải lo gì cả. Chuyến đi đó không thành công, có lẽ tại tổ chức không chu đáo và đến chiều hôm đó chúng tôi được thông báo gấp là động ổ, mạnh ai người ấy tìm đường về Saigon.

Ðêm hôm đó, tôi nằm ở nhà ga, một đêm thức cho muỗi cắn. Hai cô gái tôi “hộ tống” cũng trong đám hành khách nhưng không dám nhận nhau. Sáng hôm sau, chúng tôi lên tàu. Ngồi dưới toa tàu một lát, chịu không nổi mùi hôi của đủ loại hầm bà lằng trong xe hoả, tôi cũng theo thằng em trèo lên ngồi trên nóc cho thoải mái.
Ở trên cao nhìn ra chung quanh, khung cảnh khoảng khoát khiến mọi người lại rôm rả cười đùa như đi du ngoạn về. Mỗi khi đi qua một cái cầu, chúng tôi phải nằm mọp dưới sàn nếu không muốn bị thành cầu đánh văng xuống. Nằm ngửa nhìn những thanh sắt chạy vùn vụt trước mắt, chỉ cách mặt độ một gang, tôi tưởng như mình là một chiến sĩ lên đoạn đầu đài, nhìn máy chém từ trên cao rơi xuống.
Từ Phan Rang về Saigon có đến mấy chục trạm kiểm soát. Những người bộ đội ngồi trên cao lớn tiếng chửi rủa cánh công an nhưng có lẽ họ cũng quá quen thuộc nên không ai đáp lại lời thách thức của những ông “Bắc Kỳ Hà ... Lội” này. Ðược thể, như muốn chứng tỏ cho dân trong Nam biết là mình ngon lành, mấy ông đó càng làm già. Chúng tôi tìm cách “can khéo” cho họ thêm hứng khởi.
Ðến Long Khánh thì trời đã tối. Vào giữa rừng, một số dân buôn lậu tháo những ống hơi khiến cho tàu đang đi phải ngừng lại. Rồi có tiếng rầm rập chuyển hàng lên xuống và khi tàu đã sửa xong tiếp tục đi thì mọi việc lại êm xuôi. Ðây là lần đầu tiên tôi chứng kiến sinh hoạt chìm của xã hội, một xã hội nhiều giai tầng, mỗi thành phần một kiểu riêng rẽ. Chính trị không còn quan trọng, chỉ còn lại những người tranh sống, cố gắng qua mặt lẫn nhau. Chính tôi cũng là một trong số đó và sau một thời gian dài, sự lừa dối trở thành thói quen khiến người ta không còn biết là mình đang sống giả tạo. Từ dân chí quan, người ta thay đổi như một con tắc kè theo từng trường hợp, khi thiện, khi ác. Thói quen đó vốn thịnh hành ở miền Bắc, nay lan vào trong Nam một cách tự nhiên để trở thành một tập quán bẩm sinh, cũng như đói ăn, khát uống. Người ta không ai có nhu cầu phải lương thiện vì lương thiện là một nghịch lý, nếu không nói là xa xỉ.

Tôi về nhà vào giữa khuya, trèo lên lầu nằm ngủ. Sáng hôm sau, mẹ tôi ngạc nhiên khi thấy thằng con cả từ trong mùng chui ra sau mấy ngày đi mất biệt.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Babui_042013_4
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeWed May 02, 2018 9:45 am

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Maxresdefault

Tạp ghi tháng Tư: vết thương

Trần Doãn Nho:
Thứ Hai, 30 tháng 4, 2018

Anh ạ! Tháng Tư mềm nắng lụa
hoa táo hoa lê nở trắng vườn
quê nhà hun hút sau trùng núi
em mở lòng xem lại vết thương
(thơ Trần Mộng Tú)

Chạy

Trong đời tôi, tính ra, tôi trải qua… bốn lần chạy. Mỗi lần chạy là một kinh nghiệm rất riêng.

Lần đầu tiên, thời điểm 1945-1946, tôi chạy giặc với tư cách là… một cậu bé con. Thay vì chạy và đi, thì tôi được gánh. Tôi một đầu, ngồi trong thúng. Đầu kia là một ít gạo và đồ đạc. Cứ thế, mẹ, chị và anh tôi thay nhau gánh, theo đoàn người, tản cư về một nơi vô định. Đêm tìm chỗ nghỉ chân, ngày lại đi, cuối cùng, dừng chân ở ngôi đình hoang thuộc một cái làng xơ xác, vắng hoe, nơi mà chính dân làng cũng… chạy giặc, chỉ còn lơ thơ mấy ông bà già ở lại giữ nhà.

Hơn hai mươi năm sau, chạy giặc Mậu Thân. Cả gia đình tôi dắt díu nhau, không chỉ chạy, mà là chui, rúc, lăn, trốn từ vùng bộ đội Cộng Sản chiếm đóng về vùng quốc gia. Đoạn đường không dài, chỉ 5, 7 cây số nhưng là một biên giới sinh tử. Thật may mắn cho tôi và gia đình! Những ai không chạy thoát được nơi Cộng Sản chiếm, đã phải phải sống trong nỗi kinh hoàng của cuộc thảm sát Mậu Thân.
Bốn năm sau, mùa hè đỏ lửa 1972. Kinh nghiệm Mậu Thân đã mang cả Huế ra đi. Ngay lập tức. Không chần chừ. Không đắn đo. Không tiếc nuối. Khi nghe tin bộ đội Cộng Sản vượt sông Bến Hải, là Huế đã bắt đầu chạy. Hối hả chạy, bằng mọi cách, mọi giá. Mang được gì thì mang, không mang được thì bỏ lại. Chỉ trừ các cơ quan quân sự và cơ quan nhà nước với một số nhân viên nòng cốt là làm việc, còn tất cả đều đóng cửa. Mà ngay những cơ quan mở cửa, nhân viên cũng chẳng có bao nhiêu, vì hầu hết đều phải lo mang gia đình đi trước đã. Chỉ trong vòng chưa tới một tuần lễ, Huế trống rỗng. Như một phép lạ.

Sau khi đưa được gia đình vào Đà Nẵng, tôi trở lại Huế. Chao ôi! Tôi chưa bao giờ chứng kiến một Huế lạ lùng dường ấy. Tôi chạy quanh Huế. Nhà bỏ. Đường không. Chợ trống. Phố lặng. Chỉ có những con ve Huế vô tâm, hoàn toàn chẳng biết gì đến nhân tình thế thái, cứ hát! Gió cũng thế, phất phơ. Nắng cũng thế, rực rỡ. Phượng cũng thế, nở đỏ. Thành quách hoang tàn ẩn nhẫn, phơi mình dưới nắng, nằm im trong cái trống vắng lạ lùng, bất ngờ ngàn năm một thuở. Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng… cửa đóng, để lại những vỉa hè câm, ngơ ngẩn. Đâu rồi những khăn, những áo rộn ràng. Đâu rồi hơi người, hơi tóc. Chợ Đông Ba ủ rũ. Sông Hương sượng sùng. Cố nhìn, cố tìm, nhưng chẳng thấy gì. Ngay cả những người hành khất, những kẻ vô gia cư cũng biến mất. Trước đây, khi Huế tranh đấu, thành phố bị giới nghiêm, còn có cảnh “Người già co ro, chiều thiu thiu ngủ… em bé lõa lồ, khóc tuổi thơ đi” (TCS), lần này … nothing và nobody. Chỉ còn những con chó vô chủ chạy rong. Và bụi bay vô tình. Thỉnh thoảng mới thấy bóng một chiếc xe lính chạy ngang, tiếng máy nổ nghe đơn độc và lạnh lùng. Toàn khu Thành Nội im ắng rợn người, chạy xe vào, tưởng chừng như đang đi vào một khu lăng tẩm bỏ hoang.

thành phố bồng bế nhau
vứt cả rực rỡ hè mới chớm
rùng rùng bỏ chạy
đi đâu?
không biết đi đâu
miễn là xuôi Nam
để lại một cõi lặng
không gian rỗng
sàn diễn trống trơn
những con chó mất chủ chạy rất tự do
và vô vọng
hàng phượng lạc loài
chấp chới bay
gió nắng rong chơi
vòng vèo quanh nội thành ấm ức

Yên, Huế rộn rã trở về.

Nhưng rồi, ba năm sau, 1975, chưa hoàn hồn, Huế lại chạy. Đúng hơn, cả miền Nam chạy. Từ đầu tháng Ba, dân đã chạy. Bất cứ chỗ nào nghe quân đội Cộng Sản sắp tiến vào là chạy. Từ cao nguyên chạy về đồng bằng, từ bắc chạy vào nam, từ các nơi chạy về Sài Gòn, từ đất liền chạy ra biển, từ Việt Nam chạy ra nước ngoài. Không hề có cảnh “từ bắc vô nam nối liền nắm tay” như Trịnh Công Sơn đã từng mơ mộng ngày nào! Chạy. Hễ còn chạy được là chạy. Đi bộ, đi xe, đi thuyền, đi tàu, đi máy bay, đi, đi, đi, đi đâu, miễn là thoát khỏi Cộng Sản. Chạy: biết bao thảm cảnh, nhất là thảm cảnh thuyền nhân rúng động thế giới. Chạy: một cuộc “bỏ phiếu bằng chân” vô tiền khoáng hậu.     
                     
Lần này, ra đi, trong thâm tâm, ai cũng đau đớn nghĩ rằng: Huế sẽ mất vào tay Cộng sản. Thành thử, chạy là chạy… luôn, không bao giờ trở lại. Là bỏ Huế. Bỏ Huế! Chao ôi, hai chữ “bỏ Huế” nghe như nhát dao đâm ngay giữa trái tim. Nhưng làm sao được. Đành thôi, Huế ơi. Trong tâm trạng đó, vừa đưa được gia đình vào Đà Nẵng, tôi vội chạy Honda quay trở ra Huế. Nhưng không kịp nữa rồi! Đến đèo Phước Tượng, quốc lộ I bị cắt, đành phải theo đoàn người, trở ngược vào.Vài ngày sau, Huế mất. Ở Đà Nẵng chỉ được mấy hôm, ngày 29 tháng 3, thành phố lại được lệnh … bỏ. Đà Nẵng chật ních người của hai thành phố ở hai bên đèo Hải Vân, hoảng loạn. Kẻ xuôi, người ngược, hớt hơ hớt hải. Người tìm cách chạy vào phi trường, người thì lên đường tiếp tục xuôi Nam, người lại chạy ra biển.
 Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU SDFSD(Trên đèo Hải Vân. Hình: Internet)  

Đến chiều tối, thấy thiên hạ rùng rùng đi, thế là dắt díu nhau đi, ra bờ biển Tiên Sa. Đêm đó, cà nhà túm tụm lại một chỗ, đợi. Đạn pháo Cộng sản từ trên núi liên tục pháo kích, nhằm khủng bố người di tản ở bến cảng. Đạn rơi bên trái, bên phải, rơi trước, rơi sau. Bên này nổ, bên kia lại nổ. Tiếng người la, kêu khóc rầm trời. May sao, hầu hết đạn đều rơi xuống… nước. Nhờ thế mà dân chạy giặc tránh khỏi một cuộc tắm máu. Đến khuya, không hiểu sao, pháo ngưng. Một chiếc xà lang quân đội từ ngoài khơi xa, ghé vào. Lên, bươn bả lên. Hàng ngàn người chồng chất trong lòng chiếc xà lang nhỏ hẹp, chỉ chứa nhiều lắm là vài trăm người. Ra khơi. Tại đây, một chiến hạm của hải quân VNCH đang đợi. Người ta bắt hai dây cáp nối lên boong tàu. Từng người, từng người vịn hai sợi dây, lần lượt leo qua như đi xiếc. Khá nhiều người trật tay, rơi xuống nước, mất tích. Nhịn đói, chịu khát hai ngày thì tàu cập bến Cam Ranh. Hú hồn. Tin cho biết: chuyến xà lang đi sau không có tàu nào vớt, vật vờ ngoài biển, sau cũng tấp vào Cam Ranh, nhưng không còn ai sống sót.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU HGJHJHJGH
(Vớt người. Hình: Internet)

Hai ngày sau, vừa tìm được nhà người bà con để tá túc thì nghe Cam Ranh sắp mất. Lại chạy. Nghe có tàu chở hàng Mỹ đậu ngoài khơi, dắt díu nhau ra bến cảng. Còn bao nhiêu tiền trút hết để được chủ nhân  một chiếc ghe nhỏ nhận lời. Đưa được mẹ tôi và mấy đứa em vợ lên ghe, thì súng nổ loạn trên bến. Người ta giành giựt ghe, bắn nhau. Chủ ghe sợ quá bèn cho nổ máy chạy. Tôi nhảy vội lên, ngoái lui, đưa hai tay kéo bà vợ (lúc đó đang mang thai đứa con đầu lòng), thì… chiếc ghe tách bến. Hai bàn tay chỉ cách nhau chừng vài tấc, cố với nhau mà đành chịu. Tuyệt vọng, nàng đưa tay ngoắc, còn tôi đứng sững đầu mủi ghe nhìn nàng và hai đứa em trên bờ, lại nhìn mẹ và mấy đứa em khác ngồi trong ghe, bất lực. Bóng những người thân yêu mờ dần trên bến. Não lòng hết biết!

Chiếc tàu chở hàng Mỹ lớn như một dãy cao ốc 9, 10 tầng. Dưới nước, ghe lớn ghe nhỏ vây quanh. Từ trên boong, người ta thả những tấm lưới lớn xuống để vớt người. Tôi đưa các đứa em lần lượt lên lưới. Không đủ chỗ, nên tôi và mẹ tôi đợi lần tới. Nhưng tàu quá đầy, họ ngừng bốc. Trong lúc vô kế khả thi, hai mẹ con đành liều mạng, níu những bậc thang bên sườn tàu, leo lên, cầu may. Ơn trời! Thế mà cả hai mẹ con đều lên đến boong tàu. Thú thật, tôi không biết sức mạnh nào đã khiến cho bà già 65 tuổi có thể thực hiện được một chuyện phi thường dường ấy! Từ trên nhìn xuống, người người vẫn còn chen nhau, cố leo, leo… Có người bám được. Có người rơi xuống. Trên mặt nước, đây đó, những chiếc đầu ngoi lên, chìm xuống… Cảnh ngoài hòa cùng nỗi riêng đau đáu khiến tôi trơ cứng, đứng lặng nhìn trời, mất hết cảm giác.

Tàu mang cả mấy chục ngàn người, cập đảo Phú Quốc. Chúng tôi được chuyển vào ở trong một trại tù binh, nơi trước đây giam giữ cán binh Cộng Sản bị bắt. Ở đó 10 ngày, tôi tìm đường theo tàu hải quân đưa gia đình về Vũng Tàu. Và từ đó, lên Sài Gòn.
Một chuyến chạy dài, quá dài, gần như đi vòng hết nửa đất nước.
Sau này, tôi còn một lần chạy nữa, lần thứ năm: đi Mỹ. Dù đi có giấy tờ, có phép, đi bằng máy bay, nhưng thực chất vẫn là: Chạy.

Mà bây giờ, người Việt Nam, kể cả cán bộ Cộng sản và con cái họ, vẫn còn Chạy. Qua hình thức…chain migration.
Chạy! Chẳng ai muốn bỏ đất nước mình.
Chạy! Khước từ một chế độ.

Khoa Hữu: Sự yên lặng của cát bụi.


Khi chạy đến Sài Gòn thì Sài Gòn đang hấp hối.

Chiều 29 tháng Tư 1975, tôi cùng với một người bạn, anh Ng.Ư, rủ nhau lái Honda chạy quanh thành phố, xem “Sài Gòn của mình” lần cuối. Đông đúc, vội vã, hớt hơ hớt hải, Sài Gòn tan tác như đàn gà con mất mẹ. Gần tối, chúng tôi chạy ngang Dinh Độc Lập. Đậu xe bên lề đường, gần góc đường Hồng Thập Tự, tôi bâng khuâng, đau đớn nhìn quanh khu vực, nơi đã từng là cơ quan đầu não của nhà nước Việt Nam Cộng Hòa.

dinh Ðộc Lập úa
như phế tích âm thầm
góc đường Hồng Thập Tự - Công Lý
toán lính nhảy dù ngồi ăn cơm
lá rơi trên tấm poncho
lá rơi trên ga-men
lá rơi thảng thốt
chiếc áo trận nhòe
ngậm ngùi lịch sử
lá rơi, rơi
mải miết như đùa
như trò chơi
như mơ như thực
cuộc phế hưng bủn rủn phận người.

Chao ôi, những người lính! Trong lúc cả miền Nam chạy thục mạng, chạy hớt hải, chạy trối chết… thì nơi đây, vào những giây phút cuối cùng của cuộc chiến, những người lính nhảy dù này vẫn cứ làm nhiệm vụ, sẵn sàng chiến đấu, như … bình thường. Cũng như tôi, nhất định họ biết rằng Sài Gòn sắp mất. Nhưng họ vẫn ở đó, cầm súng canh gác. Tôi bước tới, muốn làm một cử chỉ biết ơn, nhưng anh bạn tôi cản lại. Tôi vẫy tay. Một người lính vẫy tay lại. Trong nhá nhem tối, nhìn nhau ngậm ngùi. Đọc lịch sử, những tưởng  chuyện phế hưng chỉ là của ai đó, thế mà bây giờ, mình ở trong cuộc!
Những người lính hôm đó, số phận họbây giờ ra sao, ai còn ai mất?!

Ta làm thơ gửi thằng cầm súng
hơn triệu thằng bỏ súng đi đâu
đưa đến quê người đời lận đận
ta quê nhà nhức vết thương sâu

Đó là bốn câu thơ của Khoa Hữu, người lính, người thơ. Trong số rất nhiều thơ của Khoa Hữu đăng rải rác ở nhiều tạp chí văn học hải ngoại, tôi nhớ nhất là bài “Sự im lặng của cát bụi”. Nó buồn. Nó đau. Nó lính. Rất lính. Nó chứa chất một nỗi bi phẫn mà chỉ những người đã  từng gắn bó cách này hay cách khác với một chế độ --dù còn bất toàn, nhưng đáng yêu-- như chúng tôi, mới thấy thấm thía. Bài thơ khá dài, đến 27 đoạn.

Xin trích lại một số đoạn:
(…)
Tháng hạ trong thịt xương ngấm độc
bước hưng vong điểm mặt da vàng
lại một nửa lưu tù rừng bắc
nửa còn theo sóng vượt biển nam

Dọc mùa thu oan hồn xác lá
tro bụi bay ám khói vừng trăng
đường tên mới, ta, người cũng lạ
lời dáo gươm dậy cõi đất bằng
(…)
chiếc nón sắt quên đời lăn lóc
lỗ đạn tròn khoét vết đau thương
người lính sau theo người lính trước
đất vô danh cây cỏ vô hồn
(…)
Pháo lấp Khe Sanh, cắt đường Chín
những hung tin không kịp báo về
gió Hạ Lào cuốn cờ tưởng niệm
đá Trường Sơn đứng sững như mê
(…)
Cây súng trận trả về hậu cứ
phòng xác Tổng Y Viện lạnh nằm
tấm ảnh bóc từ quân bạ cũ
dán lên tường hẹn chuyến lại thăm

Người đi tủi giấc mơ kinh sử
một hồn trăng treo bóng giang đầu
gió Sài Gòn tăng mùi thế sự
nửa đời ta đắm nước sông sâu

Ngày đi hiến máu cho An Lộc
lính cũ đâu còn, lính mới quen
vào đất chết buồn vui cũng hết
bước chân ta cày xới đất lên

Đàn quạ đói kêu trời độc địa
lũ chó hoang tha miếng mồi người
đứa chết ba ngày mắt vẫn mở
đứa sống ba tuần thịt đã ôi
(…)
Đất ấy của ta, ta còn hiểu
đồng đội của ta, ta còn đau
giấy mực đời chép ra, ví thiếu
lấy da này viết để tạ nhau…[1]

Thật thấm thía vết thương tháng Tư!

Sau tháng 4/75, Khoa Hữu ở lại. 
Khoa Hữu nói về chiến tranh bằng cái ưu uất của một người bại trận: tan rã, mất mát, bi phẫn.
Lính, bên này hay bên kia, gánh chịu mọi oan khiên lịch sử.
Thắng, oan khiên là nỗi buồn cũ.
Bại, oan khiên thành oan trái mới.
Oan trái, một im lặng bất tuyệt: sự im lặng của cát bụi!
Khoa Hữu mất tháng 4/2012. Sáu năm.

Và Sài Gòn mất, bốn mươi ba năm. Vết thương, qua bao đổi thay, vẫn còn mưng mủ!

Trần Doãn Nho

-------------
[1] Trong tập “Thơ Khoa Hữu”, tạp chí Văn Học xuất bản, California 1997
.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeTue Apr 09, 2019 8:16 pm

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 30-4-75_n1

Tháng Tư Đen không dễ gì quên …

 -
Lê Thị Hoài Niệm
       
Nơi tôi ở, bên này bờ Thái bình dương xa thẳm, một nơi chốn thật yên bình, nơi mà người dân được quá nhiều tự do (vẫn có ít điều cần giới hạn) từ trong nhà ra tới ngoài xã hội, một nơi rất đông người Việt tị nạn đang sinh sống, nơi có quá nhiều phương tiện truyền thông, báo chí phục vụ “Free” cho đồng hương. Bởi lẽ đó, mỗi năm nhân ngày “quốc hận tháng tư đen” ban chấp hành cộng đồng (có ứng cử-bầu cử đàng hoàng), vẫn tổ chức tưởng niệm ngày đau buồn đó.
               
Nhưng bên cạnh những uất nghẹn thương đau, cần và cần thiết phải thắp những nén hương, ngọn nến ngồi im lặng mà tưởng niệm, thì các  tổ chức, các hội cựu quân nhân muốn qui tụ đồng hương lại càng đông càng tốt, nên hầu hết phải “mướn ca sĩ chuyên nghiệp” ở các trung tâm băng nhạc lớn về. Có những ca sĩ hát rất hay, nội dung bài hát nói lên đươc nỗi đau, hay tinh thần bất khuất của những chiến sĩ quân lực VNCH ngày nào, dám hy sinh thân mình để bảo vệ  quê hương, đất nước. Nhưng có vài ca sĩ lên sân khấu cũng không biết mình hát cho ngày gì? hát bài gì cho thích hợp với nội dung ngày đau buồn, nên cứ tha hồ… “nhiều đêm chăn gối bên người không quen biết?” hay “lâu đài tình ái”… chẳng hạn. Thật hết ý.
                        
Lại có quá nhiều chương trình trên truyền thanh, truyền hình nhắc nhở nhiều kỷ niệm về tháng tư đen. Người ta kể đến những trận di tản từ miền Trung, miền cao nguyên, những con đường kinh hoàng như tỉnh lộ 7 ở Hiếu Xương-Phú Yên, xác chết chồng lên xác chết, những bãi biển xác người trôi lềnh bềnh, phần tấp vô bờ thì ít, mà làm mồi cho cá chắc nhiều hơn. Đã bao nhiêu năm qua rồi, người ta vẫn còn tìm gặp những bộ xương có mang những tấm thẻ bài còn nguyên vẹn vùi nông nơi bãi cát (không hiểu anh linh của những chiến sĩ bị hy sinh một cách oan uổng, tức tưởi này có sớm được siêu thăng, hay vẫn còn vất vưởng đâu đó vì một nỗi uất hận chưa vơi? Một nén nhang thắp muộn vẫn là tấm lòng của một nữ thường dân còn nợ ơn Người!). 
                       
Người ta kể lại những trận đánh kinh hồn của những chiến sĩ can đảm nhảy dù, địa phương quân, nghĩa quân…, quyết tâm gìn giữ mảnh đất bao lâu nay đã tốn biết bao mồ hôi nước mắt, bao xương máu, ngay cả thân xác của những người lính đã hy sinh. Cuối cùng thì vẫn phải chạy và lột bỏ quần áo nhà binh và xin thường phục của người dân mặc vào để chạy!(?)                     
Người ta còn sưu tầm cả tiếng nói của vị “Tổng Thống cuối cùng” ban lệnh đầu hàng, phát lại cho thính giả nghe. Có người nặng lời “chửi bới” quan ngài đã dâng đất cho giặc. Phải chi ngày đó ông đừng có … bàn giao chính thể quốc gia cho cộng sản ? Dù biết rằng ngài đại tướng cũng chẳng làm được gì khi giặc đã vào … sát nách mà có một đám quan to, tướng lớn lại yếu hèn đã cuốn gói chuồn êm tự lúc nào. Bao nhiêu năm tháng nắm quá nhiều chức tước, binh quyền mà không làm gì được, để bọn giặc Hồ đem chủ nghĩa cộng sản ngoại lai vào tuyên truyền áp đặt lên người dân miền Bắc bấy lâu nay, giờ đang tràn xuống xâm chiếm miền Nam và cái đám mệnh danh “trí thức” miền Nam cũng theo đóm ăn tàn, nối giáo cho giặc.  Người ta nhắc và nhắc những kỷ niệm buồn đau, kèm theo những chuyến vượt biên hãi hùng, từ đường bộ đến đường biển, xác người vùi trong rừng sâu Campuchia, xác làm mồi cho cá mập trên biển cả và nhiều trẻ em, phụ nữ đã là nạn nhân của bọn hải tặc Thái lan dã man hung tợn… Hằng năm và hằng năm tiếp nối chắc không bao giờ kể hết chuyện.
                        
Người ta hát những bài Nhớ về Sài gòn, Sài gòn niềm nhớ không tên, Sài gòn vĩnh biệt, nghe cũng buồn ray rứt dù nội dung lời ca thường là những cuộc vui chơi, ca hát ở vũ trường, và dù hiện tại người về Sài gòn hằng năm  đông như đi chợ(?). Nhưng sao  người ta cứ vẫn nhớ về Sài gòn nhỉ? Sài gòn làm gì có trọn tháng tư đen năm ấy? Nghe nhiều người di tản vào Sài gòn, sau ngày "mất nước” trở về kể lại rằng cả tháng tư người dân Sài gòn vẫn còn chính phủ VNCH, người dân vẫn tự do đi lại, vẫn hát vẫn hò, vẫn ngồi uống cà phê vỉa hè, vẫn vào rạp REX xem xi-nê, có chộn rộn chăng là vì có một số người “lánh nạn cộng sản” từ các miền đất nước chạy về, khiến những người có thân nhân đang ở nước ngoài, những nhà giàu có, những người làm việc trực tiếp cho người Mỹ phải nôn nao chạy đôn chạy đáo tìm đường thoát ra khỏi nước và họ đã ra đi rất sớm trước ngày Tổng Thống (có quốc hội chuẩn nhuận)  tuyên bố đầu hàng.
                        
Và nhiều người còn thấm thía nỗi đau khi nghe được chính giọng nói của một người nhạc sĩ nổi danh (nay về bên kia thế giới rồi), đã tỏ lộ nỗi mừng vui khôn xiết, đã “hồ hởi-phấn khởi” tuyên bố ăn mừng trên đài phát thanh quốc gia vừa mới bị “tiếp quản”, và kêu gọi mọi người dân đừng bỏ… cộng sản để ra đi, hãy ở lại dựng xây đất nước với bọn chúng, rồi hăng hái hát suông bài “nối vòng tay lớn” của chính tác giả. Tiếc thay! “Em ra đi nơi này mất hết!”. Sài gòn và cả nước mất hết, chứ không phải nơi này… vẫn thế mà “ngài nhạc sĩ” đã bênh vực cho chế độ mới và một số ca sĩ vẫn...lải nhải, tung hê! 
                       
Nhưng chắc chắn phải nhắc đến Sài gòn, vì Sài gòn là Thủ đô của cả nước, nơi chính quyền đặt dinh cơ để điều hành guồng máy lãnh đạo đất nước, nếu thủ đô mất vào tay giặc, có nghĩa là đất nước, chính thể không còn nữa. Nhưng nếu nhắc đến tháng tư đen ngòm, phải nhắc đến những tỉnh, những vùng đã bị quân cộng sản chiếm trọn tháng tư, như Nha trang, thành phố biển thân yêu của chúng tôi, mới thấm thía được cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của ba chữ “tháng tư đen”.
                       
Ngày đó.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Di+t
(di tản ở Phú Bổn)
 
Người di tản tràn đến, từng đoàn người, từng đoàn xe từ Ban mê Thuột, từ Phú bổn, các tỉnh miền Trung đổ về vào những ngày giữa tháng ba. Trường Nam tiểu học, nơi cô trò chúng tôi gặp gỡ hằng ngày, đã không còn bóng dáng học sinh, vì trường đã biến thành “trung tâm tiếp cư”. Các thầy cô giáo chạy đôn chạy đáo tìm thức ăn, gạo muối, quần áo, vật dụng cần thiết vv..vv để phân phối, giúp đỡ những người đang xơ bơ, xấc bấc, lếch thếch, hốt hoảng buồn rầu đang ngồi ủ rủ trong các phòng học làm nơi tạm trú.             
                                                                                                   
Một buổi chiều, vừa từ trường về, người bạn đã chạy ào vào nhà, và báo tin: cháu chị U đã chết cháy rồi. Tin thật buồn với sự chết chóc đã đến gần sát. Người vừa ra đi là  một Pilot Trực thăng, và đơn vị đang hành quân ở BMT. Tàu anh đã trúng đạn phòng không của địch quân, bùng cháy như cột lửa ở trên không. Chạy đến nhà chị U, nhìn chị và bà con trong nhà khóc than,  cả bọn chúng tôi vừa đến cũng chụm đầu lại khóc.                   
Về nhà lại gặp một người bạn không quân tìm đến thăm, khi biệt đội của anh từ Cần Thơ, biệt phái ra để phụ giúp với các đơn vị bạn. Đáng lẽ ở căn cứ Pleiku, nhưng vì đơn vị trên đó cũng đã di tản, nên các anh lại kéo xuống phi trường Nha trang. Ngồi nghe anh kể những bữa đổ quân khó khăn với quá nhiều phòng không địch, những chuyến hành quân tiếp tế, và đặc biệt là cứu “dân chạy loạn”. Từng đoàn người, đoàn người từ các tỉnh cao nguyên chạy về,  phải đi bằng đường rừng, vì quốc lộ đã bị VC chiếm mất. Họ băng rừng, vượt suối bồng bế gánh gồng mà đi, có người đàn bà đã sanh rớt trên đường chạy loạn, may mà Trực thăng đã nhìn thấy nên đáp xuống  chở về nhà thương. Có hôm anh phải bay thật thấp để hướng dẫn đoàn người đi lạc trong rừng sâu có thể đi ra con đường mòn lớn hơn mà về được Khánh Dương.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU HA30T3D1975_071 Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Pt+nha+trang
(phi trường Nha Trang)                       

Nhiều người đổ dồn về và cũng có lắm kẻ ra đi. Người Nha Trang cũng bắt đầu tìm đường tháo chạy, bằng máy bay, bằng xe hơi, xe hai bánh và chủ yếu là ghe thuyền đường biển.
                       
Một vài ngày cuối tháng ba, trung tâm tiếp cư đã vơi người, một phần người tị nạn có thân nhân đến đón về, một lớp nữa họ tiếp tục xuôi Nam, những Thầy cô giáo cũng xôn xao nhiều vì người đi kẻ ở,                    
Từ làn sóng radio phát đi chương trình tiếng Việt BBC Luân đôn, cho tin quân dân miền Nam đang …thua xiểng liểng, quá nhiều nơí giặc chưa đến đã không còn người lãnh đạo? cơ sở bỏ tan hoang. Và đường phố Nha trang đã có một lớp người mới đến, họ “hung hăng, dữ tợn” vô cùng. Với súng đạn có sẵn trên tay, họ có quyền cướp xe, bắt phụ nữ và làm nhiều điều xấu, người ta bảo “họ là toán lính” vừa đổ bộ lên bờ từ tàu hải quân cặp bến cảng Cầu Đá? Chẳng ai dám ra đường thường xuyên nữa, trong số đó có tôi.
                        
Tâm trạng hoang mang giữa đi và ở. Ở lại sẽ như thế nào trước tin đồn quân giặc quá dã man. đàn bà con gái sẽ bị “rút móng tay”, bị bắt đi làm “hộ lý” cho bộ đội, đàn ông con trai sẽ bị bắt đi tải đạn, nếu lính tráng bị bắt, mạng sống sẽ không còn, nhiều tin rất hãi hùng mà người thành phố phải để ý đến. Nhưng đi thì đi về đâu? bằng phương tiện gì, nơi chốn nào để đến, hay cũng lang thang lếch thếch như những đoàn người đang nối đuôi nhau trên quốc lộ số một kia. Cuối cùng Ba Má tôi chọn giải pháp có chết thì cũng sẽ chết chung ở nhà mình, vì gia đình quá đông người, lại có thêm mấy gia đình bà con ở vùng ngoài chạy vào tị nạn, mặc dù cá nhân tôi đã được người bạn sẵn dành cho phương tiện để ra đi đêm cuối cùng của tháng ba khi đơn vị anh trở về căn cứ ở miền Tây.
                        
Buổi sáng ngày một tháng tư, sau khi đưa người anh trai, nguyên là sĩ quan đang làm việc tại bộ Tổng Tham mưu, là một trong những thành viên của  phái đoàn về Nha trang dự họp với tướng Ph. mấy hôm trước. Cuộc họp không đi đến đâu và cuối cùng phải trở lại SG. Quang cảnh phi trường Nha trang hỗn loạn không thể tưởng tượng nổi, cổng đóng, quân cảnh cầm súng lăm lăm, có thể nã đạn vào ai đó bất cứ lúc nào, nếu không tuân thủ mệnh lệnh, người và người chen lấn nhau, người la kẻ khóc, lớp trong lớp ngoài. May quá, anh tôi vào được bên trong vì còn “sự vụ lệnh” và đang đi bên cạnh một ông quan lớn.                  
Tôi quay đầu xe trở về nhà mà lòng buồn khôn xiết, chán nản tột cùng. Vừa về đến nhà, đã thấy người bạn phi công phản lực vừa từ Phan Rang chạy về, anh hỏi tôi có muốn di tản theo anh không? vì không còn nhiều thời gian nữa. Tôi từ chối và đang nói lời chúc Anh trên đường về Sài Gòn được bình yên, thì người chị bà con xuất hiện, tôi đẩy chị lên yên sau xe cùng đi với anh, và “tặng” chị chiếc khăn quàng Hướng đạo sinh tôi đang đeo trên cổ để chị làm kỷ niệm. Tôi nhìn theo mà mắt cay cay, miệng vẫn lầm thầm cầu nguyện cho hai chị em đến nơí an toàn,  dù gì, chị cũng từng là “chị kết nghĩa” của anh ấy.
                        
Mới tối qua, ngay phòng khách nhà tôi, vài ông Tá cấp cao, vài ông úy cùng ngồi “bàn chiến sự”. Họ trấn an ba má và gia đình tôi rằng: cả nhà đừng có lo, nếu có chuyện xấu xảy ra, thì “Đèo Cả” sẽ là lằn ranh quốc cộng, chia hai phần lãnh thổ như Bến hải ngày xưa. Chúng tôi biết đó là những lời nói…vô thưởng vô phạt, nói để có chuyện chứ họ cũng đâu biết gì hơn. Khi họ đi rồi, ruột gan tôi héo hon quặn thắt, nhất là mỗi khi nghe tiếng máy bay cất cánh rời xa dần phi đạo xé nát không gian, hay những tiếng trực thăng xành xạch rồi nhỏ dần về hướng biển…             
Buổi xế chiều ngày một tháng tư, một người anh họ mặc đồ Lính đến gõ cửa, anh vô nhà mà cánh tay đang quấn băng trắng dính đầy máu khô. Thì ra, lúc di tản từ ngoài Tuy Hòa vào, cả đơn vị bị thất lạc hết, anh bị trúng đạn, tìm đường về nhà tôi để buộc lại vết thương. Nhưng chưa ngồi yên chỗ, anh đã nhìn dáo dác và bắt gặp mấy chị em tôi đang ngồi ủ rũ, anh hét toáng lên: "sao không tìm đường đi đi, bấy giờ ở dưới phố đang hỗn loạn lắm, cả một đám tù nhân hung dữ vừa phá cửa nhà tù và tràn ra đường cướp phá!"
Cả nhà tôi thất kinh, chưa kịp có phản ứng gì, thì một người hàng xóm chạy về la toáng lên: "nhà ai có con gái lớn phải tìm cách trốn đi, cả một đám tù ở quân lao vừa mới tràn ra đường, họ đang tủa ra nhiều đường phố cướp phá đó."
                        
Không còn chần chừ nữa, ba tôi vội vàng dắt chiếc honda 50 phân khối của tôi ra cửa, chiếc xe tôi vừa đưa anh tôi đi buổi sáng, vẫn còn đầy bình xăng, chị lớn tôi chạy đi xúc vài ký gạo, em tôi đi bốc vội vài bộ quần áo, cái mền, thế là 3 chị em phóng lên xe chạy vô Suối dầu, nơi ba má tôi có mảnh vườn  trồng nhiều cây trái, với căn nhà nhỏ.
Trong cơn hỗn loạn, muốn tìm con đường sống, tiềm năng sức mạnh trong mỗi một con người đã thể hiện, vượt qua những sinh hoạt thường ngày mà không ai ngờ tới. Với cái xe nhỏ xíu, mang đến ba con người, thêm gối mền gạo mắm,  vậy mà tôi phóng rất nhanh khi không có vật cản trên xa lộ số Một, rồi len lỏi, luồn lách qua một đoạn đường dài lên Thành với hằng hà sa số xe cộ từ xe GMC, xe Jeep, xe hàng, xe nhà, xe hai bánh đủ loại..… và một đoàn người gồng gánh, vai mang, gậy chống, võng khiêng… rồng rắn nối đuôi nhau. Họ âm thầm lặng lẽ lách qua đoàn xe đang nghẹt cứng trên đường.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU M%E1%BA%B9+g%C3%A1nh+con
quốc lộ 1
                   
Lách mãi, tôi cũng qua được đoạn đường Thành, đang dáo dác tìm lối lách nữa, bỗng nghe có tiếng gọi tên mình. Thì ra, nguyên cả một đoàn xe của Trung tâm huấn luyện Lam sơn cũng trong đoàn người di tản, và đang di chuyển nhích nhích nơi đây vì kẹt cây cầu đàng trước.
Chia tay với quí anh, những người đã từng đem mồ hôi và nước bọt để huấn luyện cho những tân binh trước khi ra chiến trường chống địch, giờ này cũng  đang tham gia vào cuộc di tản vô trật tự, một cuộc “tháo chạy” mà không biết sẽ ra sao ngày sau?
                        
Xe chạy và chen lấn mà chạy, qua ngang cầu Lùng, một cảnh tượng thương tâm xảy ra, một xe Honda 90 phân khối, hình như chở đến 7 con người ta lớn nhỏ(?), người tài xế bị lạc tay lái và ngã cái rầm, người văng tung ra, nhưng chẳng mấy ai chịu dừng lại để giúp đỡ người bị thương, có thể chết không chừng(?).Đoàn người cứ tránh qua mà chạy, coi như chẳng thấy gì. Tình nhân loại, lòng nhân ái đã “bị bỏ quên” khi chính mình cũng đang đi tìm lối sống? Hoá ra hình ảnh mấy hôm trước trên TV còn chiếu cảnh những người…đạp đầu nhau để tìm một chỗ ngồi trên tàu di tản là chính xác. “Mạnh được yếu thua” đang diễn ra mọi nơi mọi chỗ trên quê hương tôi? Và trong đó có cả chính bản thân tôi. Buồn thật!                        
Cơn mưa chiều hung bạo, xối xả tự nhiên đổ ập xuống. Mưa và gió đập rầm rầm vào mấy bức vách của căn nhà nhỏ, nơi chúng tôi vừa đến chẳng bao lâu. Những hạt nước mưa nặng nề rơi xuống như muốn cuốn trôi dùm nỗi uất nghẹn trong tim của những con người bất lực, đang thua chạy mà không biết tại sao mình bị thua? Nhìn ra đường, đoàn người ướt nhẹp vẫn lóp ngóp đi hai bên lề dưới cơn mưa, xe cộ vẫn chen nhau mà chạy, đoạn đường này ngoài những khu vườn trồng cây với căn nhà nhỏ để ở tạm, không có nhà cửa hai bên đường, nên người đi bộ không thể nào có chỗ núp mưa, nên họ cứ lầm lũi mà đi, như những đám ma trơi mùa tháng bảy…(?)                      
Mưa tạnh bớt, một người nhà vườn bên cạnh chạy sang, họ yêu cầu chúng tôi góp tiền mua chiếu để chôn hai người vừa bị xe tông chết ở trên đường quốc lộ. Thương thay hai người Lính đèo nhau trên chiếc xe Honda, và đã bị chiếc xe nào đó đụng phải, họ ngã xuống đường và chết liền tại chỗ, máu loang đỏ cả mặt đường trộn lẫn nước mưa, Dù sao hai người Lính này vẫn có được nén nhang cúng bái và nấm mồ dù chỉ đắp bằng đất, và cả tên tuổi ghi rõ bằng những mảnh gỗ đóng  trên đầu mộ.                       
Sáng ngày 3 tháng tư, ba tôi vào gọi các con về vì “quân giải phóng” đã vào chiếm thành phố Nha trang hôm qua. Ba tôi nói có một nhóm người đã ra tận đèo Rù Rì để đón mừng (?) và hú hồn vì chúng tôi đã đi thoát đêm đó. Nếu ở lại nhà, không biết chuyện gì sẽ xảy ra, khi mà đám tù nhân hình sự, chuyên cướp của giết người, lẫn những người tù “bất trị” ở quân lao họ túa ra đường phố, đến phá cửa những nhà buôn nào họ nghĩ là có thể cướp được, nhà nào có con gái họ bắt để hãm hiếp. Về sau có nhiều người kể lại, các cô gái phải chui trốn ở những nơi dơ bẩn nhất, trên gác xép, dưới gầm giường, nhà xí v..v… Cũng hên là sau khi vơ vét được mớ tiền của thì họ bỏ đi, cùng lúc những căn cứ quân sự, những cơ sở chính quyền, nhà dân bị bỏ trống, đã bị nhiều nhóm người khác nhau đến “hôi của” đốt phá. Thành phố đã hỗn loạn giờ thêm cảnh điêu tàn, nhếch nhác.
                        
Bấy giờ mới thật sự là những ngày hãi hùng của “tháng tư đen” khi bộ đội miền Bắc đã đem xe tăng vào thành phố. Những chiếc xe “molotova” kềnh càng, lù lù chạy ngang chạy dọc trên đường, trên xe chở đầy những bộ đội mặc quần áo màu cứt ngựa và nón cối đội đầu, cả người và xe đều cắm đầy lá như những “cánh rừng“ biết đi. Người dân bình thường đứng nhìn bọn “khỉ rừng xanh” xuất hiện trong lo âu sợ hãi, trong khi những tên nằm vùng xuất đầu lộ diện ăn mừng chiến thắng (?).
Giọng nói “chanh chua–chát chúa- the thé-sắc lạnh” từ miền Bắc xa xôi nào đó truyền đi qua làn sóng đài phát thanh, với “bảy điểm của ủy ban quân quản” cứ làm người nghe rờn rợn, nổi gai ốc cùng mình. Những lúc ra đường gặp phải những bộ đồ màu cứt ngựa, đôi dép râu và cái nón cối mặt ngơ ngơ ngáo ngáo, nhìn xiêng nhìn xéo trầm trồ, nói chuyện với nhau bằng thứ giọng lơ lớ như người miền núi mà thở dài ngao ngán và tự hỏi: những người chiến thắng đây sao?. Mặc dù người thành phố đã cải dạng, quần áo thường ngày đã đem giấu kỹ, chỉ còn những bộ đồ đen đúa hoặc nâu đà, nhưng vẫn bị nhìn với cặp mắt soi mói, ác cảm.
                        
Chuỗi ngày tiếp theo thành phố bị tắt ngúm đèn điện ban đêm, nhà nhà đóng kín cửa, leo lét ngọn đèn dầu. Tháng tư đen đúng nghĩa. Thành phố trống vắng, hoang lạnh tiêu điều. Mới hôm nào những con đường phố đông vui nhộn nhịp, những bộ quân phục từ các quân trường, từ nhiều đơn vị về đây, trai thanh gái lịch dìu nhau đi trên phố, trên bãi biển những buổi chiều lộng gió, phố xá sáng trưng, sinh hoạt tấp nập, giờ còn lại một thành phố chết, vắng hoe. Đã vậy những tiếng súng phòng không được đặt khắp nơi cứ bắn lên nổ rền trời, tiếng súng đại bác bay xé không trung, xé trời và xé cả lòng người. Buồn đau và sợ hãi là tâm trạng của những người dân trong thành phố, dù mọi sách báo, tài liệu, của cải hiếm quí đã đem dấu cất, phi tang.
                        
Những tiếng máy bay ầm ĩ bay trở lại thả bom vào mỗi đêm, nơi đã bị bắt buộc phải treo cờ “Mặt trận giải phóng miền Nam”. Những tiếng nổ long trời lở đất cứ dội lại, rền ra xa, những giấc ngủ chập chờn, khi trên đài phát thanh “quân giải phóng” ra rả loan tin “bọn Mỹ Ngụy” càng ngày càng thất trận. Lệnh của “uỷ ban quân quản” ban ra: “cách mạng sẽ khoan hồng nếu quân dân cán chính Mỹ Ngụy ra đầu thú”. Một người anh họ, chỉ là một “cán bộ xây dựng nông thôn” của một xã ngoài Phú yên, chạy vào nhà tôi tạm trú, ba má tôi lo sợ đã bảo trốn đi vào Nam, nhưng vì nghe lời gia đình của vợ bảo ra trình diện sẽ được “khoan hồng”, bị “cách mạng dẫn độ” về T. Hoà và bị chặt đầu không chút nương tay. Ngày liệm xác phải chờ xin lại. cái đầu bị chặt để ráp lại cho nguyên vẹn hình hài. Có người thanh niên ăn trộm vặt vì đói quá, bị “bộ đội” bắt đem ra bãi biển “xử tử” để làm gương, dù người bị mất cắp năn nỉ van xin bộ đội khoan hồng đừng xử bắn. Nhưng những con người vô cảm vẫn thi hành mệnh lệnh. Người dân thành phố cảm nhận được nỗi mất mát tột cùng nhưng không biết làm gì hơn.
Những Thầy Cô giáo như chúng tôi, vào những ngày sau đó, buổi sáng bị bắt buộc phải trở lại trường để “học tập chinh trị”. Nhưng buổi chiều, cứ khoảng hai giờ là leo lên xe đạp, đèo theo chiếc mùng và vắt cơm nguội, đạp xe lên tận trên Thành, hoặc khu Đại điền xin ngủ nhờ qua đêm, chọn những gia đình có “hầm trú ẩn”. Vì cha mẹ già sợ bom đạn từ máy bay “Mỹ Nguỵ” của đám “giặc lái” trở về thả bom, tai bay hoạ gửi chẳng biết đâu mà tránh.
                        
Dù đã đi khỏi thành phố, nhưng nhiều khi đang ngủ chập chờn, còi báo động rú lên liên hồi, dai dẳng đến rợn người, thế là ba chân bốn cẳng phải chạy chui vội xuống hầm, ngồi bó gối chờ cho đến sáng, khi biết chắc rằng “máy bay Nguỵ” không còn trở lại thăm viếng tặng bom.
Hỡi ơi! Khi “tháo chạy”, những người “có thẩm quyền” đã không chịu hủy bỏ những gì cần hủy, như tài liệu văn phòng, những hồ sơ cần thiết, hay những cây cầu chiến lược để xe giặc khỏi đi qua. Giờ đã lọt vào tay giặc, họ ra lệnh đem bom về thả chính nơi họ vừa mới bỏ ra đi. Thành phố như đã chết, giờ càng ghi đậm thêm nỗi chết, khi quá nhiều nơi “ăn” bom đạn của chính quân mình, từ ngoài xóm Bóng, đến đường Tô hiến thành, và cả ngôi trường thân thương của chúng tôi cũng lãnh nhiều quả đạn. Gia đình một người "chạy giặc" chưa kịp tìm phương tiện trở về lại quê xưa, thì người vợ trẻ và đứa con trong bụng đã chết tức tưởi ngay trong phòng học vì quả đạn trúng sập căn phòng .
                        
Buổi sáng trên đường đi đến trường để dọn xác chết và gạch ngói ngổn ngang, chiếc xe đạp cà tàng của chị bạn bị đứt dây sên, hai chị em vừa dắt xe chạy mà vừa khóc vì đường vắng đến lạnh người, lại tủi thân, xót phận của người bỗng chốc thành kẻ thua cuộc, lại phải đi ngang qua khúc quanh trước cửa trường Nữ trung học, nơi có ba xác chết nằm sấp đó thật hôi thối, mà chưa có người dọn dẹp khiêng đi mai táng….
Thú thật hồi đó cứ mỗi một đống gạch vụn khiêng đi đổ, là khiêng đổ cả mồ hôi và nước mắt, nhưng đã giữ lại trong tôi nỗi đau và sự tức giận đối với những người vừa là bạn, là phe mình mới hôm qua. Những quán ăn Thọ Lộc, Hoài Linh còn ấm cái ghế ngồi, chẳng lẽ hôm nay đã trở thành… thù địch? Thương và giận luôn giằng co theo từng bước chân đi. Bao nhiêu ngày của tháng tư đen, là ngần ấy ngày chúng tôi sống trong lo âu sợ hãi, khủng hoảng tinh thần. “Cách mạng” luôn đưa người đến tận nhà “bắt buộc” các thầy cô giáo phải đến trường, nhưng có lúc mới đi đến giữa đường đã phải chạy về vì tiếng súng phòng không nổ đụp đụp liên hồi. Mãi đến khi trên làn sóng đài phát thanh chát chúa oang oang “Mặt trận lâm thời giải phóng miền Nam thông báo là quân dân ta đã chọc thủng chốt cản của Mỹ Ngụy tại phi trường Phan Rang và đang tiến nhanh theo gót bọn chúng đang tháo chạy…” thì không còn nghe tiếng ù ù của “những chuyến bay đêm!. Nhưng ngoài nỗi đau, sự hoang mang sợ hãi giờ mang thêm niềm thất vọng tột cùng.        
                        
Ôi tháng tư đen! đời đen như cục than đen bắt đầu từ những ngày tháng đó. Cho đến một ngày cuối tháng tư cả nước cùng nghe chung một tiếng loa của “phe thắng trận” với “đại thắng mùa Xuân”! Những ngày mà “đôi dép râu dẫm nát đời son trẻ, nón tai béo che khuất nẻo tương lai ” bắt đầu một chế độ mới. Tiếp theo là những ngày ăn cơm độn với gạo mục, bo bo, mì sợi, với mỗi tháng một cái tem phiếu đi cửa hàng lương thực chờ chực cả ngày mới mua được vài ký rau muống… Người thì bị đi tù mút chỉ không biết ngày ra, quá nhiều gia đình ly tán. Người tuổi trẻ bị bắt vào đội “thanh niên xung phong” lên rừng chặt cây lồ ô, đi lao động khổ sai tiếp diễn, chịu bao nỗi khổ ảỉ đắng cay. Đã vậy thêm lớp người mới mang băng đỏ, chuyên đi lùng sục bắt bớ những người “chưa chịu tuân thủ” lệnh của chính quyền mới, vào nhà vơ vét tài sản của dân lấy cớ tịch thu “sản phẩm đồi trụy của Mỹ Nguỵ” đã tạo thêm nỗi kinh hoàng cho những người dân vừa bị đổi chủ…, những tháng ngày không thể nào quên, và mãi mãi không dễ gì quên…

.
Về Đầu Trang Go down
NTcalman




Posts : 614
Join date : 13/03/2012

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeWed Apr 10, 2019 6:08 am

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Images?q=tbn:ANd9GcQynzCSQ3kKdAg75dUC4t8K0LGruA5UypXIFT6HKhfGJgzLRdig

Gió Tháng Ba, Bão Tháng Tư

Tôn Nữ Thu Dung
http://vietbao.com/p231953a235427/gio-thang-ba-bao-thang-tu

Bài viết là hồi ức của một cô học trò viết văn tại miền Nam tự đào hố chôn những bài viết, những cuốn sách, ước mơ và hoài bão của mình. Trước tháng Tư 1975, tại Sài Gòn, cô từng cộng tác với tuần báo Tuổi Ngọc và là một trong những cây bút học trò được bạn đọc yêu mến. Sau 35 năm ở lại trong nước, mãi tới đầu thập niên thứ hai của thế kỷ 21, tác giả mới sang định cư tại Hoa Kỳ và hiện là cư dân San Dimas, California. Với bài "Chuyện Cổ Tích Không Phải Cho Bé Thơ", tác giả đã nhận Giải Đặc Biệt, Viết Về Nước Mỹ 2013.

* * *

Tôi viết câu chuyện này (không phải truyện ngắn) để tặng Phạm thị Thìn (đã mất tích), Lý Bá Hoài Khanh (Lyon) và Đặng Anh Tuấn (California)

Như tiếng roi quất vào đêm hun hút.
Như tiếng vó ngựa phi qua thảo nguyên mênh mông.
Như tiếng chó sói tru dưới trăng man dại.
Như tiếng vượn hú giữa rừng thẳm hoang vu.
Như tiếng hồn tử sĩ oán than bên trời huyền hoặc…
Gió…
Tôi ôm trái tim mình đau buốt.
Ai đang gọi tôi trở về trong mịt mù ký ức ?
Ký ức từ một ngày thơ dại xa xăm…
Một ngày của tháng Ba.

Khanh là người đầu tiên chia tay với thành phố biển. Khanh nói:
- Sẽ gặp lại nhau một ngày nào đó phải không Di ?
- Chắc chắn là như vậy.
Gia đình Khanh đi Pháp, chỉ có ba Khanh ở lại cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc chiến và mất tích đâu đó trong cuộc hành trình tuyệt vọng đi tìm tự do: trốn trại!
Tôi nhớ ngày Khanh đi trời đầy gió:
Mù sương phi cảng não nề
Thôi em ở lại buồn về anh mang (thơ Cao thị Vạn Giả)


Khanh đọc khi hai đứa ngồi đong đưa trên thanh sắt chắn ngang cổng VIP chờ làm thủ tục nhận diện. Tôi đã nghĩ rằng: Đây không phải là một cuộc chia ly!
Chú tài xế chở ba Khanh và tôi về trên chiếc xe Jeep lùn mở mui, chạy bạt mạng trên đường phố đã khá đông người di tản… tháng Ba mà mây xám đầy trời và gió xoáy từng cơn… bọt biển bay trắng xóa suốt con đường Duy Tân… Ba Khanh không nói gì cho đến tận cổng nhà tôi, ông vói tay choàng chiếc áo bay rộng thùng thình của ông qua vai tôi:
- Bác quên, hôm nay trời rất lạnh, con mặc chiếc áo này cho ấm.
Chiếc áo bay của ông tôi đã mang theo trong suốt những cuộc hành trình nhưng chưa một lần đến được bến bờ.
Đó là lần cuối cùng tôi ngồi cạnh ông, co ro lạnh lẽo, khác những lần trước trong phòng khách ấm áp hay trên giảng đường của trường sĩ quan không quân khi tôi được tham dự những khóa học tiếng Anh ở đó. Trong đám bạn Khanh, tôi là đứa được ông thương hơn cả… bởi vì tôi là đứa duy nhất dám phê phán ông: Bác có nét mặt lạnh lùng của Charles Bronson nhưng trái tim thì vô cùng ấm áp… Ông nói với Khanh: Con bé thật láu lỉnh, khôn ngoan. Sau Khanh kể: Papa bắt Khanh phải đi tìm cái chân dung lạnh nhất của Charles Bronson, thuê người vẽ lại, treo trong phòng ngủ… ngắm hoài không chán!!!

Nhiều năm sau gặp lại nhau trên đất khách, hai đứa ngồi trước mặt nhau, ly cà phê tan lạt thếch… không hề hỏi thăm nhau một điều gì mà vẫn thấy cả một khoảng thời gian dài đăng đẳng đã qua đang chầm chậm trôi về…
Tôi không muốn nhớ đến ngày mà một nhà ngoại cảm đã nhìn vào quả cầu thủy tinh sau khi soi nó kỹ càng trên tấm hình ba Khanh với khuôn mặt Charles Bronson sắc cạnh, lạnh lùng (mà có ai biết là trái tim ông ấm áp nhường nào!) và buông từng tiếng:
- Người này không còn thân xác mà hồn thì cứ lơ lửng nơi rừng thẳm non cao…
Tôi không biết đích xác ngày ông mất, nhưng từ Pháp, Khanh đã gọi tôi nửa khuya (dù chưa tới kỳ đi thăm nuôi ông):
- Di ơi, tối qua Khanh nằm mơ thấy papa đứng bên một bờ hồ tuyết rơi trắng xóa, Khanh gọi thất thanh mà papa không quay lại.

Tháng Ba,

Mẹ tôi rải theo chiếc xe Dauphine màu xanh nhạt đưa gia đình chị tôi xuống Cảng một dĩa gạo, muối và hạt nổ. Ba nói:
- Em làm gì lạ vậy, giống như là tiễn con vào cõi chết!
Nhưng gia đình chị tôi đã đến bến bờ an toàn, chỉ có ba mới đi vào cõi chết… (Đêm ba mất, chị tôi cũng nằm mơ thấy ba đứng bên một bờ hồ tuyết rơi lạnh lẽo dù ở miền Nam CaLi hiếm khi có tuyết… Tôi không hiểu tại sao ba tôi, ba Khanh khi chết đều đến bên một bờ hồ để nói lời vĩnh biệt những đứa con xa xôi thất lạc.)

Tháng Ba,

Bài thơ cuối cùng rất ngắn của tôi đăng trên một bán nguyệt san:
Cho em hoa hồng bạch
Cắm gai vào tim anh
Cho em hồn ngọc thạch
Chìm giữa đại dương xanh…

mà lúc ấy tôi chưa hề biết rằng đại dương xanh sẽ là nơi chôn vùi nhiều người thân yêu của tôi trên đường vượt biển…
Thìn ơi, con bé mắt nai hiền lành xinh đẹp ngồi cạnh tôi suốt 2 năm cao đẳng… Tôi nhớ đôi mắt Thìn trong veo nhìn tôi hồn nhiên trêu chọc khi biết tôi bị đày ra cái nhiệm sở khỉ ho cò gáy ở tuốt tận cùng biên giới tỉnh:
- Di ơi,
Ai đưa Di đến chốn này
Bên kia là núi, bên này là sông…


Suốt đời tôi nhớ mãi
Suốt đời tôi nhớ mãi chiếc áo laine 2 màu trắng đỏ chị tôi gởi về chưa kịp mặc vì trời Nha Trang không đủ lạnh, có mũ trùm đầu và chiếc túi lớn trước ngực, tôi mang đến cho nó và đùa:
- Mặc đi trượt tuyết nha Thìn!
Kể từ đêm nó lên đường, Tôi cứ ngong ngóng chờ tin một chiếc ghe trôi giạt hoài trên biển từ 30 năm trước.
Thìn, thật sự mày đang ở đâu?

Tháng Tư,

Những hoa gạo đỏ tươi màu máu
Nhàu nát như người lính tử thương… (thơ Nguyễn Bính)

Vâng, những cái chết nhàu nát Vũ chứng kiến trên con đường di tản từ Thanh An (Pleiku) về Tuy Hòa để đến một ngày Vũ phải quên nó đi bằng cách rẻ theo một đức tin mãnh liệt khác, một thiên hướng khác… Và tôi, tôi phải xua mình ra khỏi những ám ảnh nặng nề bởi tôi đã có quá nhiều khổ nạn phải cưu mang khi vừa rơi khỏi thiên đường …

Tháng Tư,

Ba ở lại với các cộng sự để đốt những hồ sơ mật và không kịp lên chuyến bay cuối cùng dành cho cả nhà di tản của tòa Tổng lãnh sự Mỹ…
Tôi đã chứng kiến những loạt đạn tuyệt vọng bắn lên trời và những khẩu súng ném đớn đau xuống đất.
Tôi đã chứng kiến những ánh nhìn vĩnh biệt của những con người chính trực trao nhau như một lời cam kết thà chết vinh còn hơn sống nhục.

Tháng Tư,

Tôi chở ba tôi bằng chiếc Honda Dame đi trình diện để mất ba vĩnh viễn… Một cậu bạn hàng xóm dễ thương của tôi mang băng đỏ trên cánh tay đứng nơi chốt gác sau những hàng rào kẽm gai đã mở hàng rào cho ba tôi lách qua với cái nhìn xót xa thương cảm…

Tháng Tư,

Ngôi biệt thự nhà Tuấn tan hoang…
Tôi nhặt những lá thư rơi vương vãi lẫn quyển truyện tranh Pinocchio, nhớ Tuấn hay kéo mũi tôi, dặn dò: Không được nói xạo, cái mũi nhọn hoắt, xấu xí lắm…
Tôi khóc nức nở suốt đường về… Nhớ những đêm sau các buổi dạy kèm, Tuấn ghé nhà chở tôi cùng đi… công chuyện. Hai đứa đến trước cổng nhà chị Lan Anh. Tuấn đếm hai, ba… và hai đứa cùng la lớn: Lan… Anh… mẹ chị trên lầu 2, mở cửa sổ, nhìn xuống, mắng: Con cái nhà ai mà hư thế!

Tôi đau cùng Tuấn về mối tình thơ nhỏ bé, nhiều lần tôi dỗ dành khi thấy Tuấn buồn vì mọi người đều phản đối, nhiều lần tôi giận hờn tự nhủ không thèm quan tâm đến nữa mặc kệ Tuấn với những khoảng trời riêng… Nhiều lần tôi hét lên với Tuấn: Di chán chơi cái trò này lắm rồi. Tuấn hãy quên đi, quên đi, quên đi…
Tôi không biết Tuấn có quên được không, nhưng khi gặp lại tôi, khi mà Tuấn đã kịp có thêm nhiều và nhiều mối tình khác lẫn một mái ấm hạnh phúc thì Tuấn lại vớ vẩn nói rằng: “Chỉ có Di mới là mối tình thơ của Tuấn, còn tất cả chỉ là… buồn quá nên yêu…” lúc nào Tuấn cũng chỉ muốn chọc cho tôi cười như những ngày xưa… Ngày ấy Tuấn cứ nghĩ rằng tôi ngây thơ vô tội chứ đâu ngờ rằng tôi biết rõ điều ấy hơn ai hết nhưng tôi đã rất sợ một ngày tàn phai.

Tháng Tư,

Tôi giấu quyển sổ bìa da tuyệt đẹp cắt dán hơn 100 bài đăng trên các báo của tôi dưới ngăn tủ đựng áo quần. Tôi mân mê hoài từng quyển sách mà ngày mai phải giao nộp cho phường… tủ sách quý giá nuôi dưỡng hồn tôi từ những ngày nhỏ xíu. Tôi điên cuồng đào chiếc hố sâu mà tôi có thể bằng chiếc cuốc mini dưới gốc cây chùm ruột trong đêm và chôn những quyển sách mình yêu thương nhất… để hôm sau cả hai bàn tay phồng dộp rướm máu mà không hề thấy đau đớn chút nào... Nỗi đau, một lúc nào đó sẽ tan loãng vào máu và nước mắt, thế thôi...

Chôn cả tuổi thơ
Chôn cả ước mơ
Chôn cả hoài bão
Chôn cả đam mê
Tôi chôn tôi tuyệt vọng...

Tháng Tư những phiến tình thơ dại
Gởi tặng người đau một vết thương…

Không chỉ một vết thương mà là một cái chết oan khiên tức tưởi… Vĩnh viễn không bao giờ tôi được trở lại ngày xưa… Ai có thể:
Trả lại tôi những mộng đời đã mất
Những bóng hình biệt dạng tự năm xưa
Những con thuyền khuất lấp ở trong mưa
Tôi nhắm mắt đi vào cơn ác mộng…
Cơn ác mộng?
Vâng, những cơn ác mộng đuổi theo tôi từ tháng Ba, tháng Tư năm ấy… để suốt đời tôi mãi thao thức cùng bóng đêm và tiếng gió.

Từng đêm, như đêm nay, tiếng gió từ Big Bear vọng về, như tiếng roi quất ngang trái tim tàn bạo. Tôi ôm trái tim mình…

Gió ơi,
Xin nhẹ tay...

Tháng Ba, 2015
Tôn Nữ Thu Dung


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Images?q=tbn:ANd9GcTTx0Q0skDXQd29EcU47cseQBHmA2Y1xzJfVmecBneGMq4Xnd6fVw
Về Đầu Trang Go down
NHViet




Posts : 595
Join date : 23/08/2012

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeSun Apr 14, 2019 2:08 pm

.
Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 30thangTu3


CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU
- Vi Vân


Tôi vừa xem một đoạn trong phim “Last Day In Việt Nam”. Những hình ảnh di tản hãi hùng, hỗn loạn của Sàigòn vào ngày 29 tháng 3-1975 và sáng ngày 30-4-75, cảnh dân Việt Nam chen lấn, giành giựt nhau để được lên máy bay, lên tàu Mỹ hầu chạy trốn Cộng Sản, cảnh la hét, níu kéo, kêu réo, đạp lên nhau để đi tìm sự sống thật đau lòng. Có những người bị bỏ lại sau cánh cổng của Toà Đại Sứ Mỹ, có những người bị rơi xuống biển khi sắp sửa bước lên tàu Hoa Kỳ…Một hình ảnh khác xúc động không kém là hình ảnh của một số sĩ quan, binh lính Việt Nam theo lệnh của Đại Tá Hải Quân Đỗ Kiểm đã kéo cờ Việt Nam “ cờ vàng ba sọc đỏ” lên và hát Quốc Ca Việt Nam lần cuối trước khi hạ cờ xuống để kéo cờ Hoa Kỳ lên. Những tiếng hát hùng hồn xen lẫn đau xót và nước mắt của những người vừa mất nước, mất quê hương đang sắp sửa bước vào đời lưu vong chưa định hướng đã làm tôi rơi nước mắt:
“ Nầy công dân ơi, Quốc Gia đến ngày giải phóng.
Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống…”

Ôi! Dù các anh không tiếc gì thân sống, sẵn sàng hy sinh, chiến đấu cho quê hương nhưng các anh cũng không giữ được mảnh giang sơn yêu dấu của các anh. Một chánh thể, một chế độ, một quân lực hùng hậu dũng cảm như QLVNCH mà phải bị bức tử, tan nát trong ngỡ ngàng, đau đớn.
Đã 40 năm rồi, niềm đau mất nước chưa phai nhạt. Cứ mỗi lần hoa đào rụng rơi lả tả trong gió cuối Xuân, nắng vàng trãi đầy khắp nẻo để bước vào tháng Tư là lòng tôi chợt ngậm ngùi, xót xa nhớ về những ngày tháng đó….

Khoảng thời gian trước năm 1975, tôi đang sống ở Cần Thơ với đứa con gái hai tuổi còn chồng tôi thì phục vụ cho Sư Đoàn 21 Bộ Binh thường ở Bạc Liêu - Cà Mau, anh đi hành quân liên miên rất ít về thăm nhà. Thương chồng tôi chấp nhận cuộc sống làm vợ một chiến binh như bao thiếu phụ khác, luôn dõi mắt về phía trời xa để mong đợi một người, lo lắng hồi hộp ngày đêm khi nghe tiếng súng vọng về, khi những ánh hỏa châu sáng rực ở một góc trời, khi những chiếc trực thăng hạ cánh tải thương về…
Vào những ngày đầu năm 1975 tình hình chiến sự căng thẳng, sôi sục khắp nơi, những cuộc di tản từ miền Trung về Nam làm lòng mọi người hoang mang hoảng sợ. Tin mất Pleiku, Kontum, Ban Mê Thuột…liên tiếp bay về, hình ảnh xác người ngập đầy trên quốc lộ 1, trên đường số 7, trên đường 13… làm chấn động tim tôi. Tôi lo lắng không biết miền Nam sẽ ra sao, chồng tôi sẽ ra thế nào? Không có tin tức gì về anh cả. Tôi cầu nguyện cho anh, cho bạn bè anh, cho đất nước đừng rơi vào tay Cộng sản.

Chiều ngày 28 tháng Tư, mấy người bạn tôi có chồng là Hải Quân, Không Quân bảo tôi hãy chuẩn bị sẵn sàng để chạy loạn. Tôi hỏi họ:
- Chạy đi đâu bây giờ?
- Chạy ra tàu Mỹ đang ở ngoài khơi để sang Mỹ hoặc lên máy bay, bay sang Thái Lan…
Không, tôi không thể đi đâu được, tôi phải đợi chồng tôi về. Rồi ngày 29 tháng Tư trôi qua trong bầu không khí vô cùng căng thẳng. Sáng ngày 30 tháng Tư khi tôi đang pha ly sữa cho con tôi thì tin tức phát ra từ radio, lời của ông Dương Văn Minh ra lệnh cho binh sĩ VNCH buông súng để bàn giao với bên kia. Tôi buông ly sữa rơi xuống đất, sững sờ, chết lặng. Tôi không biết mình có nghe lầm chăng? Vậy là sao? Chúng ta thua rồi sao? Dù tình thế không cho phép tôi lạc quan nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng VNCH sẽ thua cho VC. Rồi đây chúng ta sẽ ra sao? Làm thế nào?

Tôi vội chạy ra cửa nhìn ra đường. Quang cảnh lúc bấy giờ thật hỗn loạn xe hơi, xe gắn máy, người đi bộ chạy rầm rập, ai cũng lo mau về nhà. Có vài chiếc xe hơi, xe jeep đang chạy đột nhiên ngừng lại, những người trên xe nhảy xuống chờ… và trực thăng đang bay trên cao bỗng xà, đáp xuống bốc những người đó rồi bay đi… tôi đứng như khúc gỗ nhìn theo không còn cảm giác, không biết phải làm gì, không tính toán được gì. Tôi chợt nghĩ đến chồng tôi, anh ơi! Giờ nầy anh đang ở đâu? Em phải làm sao đây?
Bác hàng xóm kế nhà tôi nói:
- Cô ơi, lo kiếm đường chạy đi. Ông Minh đầu hàng rồi, sống với VC không nổi đâu.
- Không được bác ơi! Cháu phải chờ chồng cháu về.
- Cô cứ lo đem con đi trước, chú về sẽ đi sau mà.
Nhưng tôi không thể đi và cũng không biết phải đi đâu vì không có anh bên cạnh, tôi như kẻ không có tay chân, đầu óc. Thôi thì mặc cho số phận, tôi sẽ đợi anh về, sẽ cùng anh chia xẻ khổ đau, nhục nhằn sắp sửa đổ xuống đầu chúng ta.

Rồi ngày 30 tháng Tư đã qua, hai ngày, ba ngày, bốn năm ngày…một tuần lễ sau anh vẫn chưa về. Hằng ngày loa phóng thanh của VC cứ kêu gọi anh em binh sĩ chế độ cũ đi “ học tập” làm tôi xốn xang trong dạ, càng lo lắng hơn khi có tin một số sĩ quan, binh sĩ ta không chịu quy hàng đã trốn vào trong rừng chờ phản kháng… Tôi không ăn, quên ngủ, khóc suốt ngày đêm, tìm đủ cách mà không thể biết một chút tin tức gì về chồng mình. Đến ngày thứ mười, một anh lính của chồng tôi đến báo tin:
- Cô ơi! Ông thầy đã chết rồi, không tìm thấy xác. Em bị thương trốn tránh được nên mới thoát nạn, em cố hỏi thăm, tìm kiếm nhà cô may mà gặp được cô để báo tin buồn nầy.
Tôi ngã qụy xuống trong nỗi đớn đau cùng cực, trước mắt tôi mọi vật bỗng trở nên đen tối, âm u, quay cuồng gần như muốn sụp đổ. Chú lính đỡ tôi lên, chờ cho tôi hồi tỉnh chú mới bắt đầu kể về trận đánh cuối cùng của đơn vị anh gần sông Ông Đốc ở Cà Mau. Khi ấy chú đã bị thương, đau đớn nằm trong một lùm cây chịu đựng vì không còn chạy được. May mắn là VC đã bỏ đi không khám xét kỹ nên chú mới còn sống sót. Chính chú đã nhìn thấy chồng tôi gục ngã và rơi xuống dòng sông mà không làm gì giúp cho anh được. Tôi vô cùng đớn đau, tuyệt vọng chỉ muốn chết theo chồng thôi nhưng bỗng nghĩ đến con còn nhỏ dại, nếu tôi chết rồi thì con tôi sẽ ra sao? Tôi không thể bỏ con, tôi phải sống dù sống trong đau khổ triền miên.

Tôi đã xuống tận Cà Mau nơi chú lính kể đã xảy ra trận đánh lần đó để dò thăm tin tức may ra có ai thấy được xác chàng chăng, nhưng không có kết quả gì cả. Tôi về nhà lập bàn thờ, để tang cho chồng và bắt đầu sống với những ngày tháng buồn đầy nước mắt.
Ba tháng sau, vào một đêm có người gõ cửa nhà. Tôi ra mở cửa, còn nỗi sung sướng bất ngờ nào hơn khi thấy chồng tôi đứng sừng sững trước mắt, hai đứa ôm nhau mà đầm đìa ngấn lệ. Anh theo tôi vào nhà, nhìn bàn thờ mà lắc đầu thương cảm:
- Tội nghiệp em quá, người vợ đáng thương của anh.
Anh kể lại khi anh bị thương và rơi xuống sông, anh còn chút sức lực cố bơi đến một khúc sông có nhiều cây cối, anh đã núp vào một gốc cây to và mặc cho định mệnh đưa đẩy. Số anh chưa tận tuyệt nên anh đã được hai vợ chồng người bán ghe củi cứu vớt. Khi nghe tin ông tướng Minh đã đầu hàng họ âm thầm lo thuốc men và giấu anh dưới ghe củi. Ông bà cũng có hai người con, gái 13 và trai 15 tuổi cùng ở chung trên ghe. Anh dần dần khỏe lại và đã trở thành người bán củi cùng gia đình ân nhân. Anh dặn tôi cứ để mọi người chung quanh (trừ gia đình) nghĩ rằng anh đã chết, anh sẽ tìm cách đưa hai mẹ con tôi trốn ra nước ngoài. Thỉnh thoảng anh sẽ ghé qua thăm mẹ con tôi cho đến lúc đi được. Dặn dò xong mọi thứ anh hôn vợ con rồi trở về ghe củi để không ai nhìn thấy anh.

Từ đó tôi bắt đầu cuộc đời gian nan, thống khổ dù chồng không bị đi tù nhưng tôi cũng như những chị em có chồng đi tù vậy. Tôi là một giáo chức cũng bị CS bắt đi “học tập chính trị”. Thật sự khi vào phòng học chỉ ngồi nghe tên cán bộ giáo dục chưởi “bọn Mỹ Nguỵ”, sau đó hắn bắt chúng tôi cho ý kiến và ý kiến đó chỉ là lặp lại những lời của hắn và phải nguyền rủa Mỹ Ngụy thêm mới gọi là học tập tốt. Thật ngán ngẫm tình đời có những người bạn rất thân thiết, đầy tình nghĩa với mình ngày nào mà giờ cũng quay lưng, trở mặt tố khổ, chà đạp mình không chút xót thương. Mỗi lần phát biểu ý kiến tôi ngồi lặng thinh cho đến khi bị tên VC kêu đích danh tôi mới đứng lên ấp úng:
- Tôi… không có ý kiến gì cả.
Tên cán bộ vỗ bàn:
- Tại sao không có? Chị đừng tưởng tôi không biết gì nhá. Chị là vợ ngụy, chị biết không cải thiện, không học tập tốt, không biết hối cải để theo về với cách mạng thì đừng hòng chồng chị được thả về sớm.
Ngày nào tôi cũng bị hắn xài xể, mắng nhiếc thậm tệ như thế. Tôi cảm thấy nhục nhã, tủi thân vô cùng nên tôi đã quyết định trốn về nhà dù chưa xong khóa học. Cũng may mắn là không ai truy cứu, tra xét gì về việc nầy. Đến hai năm sau khi cô em gái tôi lên Ty Học Chánh lãnh lương cô mới thấy tên tôi vẫn còn trên bảng danh sách lương hằng tháng. Riêng tôi, tôi theo các chị em cùng cảnh ngộ ra chợ trời chạy xuôi ngược để kiếm tiền sinh sống và chờ đợi…

Mãi đến năm 1980 chồng tôi mới thực hiện được ý nguyện. Chàng đã đổi chiếc ghe củi nhỏ thành chiếc ghe lớn hơn và khi thời cơ đến chàng về đón mẹ con tôi cùng đi. Chúng tôi không đi theo đường từ Cà Mau ra biển vì nếu đi đường đó sẽ gặp hải tặc Thái Lan, đôi khi họ thủ tiêu tất cả người Việt Nam sau khi cướp của. Chúng tôi len lỏi sang đến Vĩnh Long bán củi và ra biển từ sông Tiền Giang nên đã đến hải phận của Indonésia.
Nhưng khi ghe của chúng tôi đến được hải phận của Indonésia thì bị sóng gió vùi dập tưởng đã vùi thân dưới lòng đại dương rồi. Thật may mắn, chúng tôi đã tấp được vào một hòn đảo nhỏ. Thoạt đầu tưởng là hoang đảo nhưng ngay khi chúng tôi dìu dắt nhau lên bờ thì có một người Indonesian bơi ghe đến nói chuyện với chúng tôi. Anh ta nói đảo nầy tên là Paulaulaut, tuy tiếng Anh của anh ta không được lưu loát nhưng chúng tôi cố gắng nghe, nhìn dấu tay cũng đoán được anh ta muốn gì. Anh ta nói ở cuối đảo có một cái chợ và dân chúng ở rất đông, muốn tới đó phải đi xuyên qua đường rừng mà chỉ có người địa phương mới biết con đường độc nhứt đó thôi và anh bảo chúng tôi cho anh một ounce vàng anh sẽ dẫn đường đi.

Chúng tôi bàn bạc với các người cùng đi trên tàu, tuy số tiền có thể chấp nhận nhưng ai cũng ngại phải lấy vàng ra vì họ giữ rất kín đáo. Chị bạn tôi lấy trong túi ra một chiếc lắc vàng khoảng 8 chỉ và đồng ý đưa cho anh ta và các người trên tàu hứa sẽ cùng chia xẻ với chị khi đến chợ. Khi chúng tôi đến nơi có chánh quyền địa phương tiếp đón và cho chúng tôi được trú ngụ trong một ngôi nhà tôn rộng, không có cửa chánh. Cùng lúc ấy cũng có một chiếc tàu khác vừa cặp bến như chúng tôi nên họ cho tất cả bọn tôi được ở chung. Có một điều đặc biệt là trên vách của ngôi nhà có viết nhiều chữ Việt Nam của những người đi trước đã từng ở đây nhắn lại với những kẻ đến sau. Những lời nhắn đó là “các bạn nên lưu ý, cẩn thận. Người Indo sẽ đốt đèn măng xông thật sáng, bảo rằng cho sáng suốt đêm nhưng đúng 12 giờ đêm hết dầu, đèn tắt và chúng tràn vào giựt đồ”. Nghe xong tôi kêu một cô bạn cùng tôi ra tiệm tạp hóa gần đó mua ít thức ăn và hai cây đèn dầu với đầy dầu lửa. Chúng tôi phân công từng tốp người thay phiên nhau ngủ và canh gác. Quả đúng như vậy, đúng 12 giờ đèn tự nhiên phụt tắt, chúng tôi nhanh nhẹn đốt ngay hai cây đèn dầu lên và lúc đó nghe nhiều tiếng cười hô hố bên ngoài rồi chúng tràn vào cửa chánh. Trong nầy đã được sắp xếp sẵn nên khi chúng vừa bước vào các thanh niên VN dùng cây nện vào đầu chúng liên tục, bọn chúng ôm đầu chạy ra hết. Kể ra người Indonesian cũng hiền chớ nếu gặp Thái Lan chắc có lẽ họ thủ tiêu chúng tôi mà chẳng ai hay biết.
Qua đêm hãi hùng đó chúng tôi theo tàu chở dừa khô của người bản xứ đến được đảo Sedanau, nơi đây đã có đại diện của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc. Ở đó khoảng mười ngày nhưng rất vất vả vì thiếu thốn, chúng tôi chỉ được phát gạo thôi thức ăn tự mua lấy, ai không có mang đô la và vàng theo thì chỉ có cơm và muối thôi. Khoảng 10 ngày sau chúng tôi được chuyển sang đảo KuKu, nơi đây chúng tôi được đại diện Cao Ủy Liên Hiệp Quốc đối xử khá hơn. Chúng tôi được phát gạo, thịt hộp, đường, đậu, trứng và có văn phòng bác sĩ, có nhà thờ và chùa do những người dân tị nạn cùng lập ra, dù thật đơn sơ nhưng cũng có chỗ để những thuyền nhân được có chỗ nương tựa tâm linh.

Một tháng sau chúng tôi được chuyển từ đảo KuKu sang đảo Galang. Ở đây hoàn cảnh khá hơn nhiều vì có mặt trực tiếp của đại diện các quốc gia tự do như Hoa Kỳ, Canada, Úc, Pháp… Tại đây chờ theo tuần tự, chúng tôi được phái đoàn Hoa Kỳ trực tiếp phỏng vấn vì chồng tôi là Sĩ Quan của Việt Nam Cộng Hoà với đầy đủ giấy tờ chứng minh, còn tôi cũng là công chức nên chúng tôi đã được chấp nhận cho vào nước Mỹ không khó khăn gì.
Cuối năm 1980 chúng tôi được đến nước Mỹ và định cư tại miền Nam California. Cuộc sống đã tạm yên, chúng tôi cũng gặp lại một số bạn bè cũ. Rồi chúng tôi quay cuồng theo cuộc sống trên đất Mỹ, ngày tháng trôi qua thật nhanh, phút chốc mà đã mấy mươi năm rồi, tóc xanh ngày xưa đã bạc màu theo năm tháng nhưng tôi cứ nghĩ như mới hôm nào…

Mỗi lần tháng Tư về chợt nhớ lại những ngày tang thương, thống hận đó lòng tôi dâng lên một niềm xót xa đau đớn. Những người thân, những bạn bè cũ của tôi ra sao, còn hay mất ? Giờ đây ngồi nhìn đoạn phim chiếu lại những ngày tháng đó tôi bỗng rưng rưng nước mắt. Bài Quốc Ca hùng hồn của các anh chiến sĩ trong phim như thấm vào từng đường gân, mạch máu của tôi:
“… Dù cho hy sinh trên gươm giáo, thề quyết lấy máu đào đem báo…”
Ôi! Hồn thiêng sông núi như còn văng vẳng đâu đây, anh linh của những người đã nằm xuống vì quê hương, tổ quốc như còn dật dờ trong mây gió. Ôi Việt Nam! một giống nòi luôn ngẩng cao đầu ngạo nghễ với những giòng lịch sử oai hùng: Một Bạch Đằng Giang tiêu diệt quân Nguyên khiến Thoát Hoan tả tơi chạy về nước, một Thăng Long thành đại phá quân Thanh làm Tôn Sĩ Nghị hồn phi phách tán, một Bình Long, An Lộc anh hùng kiêu dũng, một cổ thành Quảng Trị với cờ vàng tung bay phất phới đã chiếm lại bằng xương máu của chiến sĩ… và còn biết bao nhiêu trận chiến oai hùng lừng lẫy của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã nói lên chí kiên cường, lòng bất khuất của quân dân ta từ ngàn xưa tới nay.
Nhưng rồi dãy giang sơn gấm vóc dấu yêu đó đã xa chúng ta muôn trùng dịu vợi, Thượng Đế hỡi! Tại sao? Vì sao?.
“Thượng Đế hỡi có thấu cho Việt Nam nầy nhiều sóng gió trôi dạt lâu dài, từng chiến đấu tiêu diệt quân thù bạo tàn…
… Quê hương non nước tôi ai gây hận thù tội tình? Nhà Việt Nam yêu dấu ơi, bao giờ thanh bình?”

Cho mãi tới bây giờ, dù thời gian dài đăng đẵng mà nỗi đau ngày đó còn hằn sâu trong tâm tư tôi, nó như một vết chém, một vết thương không bao giờ thôi rỉ máu. Ôi! Quê hương tôi, niềm đau và nỗi nhớ khôn nguôi! Tôi hy vọng, tôi mong mỏi, tôi chờ đợi… một ngày được trở về trong vinh quang, trong nắng ấm chan hòa, một ngày quê hương thật sự thanh bình. Tôi sẽ về thăm quê Mẹ, qua dòng sông xưa, đi qua con phố cũ, tìm lại dư hương ngày ấy…

Vi Vân
Cali tháng Tư - 2015.
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeWed Apr 17, 2019 8:46 am

.

Tháng Tư những mất và còn

Bùi Văn Phú

Gửi cho BBC từ California
21 tháng 4 2017
 
Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU _95736073_buivanphu_sachvnch
Bản quyền hình ảnh Bui Van Phu
Sách xuất bản thời Việt Nam Cộng Hòa được in lại tại Hoa Kỳ

Người Việt ở lứa tuổi 30 hay trẻ hơn ngày nay ít ai biết đến một quốc gia có tên gọi "Việt Nam Cộng Hòa" đã hiện hữu trên mặt địa cầu trong 20 năm, từ 1955 cho đến ngày 30/4/1975.

Cuối tháng Tư năm 1975 khi xe tăng và bộ đội cộng sản tiến chiếm Thủ đô Sài Gòn, hàng trăm nghìn người của đất nước này đã rời bỏ quê hương ra đi trong cơn hoảng loạn. Tương lai trôi dạt về đâu và cội nguồn sẽ còn lại gì nào ai biết được.

Những ngày sống qua các trại tị nạn, lo học vài câu Anh ngữ, tìm hiểu về đời sống, phong tục nơi đất nước mới sẽ là chốn định cư. Nhưng tương lai biết có còn nét văn hoá Việt nơi xứ lạ hay không nên nhiều người đã chuyền nhau đọc những quyển sách, tập truyện, đã chép lại những vần thơ, câu ca và nghe lại lời ca tiếng nhạc từ những băng cát-sét đã theo đoàn người tị nạn đến được bến bờ tự do.
Ngay từ trong trại Camp Pendleton ở miền Nam California những băng nhạc Việt được sao chép lại như chút quà từ quê hương cũ mà người tị nạn mang theo trên đường định cư.

Trong những ba-rắc hay giữa lều trại tị nạn trên đồi cỏ khô thường nghe vang vang ca từ nhạc Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Lê Uyên Phương. Cũng có hôm nghe Vũ Thành An, Từ Công Phụng và thi thoảng mới có Trần Thiện Thanh, Anh Bằng hay Duy Khánh, Trúc Phương.
Có nhạc Việt để nghe, người tị nạn còn tìm báo tiếng Việt để đọc vì trông ngóng tin tức về tương lai định cư, về tình hình quê nhà, về thân nhân thất lạc trong hành trình vượt thoát.

Ở đảo Guam có báo Chân Trời Mới phát hành mỗi ngày. Qua đến Camp Pendleton chỉ có tờ bản tin ngắn bằng tiếng Việt.
Những sinh viên du học đem báo Thái Bình, nguyệt san của Liên hiệp Việt kiều Yêu nước tại Mỹ, một tổ chức thân cộng, vào phát thì bị đồng bào đuổi đi.
Tháng 10/1975 các trại đón tiếp người tị nạn đóng cửa sau khi 130 nghìn người Việt đã được định cư tại Hoa Kỳ.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU _95736080_buivanphu_khanhly
Bản quyền hình ảnh Bui Van Phu
Một trong những băng nhạc đầu tiên của Khánh Ly phát hành tại Mỹ năm 1976

Chỉ vài tháng sau có trung tâm băng nhạc Việt của ca sĩ Khánh Ly ra đời đầu năm 1976 với băng nhạc "Như cánh vạc bay" gồm 16 ca khúc của Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly và tiếng đàn ghi-ta của bác sĩ Ngô Thanh Trung.
Sau có trung tâm của nhạc sĩ Ngọc Chánh, của gia đình Phạm Duy, có trung tâm Thanh Lan nhưng không phải của ca sĩ cùng tên, là những cơ sở sản xuất băng nhạc trong những năm đầu của cộng đồng người Việt tại Mỹ.

Từ đó, nền âm nhạc Việt Nam Cộng Hòa dần dần được bảo tồn tại hải ngoại để phục vụ nhu cầu tinh thần của người xa xứ.
Những ca khúc một thời của Việt Nam Cộng Hòa và những sáng tác mới về hành trình tị nạn, đời lưu vong đã là chủ đề của hàng nghìn băng cát-sét, CD, băng hình VCR hay DVD được hàng chục trung tâm băng đĩa nhạc sản xuất. Biết đến nhiều nhất là các sản phẩm của Thúy Nga Paris by Night và Asia.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU _95736077_buivanphu_h03_ucb
Bản quyền hình ảnh Bui Van Phu
Văn nghệ sinh viên Đại học Berkeley hôm 8/4/2017

Đầu thập niên 1990 có những giao thoa giữa âm nhạc trong và ngoài nước. Một số ca khúc miền Nam bị cấm bắt đầu được nhà nước cho phép phổ biến.
Trung tâm Kim Lợi của Thành Hammer, dù tổ chức nhiều buổi văn nghệ với ca sĩ trong nước bị phản đối, nhưng phải công nhận ông là người có công trong việc đưa ca sĩ và nhạc trong nước ra hải ngoại và giúp cho nhiều ca khúc thời Việt Nam Cộng Hòa được các ca sĩ thế hệ sau biết đến và được hồi sinh trong lòng đất nước.
Từ khi Việt Nam mở cửa đón du khách, người Việt nước ngoài về thăm quê nhà thường xuyên hơn, đông hơn và đã đem theo những văn hoá phẩm hải ngoại nên người trong nước cũng được dịp tìm lại nét văn hoá Việt Nam Cộng Hòa xưa.
Ngày nay với mạng thông tin toàn cầu Internet, qua YouTube người Việt ở khắp nơi trên thế giới có thể tìm xem hay nghe những ca khúc mình yêu thích của mọi thời đại.

Sau âm nhạc, nền báo chí tị nạn cũng phát triển rất sớm tại Hoa Kỳ. Năm 1976 đã có tờ Hồn Việt, do Nguyễn Hoàng Đoan, chồng của Khánh Ly, điều hành.
Từ miền Nam California, ngoài tờ Hồn Việt còn có báo Trắng Đen của Việt Định Phương, Thức Tỉnh của Tô Văn, Người Việt của Đỗ Ngọc Yến, Đất Việt (sau đổi thành Việt Nam Hải Ngoại) của Đinh Thạch Bích, Việt Nam Tự Do của Duy Sinh Nguyễn Đức Phúc Khôi. Trong giai đoạn đầu đa số các báo là nguyệt san hay bán nguyệt san.
Từ tiểu bang Washington có tờ Đất Mới của Vũ Đức Vinh. Vùng Thủ đô Washington có Văn nghệ Tiền phong của Hồ Anh.

Năm 2000, nhân dịp kỷ niệm 25 năm người Việt định cư tại Hoa Kỳ, Trung tâm Tác vụ Đông Dương (IRAC) của giáo sư Lê Xuân Khoa có xuất bản quyển tổng mục báo chí Việt ngữ hải ngoại do ông Nguyễn Hùng Cường, nguyên giám đốc Thư viện Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, biên soạn.

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU _95736079_buivanphu_h04
Bản quyền hình ảnh Bui Van Phu
Tiểu thuyết của Nguyễn Thị Thụy Vũ đã được in lại tại Mỹ từ năm 1978

Sách xuất bản trước 30/4/1975 cũng được in lại và phổ biến rộng rãi tại hải ngoại từ cuối thập niên 1970. Những nhà xuất bản đầu tiên tại Mỹ là Đại Nam, Xuân Thu, Sống Mới và Việt Nam đã in lại cả nghìn tác phẩm từ tiểu thuyết của Duyên Anh, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Đình Toàn, Dương Hùng Cường, Nhã Ca, Trùng Dương, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Thụy Long đến sách của Hoàng Hải Thủy, Đoàn Thêm, Vũ Tài Lục, Đăng Trần Huân và nhiều tập nhạc của Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Lê Uyên Phương v.v...

Lúc mới định cư ở Mỹ, tôi cũng lo ngại cho văn chương, âm nhạc Việt Nam Cộng Hòa rồi sẽ mai một đi.
Đến khi vào Đại học Berkeley, làm việc thêm trong thư viện trường và mới khám phá ra một kho sách miền Nam, trong đó có nhiều tác phẩm tôi đã đọc ngày còn ở quê nhà.

Qua hệ thống liên thư viên đại học tôi đã mượn từ Đại học Cornell nhiều tập nhạc, để từ đó trong những buổi sinh hoạt hay họp mặt các bạn sinh viên có thể ca "Nối vòng tay lớn", "Việt Nam quê hương ngạo nghễ" hay "Nghìn trùng xa cách", "Bài không tên số 2", "Còn chút gì để nhớ", "Con đường tình ta đi", "Vũng lầy của chúng ta", "Huế Sàigòn Hà Nội"…
Những đại học lớn ở Hoa Kỳ như Cornell, Yale hay Harvard, Berkeley và Thư viện Quốc hội Mỹ đều có nhiều sách báo xuất bản dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Nhiều nhất là tại Đại học Cornell, ở đây không chỉ có sách mà còn có báo, tập san và cả báo của sinh viên học sinh.

Từ sau ngày 30/4/1975 văn hoá Việt Nam Cộng Hòa đã không chết mà còn nở hoa trên đất Mỹ.
Tháng 4/1980, Hội Sinh viên Việt Nam đại Đại học Berkeley tổ chức văn nghệ "Đêm Việt Nam" đầu tiên. Chương trình có hát hò ba miền, có múa nón, múa quạt, có áo dài tứ thân với khăn mỏ quạ. Có kịch thơ "Hận Nam Quan" để phản kháng kẻ thù phương Bắc, có đàn tranh, sáo trúc, ghi-ta, dương cầm. Sinh viên đơn ca "Áo anh sứt chỉ đường tà", thi nhạc giao duyên "Áo lụa Hà Đông", đồng ca "Việt Nam Việt Nam nghe từ vào đời Việt Nam hai câu nói bên vành nôi…".

Hôm 8/4/2017 vừa qua, sinh viên Berkeley tổ chức văn nghệ thường niên, lần thứ 38, chủ đề "Fragments - Tìm tiếng nước tôi".
Các bạn sinh viên đã cất tiếng đồng ca: "Oh, say! can you see by the dawn's early light. What so proudly we hailed at the twilight's last gleaming… O'er the land of the free and the home of the brave?", đã cùng ca vang: "Này công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi. Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống…"

Sinh viên đã soạn kịch về một gia đình với người cha sau ngày 30/4/1975 bị tù đày trong các trại học tập cải tạo rồi đến Mỹ định cư. Đó là bi kịch mà nhiều người dân Việt đã phải đối mặt sau khi đất nước tưởng sẽ hòa bình, oán thù sẽ tan. Đến Mỹ, cô con gái sinh ra sau chiến tranh muốn tìm hiểu về cuộc đời cha mẹ từng trải và về cội nguồn.
Các bạn đã cất tiếng hát ca ngợi tình cha, xen trong những màn múa lụa, múa nón, múa quạt, múa lân, bên cạnh những tà áo dài, áo bà ba, tiếng đàn tranh, ghi-ta, tiếng dương cầm.

Nhìn lại thời gian qua, từ sau dấu mốc lịch sử 30/4/1975 với mất mát là không gian tự do sáng tác trên đất Việt, nhưng còn lại vẫn là những tác phẩm văn học, những lời ca tiếng nhạc đã lắng sâu trong lòng nhiều người Việt.
Dù ngăn cấm và đã có những chiến dịch càn quét, nhưng văn hoá Việt Nam Cộng Hòa đã không mất đi mà còn được yêu thích cho đến hôm nay.

Bài thể hiện quan điểm và cách hành văn của tác giả, một nhà báo tự do hiện sống tại vùng Vịnh San Francisco, California.
.

Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeFri Apr 19, 2019 10:34 am

.
Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 30-4art34

LỜI TRẦN TÌNH THÁNG TƯ

- Nguyễn Trần Diệu Hương


Tác giả một mình vượt biển giữa thập niên 80 khi còn tuổi học trò. Dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, cô nhận giải danh dự 2001. Bốn năm sau, nhận thêm giải vinh danh tác phẩm 2005. Sau đây là bài viết mới nhất của cô cho mùa Phục Sinh và Tháng Tư 2019.

***

Em và Tháng Tư cùng thương tích
xoa mãi cho nhau những vết bầm
(Trần Mộng Tú
Trích bài Đêm Tháng Tư)

Đã 44 năm trôi qua kể từ ngày mặt mũi của tôi luôn bị tô màu đen, hoặc đỏ tùy theo  vị trí của phía Bắc hay phía Nam.
Không phải tự nhiên mà tôi bị như thế. Lẽ ra màu sắc của tôi phải là màu xanh mơn mởn của hoa lá mùa Xuân, phải là màu sắc xanh, hồng, vàng, trắng...  của những quả trứng mùa phục sinh, như truyền thống lễ Easter ở Mỹ.

Em có biết tại sao không? Em sinh sau chiến tranh, dù ở bên này hay bên kia vĩ tuyến 17, chắc là chưa ai giải thích cho em một cách tương đối khách quan tại sao tôi chỉ được tô đen, hoặc đỏ, mà không có được màu sắc của tháng thứ tư trong năm, lúc mùa Xuân đang ở độ đương thì, người ta đã có thể diện những cái váy mùa hè thay cho những chiếc áo khoác, khăn quàng cổ chống cái lạnh buốt giá của mùa Đông.



Ngày đó khi em chưa ra đời, tôi mới bước vào ngày thứ 2 trong chu kỳ 30 ngày hiện diện hàng năm thì thành phố Nha Trang cát trắng hiền hòa bị đổi chủ. Chủ cũ phải bỏ đi trong tức tưởi, nghẹn ngào. Người Nha Trang cũng ùn ùn tháo chạy, bỏ hết nhà cửa, cơ ngơi, và bỏ cả biển xanh còn nguyên vẻ đẹp thiên nhiên để chạy vào Saigon. Rồi không biết phải làm gì nữa, chỉ biết là làn sóng đỏ đang tràn về thì chạy. Người ta nhớ chuyện di cư tháng 7 năm 1954 của gần hai triệu người miền Bắc, họ cuống cuồng, gồng gánh chạy vào Nam, bỏ lại mồ mả, nhà cửa, ruộng vườn; vào miền đất mới, họ sống bình an đã 21 năm, đôi lúc cũng có hoài vọng cố hương, nhưng sống bình an, tự do, thành công ở miền Nam, chưa có ai ân hận về quyết định di cư của mình.
Cả 30 ngày của tôi hiện diện năm đó (1975) không có màu sắc của mùa Xuân, chỉ có sự hoảng loạn, và nước mắt. Và cả hai bên vĩ tuyến 17 đều tưởng mình đang trong một cơn mơ dài. Phía Bắc có mộng lành, phía Nam có ác mộng.

Quân đội miền Nam với những người lính luôn mang trên vai những từ "tổ quốc, danh dự, trách nhiệm" như truyền thống kỷ luật của quân đội, vừa rút quân, vừa không hiểu tại sao mình phải làm như vậy? Súng thì còn, nhưng đạn không có! Không lẽ phải đánh nhau bằng cờ lau như thời vua Đinh Tiên Hoàng còn là em bé mục đồng Đinh Bộ Lĩnh?
Quân đội miền Bắc ngơ ngơ ngáo ngáo, cứ tưởng mình nằm mơ, ra khỏi Trường Sơn cứ một mực thẳng tiến trên quốc lộ 1, không còn phải sợ "sinh Bắc tử Nam". Họ ngước mắt nhìn những cao ốc bỏ trống của miền Nam, trong nỗi mừng tưởng chỉ có trong những cơn mơ, chợt nhận ra mình đã "giải phóng" đồng bào miền Nam không cơ cực, không bị bóc lột chút nào!

Dân thì càng không hiểu tại sao, cứ thấy quân đội miền Nam rút, là gồng gánh chạy theo.
Cứ như thế khi "ông Tổng thống hai ngày" đọc lệnh đầu hàng thì tôi đang sắp bàn giao phận sự đếm tháng ngày cho tháng Năm. Phải chi quân đội miền Bắc vào Saigon chậm hơn một ngày, thì không phải tôi mà tháng Năm mới là tháng bị tô đen.
Khác với 11 tháng còn lại, từ dạo đó,  tôi phải cùng hơn 20 triệu đồng bào miền Nam gánh chịu oan khiên cùng vận nước.
 
*

Người Lưu Vong Lúc Còn Trong Bụng Mẹ.

Những em bé Việt Nam chào đời trong trại tỵ nạn, hay trên xứ người thấy mình được đến trường học bằng ngôn ngữ không giống ngôn ngữ cha mẹ nói ở nhà. Cha mẹ thì lúc nào cũng buồn lo, nhớ những người thân còn ở một xứ sở xa tít bên kia bờ đại dương, được gọi là quê nhà.

Một vài em không may, chào đời trong một bệnh viện tiện nghi của Mỹ, mà không có cha. Lớn lên chỉ nghe mẹ kể là cha vẫn còn bị tù trong "trại cải tạo ở bên nhà" như câu hát "ngày con ra đời, núi rừng cha sống lưu đày".
Phải gần 20 năm sau, khi em lớn lên, mới gặp được cha gầy gò, khắc khổ, đen sạm, qua Mỹ theo chương trình định cư nhân đạo, dành cho những cựu tù nhân chính trị, những người vô tội bị lao động khổ sai trong tù mà  không hề có án. Em sinh ra ở Mỹ, nên chỉ hiểu tiếng mẹ đẻ loáng thoáng, nhưng nhờ liên hệ huyết thống nên cha con rồi cũng hiểu nhau.

Em nhận ra là cứ hàng năm đến tháng 4, khi nước Mỹ rộn ràng đón lễ Phục sinh đầy màu sắc, cha chỉ mặc đồ màu đen và trắng. Dù tháng tư với những mầm sống của mùa Xuân vươn lên, những đồi hoa dại màu vàng nở rộ khắp nơi, những thảm hoa poppy màu cam ở California  rực rỡ vẫn không át được màu đen trên áo quần của cha, những áng mây buồn trong mắt của mẹ.
Cả nhà không ai nói với ai cả ngày cuối tháng tư, chỉ có âm thanh trầm buồn từ TV của những cuốn phim tài liệu đen trắng nhạt nhòa về ngày 30 tháng tư năm 1975 khi em đang nằm trong bụng Mẹ. Không biết nỗi "hồ hởi, phấn khởi" của "bên thắng cuộc" có còn nguyên vẹn sau hơn 40 năm?  Nhưng đau buồn của "bên thua cuộc" từ đời cha qua đời con vẫn còn đó, buốt nhói lên mỗi độ tháng tư.

*

Tháng Tư cũng là mùa lễ Phục sinh ở Mỹ. Lúc còn nhỏ, em được cô giáo dẫn đi tìm trứng (eggs hunt) ở công viên gần trường. Người ta làm hình quả trứng bằng nhựa đủ màu:
- Màu vàng là màu nắng ấm áp của mùa Xuân, biểu tượng niềm vui, và hạnh phúc.
- Màu xanh lá cây là màu của cỏ, và lá non, biểu tượng cho hy vọng, sức sống đang lên.
- Màu cam nhạt biểu tượng bình minh, và khởi đầu.
- Màu xanh dương là màu của bầu trời, màu của nước, biểu tượng của hòa bình và sự hòa hợp. Trời trong xanh sau một cơn mưa là nguồn nuôi mầm sống mới.
- Màu tím nhạt biểu tượng cho một điều gì đó rất đặc biệt .
Thời nhỏ dại, không có khái niệm về những biểu tượng của màu sắc, tụi con trai thích vỏ trứng nhựa màu xanh dương, tụi con gái thích vỏ trứng màu hồng, dù bên trong là cùng một loại kẹo hình hạt đậu (jelly bean) đủ màu. Nhưng cứ tìm được quả trứng nào là mừng như tìm được vàng, mặc dù không phải là màu mình thích.

Lớn hơn một chút, vào trường Trung học thì cả con trai, lẫn con gái đều thích tìm những quả trứng nhựa màu tím  nhạt để tặng cho "ai đó rất đặc biệt", crush đầu đời của mình.
Màu sắc tươi sáng của những quả trứng mùa phục sinh theo em đến lúc trưởng thành. Rồi em lập gia đình, dẫn con đi tìm trứng (eggs hunt) hàng năm, lòng ngậm ngùi hơn khi thấy cha mẹ mình càng lúc càng cao tuổi, sức khỏe hao mòn, nhưng nỗi buồn tháng tư vẫn còn nguyên vẹn. Em tò mò tìm đọc tài liệu về chiến tranh Việt Nam, tìm hiểu về lịch sử cận đại. Càng đọc, càng hiểu, càng thương cha mẹ, và cũng bần thần, không cười trọn nụ mỗi tháng tư.

Mùa Phục sinh năm nay, em phải luộc một quả trứng gà, tô đen vỏ trứng sau khi luộc, và đem chôn ở một góc khuất của vườn nhà. Sẽ không có ai đi tìm trứng ở đó. Rồi quả trứng vỏ đen sẽ phân hủy cùng đất. Cầu mong mọi nguyên nhân làm đất nước Việt Nam thụt lùi, thiếu đạo đức, suy đồi sẽ phân hủy như quả trứng đen trong lòng đất. Hy vọng màu đen trong ký ức của thế hệ ông bà, cha mẹ sẽ biến mất. Cầu mong quê cha đất tổ của em ở bên kia bờ đại dương rồi sẽ có tự do dân chủ, có đủ màu sắc của vỏ trứng nhựa mùa phục sinh.

Phải có một ngày quê cha đất tổ của em phục sinh. Và tháng tư sẽ không bị tô đen trên lịch, trong lòng của cả triệu người Việt Nam phải sống đời lưu lạc.

Nguyễn Trần Diệu Hương
Easter April 2019
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeSun Apr 21, 2019 2:55 pm

.
Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU 30-04-1975ab-danlambao

Viết cho cái mốc của ngày Quốc Hận 30/04/1975


Cánh Dù lộng gió (Danlambao) - Thấm thoát đã 44 năm ngày miền Nam bị một lũ ngợm nón cối dép râu kéo nhau vào giẫm nát cái miền đất tự do bằng cách xé bỏ hiệp định Paris năm 1973 chưa ráo mực thay vào đó là một thể chế độc tài đảng trị.

Bất chấp luật lệ và hiệp định đã ký kết lũ ngợm này ngang nhiên đem quân từ các ngả Lào, Cambodia và vượt vỹ tuyến 17 một cách trắng trợn và công khai.
Chẳng ai khiến chúng giải phóng cho miền Nam trong khi miền Nam đang sung túc, phát triển kinh tế và hạnh phúc trong một chế độ dân chủ tự do, ngược lại với những gì chúng đang cai trị miền Bắc. Chẳng thế mà nhà văn Thu Hương sau khi vào tới miền Nam đã ngồi bật khóc vì bị tuyên truyền nhồi sọ khi nhìn thấy toàn cảnh miền Nam lúc 30/04 trái với những lời tuyên truyền trước khi đi B hay sao.
CSVN tuyên truyền cho thế hệ trẻ và người dân Miền Bắc là đi chống Mỹ cứu nước, vay súng đạn, lương thực kể cả sức người của quốc tế cs Nga Tàu, cho nên bây giờ è cổ ra mà trả nợ, trả không nổi thì cắt biển đảo, đất liền để trả, không còn gì để trả thì cướp đất của người dân để giao cho Tàu Cộng hoặc lấy tiền bỏ túi.

Nếu chỉ đơn thuần là chống Mỹ thì sau khi Mỹ đã rút quân đội về nước hết năm 1973 thì Bắc cộng phải rút hết về miền Bắc mà xây dựng thiên đường XHCN của mình chứ tại sao vẫn còn tiếp tục kéo quân vào miền Nam để chống lại những người Anh Em cùng máu đỏ da vàng với mình và cướp luôn miền Nam của họ. Cứ cho là giúp dân miền Nam thoát khỏi sự cùm kẹp của Mỹ Nguỵ thì sau ngày 30/04/1975 sao không giao lại cho đứa con đẻ của mình là MTDTGPMN mà lại xoá sổ khai sinh luôn của nó. Chứng tỏ MTDTGPMN chỉ là con rối cho CSVN múa máy trên bàn cờ chính trị để mặc cả với Mỹ mà thôi, sau đó vắt hết nước và quăng vỏ đi là xong.
Đúng là vừa ăn cướp vừa đánh trống la làng, bảo chúng là ăn cướp là quá chính xác không còn từ nào hay hơn dành cho chúng.

Ngày 30/04/1975 đoàn quân ô hợp nhìn luộm thuộm, quần nọ áo kia kẻ đi giày ba ta Tàu Cộng, người đi dép lốp cao su, lưng đeo ba lô nồi niêu xoong chảo, ruột ngựa gạo, cả chiếc chiếu nhỏ đeo lủng lẳng. Mà cũng phải thôi, sống với chế độ không sản xuất ra được gì chỉ biết trông đợi viện trợ của Liên Sô và Tàu Cộng thì làm gì mà không ô hợp. Ngày đó dân chúng đứng 2 bên đường không phải để đón chào đoàn quân cờ máu này, mà từ nhỏ đến lớn hầu như mọi người chưa từng nhìn thấy VC bao giờ nên họ hiếu kỳ ra đứng xem cho tận mắt coi VC ra sao, chỉ một số ít con cháu và người nhà của cái đám MTDTGPMN vui mừng hớn hở ra đón thôi, vậy nhưng CSVN lại tuyên truyền dân miền Nam hân hoan chào đón đoàn quân giải phóng. cũng có nhiều thành phần sợ bị trả thù cũng cầm cờ giải phóng ra đứng vẫy cờ vẫy tay giả tạo để khỏi bị để ý, theo dõi hay ghép tội, vì họ sợ cái đám MTGPMN địa phương biết mặt biết mũi, và đã từng chứng kiến những cảnh dã man xưa kia hay chặt đầu, mổ bụng hoặc nửa đêm gõ cửa dẫn đi bán muối rồi quăng xác ở đâu đó, làm họ thất kinh bát đảo mãi mãi vẫn còn khiếp sợ.

Ngày 30/04/1975 mọi người bàng hoàng khi nghe đài phát thanh loan tin TT Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng buông súng, chúng tôi những người đã từng trong quân ngũ càng bàng hoàng bỡ ngỡ hơn khi nghe lệnh này, vì không ai ngờ lại nhanh như thế, trong khi quân đội các nơi còn đang chiến đấu chưa hề buông súng.

Ngày ấy tôi đang ghé thăm người bạn, tuy đã giải ngũ vì bị thương tật còn đang chống gậy đi chưa vững nhưng khi CSVN vào thì chúng lùa hết đàn ông thanh niên vào trong khu vực xưa kia chúng ẩn náu để lên lớp tuyên truyền về chính sách khoan hồng của chúng, từ sáng tới mãi 5g30 chiều mới cấp cho một tờ giấy bằng 3 ngón tay đóng mọc đỏ "Quân Giải Phóng Sài Gòn Gia Định" mà không thấy chữ ký của ai cả. Khi trao giấy cho tôi chúng nói cầm tờ giấy này các anh có quyền đi khắp mọi miền đất nước không ai làm khó dễ, đón mãi mới có chiếc xe Lam cuối cùng chở khách về nhà đúng 8g tối, vừa đi vừa sợ lạc đạn vì tranh tối tranh sáng, con nít 12 tuổi cũng ôm một cây súng M16 chỉa lên trời, chĩa ngang dọc bắn hết đạn, bắn thoải mái làm nhiều người bị đạn oan, đúng là khi đụng trận không sợ nhưng khi về nhà lại sợ cái đám giặc con này, có đứa ôm cây súng ngồi trên miệng hố mở liên thanh bắn hết một băng đạn nhưng sức còn quá nhỏ nên từ trên miệng hố súng nó giật ngược trở lại lăn luôn xuống hố nhìn thấy mà cười lộn ruột. Nguy hiểm nhất là khi về đến nhà lại có một đám con nít mỗi đứa một khẩu súng M16 chia làm 2 phe bắn nhau xung phong ra trò có đứa gãy chân, có đứa bị toác vai, may mà không đứa nào đi chầu ông bà, làm người đi đường chạy kiếm chỗ núp trối chết, cũng có mấy đứa khoảng 13-14 leo lên một chiếc xe Jeep A 2 bỏ không, mở máy chạy một quãng lao vào tường khựng lại chảy máu đầu.

Về tới nhà Trời đã tối mịt tôi mệt mỏi lăn ra giường nằm thở vì vừa bị điệu đi bộ vào trong bưng VC để học tập chính sách khoan hồng của CSVN vừa phải né tránh những đám con nít chơi dại xách súng bắn loạn xạ không biết đường nào tránh né như ngoài trận mạc. Tối hôm 30/04 tỉnh dậy tôi thấy đường xá nhộn nhịp trên trời toàn thấy sinh nhan cá nhân do cái bọn nghịch dại lôi từ trong các căn cứ QLVNCH bỏ lại đem ra ngoài thục thoải mái, thục lên Trời không nói còn thục ngang người mới chết, đang ngồi trước cửa nhà thình lình có một người ôm bụng chạy vào nhờ Ông già tôi sơ cứu, thì ra bị bỏng nặng vì trái sinh nhan cá nhân thục trúng vùng bụng làm phỏng, may mà gần hết tầm, chứ gần chắc toi mạng rồi không chừng.

Nghỉ được một ngày hôm sau thì có lệnh trình diện địa phương, tôi mang đồ ăn và quần áo đi trình diện ngoài xã nơi đang ở, khi khai lý lịch tôi khai binh nhất nhưng bị thương và đã giải ngũ nên học tập có 3 ngày và được thả cho về.
Năm nào tới ngày 30/04 CSVN cũng ăn mừng chiến thắng chúng rêu rao là đại thắng trong chiến dịch HCM giải phóng đất nước thống nhất 2 miền Nam Bắc. Giải phóng cho miền Nam khỏi bị Mỹ Nguỵ kềm kẹp khiến cho tất cả Quân Dân Cán Chính VNCH đi tù cải tạo vô thời hạn có nhiều người chết trong đó vì bội thực quyền cước của bộ đội và côn an trong trại. Giải phóng khỏi Mỹ Nguỵ kềm kẹp khiến 1 triệu người bỏ nước ra đi bất chấp làm mồi cho cá và hải tặc còn hơn ở lại để hưởng thiên đường XHCN, giải phóng khỏi sự cùm kẹp của Mỹ Nguỵ để những nhà có của trở thành trắng tay phải nhắm mắt sa chân vào các vùng kinh tế, giải phóng cho miền Nam khỏi bị đói rét cái bát mẻ cũng không có mà ăn, cái chiếu rách cũng không có mà nằm khiến cả miền Nam trước đây không bao giờ thiếu gạo sau ngày 30/04 phải ăn gạo 4 màu hột cứng và to ném chó có khi bể đầu (Củ mì khô, khoai khô, hột mít). Nản nhất là cái nạn xếp hàng mua thương nghiệp, có khi chờ cả nửa buổi mới mua được chút thực phẩm, xui xẻo tới lần mình mà hết hàng thì tiu ngỉu ấm ức ra về.
Sau 2 năm ngày 30/04/1975 muốn đi đâu phải xin giấy phép tại nơi mình ở, đến nơi phải trình báo tại địa phương nơi mình đến, mua vé xe mới là cực hình, nằm vật nằm vã cả ngày lẫn đêm có khi 2 ngày mới mua nổi một tấm vé xe, vô phước mà mua phải xe chạy bằng than thì khi tới nơi mặt mũi đen thui như lấy nhọ mà trét lên, ngồi trong xe nóng hừng hực vì cái lò than ngay đuôi xe. Đi xe đò thì phải căn me khi gần đến nhà muốn xe dừng lại thì phải gọi lơ cách cả gần 2 km để xe nó rà rà đến nơi nó dừng là vừa vì lúc đó dầu thắng đâu có, xe cộ phải đổ nước xà bông hay rượu vào thắng thay dầu nên mỗi khi dừng xe thì phải từ từ rà cả gần 2 km thắng mới ăn hẳn, may mà lúc bầy giờ hiếm xe cộ chỉ loe nghoe mấy xe ngoài đường hơn nữa xăng dầu phải có phiếu mới mua được tiêu chuẩn tuỳ theo loại xe to hay bé, vì thiếu xăng nên cánh tài xế hay pha dầu hôi chung khi chạy khói bốc vô mắt cay chảy nước mắt liên tục. Tôi còn nhớ đón xe đi mua đồ một ngày chỉ có 2 chuyến đi và về, vào chợ nếu ra trễ hết chỗ thì ờ lại đêm, còn muốn về ngay thì đu đeo vô tội vạ, thường xuyên tôi phải đứng 1 ngón chân cái trên chiếc bản lề của xe Ford 2 tay bám càng trên mui xe, cố gắng gồng hít lên để khỏi buông tay rớt xuống đường vì không có thế đứng, chung quanh chật ních những người cũng đu bám đâu còn chỗ nào đứng được, Mỗi khi xe chạy tới chỗ cua thì những người bên cạnh dồn qua phía tôi làm tôi chỉ muốn rớt xuống đường đúng là cả một cực hình và rất nguy hiểm nhưng bằng mọi giá phải về nhà cho bằng được nên cũng ráng mà chịu trận cho tới nhà, tay chân rã rời.

Công ơn của bác và đảng thật to lớn và vĩ đại dường bao, đưa một quốc gia có tầm có tiếng trong khắp Đông Nam Á thành một quốc gia chỉ biết rúc háng Tàu Cộng, chỉ biết đi ăn mày quốc tế, chỉ biết đi qua các nước láng giềng làm Osin. Đất nước càng ngày càng co cụm lại, con người trở thành hèn nhát trước kẻ thù, nhập khẩu những thứ đầu độc về tự giết hại lẫn nhau chỉ vì lợi nhuận mà quên đi bản tính lương thiện vốn có trong mỗi con người.

Riêng những người lính gãy súng trong ngày 30/04, hằng năm cứ mỗi lần 30/04 lại về đám con cháu cái đảng cướp và số người ăn theo vui mừng nghỉ lễ đi du kịch khắp nơi thì những người Anh Em này lại củ rủ trong nhà ngồi tiếc nuối một thời đã qua, tiếc cho số phận đất nước phải chịu tang tóc hết chia cắt giờ lại xẻ từng mảng để bán cho Tàu Cộng, cái đau không phải 44 năm không còn lãnh được một đồng lương nào nữa nhưng cái đau là số phận đất nước nổi trôi nghiệt ngã hết chiến tranh lại sắp trở thành nô lệ và mất nước. Ôi không biết nên cười hay khóc cho thân phận công dân của một tiểu Quốc bị các cường quốc thi nhau chọn làm bãi chiến trường, thi nhau gặm nhấm trong khi những kẻ cùng máu đỏ da vàng đã hút cạn máu mủ của những người dân còm, không còn chút sinh khí mới bàn giao lại cho ngoại bang.

Ngày 17/04/2019
Cánh Dù lộng gió
danlambaovn.blogspot.com
.
Về Đầu Trang Go down
PVChuong
Admin



Posts : 673
Join date : 25/04/2012

Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitimeWed Apr 24, 2019 7:10 pm

.
Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Quoc+han+30-4

Ngày 30 Tháng Tư Năm 1975

- Nguyễn Thụy Long


"Loan Mắt Nhung" Nguyễn Thụy Long viết bài này năm 2005… và nên biết, ông chưa bao giờ ra khỏi Việt Nam. Ông sinh ngày 9 Tháng Tám năm 1938 tại Hà Nội, mất ngày 3 Tháng Chín năm 2009, tại Sài Gòn.
Với bài viết này, chính tác giả diễn tả là muốn thêm bằng chứng và tài liệu cho những người thế hệ sau, khi họ cần ghi chép lại đoạn sử đau buồn và không ra cái giống gì này! Và dĩ nhiên xin chuyển để quý vị vừa đọc vừa… hồi tưởng.


Lại sắp đến ngày 30 tháng Tư, trên đất nước tôi nhà cầm quyền phát động ì xèo kỷ niệm ngày “chiến thắng vĩ đại, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.” Từ cả tháng trước, ngày nào người ta cũng nhắc đến chiến thắng ấy của dân tộc, phỏng vấn những tướng lãnh chỉ huy trận đánh về chiến lược, chiến thuật, những chiến sĩ anh hùng, tất cả đều được đưa lên báo đài, cả những trang web bay đi khắp thế giới. Buổi sáng tôi dậy sớm nghe đài nước ngoài, chương trình Việt ngữ, nhưng bị phá sóng nhiều quá, nghe câu được câu không. Cũng ngày ấy cộng đồng người Việt trên khắp thế giới làm kỷ niệm, nhưng gọi bằng nhiều cách khác nhau, Ngày Quốc Hận, Tháng 4 Đen hay gì đó còn tùy.

Cũng ở trên đài Á Châu Tự Do tôi nghe cuộc phỏng vấn một đạo diễn trẻ người Việt Nam ở nước ngoài, làm một cuốn phim về ngày bại trận 30 tháng Tư lấy tên là ngày giỗ. Anh và các bạn anh thiếu thốn rất nhiều tư liệu về ngày hôm ấy, nhưng chắp vá và lấy kỷ niệm của những người lớn chứng kiến vào thời ấy rồi cũng xong. Bởi tại ngày anh ra đi, rời Việt Nam anh còn quá trẻ, tuổi đâu khoảng 13 hay 14 chi đó, nhất là anh không có kinh nghiệm tham gia vào cuộc bại trận ấy.
Người đạo diễn thanh niên này còn có tham vọng làm cuốn phim khác nữa sau khi chế độ Việt Nam Cộng Hoà xụp đổ, về những trại tù khổ sai mà người ta gọi là trại cải tạo. Tôi hy vọng anh ta và nhóm của anh có tâm huyết thì cũng xong, có thể thành công. Việt Nam trong cuộc chiến vừa qua có rất nhiều tư liệu quý giá, tôi đã được xem một cuốn phim do Mỹ sản xuất lấy tên là Trời và Đất. Cuốn phim đã nói lên được thân phận Việt Nam giữa các thế lực, thân phận con người Việt Nam đáng thương.
Tôi là một người Việt Nam, sống và lớn lên, trưởng thành trong thời buổi ấy, thời buổi đau thương nhất của đất nước, nay lại sống suốt 29 năm trong chế độ, sắp sửa 30 năm, chưa một lần bị ngắt quãng, vì không ra nước ngoài, hay đi đâu xa khỏi Việt Nam. Tôi là dân bại trận ở lại Việt Nam.

Tôi không có gì ca tụng về ngày 30 tháng Tư ấy, nhiều đau thương hơn thì có, gia đình tôi ly tán cũng vào ngày ấy. Đàn anh của tôi nhà văn Chu Tử, chủ nhiệm nhật báo SỐNG bị giết chết vì đạn pháo kích lúc 10 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, trên chiếc tầu di tản mới chạy thoát ra được đến cửa biển Cần Giờ.
Hàng năm tôi chúng tôi làm giỗ anh Chu Tử vào ngày đó, sau này không biết vì lý do gì, đổi sang ngày âm lịch là ngày 19 tháng ba (trùng với ngày 30-4-1975). Có phải vì người ta đang ồn ào làm lễ kỷ niệm chiến thắng mà mình lại làm giỗ, than khóc và tưởng nhớ đến người đã chết là chướng quá không, vì vậy gia đình ông Chu Tử mới đổi ngày giỗ cho yên. Tôi cũng không bỏ một buổi giỗ nào của ông Chu Tử, dù có đổi ngày, nhưng dù làm vào ngày nào anh em chúng tôi ngồi với nhau, nhắc lại và nói về những kỷ niệm là ngày 30 tháng Tư năm 1975, gia chủ tổ chức giỗ ông Chu Tử cũng không có ý kiến gì, buổi giỗ ấy anh em chúng tôi tự do hoàn toàn. Những buổi giỗ ông Chu Tử sau này vắng bóng dần những người anh em thân thiết của ông, người thì ốm đau bệnh hoạn đi không nổi, người thì đã “dạo chơi tiên cảnh” khỏi “cõi tạm” đầy đau thương này. Như Tú Kếu, như nhà văn Mặc Thu, như ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương, vì ông mới qua đời.
Nhà báo Phan Nghị ở buổi giỗ nào còn oang oang kể lại kỷ niệm với chủ nhiệm Chu Tử, nay cũng đã vắng bóng anh. Một đàn em thân thiết như Đông con tuổi còn rất trẻ cũng không còn nữa. Nhưng buổi giỗ vẫn đông đảo, tôi thấy có những anh em từ nước ngoài trở về, những Việt kiều đó ra đi do vượt biên hay diện HO, những điện thư từ khắp nơi trên thế giới gửi về cho gia đình con cái ông Chu Tử để tưởng nhớ ông.
Tôi đã qua 29 lần kỷ niệm vể ngày 30 tháng Tư trên đất nước “Xã Hội Chủ Nghĩa VN,” kể ra thêm mệt nhưng không thể không kể. Tôi kiêu hãnh nói rằng tôi là một trong những nhân chứng lịch sử, tôi vừa là nhà văn nhà báo, nói có nhận xét, dù rằng cái nhận xét của riêng mình, nhưng đúng về mặt người cầm bút thì phải công bằng và chính xác, tôi phục vụ cho nghề nghiệp và lý tưởng của nhà văn nhà báo chân chính, không phục vụ hoặc làm bồi bút cho tổ chức hay đảng phái nào đó. Đối với tôi thì ngày 30 tháng Tư nào tôi cũng buồn, một người Việt Nam đang sống trên quê hương mình, tôi tự hỏi, được chứng kiến những giây phút lịch sử trọng đại, đất nước Việt Nam thống nhất quang vinh như thế mà buồn sao?

Sau đợt lùa những sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hoà bại trận đi học tập cải tạo, đến lượt văn nghệ sĩ chế độ cũ, và các vị chức sắc tôn giáo vào những trại tập trung dài dài từ Bắc chí Nam. Các ông cai ngục, cai tù được gọi là quản giáo, cán bộ dậy bảo, giáo dục cho các phạm nhân lầm đường lạc lối hiểu biết đường lối của đảng, của cách mạng, và không ai có án rõ ràng, khi được tha về phạm nhân được phát cho cái giấy ra trại. Đọc qua giấy này họ mới té ngửa ra, lúc ấy mới biết tội danh của mình và thời gian học tập cải tạo là bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng có khi còn bị ăn gian. Còn người ở lại được nhà trại nói lấp lửng chừng nào “học tập tốt” thì về. Có người phải ở trong tù vài chục năm vì bị nhà nước cho rằng họ chưa được tốt. Tôi không hiểu người ta dựa vào tiêu chuẩn nào gọi là tốt và xấu để giam giữ người vài chục năm như vậy, với lời kết án thật mơ hồ.
Tôi bị bắt nóng ngoài đường, không bị liệt vào hàng ngũ văn nghệ sĩ phải học tập cải tạo, mà với một tội danh khác, tổ chức phản động, một tội rất dễ chết. Khốn nạn cho cái thân tôi, thời chế độ cũ đi lính binh nhì không xong, mà nay lại là người tổ chức chỉ huy một trung đoàn, có tên trung đoàn Quyết Thắng trong hồ sơ phản động của tôi. Tôi bị tra tấn, bị đánh và những người tra tấn tôi ngày nào cũng bắt tôi phải khai ra cái trung đoàn Quyết Thắng này ở đâu!
Vì bỗng nhiên mình lại mang một tội danh “oai” như thế, một trung đoàn trưởng, nên tôi cũng phải phì cười ra nước mắt sau những trận đòn tra tấn thừa chết thiếu sống.
Tôi cũng không biết người ta phong cho tôi, chức gì, cấp bậc nào, tướng hay tá trong trung đoàn mà tôi bị đứng vào hàng “chủ xị.” Một trung đoàn không có quân số, không doanh trại, không có cả chiến khu kháng chiến.
Bản lấy cung của tôi bị bỏ dở dang, không có tôi ký tên nhận tội. May quá thế là tôi thoát chết, tôi đã thấy nhiều người bị chết, bị mang ra xử bắn vì những tội danh bá vơ ấy. Tôi nói với bạn bè đồng tù:
- Dù tao có là thằng nhà văn nhà báo ngu dốt cũng không bao giờ đặt cái tên trung đoàn Quyết Thắng cho tổ chức quân sự của tao, vừa quê vừa thối. Ai cũng biết các khẩu hiệu quyết thắng, quyết chiến, quyết tử, quyết sinh là sản phẩm của các anh Việt Minh, các anh đã xài mòn teo ra rồi, từ thời kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp kia, rồi đến thời chống Mỹ cứu nước xài lại, nay không biết dùng làm gì nữa thì gán đại cho tao.

Tao biết ngay các anh độc lắm, lại một trò chụp mũ buộc tội cho người khác để mang ra xử theo luật rừng.
Tôi lênh đênh qua nhiều nhà giam ở thành phố, rồi mới bị đưa lên trại học tập trên rừng, an tâm học tập cải tạo ở nơi đó, bao giờ học tập tốt thì được về xum họp với gia đình. Nhà nước, nhà cầm quyền nói như thế.
Chúng tôi ngắc ngoải sống trong lao động khổ sai, nhiều anh em kiệt lực gục xuống bỏ xác trong các trại tù.
Thân phận chúng tôi như những nô lệ trong phim Tần Thủy Hoàng xây Vạn Lý Trường Thành hay những nô lệ xây Kim Tự Tháp Ai Cập. Nhiều lần lao động cuốc đất trúng mìn ngoài bãi lao động, mìn nổ thương vong vô khối người, nhưng được giải thích là mìn đó là của Mỹ Ngụy gài lại để giết nhân dân. Bây giờ chúng tôi có chết có thương vong thì cũng chỉ là “gậy ông đập lưng ông” thôi. Chúng tôi nhiều lần đề nghị với ban quản giáo xin được tự gỡ mìn để khỏi gây hại cho phạm nhân, nhưng được lãnh đạo trại “nhân đạo” từ chối, vì sợ mất thì giờ lao động sản xuất kiếm ra của cải cho đất nước chúng ta còn nghèo. Đồi nghĩa địa tù chật kín những mồ hoang của anh em chúng tôi. Sáng đi lao động, chiều về nhìn mặt trời gác bóng trên sườn núi Chứa Chan mới biết mình còn sống, mong sớm có ngày ra xum họp với gia đình.

Tôi không nhớ rõ là mình ăn đến mấy cái ngày kỷ niệm 30 tháng Tư trong trại cải tạo, vì từng bị bắt lên bắt xuống, như bắt cóc bỏ đĩa, tha rồi lại bị bắt lại. Ngoài cái tội phản động, tôi còn tội phản quốc bỏ quê hương mà trốn đi, tức là tội vượt biên mà không thoát. Phải chi ngày đó tôi trốn thoát, thì bây giờ được nhà nước ưu ái gọi là Việt kiều khúc ruột ngàn dặm được phép trở về thăm quê hương, được nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa. Mấy anh Việt cộng từng đánh đấm bỏ tù, từng kết tội tôi là Việt gian sẽ ngọt ngào khuyên tôi nên hòa hợp hòa giải, quên đi chuyện cũ, đóng góp tất cả những gì tôi đang có để giúp cho đất nước quê hương Việt Nam mà các anh đang cai trị.
Tôi đã thấy những cuộc tiếp đón long trọng, những Việt kiều trở về thăm quê hương được diện kiến những lãnh đạo trong nước và họ được huy chương, và được ca tụng vì những đóng góp của họ đã được truyền thanh truyền hình đi khắp mọi nơi. Họ thành người yêu nước, có ẩn chứa ý yêu và ủng hộ đảng CS cầm quyền.
Trong trại học tập, ngày 30 tháng Tư mỗi năm được tổ chức xôm tụ lắm, mà anh em chúng tôi gọi là ngày “đứt phim.” Từ ba giờ sáng một số trại viên có tay nghề trong việc nấu nướng đã được điều lên nhà bếp để thọc tiết heo mổ bò làm đồ ăn, thổi cả cơm nữa, hương cơm phảng phất khắp trại làm các trại viên chúng tôi tỉnh cả ngủ, dù là hương gạo mốc, không phải gạo Nàng Hương chợ Đào. Những hương vị âm thanh hấp dẫn đó làm chúng tôi trở nên háo hức, vì chúng tôi là những kẻ thường xuyên ăn đói mặc rách, cả năm chỉ ăn khoai ăn sắn có biết cơm thịt là gì đâu, sức lao động bị vắt kiệt từng ngày, nay có cơm thì mừng quá. Bao nhiêu năm qua chúng tôi sống trong một miền Nam trù phú lúa thóc không bao giờ thiếu, người nông dân chỉ trồng một mùa cũng ăn được cả năm. Mà nay phải thèm và nhớ cơm, tưởng tượng cũng không ra được bát cơm nó thế nào? Tôi nói có quá không? Nhưng sự thật là vậy.

Ngày hôm ấy chúng tôi được nghỉ lao động và sang ngày hôm sau là ngày quốc tế lao động 1-5, vị chi là hai ngày được ăn được chơi trong vòng rào giây thép gai. Chúng tôi được nghe chính trị viên của ban quản giáo giảng giải cho nghe ngày chiến thắng 30 tháng Tư. Nhưng chỉ là chuyện nước đổ đầu vịt, chúng tôi chỉ nghĩ đến kỷ niệm cũ của chúng tôi vào ngày ấy. Buổi trưa cả ngàn người tù chúng tôi - mỗi người được ăn một chén cơm, một miếng thịt heo hay thịt bò chi đó bằng ngón tay, chan tí nước xốt cho mặn miệng. Lòng lợn - tiết canh - thịt ngon miếng nạc mang lên nhà khung cho ban giám hiệu và thủ trưởng đơn vị xơi, uống rượu hút thuốc. Lòng nhân đạo của đảng vô biên, không thể nói hết được.
Về phía các cải tạo viên chúng tôi thì sao, cũng chia ra mấy phe trong cuộc ăn uống ấy, không phải tranh nhau ăn, mà cách ăn uống cũng khác lạ. Có phe còn nặng lòng với chế độ cũ mà anh đã phục vụ, nay trở thành bại tướng trong ngày 30 tháng Tư, nhất định không ăn đồ ăn của “kẻ thù” ban phát mà ăn gì đó với muối. Phe thứ hai lấy đồ thăm nuôi của mình ra mời anh em ăn sạch. Phe thứ ba ăn ráo những gì được ban phát với lý luận:
“Ta ăn thứ này là của ta làm ra, chẳng ăn chực thằng nào hết, gạo này chính ta làm ta cấy cầy, thịt này cũng chính chúng ta chăn nuôi, không ăn là dại. Ăn bám, ăn trên xương máu chúng ta là những thằng cai tù chứ không phải chúng ta.” Lý luận nào cũng đúng cả, không ai đụng chạm tới ai.
Anh chán đời ngồi quay mặt vào tường “diện bích” hết ngày 30 tháng Tư là chuyện của anh. Tự do của mỗi cá nhân được tôn trọng tuyệt đối, nên cuộc ăn uống ấy cũng diễn ra êm thắm, không phải tinh thần xôi thịt mổ cãi nhau như mổ bò ở các đình làng nhà quê. Dù sao tôi cũng nể phục các anh cải tạo chịu ăn cơm muối lắm, các anh còn có liêm sỉ và sĩ khí của một chiến sĩ, tôi không thể đánh giá thái độ ấy là sai hay đúng. Tôi lại nghĩ đến những anh hùng trong sử sách, đến một Hoàng Diệu, tuẫn tiết theo thành Thăng Long khi quân Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ nhất. Một Nguyễn Tri Phương không chịu cho kẻ thù buộc vết thương khi Pháp đánh Bắc kỳ lần thứ hai. Một Võ Tánh chất củi tự thiêu khi bại trận. Một Trần Bình Trọng thà làm quỷ nước Nam hơn làm vương đất Bắc.

Trong đời làm báo của mình, trong trận chiến cuối cùng ngày 30 tháng Tư, tôi đã thấy những người lính Nhẩy Dù trại Hoàng Hoa Thám ở ngã tư Bảy Hiền ôm nhau cho nổ lựu đạn để cùng chết bên nhau, sau khi có lệnh đầu hàng vô điều kiện của tướng Dương Văn Minh. Và sau đó nhiều tướng tá của chế độ Cộng Hoà ở miền Nam tự sát khi nghe lệnh đầu hàng của “tổng thống” tạm quyền. Tôi chắc chắn rằng sử sách có ghi lại, dù rằng chế độ ấy thua trận và bị bôi nhọ suốt bao nhiêu năm trời, bị vu cáo là có bao nhiêu tội lỗi với “nhân dân.”
Chính sử không thuần ở trong tay kẻ chiến thắng, mà ở trong lòng mọi người trên đất nước này, không thể bóp méo, không thể như cục đất sét muốn nặn hình gì theo ý họ.
Còn những thương binh của chế độ Cộng Hoà sau khi bại trận ngày 30 tháng Tư năm 1975 thì sao? Tôi đã thấy họ bị đuổi ra khỏi quân y viện Cộng Hoà chiều ngày 30 tháng Tư lịch sử ấy. Anh mù cõng anh què. Anh đổ ruột vịn vai anh cụt tay. Họ đi hàng hàng lớp lớp suốt một quãng đường dài, đau thương lắm, tiếc rằng không một phóng viên nhiếp ảnh nước ngoài nào chụp được một tấm hình. Cái máy hình của tôi chụp được mấy tấm thì bị đập bể tan nát, suýt nữa thì tôi nguy hiểm đến tính mạng vì những kẻ trở cờ theo đóm ăn tàn, hoặc những tên lưu manh mà xã hội nào cũng có, mà hồi ấy chúng tôi gọi cái đám ấy là cách mạng 30, nghĩa là mới gia nhập cách mạng vào ngày 30 tháng Tư năm 1975. Họ đang khao khát lập công để tìm cho mình một chỗ đứng, hoặc được một tí ân huệ bố thí.

Tôi đã trải qua hai mươi chín cái ngày 30 tháng Tư, chỉ còn ít ngày nữa thì tròn 30 cái ngày kỷ niệm. Sao trong đầu tôi lẩn quẩn hoài về những kỷ niệm đau thương ấy. Những người thương binh của chế độ Cộng Hoà sau khi bị đuổi ra khỏi quân y viện Cộng Hoà. Họ đi về đâu? Mắt tôi nhìn thấy có những người thương binh kiệt lực, kiệt sức ngã ngay trên đường đi, trên lối cổng ra vào quân y viện và tôi đã nhìn thấy những giọt nước mắt uất hờn còn đọng trên đôi mắt của những người thương binh này. Trong ngàn vạn con người ấy trên đất nước VNCH thế nào không có kẻ sống sót, tôi cũng đã thấy anh mù dắt anh què hát rong ngoài đường, xin đồng tiền bố thí của đồng bào. Họ bị quên lãng đã ba chục năm nay, nên có sự công bằng cho người chết thì cũng nên lo cho người còn sống, họ cũng đã hy sinh một phần thân thể trong cuộc chiến nồi da xáo thịt này.
Người ta đang nói tới chuyện phục hồi Nghĩa Trang Quân Đội ở trên Biên Hòa. Không biết chuyện này rồi sẽ đi đến đâu. Tôi là người sống ở Sài Gòn đã gần 30 năm, nghe tin ấy tôi đã mong muốn được thăm nghĩa trang quân đội xưa vì có người thân đã chôn xác ở đó. Nhưng theo tôi biết đâu phải ai cũng được tự do ra vào để tưởng niệm người đã chết, ý nguyện của tôi không được chấp nhận. Người ta nói phục hồi nghĩa trang quân đội chế độ cũ, phục hồi thế nào tôi không biết, tôi thắc mắc trong việc làm ấy họ có phục hồi pho tượng Tiếc Thương bị giật đổ trước cổng nghĩa trang quân đội từ ba chục năm trước không.
Sau 30-4-1975 hàng loạt tượng đài bị giật xập, và nay nghĩa trang sẽ để tên gì cho phải đạo làm người, mồ mả còn không. Tôi nghe mất mát cũng nhiều lắm, nếu còn thì là những nấm mồ hoang, kẻ nằm dưới đất kia là kẻ có tội, không ai được thăm viếng vì thăm viếng là bị “văng miểng.”
Tôi chỉ mong muốn được đến đấy, thắp lên một nén nhang tưởng niệm, dù mồ mả của những người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà có còn hay đã mất. Tôi cho chuyện làm ấy hay lời hứa hẹn ấy là phiêu, chẳng có gì xất cả.

Tại tiệm phở Hòa, một tiệm phở nổi tiếng cuối đường Pasteur trong thành phố Sài Gòn, tôi thường gặp một anh bán báo, cụt cả hai tay, hai tay cụt đó được ráp hai tay sắt inox có kẹp, thao tác rất gọn ghẽ, anh kẹp những tờ báo đưa cho khách hàng hoặc nhận tiền, thối lại tiền bán báo. Không biết anh bán báo ở đó đã bao nhiêu năm. Một hôm anh mời tôi mua báo. Tôi lấy tiền ra biếu anh, vì sáng nay tôi đã mua báo ở sạp báo gần nhà. Anh ta nhìn tôi khẽ lắc đầu:
- Không, cám ơn ông tôi không thể nhận được.
- Vậy tôi mua báo. Tôi hỏi anh.
- Vâng ông chọn tờ nào?
Tôi chọn đại một tờ trong xấp báo mà anh ta ôm trên người, tôi đưa tiền cho anh ta, nói:
- Thôi anh khỏi phải thối lại.
- Vâng cám ơn ông.
Tôi nhìn kỹ anh ta hơn, tôi hỏi thăm về hai tay anh. Anh ta nói:
- Tôi không bị tai nạn mà là thương binh chế độ Cộng Hoà
- Anh thuộc binh chủng nào hồi trước? Tôi hỏi tiếp.
Anh ta không trả lời về binh chủng của anh chỉ nói:
- Hồi đó tôi bị thương cụt cả hai tay ở mặt trận Bình Long, chính quyền cũ làm cho tôi hai cánh tay này và tập cho tôi cách xử dụng. Gần ba chục năm nay tôi đi bán báo để sinh sống.

Vì lý do gì đó anh không nhắc tên binh chủng của mình. Nhưng khi tôi nói tên của vị tướng chỉ huy mặt trận, mắt anh ngời sáng. Tôi không ngờ đã mấy chục năm qua anh không quên và dành cho cấp chỉ huy mình sự tôn kính chân thành. Tôi ngưỡng mộ anh là người dũng cảm, liêm sỉ từ tư cách đến việc phải kiếm sống, làm một con người. Đó là điều hiếm có, ít có ai sống trong đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa dám biểu lộ cái tinh thần quật cường ấy.
Có ngài Việt kiều ngày xưa từng giữ những chức vụ quan trọng, từng là “cựu” này “cựu” kia, ngày “đứt phim” chạy có cờ, bỏ đồng đội bỏ của chạy lấy người, nay về thăm quê hương phát biểu linh tinh chả ra cái giống ôn gì, so ra tư cách của ngài với anh chàng thương binh này, cách xa một trời một vực, thật là quá chán. Tôi nói với anh:
- Anh rất can đảm, tôi ngưỡng mộ anh.
- Có gì đâu, tôi còn thua ông tướng chỉ huy chúng tôi. Anh cười nhũn nhặn.
Tôi nghĩ đến tướng Lê Văn Hưng, tướng tử thủ ở Bình Long Anh Dũng, người không trốn chạy mà tự sát như một số tướng lãnh khác của chế độ Cộng Hoà ngày 30 tháng Tư, sau khi “tổng thống” Dương Văn Minh đầu hàng vô đìều kiện.

Báo đài ngày nào cũng có bài ca tụng về ngày lịch sử 30 tháng Tư, ngày chiến thắng vĩ đại của dân tộc, ngày chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước. Đoàn quân chiến thắng kéo quân vào thành phố được sự đón tiếp nồng nhiệt của nhân dân thành phố, cùng nổi dậy với cách mạng, bao nhiêu người ra phất cờ chào đón đoàn quân. Một hoạt cảnh mà tôi, một phóng viên chiến trường đã hết thời, ghi nhận được đúng ngày hôm đó:
Cuộc bại trận nhanh quá, nhanh đến độ dân Sài Gòn phải ngỡ ngàng. Kẻ nào không chạy thoát theo những chuyến di tản thì đổ ra đường xem đoàn quân chiến thắng đi dép, đội mũ cối hay mũ tai bèo vào thành phố.
Có những xác người dân hoặc lính chế độ cũ chưa được thu nhặt còn sót ở những góc đường, trên những quân trang quân dụng ném đầy trên đường đi, cả vũ khí nữa chưa kịp thu nhặt.
Những con người đang đứng ngơ ngác ngỡ ngàng ở đó, bị nhét vào tay những lá cờ giấy, và anh “cách mạng" đeo súng mang băng tay đỏ mặt gườm gườm những kẻ không nhiệt tình vẫy cờ chào đón các anh bộ đội cụ hồ tiến vào thành phố. Tôi thấy một người đàn ông cũng bị nhét vào tay một lá cờ, một anh mang băng đỏ đeo súng ra huých vào sườn người đàn ông đó một cái. Ông ta có lẽ hiểu ý liền nhẩy chồm lên phất cờ lia lịa, mồm la hoan hô liên tục.

Thế cũng là quá đủ, tôi lủi vào đám đông kiếm đường chạy về nhà. Ngoài kia những dòng người dầy đặc dần trên đường, có người đang tìm kiếm người thân, người tung hô những khẩu hiệu chiến thắng, người ngơ ngác ngẩn ngơ đứng nhìn. Họ không chịu tin vào sự thực là Sài Gòn bị thất thủ.

Nguyễn Thụy Long


Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Images?q=tbn:ANd9GcRUkF1ri8ppGaxrokrAAqBdqyWFIkj7X1BDAwpG0_jIuxHEec09mQ
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content





Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU   Thuong - Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 
Buồn Vui Tháng Tư - CÒN ĐÓ NIỀM ĐAU
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Tháng Tư buồn !!!
» Chào em, Tháng Sáu nồng nàn!
» Một con ngựa thăng, nhiều thằng thoát nạn
» Tháng 7, tháng của những ước mơ.
» Nỗi niềm xa xứ

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn Đàn Trung Học Nguyễn Trãi Saigon  :: ĐỀ TÀI :: Văn Hóa, Nghệ Thuật :: Văn-
Chuyển đến